🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013: Lý luận và thực tiễn Ebooks Nhóm Zalo PGS.TS VŨ CÔNG GIAO (Chủ biên) BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013 LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (Tài liệu dùng cho hội thảo) HNHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC ONG DUC PUBLISHING HOUSE 2 PGS.TS VŨ CÔNG GIAO (Chủ biên) BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (Tài liệu dùng cho hội thảo) NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC Hà Nội - tháng 7 năm 2016 NHÓM TÁC GIẢ (Xếp theo thứ tự ABC tên tác giả) 1. PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh 2. GS.TS. Nguyễn Đăng Dung 3. ThS.NCS. Nguyễn Thùy Dương 4. PGS.TS. Bùi Xuân Đức 5. ThS. NCS. Nguyễn Anh Đức 6. PGS.TS. Vũ Công Giao 7. TS. Nguyễn Thị Minh Hà 8. ThS. Đậu Công Hiệp 9. ThS. Lê Thương Huyền 10. ThS. Lê Thị Thuý Hương 11. TS. Trần Kiên 12. Nguyễn Ngọc Lâm 13. PGS. TS. Nguyễn Minh Phương 14. TS. Nguyễn Văn Quân 15. ThS. NCS. Nguyễn Minh Tâm 16. TS. Phạm Văn Tân 17. PGS.TS.NGƯT. Chu Hồng Thanh 18. TS. Nguyễn Bích Thảo 19. TS. Mai Văn Thắng 20. GS.TS. Thái Vĩnh Thắng 21. TS. Đặng Minh Tuấn 22. Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân (PPWG) "Cuốn sách được xuất bản với sự hỗ trợ kinh phí của Đại sứ quán Nauy tại Việt Nam. Quan điểm thể hiện trong sách là của các tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đại sứ quán Nauy tại Việt Nam". 4 GIỚI THIỆU Luật về Hội là một trong những đạo luật quan trọng mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đã lên kế hoạch xây dựng nhằm cụ thể hoá và thực thi các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Việc xây dựng Luật về Hội là một bước tiến lớn trong việc hoàn thiện cơ chế pháp lý của nước ta về quyền con người. Mặc dù vậy, vì tự do lập hội là một vấn đề rộng và phức tạp, quá trình xây dựng đạo luật này không tránh khỏi nảy sinh nhiều quan điểm khác nhau về nhiều nội dung. Để giải quyết những khác biệt đó, việc mở rộng nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn của tự do lập hội là rất cần thiết. Trong vài năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về hội và tự do lập hội được công bố ở nước ta, tuy nhiên các công trình nghiên cứu hiện có vẫn chưa đủ để giải đáp tất cả các câu hỏi đặt ra liên quan đến việc hoàn thiện khung khổ pháp lý về quyền lập hội ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, với sự đồng ý và động viên của các tác giả, chúng tôi tập hợp một số bài viết, chủ yếu là của các giảng viên và cộng tác viên của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, để ấn hành cuốn sách này. Mục đích của cuốn sách là nhằm cung cấp thêm một nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, trao đổi, thảo luận về những giải pháp bảo đảm quyền tự do lập hội trong Hiến pháp 2013, trong đó bao gồm việc xây dựng Luật về Hội đang được thực hiện ở nước ta trong thời gian tới. 5 Do những giới hạn về nguồn lực và thời gian, cuốn sách này chắc chắn vẫn còn những hạn chế, thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được những góp ý chân tình và hy vọng cuốn sách sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan nhà nước và bạn đọc quan tâm đến vấn đề bảo đảm quyền tự do lập hội ở Việt Nam. Hà Nội, tháng 7 năm 2016 6 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁCH BLDS Bộ luật Dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự CBO Tổ chức/nhóm dựa vào cộng đồng CHLB Đức Cộng hòa Liên bang Đức CIVIUS Tổ chức toàn cầu thúc đẩy sự tham gia của công dân CSO Tổ chức xã hội dân sự ĐLCB Đạo luật cơ bản (CHLB Đức) EOs Tổ chức được miễn thuế ICCPR Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị ICESCR Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa INGO Tổ chức phi chính phủ quốc tế Luật TCTAHC Luật Tổ chức Tòa án Hành chính MTTQ Mặt trận Tổ quốc NGO Tổ chức phi chính phủ SVOS Tổ chức tư nhân tình nguyện TDHH Tự do hiệp hội TDLH Quyền tự do lập hội UBND Ủy ban Nhân dân TDLH Quyền tự do lập hội UDHR Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền con người XHCN Xã hội chủ nghĩa XHDS Xã hội dân sự 7 MỤC LỤC Số trang 5. GIỚI THIỆU 7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁCH 11. HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY PGS.TS. Vũ Công Giao 30. MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI DÂN SỰ & HỘI VÀ DỰ THẢO LUẬT HỘI Ở VIỆT NAM GS.TS. Nguyễn Đăng Dung 43. LUẬT VỀ HỘI VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN PGS.TS. Bùi Xuân Đức 52. BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN THÔNG QUA LUẬT VỀ HỘI GS.TS. Thái Vĩnh Thắng 62. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI NHÌN TỪ PHÍA TỔ CHỨC HỘI TS. Phạm Văn Tân 74. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU KHI XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI Nguyễn Ngọc Lâm 88. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY PGS. TS. Nguyễn Minh Phương 8 104. LUẬT VỀ HỘI: CÔNG CỤ GIỚI HẠN HAY QUẢN LÍ THỰC HIỆN QUYỀN? ThS. NCS. Nguyễn Anh Đức 113. QUYỀN LẬP HỘI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP VIỆT NAM ThS. NCS. Nguyễn Thùy Dương 122. QUYỀN TỰ DO HIỆP HỘI TRONG CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ 1966 VÀ SỰ TƯƠNG THÍCH TRONG DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI TS. Đặng Minh Tuấn - ThS. NCS. Nguyễn Anh Đức 136. TỰ DO HIỆP HỘI TRONG LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ThS. Lê Thị Thuý Hương - PGS.TS. Vũ Công Giao 158. HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VÀ VẤN ĐỀ QUYỀN LẬP HỘI Ở VIỆT NAM ThS. Đậu Công Hiệp 169. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY PGS.TS. Vũ Công Giao - ThS. Lê Thị Thuý Hương 182. VỀ QUYỀN VÀ THỦ TỤC LẬP HỘI TRONG DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI TS. Nguyễn Văn Quân 193. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỘI ThS. Lê Thương Huyền 216. QUYỀN TỰ DO HIỆP HỘI VÀ MỘT SỐ GÓP Ý VỀ DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI Nhóm Làm Việc Vì Sự Tham Gia Của Người Dân (PPWG) 226. GÓP Ý VỀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH TRONG DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI TS. Nguyễn Thị Minh Hà 9 234. BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ KINH NGHIỆM CÓ THỂ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM PGS.TS.NGƯT. Chu Hồng Thanh 248. CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT CỦA CHLB ĐỨC VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ThS. Lê Thị Thúy Hương 265. MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ HIỆP HỘI Ở CỘNG HOÀ PHÁP VÀ GỢI MỞ CHO VIỆC HOÀN THIỆN DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI CỦA VIỆT NAM PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh 289. LUẬT VỀ HỘI VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TỰ DO HIỆP HỘI Ở NGA HIỆN NAY TS. Mai Văn Thắng 302. PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Ở TRUNG QUỐC ThS.NCS. Nguyễn Minh Tâm 312. PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN LẬP HỘI Ở HOA KỲ TS. Nguyễn Bích Thảo 323. VẤN ĐỀ QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TẠI VƯƠNG QUỐC ANH, TỪ MỘT ÁN LỆ CỦA TÒA ÁN NHÂN QUYỀN CHÂU ÂU TS.Trần Kiên 10 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY PGS.TS. Vũ Công Giao* 1. KHÁI QUÁT VỀ HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Có nhiều định nghĩa về “hội”. Trong tiếng Anh, “hội” thường được thể hiện qua hai thuật ngữ đó là: (i) “Association” - chỉ hình thức liên kết của các cá nhân có cùng mối quan tâm, và (ii) “Society” - chỉ một cộng đồng có tổ chức1. Cả hai khái niệm này đều có từ gốc La tinh là socius/socielis, hàm ý là sự liên hệ, giao lưu, đồng hành giữa con người với nhau trong đời sống.2 Ở Việt Nam, về mặt ngôn ngữ, thuật từ "hội" dùng để chỉ: i) cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người tham dự, theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt; ii) tổ chức quần chúng rộng rãi của những người cùng chung một nghề nghiệp hoặc có chung một hoạt động.3 Về mặt pháp lý, khái niệm hội hiện được nêu trong Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, theo đó được hiểu là “... tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.. ”. Điều này cũng quy định, hội ____________________ * Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 1. Từ điển Merriam-Webster, tại: http://www.merriam-webster.com, truy cập ngày 20/2/2016. 2. Xem Lã Khánh Tùng, Nghiêm Xuân Hoa, Vũ Công Giao, Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2015, tr.11. 3. Trung tâm Từ điển học, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2011, tr.716.11 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO có các tên gọi khác nhau như hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật. Phạm vi hoạt động của hội có thể là trên cả nước, liên tỉnh, trong tỉnh, huyện, xã. Như vậy, theo quy định trên, chủ thể của quyền hiệp hội theo pháp luật Việt Nam chỉ là công dân4 và hội bắt buộc phải có tư cách pháp nhân. Các quan điểm này hẹp hơn so với quan niệm chung trên thế giới mà trong đó hội có thể tồn tại dưới rất nhiều dạng, có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân, ví dụ như câu lạc bộ, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, đảng phái chính trị, doanh nghiệp, công ty... Có hai thuật ngữ có liên quan mật thiết nhưng không đồng nhất với hội, đó là Xã hội dân sự và Tổ chức phi chính phủ. Thuật ngữ xã hội dân sự thường được dùng để chỉ không gian bên ngoài nhà nước (độc lập với nhà nước) và bên ngoài thị trường (không có mục đích thương mại, kinh doanh). Xã hội dân sự được cấu thành bởi các nhóm, tổ chức, thiết chế do người dân lập lên, phản ánh sự quan tâm và ý chí của người dân, được gọi chung là các tổ chức xã hội dân sự (Civil Society Organization - CSO). Như vậy, cấu thành chủ yếu của xã hội dân sự là các hội, nhưng bản thân thuật ngữ xã hội dân sự rộng hơn thuật ngữ hội. Tổ chức phi chính phủ (non-governmental organization - NGO) là thuật ngữ do Liên hợp quốc đặt ra sau năm 1945, chỉ bất kỳ tổ chức nào độc lập với sự điều phối của nhà nước, hoạt động không vì lợi nhuận, không phải là một đảng chính trị hoặc một tổ chức tội phạm. Như vậy, về bản chất, NGO là một dạng hội, và thuật ngữ NGO hẹp hơn thuật ngữ hội. Tự do hiệp hội (hay quyền tự do hiệp hội - freedom of association) là một quyền cơ bản của con người, được ghi nhận và bảo vệ trong Điều ____________________ 4. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 cũng chỉ giới hạn chủ thể là công dân với các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. 12 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 20 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR, 1948) và được tái khẳng định trong Điều 22 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966). Theo luật nhân quyền quốc tế, tự do hiệp hội bao gồm ba khía cạnh: (i) thành lập ra các hội mới, (ii) gia nhập các hội đã có sẵn, và (iii) hoạt động, điều hành các hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy động các nguồn kinh phí.5 Quyền tự do hiệp hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thúc đẩy các quyền con người khác cũng như đối với sự phát triển của các quốc gia. Mặc dù vậy, tự do hiệp hội không phải là một quyền tuyệt đối. Khoản 2 Điều 22 ICCPR xác định, tự do hiệp hội có thể bị hạn chế bằng pháp luật nếu như điều đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác. Là một quyền con người cơ bản, tự do hiệp hội được ghi nhận trong hiến pháp của hầu hết quốc gia. Đồng thời, để bảo đảm tự do hiệp hội, nhiều quốc gia còn ban hành một đạo luật riêng, tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của luật về hội của các quốc gia rộng hẹp khác nhau. Chẳng hạn, Luật về Hội của Pháp (1901) và Hungary (1989) điều chỉnh hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, và cả các tổ chức công đoàn và đảng phái chính trị. Trong khi đó, luật về hội của một số quốc gia khác lại chỉ điều chỉnh hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, các quỹ, còn các tổ chức công đoàn và các đảng chính trị được điều chỉnh bằng các luật về đảng phái chính trị, luật doanh nghiệp, luật công ty,... 2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI Ở VIỆT NAM Hội đã xuất hiện trên thế giới từ thuở xa xưa, dưới nhiều hình thức đa dạng. Ngay từ thời cổ đại, ở Phương Tây, Plato đã mô tả “câu ____________________ 5. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “tự do hiệp hội” vì cho rằng thuật ngữ này phù hợp và chính xác hơn thuật ngữ “tự do lập hội”, với các lý do được trình bày cùng trong đoạn văn ở trên. 13 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO lạc bộ” là những nơi thị dân Hy Lạp lui tới để thưởng thức nghệ thuật, nghe giảng về thiên văn học và khoa học6. Cùng với thời gian, các hình thức hiệp hội trên thế giới ngày càng phát triển, bao gồm các hội không có hoặc có tư cách pháp nhân, với các tên gọi như câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng hoặc công ty... Giống như ở các quốc gia khác, ở Việt Nam, các hội đã hình thành từ rất lâu trong lịch sử. Minh chứng rõ nhất là ở các làng - đơn vị dân cư nền tảng của người Việt từ trước đến nay. Tuy lấy gia đình làm cơ sở, song làng là một phức hợp của nhiều tổ chức xã hội mà trước hết là dòng họ.7 Hội đồng tộc biểu (hay các ban tộc biểu) - một hình thức tổ chức hiệp hội mang tính truyền thống ở các làng của Việt Nam - được hình thành từ thời phong kiến, được duy trì trong thời kỳ thống trị của thực dân Pháp và vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Bên cạnh đó, ở nhiều làng Việt Nam còn có phường hội là tổ chức nghề nghiệp của những người làm nghề thủ công và buôn bán. Đây là một hình thức tổ chức hiệp hội khác ngoài hội đồng tộc họ, liên kết cư dân thông qua các ‘phường lệ’ - một dạng thoả thuận chung ràng buộc những người cùng nghề để ổn định sản xuất, chống cạnh tranh.8 Đặc biệt, làng Việt Nam còn có rất nhiều dạng hội khác được tổ chức theo giới tính, theo chức nghiệp và theo lứa tuổi, ví dụ như hội đồng niên (những người sinh ra cùng một năm), đồng môn (cùng học một lớp hoặc một khoá), đồng ngũ (đi lính cùng năm) - các dạng hội này hình thành từ xưa và hiện vẫn đang tồn tại phổ biến ở nhiều địa phương. Sự ràng buộc của các loại hội này không chặt chẽ bằng các dòng họ và phường nghề nghiệp, nhưng cũng có những quy tắc cư xử và quy định về những ____________________ 6. Dẫn theo Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, sách đã dẫn, tr.11. 7. GS Phan Đại Doãn, Làng Việt Nam - Cộng đồng đa chức năng liên kết chặt chẽ, tại http://khoalichsu.edu.vn/bai-nghien-cu/318-lang-vit-nam-cng-ng-a-chc-nng-lien-kt-cht-ch gs-phan-i-doan.html, truy cập ngày 22/2/2016. 8. Làng Việt Nam - Cộng đồng đa chức năng liên kết chặt chẽ, tài liệu đã dẫn. 14 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY dịp sinh hoạt chung, góp phần ràng buộc các thành viên theo một định hướng luân lý, đạo đức9. Vượt ra khỏi luỹ tre của các làng, các phường hội nghề thủ công, nghệ thuật và thương mại dần xuất hiện ở khu vực thành thị như Hà Nội,10 với mối liên kết chặt chẽ hơn. Đến thế kỷ 19, ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện các hình thức hiệp hội mang tính chất “xã hội dân sự” như các mạng lưới dạy học, truyền giảng và thảo luận các vấn đề đạo đức, vấn đề xã hội, ví dụ như Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn (Hà Nội).11 Bước sang thế kỷ 20, các hội đoàn ở Việt Nam càng trở lên phong phú, với nhiều tên gọi như hội cứu tế, công hội, nông hội, hội khuyến học, hội Khai Trí, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục... Cho đến trước khi Việt Nam giành được độc lập (năm 1945), các hiệp hội phát triển mạnh trên cả nước, đặc biệt ở các thành phố lớn, hình thành các phong trào và tổ chức dân sự. Nhiều đảng phái chính trị cũng được thành lập vào thời kỳ này, như Việt Nam Quang phục Hội (1922), Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (1925), Việt Nam Cách mệnh Đảng (1926), Việt Nam Cách mạng Đồng chí Hội (1927), Việt Nam Quốc dân Đảng (1927), Đông Dương Cộng sản Đảng (1929), An Nam Cộng sản Đảng (1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1929), Đảng Cộng sản Đông Dương (1930), Đại Việt Quốc dân đảng (1939), Đảng Dân chủ Việt Nam (1944). Tuy nhiên, các phong trào và tổ chức dân sự chỉ được tiếp tục duy trì tại miền Nam đến năm 1975. Ở miền Bắc, sau năm 1954, các hiệp hội bị hạn chế chỉ trong phạm vi các tổ chức do Đảng Cộng sản thành lập và chỉ đạo hoạt động (Mặt trận Tổ Quốc, Hội Liên hợp quốc, Đoàn ____________________ 9. Làng Việt Nam - Cộng đồng đa chức năng liên kết chặt chẽ, tài liệu đã dẫn. 10. Philippe Papin, Lịch sử Hà Nội, NXB Mỹ thuật, 2009, trang 94. Dẫn theo Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, sách đã dẫn, tr.11. 11. Vũ Thế Khôi, Từ Hội Hướng thiện Đền Ngọc Sơn đến phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Tạp chí Xưa và Nay. số 283.,2007, tr. 10-11. Dẫn theo Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, sách đã dẫn, tr.11. 12. Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, sách đã dẫn, tr.11.15 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO Thanh niên Cộng sản, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Luật gia...). Mô hình đó được áp dụng trên cả nước kể từ sau năm 1975 cho đến trước Đổi mới (1986). Trong thời kỳ này, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn hai đảng chính trị khác vẫn còn hoạt động cho đến năm 1988, đó là Đảng Dân chủ Việt Nam (1944-1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946-1988) như là những “cánh tay nối dài” của Đảng Cộng sản. Đường lối Đổi mới do Đảng Cộng sản thực hiện từ 1986 không chỉ thay đổi diện mạo nền kinh tế, mà dần dần còn làm thay đổi cấu trúc của các hội ở Việt Nam. Từ chỗ chịu sự giới hạn và kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, các hội đã dần được tự chủ nhiều hơn, nhiều hình thức hiệp hội mới có tính độc lập cao với Nhà nước đã được cho phép thành lập và hoạt động. Điều này diễn ra đồng thời với những đổi mới trong nhận thức và chính sách ngày càng cởi mở hơn của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về nhân quyền. Chỉ tính trong khoảng ba thập niên vừa qua, hàng ngàn hiệp hội mới đã được thành lập ở Việt Nam và được gọi bằng những tên khác nhau như “tổ chức xã hội”, “tổ chức quần chúng”, “tổ chức nhân dân”, “tổ chức xã hội dân sự”13... Tuy nhiên, hầu hết các tổ chức thành lập mới đều có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động giới hạn, dưới hai dạng chính là các tổ chức phi chính phủ (NGO) và các tổ chức/nhóm dựa trên cộng đồng (CBO). Kể từ khi vị trí lãnh đạo duy nhất với nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam được đưa vào Điều 4 Hiến pháp năm 1980 (và được khẳng định trong Điều 4 các Hiến pháp 1992, 2013), khái niệm ‘hội’ ở Việt Nam được mặc định không bao gồm các đảng chính trị. Theo số liệu thống kê của Bộ Nội vụ, ở thời điểm tháng 3 năm 2005, Việt Nam đã có hơn 300 hội cấp quốc gia, 1250 hội cấp tỉnh.14 ____________________ 13. Trong số các thuật ngữ nêu trên, “tổ chức xã hội dân sự” hiện vẫn còn bị coi là “nhạy cảm” ở Việt Nam và thường được gọi tránh đi bằng các thuật ngữ trước. 14. Bộ Nội vụ, Tài liệu hội nghị Tổng kết công tác hội năm 2004 và sơ kết thực hiện Nghị định 88/2003/NĐ-CP (3/2005). 16 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY Còn theo Liên hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, ở thời điểm 2010, có khoảng 1.700 tổ chức phi chính phủ đã đăng ký hoạt động ở Việt Nam.15 Số lượng các tổ chức cộng đồng (CBO), cụ thể như các nhóm khuyến học, nhóm phát triển chăn nuôi, nhóm dòng tộc, nhóm tôn giáo, lễ hội... ở cấp địa phương vào khoảng 100.000- 200.000.16 Một nghiên cứu từ năm 2006 đã cho thấy có 65-70 triệu/82 triệu (chiếm khoảng 77%) người dân Việt Nam đang tham gia ít nhất một hiệp hội (tổ chức XHDS),17 nhiều người tham gia đồng thời 2, 3 hội. Chỉ tính riêng 5 tổ chức chính trị - xã hội là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã có số hội viên vào khoảng trên 30 triệu người.18 Theo quan niệm rộng, các hội ở Việt Nam còn bao gồm các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGOs). Nhóm này, theo thống kê vào năm 2012, có khoảng 900 tổ chức đang hoạt động ở Việt Nam, với tổng số tiền viện trợ trong giai đoạn 1991-2012 là hơn 3 tỷ USD.19 Tiếp cận từ tiêu chí phi lợi nhuận, có thể xác định 7 hình thức tổ chức hội ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Hội; Hội có tính chất đặc thù; Quỹ xã hội, quỹ từ thiện; Cơ sở bảo trợ xã hội; Tổ chức Khoa học và công nghệ; Tổ chức chính trị - xã hội; Tổ chức phi chính phủ quốc tế.20 Tuy nhiên, theo cách phân loại của các cơ quan nhà nước, các hiệp hội hiện nay ở Việt Nam được xếp vào bốn nhóm lớn như sau:21 ____________________ 15. Hiệp hội liên minh các tổ chức khoa học và công nghệ, Bản tin phát triển #1, tháng 10, (2010). Dẫn theo Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, sách đã dẫn, tr.12. 16. Tổng quan khung pháp lý cho các tổ chức xã hội dân sự, tài liệu đã dẫn. 17. Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam, tài liệu đã dẫn, tr. 25. 18. Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam, tài liệu đã dẫn, tr. 25. 19. Tổng quan khung pháp lý cho các tổ chức xã hội dân sự, tài liệu đã dẫn. 20. Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, sách đã dẫn, tr.12 21. Irene Norlund, Khoả lấp sự cách biệt: Xã hội dân sự mới nổi ở Việt Nam, Hà Nội, tháng 1-2007, tr.11-12, tại http://www.un.org.vn/images/stories/pub_trans/Filling_the_Gap__V_.pdf 17 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO Nhóm Các loại tổ chức trong nhóm 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ 2. Hội Nông dân Quan hệ với Nhà nước Định nghĩa của Việt Nam Các tổ chức quần chúng 3. Tổ chức Đoàn Thanh niên 4. Hội cựu Chiến binh 5. Tổ chức Công nhân (VGCL - Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) Mặt trận Tổ quốc Các tổ chức chính trị - xã hội Các hội nghề nghiệp và các tổ chức bảo trợ Các NGO Việt Nam Các tổ chức tại cộng đồng 1. Các tổ chức bảo trợ như Hội Chữ thập đỏ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã, etc. 2. Các hội nghề nghiệp Từ thiện Các NGO nghiên cứu Các NGO về Tư vấn Các NGO về Giáo dục Các NGO về Y tế Các dịch vụ và phát triển hoặc theo hướng sinh kế Các tổ chức dựa vào tín ngưỡng Các nhóm dân cư Các gia tộc Các nhóm sáng kiến 1. Mặt trận Tổ quốc 2. Đăng ký với một tổ chức bảo trợ. Các tổ chức cấp trung ương hoặc địa phương Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Bộ chủ quản, Ủy ban Nhân dân Tỉnh hoặc Huyện Chi nhánh gián tiếp đối với các tổ chức khác hoặc Bộ Luật Dân sự Nhiều tổ chức không đăng ký 1. Các hội nghề nghiệp xã hội 2. Các hội nghề nghiệp xã hội; một số thuộc các NGO Các tổ chức xã hội; các NGO Các nhóm cộng tác nông thôn Các tổ chức dựa vào tín ngưỡng Các nhóm dân cư Các gia tộc Trong số các hiệp hội hiện hành ở Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội (nhóm 1 trong bảng trên) vẫn có vị thế lớn nhất và có các hoạt động gắn bó chặt chẽ hơn cả với đường lối, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản và Nhà nước. Điều này là bởi các hội này có bộ máy tổ chức rộng lớn từ trung ương xuống tận cơ sở, được Nhà nước bảo đảm nguồn kinh phí hoạt động ổn định. Vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội được ghi nhận ngay trong Hiến pháp (Điều 9, 10 Hiến pháp năm 2013). Tiếp theo đó là các hội nghề nghiệp và các tổ chức bảo trợ 18 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY (nhóm 2 trong bảng trên). Các hội này cũng có bộ máy tổ chức từ trung ương đến địa phương (tuy không phải nơi nào cũng có ở cấp cơ sở) và cũng được Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động nhưng với mức thấp hơn so với nhóm 1. Do tính chất như trên nên các hội thuộc hai nhóm đầu chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Các quy tắc tổ chức và hoạt động của các hội thuộc hai nhóm này cơ bản giống các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Các loại hình tổ chức hội thuộc hai nhóm cuối trong bảng trên không hoặc chỉ được nhận rất ít kinh phí của nhà nước, vì vậy, điều kiện hoạt động khó khăn hơn. Bù lại, các hội thuộc hai nhóm này không phải chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước nên có tính độc lập cao hơn. Số lượng ngày càng tăng đồng nghĩa với vai trò, ảnh hưởng của các hội trong đời sống xã hội Việt Nam cũng ngày càng lớn. Về ảnh hưởng kinh tế, tuy chưa có con số thống kê chính xác, song hiện có một số lượng khá lớn nhân lực (hàng trăm ngàn người) đang làm việc cho các hội ở Việt Nam22, góp phần giải quyết vấn đề công ăn, việc làm cho người lao động. Về ảnh hưởng chính trị-xã hội, các hiệp hội ở Việt Nam tham gia ngày càng rộng rãi hơn vào việc giải quyết các vấn đề trong các lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục, thể thao, nghiên cứu khoa học, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, đánh giá, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước... Đặc biệt, pháp luật gần đây cho phép các tổ chức XHDS tham gia vào các hoạt động tư vấn, phản biện chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước. Nhìn chung, đóng góp của các hội với sự phát triển của đất nước trong thời gian qua là rất lớn, được Nhà nước, xã hội và cộng đồng quốc tế thừa nhận, mặc dù trong thực tế các hội Việt Nam hiện vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng của mình do nhiều nguyên nhân. ____________________ 22. Một nghiên cứu cho thấy, lực lượng lao động trung bình làm việc ở các tổ chức phi chính phủ là 4.4%, trong đó Hà Lan (14.4%), Mỹ (9.8%), Pháp (7.6%)… Tổng quan khung pháp lý cho các tổ chức xã hội dân sự, tài liệu đã dẫn. 19 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO 3. CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TỪ TRƯỚC TỚI NAY 3.1. Khái quát chính sách, pháp luật về hội và tự do hiệp hội của Nhà nước Việt Nam trước đây Trong quá trình tổ chức đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930- 1945), Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương) đã đề cao các quyền lập hội và hội họp. Nhiều văn kiện do Đảng ban hành trong thời kỳ này đã nêu rõ những đòi hỏi về quyền lập hội, cụ thể như: đấu tranh để “dân chúng được tự do tổ chức” (Chính cương vắn tắt của Đảng, 1930), “tự do tổ chức, ngôn luận, tụ hội, bãi công, biểu tình, thị oai tuần hành” (nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, 1930), kêu gọi quần chúng đấu tranh buộc Chính phủ đế quốc phải “trả lại cho chúng ta quyền tự do bãi công, biểu tình và lập hội” (Một số lời kêu gọi, 1931; Thư ngỏ của Ban Chấp hành Trung ương gửi tất cả các đảng phái và các dân tộc ở Đông Dương, 1936).23 Bên cạnh đó, Đảng cũng nêu ra những cam kết về bảo đảm “quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền” (Nghị quyết của Quốc dân Đại hội Tân Trào tháng 8 năm 1945 thi hành mười chính sách lớn của Việt Minh sau khi giành chính quyền)...24 Quan điểm chính sách kể trên sau đó đã được phản ánh trong bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam (năm 1946), ở Điều 10, trong đó ghi nhận “quyền tự do tổ chức và hội họp” của công dân cùng với nhiều quyền dân sự, chính trị khác. Quyền này sau đó được tái khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp tiếp theo (1959, 1980, 1992 và 2013) của Việt Nam.25 ____________________ 23. Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, sách đã dẫn, tr.43 24. Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, sách đã dẫn, tr.43 25. Tự do lập hội cũng được ghi nhận trong hai bản Hiến pháp được ban hành ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ 1955-1975, đó là Hiến pháp 1956 (tại Điều 15) và Hiến pháp 1967 (tại Điều 13). 20 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY Bên cạnh quy định trong Hiến pháp, Nhà nước Việt Nam cũng đã từng ban hành một đạo luật riêng có tên gọi là Luật quy định quyền lập hội (theo Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 của Chủ tịch Hồ Chí Minh).26 Đạo luật này, ngoài việc tái khẳng định sự tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của nhân dân ở Điều 1, còn bao gồm một số quy định nhằm bảo đảm thực hiện quyền, trong đó khẳng định chủ thể của quyền lập hội là mọi công dân, trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp luật (Điều 2); nội dung quyền là tự do vào (gia nhập) và ra hội (Điều 2); các biện pháp bảo vệ quyền (Điều 2 và 7). Luật quy định “lập hội phải xin phép” (Điều 3) và “phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân” (Điều 1), đồng thời cấm lập hội để hoạt động “chống pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ dân tộc, hại đến thuần phong mỹ tục, phá hoại sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của Tổ quốc, phá tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh” (Điều 8). Luật này không điều chỉnh “các hội có mục đích kinh tế” (Điều 10), “các đoàn thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận” (Điều 9). Như vậy, Luật năm 1957 đã bao quát được những vấn đề chính về quyền lập hội, với nội dung thể hiện hợp lý, ngoại trừ quy định ở các Điều 9 và Điều 8 cho thấy xu hướng phân biệt các loại hội và nỗ lực kiểm soát hoạt động của các hội mới của Nhà nước. Về mặt pháp lý, cho đến nay Luật năm 1957 vẫn có hiệu lực thi ____________________ 26. Ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh cũng có Sắc luật 038-TT/SLU ngày 22/12/1972 sửa đổi Dụ số 10 ngày 6/8/1950 quy định thể lệ lập hội (ban hành dưới chế độ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại). 21 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO hành27, tuy nhiên, đạo luật này trên thực tế đã bị thay thế bởi một số Nghị định của Chính phủ. 3.2. Chính sách, pháp luật hiện hành về hội và tự do hiệp hội ở Việt Nam Về mặt chính sách, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 đã xác định phương hướng: “mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện - nhân đạo”28. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng năm 2016 chứa đựng một số điểm mới theo hướng thúc đẩy hoạt động của các hội, cụ thể như sau:29 - Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Văn kiện nêu: "Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân"; "Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc". Để thực hiện phương châm này, Văn kiện bổ sung một số giải pháp mới, nổi bật là: “Tiếp tục thể chế hoá và cụ thể hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”. - Về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Văn kiện bổ sung quy định: “Dân chủ phải ____________________ 27. Xem Dự thảo Tờ trình Dự án Luật về Hội của Chính phủ, năm 2015, tại http://www.moha.gov.vn/van-ban-du-thao.html?id=16480, truy cập ngày 22/2/2016. 28. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia năm 2001, tr.130. 29. Xem Nguyễn Viết Thông, Những điểm mới trong dự thảo văn kiện Đại hội XII của Đảng về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tại http://daihoi12.dangcongsan.vn/Modules/News/ NewsDetail.aspx?co_id=28340644&cn_id=401526, truy cập ngày 22/2/2016. 22 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”, đồng thời nêu một số nhiệm vụ, giải pháp mới để thực hiện định hướng này, trong đó bao gồm cụ thể hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát" (bổ sung nội dung "giám sát"); tổ chức thực hiện tốt các quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội.. Về mặt pháp luật, khung pháp lý hiện hành về tự do hiệp hội của Việt Nam bao gồm nhiều văn bản luật điều chỉnh các vấn đề khác nhau, với các loại hình tổ chức khác nhau, trong đó có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp 2013 (Điều 25 ghi nhận quyền lập hội), còn văn bản có hiệu lực trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của các hội là Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (thay thế cho Nghị định 88/2003). Nghị định này được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ. Điều 5 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định 5 điều kiện thành lập hội, bao gồm: 1. Có mục đích hoạt động không trái với pháp luật; không trùng lặp về tên gọi và lĩnh vực hoạt động chính với hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trên cùng địa bàn lãnh thổ. 2. Có điều lệ. 3. Có trụ sở. 4. Có số lượng công dân, tổ chức Việt Nam đăng ký tham gia thành lập hội. Số lượng tối thiểu thành viên của hội được xác định theo phạm vi hoạt động, cụ thể: cả nước hoặc liên tỉnh là 100, trong tỉnh là 50, trong huyện là 20, trong xã là 10. Với hiệp hội của các tổ chức kinh tế có phạm vi hoạt động cả nước thì số lượng tối thiểu thành viên là 11, phạm vi hoạt động trong tỉnh là 5. Riêng các hội nghề nghiệp có tính đặc thù chuyên môn thì số lượng thành viên tối thiểu sẽ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét quyết định từng trường hợp cụ thể. 23 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO Điều 23 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định các quyền của hội bao gồm: 1. Tổ chức, hoạt động theo điều lệ hội đã được phê duyệt; 2. Tuyên truyền mục đích của hội; 3. Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của hội; 4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của hội; 5. Tổ chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; hoà giải tranh chấp trong nội bộ hội; 6. Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên; cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật; 7. Tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám định xã hội theo đề nghị của cơ quan nhà nước; cung cấp dịch vụ công về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của hội, tổ chức dạy nghề, truyền nghề theo quy định của pháp luật; 8. Thành lập pháp nhân thuộc hội theo quy định của pháp luật; 9. Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hội theo quy định của pháp luật. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hội hoạt động. Được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động dịch vụ khác theo quy định của pháp luật và được cấp chứng chỉ hành nghề khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; 10. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của hội; 11. Được gây quỹ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí hoạt động; 12. Được nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Được nhà nước hỗ trợ kinh phí đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước giao; 13. Cơ quan Trung ương hội có phạm vi hoạt động trong toàn quốc được gia nhập các tổ chức quốc tế tương ứng và ký kết, thực hiện thoả thuận quốc tế theo quy định của pháp luật và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực hội hoạt động, cơ quan quyết định cho phép thành lập hội về việc gia nhập tổ chức quốc tế tương ứng, ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế. Xét tổng thể, Việt Nam đã có một khung pháp lý tương đối đồng bộ để điều chỉnh các vấn đề về tổ chức và hoạt động của các hội. 24 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY Khung pháp lý hiện hành đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều dạng hội và cho phép các hội ở Việt Nam chủ động thực hiện và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau tùy thuộc vào loại hình tổ chức khác nhau. Đây là những tiền đề quan trọng cho sự phát triển của các hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, khung pháp lý hiện hành về vấn đề này của Việt Nam cũng còn một số điểm bất cập, cụ thể như sau: - Về cấu trúc, hệ thống pháp luật về hội và tự do hiệp hội khá phức tạp, với nhiều loại hình văn bản, trong khi nhiều vấn đề vẫn chưa được quy định rõ ràng, phù hợp, chẳng hạn như về các tổ chức không có hội viên và các tổ chức tại cộng đồng; quy định về đầu mối quản lý thống nhất các hội; cơ chế đánh giá, giám sát trách nhiệm giải trình và tính công khai, minh bạch của các hội; chính sách khuyến khích và ưu đãi thuế dành cho các hội hoạt động phi lợi nhuận, vì lợi ích công cộng; cơ chế đối thoại và hợp tác giữa các hội với nhà nước và khu vực tư nhân... - Về chủ thể và nội dung của quyền, việc giới hạn chủ thể quyền chỉ là công dân trong Điều 25 Hiến pháp 2013 hẹp hơn so với pháp luật quốc tế và xu hướng trên thế giới, trong khi về nội dung, khái niệm “quyền lập hội” được dùng trong Điều 25 Hiến pháp 2013 (và các hiến pháp trước đây của Việt Nam) hẹp hơn khái niệm “quyền tự do hiệp hội” theo luật nhân quyền quốc tế. Những bất cập này hiện đang gây khó khăn cho việc xây dựng luật về hội và việc thực hiện pháp luật về hội, vì thực tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, không thể loại trừ hàng triệu người nước ngoài đang sinh sống, làm việc hợp pháp ở Việt Nam tham gia các hội của họ hoặc của Việt Nam, ví dụ như các công đoàn, hay các hội đồng hương, hội doanh nghiệp...Ngoài ra, trong thực tế, quyền hiệp hội không thể chỉ giới hạn trong việc “lập hội” (hay thành lập, tham gia hội) theo như quy định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. 25 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO - Về các điều kiện thành lập hội, với những quy định hẹp và cứng nhắc nêu trên trong Nghị định 45/CP (và trong chế định về pháp nhân của BLDS năm 2015), nhiều dạng hội khó hoặc không thể thành lập đúng pháp luật. Thực tế trong những năm vừa qua cho thấy có nhiều nhóm, câu lạc bộ, mạng lưới, diễn đàn, hội đoàn... đã hình thành và hoạt động sôi nổi trên cả nước, song do thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng nên không thể làm các thủ tục thành lập, vì thế rơi vào tình trạng bị coi là bất hợp pháp hoặc “chưa được nhà nước thừa nhận”. Điều này đi ngược với xu hướng tất yếu của xã hội hiện đại mà trong đó không thể thiếu và không thể cấm hoạt động của các hội đoàn, nhóm, mạng lưới, diễn đàn... Nhìn chung, các quy định pháp luật về thành lập hội trong Nghị định 45/CP, BLDS năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan vẫn thiên về tạo thuận lợi cho cơ quan hành chính, coi nhẹ sự tự do ý chí trong việc thành lập và tham gia các hội đoàn cùa người dân. Nói cách khác, cách tiếp cận của Nhà nước với quyền tự do hiệp hội hiện vẫn theo hướng “ban phát”, “quản lý”, chưa phải là tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo như quy định của Hiến pháp 2013. Đây chính là lý do nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc, đã khuyến nghị Nhà nước Việt Nam xoá bỏ những trở ngại đối với việc đăng ký và hoạt động của các hội, đặc biệt là của các tổ chức phi chính phủ hoạt động trên lĩnh vực quyền con người30. - Về mối quan hệ giữa các hội, pháp luật hiện chưa bảo đảm sự bình đẳng giữa các tổ chức, hội đoàn trong xã hội. Do đặc điểm chính trị và lịch sử, hệ thống các tổ chức chính trị-xã hội hiện có địa vị và quyền lợi cao hơn nhiều so với các tổ chức, hội đoàn khác, tiếp theo ____________________ 30. Xem đoạn 20, Kết luận giám sát ngày 26/7/2002 của Uỷ ban Nhân quyền với Báo cáo quốc gia của Việt Nam về việc thực hiện Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (CCPR/CO/75/VNM). 26 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY là các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức bảo trợ (còn gọi là các “hội đặc thù”). - Về việc gây quỹ và tổ chức các hoạt động của hội, hiện có nhiều loại quy định khác nhau với các loại tổ chức và hoạt động khác nhau, song quan điểm chung cho rằng các quy định đó mang tính chất phiền hà, phức tạp và khắt khe hơn so với nhiều quốc gia khác.31 Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho lượng tài trợ phi chính phủ mà Việt Nam nhận được trong một số năm gần đây rất thấp, chỉ tương đương hoặc nhỉnh hơn một chút so với Lào và Campuchia, trong khi dân số Việt Nam gấp nhiều lần những quốc gia này. - Về cơ chế bảo vệ quyền tự do hiệp hội, để bảo vệ quyền này, hội có thể sử dụng các cơ chế khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện theo thủ tục hành chính hay tư pháp. Tuy nhiên, từ một số vụ việc cho thấy khiếu nại về quyền lập hội của người dân chưa được các cơ quan hành chính giải quyết kịp thời, thấu đáo32 trong khi chưa có vụ việc nào liên quan đến tự do hiệp hội được tòa án các cấp thụ lý. ____________________ 31. Ví dụ, văn bản hiện hành điều chỉnh việc nhận tài trợ nước ngoài là Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài (ban hành theo Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009, được hướng dẫn bởi Thông tư 07/2010/TT-BKH ngày 30/3/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư). Ngoài các văn bản này, tại nhiều địa phương, UBND tỉnh còn ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Các văn bản này quy định một quy trình khai báo, tiếp nhận viện trợ nhiều bước, rất phức tạp và tốn thời gian. Còn việc tổ chức hội thảo, tập huấn mà có “yếu tố nước ngoài” hiện được điều chỉnh bởi Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg ngày 30/11/ 2010 của Thủ tướng về việc tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam, trong đó các hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biên giới lãnh thổ hoặc thuộc phạm vi bí mật Nhà nước chỉ được tổ chức khi Thủ tướng Chính phủ cho phép. Để xin phép tổ chức các hội thảo như vậy thường phải có 3-4 cơ quan cấp trung ương chuẩn thuận trước khi Thủ tướng ký quyết định, thời gian xin phép do vậy trung bình mất khoảng 2-3 tháng. 32. Một ví dụ đó là nhà báo Trần Đăng Tuấn nộp hồ sơ xin thành lập quỹ từ thiện “Cơm có thịt” gửi Bộ Nội vụ vào tháng 5/2012 nhưng 5 tháng sau vẫn chưa nhận được trả lời, trong khi theo quy định (Nghị định 30/2012/NĐ-CP) thời gian tối đa để trả lời là 45 ngày. Xem Dân trí, Nhà báo Trần Đăng Tuấn viết thư gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ về “Cơm có thịt”, http://dantri.com.vn/dien-dan/nha-bao-tran-dang-tuan-viet-thu-gui-bo-truong-bo-noi-vu ve-com-co-thit-663966.htm, truy cập ngày 23/2/2016. 27 PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐỀ XUẤT So với thời kỳ trước Đổi mới, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội đã có những thay đổi lớn, theo hướng coi trọng, cởi mở hơn. Mặc dù vậy, tâm lý e ngại sự phát triển của các hội sẽ dẫn đến ‘diễn biến hoà bình’, thay đổi chế độ (theo kiểu “từ đa hội đến đa đảng”) vẫn còn nặng nề, gây trở ngại cho những nỗ lực cải cách chính sách và pháp luật về hội. Việc Luật về Hội được khởi động soạn thảo từ hàng chục năm nay nhưng hiện vẫn chưa thể thông qua cho thấy rõ điều này. Mặc dù có cấu trúc khá toàn diện, khung pháp lý hiện hành của Việt Nam vẫn còn nhiều quy định bất hợp lý, gây khó khăn cho việc thành lập và hoạt động của các hội. Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc sửa đổi khung pháp lý về tự do hiệp hội là yêu cầu tất yếu và cấp thiết với Việt Nam. Ðể hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tự do hiệp hội, Nhà nước nên: - Xem việc tăng cường tự do hiệp hội như là một trong những ưu tiên trong chính sách tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân hiện nay. - Tự do hiệp hội nên được quan niệm là một quyền dân sự, một dạng tự do hợp đồng của các cá nhân, chủ yếu do luật dân sự điều chỉnh. Cách tiếp cận này sẽ giúp tối thiểu hoá các thủ tục hành chính cho việc cấp phép thành lập các hội. - Ðể hoạt động của các hội được thuận tiện, cũng là để tôn trọng quyền tự do hiệp hội, các quy định về gây quỹ, nhận tài trợ, về triển khai các hoạt động (nhất là hội thảo, tập huấn), có hoặc không liên quan đến nước ngoài, nên được điều chỉnh theo hướng tôn trọng quyền tự chủ của các hội. - Sớm ban hành Luật về Hội với nội dung phù hợp với các tiêu chuẩn của luật nhân quyền quốc tế và xu hướng chung trên thế giới về tự do hiệp hội. Cụ thể: 28 HỘI VÀ TỰ DO HIỆP HỘI Ở VIỆT NAM: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY + Về cách tiếp cận: Nên xác định đây là đạo luật để bảo vệ, bảo đảm thực thi quyền tự do hiệp hội, chứ không phải luật chỉ để quản lý hội. Do đó, luật cần xác định các cơ quan nhà nước đều có nghĩa vụ tôn trọng (không cản trở), bảo vệ (xử lý các vi phạm) và thúc đẩy (hỗ trợ các điều kiện thực thi) quyền này của mọi cá nhân, tổ chức. +Về phạm vi điều chỉnh: Ðể bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa các cá nhân và giữa các hội, nên mở rộng đối tượng điều chỉnh của luật đến mọi tổ chức trong xã hội, trong đó xác định rõ có loại hội không cần đăng ký và có loại hội cần đăng ký (có tư cách pháp nhân). + Về thủ tục thành lập: Nên quy định việc đăng ký thay cho việc cấp phép để tránh tình trạng xin - cho. Nên quy định quyền được khiếu nại để xem xét lại quyết định của cơ quan cấp đăng ký. Thủ tục đăng ký thành lập hội cần đơn giản, rõ ràng, thuận tiện, nhanh chóng để mọi tổ chức, cá nhân đều có thể hiểu và thực hiện. + Về quản lý, giám sát: Chỉ nên quy định một cơ quan là đầu mối quản lý việc thành lập và hoạt động của các hội, bỏ chế độ bộ chủ quản. Nên có các quy định cụ thể, rõ ràng về nghĩa vụ công khai, cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các hội, đặc biệt là các hội nhận ngân sách công và tài trợ, quyên góp của công chúng. - Bộ luật Hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính cần sửa đổi, bổ sung các chế tài với những hành vi từ chối, ngăn cản và các hành vi khác vi phạm quyền tự do hiệp hội của người dân, đồng thời xóa bỏ những quy định đi ngược với tinh thần của quyền tự do quan trọng này. 29 MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI DÂN SỰ & HỘI VÀ DỰ THẢO LUẬT HỘI Ở VIỆT NAM GS.TS. Nguyễn Đăng Dung* Bên cạnh các cơ quan tạo thành cơ cấu quyền lực nhà nước và các tổ chức kinh tế là các tổ chức của xã hội dân sự. Quyền lập hội là một trong những quyền cơ bản của con người trong việc tổ chức thành lập ra các tổ chức xã hội, một công cụ quan trọng có khả năng bảo vệ quyền của mình trước những nguy cơ vi phạm của các tổ chức, và cá nhân khác. Bài viết này phân tích tầm quan trọng của các hiệp hội, cùng yêu cầu cần có một đạo luật về hội, để các hiệp hội có thể tạo thành những hạt nhân cơ bản của xã hội dân sự, một thành tố cần có trong nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng. 1. HỘI LÀ HẠT NHÂN CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ Chữ “Dân sự” (Civile) trong các ngôn ngữ của phương Tây đã gây ra nhiều tranh cãi, nhưng cũng tạo ra sự phát triển tiến bộ cho xã hội loài người. Đầu tiên phải kể đến tác phẩm Hai chuyên luận về Chính quyền (Two Treatises of Government) của J. Locke. Chuyên luận đầu tiên của ông nói về những khiếm khuyết của chính quyền quân chủ chuyên chế, còn chuyên luận thứ hai nói về nguồn gốc, phạm vi và mục đích của chính quyền dân sự. Chính tác phẩm này gợi cảm hứng cho T. Jefferson viết bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ của nước Mỹ, trong đó bắt đầu bằng câu: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể tước đoạt được. ____________________ * Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. 30 MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI DÂN SỰ & HỘI VÀ DỰ THẢO LUẬT HỘI Ở VIỆT NAM Trong đó có quyền được sống, được tự do và được mưu cầu hạnh phúc”33. Nước Mỹ thịnh vượng vì rất nhiều nguyên nhân, trong đó một nguyên nhân quan trọng là họ có một xã hội dân sự vững mạnh bên cạnh một nhà nước tôn trọng và luôn biết cách hợp tác, phối hợp với xã hội dân sự đó. Trong tác phẩm“Nền Dân trị nước Mỹ” mang đến cho tác giả chức danh Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học nước Pháp, Tocqueville đã nhận định, nước Mỹ là một cộng đồng từ trung ương đến địa phương luôn có thói quen giải quyết các công việc của mình một cách tự chủ trước khi cần đến vai trò của nhà nước.34 Xã hội dân sự (XHDS) có thể được hiểu và sử dụng ở năm nghĩa cơ bản khác nhau: Thứ nhất, XHDS là civil - văn minh, được dùng để đối lập với “xã hội không dân sự”, “xã hội không văn minh”. Thứ hai, XHDS được dùng để đối lập với “xã hội chính trị”, “xã hội quân sự”, “xã hội độc tài”, “xã hội toàn trị”. Thứ ba, XHDS được hiểu là hiện tượng thuộc xã hội cổ đại - công xã công dân. Thứ tư, XHDS được giải thích là “xã hội tư bản”, xã hội mà ở đó các công việc và lợi ích tư (lợi ích cá nhân) không phải chịu sự tác động trực tiếp của các thiết chế nhà nước, trở thành hoạt động sống của con người mang tính tự chủ, không phụ thuộc một cách trực tiếp vào Nhà nước. Thứ năm, XHDS được hiểu là “các tổ chức dân sự”, “các tổ chức phi nhà nước”, “các tổ chức phi chính phủ”, “tổng thể các thiết chế phi nhà nước”.35 XHDS là một bước tiến của loài người trong tổ chức của cộng đồng bên cạnh sự tiến bộ của các thiết chế Nhà nước ngày càng hợp lý. Khi nhà nước từ cai trị sang phục vụ, nhà nước của dân, do ____________________ 33. Xem, Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ 1776. 34. Tocqueville, Nền Dân trị nước Mỹ, NXB Tri thức, Hà Nội, 2006 tr. 686. 35. Vũ Mạnh Toàn, Cơ sở triết học của việc xây dựng xã hội dân sự, Tạp chí Triết học tháng 1 năm 2009. 31 GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG dân, vì dân, thì xã hội cũng hình thành một loại các thiết chế xã hội đa dạng: Nhà nước sẽ nhỏ đi và xã hội sẽ lớn lên. Vai trò của tự quản trong cộng đồng mạnh lên là một chặng đường thăng tiến đáng kể của nhân loại. Vai trò tự quản ấy chính là nằm ở các tổ chức xã hội với các thiết chế riêng bên cạnh thiết chế nhà nước là các nhân tố bộ phận hợp thành XHDS. Trọng tâm của xã hội dân sự là các hiệp hội. Mặc dù còn có sự khác nhau về khái niệm của XHDS, nhưng khái quát lại XHDS có các đặc trưng cơ bản đó là: i. Là tổ chức ở ngoài Nhà nước, ii. Hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, iii. Tự chủ, độc lập về tài chính (tự trang trải), iv. Quy mô, hình thức tồn tại, các thiết chế tổ chức rất đa dạng, iv. Mục tiêu chung là vì sự phát triển của cộng đồng, phần lớn là tổ chức không vì lợi nhuận (non profit). Vai trò quan trọng của XHDS là cầu nối các cá nhân với nhà nước; tham gia hoạch định và phối hợp với Nhà nước, thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước; tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách và giám sát hoạt động của đội ngũ công chức nhà nước; góp phần phát huy các nguồn lực nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. “Hội” hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là sự thỏa thuận, liên kết, tập hợp, quy tụ của nhiều người với nhau thành nhóm để hướng đến các mục đích, lợi ích hay sự quan tâm chung. Như vậy “hội” là tập hợp các thành viên có cùng mối quan tâm chung đến lợi ích về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị..., hoặc đơn thuần chỉ để hỗ trợ, chia sẻ thông tin với nhau. Về hình thức, hội cũng có nhiều dạng như câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, đảng phái chính trị, doanh nghiệp, công ty... 32 MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI DÂN SỰ & HỘI VÀ DỰ THẢO LUẬT HỘI Ở VIỆT NAM Lập hội là việc các cá nhân liên kết, tập hợp lại với nhau (to associate, gather) thành nhóm để hướng đến những lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung. Các nhóm, hội đoàn, tổ chức tự nguyện là các thành tố hạt nhân của xã hội dân sự, dưới những hình thức đa dạng, có thể là các câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng và công ty. Do sự đa dạng của các nhóm, pháp luật các quốc gia thường có quy định điều chỉnh riêng một số nhóm, hội bằng các luật riêng như: luật về doanh nghiệp - công ty, luật về công đoàn - nghiệp đoàn, luật về các đảng phái chính trị, luật về các tổ chức tôn giáo. Ở Việt Nam đang tồn tại một số loại hình tổ chức xã hội dân sự sau: Nhóm thứ nhất, các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Luật gia, Hội Cựu chiến binh, Liên đoàn Lao động (được gọi một cách dân dã là Công, Nông, Thanh, Phụ, Cựu). Đây là những hiệp hội được nhà nước thành lập có cơ cấu tổ chức từ trung ương đến địa phương, nhận kinh phí hoạt động từ nhà nước và triển khai các hoạt động của Đảng và Nhà nước Việt Nam, được gọi là các tổ chức chính trị - xã hội. Nhóm thứ hai, các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động phi lợi nhuận, được thành lập theo Luật khoa học và công nghệ. Các tổ chức này tự nhận mình, và cũng được nhìn nhận bởi xã hội, như các tổ chức phi chính phủ (NGO) vì tính tương đối độc lập của mình. Các tổ chức này phải đăng ký dưới một ‘cơ quan chủ quản’ như Hội Nghiên cứu Đông Nam Á hay Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, các trường đại học hoặc các viện nghiên cứu và có tư cách pháp nhân. Về chiến lược hoạt động, nhân sự và tài chính, 33 GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG các tổ chức này tự chủ, không được nhận tiền từ ngân sách nhà nước, nhưng vì có tư cách pháp nhân nên họ có thể nhận tiền tài trợ từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để phục vụ hoạt động. Giám đốc các tổ chức này do hội đồng sáng lập chọn và đề xuất lên cơ quan chủ quản phê duyệt. Nhóm thứ ba, các tổ chức cộng đồng, hoạt động tự nguyện, gắn liền với các nhu cầu của một nhóm người dân. Các tổ chức này rất đa dạng, tồn tại ở cả thành thị lẫn nông thôn. Các mô hình như câu lạc bộ nghệ thuật, nhóm hành động vì môi trường, tổ hợp tác kinh tế, hoặc câu lạc bộ của các cụ hưu trí. Các tổ chức cộng đồng tự do thành lập, tự do hoạt động và tự do giải thể. 2. SỰ CẦN THIẾT VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬT HỘI Sự cần thiết Thứ nhất, việc liên kết lại với nhau là một đặc tính xã hội xuất phát từ nhu cầu tồn tại của con người. Tự do hiệp hội được coi là một quyền tự nhiên của con người. Quyền lập hội là quyền con người cơ bản, là biểu hiện của quyền tự do ngôn luận, quyền tự do biểu đạt, và đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người như UDHR và ICCPR và hiến pháp của nhiều quốc gia. Cũng như những quyền cơ bản khác, các nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do này. Quyền tự do lập hội cũng là một quyền hiến định được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam (1946) và được tái khẳng định trong tất cả các Hiến pháp về sau. Do vậy, việc ban hành Luật về hội để mau chóng hiện thực hoá quyền này trên thực tế là một việc làm cần thiết. Thứ hai, Luật về Hội sẽ tạo ra hành lang pháp lý an toàn, khắc phục những hành vi chủ quan, duy ý chí của các cơ quan nhà nước mà cản trở việc thực hiện quyền của người dân. Nếu không có Luật 34 MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI DÂN SỰ & HỘI VÀ DỰ THẢO LUẬT HỘI Ở VIỆT NAM về hội, việc thành lập các hội thành viên hoạt động khác với các tổ chức đoàn thể hiện nay sẽ khó thể thực hiện.36 Thứ ba, Luật về Hội sẽ khắc phục tình trạng bản thân những hiệp hội đang hoạt động không thuần khiết là hiệp hội của xã hội dân sự, được thành lập với sự cho phép của các cơ quan nhà nước. Về cơ bản, những hiệp hội này được nhà nước thành lập, như là cánh tay nối dài của nhà nước, chỉ được phép làm những gì mà phía các cơ quan nhà nước yêu cầu.37 Thứ tư, Luật về Hội sẽ giúp tăng cường vị thế và năng lực cho các tổ chức xã hội dân sự. Việc thiếu các tổ chức xã hội dân sự mạnh thì chủ thể bị thiệt thòi trước tiên là người dân. Một chính sách giáo dục có thể ảnh hưởng đến tương lai của hàng triệu học sinh và sinh viên, một chính sách nhập khẩu thực phẩm có thể ảnh hưởng đến hàng triệu người dân, nhưng do không có hội đại diện cho quyền lợi của mình, sinh viên và người dân không được thông tin đầy đủ về ảnh hưởng của chính sách của nhà nước. Các cá nhân đơn lẻ không thể phản hồi hiệu quả cho chính phủ. Thực tế chắc sẽ khác đi, nếu có những hội với hàng chục ngàn hoặc hàng trăm ngàn thành viên nêu ý kiến. Khi đó các cơ quan nhà nước phải lắng nghe và có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết và thay đổi. Hội thành viên làm tăng quyền lực của các tổ chức xã hội dân sự, để cuối cùng giúp tìm ra giải pháp tốt nhất cho xã hội và đất nước.38 Với khung pháp lý hiện tại, các tổ chức phi chính phủ vẫn có thể hoạt động, tham gia cung cấp dịch vụ, vận động xã hội và chính sách. Tuy nhiên, khi hoạt động của họ vươn ra các vùng bị nhà nước cho là nhạy cảm, không mong đợi, thì bị hạn chế hoặc loại bỏ ra ____________________ 36. Lê Quang Bình, Tại sao Việt Nam vẫn cần có Luật về Hội?, Diễn ngôn (http://dienngon.vn/blog/ Article/tai-sao-viet-nam-van-can-co-luat-ve-hoi). 37. Lê Quang Bình, Sđd. 38. Lê Quang Bình, Sđd. 35 GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG khỏi các cuộc tham vấn chính sách, cắt đứt quan hệ với truyền thông nhà nước. Đây chính là lý do cần phải có Luật về hội để các tổ chức phi chính phủ có thể giám sát và phê phán chính sách của nhà nước một cách độc lập, trung thực mà không bị ngăn cản, và các hội thành viên có thể thành lập để nâng cao nhận thức xã hội, cũng như cân bằng quyền lực với các cơ quan công quyền, nhằm tạo ra các kênh đối thoại để tìm ra những giải pháp tối ưu cho sự phát triển của đất nước, cùng với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Các nội dung cơ bản của luật về hội Về cơ bản, các nội dung sau đây được pháp luật về hội của các quốc gia quy định: 1) Phạm vi điều chỉnh của luật (các loại hội, tổ chức nào được điều chỉnh); 2) Điều kiện thành lập, gia nhập hội; 3) Cơ quan, thủ tục đăng ký, thành lập hội; 4) Quyền của các hội; 5) Cơ quan giám sát, xử lý vi phạm; 6) Chấm dứt hoạt động của hội. Phạm vi điều chỉnh của luật về hội. Luật về hội của các quốc gia thường quy định về các hội, hiệp hội và thường loại trừ (không áp dụng đối với) các tổ chức tôn giáo, đảng phái chính trị, tổ chức lập ra trong tiến trình bầu cử. Tuy nhiên, một số quốc gia xác định phạm vi điều chỉnh rất rộng. Luật Hungary quy định chung cho các "tổ chức xã hội dân sự", bao gồm cả các đảng phái chính trị, tổ chức công đoàn. Luật về hội của Malaysia điều chỉnh cả các công ty, các tổ chức có trên 7 người, bao gồm các đảng phái, công đoàn. Luật hội của Ba Lan phân chia thành các hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân (hội đơn giản). Các loại hội này sẽ có thủ tục thành lập khác nhau và phạm vi quyền hạn cũng khác nhau. Điều kiện lập hội, gia nhập hội. Điều kiện lập hội thường có các quy định liên quan đến: mục đích, trụ sở và tài sản, điều lệ và thành viên. Các quy định liên quan đến điều kiện về thành viên rất đa dạng, như: Thứ nhất, quyền lập hội đương nhiên thuộc về mọi công 36 MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI DÂN SỰ & HỘI VÀ DỰ THẢO LUẬT HỘI Ở VIỆT NAM dân của quốc gia, trừ một số trường hợp luật định. Chẳng hạn như công chức lực lượng vũ trang... Đối với quyền lập hội của người nước ngoài, các quốc gia có những cách điều chỉnh khác nhau. Luật hội Ba Lan phân biệt người nước ngoài thành người cư trú (được tự do gia nhập hội) và người không cư trú (tùy trường hợp). Thứ hai, về độ tuổi, thường thì phải đủ 18 tuổi mới có đầy đủ quyền thành lập và gia nhập hội. Luật hội Ba Lan cho phép người chưa thành niên từ 16 đến 18 tuổi trở thành thành viên của các hội, với điều kiện đa số thành viên hội đồng quản trị của hội phải là người đã thành niên, có đủ năng lực để thực hiện giao dịch hợp pháp dân sự. Trẻ em dưới 16 tuổi có thể trở thành thành viên của một hội nếu quy chế của hội này cho phép và có sự đồng ý của người giám hộ hợp pháp, nhưng họ có thể không được bầu cử hoặc biểu quyết tại phiên họp của hội. Thứ ba, về số lượng thành viên để thành lập một hội rất khác nhau, tùy theo quy định của các quốc gia. Luật hội Ecuador chỉ yêu cầu có 5 người để lập một hội, trong khi luật Ấn Độ cần phải có 7 người, luật Ai Cập cần có 10 người, luật Ba Lan cần có 15 người, luật Rumani cần có 21 người. Thủ tục đăng ký. Việc lập hội dễ dàng hay khó khăn phụ thuộc nhiều vào ý chí của người làm luật, thể hiện rõ nét nhất trong các quy định về thủ tục thành lập. Hầu hết các quốc gia yêu cầu nộp hồ sơ đăng ký tại một cơ quan nhất định (tòa án, cơ quan công chứng hoặc cơ quan chuyên trách). Hai loại cơ quan thường được các quốc gia trao quyền đăng ký lập hội là tòa án (luật hội của Ba Lan, Hungary, Rumani) và cơ quan công chứng (Bôlivia, Braxin, Italia, Hà Lan...). Cũng có một số quốc gia có cơ quan chuyên trách việc đăng ký hội như Cơ quan đăng ký hội tại Malaysia. Một số quốc gia, thủ tục lập hội được thực thi rất dễ dàng, chỉ cần thông báo cho cơ quan nhà nước, thậm chí chỉ cần qua Internet. Ban vận động 37 GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG thành lập hội (ban sáng lập) thường phải nộp cho cơ quan đăng ký (tòa án hoặc cơ quan công chứng) giấy đăng ký kèm theo các loại văn bản như: quy chế (điều lệ) hội, danh sách các thành viên sáng lập, địa chỉ văn phòng tạm thời của hội... Sau một thời hạn, cơ quan đăng ký sẽ có trả lời về việc đăng ký. Các quyền của hội. Là một chủ thể của xã hội, hội có các quyền năng của mình để có thể đạt được các mục tiêu đề ra. Trong số các quyền, quyền về tài chính, tài sản, về tổ chức, nhân sự, và nói lên tiếng nói chung của đa số các thành viên là quan trọng nhất. Về tài chính, nhìn chung, các hội có thể huy động các nguồn đóng góp từ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, theo luật Ba Lan, hội không có tư cách pháp nhân (hội đơn giản) chỉ có thể có nguồn thu từ đóng góp của các thành viên. Là các tổ chức phi lợi nhuận, hội không thể hoạt động kinh doanh thu lợi. Tuy nhiên, luật Hungary cho phép hội có thể hoạt động kinh doanh để có điều kiện kinh tế phục vụ mục đích của hội. Các hội có quyền chủ động về nhân sự và cơ cấu tổ chức. Một số quốc gia có quy định khái quát về bộ máy lãnh đạo hội: Hội đồng quản trị, Ban điều hành của hội. Các hội có thể có tổ chức trực thuộc, tổ chức thành viên, chi nhánh. Luật Ba Lan không cho phép một hội đơn giản không có tư cách pháp nhân. Các hội có quyền tự do triển khai các hình thức hoạt động để thực thi nhiệm vụ của mình. Nhìn chung việc triển khai hoạt động liên quan chặt chẽ đến khuôn khổ pháp lý thực thi các quyền tự do khác, đặc biệt là tự do ngôn luận khi muốn truyền thông, xuất bản, vận động..., tự do hội họp khi muốn tổ chức tuần hành, hội thảo, tập huấn; tự do đi lại (khi muốn tiếp cận địa bàn, đối tượng dễ bị tổn thương...) Chấm dứt hoạt động. Các hội, tổ chức xã hội dân sự có thể chủ động chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan nhà nước (tòa án) chấm dứt hoạt động. Việc chấm dứt hoạt động của hội thường bao gồm các thủ tục: xử lý, thanh lý tài sản và các nghĩa vụ khác, tuyên bố 38 MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI DÂN SỰ & HỘI VÀ DỰ THẢO LUẬT HỘI Ở VIỆT NAM giải thể. Tài sản của hội được chia thành hai phương thức đối với hai nhóm tài sản. Các tài sản có được từ nguồn tài trợ của các tổ chức trong nước, nước ngoài hoặc của nhà nước, sau khi thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của tổ chức số còn lại do cơ quan có thẩm quyền (thường là tòa án) quyết định. Đối với các tài sản tự có của hội, sau khi thanh toán hết nghĩa vụ, số còn lại do hội quyết định theo điều lệ. Tuyên bố giải thể được thực hiện sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ về tài sản, thanh lý tài sản và các nghĩa vụ khác của hội. Thời điểm tuyên bố giải thể hội là thời điểm chấm đứt hoàn toàn các hoạt động cũng như tư cách pháp lý của hội trên thực tế. 3. VỀ DỰ THẢO Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, Điều 1 dự thảo quy định: “luật này không áp dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng tại Việt Nam”. Trên thực tế, Hội Nông dân Việt Nam hay Hội Phụ nữ Việt Nam đều là những “hội”, việc quy định như trên vô hình chung có thể tạo nên sự bất bình đẳng giữa các hội, dẫn đến cách hiểu có những hội “đặc biệt” hơn các hội khác. Tất cả các hiệp hội đều bình đẳng, nhưng có một số hiệp hội đặc biệt có quyền bình đẳng hơn. Nếu như quyền con người là bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội thì giữa các hội, nhóm cũng vậy, vì thực chất, hội là do các cá nhân liên kết mà thành. Đồng thời, dự thảo cần bổ sung quy định về sự bình đẳng giữa các hội để tránh tình trạng độc quyền. Ví dụ, không thể viện dẫn lý do đã có hội phụ nữ hoạt động ở địa phương này rồi mà ngăn cản sự thành lập của hội phụ nữ khác.39 ____________________ 39. Lê Quang Bình, Để Luật về Hội không cùm chân đời sống dân sự (http://dienngon.vn/blog/ Article/de-luat-ve-hoi-khong-cum chan-doi-song-dan-su). 39 GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG Dự thảo quy định rõ việc nhà nước cấp ngân sách cho một số hiệp hội là không nên, sẽ gây nên tình trạng bất bình đẳng giữa các hiệp hội, nếu hiệp hội đó đáp ứng các yêu cầu từ phía nhà nước. Thứ hai, về chủ thể của quyền lập hội, nên mở rộng chủ thể của quyền lập hội là mọi người thay vì chỉ là công dân Việt Nam như theo dự thảo hiện nay. Điều 22, Khoản 1 ICCPR đã ghi nhận: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”. Việc quy định chủ thể là công dân Việt Nam sẽ hạn chế quyền lập hội của những công dân nước ngoài khi họ có nguyện vọng chính đáng như tham gia các tổ chức tình nguyện được thành lập tại Việt Nam. Thứ ba, nên bỏ quy định tại Điều 12 về nội dung chủ yếu của điều lệ hội. Quy định này là không cần thiết vì cũng giống như một dạng hợp đồng, ban sáng lập và các thành viên của hội có quyền tự đưa ra các nội dung chủ yếu trong điều lệ, miễn là không vi phạm các quy định và nguyên tắc chung theo pháp luật. Thứ tư, Điều 7, Khoản 2 của dự thảo quy định hội buộc phải có trụ sở tại Việt Nam. Điều này là hoàn toàn không cần thiết, vì nếu buộc phải thỏa mãn điều kiện này, sẽ không ít các tổ chức xã hội dân sự quan trọng như tổ chức phi chính phủ, quỹ, viện, trung tâm độc lập...40 sẽ không thể được coi là một hội, cho dù các tổ chức trên hoạt động như một hội. Thứ năm, thành lập hội được coi là một những nội dung chính của quyền lập hội - một quyền con người cơ bản. Do vậy, thủ tục đăng ký cần rõ ràng, đơn giản. Cụ thể, một khi đã có đầy đủ tiêu chí theo quy định của pháp luật thì ban sáng lập chỉ cần chứng minh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan này phải có ____________________ 40. Trương Hồng Quang, Cần xem lại khái niệm "hội" khi xây dựng Luật về Hội, http://dienngon.vn/ blog/Article/can-xem-lai-khai-niem-hoi-khi-xay-dung-luat-ve-hoi. 40 MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI DÂN SỰ & HỘI VÀ DỰ THẢO LUẬT HỘI Ở VIỆT NAM nghĩa vụ đưa ra quyết định công nhận sự thành lập của hội thay vì quyết định cho phép thành lập hội. Thứ sáu, thêm quy định về giới hạn quyền. Theo pháp luật của một số quốc gia, quyền lập hội không phải là một quyền tuyệt đối nên nó có thể giới hạn trong các trường hợp vì an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng v.v... Tại Khoản 2, Điều 22 ICCPR, đã quy định như sau: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác. Điều này không ngăn cản việc đặt ra những hạn chế hợp pháp trong việc thực hiện quyền này đối với những người làm việc trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát.”. Việc quy định những trường hợp quyền lập hội có thể bị hạn chế không chỉ thể hiện tinh thần của Hiến pháp 2013 mà còn tránh được khả năng quyền này bị hạn chế một cách bừa bãi bởi chủ thể công quyền. Thứ bảy, thúc đẩy cơ chế tự chịu trách nhiệm và tự giám sát hoạt động của hội thông qua cấu trúc quản trị nội bộ bằng cách quy định rõ ràng các hội sẽ phải có cơ chế quản trị nội bộ minh bạch, trách nhiệm giải trình rõ ràng với cơ quan cấp phép hoạt động, với công chúng, các nhà tài trợ và các thành viên của hội để bảo đảm hoạt động minh bạch của hội và giảm tải gánh nặng lên cơ quan nhà nước. Thứ tám, so sánh đối chiếu giữa dự thảo Luật về Hội với Luật doanh nghiệp có thể thấy tuy giữa chúng có những điểm rất khác nhau (một đằng về kinh tế, một đằng phi kinh tế), nhưng cũng có những điểm chung đó đều là quyền tự do của con người. Đã là quyền của tôi thì về nguyên tắc có thể được thực hiện mà không phải xin phép nếu như việc thực hiện không vi phạm đến quyền và lợi ích của người khác. Trong thực tế, quyền tự do lập hội đã quy 41 GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG định trong luật dân sự cho nên không nhiều quốc gia có luật riêng về hội. Trong trường hợp cần có một luật riêng, thì ít nhiều cũng phải soi chiếu với luật doanh nghiệp. Kinh nghiệm xây dựng luật doanh nghiệp cho thấy sau một thời gian dài tranh cãi giữa các bộ chủ quản và các doanh nghiệp về các loại giấy phép lớn, giấy phép con, thời gian gần đây đã thống nhất được một số loại hình kinh doanh không phải đăng ký. Tương tự, có rất nhiều hiệp hội trong xã hội hiện nay không nên bắt buộc phải đăng ký, cụ thể như hội đồng môn (cùng học), hội đồng hương (cùng quê)... Thứ chín, nên bỏ Điều 10 dự thảo về ban vận động thành lập hội vì nó làm cho việc thành lập hội coi như phải đăng ký hai lần, vì thế cản trở việc thành lập hội của người dân. 42 LUẬT VỀ HỘI VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN PGS.TS. Bùi Xuân Đức* Cùng với quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình, thì quyền tự do lập hội là quyền tự do chính trị cơ bản của công dân, được ghi nhận không những trong các văn kiện quốc tế mà cả trong các bản Hiến pháp nước ta. Điều 25 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Mỗi cá nhân đều có quyền thể hiện những điều mà mình nghĩ, có quyền liên kết tự do với nhau quanh từng vấn đề xã hội, tôn giáo, chính trị, văn hóa, trước hết là để thể hiện và thực hiện lợi ích của mình, tự mình hỗ trợ, giải quyết những công việc mà không cần thông qua nhà nước. Đồng thời thông qua đó, bằng các tổ chức xã hội được thành lập và là tiếng nói của những người dân được tập hợp lại với nhau để tạo thành một sức mạnh, cùng Nhà nước thực hiện những mục tiêu của hệ thống chính trị, để kiểm soát sự lạm quyền, để bảo vệ mình, để chống lại những tiêu cực trong xã hội như tham nhũng, nhũng nhiễu, quan liêu, hách dịch, cửa quyền từ phía bộ máy công quyền. Nhà nước ghi nhận và tôn trọng quyền này trước hết là đảm bảo quyền lợi của các cá nhân, nhưng suy cho cùng là để phát huy vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội. Do vậy, cùng với quy định của Hiến pháp về quyền lập hội, cần thiết phải ban hành luật để tạo cơ sở pháp lý cụ thể, đầy đủ cho công dân thực hiện quyền này. ____________________ *Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Mặt trận, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.43 PGS.TS. BÙI XUÂN ĐỨC Từ khi thành lập nước đến nay nước ta mới chỉ có một luật và nay vẫn đang hiện hành là Sắc lệnh số 102/SL - L004 ngày 20-5-1957 (văn bản có tính chất luật) quy định về quyền lập hội. Từ đó đến nay, mặc dù Hiến pháp đã có nhiều lần ban hành mới nhưng không có một luật nào thêm về vấn đề này. Trong thời gian đó, phục vụ nhu cầu quản lý hội, Chính phủ có ban hành một số Nghị định quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội như: Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30- 7-2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21-4-2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13-4-2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Mục đích ban hành Luật về Hội hay Luật về lập hội là nhằm: 1) quy định cụ thể để thực hiện quyền lập hội như Điều 25 Hiến pháp đã quy định; 2) phát huy vai trò của hội trong đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị của đất nước; và 3) thực hiện quản lý Nhà nước về hội. Luật này không phải là Luật về tổ chức và hoạt động của hội vì đó là thuộc phạm vi của Điều lệ của hội điều chỉnh. 1. LUẬT VỀ HỘI HAY LUẬT VỀ LẬP HỘI Về tên gọi, luật này nên được gọi tên là Luật về lập hội, để nêu bật lên được quyền và sự tự chủ của người dân khi tham gia vào việc lập, quản lý hoạt động của hội, thể hiện trong các nội dung: điều kiện thành lập hội, quyền nghĩa vụ của hội, xử lý trách nhiệm đối với hội và sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước đối với hội. Nói cách khác, nội dung của Luật phải theo hướng tạo điều kiện, thúc đẩy quyền được lập hội của công dân, và tạo điều kiện cho các hoạt động của hội được độc lập, tự chủ, không nên thiết lập các quy định mang tính hành chính nhà nước cho các hoạt động thành lập, tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội. Nhớ lại Sắc lệnh số 102/ SL-L004 ngày 20-5-1957 44 LUẬT VỀ HỘI VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban bố luật quy định quyền lập hội đã được Quốc hội biểu quyết trong khoá họp thứ VI mang tên Luật quy định quyền lập hội. 2. VỀ PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT Thứ nhất, nói luật về quyền lập hội tức nói đến các hình thức hội mà công dân, cá nhân có quyền lập ra và hoạt động. Vậy đó là tổ chức nào? Xã hội hiện đại ngày nay gọi chung đó là các tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội (hay hội) hiện nay ở nước ta được hiểu là “tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (theo Nghị định 45/NĐ CP ngày 21/4/2010). Dự thảo lần thứ 11 Luật về Hội năm 2011 nêu định nghĩa ngắn gọn hơn: “Hội là tổ chức tự nguyện, bao gồm những người có cùng nhu cầu, mục đích, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng; góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Dự thảo mới nhất năm 2015 có một số tu chỉnh: “Hội là tổ chức tự nguyện, của công dân, tổ chức Việt Nam có tôn chỉ, mục đích phù hợp với quy định của pháp luật, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, đoàn kết. giúp đỡ nhau, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Hội có các tên gọi khác nhau: hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật. Hội đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của hội; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của hội; tổ chức, phối hợp hoạt động giữa 45 PGS.TS. BÙI XUÂN ĐỨC các hội viên vì lợi ích chung của hội; hòa giải tranh chấp trong nội bộ hội; phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên; cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật). Như vậy, phạm vi hội theo nghĩa này loại trừ các đảng phái chính trị. Vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật về hội hay không? Hiện nay đang có quan điểm cho rằng Luật này không áp dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và năm tổ chức được gọi là “tổ chức chính trị - xã hội” hay “đoàn thể nhân dân”, “đoàn thể chính trị - xã hội” là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam với lý do: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 9 Hiến pháp 2013) - tức MTTQ Việt Nam không phải là một tổ chức xã hội và đương nhiên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật mà được điều chỉnh bằng luật riêng - Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Còn Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là những tổ chức quần chúng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân (chủ yếu là lao động như công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ là lực lượng nòng cốt trong nhân dân) được Đảng tập hợp và lãnh đạo, cùng với Đảng tiến hành đấu tranh giành và và sau đó là giữ, xây dựng chính quyền cách mạng. Đây là những 46 LUẬT VỀ HỘI VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN tổ chức quần chúng gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, không phải là một tổ chức xã hội đơn thuần (tuy chúng cũng có tính xã hội) mà là một tổ chức gắn liền với hoạt động quyền lực (hoạt động chính trị - tham chính). Hiện tại đó là các tổ chức: Tổng Liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh. Các tổ chức này là thành tố của hệ thống chính trị nước ta, cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chúng được coi là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân hiện được Hiến pháp xác định là “là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” (Điều 9 Hiến pháp) và vì vậy (nên) cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Về mặt này, theo chúng tôi, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật về Hội là điều dễ hiểu. Riêng việc coi năm tổ chức gọi là chính trị- xã hội cũng đặt riêng ra thì có nhiều điều băn khoăn cần nói: Một, năm tổ chức này là những hình thức tập hợp rộng rãi nhất của công dân và cũng có chức năng nhiệm vụ đáp ứng các nhu cầu tập hợp chính đáng nhất của công dân, cá nhân thành ra mang tính xã hội rõ rệt. Nếu không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thì ý nghĩa của luật không còn bao nhiêu; Hai, việc coi đây là tổ chức vừa có tính chính trị vừa có tính xã hội để cho nó có vị trí đặc biệt như vậy chưa hẳn đã đúng về mặt lý luận. Theo lý luận, các tổ chức trong xã hội chỉ có thể phân biệt thành tổ chức chính trị - tức tổ chức thực thi hoặc tranh giành quyền lực nhà nước và tổ chức xã hội - tổ chức do các cá nhân tập hợp lại để thể hiện lợi ích và đấu tranh bảo vệ quyền lợi của các cá nhân (đấu tranh với những sai trái, lạm quyền của công quyền) chứ không thể có một tổ chức mà mang hai tính chất đối lập nhau như vậy. Ở các nước tư bản, 47 PGS.TS. BÙI XUÂN ĐỨC đảng phái chính trị ra đời gắn liền với đấu tranh nghị trường, với bầu cử. Đảng chính trị được thành lập để tham gia tranh cử giành quyền cầm quyền trong Nhà nước. Đối với chế độ XHCN, Đảng Cộng sản ra đời để đấu tranh giành chuyên chính vô sản, tức cũng nhằm đạt được sự cầm quyền. Không tranh cử để cầm quyền (ở các nước tư bản), không nhằm giành và thực hiện chuyên chính vô sản (đối với Đảng Cộng sản) thì không phải đảng chính trị. Còn đối với tổ chức xã hội, mục đích chính là liên kết hội viên, đoàn viên để thể hiện lợi ích và bảo vệ quyền lợi của mình mà thôi. Tham gia vào hoạt động chính trị cũng là để bảo vệ chứ không phải “làm chính trị” theo đúng nghĩa của từ này. Thuật ngữ “tổ chức chính trị - xã hội” lúc đầu xuất hiện trong sách báo có nguồn gốc Liên Xô là chỉ chung các tổ chức chính trị và các tổ chức xã hội được viết ghép lại, giống như “chính sách văn hóa - xã hội “ = “chính sách văn hóa và chính sách xã hội” chứ không phải để chỉ một tổ chức vừa mang tính chính trị vừa mang tính xã hội như vậy. Thậm chí sách báo Liên Xô thời bấy giờ chỉ coi Nhà nước mới là tổ chức chính trị còn các tổ chức khác, kể cả Đảng Cộng sản, đều là tổ chức xã hội. Ba, hiện ngoài 5 tổ chức nói trên, có một số tổ chức xã hội khác đang được đề nghị cũng là tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật, Hội Người cao tuổi Việt Nam... Với xu thế này sẽ ngày càng phá vỡ tính xã hội của các tổ chức xã hội và hậu quả là làm biến thái tính chất và quyền lập hội của công dân. Do vậy, không nên tách riêng năm tổ chức hiện được gọi là “tổ chức chính trị - xã hội” theo cơ chế quản lý riêng, mà phải trả lại đúng tên tổ chức xã hội cho các tổ chức này và đưa vào điều chỉnh chung trong luật về lập hội. Thứ hai, các quỹ, trung tâm, viện nghiên cứu (không do hội thành lập) và các tổ chức phi chính phủ có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật hay không? Đây cũng là một vấn đề cần được cân nhắc kĩ lưỡng, liệu có cần một quan điểm đầy đủ hơn trong cách hiểu về hội hay không? Nếu 48 LUẬT VỀ HỘI VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN loại trừ các tổ chức phi chính phủ, quỹ, viện, trung tâm độc lập thì sẽ loại trừ đi một số thành tố quan trọng của xã hội. Theo chúng tôi, Luật về hội cần phải điều chỉnh cả đối với các đối tượng này và khái niệm về hội được hiểu theo hướng “hội có thể có hội viên hoặc không có hội viên”. Thứ ba, vấn đề tư cách pháp nhân của hội có nên phải đặt ra không? Dự thảo Luật quy định hội bao gồm hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân. Hội không có tư cách pháp nhân là hội chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật. Thực tế, theo quy định hiện hành không phải bất cứ tổ chức nào đăng ký thành lập hoạt động với cơ quan nhà nước cũng đồng thời có tư cách pháp nhân (ví dụ như doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, một số hội quần chúng đăng ký hoạt động nhưng không có tư cách pháp nhân...). Do vậy, nếu quy định hội không có tư cách pháp nhân chỉ là những hội chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động là chưa thực sự đầy đủ. Việc điều chỉnh đối với cả hội không có tư cách pháp nhân dễ dẫn đến tình trạng Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của các loại tổ chức hội. Do vậy, không nên quy định nội dung này, mà hội chỉ cần đáp ứng tiêu chí hội theo quy định chung là đủ Thứ tư, hội có bao hàm cả của cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam không? Trên thực tế đã có nhiều hiệp hội được thành lập theo tinh thần Nghị định số 08/1998/NĐ-CP ngày 22/01/1998 của Chính phủ về quy chế thành lập hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Qua thông tin đánh giá của Bộ Nội vụ thì các hiệp hội này hoạt động đúng pháp luật, phát huy tác dụng tốt. Trong khi đó, nước ta cũng đã tham gia Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hợp quốc, trong đó có quy định “ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình” và “mọi người đều có quyền tự do hội họp và 49 PGS.TS. BÙI XUÂN ĐỨC lập hội một cách hoà bình”. Như vậy, công dân của các nước khi cư trú hợp pháp tại nước đã ký kết tham gia Công ước thì có quyền lập hội tại các nước này. Nếu chúng ta không quy định vấn đề này thì công dân nước ngoài, đặc biệt là công dân của nước đã ký Công ước không được quyền lập hội tại Việt Nam. Điều này có thể sẽ dẫn đến ý kiến cho rằng không cho phép người nước ngoài có quyền thành lập hội ở Việt Nam đồng nghĩa với việc chúng ta không quản lý, giám sát được hoạt động của họ theo pháp luật. Vì vậy, Luật về hội cần điều chỉnh cả những đối tượng này. Thứ năm, cần quy định một yếu tố quan trọng khi xác định một tổ chức là “hội”, đó là “hoạt động thường xuyên, liên tục”. Bởi vì, tính thường xuyên và liên tục trong hoạt động là tiêu chí quan trọng để thể hiện sự tồn tại của “hội”, tránh trường hợp, nhiều tổ chức được thành lập và hoạt động một thời gian, sau đó hầu như chỉ hoạt động mang tính chất “cầm chừng”. 3. NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VÀ BỐ CỤC CỦA LUẬT VỀ LẬP HỘI Với tinh thần phạm vi điểu chỉnh như trên, chúng tôi đề nghị Bố cục của dự án Luật cần tập trung vào quy định các nội dung như đã chỉ ra là: điều kiện thành lập hội, quyền và nghĩa vụ của hội, những bảo đảm của Nhà nước để hội hoạt động, xử lý vi phạm, quản lý nhà nước đối với hội, còn tránh sa vào quy định các nội dung thuộc về tổ chức và hoạt động của hội là thuộc phạm vi của Điều lệ hội quy định. Cụ thể là: - Chương I - Những quy định chung Tập trung quy định về khái niệm, tính chất hội, điều kiện thành lập hội. Khái niệm hội phải bao hàm tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội đang gọi hiện nay trừ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - là tổ chức liên minh chính trị, không phải là hội nên có quy định riêng. - Chương II - Quyền của hội Đây là nội dung rất quan trọng cần quy định riêng chứ không 50 LUẬT VỀ HỘI VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN phải chỉ trong mục “Tổ chức hoạt động của hội” như các Dự thảo Luật về Hội đưa ra gần đây. Nói quyền của Hội là chủ yếu nói tới những quy định cho phép hội được tham gia các hoạt động xã hội, tham gia hoạt động nhà nước, quan hệ đối ngoại. - Chương III - Nghĩa vụ của hội Tương tự như quyền, phải quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của hội đặc biệt là nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước tôn chỉ mục đích của hội, các nghĩa vụ, trách nhiệm xã hội của hội. - Chương IV - Chính sách của Nhà nước đối với hội Hiến pháp quy định: “Nhà nước tao điều kiện để Mặt trận Tổ quốc ̣ Việt Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động”. Do vậy đây là nội dung quan trong mà Luật cần thể hiện. - Chương V- Các hành vi bị nghiêm cấm và xử lý trách nhiệm Nội dung này cần quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm như lợi dụng quyền lập hội để hoạt động nguy hại lợi ích nước nhà, lợi ích của nhân dân, chống chế độ, chia rẽ dân tộc, phá hoạt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phá hoại tình hữu nghị giữa các dân tộc; trường hợp vi phạm có thể bị xử lý dưới các hình thức thích hợp cho đến mức giải tán hội. Tuy nhiên, cần tránh quy định mơ hồ, khó xác định ranh giới giữa hành vi hợp pháp và bất hợp pháp, tránh sự tùy tiện, gây ảnh hưởng đến quyền công dân trong thực tiễn áp dụng luật. - Chương VI - Quản lý Nhà nước về hội Quản lý Nhà nước về hội (quy định thủ tục thành lập, đăng ký thành lập hội, hướng dẫn hoạt động, thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm...) là cần thiết. Tuy nhiên, cần thể hiện sự coi trọng vai trò quan trọng của các hội trong sự phát triển của xã hội, do đó rất nên được tạo điều kiện để phát triển chứ không phải để quản lý chặt./. 51 BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN THÔNG QUA LUẬT VỀ HỘI GS.TS. Thái Vĩnh Thắng* 1. VỀ KHÁI NIỆM HỘI Khái niệm “hội” trong tiếng Anh và tiếng Pháp tuy phát âm khác nhau nhưng đều viết là “Association”. Trong tiếng Pháp được định nghĩa là sự liên kết nhiều người vì một lợi ích chung (Union des per sonnes dans un interet commun)41, trong tiếng Anh được định nghĩa là một nhóm người công khai liên kết vì một mục đích đặc biệt (an offi cial group of people who have joined together for a particular purpose)42. Như vậy, khái niệm hội cần được hiểu một cách đơn giản đó là sự liên kết một số người vì công việc hoặc mục đích, lợi ích chung nào đó. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều không thừa nhận một tổ chức là hội nếu tổ chức đó được thành lập vì mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Nếu các cá nhân liên kết với nhau vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận thì tạo ra tổ chức kinh tế là doanh nghiệp, công ty và hoạt động theo luật doanh nghiệp, luật thương mại. Ở Việt Nam, ngoài Đảng Cộng sản còn có những hội đặc biệt vừa mang tính xã hội vừa mang tính chính trị như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của nó là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là những hội được ngân sách nhà nước chu ____________________ * Nguyên Chủ nhiệm Khoa Hành chính-Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội. 41. Dictionnaire encyclopedique de la langue Francaise,edition ALPHA, 2004,p.83. 42. Oxford advanced learner,s Dictionary, Oxford University Press,2000, p.62. 52 BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN THÔNG QUA LUẬT VỀ HỘI cấp cho hoạt động nên cũng không thể điều chỉnh theo Luật về hội được. Vậy chỉ còn lại những liên kết tự nguyện của các cá nhân không vì mục đích lợi nhuận, tự quản và tự chủ về tài chính, và không phải cơ quan, tổ chức của chính phủ (non- government organization). Đó có thể là các hội từ thiện, hội khuyến học, hội nghề nghiệp (hội nhà báo, hội nhà văn, hội kiến trúc sư, hội luật gia, hội những người làm vườn), hội những người có chung sở thích như các câu lạc bộ bóng đá, quần vợt, cờ vua, cờ tướng...) Như vậy với Luật về hội, chúng ta phải hiểu “hội” theo nghĩa hẹp đó là các tổ chức thuần túy dân sự (phi nhà nước), không có tính chất kinh doanh (tìm kiếm lợi nhuận để chia cho các thành viên). Vì quyền lập hội là quyền cơ bản của con người và công dân, quyền này còn được Tòa án Tối cao Hoa Kỳ coi là một phần cơ bản của quyền tự do ngôn luận, vì trong nhiều trường hợp người ta chỉ thực hiện quyền này có hiệu quả khi kết hợp với người khác.43 Điều 18 Hiến pháp Italia năm 1947 quy định: “Công dân có quyền tự do lập hội không cần sự cấp phép nào miễn là mục đích thành lập hội không bị cấm trong pháp luật hình sự”.44 Luật về Hội của Ba Lan năm 1989 (Law on associations, 7 April 1989) quy định: “Hội là sự liên kết tự nguyện, tự quản, bền vững và không vì mục đích lợi nhuận”45. Ở Việt Nam chúng ta từ khi quyền hội họp và lập hội được quy định trong Hiến pháp 1946 (Điều 10) và trong luật quy định về quyền lập hội năm 1957 (Điều 2), các hội khác nhau đã được thành lập và hoạt động. Theo quy định tại Điều 2 Luật quy định về quyền lập hội năm 1957, mọi người đều có quyền lập hội trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp ____________________ 43. United States Court held in NAASP v, Alabama that the freedom of association is an essential part of the freedom of speech because, in many cases, people can engage in effec tive speech only when they join of others. 44. Citizen have the right to form association freely and without authorization for those ends that are not forbidden by criminal law. 45. An association is a voluntary self-governed and lasting non-profit union.53 GS.TS. THÁI VĨNH THẮNG luật. Mặc dù Điều 3 Luật quy định về quyền lập hội năm 1957 đã quy định: “Để đảm bảo việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép”, tuy nhiên hạn chế của Luật năm 1957 là không phân biệt hội có tư cách pháp nhân, hội không có tư cách pháp nhân, hội cần thiết phải đăng ký thành lập và hội không cần phải đăng ký thành lập. Trên thực tế có rất nhiều hội đã được thành lập mà không đăng ký và cũng không cần sự cho phép và sự quản lý nhà nước nào. Đó là các hội đồng hương, hội đồng môn, các câu lạc bộ thơ, các hội làm vườn, hội nuôi chim, hội cây cảnh tự thành lập, tự hoạt động, tự trang trải mà không ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của xã hội nên trên thực tế cũng không cần một sự quản lý, sự can thiệp nào xuất phát từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Mặc dù Luật về Hội năm 1957 cho đến nay đã tồn tại được 59 năm, tuy nhiên chưa có bổ sung, sửa đổi nào đối với luật này nên nhiều quy định đã không còn phù hợp với yêu cầu các hội đa dạng đang nảy nở ở Việt Nam. Việc ban hành luật mới về hội hiện nay là nhu cầu cấp bách của đời sống xã hội, nhất là để triển khai thực hiện các quy định về quyền con người và quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013. Khái niệm “Hội” trong dự thảo luật về hội được xác định như sau: “Hội theo quy định của luật này là tổ chức tự nguyện của công dân, pháp nhân Việt Nam hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, đoàn kết, giúp đở nhau, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, góp phần xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,văn minh”. Quy định như trên vừa thừa vừa thiếu, thừa vì pháp nhân cũng là sự liên kết của cá nhân, thiếu vì quyền lập hội là quyền con người chứ không chỉ riêng của công dân. Theo tôi nên quy định lại như sau: “Hội theo quy định của luật này là sự liên kết tự nguyện, bền vững của các cá nhân, vì một lợi ích chung ngoài mục đích lợi nhuận”. Quy định như vậy là ngắn gọn, dể hiểu và không rườm rà. 54 BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN THÔNG QUA LUẬT VỀ HỘI 2. VỀ CẤU TRÚC CỦA DỰ LUẬT Dự luật có 8 chương, 37 điều, so với Luật quy định về quyền lập hội năm 1957 đã tăng thêm 25 điều. Theo chúng tôi, luật nên ngắn gọn như cách đây 59 năm các luật gia tiền bối đã làm, không nên quá rườm rà không cần thiết, làm loãng nội dung cơ bản của luật là đảm bảo quyền lập hội cho con người và công dân. Theo chúng tôi, dự luật chỉ nên có cấu trúc ngắn gọn như sau: Điều 1: Định nghĩa về hội Điều 2: Mọi người đều có quyền lập hội Điều 3: Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hội; Điều 4: Phân loại hội Điều 5: Các hội không có tư cách pháp nhân Điều 6: Các hội có tư cách pháp nhân Điều 7. Cách thức thành lập hội có tư cách pháp nhân Điều 8. Điều lệ hội Điều 9. Cơ quan lãnh đạo hội Điều 10. Những điều cấm đối với các hội Điều 11.Quản lý nhà nước về hội Điều 12. Hợp nhất, sát nhập, chia tách, giải thể hội Điều 13. Tài sản, tài chính của hội Điều 14. Giải thích luật Điều 15. Hiệu lực thi hành 3. VỀ NỘI DUNG CỦA DỰ LUẬT 3.1. Quyền lập hội là quyền cơ bản của con người Trước hết cần quán triệt quan điểm quyền lập hội là quyền cơ bản của con người chứ không phải riêng của công dân. Điều 20 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình”. Điều 22 55 GS.TS. THÁI VĨNH THẮNG Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng đã quy định: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”. Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1982, vì vậy cần phải nội luật hóa quy định này trong luật về hội. 3.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội Chúng tôi nhất trí với các nguyên tắc đã được xây dựng trong dự thảo luật là: - Nguyên tắc tự nguyện, tự quản; - Nguyên tắc tự chủ kinh phí hoạt động; - Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, minh bạch; - Nguyên tắc hoạt động không vì mục đích lợi nhuận; - Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ hội; Ngoài ra chúng tôi đề nghị bổ sung: - Nguyên tắc không xâm phạm lợi ích nhà nước, dân tộc, không vi phạm các quyền con người và công dân. Các nguyên tắc này giúp chúng ta phân biệt hội với doanh nghiệp/các tổ chức kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội được hưởng ngân sách nhà nước. 3.3. Phân loại hội Thực tiễn cho thấy các hội ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Có hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc như các hội khoa học và kỹ thuật, hội nhà báo, hội nhà văn, hội luật gia..., có hội hoạt động trong pham vi tỉnh, liên tỉnh, huyện, liên huyện, xã, liên xã, có hội chỉ hoạt động trong phạm vi thôn, xóm, dòng tộc, hay chỉ trong khôn khổ những người bạn cùng lớp phổ thông hoặc đại học, có hội có rất đông thành viên như Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (có khoảng 1,8 triệu hội viên), hay Hội Luật gia Việt Nam (có khoảng 40.500 hội 56 BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN THÔNG QUA LUẬT VỀ HỘI viên), nhưng có hội chỉ khoảng 15, 20, 30 thành viên như các hội đồng môn, hội đồng hương xã, các câu lạc bộ bóng đá, quần vợt, cờ vua, cờ tướng. Sự đa dạng như vậy đòi hỏi có sự phân loại để nhà nước có thể quản lý dễ dàng hơn. Theo chúng tôi, có thể phân chia hội theo các tiêu chí sau đây: - Các hội có mục đích từ thiện như Hội giúp đỡ trẻ mồ côi, Hội giúp đỡ người nghèo, Hội khuyến học (xếp vào nhóm hội từ thiện); - Các hội liên kết những người có chung nghề nghiệp (gọi là hội nghề nghiệp), như Hội luật gia, Hội nhà văn, Hội nhà báo, Hội kiến trúc sư... - Các hội liên kết những người có hoàn cảnh giống nhau như Hội người mù, Hội nạn nhân chất độc màu da cam, Hội đồng hương, Hội bảo vệ người tiêu dùng... - Các hội liên kết những người cùng sở thích, như các câu lạc bộ khiêu vũ, bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, quần vợt (có thể xếp vào các hội văn hóa thể thao). Mặc dù về tính chất xã hội có thể phân định thành nhiều hội khác nhau, tuy nhiên về mặt pháp lý chỉ nên phân thành hai loại là hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân. 3.3.1 Hội không có tư cách pháp nhân Hội không có tư cách pháp nhân là những hội không có trụ sở hoạt động cố định, không đăng ký thành lập, không có con dấu riêng. Các hội không có tư cách pháp nhân có thể là các hội đồng hương, hội đồng môn, các câu lạc bộ thể thao, các hội nhỏ của những người thích du lịch, săn bắn, văn nghệ, giải trí... 3.3.2 Hội có tư cách pháp nhân Hội có tư cách pháp nhân là những hội có tài sản chung, có trụ sở hoạt động, có cơ quan đại diện, có điều lệ hội và có đăng ký thành lập, có con dấu của hội. 57 GS.TS. THÁI VĨNH THẮNG Việc xác lập tư cách pháp nhân của hội là rất quan trọng vì chỉ có các hội có tư cách pháp nhân mới có thể tham gia các giao dịch dân sự và chịu trách nhiệm pháp lý về các giao dịch đó. 4. KIẾN NGHỊ DỰ THẢO MỚI Do dự thảo Luật về Hội do Bộ Nội vụ soạn thảo còn nặng về khía cạnh quản lý, quy định quá sâu về khía cạnh tổ chức, làm hạn chế tính độc lập và tự chủ, tự quản của hội nên chúng tôi xin kiến nghị dự thảo mới sau đây: DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI Điều 1: Định nghĩa về hội Hội là liên kết tự nguyện, tự quản, tự chủ tài chính, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận của các cá nhân. Điều 2: Mọi người đều có quyền lập hội Mọi người đều có quyền lập hội, trừ những người mất quyền dân sự hoặc đang bị truy tố trước pháp luật. Điều 3: Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hội Hội được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau đây: - Nguyên tắc tự nguyện được hiểu là không ai bị ép buộc phải gia nhập hoặc ra khỏi hội; - Nguyên tắc tự quản được hiểu là việc thành lập, bầu lãnh đạo và duy trì các hoạt động của hội hoàn toàn do các thành viên của hội quyết định, không có sự can thiệp của nhà nước hoặc các tổ chức khác; - Nguyên tắc tự chủ tài chính được hiểu là kinh phí hoạt động của hội là do các thành viên của hội và hội tự trang trải. - Nguyên tắc hoạt động không vì mục đích lợi nhuận được hiểu là hội không tìm kiếm lợi nhuận để phân chia cho các hội viên. Lợi nhuận, nếu có trong quá trình hoạt động của hội được dành cho các hoạt động của hội theo quy định của điều lệ. 58 BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN THÔNG QUA LUẬT VỀ HỘI - Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, minh bạch được hiểu là cơ quan lãnh đạo của hội phải do đại hội toàn thể thành viên bầu ra, các thành viên của hội đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, các khoản thu, chi về tài chính và các hoạt động của hội đều phải công khai cho các thành viên của hội được biết. - Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không làm thiệt hại đến quyền lợi của nhà nước, xã hội, quyền con người và công dân. Điều 4: Phân loại hội Các hội được phép hoạt động có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân. Điều 5: Các hội không có tư cách pháp nhân Các hội không có trụ sở hoạt động thường xuyên, không có con dấu riêng và không đăng ký hoạt động là các hội không có tư cách pháp nhân. Điều 6: Các hội có tư cách pháp nhân Các hội có tư cách pháp nhân là các hội có tên gọi, có tài sản độc lập, có trụ sở hoạt động, có ban lãnh đạo, có đăng ký thành lập, có con dấu riêng. Điều 7. Cách thức thành lập hội có tư cách pháp nhân Để đăng ký thành lập hội, người đăng ký thành lập phải thực hiện các thủ tục sau đây: 1. Làm tờ khai đăng ký thành lập hội. Tờ khai có chứa các thông tin sau đây: - Tên đầy đủ và tên viết tắt (nếu có) của hội; - Mục đích thành lập hội; - Địa chỉ của trụ sở chính của hội; - Họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ của những người trong ban lãnh đạo hội; - Danh sách các thành viên của hội; 59 GS.TS. THÁI VĨNH THẮNG - Điện thoại, địa chỉ mail của hội; - Dự thảo Điều lệ hội (đính kèm tờ khai). 2. Gửi tờ khai cho UBND xã nếu hội hoạt động trong phạm vi xã, gửi cho UBND huyện nếu hội hoạt động trong phạm vi huyện, gửi cho UBND tỉnh nếu hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, gửi cho Bộ Nội vụ nếu hội hoạt động trong phạm vi nhiều tỉnh hoặc toàn quốc. 3. Nhận quyết định công nhận hội từ nhà chức trách (thời gian không quá 10 ngày kể từ ngày gửi Tờ khai đăng ký thành lập hội). Điều 8. Điều lệ hội Điều lệ hội phải thể hiện các nội dung cơ bản sau đây: - Tên đầy đủ và tên viết tắt (nếu có) của hội; - Địa chỉ trụ sở của hội, điện thoại và địa chỉ mail của hội; - Tôn chỉ, mục đích, lĩnh vực và phạm vi lãnh thổ hoạt động của hội; - Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội; - Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hội; - Quyền và nghĩa vụ của hội viên; - Cách thức bầu cử thành lập Ban lãnh đạo hội; - Nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo hội; - Hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đổi tên, giải thể, thanh quyết toán tài sản, nguyên tắc quản lý và sử dụng ngân sách của hội; - Cách thức hoạt động của hội. Điều 9. Cơ quan lãnh đạo hội Cơ quan lãnh đạo hội do đại hội toàn thể thành viên của hội bầu ra, thành phần và nhiệm kỳ của cơ quan lãnh đạo hội do điều lệ hội quy định. Điều 10. Những điều cấm đối với các hội Hoạt động của hội không được xâm hại đến lợi ích nhà nước, xã hội và quyền con người, quyền công dân. 60 BẢO ĐẢM QUYỀN LẬP HỘI CỦA CÔNG DÂN THÔNG QUA LUẬT VỀ HỘI Điều 11. Quản lý nhà nước về hội 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hội trong phạm vi cả nước. 2. Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quản lý nhà nước về hội theo sự phân công của Thủ tướng. 3. Ủy ban Nhân dân Tỉnh chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các hội hoạt động trong phạm vi của một tỉnh, hoặc liên huyện. 4. Ủy ban Nhân dân Huyện chịu trách nhiệm quản lý nhà nước trong phạm vi một huyện hoặc liên xã; 5. Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động của hội trong phạm vi một xã. Điều 12. Hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể hội Việc hợp nhất, sáp nhập, chia tách và giải thể hội được thực hiện theo nghị quyết của hội với sự đồng ý của ít nhất 2/3 tổng số hội viên và phải được sự phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền quản lý hội. Điều 13. Tài sản, tài chính của hội Tài sản của hội được hình thành từ lệ phí và các khoản đóng góp của các thành viên, các khoản tài trợ, hiến, tặng của cá nhân và tổ chức ở trong nước và nước ngoài hoặc các hoạt động của hội mà có. Điều 14. Giải thích luật Trong quá trình tổ chức và hoạt động của các hội nếu xuất hiện các cách hiểu khác nhau về quy định của luật này thì theo yêu cầu của ít nhất năm hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm ban hành pháp lệnh để giải thích. Điều 15. Hiệu lực thi hành Luật này có hiệu lực từ ngày... tháng.... năm....../. 61 MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI NHÌN TỪ PHÍA TỔ CHỨC HỘI TS. Phạm Văn Tân* Hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, số lượng các hội được lập gia tăng nhanh chóng. Với môi trường dân chủ, cởi mở, hội nhập, các hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, xã hội hoá ngày càng cao, việc thành lập và phát triển hội thực sự là yêu cầu của thực tiễn đời sống và là xu thế tất yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do, dân chủ, sáng tạo của người dân và xã hội. Việc xây dựng, hoàn thiện một đạo luật để điều chỉnh các hoạt liên quan đến hội là việc làm rất cần thiết. Từ năm 2006, thực hiện Nghị quyết số 49/2005/QH của Quốc hội, Chính phủ đã giao cho Bộ Nội vụ chủ trì xây dựng dự thảo Luật về Hội. Sau nhiều lần bổ sung, sửa đổi nội dung, Bộ Nội vụ được Chính phủ ủy quyền đã trình Dự thảo Luật tại kỳ họp thứ 9 khóa XI. Do chưa thống nhất những nội dung của Dự thảo và vì những lý do khác liên quan đến phạm vi điều chỉnh của Luật nên Quốc hội chưa xem xét thông qua Luật về Hội. Năm 2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp. Điều 25 của Hiến pháp đã ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Vì vậy, Quốc hội đã đưa Luật về quyền lập hội vào chương trình xây dựng luật năm 2015, trên cơ sở đó Chính phủ đã giao cho Bộ Nội vụ chủ trì xây dựng dự thảo Luật về Hội là phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. ____________________ *Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA).62 MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI NHÌN TỪ PHÍA TỔ CHỨC HỘI I. VỀ SỰ CẦN THIẾT, CÁC QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI Thời gian qua, căn cứ vào Sắc lệnh 102/SL/L004 ngày 29/5/1957, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định như Nghị định số 88/2003/NĐ-CP, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, Nghị định số 33/2012/NĐ-CP,... dù các văn bản hướng dẫn Sắc lệnh đã tác động mạnh đến sự phát triển của các hội, song các văn bản đó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, một số nội dung quy định trong các nghị định này chưa phù hợp với nhiều vấn đề nẩy sinh trong thực tế, chưa bắt kịp với xu thế mở rộng dân chủ và phát huy nguồn lực từ xã hội. Vì vậy, căn cứ vào Hiến pháp năm 2013, kế thừa nhiều nội dung của Sắc lệnh số 102, Bộ Nội vụ nêu ra nhiều căn cứ, quan điểm, nguyên tắc rất thỏa đáng để xây dựng Dự thảo Luật về Hội. Chúng ta hoàn toàn đồng tình với 5 điểm nêu về sự cần thiết, 3 quan điểm và 3 nguyên tắc trong Tờ trình của Bộ Nội vụ về Dự thảo Luật, đó là: 5 điểm về sự cần thiết: 1- Đảng ta xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng chú trọng lãnh đạo, định hướng tổ chức, hoạt động của hội quần chúng. Bối cảnh mới đòi hỏi phải thay thế Sắc lệnh số 102 bằng một đạo luật mới quy định về quyền lập hội của công dân. 2- Quốc hội đã đưa Luật về quyền lập hội vào chương trình xây dựng luật năm 2015. 3- Nhiều nghị định được ban hành tạo sự chồng chéo do đó cần xây dựng Luật về Hội để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ. 4- Một số văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chinh phủ ban hành phát sinh nhiều vướng mắc, bất cập, không hợp lý không còn phù hợp với tình hình tổ chức và hoạt động hội trong bối cảnh hiện nay. 63 TS. PHẠM VĂN TÂN 5- Thực hiện Kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị về hội quần chúng, vì vậy cần xây dựng Luật về Hội để thể chế hóa đường lối của Đảng thành quy định của pháp luật. 3 quan điểm để xây dựng Luật: 1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hội quần chúng. 2- Tôn trọng nguyên tắc tổ chức và hoạt động hội: tự nguyện, tự quản, tự trang trải về kinh phí. 3- Nhà nước tạo điều kiện cho hội hoạt động nhằm phát huy vai trò của hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo về tổ quốc. 3 nguyên tắc để xây dựng Luật: 1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức quần chúng. 2- Bảo đảm quyền lập hội của công dân theo Hiến pháp, tạo điều kiện cho hội hoạt động, thực hiện đơn giản hóa về thủ tục lập hội. 3- Bảo đảm sự kế thừa và tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật và quản lý hội phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung của Dự thảo Luật về hội và quá trình triển khai xây dựng dự thảo, nhất là cách thức tiếp cận các đối tượng bị điều chỉnh trực tiếp bởi Luật, các tham vấn các bên có liên quan cho thấy nội dung Dự thảo Luật về hội còn khá với các căn cứ, quan điểm, nguyên tắc nêu trên. Nhiều vấn đề chưa tìm được tiếng nói chung giữa cơ quan chủ trì soạn thảo Luật và các đối tượng bị điều chỉnh bởi Luật trong suốt quá trình xây dựng Dự thảo. II. VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ NỘI DUNG TRONG DỰ THẢO LUẬT 1. Cần tổng kết đánh giá Sắc lệnh 102/SL/L004 trước khi xây dựng Luật về Hội mới Luật về Hội là một đạo luật rất quan trọng, vì vậy, trước khi nghiên cứu xây dựng nội dung Dự thảo Luật về Hội cần tổng kết, đánh giá lại toàn diện việc thực hiện Sắc lệnh 102/SL/L004 ngày 64 MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI NHÌN TỪ PHÍA TỔ CHỨC HỘI 29/5/1957 về quyền lập hội vẫn còn hiệu lực trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới. Nên chăng cần có sự tổng kết đánh giá toàn diện về kết quả hoạt động của hội đóng góp vào sự phát triển của đất nước thay vì chỉ nêu được một số thông tin về số lượng hội và biên chế đã cấp cho các hội đặc thù và nhìn nhận hội được thành lập và hoạt động như là một gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Bộ Nội vụ mới chỉ tổ chức đánh giá việc thực hiện Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, Nghị định số 33/2012/NĐ-CP là nghị định hướng dẫn thực hiện Sắc lệnh số 102/SL/L004. Những nội dung của các Nghị định này chủ yếu tập trung vào các quy định về quản lý hội. Chính vì vậy, nhiều nội dung của Dự thảo Luật về Hội chưa thể hiện được việc tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của người dân. 2. Về việc thể hiện quan điểm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Trong Dự thảo không thấy thể hiện nội dung tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội là các tổ chức quần chúng mà đặt các hội vào thế phải thể hiện cho rõ tính tự nguyện, tự quản, tự tìm cách tồn tại. Không thể hiện được việc Đảng, Nhà nước phải dẫn dắt, tập hợp, giáo dục và phát huy sức mạnh của hội để góp phần vào công cuộc chấn hưng đất nước. Nếu Nhà nước phó mặc hoạt động hội theo tinh thần hoàn toàn tự quản, tự lo thì làm sao có thể lôi kéo được quần chúng thực hiện đường lối của Đảng? Trong bối cảnh của nước ta hiện nay, quá đề cao việc các hội hoạt động theo tinh thần tự nguyện, tự quản, tự tìm cách tồn tại mà thiếu vắng sự quan tâm từ phía nhà nước e rằng hội sẽ dễ bị các thế lực khác lôi kéo, mà không đúng con đường Đảng vạch ra. Dù là dưới hình thức tự nguyện, song việc tập hợp quần chúng đi theo con đường của Đảng thì chắc chắn đây phải được xem là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước đối với hội. Theo tinh thần đó, về mặt khách quan tất cả các hội đều thực hiện nhiệm vụ chính trị, dù trực tiếp hay gián tiếp, đó là tập hợp, đoàn kết lực lượng cùng sở thích, cùng nghề nghiệp, cùng chí hướng để phục vụ cho mục đích 65 TS. PHẠM VĂN TÂN cao cả là phục vụ đất nước, phục vụ mục tiêu dân giầu, nước mạnh đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, và phải được cấp, hỗ trợ, tạo điều kiện từ phía Nhà nước trên nhiều phương diện, kể cả nguồn lực vật chất. Hội dù dưới bất cứ hình thái nào đều mang tính chính trị, chỉ có điều là chính trị với bên nào mà thôi. Việc tầm thường hóa hội, quá lo lắng việc tồn tại của hội làm tăng gánh nặng cho ngân sách có thể dẫn đến sự tước đoạt quyền lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng. Dự thảo Luật có thể tạo sự bất bình đẳng đối với các hội do Đảng, Nhà nước thành lập hoặc chỉ đạo thành lập và giao nhiệm vụ được điều chỉnh trong luật. Trong giai đoạn hiện nay, văn bản của Đảng đã xác định có nhiều tổ chức hội là hội chính trị - xã hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp, nhiều hội có tổ chức đảng làm hạt nhân và giao cho tổ chức đó nhiệm vụ chính trị rất cụ thể lồng vào việc thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp của hội. Một số tổ chức đã được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật, một số tổ chức thì chưa được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật. Vì vậy, không thể không tạo sự không công bằng trong phạm vi điều chỉnh của luật đối với các hội có cùng tính chất chính trị - xã hội. Với những vấn đề rất đặc thù của các hội đó có thể cần được điều chỉnh bằng một đạo luật khác (thí dụ Luật quy định về các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp, hội có tổ chức đảng làm hạt nhân) mà không nên ghép chung vào luật này. Không nên tạo ra tình trạng trong luật về hội lại chỉ điều chỉnh một số hội chính trị - xã hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp, trong khi các hội chính trị - xã hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp khác thì không bị điều chỉnh. Do đó, đề nghị xem xét lại phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Dự thảo Luật. Điều 9 của Sắc lệnh số 102 ghi: “Các đoàn thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi quy định của luật này” nên được nghiên cứu để kế thừa đưa vào nội dung Dự thảo Luật. 66 MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI NHÌN TỪ PHÍA TỔ CHỨC HỘI 3. Về tên gọi của luật Hiến pháp nêu rõ công dân có quyền lập hội. Sắc lệnh 102 cũng ghi rõ “ban bố luật quy định quyền lập hội” và tên luật là “Luật quy định quyền lập hội”, song tên của Dự thảo Luật là Luật về Hội. Với tên gọi “Luật về Hội” và các quy định nghiêng nhiều về nội dung quản lý hội mang tính áp đặt chủ quan, duy ý chí có vẻ cơ quan soạn thảo chưa thực sự thấu đáo Điều 25 của Hiến pháp năm 2013 xác lập “quyền lập hội” của công dân. 4. Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật là các tổ chức hội, vì vậy, cần tiếp cận sâu hơn, kỹ hơn ý nguyện của những hội bị điều chỉnh trực tiếp bởi các quy định của luật. Nội dung luật phải phù hợp và tôn trọng ý chí, nguyện vọng của những cá nhân, tổ chức bị điều chỉnh bởi luật. Không nên áp đặt ý chí chủ quan, một chiều từ phía các cơ quan quản lý hoặc tư duy tạo thuận lợi, đặc quyền từ phía các cơ quan quản lý mà ít hoặc không quan tâm đến nguyện vọng của đối tượng bị điều chỉnh và nhiều khi xa rời thực tế sinh động. Nhiều nội dung trong Nghị định số 88/2003/NĐ-CP, Nghị định 45/2010/NĐ-CP hay Nghị định 33/2012/NĐ-CP bộc lộ những bất cập, vướng mắc, khó thực hiện ngay từ khi vừa ban hành buộc phải bổ sung, sửa đổi hoặc phải thay thế, cần xem đó như là những bài học trong việc xây dựng chính sách không bám sát thực tiễn để tránh lặp lại khi đưa Luật về Hội vào cuộc sống. Sắc lệnh số 102 mặc dù ban hành từ 1957 nhưng nhiều nội dung ghi trong Sắc lệnh vẫn còn nguyên giá trị cho thấy khi giải quyết vấn đề về quyền lập hội biết tôn trọng đối tượng bị điều chỉnh, quan tâm tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền lập hội thì luật đạt hiệu quả cao và thực sự góp phần đưa xã hội phát triển. 5. Về quyền của hội Trong dự thảo đã nêu nhiều quyền của hội, song có một quyền cần phải bổ sung vào dự thảo đó là quyền của hội được tiếp cận với 67 TS. PHẠM VĂN TÂN nguồn ngân sách nhà nước để thể hiện quyền làm chủ đối với nhà nước của người dân thông qua một hình thái là các tổ chức hội. Cần phải tiếp cận lối tư duy hiện đại về một nhà nước nhỏ trong một xã hội lớn với hàm ý chuyển giao dần nhiều công việc dịch vụ, sự nghiệp công ích từ nhà nước sang các tổ chức ngoài xã hội. Với tư tưởng đó, các tổ chức ngoài nhà nước, trong đó có các tổ chức hội có quyền tiếp cận, sử dụng ngân sách nhà nước phục vụ mục tiêu phát triển xã hội. Ở nước ta về cơ bản ngân sách nhà nước do các cơ quan nhà nước quản lý, phân bổ và sử dụng, các hội khó có cơ hội tiếp cận trực tiếp nguồn ngân sách này trừ khi được các cơ quan nhà nước giao nhiệm vụ, mà vấn đề này phụ thuộc chủ yếu vào ý chí của các cơ quan công quyền. Lối tư duy xin - cho vẫn tồn tại cần được thay đổi. Tư tưởng các hội tiếp cận và thực hiện dịch vụ công phải được thể hiện gắn với quyền của hội tiếp cận ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực này phải được đưa vào nội dung của Luật về Hội. 6. Về khái niệm hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận Việc quy định hội hoạt động “không vì mục đích lợi nhuận” như là một thuộc tính của hội và đã được đưa vào định nghĩa về hội. Tuy nhiên, cần làm rõ nội hàm “không vì mục đích lợi nhuận” là không được hoạt động để thu lợi nhuận cho những người thành lập hay làm việc cho hội, còn các hoạt động không vụ lợi (lợi nhuận dùng để duy trì, mở rộng hoạt động của hội, hoặc thực hiện các hoạt động vì mục tiêu xã hội) thì không nên cấm. Như vậy, cụm từ “hoạt động không vì mục đích lợi nhuận” trong dự thảo có thể làm hạn chế quyền hoạt động của hội với mục đích tạo giá trị gia tăng để phát triển hội nên được sửa đổi, bổ sung cho rõ hơn thành “hoạt động không vì mục đích lợi nhuận của người thành lập và các thành viên”. 7. Liên quan đến điều kiện thành lập hội Dự thảo quy định “Lĩnh vực hoạt động chính không trùng lặp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng 68 MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI NHÌN TỪ PHÍA TỔ CHỨC HỘI phạm vi hoạt động”. Nội dung này rất trìu tượng, không phù hợp với thực tế, cản trở quyền tự do lập hội của công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Ngoài ra, trong thực tế quy định này khó khả thi vì trong một xã hội dân chủ, số lượng hội thường rất nhiều, trong khi số lượng lĩnh vực hoạt động chỉ giới hạn. Trong bối cảnh như vậy, có thể bị hiểu là biện pháp hạn chế quyền tự do lập hội. - Yếu tố trụ sở cũng là một yếu tố gây khó khăn. Hội chưa được thành lập thì khó có thể có trụ sở được (vì đi kèm với trụ sở là các chi phí thuê trụ sở, chi phí thường xuyên như điện nước, người thường trực...). Đặc biệt, đối với các hội có quá trình vận động lâu dài thì các chi phí này càng lớn, khó khăn cho công tác chuẩn bị. Nên chăng chỉ đưa ra dự kiến trụ sở thay vì phải chứng minh được quyền sử dụng hợp pháp nơi dự kiến đặt trụ sở. - Liên quan đến việc công nhận chức danh người đứng đầu hội: Hội hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất trên cơ sở đồng thuận. Chức danh người đứng đầu do đại hội hoặc ban chấp hành hội bầu bằng phương thức dân chủ, theo điều lệ, không loại trừ khả năng người đứng đầu có thể thường xuyên được thay đổi. Việc “công nhận chức danh ngưởi đứng đầu hội” là sự can thiệp quá sâu vào công việc của hội và quyền công dân. Câu hỏi đặt ra là: khi người đứng đầu chưa được cơ quan quản lý Nhà nước công nhận thì hội có được hoạt động không và người đứng đầu có được quyền thực hiện chức năng nhiệm vụ theo quy định của điều lệ không? Mặc dù trước khi tổ chức đại hội, hội đã báo cáo Bộ Nội vụ/ UBND về công tác chuẩn bị đại hội, trong đó có nhân sự dự kiến người đứng đầu. - Vai trò của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp trong hoạt động hội chưa được thể hiện trong Dự thảo Luật: Việc giải thể hội nếu có những vấn đề bản thân nội bộ hội không giải quyết được thì Bộ Nội vụ hay cơ quan nào đứng ra giải quyết? Cơ quan nào là trọng tài khi 69 TS. PHẠM VĂN TÂN có sự xung đột giữa hội/người dân và cơ quan cấp phép, cơ quan quản lý về hội? Giải quyết các tranh chấp trong hoạt động hội có cần đến vai trò của toà án không? Nhìn tổng quát, Dự thảo Luật vẫn thấy dáng dấp việc nâng cấp các nội dung của Nghị định số 88/2003/NĐ-CP, Nghị định 45/2010/NĐ CP tuy có sự sắp xếp lại bố cục nội dung, hoàn thiện một số điều, khoản, đồng thời bổ sung một số điều khoản mới. Tuy nhiên, những thay đổi, bổ sung đó chưa nhiều, chưa căn bản, mới dừng lại tầm của một nghị định hướng dẫn luật. Dự thảo mới chủ yếu đặt ra các quy định về tổ chức, hoạt động hội và quản lý nhà nước về hội trong khi yêu cầu đặt ra là luật cần làm rõ được 4 vấn đề cốt yếu, đó là: (1) Làm rõ các khái niệm, định nghĩa về hội, (2) Xác định rõ quyền lập hội của người dân, (3) Các quy định về tổ chức và hoạt động hội trên cơ sở tôn trọng quyền lập hội của công dân và (4) Quy định về quản lý hội, trong đó có quản lý Nhà nước về hội. Dự thảo Luật về Hội toát lên tư tưởng chủ đạo nghiêng về việc quản lý của Nhà nước đối với hội, chưa thể hiện nội dung quyền lập hội và trách nhiệm của Nhà nước tạo điều kiện để hội hoạt động và phát triển theo tinh thần của Hiến pháp, bởi lẽ hội được thành lập không những chỉ để bảo vệ quyền lợi hội viên mà còn cung cấp dịch vụ cho xã hội và phục vụ các lợi ích xã hội và là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội. Hội là tổ chức của dân, hội hoạt động phục vụ phát triển xã hội và đáng được khuyến khích để hoạt động. Trong khi quan điểm trong việc ban hành Luật về Hội là phải thể hiện được quyền lập hội, quyền hoạt động của hội trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật để góp phần tích cực vào quá trình phát triển đất nước, dự thảo luật lại quy định quá cụ thể cách thức thành lập hội và hoạt động hội, trong khi mô hình tổ chức và hoạt động hội trong thực tế rất đa dạng, phong phú và biến đổi không ngừng. Vì 70 MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI NHÌN TỪ PHÍA TỔ CHỨC HỘI vậy, luật không nên đi quá sâu có tính chất hướng dẫn các tiểu tiết về cách thức tổ chức và cách thức hoạt động hội. Dự thảo Luật cho thấy quy định về việc quản lý hội còn nặng tính chất hành chính quan liêu và chắc chắn sẽ tạo cho hội nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động. III. VỀ CÁCH THAM VẤN CỦA CƠ QUAN CHỦ TRÌ XÂY DỰNG DỰ THẢO LUẬT 1. Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật về Hội, cơ quan chủ trì là Bộ Nội vụ cũng đã có văn bản gửi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và nhiều tổ chức hội khác đề nghị đóng góp ý kiến vào dự thảo, tuy nhiên thời gian Bộ đưa ra để các đối tượng có liên quan nghiên cứu và có được ý kiến đóng góp thường ngắn nên rất khó cho việc góp ý kiến (Trong số 45 tổ chức hội được Bộ Nội vụ hỏi ý kiến, Công văn của Bộ đề ngày 26/5/2015 và đề nghị có ý kiến phản hồi với Bộ trước ngày 15/6/2015 nhưng tới ngày 01/6/2015 thì Liên hiệp Hội mới nhận được công văn, như vậy là thời gian lấy ý kiến ít, gấp gáp). Mặc dù thời gian ngắn, nhận thấy đây là vấn đề rất quan trọng, có liên quan trực tiếp đến hoạt động của hàng trăm hội thành viên trong hệ thống Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, vì vậy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã mời nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý nghiên cứu nội dung Dự thảo Luật và đã tổ chức hội thảo đóng góp ý kiến vào nội dung dự thảo. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã có văn bản chính thức gửi Bộ Nội vụ kiến nghị rất cụ thể những nội dung cần bổ sung, thay đổi nhằm góp phần hoàn thiện dự thảo. Không chỉ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam mà đa số các hội được hỏi ý kiến hoặc phát biểu quan điểm đều cơ bản không nhất trí với nội dung dự thảo. Rất tiếc nhiều ý kiến đóng góp của các đối tượng bị điều chỉnh trực tiếp bởi luật nhưng rất ít ý kiến được Ban soạn thảo tiếp thu. Quá trình xây 71 TS. PHẠM VĂN TÂN dựng Dự thảo Luật về Hội có thể đi đến một đánh giá là cơ quan soạn thảo ít quan tâm đến các ý kiến đóng góp quan trọng và cơ bản của đối tượng bị điều chỉnh đối với nội dung Dự thảo Luật. Mặc dù trong Tờ trình của Bộ Nội vụ có nêu: “Tổng hợp, tiếp thu giải trình ý kiến của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các bộ, cơ quan ngang bộ, các ban của Đảng, một số hội hoạt động trong phạm vi cả nước và các cơ quan có liên quan hoàn thiện dự thảo Luật về Hội...” nhưng trong thực tế việc lấy ý kiến các bên liên quan, nhất là các đối tượng bị điều chỉnh trực tiếp trong luật vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ gây tốn kém không cần thiết. 2. Trong quá trình đóng góp ý kiến, bên cạnh việc gửi ý kiến đóng góp vào Dự thảo Luật cho Bộ Nội vụ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và nhiều tổ chức hội khác cũng đã chuyển ý kiến tới các cơ quan có liên quan của Quốc hội như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Viện nghiên cứu lập pháp để các cơ quan này có thêm thông tin về ý kiến của các tổ chức bị điều chỉnh trực tiếp bởi luật. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã có báo cáo thẩm định nội dung Tờ trình, Dự thảo Luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội có ý kiến chính thức yêu cầu Ban soạn thảo hoàn thiện lại nội dung dự thảo. Cũng những vấn đề như vậy nhưng sự phản ánh từ dư luận xã hội, các tổ chức xã hội được hỏi ý kiến, từ đối tượng bị điều chỉnh đã được các cơ quan Quốc hội quan tâm lắng nghe và tiếp thu. Nếu xuất phát từ việc tôn trọng quyền lập hội và coi quyền lập hội như là quyền của người dân được đóng góp sức lực và trí tuệ cho sự phát triển của đất nước thì nội dung luật về quyền lập hội chắc chắn sẽ tạo thêm sự đồng thuận cao trong xã hội. Nếu cơ quan chủ trì soạn thảo thực sự cầu thị, khách quan và lắng nghe chắc chắn xã hội sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức và tạo được sự đồng thuận cao giữa cơ quan quản lý và đối tượng chịu sự quản lý. 72 MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI NHÌN TỪ PHÍA TỔ CHỨC HỘI Theo thông lệ ở nước ta hiện nay các sáng kiến luật phần lớn đều được giao cho các cơ quan Chính phủ là cơ quan hành pháp chủ trì soạn thảo. Người dân luôn đặt ra câu hỏi về tính khách quan, tính khả thi, có hay không vấn đề mưu toan lợi ích nhóm trong quá trình xây dựng luật khi cơ quan thực thi luật lại là cơ quan chủ trì xây dựng luật. Quy trình lấy ý kiến tham vấn các bên liên quan, nhất là đối với các đối tượng chịu sự điều chỉnh bởi luật nên phải đi vào thực chất và phải có phương án kiểm chứng việc tiếp thu ý kiến phản hồi nhằm nâng cao hiệu quả việc xây dựng luật pháp, tránh bệnh hình thức và sự tốn kém, lãng phí không cần thiết. 73 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU KHI XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI Nguyễn Ngọc Lâm* Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoá xã hội đã tạo đà cho sự đổi mới các hình thức liên hệ xã hội. Các tổ chức hội của Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đây là dấu hiệu tích cực của xã hội đổi mới, là hệ quả lôgic và dân chủ hoá xã hội. Trong 30 năm trở lại đây, từ khi nhà nước thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội đã tạo tiền đề cho hàng loạt tổ chức của dân ra đời và phát triển. Các tổ chức này đa dạng về loại hình như: hội, hiệp hội, liên hiệp hội, tổng hội, câu lạc bộ, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, trung tâm, viện, tổ chức hỗ trợ, tổ chức bảo trợ xã hội, các tổ chức cộng đồng,... Về qui mô, phạm vi hoạt động cũng rất phong phú: có tổ chức có phạm vi hoạt động trong cả nước, có tổ chức có phạm vi hoạt động trong tỉnh, huyện hoặc xã. Các tổ chức đang hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và đã góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Đảng, Nhà nước đánh giá cao sự đóng góp của hội và các tổ chức xã hội và đã ban hành một số văn bản pháp lý và cơ chế, chính sách, tạo môi trường cho các tổ chức này ra đời và hoạt động. Song, trước tình hình mới, khi mà đất nước đang tiếp tục đổi mới để phát huy các thành quả của 30 năm vừa qua, đồng thời hội nhập quốc tế một cách sâu rộng hơn nữa, các văn bản pháp lý cũ chưa ____________________ *Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Quản lý và Phát triển Bền vững thuộc VUSTA. Nguyên Vụ trưởng Vụ các tổ chức phi chính phủ, Bộ Nội vụ. 74 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU KHI XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI đáp ứng sự phát triển của hội và các tổ chức xã hội. Chính vì vậy, thực hiện Hiến pháp 2013, Nhà nước đã có kế họach đưa Dự thảo Luật về Hội vào kỳ họp đầu của Quốc hội khóa XIV để thông qua và ban hành. Để làm rõ hơn thực tế và xu thế phát triển của hội, đồng thời đóng góp cho Dự thảo Luật về Hội, bài viết này đề cập đến một số nội dung sau: l Một số vấn đề về thực tiễn phát triển và lĩnh vực hoạt động hội trong thời gian gần đây; l Vai trò và tiền đề cho sự phát triển của hội; l Một số vấn đề cần nghiên cứu khi xây dựng Luật về Hội; l Một số khuyến nghị để hội phát triển. I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN HỘI TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY 1. Đặc điểm Trong xã hội mỗi nước, bao giờ cũng có các tổ chức như: Nhà nước và các cơ quan giúp việc của nhà nước (đó là tổ chức công quyền, cai trị và quản lý xã hội). Song song với Nhà nước là các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp tham gia trên thị trường. Ngoài Nhà nước và doanh nghiệp còn một hệ thống tổ chức rộng lớn khác do dân tự nguyện lập ra. Những tổ chức này được gọi bằng những cái tên khác nhau: hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội dân sự, tổ chức phi lợi nhuận... Tuy có những cách gọi khác nhau nhưng các tổ chức này có đặc điểm chung sau: - Là tổ chức do dân tự nguyện lập ra, không thuộc chính phủ; - Hoạt động phi lợi nhuận (các khoản lợi nhuận không được phân chia với mục đích tư lợi); không coi là doanh nghiệp; - Là pháp nhân, nghĩa là hợp pháp, không nằm trong hệ thống bộ máy hành chính của khu vực Nhà nước; 75 NGUYỄN NGỌC LÂM - Hoạt động độc lập với Chính phủ (dù có thể được Chính phủ hỗ trợ thêm và bảo hộ về mặt pháp lý); - Tiến hành các hoạt động hợp tác (không mang ý nghĩa thương mại) hoặc nhân đạo (giảm khổ đau tổn thất, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, cung cấp các dịch vụ xã hội, thúc đẩy phát triển cộng đồng...); - Nguồn thu để chi phí cho hoạt động là sự đóng góp tự nguyện (của các thành viên hoặc các tổ chức tài trợ) và thu phí dịch vụ. Để gọi các tổ chức này, ở Pháp gọi là tổ chức "kinh tế - xã hội" (économesociale), ở Mỹ gọi là tổ chức "phi lợi nhuận" hay tổ chức được miễn thuế (EOs) hoặc tổ chức "tư nhân tình nguyện" (SVOS), ở Anh gọi là tổ chức từ thiện công (public charities), ở Đức, đơn giản gọi là "hiệp hội", ở Trung Quốc người ta gọi là các "tổ chức nhân dân". Còn Tổ chức toàn cầu thúc đẩy sự tham gia của công dân (CIVIUS) gọi là "tổ chức xã hội dân sự" (civil society organization, viết tắt là: CSO). Ngân hàng thế giới gọi là tổ chức phi chính phủ (NGO). Trong pháp Luật về Hội của một số nước thường qui định có 2 loại là: tổ chức có hội viên và tổ chức không có hội viên: - Tổ chức có hội viên: Đây là tổ chức thường có tên là hội hay hiệp hội. Tổ chức này có bộ phận quản lý cao nhất gồm các thành viên của tổ chức. Một tổ chức có hội viên thường có ban điều hành hoặc cơ cấu tương tự do các thành viên bầu ra và có trách nhiệm với các thành viên trong tổ chức46; - Tổ chức không có hội viên: trong nhiều hệ thống luật dân sự thường gọi “quỹ văn hóa xã hội”, gọi tắt là “quỹ văn xã”, thường là tổ chức cơ bản của tổ chức không có hội viên, là pháp nhân riêng rẽ được thành lập bởi một hay nhiều thể nhân hoặc pháp nhân qua việc dành ra một khoản tiền trong khoảng thời gian xác định hoặc không xác định chủ yếu nhằm mục đích tham gia vào các hoạt động công ích không vì ____________________ 46. Ngân hàng thế giới “ Sổ tay kinh nghiệm về pháp luật liên quan đến TCPCP” 1997.76 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU KHI XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI lợi nhuận. Ở Việt Nam, các tổ chức này thường gọi là: hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội, tổ chức nhân dân, tổ chức ngoài nhà nước,... Từ thực tiễn phát triển các loại hình tổ chức và các văn bản quản lý của nhà nước, có thể quy thành một số loại hình tổ chức cơ bản sau: 2. Các loại hình và các văn bản pháp quy điều chỉnh các loại hình này Hội có hội viên - Các đoàn thể quần chúng: Đây là một số các tổ chức được Đảng công nhận, là các đoàn thể quần chúng như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (liên minh chính trị), các đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Công đoàn, Hội Cựu chiến binh. Cho đến nay, nhiều tổ chức chính trị xã hội đã xây dựng luật, pháp lệnh riêng cho tổ chức của mình, như: Luật Mặt trận, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn, Pháp lệnh Cựu chiến binh Việt Nam. - Các tổ chức hội quần chúng: Nhà nước cũng cho phép thành lập nhiều hội hoạt động trong các lĩnh vực: nghề nghiệp, văn hóa, hữu nghị, từ thiện nhân đạo ...Theo số liệu nghiên cứu của Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), tới nay cả nước có gần 500 hội có phạm vi hoạt động toàn quốc và 51.000 hội có phạm vi hoạt động tại địa phương. Hội không có hội viên (bao gồm các loại hình thường có tên gọi: quỹ, tổ chức phi chính phủ, tổ chức ngoài Nhà nước ...). Các tổ chức này là các tổ chức do công dân, tổ chức lập ra, được điều chỉnh ở một số văn bản của Nhà nước - Quỹ xã hội, quỹ từ thiện: Hiện nay, nước ta có khoảng 200 quỹ có phạm vi hoạt động toàn quốc. Rất nhiều quỹ có phạm vi hoạt động ở cơ sở xã, phường, thị trấn, quận, huyện, tỉnh như: Quỹ Chữ thập đỏ, Quỹ Bảo trợ nạn nhân 77 NGUYỄN NGỌC LÂM chất độc da cam, Quỹ khuyến học, Quỹ hỗ trợ sáng tạo khoa học - công nghệ... Quỹ được tổ chức, hoạt động theo Nghị định 177/CP ngày 22/02/1999 về việc ban hành quy chế tổ chức hoạt động của các quỹ xã hội, quỹ từ thiện (nay là Nghị định 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện). - Tổ chức khoa học - công nghệ do các hội và tư nhân lập ra: Đây là các tổ chức do các hội, hoặc người dân tự nguyện lập ra dưới tên gọi là các trung tâm, viện, được thành lập theo Nghị định số 35/HĐBT ngày 28/1/1992 về công tác quản lý hoạt động khoa học công nghệ (nay là Nghị định 08/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ). Hoạt động của các tổ chức này tuân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải về kinh phí. Hiện nay có khoảng hơn 1.800 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. - Tổ chức bảo trợ xã hội do tư nhân và các hội lập ra: Hiện có khoảng 400 trăm tổ chức bảo trợ xã hội do các hội và cá nhân thành lập, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực từ thiện, nhân đạo. Các tổ chức này được thành lập theo Nghị định 25/CP ngày 31/5/2001 của Chính phủ ban hành quy chế của các cơ sở bảo trợ xã hội (nay là Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 quy định về điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội). - Tổ chức tư vấn pháp luật do các hội lập ra: Gần đây rất nhiều tổ chức tư vấn pháp luật của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã được thành lập. Các tổ chức này được tổ chức, hoạt động theo Nghị định 65/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 (nay Nghị định 77/2008/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật). - Tổ chức câu lạc bộ, mạng lưới, nhóm không tư cách pháp nhân: Đây là các tổ chức do dân tự lập ra, không đăng ký, không có tư cách pháp nhân như: câu lạc bộ, các nhóm tự nguyện, mạng lưới... 78 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU KHI XÂY DỰNG LUẬT VỀ HỘI - Đối với các tổ chức hội có yếu tố nước ngoài, hiện nay: - Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam: hiện nay có khoảng 800 tổ chức đăng ký đặt văn phòng đại diện, văn phòng dự án tại Việt Nam. Các tổ chức này được tổ chức hoạt động theo Nghị định 12 NĐ-CP ngày 1/3/2012 về đăng ký và quản lý các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. - Các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài: Chính phủ ban hành Nghị định 08/1998 NĐ-CP về việc ban hành qui chế về việc thành lập hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. - Đối với hội của người nước ngoài tại Việt Nam: hiện chưa có văn bản nào đề cập đến vấn đề này. II. VAI TRÒ VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI 1. Vai trò của hội Các hội trong thời gian qua đã triển khai nhiều hoạt động, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, trong thời gian gần đây các hội còn tham gia tích cực trong công tác vận động và đóng góp xây dựng chính sách. Hội đóng vai trò to lớn trong giáo trình phát triển đất nước, thể hiện ở những điểm sau: - Hội tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện đại đoàn kết dân tộc, động viên nhân dân tham gia vào giải quyết các vấn đề xã hội thúc đẩy xã hội phát triển; - Hội là lực lượng tích cực tham gia khỏa lấp khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường, các chương trình xã hội hóa giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học,...và cung cấp dịch vụ cho cộng đồng góp phần phát triển kinh tế xã hội một cách hài hòa; - Hội là cầu nối giữa Nhà nước với người dân, phản ảnh nguyện vọng của người dân, tham gia đóng góp, xây dựng chính sách phù hợp góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng văn minh; - Hội là lực lượng đối ngoại nhân dân. 79 NGUYỄN NGỌC LÂM 2. Cơ sở/tiền đề cho sự phát triển của hội a) Lý do Hội Việt Nam ngày càng phát triển mạnh: Một là: Do mục tiêu phát triển của đất nước là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Con đường đi đến mục tiêu đó là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu ấy, con đường ấy rõ ràng sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, phát huy dân chủ xã hội, quan hệ đối ngoại mở rộng... Tất cả những điều ấy kích thích, khơi dậy tính tự giác, tích cực xã hội của mỗi con người và do đó các hội có điều kiện để phát triển. Hai là: Đảng ta khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng cần phải tổ chức, tập hợp, giáo dục, hướng dẫn và xây dựng các phong trào cách mạng của quần chúng. Các hội quần chúng là những tổ chức sáng tạo của quần chúng. Đảng cần phải nắm lấy, lãnh đạo các tổ chức ấy phục vụ cho đường lối chính trị của mình, huy động mọi tiềm năng, sức mạnh của nhân dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng khuyến khích các hội phát triển theo nguyên tắc tự chủ, tự lực, tự trang trải trong khuôn khổ pháp luật. Đảng tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình với các hội. Ba là: Xây dựng và phát triển xã hội, quản lý xã hội là một công việc hết sức mới mẻ của Nhà nước ta. Càng đi vào chiều sâu và mở rộng các lĩnh vực quản lý, Nhà nước ta chưa đủ kinh nghiệm, nguồn tài chính và năng lực quản lý. Bởi vậy, Nhà nước khuyến khích mọi sáng kiến của công dân và mọi tổ chức của công dân tham gia vào quá trình này. Bốn là: Xã hội càng phát triển, trình độ dân trí càng được nâng cao, người dân càng ngày càng được hưởng nhiều quyền lợi hơn, đặc biệt là quyền dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp. Dân chủ cho người dân được bảo đảm bằng pháp luật và những điều kiện hết sức rõ ràng, cho 80