🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bảo Đảm Quyền Của Nhóm Yếu Thế - Khoảng Trống Pháp Lý Và Khuyến Nghị Cho Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo BÀN VỀ CÁCH SỐNG NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI 4 Tống Duy Tân - Hoàn Kiếm - Hà Nội Tel: (024) 3825 2916 Fax: (024) 3928 9143 Email: [email protected] CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH THÁI HÀ 119 C5 Tô Hiệu - Cầu Giấy - Hà Nội Tel: (04) 3793 0480 Fax: (04) 6287 3238 Chi nhánh TPHCM: 88/28 Đào Duy Anh, Phường 9, Q. Phú Nhuận Tel: (028) 22532641 Website: www.thaihabooks.com/nhasachthaiha.vn Chịu trách nhiệm xuất bản: Tổng giám đốc - Tổng biên tập: VŨ VĂN VIỆT Biên tập viên nhà xuất bản: Hoàng Thị Tâm Biên tập viên Thái Hà Books: Anh Tú Sửa bản in: Thuỷ Hương Thiết kế bìa: Lê Huyền Trình bày: Đàm Oanh In 1.500 cuốn, khổ 16 x 24 cm tại Công ty CP In Bản Việt, địa chỉ: Thôn Hậu Ái, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Số đăng ký KHXB: 1099-2021/CXBIPH/01-89/HN. Quyết định xuất bản số: 2723/QĐ-HN cấp ngày 22/12/2021. In xong và nộp lưu chiểu năm 2022 ISBN: 978-604-55-9135-2 N LỜI TỰA gôi nhà chúng tôi ngụ để viết cuốn sách này nằm sâu trong rừng ở Dordogne. Cách đó không xa là con đường nhỏ chúng tôi thường đi dạo giữa hai cuộc đàm đạo. Và, ở một ngã tư, có tấm bảng gỗ chỉ đường đến ngôi làng nhỏ bên cạnh, với dòng chữ viết tay: “Niềm vui: Ngõ cụt”! Nhưng chúng tôi không nghe theo lời nhắn nhủ này. Trong suốt hai tuần làm việc trong không khí tràn đầy tình bằng hữu, niềm vui trong lòng chúng tôi còn lâu mới là “ngõ cụt”! Cả ba chúng tôi đã quyết định gặp nhau để cùng viết một cuốn sách bàn về cách sống. Không phải là một cuốn sách giáo khoa giáng cho những bài học, mà là một cuốn sách nói về niềm tin cũng như kinh nghiệm của chúng tôi. Chúng tôi thấy dường như ba quỹ đạo của chúng tôi, tuy khác nhau là vậy – triết gia, thầy tu, bác sĩ tâm thần – nhưng có lẽ sẽ cho phép có một sự giao thoa quan điểm phong phú về những đề tài lớn lao truy vấn mọi con người mỗi khi họ suy ngẫm về cách thức dẫn dắt đời mình. Chúng tôi biết nhau đã lâu. Chúng tôi đã đọc sách của nhau. Thế rồi chúng tôi gặp mặt và trở thành bạn bè. Qua những lần gặp mặt, nhờ những giá trị, niềm tin chung, ý nghĩ viết chung một cuốn sách nảy sinh. Trong bộ ba huynh đệ chúng tôi, mỗi người có một vai. Mahieu là anh cả, độ lượng vững vàng, đi khắp năm châu để bảo vệ những chính nghĩa mà anh ấp ủ (các dự án nhân đạo, Tây Tạng, lòng vị tha) với sự tráng kiện cả về trí lực lẫn thể lực buộc hai cộng sự của anh phải nể phục. Alexandre là em út, vui vẻ trìu mến, đầu óc sáng láng, đầy sáng tạo, thi vị, thích cười và chọc cười, thích được nghe thủ thỉ và biết yêu thương. Christophe là anh hai, điềm tĩnh, tha thiết giúp đỡ, giải thích, kẻ cô độc nhất trong nhóm, nhưng luôn thấy hạnh phúc được ở bên các “thiện hữu”, biệt danh bộ ba tự đặt cho mình. Cũng nên nói vài lời về địa điểm và khung cảnh. Trong những ngày trò chuyện này, chúng tôi sống ở một nếp nhà hết sức đơn sơ, nhìn ra thung lũng Vézère. Từ đây, chúng tôi được ngắm mặt trời mùa đông mọc lên, dịu dàng ló ra từ sương mù rồi soi sáng dần cảnh vật. Trong ngôi nhà đó, chúng tôi được tiếp đãi như các ông hoàng vùng Périgord, bằng các bữa chay ngon lành, và chúng tôi chỉ việc ngồi trầm tư, thảo luận với nhau bên lò sưởi mà thôi. Để trí não thông suốt thì đã có những buổi dạo chơi tuyệt vời giữa thiên nhiên, ngồi bên bàn hàn huyên với bạn bè đến chơi, rồi đến thăm cộng đồng Phật tử ở Trung tâm Nghiên cứu Chanteloube nằm giữa những đền thờ, bảo tháp và tịnh thất. Chúng tôi cũng được cười thật nhiều khi tìm tựa cho tác phẩm của mình. Đây là những cái tên các bạn không được biết (và chúng tôi hy vọng các bạn sẽ hiểu khởi nguồn của chúng khi đọc cuốn sách): Ba người đàn ông trong một xóm nhỏ; Những người thợ sửa giày từ bi; Những tên cướp bản ngã; Những tiều phu vị tha; Những người thợ ống nước đầy biết ơn; Những người gác cổng Périgord; Những người hốt rác cái tôi, tôi, tôi; Những con giun biết lắng nghe; Biệt đội tối ưu thành tích từ bi. Trong những ngày làm việc này, vây quanh chúng tôi là bao thiện nam tín nữ, thường trực hay ghé thăm. Không có họ thì chúng tôi đã không thể nào thực hiện dự định này: trên bìa là ba cái tên của chúng tôi, nhưng có cả một mạng lưới những thiên thần và bà tiên đã nghiêng mình bên cái nôi của cuốn sách này. Một điều cuối cần xác định là, cuốn sách này tập hợp những trao đổi về kinh nghiệm và niềm tin của ba người bạn mà quỹ đạo, tính cách và nghề nghiệp của họ đã đưa đẩy tới chuyện suy ngẫm và đàm luận về những điều làm cho con người trở nên tốt đẹp. Chúng tôi không vờ mình là mẫu mực trong vấn đề này, hay là mẫu mực về nỗ lực cần hoàn thành và khó khăn phải vượt qua. Các cuộc đàm đạo của chúng tôi bàn về những đề tài chúng tôi đã chọn trước khi ở lại đây, và mỗi tối chúng tôi quyết định đề tài cho ngày mai, để đêm sẽ cho chúng tôi lời khuyên bảo. Những trao đổi không ra đầu ra đũa của chúng tôi được ghi âm lại toàn bộ, rồi được chép lại ra giấy. Tiếp đó các biên tập viên, cũng như chính chúng tôi, sẽ bắt tay vào “gọt giũa” và cho vào khuôn dạng những giờ trò chuyện và tranh luận này. Chúng tôi hy vọng rằng các bạn sẽ tìm thấy trong những trang sách này chút gì đó từ bầu không khí siêng năng và hoan hỉ của những cuộc trao đổi, cũng như tinh thần ngẫu hứng cùng sự tận tâm của chúng tôi trong việc cố gắng truyền đạt mạch lạc cho độc giả. Giờ thì hãy đến ngồi cạnh chúng tôi, trên một chiếc ghế dựa hoặc, còn gần chúng tôi hơn nữa, trên những chiếc ghế bành đã mệt rã nhưng niềm nở mà chúng tôi ngồi. Mấy người bạn kia đã có mặt rồi, và họ sẽ sớm nói cho chúng ta nghe những điều quý giá. Lửa lách tách trong lò sưởi, thung lũng trải dài bên ngoài cửa sổ, mặt trời mùa đông bắt đầu dịu nhẹ, trà nghi ngút trong tách sưởi ấm đôi bàn tay và kích thích thần trí. Alexandre làm vẻ tinh nghịch và nói đùa một câu, Mahieu chỉnh lại kính và vỗ tay nhắc mọi người chú tâm hơn, còn Christophe thì nhìn lần cuối những ghi chú mà anh đã ghi lại tối hôm trước trong cuốn sổ tay nhỏ (anh biết mấy gã bạn gian xảo hay quay qua chờ anh xung phong). Cuộc thảo luận sắp bắt đầu, chỉ còn thiếu các bạn nữa thôi… M DẪN NHẬP ATTHIEU: Động cơ giống như phương hướng ta quyết định sẽ theo mỗi sớm mai thức dậy, khi ta đang trên đường du hành: ta sẽ đi về hướng Bắc, hướng Nam, hay hướng Đông? Vào lúc bắt đầu những thảo luận giúp cung cấp chất liệu cho một cuốn sách, chúng ta nên dành chút thời gian tự hỏi, phương hướng chúng ta muốn đem lại cho những cuộc nói chuyện của mình là gì. Trước hết là tự hỏi, ta muốn giúp ích cho người khác hay muốn phục vụ những lợi ích cá nhân của mình. ĐỘNG CƠ CỦA CHÚNG TÔI CHO CUỐN SÁCH NÀY CHRISTOPHE: Về phần mình, tôi thấy dường như tôi có tới ba động cơ. Trước hết là giúp ích cho mọi người. Tôi là một y sĩ viết những cuốn sách trợ giúp tâm lý và dùng những cuốn sách đó để phục vụ mọi người. Khi biết mình có thể giúp ích cho người khác mà không nhất thiết phải gặp họ, tôi cảm thấy một niềm hạnh phúc vô bờ. Tôi không nghĩ có bao giờ mình viết sách với một động cơ nào khác ngoài việc giúp độc giả bớt khổ và tiến bộ trong vai trò con người. Tôi nghĩ cả ba chúng ta đều vậy. Được ở bên hai người bạn tôi yêu quý trong mười ngày là động cơ thứ hai! Nhưng tôi còn thấy một nguyện vọng nữa trong cuốn sách này, đó là làm cho hình ảnh của chúng ta trong tâm trí mọi người trùng khớp với con người thật của chúng ta. Đôi khi mọi người nhìn chúng ta một cách sai lạc, coi chúng ta như những “hiền triết”, cứ như thể chúng ta đã tìm thấy một kiểu tri kiến và cách sống rất khác người. Rõ ràng – ít nhất thì cũng là đối với tôi – đó là một ảo tưởng, và khi nói về hành trình cũng như các chướng ngại riêng trong việc trở thành những con người tốt đẹp hơn, chúng ta có thể giúp độc giả nhiều hơn bằng cách nhắc họ rằng chúng ta không cao siêu gì hơn họ. Tôi có cảm tưởng là độc giả sẽ thấy an tâm khi biết rằng không hề có hai hạng người, một là những người bay lượn cả chục cây số bên trên đầu họ và một là những người, cũng như họ, lặn lội trong bùn lầy cuộc sống thường nhật. Mọi con người đều như nhau. Tất cả chúng ta đều phải cố gắng rất nhiều để trở nên tốt đẹp hơn. ALEXANDRE: Lúc mở đầu cuộc trò chuyện này, tôi có cảm giác như mình đang bước vào một phòng thí nghiệm tinh thần bao la để, cùng với các anh, khảo sát những công trường lớn của sự tồn tại. Khi nhận lời thách thức vời vợi này bên cạnh hai chuyên gia về hạnh phúc, tôi vừa vui mừng vừa có chút khiếp sợ. Trên hết, tôi rất mong lời nói của chúng ta sẽ giúp ích được cho mọi người. Có những cuốn sách đã cứu đời tôi. Và tôi sẽ lấy làm hạnh phúc, nếu như – không đưa ra những công thức, không có công thức nào cả – thảo luận của chúng ta có thể khích lệ những người đang phải vật lộn và tỏ rõ cái mong muốn dấn bước ngày một xa trên con đường tâm linh. Dù có đạt được sự tiến bộ lớn lao bên trong đi nữa thì cũng sẽ vô ích nếu như nó không làm cho chúng ta đoàn kết hơn, đến gần đồng loại hơn. Và việc trau dồi bản thân có thể nhanh chóng khiến chúng ta có cảm giác tù túng nếu nó không mở ra lòng quảng đại thực sự. Bản ngã có tài và gàn dở đến độ nó quơ về mình hết mọi thứ, hoặc gần như mọi thứ. Chắc chắn là tinh thần có tính vị kỷ. Khi quên mất người khác, chúng ta tất sẽ thất bại. Do đó mà chúng ta phải cấp thiết tìm kiếm một thực hành giải cứu chúng ta từng giai đoạn một khỏi mối nguy này. Tình bạn giúp chúng ta chữa được nhiều thói tật, nó che chở và nâng đỡ chúng ta. Chính tình bạn đã khởi nguồn cho cuộc gặp gỡ của chúng ta, nó dệt những mối dây bền chặt gắn kết chúng ta mà sẽ không gì làm xơ mòn đi được. Điều cốt lõi là không bao giờ quên rằng tất cả chúng ta là những người cùng hội cùng thuyền, chúng ta phải cùng nhau vượt qua bể khổ. Tôi muốn được dành tặng cuốn sách cho chính cái động lực này. MATTHIEU: Đầu tiên, cuốn sách này ra đời từ tình bạn của chúng ta và mong ước được sống nhiều ngày bên nhau để chuyện trò thẳng thắn về các chủ đề chúng ta tâm đắc. Dụng ý không đơn thuần chỉ là chia sẻ những gì chúng ta soạn sẵn trong đầu để rồi biến nó thành một cuốn sách. Có những người thích nghĩ ra và truyền bá các khái niệm. Mục đích của chúng ta lại là chia sẻ những gì mình học hỏi được từ các thầy, trong đạo hoặc ngoài đời, cũng như từ những nghiên cứu và thực hành thiền quán hay trị liệu. Về phần tôi, nhờ đạo lý và lòng tốt của các thầy, tôi tự sửa đổi được một chút và bắt tay vào phụng sự tha nhân. Vì thế nên tôi sẽ cố san sẻ những điều các thầy đã đem đến cho tôi bằng cách nỗ lực hết sức mình để không bóp méo cũng như làm biến chất giáo huấn của các thầy. ALEXANDRE: Chỉ có một thứ cấp bách, đó là chúng ta nguyện theo đến cùng một thực hành, ôm ấp trong lòng một mong muốn mãnh liệt được tiến bộ, và nhận ra rằng chúng ta có thể thoát khỏi ngục tù của trí óc. Mọi người muốn bàn, muốn viết về thực hành bao nhiêu thì tùy, nhưng thể nghiệm nó từng ngày mới là việc lớn lao. Tôi từng tham gia hội thảo của một phong trào phản đối sự bất công xã hội và nhanh chóng phát hiện ra rằng mình đang phản đối lại những người phản đối. Sau những bài diễn văn hay ho, họ để tôi lại một mình dưới cơn mưa tầm tã và phải đi bộ về nhà. Chê trách thiên hạ, lên án cả Trái đất thì cũng vô ích thôi. Hành động, giúp đỡ, hỗ trợ thật sự mới là điều đáng nói. Ta hãy mau mau làm theo lời khuyên của Niesche. Với ông thì cách hay nhất để bắt đầu một ngày mới là tự hỏi, khi vừa thức dậy, rằng hôm nay ta có làm vui lòng được “ít nhất một người” hay không. Làm sao để ân cần với người mình gặp ở góc đường, với những người thân mình sát cánh mỗi ngày, bằng cả tấm lòng? Hoặc yêu thương thật sự người làm mình khó chịu? CHRISTOPHE: Chúng ta, ai cũng có thể giống như những người phản đối kia, nói về lòng vị tha nhưng rồi không hề giúp đỡ cậu về lại nhà ga. Bởi vì chúng ta chỉ dừng lại ở khái niệm, bởi vì hội thảo xong là chúng ta lại về với những vấn đề và mối bận tâm riêng. Thực ra, thông điệp cốt lõi không phải là “Lòng vị tha là một điều tốt đẹp” mà là “Mình có thể làm gì cho người khác, lúc này, hôm nay?” Khái niệm không thôi thì không chữa lành được cho ai cả. Nó có thể an ủi, soi sáng, làm thỏa lòng người khác, nhưng trước sau gì rồi việc lành bệnh vẫn phải thông qua hành động và cơ thể. Trong thực nghiệm và thực tế ta mới thấy một ý tưởng có nội lực và ý nghĩa hay không, khi thực hành ta mới có thể nhận thấy những hệ quả của nó đối với mình và người. MATTHIEU: Cái ý căn bản mà các anh nêu lên chính là cốt lõi của đạo Phật. Người ta nói rằng toàn bộ hiệu quả và ý nghĩa của việc giáo dục nằm ở chỗ nó phải trở thành một phần không thể tách rời trong ta. Mọi thứ còn lại chỉ là ba hoa. Dù cho có gom tất cả các đơn thuốc bác sĩ cho thì cũng không giúp gì cho việc chữa trị cả. Các ý niệm hữu ích trong việc soi rọi cuộc tranh luận, biết ta sẽ đi đâu, xác định những nguyên tắc hành động, nhưng nếu ta không thực hành thì cũng vô ích thôi. Còn một câu hỏi quan trọng nữa đáng làm sáng tỏ, về động cơ của chúng ta và việc sử dụng cuốn sách này. Đó là tính mập mờ trong cái ta gọi là “phát triển cá nhân”. Nếu sự phát triển này chỉ diễn ra trong cái bong bóng bản ngã, ta sẽ dung dưỡng nó, đánh bóng nó, mài dũa nó bằng những ý nghĩ trấn an bản thân, trong một cách nhìn rất hẹp hòi, và ta sẽ đi chệch mục tiêu, bởi chỉ có thể thực hiện cuộc tìm kiếm viên mãn bằng việc từ tâm và mở lòng với kẻ khác. Bằng mọi giá, việc tu tập chánh niệm nói chung và thiền định nói riêng cần tránh trở thành một chốn yên thân để ta suốt ngày mải mê trong thế giới bản ngã. Như Alexandre vẫn nói: “Trong bong bóng bản ngã có cảm giác tù túng.” Hoặc ta tìm cách tự thay đổi để bắt tay vào phụng sự người khác và mọi người sẽ được lợi lạc, hoặc ta cứ ở trong cái bong bóng bản ngã và mọi người chẳng được gì. Khi ta cố hết sức để một mình ta được hạnh phúc, ta sẽ không giúp được người khác mà cũng không giúp được chính mình. CHRISTOPHE: Tôi có cảm giác như mình vận động trong một quả cầu có hơi khác với các anh. Tôi là một y sĩ, luôn phải đứng trước những mong đợi và khó khăn của bệnh nhân, mà họ lại thường không biết quý trọng bản thân. Do vậy, tôi có khuynh hướng nhìn vấn đề này ít phê phán hơn. Trong công việc của mình, tôi nhận thấy rằng giai đoạn đầu mình thường phải an ủi bản ngã, khôi phục nó, củng cố nó. Rất nhiều người chán ghét bản thân. Tôi thấy mình phải làm ngược. Nếu tôi khuyến khích họ quan tâm đến người khác thì chắc chắn sẽ giúp ích cho họ, nhưng tôi lại không đúng trình tự công việc của mình. Tôi biết rằng về lâu dài thì cần phải bớt chú trọng đến bản thân hay ít ra cũng bớt cái phần thái quá trong sự quan tâm vị ngã này. Nhưng không gấp gáp được. Tôi càng tin điều đó hơn nữa với tư cách cá nhân, bởi trong việc xây dựng mình, tôi tiến bộ bằng cách như vậy. Một điều nữa luôn làm tôi suy nghĩ khi hành nghề là khoảnh khắc mà y sĩ, khi đứng trước nỗi đau của người khác, tâm sự đôi chút về nỗi đau của mình. Hiện tượng này đã được nghiên cứu, lập thuyết, bởi vì nó là một yếu tố mạnh mẽ, như một thứ gia vị trong ẩm thực. Không có nó, mối quan hệ trị liệu sẽ trở nên nhạt nhẽo, trong khi nhờ yếu tố này, hương vị cộng tác và tình người sẽ được thêm vào. Việc bộc bạch về bản thân trong một mối quan hệ trị liệu có ích ở chỗ nào? Đến một lúc nào đó, y sĩ sẽ thấy ở bệnh nhân một nỗi khổ tương ứng với nỗi khổ anh ta đã chịu đựng. Thế là anh ta quyết định nói cho họ nghe một chút về những điều mình đã trải qua vì như vậy có thể có ích cho bệnh nhân. Họ sẽ nhận ra là mình không đơn độc. Sự bộc bạch này cần thực hiện với liều lượng hết sức nhỏ, sao cho không xâm lấn không gian khám bệnh bằng chuyện riêng của ta, không xem nhẹ quyền đau khổ của họ. Chỉ là giúp họ, bằng nỗi đau của mình, được hợp đoàn với nhóm đông đảo những người xung quanh họ. Điều này khiến tôi nghĩ đến một câu nói của Christian Bobin trong Phế tích thiên đường: “Dù người anh đang nhìn là ai, hãy biết rằng họ đã nhiều lần đi qua địa ngục.” Khi bệnh nhân đến gặp chúng tôi, họ đang băng qua địa ngục, họ cảm thấy đơn độc và lạc lối. Khi biết rằng người khác cũng đã đi qua con đường đau khổ này, đôi khi họ sẽ cảm thấy được an ủi và xoa dịu. PHƯƠNG PHÁP CỦA CHÚNG TÔI ALEXANDRE: Khái niệm thiên chức giúp giải phóng chúng ta. Nó là chiếc la bàn trong những ngày mà mọi chuyện đều xui xẻo, là lời thúc giục đáp lại tiếng gọi sâu kín nhất đời ta. Trong thử thách cũng như trong niềm vui, chúng ta phải không ngừng tự hỏi, lúc này, ở đây, đời sống kêu gọi tôi đến với cái gì. Về phần mình, tôi tin rằng cuộc đời đã giao phó cho tôi ba thiên chức. Trước hết là làm người khuyết tật và tôi phải trải nghiệm đến cùng. Tàn tật không hề là một gánh nặng và nó có thể trở thành một mảnh đất rèn luyện tuyệt vời. Nếu tôi xem nó như thứ lao dịch, tôi có thể ngay lập tức tự kết liễu bằng một phát súng. Tốt hơn là nên thấy ở đó một con đường đi đến đạo lý. Nhưng hãy coi chừng, không phải khổ giúp chúng ta trưởng thành, mà là thứ chúng ta tạo ra từ khổ. Tôi dè chừng như dịch bệnh những phát biểu quá vội vàng biện minh cho khổ. Như vậy là quên rằng nỗi đau có thể làm ta trở nên cay đắng, bóp nát trái tim ta. Không phải là tôi chấp nhận hoàn toàn việc khuyết tật, nhưng có những ngày tôi phát hiện ra trong cái tai ương này một dịp để trở nên hoan hỉ và tự tại hơn. Tôi cũng thấy rõ rằng, không có tu tập, tôi sẽ không có cơ may nào. Nói tóm lại, khuyết tật dồn tôi vào đường cùng, buộc tôi phải cấp bách sửa mình và tìm nơi nương náu, tránh xa những nhãn hiệu, bề ngoài, để cất bước học hỏi mỗi ngày. Nghề viết cũng khởi từ một tiếng gọi. Niềm đam mê này, nhu cầu này, được đặt ra từ rất sớm. Trong giờ khắc chống chọi, tôi hiểu rằng một ngày nào đó mình sẽ phải trình bày di sản mà những người bạn kém may mắn truyền lại cho tôi. Họ đã cho tôi nếm trải một chút điều cốt lõi, đó là mong muốn tiến lên, khát khao một niềm hoan hỉ vô điều kiện và tình đoàn kết. Ở viện dành cho người khuyết tật mà tôi sống từ nhỏ đến lớn trong mười bảy năm, tôi đã hình thành thiên hướng làm chứng nhân. Đây rõ ràng là một cơ chế sinh tồn, nhưng là một trong những cơ chế ích lợi nhất. Trong khổ đau, tôi cảm thấy bằng cả con người mình là cần phải biến nó thành cái gì đó. Cuối cùng, thiên chức làm cha trong gia đình thôi thúc tôi quên đi rất nhiều những gì đã học, chữa chứng sợ hãi, những phản xạ, những thiếu thốn, và luôn luôn tiến lên. Ba thiên chức này đi cùng tôi từng giờ, nhất là khi mọi chuyện không ổn, nghĩa là khá thường xuyên. Những thiên chức này vượt ngoài khái niệm một mục tiêu cá nhân mà bản ngã cố đạt cho được bằng mọi giá. Ở đây, không có chuyện thăng cấp hay lên bậc, mấu chốt chỉ là luôn đi tới và yêu thương ngày càng sâu đậm hơn mà không trụ lại nơi đâu cả. Người nào còn nhốt mình trong một danh tính thì vẫn chưa hết khổ. Chẳng hạn, nếu tôi cứ tin chắc rằng hạnh phúc của tôi tùy thuộc vào cương vị người viết, thì ngày tôi không còn viết được nữa, tôi sẽ không còn niềm vui. Giờ đây, tôi uống nước từ suối nguồn tinh thần lớn lao, nhất là nhờ thực hành thiền và sống một đời sống cầu nguyện. Những điều này giúp tôi trải nghiệm sâu sắc hơn ba thiên chức của cuộc đời tôi. Mọi sự khởi từ một khuyết tật lúc lọt lòng mẹ. Một dây rốn bị đặt nhầm chỗ khiến tôi thành người tàn tật suốt đời. Từ lúc lên ba tôi đã phải sống trong một trung tâm chuyên biệt, một ngôi trường khắc nghiệt và khủng khiếp. Ở đó tôi đã nhận ra, trọn vẹn, sự bấp bênh trong thân phận chúng tôi. Từ đó, tôi kéo lê một cảm giác bất an, một nỗi sợ bị bỏ rơi, rõ ràng là do một khởi đầu quá chông gai cũng như do bị tách khỏi cha mẹ. Từ cuộc sống trong viện này tôi giữ lại được niềm thán phục trước thế giới và sự đòi hỏi phải luôn lên đường. Cùng với các bạn bất hạnh, có những bạn bị khuyết tật rất nặng nề, tôi cũng đã chứng kiến cái chết. Một trong những người bạn thân nhất của tôi, Trissia, bị tràn dịch não. Ngày tôi tám tuổi, một cô giáo kéo riêng tôi ra nói: “Đi gặp Trissia đi, bạn ấy ở cuối hành lang, con hãy đi xem bạn ấy xinh đẹp thế nào.” Tôi bước vào căn phòng âm u và thấy bạn mình nằm dài trong một cỗ quan. Tôi đã không biết bạn ấy mắc bệnh. Cuộc gặp gỡ cái chết và sự đau khổ từ sớm này làm tôi trưởng thành nhưng cũng làm tôi bị chấn động. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh bạn ấy nằm hai tay khoanh lại, như đang cầu nguyện. Trong căn phòng xanh lục ấy, tôi đã cảm thấy một lời kêu gọi toàn triệt, nó hướng tôi tới cuộc sống tâm linh. Tôi hoàn toàn tin chắc rằng, nếu không có một cuộc tìm kiếm nội tâm, tôi đã tiêu tùng. Cuộc đấu tranh để được nhận vào trường “bình thường” là một cuộc đấu tranh lâu dài. Tôi trượt các trắc nghiệm vận động tâm thần. Tôi không đủ nhanh nhẹn. Nhờ sự kiên trì của cha mẹ, may sao, tôi cũng được ngồi trên ghế nhà trường. Việc tôi cứ nhấn mạnh quyền được hòa nhập của mọi người là do tôi đã suýt bị loại ra. Khi tôi được ra khỏi viện thì tôi như đặt chân lên một hành tinh khác. Tôi không biết các phép tắc xã hội: tôi phải ôm hôn ai, tôi phải bắt tay ai… Đến hôm nay tôi vẫn còn phải học hỏi trò chơi xã hội này. Từ nhỏ tôi đã có một ý thức nhất định về cái bi và một sự ngây thơ không bao giờ mất. Ở bên cạnh những người không nói được, tôi còn học được sự dịu dàng trong một cử chỉ thân ái, một nụ cười, một ánh mắt. Tôi phải mất rất nhiều thời gian mới tìm được chỗ trong xã hội và quyết tâm thích nghi. Tôi đã ôm chặt cứng người con gái đầu tiên tôi đem lòng yêu đến nỗi phản ứng của cô vẫn còn khiến tôi bối rối đến hôm nay: “Ơ, có chuyện gì thế, cậu này?” Tiếp xúc đầu tiên này đã suýt khiến tôi sống một cuộc đời thu mình. Ở viện, điều làm tôi vui là được sống trong sự trong sáng đáng ngạc nhiên. Khi chúng tôi hài lòng, chúng tôi nói ra; khi chúng tôi buồn, chúng tôi cũng để lộ cho người khác biết. Trái lại, thế giới ngoài kia, tôi phát hiện ra là lắm lúc ta phải ngụy trang những cảm nghĩ của mình, che giấu những dụng ý, không được thổ lộ hết. Việc sát cánh bên những người bất lực nhất đã cho tôi nếm trải từ khi còn nhỏ một chút tinh thần đoàn kết. Có người cho rằng con người xấu xa, vị kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình. Tôi đã nếm trải điều ngược lại với các bạn kém may mắn của tôi: một tình đoàn kết tự nhiên, một lòng nhân từ tự nhiên, một mong muốn cùng nhau tiến bộ. Nói tóm lại là một lòng vị tha làm phấn chấn tâm hồn. Trước một số phận không mấy nhân từ, chúng tôi tương thân tương ái. Cần triệt tiêu cái suy nghĩ rằng con người tự trong bản tâm vốn là ích kỷ. Mahieu này, trong cuốn Bàn về lòng vị tha của anh, anh có trích dẫn một đoạn thư của cha đẻ ngành phân tâm học làm tôi thấy buồn cười. Trong đoạn đó, ông ta nói rằng ông ta chỉ phát hiện được rất ít “cái tốt” ở con người, rằng phần lớn họ chỉ là đồ vô lại. Trái lại, tôi đã tìm thấy một lòng tốt mộc mạc, không tính toán, trong trái tim của rất nhiều người tu tập, và nhất là ở trẻ em. Sao chúng ta lại phải bỏ đi sự trong sáng này? Đúng là trong đời sống hằng ngày, cũng như chỉ cần xem xét bản thân một cách sơ sài nhất, chúng ta cũng thấy rất nhiều thói xấu, như đố kỵ, gièm pha, chế giễu, những tật khó nhổ bỏ. Nhưng mọi điều đó không ngăn được tôi tin vào sự cao cả của con người. Do vậy, chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để quay về với cái tận cùng, với bản tính sâu xa nhất của con người và vượt thoát tất cả những cơ chế cảm xúc này. Trên đường đi, tôi có một cuộc gặp gỡ, một sự tình cờ may mắn, làm tôi lìa bỏ con đường đã được vạch lối cả rồi. Ngày nọ, tôi hỏi một Cha trong viện: “Tại sao lại có những người khuyết tật? Tại sao, nếu Chúa Trời tồn tại, ngài lại bỏ chúng con đó, cách xa cha mẹ?” Cha Morand đã ý nhị mà không cho tôi một lời giải thích trong cái vốn không có lời giải thích nào cả. Lòng tốt của người này, việc ông hiến đời mình cho kẻ khác, đã làm tôi đổi lộ trình và chinh phục được tôi. Tôi còn nhớ lời ông: “Con là một triết gia, con như Socrates vậy!” Từ lúc ấy, dù rằng không giỏi ở trường và chẳng mấy quan tâm đến những vấn đề tinh thần, tôi đã chạy đi mua sách của Platon và Socrates để rồi rút ra một dược phẩm thật sự và nhất là một lời thôi thúc sống tốt hơn mà không phải là sống tốt nhất. Cuộc phiêu lưu đã có thể bắt đầu, và vậy là một thiếu niên tay không dấn thân đi tìm tiến bộ, đi vào đời sống nội tâm. Trước đó, tôi chỉ tìm kiếm hạnh phúc ở bên ngoài, tôi nương náu trong niềm hy vọng về một cuộc đời tốt đẹp hơn mà không dám thay đổi thế giới quan của mình. Các triết gia của Athens đã mang lại một phương thuốc, một niềm khích lệ, một trị liệu pháp cho tâm hồn. Từ lúc đó, tôi đã có mong muốn bước vào triết học theo cách như người ta đi tu. Đó là bước duy nhất tôi có thể thực hiện. Ngoài việc khuyết tật ra thì sự thiếu thốn tình cảm là thứ để lại những hệ quả nặng nề nhất. Rất nhiều thầy cô giáo coi nghĩa vụ của mình là phải giữ khoảng cách nhằm mục đích trị liệu nhưng dường như việc đó lại cấm đoán mọi tình người. Hơn nữa, nhiều lúc tôi thấy quanh mình là những người tu hành hơi lạnh lùng. Họ luôn thể hiện mình là người sùng kính, và khi tôi nói rằng tôi mê ăn bánh ga-tô, họ lạnh nhạt đáp: “Ta chỉ mê Chúa Trời thôi.” May mắn làm sao, Cha Morand đã chỉnh đốn lại mọi chuyện. Lòng tốt vô vàn và hiểu biết bao la của ông đã cho tôi nếm trải chút đời sống tâm linh. Sự khôn ngoan, sự rộng lượng không gợn chút bóng tối và sự sáng suốt của ông khiến tôi cảm động. Dạy dỗ bằng cách làm gương, ông đã cải hóa tôi theo con đường triết học. Trong chiến tranh, ông đã cho một gia đình Do Thái tá túc. Ông kể tôi nghe rằng một hôm, khi thấy từ xa một xe của Gestapo, ông đã không ngần ngại lật tung nhà lên, đập vỡ chén dĩa, lôi hết đồ đạc trong tủ ra… Khi họ tới, ông chỉ đáp: “Người của các anh vừa vào, họ lục tung hết cả, các anh nhìn cái đống hỗn loạn này xem.” Nói tóm lại, nhờ Cha mà tôi mới có niềm đam mê triết học. Phải một thời gian tôi mới hiểu rằng đạo lý bắt nguồn từ một nghệ thuật sống, trong những tu tập hằng ngày. Chẳng mấy chốc, tôi còn có chút cay đắng nghiệm ra rằng triết học không phải là liều thuốc chữa bách bệnh, nhất là trong trường hợp tôi. Tôi đã đọc đi đọc lại Aristotle, Leibniz, Spinoza, Niesche và những người khác nữa, nhưng cảm xúc rối bời vẫn không chịu để tôi yên. Dọc đường, tôi gặp được thiền sư Jacques Castermane. Nhờ thầy, tôi cảm nhận được rằng bình yên vốn đã ở đó trong tận cùng sâu thẳm, và rằng thân xác không hề cản trở nó mà còn có thể dẫn đến nó. Vậy nên tôi cần có một sư phụ vừa là thiền sư vừa là tu sĩ Thiên Chúa giáo để làm sâu đậm thêm đức tin Chúa Trời vẫn luôn ở trong tôi và đi sâu hơn trong thiền định. Thế là cùng vợ với ba đứa con, tôi dọn đến Seoul để bắt đầu học buông bỏ và tự tại. Tôi đã đánh mất niềm vui, sự hồn nhiên, tính ngẫu hứng mà tôi từng có khi còn nhỏ. Giai đoạn rèn luyện ở Hàn Quốc đã tẩy gột tôi rất nhiều. Thay vì là một người cha hoàn hảo thích bảo bọc con cái, điều mà tâm trí tôi đang thèm khát, tôi gặp một vị thầy chân chính đã cho tôi thấy, từng ngày, rằng tình yêu vô điều kiện vượt lên trên mọi thứ tôi có thể hình dung được. Thầy dạy tôi biết yêu thương một cách phóng khoáng hơn, thật sự ra khỏi ngục tù của bản thân mình. Kể từ đó, tôi chuyên tâm hành thiền mỗi ngày một giờ. Việc toàn tâm toàn ý thực hành sẽ cứu rỗi chúng ta. Chúng ta chỉ làm chủ được rất ít thứ trong cuộc đời mình, do vậy cần trao gửi trọn vẹn bản thân mình cho đời sống tâm linh, thứ sẽ giải thoát chúng ta từng bước một. Mỗi ngày, tôi vui sướng phát hiện ra điều đem lại sự giải phóng thật sự: những cuộc gặp gỡ và sự thành tâm tu tập. Nhờ thầy và gia đình, cùng với Bernard Campan, Joachim, Romina, Christophe, Mahieu, cũng như biết bao người khác nữa, tôi có thể hết lòng cống hiến cho những thiên chức này và tiến bộ trong vai trò làm người. Phải, vô vàn bàn tay tiếp nối trong đời sống hằng ngày đã giúp tôi sống với những vết thương. Suy cho cùng, tôi hoàn toàn không phải là người tự lập. Không có các thiện hữu, tôi sẽ không bao giờ có thể thành công ở Seoul. Khắc này sang khắc khác, tôi cần phải chết đi và sinh ra lần nữa, cũng như phải quên đi rất nhiều điều đã học. Khi nguyền rủa sự khuyết tật của mình, tôi nhớ lại những lời nhân đức vô cùng của thầy và chúng làm thức tỉnh tôi ngay lập tức: “Hãy vui mừng vì những chướng ngại; nếu con không bị khuyết tật và gặp những đau đớn triền miên, chắc con đã trở thành tên đại ngố.” Những cú sốc điện này đã khiến tôi không còn nguyền rủa cái mà, thoạt nhìn, cản trở tôi tiến bộ. Gần đây, tôi khẩn khoản xin thầy đừng trả tôi về châu Âu khi tôi còn chưa tìm thấy một sự thanh thản thật sự, một niềm vui chân chính, khi tôi chưa diệt được những nguyên nhân khổ của tôi. Tôi tin rằng chúng tôi sẽ ở lại Hàn Quốc thêm một thời gian nữa. CHRISTOPHE: Tôi rất thích ba thiên chức mà cậu nói – làm cha, người khuyết tật và tác gia. Với tôi cũng vậy, tư cách làm cha đã giúp khai sáng cho tôi và là động cơ để tôi tiến bộ. Tôi muốn là tấm gương tốt nhất có thể cho các con gái và tôi thấy rõ là điều đó sẽ đòi hỏi tôi phải nỗ lực rất nhiều! Khuyết tật của tôi chỉ đơn giản là tôi rất hay lo sợ, thường xuyên nghĩ về bất hạnh, và luôn phải nỗ lực để không trượt trên cái dốc này trong đời sống thường ngày. Còn về thiên chức tác gia, về cơ bản, nó là sự mở rộng chức nghiệp y sĩ của tôi. Tôi thích giúp đỡ, an ủi, chữa trị. Khi tôi đọc sách của người khác – của cậu, Alexandre ạ, của Mahieu, của Christian Bobin, và của rất nhiều người khác – tôi nhạy cảm với khía cạnh trị liệu hoặc soi sáng trong cuốn sách đó. Tôi đánh giá dụng ích đối với người đọc, và theo tôi thấy, có hai loại sách: loại sẽ giúp ích và loại chỉ để giải trí. Hành trình của tôi ư? Tôi không phải khi sinh ra đã có đầy đủ các phẩm chất để chữa bệnh và nói về khổ. Tôi đã gặp đủ loại khó khăn – nhỏ hơn của cậu nhiều lắm, Alex ạ. Vì rất nhiều lý do, tôi là người trầm tính, bi quan, hướng nội, và tôi chỉ đủ sức suy nghĩ khi ở một mình. Nhưng đồng thời, tôi cũng cần người khác. Tôi vẫn thường nói rằng tôi là một kẻ cô độc quảng giao! Mỗi khi tôi có thể kể trong sách của mình khía cạnh mong manh này và cho thấy việc cải thiện điều đó quan trọng với tôi thế nào, thì tôi đều tin rằng nó sẽ đem lại chút an ủi cho độc giả, vì họ sẽ nhận thấy rằng công việc này là số phận của toàn thể nhân sinh. Điều tôi sợ nhất là bị độc giả lý tưởng hóa. Mặc dù người thân yêu thương tôi, thỉnh thoảng khâm phục một số cách xử sự của tôi, nhưng họ cũng biết những hạn chế của tôi. Vì vậy mà tôi thường nói về mình trong sách, không phải vì tính ái kỷ, mà để cho mọi người thấy những nỗ lực tôi phải theo đuổi, từ đó tránh xa một hình ảnh quá sức láng lẫy và hoàn hảo. Được học y chứ không phải kỹ sư là một may mắn đối với tôi. Hồi còn nhỏ, vì tôi là học trò giỏi, mọi người định hướng cho tôi tham gia các môn khoa học, và cũng như tất cả bạn bè lúc bấy giờ, tôi mơ ước đóng hỏa tiễn, đồ đạc, bàn ghế. Thế rồi đến phút chót, tôi đọc Freud, đây là một phần trong chương trình triết. Những điều ông viết làm tôi hứng khởi và tôi quyết định trở thành bác sĩ tâm thần. Là thầy thuốc tâm thần mà không phải nhà tâm lý học, tôi đi theo ngành y và hiểu rằng mình thật sự thích chăm sóc mọi người. Khi được giúp đỡ, an ủi người khác, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Thời còn là sinh viên, chắc chắn tôi cũng hết sức ích kỷ. Người ta không bao giờ dạy tôi lòng vị tha và tôi chỉ thích đi tiệc tùng, quyến rũ các bạn gái. Việc học y đã từng bước đưa đẩy tôi đến chỗ gặp những khổ đau thật sự, những điều khủng khiếp. Tôi nhận ra rằng việc quan trọng là có mặt bên cạnh những người đang chịu khổ. Tôi cũng hiểu rằng mình đã chọn đúng nghề vì bên cạnh nỗi buồn mà những bất hạnh của bệnh nhân gây ra trong tôi, tôi còn cảm thấy việc an ủi họ làm tôi thấy hạnh phúc và cho đời tôi một ý nghĩa mà những hoạt động khác không làm được. Suy cho cùng, việc chăm sóc và an ủi làm tôi thấy thật tuyệt vời. Có phải vì vậy mà tôi tiếp tục đi con đường này? Có phải suy cho cùng những động cơ vị tha của tôi là ích kỷ, vì chúng làm lợi cho tôi? Tôi đã tin như vậy một thời gian dài, hết sức xấu hổ về lòng vị kỷ ngụy trang này. Mãi về sau, Mahieu mới mở mắt cho tôi, anh chỉ ra rằng cảm giác dễ chịu khi chăm sóc người khác là một lợi ích của lòng vị tha, một sự có “thêm”, nhưng không nhất thiết là động cơ ban đầu. Thế rồi, học y xong, tôi chuyển sang tâm thần học. Và rất nhanh, tôi thấy rằng phân tâm học, lúc bấy giờ đang là ngành học hấp dẫn, không dành cho tôi. Nó động chạm đến mong muốn được giúp đỡ người khác của tôi. Nó đòi hỏi một vị thế rút lui mà tôi sẽ thấy không vui và không thoải mái; tôi cảm thấy mình bị hạn chế trong tính tự nhiên, bị gò bó vào một khoảng cách mà tôi thấy là không đúng khi đứng trước những người đang đau đớn. Cũng như những y sĩ ở trung tâm của cậu, Alexandre ạ, không được có mối quan hệ yêu thương với những đứa trẻ mà họ kèm cặp, thời ấy người ta cho rằng việc chăm sóc sẽ tốt hơn nếu được kiềm chế, trong một khoảng cách trị liệu tương đối. Họ chấp nhận đánh mất sức mạnh to lớn của cảm xúc, lòng trắc ẩn và thấu cảm; họ lờ nó đi hay kiềm chế nó. Lối giữ khoảng cách với bệnh nhân này, không cầm tay họ, không khuyên nhủ họ khiến tôi vô cùng khó chịu. Tôi tự nhủ: “Mình không sinh ra để làm thầy thuốc tâm thần”, vậy là tôi quay sang phẫu thuật, cấp cứu, và sinh sản. Những ngành đó cũng làm tôi hài lòng, nhưng tâm thần học vẫn luôn cuốn hút tôi. Tôi quay lại với nó theo một cách khác. Tôi rời con đường đại học, tôi từ bỏ mọi tham vọng sự nghiệp trong bệnh viện rồi đi ngao du. Tôi tìm được người thầy trong tâm thần học, Lucien Millet, người nổi tiếng là thầy thuốc tâm thần nhân văn. Tôi cảm thấy như cá gặp nước. Ông tử tế với bệnh nhân, gọi họ bằng tên riêng, quan tâm đến họ, muốn gia đình họ cùng tham gia thay vì giữ khoảng cách. Ông hành nghề tâm thần học theo cách tôi thấy nên như thế: nhân từ và quan tâm đến người khác. Tôi bắt đầu học các phương pháp hành vi, phương pháp đi ngược lại phân tâm học Lacan. Với phương pháp hành vi, chúng tôi dạy và cung cấp tình bạn. Chúng tôi giải thích cho bệnh nhân những rối loạn của họ vận hành ra sao, họ cần có những nỗ lực gì. Chúng tôi niềm nở với họ. Chúng tôi cũng đòi hỏi họ những việc khó khăn: đối mặt với nỗi sợ và lo âu. Tất cả những gì tôi làm với bệnh nhân đều được rút ra từ chính bản thân tôi. Khi tôi phát hiện ra tâm lý học tích cực, tôi cũng dùng nó rất nhiều để đối trị những xu hướng thiên về tiêu cực, bi quan và bất hạnh của mình. Rồi tôi gặp thiền, và một lần nữa đây là thứ hoàn toàn mới đối với tôi. Mỗi lần làm việc với bệnh nhân thì tôi đều đang chèo cùng xuồng với họ. Họ không biết rằng tôi thường thấy rất biết ơn sau những buổi trị liệu. Khi giúp họ hiểu được đôi điều về bản thân họ, tôi cũng hiểu đôi điều về mình. Bệnh nhân đã trở thành thầy của tôi. Tôi còn nhớ rất rõ khoảng chục người trong số họ đã làm thay đổi đời tôi mà họ không biết. Khi mình gặp nhau, Alexandre, cậu giúp tôi phát hiện ra khái niệm progrediente, một chữ La-tinh chỉ những người đang làm việc, đang tiến tới. Có lúc cậu còn có một nhóm tên là “Những Progrediente”. Đây chính là quá trình tôi tham gia trong suốt cuộc đời mình, để tự hoàn thiện, để tiến bộ, và một phần công việc của tôi là giải thích điều đó cho bệnh nhân, đồng thời khuyến khích họ làm vậy. Phải mất rất nhiều thời gian tôi mới bắt đầu hiểu những gì Mahieu thường nói: tính ưu việt của động cơ vị tha so với động cơ vị ngã. Tôi đã lầm lạc đến nỗi mà, nếu không có nghề y, chắc chắn tôi đã đi sai đường. Có lẽ tôi đã là một kỹ sư giỏi nhưng là một người không tốt. Và tôi nghĩ rằng mình chỉ tiếp nhận thông điệp này một cách sâu sắc khi đã thành người cha và thầy thuốc, khi đã “mềm lòng” nhờ các con và bệnh nhân. Vì tôi đã mất nhiều thời gian nên tôi luôn cẩn thận cảm nhận xem bệnh nhân của mình đã đến đâu rồi và chỉ hướng cho họ đến một mục tiêu xa, mà không gây áp lực khiến họ phải làm những chuyện họ vẫn chưa đủ sức. Tôi khuyến khích họ nhìn ra được rằng những hành vi vị tha nho nhỏ sẽ giúp họ bớt nghĩ đến nỗi khổ của mình, nhưng tôi không đưa chúng ra cho họ như một cứu cánh lý tưởng. Nếu tôi kể các anh nghe những chuyện này thì đó là bởi tôi luôn tha thứ cho bệnh nhân khi họ cứ bám khư khư lấy bản ngã méo mó của họ và tôi khuyến khích họ tha thứ cho bản thân về những lỗi lầm và chậm trễ. Đó là con đường tôi đã đi qua. MATTHIEU: Biết nói gì đây, sau bao điều đẹp đẽ này? Ngày còn là thằng nhóc và cả khi lớn lên, tôi không giỏi hơn cũng không dở hơn người khác. Tôi có tiếng là hơi lạnh lùng – như Alexandre đã nói lúc khởi đầu tình bạn của chúng tôi. Tôi không được hướng ngoại cho lắm. Từ lúc niên thiếu, tôi đã tiếp thu những tác phẩm tâm linh, nhờ ảnh hưởng của người mẹ thân yêu, Yahne Le Toumelin, và cậu tôi, Jacques Yves Le Toumelin, một thủy thủ đơn độc mà, trong những chuyến đi biển, đã đọc rất nhiều về giáo phái Sufi, Vedanta cùng những con đường tâm linh khác, nhất là các sách của René Guénon. Chúng tôi có một mạng lưới bạn bè rất thường đàm đạo về những chuyện như vậy. Tôi được nuôi dạy trong môi trường thế tục, tôi muốn thành bác sĩ, thậm chí là bác sĩ phẫu thuật. Nhưng tôi đã nghe theo lời khuyên của cha. Ông nói: “Bác sĩ thì có đầy rồi. Nghiên cứu mới là tương lai.” Tôi giỏi vật lý, vì vậy mà tôi chọn vật lý. Tôi không phải là một học trò xuất sắc. Rồi cha tôi nói: “Sinh học là tương lai.” Vì vậy tôi theo sinh học. Nhờ một sự may mắn, tôi vào Viện Pasteur, ở chỗ François Jacob, rồi tôi làm luận án về sự phân chia tế bào. Tình cờ là, ngay trước khi vào Viện Pasteur, tôi được xem phim Arnaud Desjardins làm về các đại sư Tây Tạng. Tôi 20 tuổi và, bỗng nhiên, điều này làm thay đổi tất cả. Tôi nhận ra rằng mọi chuyện không còn chỉ nằm trong các tác phẩm của thầy Eckhart, Ibn Arabi, Ramana Maharshi, hay của những người đã qua đời nữa. Những vị này vẫn còn sống. Vẫn còn đó những Socrates, những Francis thành Assisi, và tôi thấy dường như họ có cái gì khác thường so với tất cả những người tôi đã gặp cho đến lúc đó. Arnaud Desjardins và một người bạn nữa, Frédéric Leboyer, những người đã gặp họ trực tiếp, cho tôi xem mấy tấm hình. Họ nói với tôi: “Đây là vị làm chúng tôi thấy ấn tượng nhất, Kangyur Rinpoche. Ngài sống ở Darjeeling.” Tôi đã quyết định đi gặp thầy. Cha tôi đã có sáng kiến tài tình là cho tôi học tiếng Hy Lạp cổ, tiếng La-tinh và tiếng Đức. Ông nói rằng trước sau gì rồi tôi cũng sẽ học được tiếng Anh thôi. Do vậy mà tôi lên đường đi Darjeeling với vốn tiếng Anh chỉ là một cuốn từ điển bỏ túi. Tới nơi thì tôi sớm được gặp Kangyur Rinpoche, và thế là thầy thành thầy tôi, không chỉ vì đó là người đầu tiên tôi gặp, mà còn vì thầy là người làm tôi xúc động sâu xa nhất. Trong chuyến đi đó, tôi còn gặp các thầy khác nữa, nhưng tôi ở bên Kangyur Rinpoche nhiều hơn cả. Tôi dành ba tuần chỉ ngồi trước mặt thầy, không nói gì nhiều. Tôi không biết nói tiếng Anh và tiếng Tây Tạng thì còn ít hơn nữa. Nhưng tôi đã có trước mặt mình tấm gương, không phải về một tri thức đặc biệt hay một tài năng khác thường, như kiểu một bậc kỳ tài dương cầm, mà là tấm gương về điều tuyệt vời nhất có thể xảy ra với một con người. Thầy không giống những người tôi từng biết. Chính bằng lối sống, sự hiện diện, lòng tốt của mình mà thầy khích lệ tôi sâu xa nhất. Tôi về lại Pháp, tiếp tục luận án, nhưng mỗi năm, từ năm 1967 đến năm 1972, tôi đều quay lại Darjeeling, cả thảy bảy lần. Đến một lúc, tôi tự nhủ: “Khi mình ở Viện Pasteur, mình hầu như chỉ nghĩ đến Himalaya, còn khi mình ở Himalaya, mình không còn nghĩ đến Viện Pasteur nữa. Mình cần phải có một quyết định!” Thế là, thay vì đi Mỹ như François Jacob mong muốn, thay vì làm nghiên cứu sau tiến sĩ, tôi lại nghiên cứu đạo Phật trên rặng Himalaya! Tôi ở lại đó, hầu như không đi đâu, từ năm 1972 đến năm 1997. Tôi gần như không tiếp xúc với phương Tây nữa. Suốt giai đoạn này tôi không đọc một cuốn sách tiếng Pháp nào. Không báo, đài cũng không. Tôi còn có một lỗ hổng hiểu biết về các sự kiện thế giới diễn ra trong giai đoạn đó. Và vì tôi đã hơi xao nhãng tiếng Pháp, tôi gặp bất lợi khi phải viết sách. Trong 25 năm, tôi tập thành người Tây Tạng và tu theo đạo Phật. Về ba hoàn cảnh các anh vừa nhắc đến – người cha trong gia đình, người khuyết tật và người viết – thì người cha trong gia đình, tôi chưa bao giờ làm. Nhưng tôi vẫn chăm lo cho trẻ em qua trung gian Karuna-Shechen, một tổ chức nhân đạo tôi thành lập với một nhóm bạn. Hiện nay, tổ chức phụ trách giáo dục cho hơn 25.000 trẻ em trong các trường và mỗi năm chữa bệnh cho 120.000 bệnh nhân trong các trạm xá mà tổ chức xây dựng. Còn về khuyết tật, không phải tôi chơi trò đố chữ, nhưng tôi thấy rõ là chúng ta vẫn là người khuyết tật chừng nào ta còn chưa thức tỉnh, chừng nào ta vẫn còn trong mình dẫu chỉ một chút ác ý, tham lam hay đố kỵ, và ta chưa cảm thấy một lòng từ bao la đối với người khác. Dù đó là hạnh phúc mà các anh đang nói đến, hay lòng vị tha mà tôi tha thiết, thì tôi cũng ý thức được hết sức rõ cái lẫn lộn bóng tối và ánh sáng vẫn còn tồn tại trong mình, và những bước dài mình còn phải đi. Đôi khi tôi biết rằng còn lâu mình mới hoàn toàn nhân từ. Tôi cũng có những ý nghĩ và lời lẽ mà tôi tự trách mình khi lấy lòng vị tha ra để đánh giá. Nhưng tôi thật tâm mong muốn sửa đổi, chuyển hóa thêm nữa. Đó mới là điều đáng nói, đó là hướng tôi muốn đi theo. Tôi quay về phương Tây là do cuộc đối thoại với cha tôi. Tôi đã dùng cuộc đối thoại này viết thành cuốn sách Thầy tu và triết gia. Tôi không dám nói mình có thiên chức nhà văn. Tôi đã dịch các kinh sách tiếng Tây Tạng, nhưng tôi không có khiếu viết lách. Khi người ta đề nghị tôi thực hiện cuộc đối thoại này, tôi đã đến gặp thầy trụ trì tu viện tôi sống, Rabjam Rinpoche (cháu của Khyentse Rinpoche, thầy thứ hai của tôi, mất năm 1991). Tôi thưa với thầy: “Đây là cái người ta đề nghị con. Nói thật thì con không thấy ích lợi gì lắm khi bỏ ra mười ngày chỉ để đấu lý.” Tôi ngạc nhiên khi thầy đáp: “Có, có chứ, việc đó nên làm.” Vậy nên phần nào theo lời khuyên của thầy mà tôi nhận lời. Không có thầy, tôi đã tiếp tục một lộ trình đó, trên rặng Himalaya, tu tập và dịch kinh. Hiển nhiên là điều đó đã làm thay đổi rất nhiều thứ. Hôm nay, tôi là một người hoàn toàn vô danh, nhưng ngày mai, vì tôi được lên truyền hình, mọi người đến nói chuyện với tôi ngoài đường, họ muốn cho tôi đi nhờ đến đâu đó hay trò chuyện với tôi năm phút. Hơn nữa, vì cách ăn mặc của mình, tôi dễ bị phát hiện, chẳng khác nào một lá cờ lưu động! Vậy thì tại sao tôi tiếp tục làm những chuyện này? Tôi ở lại tịnh thất cố gắng trở thành người tốt đẹp hơn để có thể thật sự bắt tay vào phụng sự người khác thì chẳng hay hơn sao? Nếu đó là điều lý tưởng thì không cần phải dừng lại giữa đường để loay hoay gặt lúa mì khi nó vẫn còn non. Thế nhưng, hoàn cảnh đã đưa đẩy để tôi dấn thân vào đủ loại hoạt động, nhất là với hội Karuna-Shechen, hội này cho đến nay đã hoàn thành được hơn 160 dự án nhân đạo. Tôi nghĩ rằng cuốn sách chúng ta đang làm sẽ có ích. Một số người nói rằng việc này giúp ích cho họ trong cuộc sống. Điều đó bao giờ cũng làm tôi ngạc nhiên một chút, nhưng đồng thời cũng làm tôi vững tâm. Chính vì vậy tôi đi đây đó khắp nơi trên thế giới, chừng nào chuyện này còn hữu ích. Tôi qua lại giữa phương Đông và phương Tây, giữa một đời thuần truyền thống, trầm tưởng và một đời tương tác với thế giới hiện đại cùng mọi thách thức mà nó đem lại. Tôi cố tìm kiếm các thiện hữu, những người tốt nhất có thể được để lan truyền sự nghiệp vị tha mà tôi tâm đắc. Khoa học, tôi quay lại với nó bằng cách cộng tác với các nhà khoa học thần kinh. Không làm sao tôi ngờ được mình sẽ đứng trong một phòng thí nghiệm sau 35 năm rời Viện Pasteur. Trong nhiều lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, môi trường, chúng ta có thể tìm thấy một sự đồng nhất tư tưởng, với ý nghĩ rằng một trăm cọng cỏ riêng rẽ không giúp gì nhiều, nhưng nếu ta gom chúng lại thành bó để làm cây chổi, ta có thể quét dọn nhà cửa. “Quét dọn” ở đây có nghĩa là cố dẹp bỏ những chướng ngại cho một thế giới tốt đẹp hơn, một nhân loại công bằng hơn, điều chỉnh lại những bất bình đẳng, lan rộng một thế giới quan vị tha, giúp con người đem lại cho sự sống của mình một ý nghĩa, đóng góp vào lợi ích xã hội. Khi tôi gặp những con người mà tôi cảm thấy có một sự đồng nhất tư tưởng nào đó và tôi dệt nên những mối giao kết bằng hữu với họ, như với các anh, tôi tự nhủ rằng cùng nhau thì chắc chắn sẽ làm được nhiều hơn là chỉ có một mình, ta có thể bảo ban nhau, làm suy nghĩ phong phú hơn và tìm ra những phương cách tốt hơn để giúp tha nhân. Hoàn cảnh đẩy đưa sao mà, dần dà, cả ba chúng ta đã càng lúc càng thân thiết hơn, chúng ta hiểu nhau hơn và quý nhau hơn. Còn giờ, về chuyện nhà văn, tôi không hẳn là nhà văn. Tôi say mê với những ý tưởng hơn cả. Nhiều lúc mọi người hỏi tôi có một sứ mệnh ở phương Tây hay không. Không hề. Không có kế hoạch đặc biệt nào. Khi người ta nói với tôi trên phòng thu truyền hình: “Rốt cuộc thì ngài làm gì ở đây?”, tôi đáp: “Mọi người yêu cầu tôi đến, tôi đến rồi. Nhưng nếu mọi người không mời tôi, tôi cũng không được hay mất gì cả.” Nếu tôi có thể chia sẻ những ý nghĩ của mình, tôi sẽ sẵn sàng. Bằng không, tôi không mong gì hơn là được ở lại trong tịnh thất của mình. Tôi sẽ không hỏi mãi một câu hỏi: “Mình sẽ viết cuốn gì tiếp theo?” Thời gian thì quý báu mà tôi cũng đã tìm hiểu những đề tài làm tôi say mê hơn. Sau lòng vị tha thì không còn đề tài bao la nào khác cần thiết nữa. Trái lại, nếu cùng nhau chúng ta có thể soạn thảo một công trình đem lại chiều kích bổ sung cho cái mỗi người có thể làm phần mình, tôi sẽ rất vui. Đó là mong muốn của chúng ta đã từ nhiều năm nay. 1 NHỮNG NGUYỆN VỌNG SÂU XA NHẤT CỦA CHÚNG TÔI LÀ GÌ? M ATTHIEU: Điều gì thật sự quan trọng trong cuộc sống? Điều gì mà trong thâm tâm ta xác định là cốt lõi? Chắc hẳn phải có, bên trong chúng ta, một điều gì đó thúc đẩy ta, một đường hướng cần thiết và đem lại một ý nghĩa cho từng bước chân của ta. Sống không phải là đành lòng trôi dạt theo những sự gặp gỡ và hoàn cảnh, làm được chăng hay chớ, cho qua ngày. Tôi không nói rằng sáng ra vừa mở mắt đã phải quyết định là ta sẽ thay đổi thế giới, nhưng tôi thấy dường như điều cơ bản là phải nhìn thấy một sự liên tục nào đó, một tiến triển, trong điều mà chúng ta mong đạt được trên hết mọi thứ trong đời. Một số người không thích “xây dựng bản thân suốt đời”. Thế nhưng, tháng nối tháng, năm tiếp năm, ta tự xây dựng, không phải để thỏa mãn bản ngã, mà để trở thành một người tốt đẹp hơn, vị tha hơn và sáng suốt hơn. Ta không thể bất thần quyết định sẽ phụng sự người khác 100%. Cần có thời gian mới đạt được khả năng biến lý tưởng này thành hiện thực. CÁI THÚC ĐẨY CHÚNG TÔI ALEXANDRE: Ngoài những khát vọng lành mạnh thôi thúc chúng ta đi tới, luôn tiến lên, còn cả vô vàn tham vọng ích kỷ làm chúng ta đảo điên và đau khổ. Spinoza, trong cuốn Đạo đức học, đã phân biệt rõ ràng những mong muốn chính đáng (những điều sinh ra từ trong sâu thẳm và từ căn tính ta) với những mong muốn không chính đáng mà chúng ta đưa từ bên ngoài vào. Quảng cáo, thứ khơi dậy cả ngàn ham muốn, là một ví dụ tuyệt vời. Phân biệt trong ta cái nào thuộc về ham muốn chính đáng, cái nào không là một bài tập có sức giải phóng ghê gớm. Nếu tôi nhìn vào những trông đợi dệt nên đời tôi, tôi sẽ đánh bật được nhu cầu dữ dội phải đi vào khuôn khổ, phải làm hết sức mình, đến mức kiệt sức, để bắt chước người khác. Nhờ có khổ tu, những tu tập, tôi bắt đầu phân biệt được những ảnh hưởng, những tất định luận đè nặng lên mình. Việc quan sát mỗi dục vọng lướt qua tâm trí và xem nó bắt nguồn từ đâu gần giống một trò chơi. Ta có thể tìm thấy tự do trong bài tập này, rồi thì mỗi giây phút tồn tại đều có thể trở thành dịp để giải phóng ta, vì ta sinh ra không phải đã tự do, mà ta phải trở nên tự do. CHRISTOPHE: Câu hỏi về những nguyện vọng sâu xa nhất của tôi, ngay lúc này, làm tôi có chút lúng túng. Trong một thời gian dài, tôi gần như có cảm giác mình đang đi trên một lộ trình sống còn, cố đi đến thứ làm mình đỡ khổ, đồng thời không làm đau người khác. Đây là một quy tắc theo trực giác chi phối cách sống của tôi thì đúng hơn là một nguyện vọng hay lý tưởng có ý thức. Do vậy, việc tôi thành thầy thuốc cũng khá hợp lý vì thực ra, khi làm vơi nỗi khổ của người khác, tôi đạt được một kiểu khuôn khổ xã hội tương ứng với thứ mà tôi muốn đi đến một cách vô thức. Dần dần, tôi bắt đầu biết phân biệt hơn. Từ lâu tôi đã luôn tìm kiếm sự an toàn. Tôi muốn gia đình mình không bị thiếu thốn vật chất, một nỗi lo có lẽ thừa hưởng từ cha mẹ tôi, những người xuất thân từ tầng lớp nghèo. Tôi muốn che chở cho người thân, và đương nhiên là cả chính tôi. Nhưng đây không phải là những nguyện vọng cao cả, và rõ ràng nghề y đã giúp tôi đi xa hơn. Giờ đây, tôi thấy rất khó nói rằng nguyện vọng sâu xa của tôi thật sự chỉ là giúp người khác đỡ khổ. Tôi không biết điều đó là từ trong sâu thẳm mình hay từ bên ngoài… Và tôi cũng không muốn làm ra vẻ là một vị thánh! ALEXANDRE: Trong con người có một khả năng kỳ lạ là tự dối lòng và tự huyễn hoặc. Phải cực kỳ trung thực thì mới dám thừa nhận rằng những mong muốn của mình không phải bao giờ cũng trong sáng, và thỉnh thoảng, khi lấy cớ cứu người khác, chúng ta tìm kiếm trước hết sự công nhận, một phương tiện để băng bó vết thương của ta. Có bao nhiêu là ảnh hưởng đúc khuôn hành động và cách sống của ta, ngay cả cách ta nhìn thế giới. Nếu xem lại hành trình của mình, tôi sẽ phát hiện ra rất nhiều khoảnh khắc mà tuy tôi tin mình hoàn toàn tự do nhưng thực ra tôi chỉ đang tự dối lòng mà thôi. Khi nhìn kỹ hơn một chút việc mình hứng thú với đời sống tâm linh, tôi phát hiện ra, trên hết, tôi có một nỗi sợ ghê gớm là phải chịu đau khổ. Thật ra, ban đầu, tôi giống kẻ đắm tàu tìm phao cứu sinh. Dần dần, động cơ chủ yếu tập trung vào mình này lớn thêm, và tôi bắt đầu mở lòng với người khác. MATTHIEU: Ngày còn ở Viện Pasteur, tôi có một anh bạn đồng nghiệp tên là Ben Shapiro. Tôi ngồi chung bàn làm việc với anh ta, và thỉnh thoảng chúng tôi bàn sự đời. Chúng tôi không biết mình thật sự muốn làm gì trong đời, nhưng chúng tôi biết cái chúng tôi không muốn: một kiếp sống nhàn nhạt không ý nghĩa cũng không ích lợi, không gợi lên trong chúng tôi niềm vui hay nhiệt huyết nào mỗi ngày. Hiển nhiên, mục tiêu đầu tiên của tất cả mọi người là sống. Có những lúc, hay những nơi trên thế giới, mà sống thậm chí còn là ưu tiên số một, vì phải đối mặt chiến tranh, nạn đói, bệnh dịch, tai ương. Nhưng khi ta không cảm thấy bị đe dọa trước mắt, dù rằng sự vô thường cứ đuổi theo sát gót và ta không bao giờ biết ngày mai sẽ ra sao, ta phải tự nhủ rằng ta sẽ không chỉ “giết thời gian” và phung phí đời mình. Ta cần lên kế hoạch cho một sự phát triển, một dạng thành tựu. Riêng tôi thì tôi luôn tự hỏi: “Hạnh phúc là gì? Gom góp lạc thú? Tìm thấy niềm mãn nguyện sâu xa hơn? Hiểu tâm mình vận hành ra sao? Hay tập tử tế hơn với người khác?” Với tôi, những điều đó tựu trung lại là đặt cho mình câu hỏi: Cái gì quan trọng nhất trong đời mình? Tôi cũng sẽ nói, như Alexandre: Đâu là những mong muốn từ sâu thẳm trong mình, và đâu là những mong muốn từ bên ngoài mà đến, áp đặt hay lừa lọc gợi ý, như những thứ lấp lánh của xã hội tiêu thụ? Tôi nhớ có hôm một người bạn Tây Tạng, tại Quảng trường Thời đại ở New York, giữa những bảng hiệu sáng lóa cứ thường trực lôi kéo mắt nhìn, nói với tôi rằng: “Chúng đang cố cướp lấy tâm trí tôi!” Đến một lúc nào đó, thoát khỏi mọi ảnh hưởng bên ngoài, ta phải tự hỏi: Điều gì thật sự đáng giá? Điều gì khiến mình nghĩ rằng mình đã không để phí thời gian? Ta có thể đều đặn đặt cho mình câu hỏi này và, hai mươi năm sau, nhìn lại, ta cũng nên có cảm giác như người nông dân đã dốc hết sức trồng cấy cánh đồng của mình. Dẫu không phải lúc nào mọi chuyện cũng diễn ra như ta mong đợi, ta vẫn phải có khả năng nghĩ rằng: “Mình không hối tiếc, vì mình đã làm mọi thứ mình làm được, trong khả năng của mình.” CHRISTOPHE: Khi Patrick Modiano nhận giải Nobel, trong bài diễn từ nhận giải, ông ấy đã nói đại ý là: “Khi đọc các bài viết liên quan đến mình, tôi rất ngạc nhiên với việc người ngoài thấy một sự mạch lạc trong tác phẩm của tôi, trong khi đó, với tư cách tác giả, tôi thấy mình như một người lái xe chạy trong đêm và không thấy gì xa hơn luồng đèn pha xe mình. Mục tiêu chỉ là vẫn đi trên đường, không chạy quá tốc độ quy định, không chẹt chết lũ nai băng qua…” Tôi thấy chức năng của mình cũng có chút gì tương tự như vậy: làm mọi điều tốt đẹp và càng ít điều xấu càng tốt với người khác cũng như với chính mình. Ngoài ra thì tôi thấy khi đến một số ngã tư nào đó, tôi đã chọn xem nên đi đâu, theo cách có cân nhắc. không chỉ là tình cờ mà tôi rẽ trái hay rẽ phải. Nhưng nó cũng không liên quan gì đến một cái nhìn từ trước hay một đồ án sống cầu kỳ và có cấu trúc. CON ĐƯỜNG VÀ ĐÍCH ĐẾN MATTHIEU: Tôi nhớ là đã gặp, ở Canada, một nhóm thanh niên vừa ra trường. Suốt sáu tháng họ đã gặp các chuyên gia tư vấn nghề nghiệp và điền các bản câu hỏi, người ta chỉ cho họ đi hướng này hướng kia. Nhưng làm sao mà định hướng đời mình bằng những bản câu hỏi và nghe theo lời khuyên của những người hầu như không biết gì về ta? Tôi nói với họ: “Tại sao các anh chị không ngồi xuống bên bờ hồ một lát, chỉ một mình hay với ai đó mà anh chị rất yêu quý? Đừng điền các bản câu hỏi nữa, hãy đóng máy tính lại, tự hỏi cái mà anh chị thật lòng muốn làm trong đời, và để cho câu trả lời tự lộ ra từ trong sâu thẳm con người mình.” Hành trình lâu dài hay những gian truân của nó không phải là một trở ngại. Khi ta du hành trên Himalaya, mọi chuyện không phải lúc nào cũng dễ dàng. Khi thì thời tiết tốt, khi thì thời tiết xấu. Cảnh vật có thể đẹp tuyệt trần, nhưng ta cũng có thể phải dừng chân vì một hẻm núi hay lội bì bõm trong một rừng già sình lầy giữa lòng thung lũng nhiệt đới. Thế nhưng, mỗi bước sẽ đưa ta đến gần nơi ta muốn đến hơn, và điều đó khích lệ ta. Nhân đây, định nghĩa về nhẫn nhục, một trong sáu “đại hạnh” của đạo Phật, hay paramita, mà cậu nghiên cứu ở Hàn Quốc, Alexandre ạ, là “hoan hỉ khi đem lại lợi lạc”. “Lợi lạc” ở đây không phải là một việc tốt đơn giản, mà là cái gì đó truyền cảm hứng cho ta sâu sắc, nó là niềm hoan hỉ dưới dạng nỗ lực. Dẫu hành trình đôi khi cam go, niềm hăng hái vẫn còn nếu ta tiến tới nơi mà ta thật lòng muốn đến. Trái lại, nếu ta đi lạc và thấy mình không còn vạch mốc, ta sẽ nản chí. Thêm vào cái mệt mỏi còn có nỗi lo và cảm giác bất lực. Ta không còn muốn bước nữa mà chỉ muốn ngồi xuống, lả đi và tuyệt vọng. Bởi thế cho nên phương hướng ta đặt ra cho mình trong đời đóng một vai trò rất quan trọng. Các nhà tâm lý học về hạnh phúc, như Daniel Gilbert, nói rằng tự nỗ lực đã đem lại sự mãn nguyện, đến được đích rồi thì ta sẽ khá thất vọng. Khi nói chuyện với anh ta, tôi mạo muội nói: “Chẳng hạn nếu tôi muốn một chiếc Maserati, tôi sẽ rất hào hứng, và nếu nghĩ kỹ thì tôi thấy mình cũng ‘hạnh phúc’ trong khi phải lao tâm khổ tứ đủ cách để kiếm tiền. Nhưng tậu được chiếc xe rồi thì tôi sẽ sợ người ta va quẹt hay lấy trộm và vậy là, cuối cùng, chuyện này không đem lại cho tôi niềm hạnh phúc tôi mong đợi.” Nói vậy có nghĩa là, chừng nào còn lẫn lộn về điều thật sự đem lại hạnh phúc thì ta sẽ thấy thất vọng khi đạt được mục tiêu. Nhưng nếu mục tiêu cũng đáng bỏ công, chẳng hạn nếu tôi muốn trau dồi sự sáng suốt và lòng nhân ái, cả con đường lẫn đích đến đều sẽ khiến tôi hài lòng. Rắc rối là ở chỗ chúng ta thường dối mình khi chạy theo những mục tiêu hão huyền, như giàu có, tiếng tăm, vẻ đẹp bên ngoài – bao nhiêu ảo ảnh không thật sự giúp gì cho sự phát triển của ta. ALEXANDRE: Liên tục đi tới, không bị trói buộc vào một mục tiêu, rất khó. Tôi phải luôn tự hỏi cuộc sống kêu gọi tôi tới cái gì, ngay lúc này đây. Khi tôi băng qua những vùng nhiễu động, câu hỏi này khuyên tôi có hành động, mà không thúc hối tôi. Nó dẫn dắt tôi tới cái cụ thể khi tôi lạc trong sương mù trí óc. Trong Phúc Âm, Jesus nói rằng “con người không có chỗ mà gối đầu”. Tương tự như vậy, trong tu hành Phật giáo, người tu không được trụ ở đâu cả. Ngay khi có chấp trước là khổ xuất hiện. Theo một nghĩa nào đó, những chế nhạo và thử thách có thể giải phóng ta khi chúng đến đuổi ta ra và ngăn ta ở lại trong một cảm xúc hay một hình ảnh. Trên tàu điện ngầm, thiên hạ cười rúc rích khi tôi đi ngang qua, tôi tận dụng cơ hội đó để nhắc mình rằng tôi không chỉ là cái bề ngoài, rằng sâu thẳm con người tôi thì nằm ngoài mọi cái nhìn. Tôi thích cái ý thiên chức hơn là cái ý đích đến, nó nhắc tôi rằng không phải tôi là người quyết định cuối cùng. Ta hãy gọi đó là ý muốn của Chúa Trời hay tiếng gọi của cuộc đời hay cả ngàn cách khác, và ta chỉ cần ghi nhận rằng cái tôi nhỏ bé không phải là thuyền trưởng. Có một thực tại sâu xa hơn nhiều đang cầm lái. Điều này, trái lại, không cản trở việc dấn thân hay hành động. Ta không rơi vào thuyết định mệnh cũng không xua đuổi đích đến, ta luôn tiến lên. Giáo huấn của Thiền tông về điểm này rất rõ ràng: hãy làm mọi chuyện thật hoàn hảo và thản nhiên với kết quả. MATTHIEU: Đích đến mà tôi nói là cái khơi nguồn cho tôi, nó không phải cái ám ảnh tôi và tôi không dồn mọi tham luyến vào đó. Gọi nó là một đường hướng hay một nguyện vọng thì thỏa đáng hơn, và nó không chịu những giới hạn. Trong đạo Phật, ta dè chừng mọi chấp trước, kể cả chấp trước một mục đích cao cả, vì sự chấp trước này tạo ra hiệu quả trái với cái ta tìm kiếm. Ta có thể khao khát được giải thoát khỏi những nguyên nhân gây khổ, khỏi ích kỷ, vô minh, đố kỵ, ngã mạn, nhưng dụng đích không phải là tính điểm, mà là xác định xem ta muốn hướng tới cái gì, và nó có đáng hay chăng. ALEXANDRE: Tôi rất thích sự phân định giữa cái tôi xã hội, nghĩa là tập hợp những vai trò mà ta đóng hằng ngày, và cái tận cùng, cái sâu kín của ta, thứ vượt ra ngoài mọi nhãn hiệu và không thể định nghĩa. Toàn bộ sự tu hành suy cho cùng là để vào ngụ trong đó, thay vì chết rục trong cái tôi phiến diện cứ thay đổi và chịu khổ. Sự phân biệt này an ủi tôi rất nhiều. Nó khai thông một con đường đặc biệt, xóa sạch những nhãn dán, và có thể bắt đầu bằng những câu hỏi rất đơn giản: Thật ra thì mình là ai? Những chọn lựa nền tảng trong đời mình là gì? Những ảnh hưởng nào đã tạo nên mình cho đến hôm nay? Tôi thấy ngạc nhiên về cách chúng ta bù đắp cho những thiếu sót của mình, chúng ta bắt chước người khác để xây dựng bản thân. Trong cuốn Đạo đức học, Spinoza khuyên chúng ta hãy nhận ra mọi nguyên nhân thúc đẩy chúng ta hành động hay phản ứng. Tự do sinh ra từ việc nhận thức được điều này trong từng khoảnh khắc. MATTHIEU: Vấn đề hoài nghi cũng quan trọng. Vài năm trước, tôi dịch cuốn tự truyện bằng tiếng Tây Tạng của Shabkar, một hành giả sống cách đây cũng hơn hai thế kỷ. Tình cờ là trong thời gian đó người ta cũng đang xuất bản tiểu sử của nữ thánh Térèse thành Lisieux. Tờ Le Monde đã đăng một bài về hai tác phẩm này. Đại để thì họ nói rằng cuộc đời của Shabkar không thú vị lắm vì con đường của đại hành giả Tây Tạng này vô cùng quen thuộc. Ngài đi từ vô minh đến giác ngộ như thể ngài dạo chơi trong rừng. Hẳn là ngài cũng phải chịu đựng những thử thách thể xác, nhưng không có những “đêm đen của tâm hồn”, những hoài nghi vò xé, trong khi đó ở thánh Térèse thành Lisieux, có những lúc ngài một lòng tin tưởng, thế rồi, lúc sau lại chỉ là khoảng hư vô, Chúa Trời dường như đã biến đâu mất. Khi xem xét sự khác biệt giữa hai hành trình, tôi thấy dường như là, đối với các tín đồ Cơ Đốc, mối tương thông với Chúa Trời quan trọng hơn hết thảy, vì họ từ bỏ mọi mối bận tâm trần tục. Cho nên tất cả đều phụ thuộc vào sự hiệp thông mãnh liệt giữa họ với Chúa Trời, cũng như sự tồn tại của Chúa Trời. Thế nhưng sự tồn tại này là một bí ẩn, muôn đời không thể tiếp cận. Ý niệm bí ẩn này thật tuyệt vời. Như thể có một ngọn núi hùng vĩ đời đời ẩn sau những đám mây nhưng truyền cảm hứng cho toàn bộ sự tồn tại chúng ta. Có những lúc ta tin tưởng sâu sắc rằng nó ở đó, ta tương thông với nó, rồi lại có những lúc lòng ta đầy hồ nghi. Do vậy mà có những cảm giác nhiệt thành, lớn lao, thần bí, theo sau lại là những đêm đen mịt mùng. Trong đạo Phật, giác ngộ là một mục đích được định nghĩa rõ ràng, nó nằm trước mặt tôi, có chút giống như đỉnh Everest đối với kẻ muốn leo lên. Tôi không băn khoăn về sự tồn tại của thứ hùng vĩ trước mắt tôi, mà tôi tự hỏi mình có đủ sức để lên đến đỉnh hay chăng, và tôi ra bãi biển không tốt hơn sao. Nhưng khi nghĩ kỹ thì tôi thấy rõ rằng mình khát khao leo lên ngọn núi này vì tôi biết rằng thật sự cần thoát khỏi vô minh, hận thù, đố kỵ, ngã mạn, tham lam, vậy là tôi không đắn đo nữa. Tu tập theo đạo Phật tất nhiên không được miễn những chướng ngại. Ta có thể lạc khi thiền, tưởng lầm là mình đã đạt đến những trạng thái chứng ngộ cao siêu, trở nên thối chí, rơi vào cái nhị nguyên hy vọng và sợ hãi. Nhưng rõ ràng những trở ngại này không nguy kịch bằng sự luân phiên giữa đức tin và ngờ vực như mẹ Teresa đã tả trong Tự truyện. ALEXANDRE: Tôi đến Hàn Quốc còn là để tìm hiểu sâu hơn nữa cuộc đối thoại giữa các tôn giáo. Con đường không hề thư thả, dẫu rằng nó khuyên tôi có thái độ vô chấp và không tuyệt đối hóa. Nhiều lúc, các Phật tử nhẹ nhàng răn dạy tôi: “Sao anh lại tin có một Chúa Trời có nhân cách? Cái ý niệm Đấng Sáng Tạo này thật đúng là nhảm nhí.” Và khi tôi quay sang một vài tín đồ Cơ Đốc thì tình hình cũng không khá hơn, họ trách tôi là đi tìm ở nơi khác: “Sao anh lại theo Thiền tông khi mà trong Phúc Âm đã nói Jesus là con đường, là lẽ thật, là sự sống?” Nhưng may sao, có cả ngàn ví dụ về sự giao hảo. Gần đây tôi đến một thánh lễ có một nhà sư Thiền tông tham dự. Và tôi thấy thầy, như một đứa trẻ, lắng nghe lời mục sư với sự sẵn lòng vô cùng. Khi thầy đọc thánh vịnh, tôi nhận ra rằng chính trong thực hành mà chúng ta hòa hợp. Thật phi thường khi một nhà sư đã truyền cho tôi, chỉ bằng sự hiện diện, cái mong muốn mạnh mẽ được chuyên tâm hơn nữa cho một đời cầu nguyện. Thật ra, thầy tránh xa các lý thuyết, suy biện: thầy sống giữa tâm của đời sống nội tâm. Không phủ nhận những khác biệt về tầm vóc tồn tại giữa đạo Phật và đạo Cơ Đốc, tôi thấy vui vì có những cây cầu nhỏ và kinh nghiệm ta có thể sẻ chia. Không có gì tệ hại hơn là chiến tranh giữa các tôn giáo, mà suy cho cùng là kết quả của tính giáo điều và rất ít tính đạo. Theo dòng cuộc đối thoại này, tôi nhận thấy ý niệm ân sủng, nghĩa là một tặng vật, một sự phù hộ cho không, là điều cốt lõi trong đức tin Cơ Đốc. Và chính điều này làm tôi ngoảnh mặt một chút những khi tôi không ổn. Để phó mặc, tin tưởng trong khi quanh ta mọi thứ đều lung lay thì cần có sự táo bạo ghê gớm vượt quá sức tôi giữa lúc đau đớn giày vò. Khi đàm đạo với Mahieu, tôi dần dần hiểu rằng đạo Phật đem lại một con đường, một phương pháp để đạt tới giác ngộ, để leo lên ngọn Everest cực lạc. Và những ai muốn theo dấu chân Đức Phật được khuyến khích cầm lấy gậy hành hương, chuyển tâm, thực hành Bát Chánh Đạo để khởi sự cuộc leo núi này. Nói chung, như Mahieu đã nói, ngọn Everest ở đó và chúng ta chỉ việc leo lên thôi, dẫu rằng lộ trình vô vàn gian truân. Khi đọc Phúc Âm, tôi tìm thấy một sự khổ tu sáng rạng dẫn đến việc xem nhẹ bản thân và phó thác hoàn toàn cho thiên ý. Nói chung, để lên đến đỉnh Everest, vấn đề là phải phó thác cho Chúa Trời, trông cậy ở ngài hơn là ở sức mình. Tôi vẫn đùa với Mahieu là trong Cơ Đốc giáo, ta chỉ cần đi thang máy tâm linh lên hợp nhất với Chúa Trời. Nhưng cần có can đảm ghê gớm để tin tưởng, để bước vào thang máy và từ bỏ toàn bộ sự duy ý chí. Điều quan trọng là tiến bước trên đường, không tuyệt đối hóa nó mà cũng không chê bai những con đường khác. Khi tiếp xúc với các tôn giáo khác, ta dễ sa vào chuyện so sánh. Về phần mình, tôi sống nhờ đạo Phật mà tôi tin là khuyến khích tôi ngày càng trở nên Cơ Đốc hơn, gần gũi với Chúa Ki Tô hơn và thực hành Phúc Âm mỗi ngày. Trí huệ của Đức Phật còn giúp gột sạch những thành kiến, những hình ảnh tôi phóng chiếu lên Chúa Trời. Thầy Eckhart cũng nói đến sự khổ tu này khi cầu nguyện với Chúa Trời: “Hỡi Chúa Trời, xin hãy giải thoát cho con khỏi Chúa Trời.” Biết bao lần tôi đã biến tôn giáo thành thứ công cụ để tìm thấy ở đó một kiểu an ủi, một chỗ dựa, hơn là một nguồn thúc đẩy hay một động lực. Khi nghe chuyện Chúa Jesus đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền, tôi hiểu rằng có nguy cơ rất lớn là ta sẽ biến tôn giáo thành công cụ, biến nó thành chỗ mặc cả mà ta mua bình yên bằng đồ cúng tế. Nếu Đức Phật dỗ dành tôi thì Chúa Ki Tô an ủi tôi bằng lòng nhân của ngài. Với tôi, việc tin ở Chúa Trời và theo bước Ki Tô bao hàm trước hết một đức tin, một nghệ thuật sống, một kỷ luật nội tâm, một sự khổ tu. Nhưng buộc phải ghi nhận rằng ngày nay Chúa Jesus không được coi trọng bằng Đức Phật. Có hôm, khi tôi chia sẻ một câu của đức Đạt-lai Lạt-ma trên Facebook, tôi nhận được cả núi Like, nhưng khi tôi đăng một video giáo hoàng Francis từ trên xe bước xuống để ôm hôn một người tàn tật bên đường, post của tôi hầu như không được ai để ý. Tôi chỉ nhận được các bình luận nhắc đến lịch sử nhức nhối của giáo hội: những cuộc thập tự chinh, tòa dị giáo, vô số trường hợp ấu dâm. Tôi nghĩ rằng cuộc đối thoại giữa các tôn giáo đòi hỏi một điều kiện tiên quyết: phải sa thải mọi ý đồ biện giải, thực sự quan tâm nhiều hơn đến người khác và ra khỏi cái logic “tôi đúng vậy thì anh sai”. Đức Phật nuôi dưỡng tôi trong đời sống hằng ngày, cũng như Chúa Ki Tô. Vậy thì tại sao tôi phải chọn lựa? Cũng giống như tôi có hai đứa con, hai người bạn, hay hai người cha, và người ta yêu cầu tôi từ người hay người kia. Chúng ta cần tránh thuyết tương đối của kẻ thực hiện chuyến du lịch tâm linh và nấu một kiểu lẩu nào đó với tất thảy mọi tôn giáo. Nói ngắn gọn thì tôi vui mừng vì các Phật tử giúp tôi đến gần Chúa Ki Tô. Đấy là một niềm hy vọng tuyệt vời khi mà xu hướng tự nhiên khiến ta cứ chú tâm vào những nhãn dán. MATTHIEU: Chúng ta đã đề cập đến thiên hướng, mong muốn, phương hướng, sự thích đáng. Vấn đề là, như tôi đã nói, biết những thứ này có một ý nghĩa nào đó với mỗi người hay không. Chẳng hạn, nếu người ta đề nghị tôi một việc làm mà tôi tuyệt không hứng thú, điều này vẫn có ý nghĩa nếu tôi cần nó để nuôi con. Sự giàu sang, quyền lực và tiếng tăm là nguồn cảm hứng với những người này nhưng lại không có gì lý thú đối với những người khác. Diogenes đã nói với Alexander Đại đế rằng: “Tôi vĩ đại hơn ngài, thưa ngài, vì tôi coi khinh nhiều thứ hơn những gì ngài chinh phục được.” Trong ý phương hướng, sự tương đẳng, còn có cái ý tìm thấy một ý nghĩa cho từng khoảnh khắc trôi qua, từng nỗ lực ta có. Thiếu ý nghĩa, đời tôi có nguy cơ trôi đi như một cuốn phim nhàm chán. Như Pierre Rabhi đã nói, đầu tiên ta ngồi trong hộp đến trường, rồi ta đến hộp đêm giải trí, rồi ta được một cái hộp tuyển dụng để gây dựng sự nghiệp, và cuối cùng là ta nằm trong một cái hộp, một cỗ quan tài. Đối với người quán tưởng, ý nghĩa không phải là làm sinh lãi tài khoản trong nhà băng, mà là, sau nhiều năm nỗ lực tinh tấn, có thể giải thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực như tham, sân, si hay loạn động, những xung đột nội tâm, tán loạn. ALEXANDRE: Theo anh thì thế nào là một người quán tưởng? MATTHIEU: Người quán tưởng, ít nhất trong nghĩa Phật giáo, là người hiểu rằng tâm mình có thể là người bạn thân nhất, nhưng cũng có thể là kẻ thù nguy hiểm nhất, và do vậy anh ta cần chuyển hóa nó bằng thiền định. Anh ta quán tưởng bản chất nền tảng của tâm, và thực hành này có mục đích là làm thay đổi nhận thức của anh ta về người khác, về chính anh ta và thế giới. Và khi anh thay đổi nhận thức của mình về thế giới, theo một cách nào đó, anh cũng thay đổi thế giới. Thường thường, người ta bằng lòng khi tìm thấy những giải pháp nho nhỏ cho từng ngày, trong khi người quán tưởng mà tôi nói tìm cách thay đổi toàn triệt cách anh ta cảm nghiệm thế giới. Anh ta học cách để không sa vào bẫy của những thứ hành hạ và nô dịch anh ta, mà thoát khỏi nó. Anh ta đỡ yếu thế hơn, do vậy mà rảnh tay hơn nữa cho kẻ khác. Anh ta còn tập làm quen với thành phần nền tảng của tâm, ý thức đầu tiên, luôn có mặt đằng sau biến động của ý, và ngay cả khi ý nghĩ vắng mặt, ý thức đó vẫn sáng rõ trong ngần không bao giờ biến tính bởi những cái mà tâm trí dựng nên. ĐIỀU TRUYỀN CẢM HỨNG CHO CHÚNG TÔI MATTHIEU: Trên đường, ta có thể tìm sự giúp đỡ từ một thiện hữu, một vị thầy, một người hiểu và làm chủ được tâm hơn ta. Dù ta làm nghề gì thì ta vẫn luôn cần có người dẫn dắt để học hỏi và tiến bộ. Người dìu dắt này, nhất là về tâm linh, cần phải có mọi phẩm tính cần thiết. Cái nguy là, khi ta trong trạng thái hoang mang hay không vững vàng, ta sẽ đi tin tưởng một tên lang băm. Vị thầy chân chính không mong được gì cũng không sợ mất gì. Thầy có mọi thứ để cho và chia sẻ. Thầy chẳng màng có thêm dăm ba môn đệ, thầy không cầu vinh quang, quyền lực hay giàu sang. Thầy chỉ mong mỏi giúp người khác giải thoát. Chính thầy cũng cần là tấm gương sống về sự giải thoát này. Trong trường hợp của riêng tôi, sau khi gặp vị thầy đầu tiên, Kangyur Rinpoche, tôi đi từ hoang mang và không mục đích đến một cái nhìn sáng tỏ và đầy khích lệ về điều mình có thể hoàn thành trong đời này. ALEXANDRE: Để tiến tới giải thoát, ta cần tự hỏi ai là tấm gương cho mình, tham chiếu của ta là gì. Có phải tay vận động viên vẻ vang cứ thích đạt thêm thành tích? Chủ doanh nghiệp hám tiền? Diễn viên đầy tiếng tăm? Hay là người hàng xóm khiêm cung tận tụy với người khác? Nói ngắn gọn là, tôi nhìn về ai để học cách sống? Những đức tính, phẩm chất mà tôi muốn học theo để tiến bước là gì? Với tôi, những người làm tôi xúc động và giúp tôi trưởng thành là những người mà, ngày ngày, tỏa ra lòng tốt và không bao giờ để cái khổ làm mình cay đắng, những người anh hùng thầm lặng trong đời sống hằng ngày: sáng thức dậy, độ lượng, chịu đựng thử thách mà không đánh mất niềm vui. MATTHIEU: Tôi nhớ có một khảo sát người ta thực hiện ở Mỹ mà trong đó họ hỏi: “Giữa Đạt-lai Lạt-ma và Tom Cruise, anh chị thấy ngưỡng mộ ai hơn?” 80% trả lời: “Đạt-lai Lạt- ma.” Câu hỏi tiếp theo: “Vậy nếu được chọn thì anh chị muốn trở thành người nào?” Lần này, đa số đáp: “Tom Cruise.” Tôi thắc mắc nguyên do là ở đâu. Rõ ràng họ nghĩ rằng, khi đã có ngoại hình, tiếng tăm và sự giàu có của Tom Cruise rồi thì họ có thể tự có được những phẩm chất nhân đạo của Đạt-lai Lạt-ma, họ thấy như vậy thì dễ hơn là ngược lại. Sự thật thì điều này không dễ dàng hơn. Chuyển tâm là công việc của cả đời người. Ngày nọ, một nhà báo Chile hỏi ngài Đạt-lai Lạt- ma: “Có ba mươi ngàn người đến nghe ngài trong sân vận động này, vì sao lại đông như vậy?” Ngài đáp: “Tôi không biết, hãy hỏi họ!” Ngẫm nghĩ một lát, ngài nói thêm: “Có lẽ là vì, từ sáu mươi năm nay, sáng nào tôi cũng thiền bốn tiếng đồng hồ về lòng từ bi.” CHRISTOPHE: Từ lâu tôi đã thấy khó chịu với những mẫu mực. Tôi lớn lên với một nỗi ngờ vực về người lớn. Tôi thấy rõ sự mong manh của họ đến mức mà có lẽ tôi dần có một kiểu thận trọng, thậm chí là ác cảm với ý nghĩ người khác có thể làm thầy. Tôi thấy thoải mái hơn nhiều khi xem tất cả mọi người đều là mẫu mực, nhưng theo kiểu tạm thời. Thật ra, tôi xúc động sâu xa nhờ những bài học từ bệnh nhân, từ con tôi, hay người xa lạ. Tôi cũng chưa bao giờ tìm thầy. Mối quan hệ phụ thuộc này luôn làm tôi sợ. Một người thầy tạm thời thì có thể là một người thân kể tôi nghe một câu chuyện và làm tôi thán phục về trí thông minh hay sức mạnh của họ. Gần đây, một người bạn tâm sự với tôi chuyện anh ta ở bên người vợ sắp chết. Chị bị ung thư, và thể trạng của chị càng ngày càng suy yếu. Anh ta kể tôi nghe anh rửa ráy cho vợ, xoa bóp hai bàn chân cho vợ, và anh còn duy trì, thậm chí làm phong phú thêm, quan hệ yêu đương của hai người. Nghe anh ta kể, tôi thấy như mình đang đứng trước một cái gì đó thật đáng nể, một tấm gương về phẩm cách, tận tụy, và vị tha. Những điều này làm tôi suy nghĩ nhiều, và khi tôi tình cờ gặp ai đó có cách xử sự gương mẫu, tôi luôn đặt ra cho mình hai câu hỏi: “Mình có làm được điều đó không?” và “Mình có thể làm gì ngay lập tức để đến gần được điều đó?” Đôi lúc các cô con gái của tôi cũng là thầy. Cô thứ hai chẳng hạn, là một đứa hăng hái, vui vẻ, trong khi đó thì tôi, một cách tự động – nếu không cố gắng, là người trầm uất và chuyên “lý sự cùn” để biện minh cho thế giới quan của mình. Trước kia, tôi thấy rằng những người nhiệt tình thường tự đưa mình vào thế nguy hiểm vì họ sẽ chuốc lấy sự thất vọng. Hoặc họ làm tôi khó chịu (tôi thấy họ không hiểu thực chất của đời sống), hoặc họ làm tôi thấy lo (tôi sợ giùm cho họ). Từ lâu tôi đã sợ cho con gái tôi, sợ nhiệt tâm của nó, sợ khuynh hướng vui vẻ dù cho có chuyện gì của nó, sợ nó sẽ bị tổn thương hay thất vọng, không gượng dậy được. Thế rồi, cách đây vài năm, nhờ tự kiểm nghiệm lại bản thân, tôi hiểu rằng con bé mới là người có lý! Hai năm nay rồi, nó đang học lớp dự bị, chịu vất vả, mỗi ngày dậy lúc 6 rưỡi sáng, đi tàu điện một giờ buổi sáng và một giờ buổi chiều. Và ngày nào tôi cũng dậy theo để chuẩn bị nước cam, cà phê, bánh sandwich cho nó, tôi nghĩ rằng quan trọng là tôi có mặt. Hầu như lúc nào con bé cũng tươi cười vui vẻ, ngay cả trong mùa đông, trời lạnh, vào ban đêm, hay trong thời gian có bài kiểm tra, bài thi. Có những buổi sáng nó hỏi thăm tôi, và một vài lần, tôi không được khỏe nhưng tôi không muốn cho nó thấy, nên tôi đáp: “À, tốt, tốt.” Con bé trách tôi: “Cái ‘tốt’ này nghe không thuyết phục lắm đâu ạ!” Dần dần, tôi thuộc bài. Và tôi đã có thể tự nhủ: “Chuyện gì đi nữa thì sáng ra mình cũng có mọi lý do để vui vẻ; mình thức dậy, mình sống trong chế độ dân chủ, mình sẽ sống một ngày trên Trái đất này, mọi người thương yêu mình và dẫu mình có những điều lo nghĩ nhưng tối nay mình vẫn sẽ tươi vui như thường!” Vậy là mỗi sáng, tôi học được một bài học đáng nể và nhẹ nhàng. Tôi đang đứng trước một người thầy (hay một người cô!) về niềm vui, sự nhiệt tình và tin tưởng ở cuộc sống, và tôi rất biết ơn con bé về điều đó! ALEXANDRE: Việc làm theo lời dạy của một người thầy không hề ngăn tôi dè chừng như bệnh dịch những đạo sư mà tôi xem như tột đỉnh của sự tha hóa nếu họ không giải thoát cho ta khỏi tâm lý của ta, và nếu bản thân họ không sống trong một sự buông bỏ tận cùng. Khi tin tưởng giao cho người chưa qua tu tập chìa khóa số phận của mình thì sẽ có những tác hại kéo theo. Làm sao để tránh sa vào sự sùng bái và thôi tìm kiếm một ông bố tuyệt vời chiều chuộng ta? Thiên chức của sư phụ, hay người thầy, chính là thức tỉnh cho ta thấy tự do của mình, truy đuổi không khoan nhượng mọi mưu chước của bản ngã và đồng thời, chứng tỏ một tình thương vô điều kiện. Tuy nhiên, điều đó không thường thấy. Tôi may mắn được gặp một tu sĩ Thiên Chúa giáo cũng đồng thời là thiền sư. Vừa gặp nhau thì tôi đã hiểu rằng thầy sẽ là thầy tôi. Điều làm tôi cảm động là chưa lúc nào thầy đòi cái danh xưng thầy. Trái lại, thầy không ngừng trả tôi về với tự do của mình. Cho đến hôm nay, dọc đường tôi chưa từng gặp một lòng tốt như vậy, một sự khôn ngoan và đức tin ở Chúa Trời như vậy. Một vị thầy đích thực thì không còn bản ngã. Không có mong muốn chiều lòng nào, không có ý muốn thao túng nào làm vẩn đục được lòng từ bi vô biên của thầy. Thầy thể hiện một sự nhất quán tuyệt đối. Điều tôi phát hiện ra nhờ người sư phụ là khả năng luôn tự huyễn không thể tin nổi của tôi. Chỉ một người dìu dắt sáng suốt và nhân từ vô biên mới có thể kéo ta ra khỏi những ảo tưởng, thứ làm ta xa rời những gì thật sự tốt cho ta. Thật khó giữ một khoảng cách tối thiểu khi mà, từ sáng đến tối, chúng ta vật lộn trong một mớ bòng bong cảm xúc! CHRISTOPHE: Alexandre này, khi cậu kể về cuộc sống hằng ngày với thiền sư của mình, tôi “phục lăn” vì tôi không đời nào dám nói với bệnh nhân hay người thân được một phần mười những điều thầy nói với cậu. Về phần mình, tôi có một nỗi sợ đến ám ảnh là thêm khổ cho người khác. Theo tôi nghĩ, hết chín trên mười lần thì sự dè dặt này tốt, tôi tránh được việc làm khổ quá nhiều, nhưng thỉnh thoảng, nỗi sợ phải thành thật đưa ra ý kiến này trói buộc tôi. Tôi không dám nhìn thẳng vào mặt người đó mà nói rằng như vậy là đủ rồi, họ không nên ngoan cố trong những sai lầm như vậy nữa. Và cũng như cậu, tôi rất ngưỡng mộ những người có thể nhắc ta rằng có những thực tại, rằng không phải chuyện gì cũng có thể, không phải cái gì cũng được phép, rằng ta không thể cứ làm theo ý mình mãi. MATTHIEU: Cái anh nói về thầy của Alexandre làm tôi nhớ ngày tôi sống bên Khyentse Rinpoche, người thầy thứ hai của tôi. Dù tôi khó mà hình dung được một người từ tâm hơn, nhưng đôi lúc thầy cũng cực kỳ nghiêm khắc với tôi. Tuy nhiên, suy cho cùng, nếu không thì sao thầy có thể dọn sạch những khuyết điểm và bản ngã của tôi? ALEXANDRE: Cần phân biệt rõ hai thứ. Thiên chức của đạo sư là cứu chúng ta ra khỏi nhà tù bản ngã đồng thời giúp chúng ta đến gần giác ngộ hay hợp nhất với Chúa Trời; nhiệm vụ của bác sĩ trị liệu là giúp chúng ta đi qua thử thách, tìm được công cụ để kham nổi những khổ nạn lớn. Nếu một thầy thuốc tâm thần muốn đóng vai đạo sư và thực hành những cú sốc điện mà ta thấy trong Thiền tông, anh ta có thể đưa một bệnh nhân ra thẳng nghĩa địa. MATTHIEU: Thái độ này của Khyentse Rinpoche không phải theo kiểu cứng nhắc. Thật ra, hầu như những ai biết thầy đều nói rằng họ chưa bao giờ thấy ai dễ mến hơn thầy, rằng thầy chưa bao giờ cao giọng hơn người khác. Điều đó không ngăn thầy tỏ ra không thương tiếc với những khuyết điểm của chúng tôi khi thầy thấy đã đến lúc làm vậy và khi thầy biết người nghe thầy nói gần gũi với thầy đủ để hiểu rằng thầy chỉ muốn điều tốt cho họ. ALEXANDRE: Điều gì làm anh cảm động nhất trong 13 năm sống với thầy? MATTHIEU: Trước hết, trong suốt những năm đó, không lúc nào tôi chứng kiến một lời hay một cử chỉ chỉ trích người khác. Cuối cùng, tôi phải tin rằng thầy chưa bao giờ có dù chỉ một chút ác ý, rằng thầy chỉ có một mong muốn duy nhất là dìu dắt người khác đi tới tự tại. Trong cuộc sống hằng ngày, tôi cũng chưa bao giờ chứng kiến một tâm trạng thất thường. Thầy luôn hành động và đối xử với người khác bình đẳng và tùy duyên. Thầy chứng tỏ một sự nhất quán hoàn toàn giữa bên trong và bên ngoài. Thỉnh thoảng thầy tỏ ra nghiêm khắc kinh khủng, nhưng điều đó không liên quan gì đến tâm trạng không vui. Biết bao lần tôi đã nhận ra rằng đó chỉ là để giúp người khác bỏ được những khuyết điểm. Dần dà, điều đó gợi trong tôi một lòng tin tưởng hoàn toàn. ALEXANDRE: Sao lại một lòng tin tưởng hoàn toàn? MATTHIEU: Trong mối tương giao bình thường giữa con người với con người, tôi buộc phải thỏa hiệp với phần bóng tối và ánh sáng trong mỗi người. Tôi biết rằng tôi có thể tin tưởng những người này, nhưng ít hơn với những người khác. Một thợ thủ công khéo léo, một kỳ thủ hay một tay dương cầm tài năng có thể cho tôi những lời khuyên chí lý trong chuyên môn của họ, nhưng tôi không mong chờ họ chỉ cho tôi làm sao để trở thành người tốt hơn. Tôi biết rằng, ngoài những phẩm chất mà tôi nhờ đến họ, họ cũng có thể có đủ kiểu khuyết điểm. Trong trường hợp vị thầy này, kinh nghiệm cho thấy rằng tôi có thể hoàn toàn tin tưởng ở thầy. 13 năm tôi thường trực ở bên thầy lại càng khẳng định điều đó. Không lúc nào tôi nhận thấy thầy có chỗ sơ hở. Vả chăng lòng tin này cũng là không thể thiếu đối với tôi. Để nhờ thầy giúp tôi thoát khỏi những nguyên nhân khổ, tôi cần tin tưởng hoàn toàn ở thầy. Tôi không thể cho phép mình nghi ngờ những lời khuyên của thầy trong từng giai đoạn. 2 BẢN NGÃ, BẠN HAY BỊP? A LEXANDRE: Ta hãy tấn công không chậm trễ vào thứ khổng lồ này: bản ngã. Câu chuyện trong Sáng Thế Ký đã đưa ra một lời chẩn đoán sáng suốt. Sau khi nếm trái cấm, Adam và Eva: “Đoạn, mắt hai người đều mở ra, biết rằng mình lõa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân.” Nỗi xấu hổ, cảm giác tội lỗi, vị ngã, làm sao mà không bước vào vòng xoáy địa ngục này được? Việc mất đi sự hồn nhiên có lẽ là do tự cho mình là cái rốn, bắt đầu cưng quý hình ảnh bản thân, một mớ nhãn hiệu, cả khối ảo tưởng, tách rời thực tại và muốn làm trung tâm thế giới trong khi đòi một sự độc lập tuyệt đối. Khuynh hướng ái kỷ bẩm sinh này mang lại cho ta những mâu thuẫn ghê gớm! Nếu tôi đứng tách riêng, nếu tôi nhốt mình trong những hình ảnh, nếu tôi cứ đóng một vai, làm sao tôi có được niềm vui đích thực? Nói một cách cụ thể, ngay khi tôi bám víu vào một ý niệm, ngay khi tôi gắn bó với con người tôi tưởng là mình, tôi chắc chắn sẽ thấy mình lãnh đủ. Để làm hỏng đời mình, tôi còn có phản xạ đáng sợ này: càng khổ, tôi càng có nguy cơ co dúm, thu mình. Cái vòng lẩn quẩn quỷ quái này! May sao tu tập đem lại cho chúng ta một lối thoát. Làm sao bỏ được khuynh hướng tai hại cắt liên lạc với thế giới, với Chúa Trời và người khác này? Làm sao để chữa thói vị ngã? Vậy là tôi đã có thể ngừng sáng ra thức dậy làm người tiêu thụ tham lam để quan tâm hơn một chút đến người khác. Việc bỏ cái logic “tôi, tôi, tôi trước” không phải chuyện dễ. Thế nhưng cũng có cả vô vàn dịp để dừng việc nuôi một bản ngã phàm ăn. Khi cắt bít tết trong đĩa mà không rơi vào cảm giác tội lỗi có hại, tôi có thể thấy những nguyên tắc sai sử đời mình: Tại sao tôi tin rằng thú vui của mình đáng để giết một con thú? Bài tập đơn giản thôi. Hãy phát hiện ra, để nhổ bỏ, cái thói quen đặt mình vào trung tâm, và đừng bao giờ biến người khác thành công cụ mà hãy yêu thương họ thật lòng. Có hôm một thầy tu đã nói thẳng với tôi thế này: “Thật sự giác ngộ là không để người khác sau mình nữa, không còn tự cho mình một đặc quyền đối với mọi chúng sinh.” Đúng là một việc lớn lao! NHỮNG CĂN BỆNH CỦA BẢN NGÃ CHRISTOPHE: Hiện nay, người ta không dùng từ “bản ngã” mà thường dùng từ “lòng tự trọng”. Nó được định nghĩa là tập hợp những cách nhìn nhận, đánh giá, xem xét, đối xử với bản thân. Về phần mình, tôi coi bản ngã là tập hợp những sự gắn bó với bản thân, với hình ảnh của mình, và tôi muốn được nói về những bệnh lý của nó cùng mọi hệ quả mà nó gây ra. Nhờ rất nhiều nghiên cứu mà ta biết rằng lòng tự trọng chịu ảnh hưởng sâu xa bởi các mối quan hệ xã hội. Thực ra, rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giá trị mà ta tự gán cho mình được cấu thành một cách mạnh mẽ, chưa nói là duy nhất, từ cảm tưởng rằng ta phải được người khác quý trọng. Nói cách khác, cái nhìn của người khác là thứ định hình cái nhìn mà ta tin là liên quan đến mình và nó thể hiện trên thực tế cách ta thấy mình trong mắt người khác. Lòng tự trọng có hai căn bệnh trầm kha, cả hai đều gây ra những nỗi khổ ghê gớm. Trước hết là quá chấp ngã, điều ta thấy ở người ái kỷ, kéo theo đó là một hệ quả tức thì. Ta càng chấp ngã, ta càng muốn được ngưỡng mộ, ta càng cho mình hơn người khác và tự cho mình những quyền cao hơn. Do vậy mà những người ái kỷ có cách xử sự đặc thù, họ tự cho mình quyền chạy xe nhanh hơn người khác vì họ nghĩ mình lái giỏi hơn, vượt mặt tất cả mọi người đang xếp hàng chờ vì thời gian của họ thì quý giá hơn, lo cho lợi ích của mình hơn của người khác. Nhưng còn một kiểu ám ảnh bản thân nữa, sự chấp ngã thái quá có liên quan đến những người thiếu lòng tự trọng. Đây là một chấp trước tiêu cực. Thực ra, những người này cũng có ám ảnh về cái nhìn và đánh giá của người khác như những người ái kỷ, nhưng thay vì tìm kiếm sự ngưỡng mộ hay thái độ phục tùng, họ lại rình theo sự đánh giá và chỉ trích vì họ sợ bị hắt hủi, sợ mọi người không yêu họ đủ. Những công trình nghiên cứu về lòng tự trọng đã bắt đầu từ thập niên 1960. 50 năm sau, người ta đã có rất nhiều tiến bộ và hiểu rằng mục tiêu lý tưởng của lòng tự trọng là quên đi bản thân. Khi quan sát những người có lòng tự trọng tốt, ta nhận thấy rằng họ không hề vênh váo. Họ không cần mọi người nghĩ về họ và họ tận tụy trong mọi hành động, trong mọi mối quan hệ mà không đặt câu hỏi liên miên về mình. Người Mỹ dùng từ “quiet ego” có nghĩa là một bản ngã thanh thản, không còn ám ảnh về việc “Thiên hạ sẽ nghĩ sao về mình? Mình có đáp ứng được không?” Làm sao để đạt được mục tiêu này? Khi ta yêu cầu ai đó có phức cảm, những người tự nghĩ mình không đủ đức tính tốt, nghĩ về điều gì ngoài họ, họ sẽ không đủ sức làm vậy. Trái lại, khi được chữa khỏi rồi, họ có khả năng ý thức được điều đó. Tôi nhớ một bệnh nhân đã nói với tôi về đề tài này: “Khi tôi ở bên những người tôi thấy ấn tượng, mà tôi thì không được sung mãn, tôi sẽ muốn biến thành một con chuột nhắt, biến đi để người ta khỏi bận tâm đến tôi. Lúc đó tôi nghĩ về công việc chúng ta làm trong trị liệu và dặn mình: ‘Đừng làm mình thành nhỏ nhít như vậy, mình không vĩ đại vậy đâu!’ Nói cách khác, mi đừng lo, thiên hạ không say mê mi, không phải lúc nào họ cũng nhìn mi, đánh giá mi. Miễn là mi không leo lên bàn rồi hú lên thì mi cũng có chỗ của mình giữa người khác mà không là đối tượng ám ảnh của họ.” Có rất nhiều nghiên cứu về đề tài này, và một nghiên cứu in dấu trong tôi nhất đã chỉ ra, một cách nghịch lý, rằng sẽ ích lợi cho lòng tự trọng của một cá thể khi trau dồi cảm giác thuộc về, tình huynh đệ với người khác. Việc này không những không hạ thấp anh ta mà còn làm anh ta yên tâm và xoa dịu anh ta. Ngược lại, ham muốn lấn át tạo sự bất an, đe dọa và mệt mỏi. Đó là một sai lầm mà rất nhiều bệnh nhân không có đủ lòng tự trọng phạm phải. Họ có cảm giác là để được người khác chấp nhận, họ phải được người khác nể nang. Chẳng hạn, nếu họ có mặc cảm ít học, họ sẽ cố làm ra vẻ có học thức. Đây lại chính là cách trước kia chúng tôi sử dụng để trị liệu lòng tự trọng. Chúng tôi cố khôi phục giá trị bệnh nhân, khuyến khích họ tự nhìn mình một cách tích cực. Và thông thường, rất nhiều bệnh nhân nhút nhát, mặc cảm, có ấn tượng là, để không còn bị lấn át nữa, họ cần phải lấn át. Ngày nay, chúng tôi khuyên họ nên có những mối quan hệ chiều ngang mà không phải chiều dọc, và chúng tôi bỏ những câu chuyện lấn át này, vì chúng rất tai hại về cảm xúc. Chúng tôi biết rằng những đối tượng ái kỷ có những ám ảnh về việc thống trị, công nhận, khuất phục từ phía người khác là những người cực kỳ bất an, có các mức độ lo âu, căng thẳng, khó chịu cao. Những đối tượng thiếu lòng tự trọng cũng tương tự như vậy. Tôi sẽ kết luận theo hai điểm. Một là, bản ngã là một cái xấu cần thiết, như một chiếc xe thuê. Chúng ta cần nó để đi qua cuộc đời, hệt như ta cần một phương tiện di chuyển để đi từ điểm này sang điểm khác – trừ phi ta là một ẩn sĩ hay một người quán tưởng không bước chân ra khỏi tự viện, như vậy thì có lẽ dẹp hẳn bản ngã đi thì đơn giản hơn. Trên các nẻo đường đời, có những xe gây ô nhiễm hơn những xe khác, những chiếc ô tô to bốn bánh ngốn rất nhiều xăng, muốn được người ta ngắm nghía, muốn được phép đi trước, nhưng cũng có những chiếc xe đạp nhỏ không gây ô nhiễm và không gây tiếng ồn. Tôi thấy dường như ta không thể tống khứ bản ngã, ném nó ra cửa sổ, mà ta chỉ có thể an tâm là nó không quá ô nhiễm cho người khác, không quá tốn kém cho chúng ta (về năng lượng, chăm sóc, bảo dưỡng…). Điểm thứ hai là, ta không thể mong tống khứ bản ngã bằng cách xem thường nó. Ở những bệnh nhân bị chứng thiếu lòng tự trọng, giải pháp không phải là tiếp tục xem thường bản thân. Thường thì, họ vừa ám ảnh vừa bực tức về mình. Vậy là ta trở lại với cái khác biệt chính yếu này giữa chấp trước và vô chấp: mục đích không phải là xả bỏ không tha thiết bản ngã theo kiểu ám ảnh, mà là nỗ lực đạt đến chỗ không còn chấp ngã. TỰ TIN ĐÍCH THỰC MATTHIEU: Tôi thường có dịp nói về diệt ngã trong khi tu hành theo đạo Phật. Nhiều lúc mọi người thấy không thoải mái với phương pháp này. Họ hỏi: “Chẳng phải cần có bản ngã để sống ở đời sao?” hay: “Chẳng phải rất nhiều người bị những rối vọng tâm lý vì bản ngã của họ manh mún hay nhu nhược hay sao?” Theo cái nhìn của đạo Phật, thay vì nói về bản ngã, hãy nói về nội lực. Sức mạnh này song hành với việc giải thoát khỏi cái ách của bản ngã, cội nguồn của mọi thứ làm độc tâm chúng ta. Những nghiên cứu mà anh nói đã cho thấy là việc từ bi, quảng đại, khoan dung với bản thân cho phép ta có lòng tự trọng lành mạnh. Ngược lại, mọi phương pháp đã dùng, nhất là ở Bắc Mỹ, để gia tăng lòng tự trọng bằng cách giả tạo đều dẫn đến tính ái kỷ, đến nỗi mà, theo nhà tâm lý học Jean Twenge, từ 20 năm nay, người ta quan sát thấy ở Mỹ tính ái kỷ đã trở thành một bệnh dịch thật sự: 90% sinh viên được hỏi nghĩ rằng họ nằm trong số 10% người có năng khiếu nhất, 90% người lái xe (ngay cả những người mới gây tai nạn) tin chắc họ lái giỏi hơn người khác. Ta không cần phải là nhà toán học mới hiểu được rằng không thể nào có chuyện tất cả mọi người đều giỏi hơn mức trung bình! Ở Mỹ, các bậc phụ huynh và thầy cô nhắc đi nhắc lại từ sáng đến tối với con cái là: “Con rất đặc biệt!” Trẻ con nghe theo. Chúng mặc những chiếc áo thun hay dùng các nhãn hiệu có ghi “Tôi đặc biệt”. Mười bộ đồ cho bé gái thì một bộ có gì đó nhắc đến “công chúa”. Tôi nhận được từ Mỹ một thiệp nhạc mừng sinh nhật ghi rằng: “Chúng tôi rất muốn bạn biết rằng bạn thật sự đặc biệt.” Thế nhưng, sau khi tổng hợp rất nhiều nghiên cứu, nhà tâm lý học Roy Baumeister đã kết luận rằng mọi nỗ lực và tiền bạc mà các nhà trường, phụ huynh và thầy thuốc điều trị đổ vào để khuyến khích lòng tự trọng chỉ đem lại những lợi ích nhỏ nhoi. “Sau bao năm,” anh ta kết luận, “tôi phải lấy làm tiếc mà nói rằng: hãy quên lòng tự trọng đi, thay vào đó, tập trung vào việc làm chủ mình và kỷ luật tự giác.” Hiển nhiên là chúng ta không muốn mình rơi vào thái cực kia và, như anh đã nói rõ trong các tác phẩm của mình, Christophe, một lòng tự trọng “đúng” và lành mạnh là thứ không thể thiếu để phát triển trong đời sống, vì việc tự giảm giá trị bản thân một cách tai hại có thể kéo theo những rối vọng tâm lý trầm trọng và những đau khổ lớn lao. Để kết luận, sự tự tin của một người ái kỷ là vô cùng mỏng manh vì nó dựa trên sự kênh kiệu của bản ngã đã mất liên lạc với thực tại. Khi Narcissus nhận ra là mình không có gì khác thường, rằng chàng ta không đẹp hơn, không thông minh hơn, không duyên dáng hơn, không có tài hơn mức trung bình, cú rơi thật tàn nhẫn và làm sinh ra trong chàng một nỗi giận dữ hay trầm cảm. Do vậy, không phải là bám vào một thực thể giả tạo của bản ngã mà ta đạt được một sự tự tin lâu bền. Tự tin đích thực sinh ra từ việc thoát khỏi cái bẫy và cái ách của bản ngã. CÁI TÔI, NGƯỜI VÀ BẢN NGÃ MATTHIEU: Chúng ta xem cái tôi của mình là một thực thể độc lập, tự trị và lâu bền. Điều này tất nhiên giúp ích cho ta sống ở đời, nhưng khái niệm này có thật sự tương ứng với thực tại hay không? Khi tôi xem bức hình mình hồi còn bé, tôi nghĩ thầm: “Thằng nhóc đạp xe này là mình đấy.” Từ sau giai đoạn này, tôi đã kinh qua đủ thứ và cơ thể tôi già đi, nhưng tôi tự nhủ: “Trước sau vẫn là mình đấy thôi.” Trong hiện tượng này, nhiều cơ cấu tâm thần xảy ra đồng thời: nhận thức về một “tôi”, nhận thức về một “người” và nhận thức về một “bản ngã”. Cái tôi sống trong hiện tại; hắn là người suy nghĩ, sáng ra “tôi thức dậy”, “tôi tồn tại”, rồi “tôi lạnh” hay “tôi đói”. Nó tương ứng với kinh nghiệm về thực trạng của chúng ta. Ý niệm người phản chiếu lịch sử của ta. Đó là một thể liên tục mở rộng ra đến toàn thể tồn tại của ta bao gồm các khía cạnh thể xác, tinh thần và xã hội. Sự liên tục của nó trong thời gian cho phép ta nối các hình ảnh của ta thuộc về quá khứ với những hình ảnh liên quan đến tương lai. Còn lại là bản ngã. Một cách tự nhiên, ta xem nó làm nên cái lõi con người ta. Ta quan niệm nó như một toàn thể không thể phân chia và thường hằng định hình ta từ nhỏ cho đến lúc chết. Bản ngã là người chủ sở hữu của “thân xác tôi”, “ý thức tôi”, “tên tuổi tôi”. Thực chất thì ý thức của ta là một dòng năng động thường trực biến đổi, nhưng ta cũng không khỏi hình dung nó là một thực thể riêng biệt như một con thuyền xuôi dòng sông. Một khi nhận thức về một “tôi” và một “người” kết tinh lại trong cảm nhận về danh tính còn mạnh mẽ hơn nhiều là bản ngã, chúng ta muốn bảo vệ và làm thỏa mãn bản ngã này. Chúng ta tỏ ra ác cảm đối với tất cả những gì đe dọa nó, và thấy cuốn hút theo tất cả những gì làm nó hài lòng và củng cố nó. Hai phản ứng này làm sinh ra vô số cảm xúc đối nghịch – giận dữ, ham muốn, thèm khát, đố kỵ... Chỉ cần xem xét một chút bản ngã là đủ hiểu đây chỉ là một sự lừa phỉnh mà tác giả là tâm trí ta. Chẳng hạn ta hãy thử định vị nó. Khi tôi nói: “Anh mới đánh tôi” thì tôi không nói: “Anh mới đánh vào người tôi, nhưng cũng không sao vì đó không phải tôi.” Do vậy, tôi kết hợp bản ngã với thân xác mình. Ý thức của tôi thì không thể bị đánh được. Nhưng khi tôi nói: “Anh làm tôi buồn lòng”, tôi kết hợp bản ngã của tôi với những tình cảm của tôi, ý thức của tôi. Hơn nữa, khi tôi nói những tình cảm “của tôi”, ý thức “của tôi”, tên “của tôi”, thân xác “của tôi”, bản ngã có vẻ như là chủ sở hữu của tất cả những thứ này. Ta không rõ lắm làm sao mà một thực thể được ban cho sự tồn tại riêng lại có thể, theo cách nói của Arlequin, nhận hết mọi danh tính tương khắc này. Bản ngã do vậy không thể chỉ là một khái niệm, một cái nhãn tinh thần dán lên một quá trình năng động. Hẳn là nó hữu ích cho ta vì nó cho phép ta gom lại một tập hợp các tình huống hay thay đổi, các cảm xúc, suy nghĩ của ta, nhận thức về môi trường của ta, thành một tổng thể mạch lạc. Nhưng suy cho cùng nó là sản phẩm của một sinh hoạt tinh thần liên tục duy trì trong đời sống, trong tâm trí chúng ta, một thực thể tưởng tượng. ALEXANDRE: Anh sẽ nói gì với một thiền sư thực hành những cú sốc điện và không ngần ngại, nếu cần, giáng cho một môn sinh vướng trong chấp trước một cái tát đau điếng? MATTHIEU: Nếu tôi là một thiền sinh chân chính, tôi sẽ tự nhủ: “Ai đánh mình vậy, bàn tay của thầy, hay cái ý định dẫn dắt bàn tay đó?” hay còn nữa: “Cái gì làm mình thấy đau, má mình hay những cảm xúc của mình?” Chuyện này làm tôi nhớ lại câu chuyện một người bạn ở Hồng Kông đến tu học trong tự viện của chúng tôi ở Shechen, Nepal. Hơn một nghìn người ngồi dưới đất, san sát nhau bên trong điện. Đến một lúc, ai đó ngồi đằng sau cô này đánh một cú vào lưng để nhắc cô nhích lên một chút. Sự việc này làm xáo trộn cô cả giờ. Cô tự nhủ: “Mình từ xa lắc đến để thọ giáo về nhẫn nhục và từ bi, vậy mà có người cư xử thô lỗ với mình, trong khi chính anh ta cũng đến để học hỏi những điều này”. Nhưng một lúc sau, cô không nhịn được cười. “Con đã nhận ra,” cô kể lại với sư thầy của tự viện, “là thân con cảm nhận cú đánh trong vài giây, nhưng bản ngã của con thì chịu đựng nó cả giờ.” Trở lại việc xem xét bản ngã, chúng ta thường đi đến kết luận rằng bản ngã là ý thức của chúng ta. Thế nhưng, chính ý thức này cũng là một dòng chảy không nắm bắt được: quá khứ đã chết, tương lai vẫn chưa sinh ra, hiện tại không có quãng thời gian nào. Làm sao mà bản ngã có thể tồn tại khi lửng lơ giữa cái không còn tồn tại nữa và cái vẫn chưa tồn tại? Còn phút giây hiện tại thì không thể nào sờ thấy được. Bản ngã không thể sống thọ nếu nó ngụ trong cái trong suốt của phút giây hiện tại, hoàn toàn không có những ý nghĩ tranh luận. Nó có nhu cầu sống bằng những sự nghiền ngẫm quá khứ và dự đoán tương lai. Thế thì, nếu bản ngã chỉ là một ảo tưởng, thoát khỏi nó không có nghĩa là tiệt trừ cái cốt lõi tồn tại của chúng ta, mà chỉ là mở mắt chúng ta ra. Và vì sự chấp ngã của ta là ngọn nguồn của khổ, sẽ cực kỳ hữu ích nếu lật bộ mặt bịp bợm của nó. Đừng sợ, khi vất bỏ bản ngã, ta không trở thành một thứ rau cỏ mà hoàn toàn trái lại. Paul Ekman có lần nói: “Tôi nhận ra rằng, ở những người tôi thấy như được phú cho những phẩm chất người khác thường đồng thời đem lại ấn tượng là tốt bụng, trong sáng và vui sống, như Đạt-lai Lạt-ma hay Desmond Tutu, họ có một bản ngã khó nhận thấy. Mọi người tự nhiên ước được ở bên họ, mọi người thấy mình được phong phú thêm. Những vị này là nguồn khích lệ cho người khác vì họ ít xem trọng địa vị, tiếng tăm, cái tôi của họ. Một sự vắng bặt tính vị ngã như vậy thật đáng ngạc nhiên.” QUÊN MÌNH, VẮNG LẶNG BẢN NGÃ ALEXANDRE: Lúc nào chúng ta cũng nghe thấy những từ bản ngã và cái tôi mà không hẳn biết chúng chỉ điều gì. Và nói thật thì tôi cũng thấy khó định nghĩa chúng. Theo tôi thấy, bản ngã giống như là một mớ ảo tưởng gồm những ham muốn, sợ hãi, cảm xúc, và hình ảnh mà, để khổ thêm, chúng ta bám vào. Cần phân biệt rõ cái tôi huyễn ảo này, cái mặt tiền và cái bên trong, nội tâm của chúng ta, nó nằm ngoài việc vật thể hóa. Thế nhưng, ý niệm bản ngã vẫn cứ mù mờ trong đầu tôi. Bởi vậy, làm sao tôi thoát khỏi nó được? Nhờ Christophe, tôi bắt đầu hiểu và phân biệt được nó. Từ lâu tôi đã hồ nghi khi nghe một sự ca tụng lòng tự trọng nào đó. Tôi sợ là nó thành sùng bái cá nhân. Nhưng, như Christophe đã chỉ ra, không có một nhân cách có cấu trúc tốt, không có một sự tự tin lành mạnh, chúng ta sẽ rơi vào rất nhiều cảnh nô lệ. Tôi cũng muốn nhớ lại phân tích rất hay của Rousseau trong Luận về nguồn gốc và nền tảng của bất bình đẳng giữa con người. Ông đã phân biệt thương thân, thứ xúi mỗi cá thể lo cho mình, tránh xa nguy hiểm, với tự ái, một dục vọng rất mực xã hội. Chúng ta biết mọi tổn hại mà nó gây ra: ham mê dư luận, thèm khát cái bề ngoài, ham muốn thống trị, ham thích quyền lực. Thực ra, tự ái nảy sinh từ so sánh. Ta tự bịa ra một ý niệm về mình và ta chấp thủ vào nó, từ đó thêm khổ. Về cơ bản, nó không can dự gì đến thương thân, cái khuynh hướng nguyên sơ, loại bản năng bảo tồn giục chúng ta lo cho đời mình và, trong rất nhiều trường hợp, giúp chúng ta tiến lên. Không may là, lắm lúc, cái đà này đi xoắn ốc và thoái biến thành tính ích kỷ. Triết gia này đã cho tôi một chìa khóa hiệu quả để không chìm đắm trong sự tôn thờ cái “tôi” nhưng cũng không vì thế mà xoay tít trong sự tự khinh bỉ thảm hại. Ramana Maharshi, hiền triết Ấn Độ vĩ đại, cũng đã mở đường cho tôi. Ông có thể giúp tôi tách khỏi cái tôi bung xung để về với cái sâu thẳm mà ở đó niềm vui và bình yên vốn có sẵn trong chúng ta. Tôi có thể học theo ông mà tự hỏi: Mình là ai? Nếu không bị ám ảnh thì sẽ thật giải thoát khi tự vấn: Mình có phải là thân xác, ý nghĩ, cái xe thổ tả của mình? Mình có phải là những tín ngưỡng, những chính kiến của mình? Chúng ta còn được giải phóng hơn nữa nếu coi những cảm xúc rối bời là tín hiệu chấp ngã cuối cùng. Sao tôi cứ bám vào một ý nghĩ đến mức chịu khổ vì nó? Tại sao nhiều lúc tôi thà chết còn hơn thừa nhận mình sai? Tinh vi hơn, trong mảnh đất đời sống tâm linh còn có sự xâm lấn của tính ái kỷ đảo ngược: “Tôi sẽ cho anh thấy tôi không có bản ngã, rồi anh sẽ thấy…” Đứng trước nguy cơ này, có nhiều thứ phải làm thay vì khinh thường bản thân. Đúng hơn, ta nên lắng nghe khẩu hiệu của Spinoza: “Đừng chế nhạo, đừng khóc lóc, đừng căm giận, mà hãy hiểu.” Truy đuổi những cơ cấu vây hãm ta trong bản ngã, phát hiện những ách nô lệ ta là một thách thức vui vẻ hơn là một phận sự. Và tại sao không khởi động ngày của mình bằng một bảng tổng kết nho nhỏ, một bản tin thời tiết nội bộ: “Nghe này, hôm nay, cái tôi bé nhỏ của tôi cục cựa dữ lắm. Tôi thấy không được khỏe lắm, tôi cực kỳ nhạy cảm và để người ta chấp nhận tôi, tôi sẵn lòng bò.” Tôi cũng thích bài tập tôi đề nghị với các con khi chúng hơi nghịch ngợm. Chúng tôi giữ im lặng ít phút để quán tâm trí. Các Phật tử thỉnh thoảng so sánh tâm trí với một con khỉ con cực kỳ náo động chuyền từ cành này sang cành khác, không bao giờ yên. Thực hành, rất đơn giản, chỉ là không cố gắng thay đổi bất cứ gì, bình thản nhìn nó làm trò. Và tại sao không hết sức bình thản nói với nó: “Khỉ con, khỉ con đáng yêu!” Đặc điểm của tâm trí chính là bất như ý thường trực. Nó luôn luôn chịu ảnh hưởng của những cảm xúc nhiễu loạn. Khi chúng ta cảm nhận được niềm vui, bản ngã lu mờ đi. Sẽ không còn cần phải chứng tỏ gì cả. Đó là lý do ta ôm nặng những trách móc cũng không ích gì. Trái lại, chúng sẽ có khuynh hướng làm gia tăng cái tôi nhỏ nhít. Do vậy, con đường giải thoát không đi qua một sự hành xác mà đúng hơn là đi qua sự hy sinh, niềm vui và chia sẻ. Những bài tập nho nhỏ lặp lại hằng ngày sẽ dẫn ta đến điều đó. Khổ tu có thể diễn ra khi ưu tiên cái chúng ta hơn là cái tôi. Hơn nữa, ở Hàn Quốc, tôi biết được rằng người ta không nói “nhà tôi” mà nói “nhà chúng tôi”. Chúng ta cảm thấy tách biệt với người khác, bị cô lập, cuối cùng là làm tăng trưởng thêm nỗi khổ sở trong ta. Nếu sáng ra ta thức dậy chỉ với một mục đích là ngăn cái tôi nhỏ nhít của mình cào cấu bản thân, ta sẽ thấy đâu đâu cũng có trở ngại. Tại sao không bỏ cái lầm lạc trong cách nhìn do vị ngã xui khiến? Có hôm, con gái tôi chơi trong công viên. Bất chợt, tôi nghe những tiếng kêu đau và khi thấy không phải con mình khóc, tôi nghĩ thầm: “May quá, không phải nó.” Điều này thật kỳ lạ. Ở đó có hai chục đứa nhóc, vậy mà chỉ một đứa khiến tôi thực sự để tâm. Có bao nhiêu sinh vật ngụ trên Trái đất? Thật là một sự tính toán sai lầm và thiếu tình yêu thương khi tôi chỉ bận tâm đến cái thân tôi, thậm chí người thân của tôi mà lơ là hàng tỉ người khác sống trên hành tinh của chúng ta. Sớm muộn gì rồi cuộc đời cũng sẽ lãnh trách nhiệm nhắc tôi rằng tôi không phải là trung tâm thế giới. 3 HỌC CÁCH SỐNG VỚI CÁC CẢM XÚC CỦA MÌNH C HRISTOPHE: Cảm xúc là một lĩnh vực rất lý thú vì nó là nền tảng để hiểu con người, tâm lý và những cái khổ của họ. Hồi tôi còn nhỏ, một trong những lý tưởng giáo dục của cha mẹ tôi là dạy tôi trở thành một thằng bé biết điều. Và trong biết điều này có cái ý là không nên để cảm xúc chiếm chỗ quá nhiều. Ta thấy ở đây sự đối lập truyền thống ở phương Tây giữa lý trí và cảm xúc. Ta đánh giá cao lý trí và kiềm chế cảm xúc. Do điều này thỏa đáp sự vận hành của gia đình tôi, chúng tôi ít bộc lộ cảm xúc. Và như thể tình cờ, khi làm thầy thuốc tâm thần, tôi trở thành chuyên gia về những rắc rối cảm xúc. NHỮNG CẢM XÚC LÀM TA RỐI BỜI CHRISTOPHE: Ở phương Tây, từ lâu người ta đã nhìn nhận cảm xúc với sự e sợ và ngờ vực. Người Hy Lạp dè chừng những cái làm xáo trộn trật tự xã hội, nhất là lòng kiêu hãnh, kiêu căng và tự tin thái quá. Họ cũng thấy buồn bã là một cảm xúc đáng ngờ, vì nó tháo gỡ cá thể khỏi vai trò công dân. Mọi sự đã thay đổi trong thế kỷ XIX, cùng với Darwin, khi ông cho thấy rằng từ đầu cảm xúc là một hiện tượng sinh học thích nghi, nó có trong trạng thái phôi thai ở các loài động vật đơn giản nhất, và càng lúc càng tinh tế khi bộ não phức tạp hơn. Ông đã tự nhiên hóa cảm xúc. Ngày nay, chúng ta có may mắn sống trong thời đại mà người ta nghiên cứu các cảm xúc theo cách khoa học. Trong nghề của tôi, nếu mọi người đến để được tư vấn thì thường là do những cảm xúc đau đớn họ không kiểm soát được. Chủ yếu là những cảm xúc sợ hãi nhuốm các chứng lo âu, cũng như các cảm xúc buồn và xấu hổ thái quá bị nặng thêm thành trầm cảm. Thật ngược đời khi những người hay nóng giận lại ít đến tư vấn. Theo tôi nghĩ, xã hội chúng ta quá bao dung cho sự giận dữ! Cho đến nay, các bệnh nhân ít hỏi về việc thiếu hụt cảm xúc dễ chịu. Yêu cầu đầu tiên là làm sao dừng những đau đớn liên quan đến cảm xúc “tiêu cực”. Nhưng với tâm lý học tích cực, các nhà chuyên môn biết rằng sau khi làm vơi bớt những cảm xúc tiêu cực thái quá của bệnh nhân, họ cần kiểm tra lại là những người này có khả năng đón nhận, khơi gợi, vun trồng cái mà ta gọi là những cảm xúc “tích cực” hay không. Hơn nữa, ngày nay còn tồn tại một tranh luận lớn về thuật ngữ “tích cực” và “tiêu cực” vì chúng đưa đến một đánh giá về giá trị. Ta có cảm tưởng là các cảm xúc tích cực chỉ có những điểm lợi còn các cảm xúc tiêu cực chỉ có những bất tiện, điều này tất nhiên là quá sơ sài. Đúng hơn ta nên dùng thuật ngữ “cảm xúc dễ chịu” và “cảm xúc khó chịu”. Tâm lý học đã trở nên chuyên biệt trong việc hiểu các cảm xúc khó chịu cũng như trong việc phân tích mối quan hệ của chúng với những suy nghĩ đau đớn. Trong trị liệu nhận thức có câu: “Cảm xúc càng mạnh thì nhận thức sẽ càng mạnh.” Nói cách khác, khi tôi bị một cảm xúc lo âu hay buồn bã xâm chiếm, cảm xúc sẽ giống như ngọn lửa dưới cái chảo ý nghĩ của tôi, cảm xúc càng mạnh thì càng có nhiều ý nghĩ tiêu cực, và tôi càng bám vào đó. Ví dụ, nếu tôi quá bực tức, những ý nghĩ như “Bọn này thật vô tích sự và làm đủ chuyện khiến phiền lòng” sẽ tăng lên gấp bội và làm tôi thấy như điều hiển nhiên. Nếu tôi quá bất an, một chút lo lắng nhỏ nhặt trong ý nghĩ cũng sẽ biến thành tai họa. Ngược lại, nếu ta làm giảm sức mãnh liệt của cảm xúc, sự đeo bám vào những ý nghĩ sẽ không còn mạnh mẽ như vậy nữa. Đây chính là nguyên lý hoạt động của thuốc chống trầm cảm và thuốc an thần, chúng không thay đổi trực tiếp bản chất ý nghĩ, mà thay đổi cường độ của hoạt động cảm xúc. Thông qua các trị liệu áp dụng thiền chánh niệm, người ta còn nhận thấy rằng sự chú tâm là một phương tiện cực kỳ mạnh mẽ để điều chỉnh cảm xúc. Khi giúp ta đứng xa cảm xúc hơn, nó biến đổi tác động của cảm xúc đối với thế giới quan và nhận thức của ta. ALEXANDRE: Nếu các cảm xúc không thường trực hành hạ chúng ta, có lẽ chúng ta còn không nói đến chúng. Nhưng chúng ăn mòn chúng ta ngày này qua ngày khác và làm độc đời ta. Khi chúng làm chủ chúng ta thì toàn thể mối quan hệ với thực tại bị lung lay. Bị cơn giận hay sự hoảng loạn chi phối, tôi có thể vĩnh biệt bất kỳ chút minh mẫn nào còn lại trong tôi. Một trong những công trường lớn của đời sống tâm linh trước hết là chấp nhận rằng ta có thể mất kiểm soát. Có hôm, ở chỗ nha sĩ, tôi chỉ mới phát hiện một vết đỏ nhỏ xíu thôi thì đầu óc đã lo về những kịch bản tai ương tồi tệ nhất nối tiếp nhau sắp xảy ra và chưa gì tôi đã thấy mình tiêu đời vì AIDS, hay bị tất cả bỏ rơi. Tự nhiên tôi lại làm mình lo điên đảo. Tâm trí tạo ra toàn bộ nỗi lo sợ. Không hiểu sao nó trùm lên thế giới một lớp vỏ ảo giác mà ta cần làm tiêu tan không chậm trễ. Để bắt đầu, có lẽ là không nên quan trọng hóa và nhận thức được rằng một trong những tật của bản ngã là lo lắng vô cớ. Hành thiền là từng bước một nhận ra cái vọng âm xuất phát từ việc một chi tiết nhỏ bị hiểu sai. Do vậy, có sự khác biệt lớn giữa nỗi sợ hãi chờm lên khi có tiếng súng vang cách tai ta một tấc và cái đốm đỏ nhỏ xíu này, thứ hoàn toàn không đáng kể nhưng sẽ gây nên nỗi lo lắng khổ sở hàng tháng trời. Nhưng sao phải lý luận trước những chuyện hoang đường tâm trí dựng nên? Điều tệ nhất là tôi lại đi tin nó. Tôi nhớ lại chuyện một bà sợ bị sét đánh hơn bất cứ thứ gì. Có hôm, đang nói chuyện điện thoại, bà ta nghe sấm gầm xa xa. Hoảng kinh, bà muốn cúp điện thoại ngay lập tức. Thật dại dột, tôi trả lời bà là cùng lắm bà chỉ có nguy cơ một phần triệu bị sét đánh xuống nhà thôi. Bà trả lời ngay: “Thì thế!” Christophe, anh dạy tôi ngày ngày rằng, hơn hết, chính sự mơ hồ làm cho người hay lo thấy sợ hãi. Nguy cơ một phần triệu đã là quá nhiều đối với người cần sự chắc chắn như đinh đóng cột để thư thái và bắt đầu thưởng thức cuộc sống. Để nhận biết những đốm đỏ trong tâm trí, nhận ra làm sao nó tóm được ta thì không phải chuyện dễ. Nếu nỗi lo sợ làm tôi cứng cả người thì thỉnh thoảng tôi cũng ngạc nhiên khi thấy mình coi niềm vui và những khoảnh khắc bình lặng hằng ngày thật vô vị. Cứ như thể tôi thấy nhớ adrenaline kích thích tôi vào phút giờ thử thách, một điều thật kịch tính. Những đòn số phận thật nặng nề, làm tôi kiệt sức, nhưng ít nhất, khi tôi đấu tranh, tôi còn biết tại sao mỗi buổi mai mình thức dậy. Trong Hiểu biết vui vẻ, Niesche viết: “Tôi nghe thấy trong nỗi đau mệnh lệnh của thuyền trưởng: ‘Hạ buồm!’ ‘Con người’ thủy thủ gan dạ cần được thử thách để lèo lái buồm theo cả ngàn cách, bằng không anh ta sẽ sớm đầu hàng, và đại dương sẽ sớm nuốt chửng anh ta.” Nhưng sau đó, khi nếp đơn điệu và lề thói giành lại quyền kiểm soát, một cảm giác nhớ bất hạnh xuất hiện, gần như theo thói quen, thậm chí là gây nghiện. Như thể ta phải kéo lê những tai họa mới cảm thấy mình đang sống. Mối quan hệ của ta với cảm xúc ít nhất cũng ở trạng thái mập mờ. Nếu chúng làm ta đau khổ quá mức, nếu chúng làm ta mất cột mốc, thì sẽ lởn vởn một ngộ nhận: có người nghĩ rằng cần rung cảm để tồn tại mà thiền lại chặt đứt cảm xúc của ta. Trong triết học, cái quyến rũ tôi là dường như nó hứa hẹn một sự an nhiên tuyệt vời, nghĩa là không còn những băn khoăn trong tâm hồn. Ngày nay, tôi thấy rõ rằng có lẽ mình không có cơ hội nào để nhổ bỏ vô vàn phiền nhiễu làm xáo động tâm trí. Thế nhưng, nhờ thiền, một kiểu phép lạ diễn ra ngày ngày. Và thường thì tôi đã có thể cười vào những nỗi lo sợ của mình, không còn sợ những nỗi sợ hãi của mình nữa. Một bài tập giúp tôi đáng kể là thấy rằng cái ý thức nhận biết nỗi sợ hãi, lo âu, hay buồn phiền, không bao giờ tắt. Trong mỗi người tồn tại một phần vẫn luôn vô sự. Không chấn động nào quấy đảo được nó. Vì thế ta có thể ví ý thức như một cái nồi khổng lồ. Bên trong có đủ hết: đậu gà, cải xà lách, cà rốt cho ta tâm trạng vui vẻ và hành làm ta chảy nước mắt. Trong bất hạnh, bản ngã chỉ nhai hành mà không thưởng thức những thứ còn lại. Hãy nghĩ ý thức như một cái nồi cho phép bỏ vào những cảm xúc mà không khiến ta bám vào mỗi sự giận dữ và đau đớn, vì chúng cũng chỉ là thành phần giữa bao thứ khác. Thứ làm ta kiệt sức là sự tới lui không dứt, cái vòng quay bên trong làm ta từ vui sang buồn trong chớp mắt. Thật khó để ở trong tận cùng niềm vui mà không nghĩ nó sẽ hết. Và trong nỗi buồn, chúng ta tin rằng ta sẽ cứ phải khệ nệ đem theo cái khổ sở này. Vô chấp là một trong những công cụ mạnh mẽ nhất cho phép chúng ta ra khỏi cái buông bắt để bắt đầu đón nhận tất cả những gì xảy đến. Và trước hết, tôi cần chấp nhận những cái quay lộn bên trong này, nhận ra là tôi có thể thức dậy hạnh phúc nhưng rồi chỉ cần đọc một cái email đơn sơ cũng đủ kéo tôi xuống. Như thể tôi đã giao phó cho ngoại cảnh một chiếc điều khiển từ xa có khả năng làm tôi chuyển kênh lia lịa từ cảm xúc này sang cảm xúc khác. Tin vui là ta có thể thoát những quay lộn này bằng cách cứ đi vào tận cùng sâu thẳm để phát hiện ra ở đó một niềm vui vô điều kiện. Trước hết, bước đầu tiên, là bình thản quan sát sự chuyển kênh liên tục này mà không lo lắng thái quá. Có một sự ngộ nhận lớn ngăn ta thưởng thức niềm vui vô điều kiện. Chúng ta tưởng lầm rằng ngày ta chữa lành hết mọi vết thương cũng sẽ là ngày không còn niềm vui đó nữa, trong khi niềm vui vô cớ này là điều có thể ở ngay lúc này, ngay cả giữa giày vò. Chúng ta có thể đạt tới đó, ở đó, ngay lập tức. Nếu ta chờ một cuộc đời hoàn hảo để thưởng thức nó, e là ta phải chờ rất lâu. Sách Giảng Viên giúp tôi rất nhiều khi dạy rằng chính trong hỗn loạn, không hy vọng, mà cần phát hiện ra bình yên. Tôi muốn Kinh Thánh nhấn từng chữ câu lặp nổi tiếng này: “Phù hoa trong mọi phù hoa, thảy đều phù hoa.” Nhờ đọc nó mà tôi chữa được rất nhiều ảo tưởng và vất bỏ được cái cám dỗ tin rằng tôi làm chủ dòng đời của mình. Sớm muộn gì, mọi thứ đều sẽ tiêu tan, mọi thứ đều vô thường. Tôi tìm thấy một sự giải thoát khi nhận thấy rằng mọi thứ đều mong manh. Cuối cùng, tôi đã có thể vui vẻ từ bỏ cái ổn định, vững chắc, để tập bơi trong vô thường. Nếu tôi cứ cố sống cố chết tìm một vùng đất liền để ở lại luôn, dứt khoát tôi sẽ luôn thất vọng. Diệu đế đầu tiên của Đức Phật nhắc rằng mọi thứ đều là khổ và vô thường. Tôi không biết tiếng Tây Tạng cũng như tiếng Phạn, nhưng như Yongey Mingyour Rinpoche đã chỉ cho thấy trong cuốn Hạnh phúc của đạo lý, ta có thể trình bày chẩn đoán của Đức Phật bằng cụm từ “mọi thứ đều cót két”. Kinh nghiệm chung cũng chỉ cho thấy rằng, dù ta làm gì, ngay cả khi ta ở trong nội tâm thanh tịnh nhất, bao giờ cũng có thứ gì đó không ổn. Và như Bernard Campan nói: “Điều quan trọng là cót két một cách vui vẻ.” Hành thiền không phải là ly thế, mà là để học cách cộng tồn, an nhiên giữa những thứ cót két này. KHI TÂM LÝ HỌC HIỆN ĐẠI TƯƠNG ĐỒNG VỚI ĐẠO PHẬT MATTHIEU: Tiếp tục cái nhìn tổng quan của chúng ta, từ “cảm xúc” (emotion), theo nguyên từ, gợi nên ý tưởng nó là thứ gây ra chuyển động (motion). Đây là một đề tài quá rộng lớn, vì có gì mà không làm tâm trí vận động? Tùy theo quan điểm mà các chuyên gia dùng và mục đích họ theo đuổi, họ sẽ nói về cảm xúc tích cực hay tiêu cực, dễ chịu hay khó chịu – như anh nói, Christophe – trong khi cho các thuật ngữ này những nghĩa khác nhau. Họ đề cập dưới các góc độ khác nhau: khoa học, trị liệu, cá nhân, tinh thần, và còn nhiều nữa. Để hiểu cảm xúc theo cách thực tiễn hơn, trong mối quan hệ đơn sơ của nó với dễ chịu và khó chịu, tôi thấy cần bắt đầu bằng vài nhận xét. Toàn bộ hoạt động trí óc đều có liên hệ với các cảm xúc mà, nói chung, có thể gọi là dễ chịu, khó chịu, hay trung tính. Phần lớn các trạng thái tình cảm như tình yêu và hận thù còn đi cùng lời nói bên trong và lý luận. Trên bình diện thần kinh học, mỗi vùng trong não có liên hệ với những khía cạnh cảm xúc riêng biệt thì cũng có liên hệ với các khía cạnh nhận thức. Nói cách khác, các mạch thần kinh chuyên chở cảm xúc nối liền mật thiết với các mạch thần kinh chuyên chở nhận thức. Cảm xúc hầu như không bao giờ bộc lộ riêng rẽ với các khía cạnh khác trong kinh nghiệm của ta. Điều đó có nghĩa rằng khi thoạt nhìn thì sự phân biệt giữa cảm xúc và nhận thức không hề rạch ròi như ta nghĩ. Theo quan điểm Phật giáo, một quan điểm mà về cơ bản mang tính trị liệu vì nó nhắm tới việc chữa khổ và đem lại an lạc, thì cách thực tiễn nhất để phân biệt các trạng thái tinh thần khác nhau, đặc biệt là cảm xúc, là xem xét các hệ quả của chúng. Nếu một cảm xúc làm tăng trưởng sự tự tại và an lạc trong khi xui ta giúp tha nhân, ta nói rằng nó tích cực. Nếu nó quấy đảo tâm trí và đẩy ta tới chỗ làm hại người khác, ta nói nó tiêu cực. Do vậy, tiêu chuẩn duy nhất đáng xem xét là yên vui hay khổ do cảm xúc này hay cảm xúc kia mà ra. Ở điểm này, đạo Phật khác với các môn tâm lý học phân biệt cảm xúc theo cách nó xui ta tiến đến gần hơn, như tò mò và hấp dẫn, hay rút lui xa hơn, như sợ hãi và ác cảm. Tôi thấy sự phân biệt cảm xúc dễ chịu và khó chịu có vẻ đáng ngờ theo góc nhìn mưu cầu hạnh phúc bền lâu, vì nó kéo dài sự lầm lẫn hạnh phúc với lạc thú. Lạc thú sinh ra bởi những kích thích dễ chịu thuộc loại giác quan, thẩm mỹ hay trí tuệ. Nó không ổn định và có thể nhanh chóng biến thành dửng dưng, thậm chí thành khó chịu hay chán ghét. Nghe một bản nhạc tuyệt vời có thể cho ta cảm giác thích thú vui vô cùng, nhưng nghe đi nghe lại suốt 24 giờ thì sẽ biến thành tra tấn. Hơn nữa, cuộc tìm kiếm thú vui của cá nhân có thể dễ dàng đi đến chỗ đối nghịch với hạnh phúc của tha nhân. Ngược lại, hạnh phúc thật sự, theo nghĩa Phật giáo, là một trạng thái bên trong không tuân theo hoàn cảnh. Thay vì biến thành mặt đối lập sau một thời gian, nó càng thêm ổn định, vì nó sinh ra một cảm giác viên mãn sẽ trở thành nét chủ đạo trong khí chất của ta sau nhiều tháng hay nhiều năm. Đó cơ bản là một cách sống và một sự thăng bằng bên trong sâu xa gắn liền với sự hiểu đúng về cách vận hành của tâm. CHRISTOPHE: Từ tiếng Tây Tạng để chỉ cảm xúc là gì? MATTHIEU: Thuật ngữ Phật giáo trong lĩnh vực này không phải luôn bao quát hết những cái ta dùng ở phương Tây, vì chúng không thể hiện cùng quan điểm. Thật sự thì không có từ cụ thể để chỉ những cảm xúc tích cực. Ta nói về những ý nghĩ hay trạng thái tinh thần ích lợi như tình yêu thương và từ bi. Cũng có những trạng thái tinh thần khác như tâm tĩnh hay khả năng phân biệt mà ở đây ta sẽ không gọi là “cảm xúc”. Còn về từ thường được dịch là “cảm xúc tiêu cực”, nó cũng có một nghĩa rộng hơn vì nó không chỉ biểu thị giận dữ, đố kỵ, mà còn cả vô minh hay vọng tâm, những nguồn gây ra nó. Các cảm xúc, trong khía cạnh tiêu cực, nối liền với một cái nhìn sai lạc về thực tại kéo theo sự loạn thần. Thuật ngữ Tây Tạng gợi lên cái ý giày vò và kiệt sức. Chỉ cần quan sát thời khắc mà lòng tham, cơn giận, lòng thù hận hay đố kỵ xâm chiếm chúng ta là đủ để nhận thấy rằng chúng gây nên trong ta một sự khó chịu vô cùng và làm ta cạn kiệt sinh lực. Trong nhiều trường hợp, hành động và lời nói do những cảm xúc này xui khiến còn làm đau lòng người khác. Cảm xúc tiêu cực còn đào hố sâu ngăn cách ta và người. Chúng xui ta lý tưởng hóa cái ta quý và chê bai cái ta ghét. Chúng làm ta tin rằng đẹp hay xấu vốn cố hữu ở người và vật, điều này tạo ra một mâu thuẫn lớn dần giữa cái trên thực tế và cái ta lầm tưởng. Vì vậy mà, như Christophe vừa nói, ta càng có nhiều cảm xúc tiêu cực, ta càng áp đặt những thứ đầu óc ta bịa đặt lên thực tế. Tâm lý học tích cực, các trị liệu pháp nhận thức và đạo Phật gặp nhau ở điểm này. Trong một lần gặp Đạt-lai Lạt-ma, Aaron Beck, nhà sáng lập trị liệu pháp nhận thức, giải thích rằng, khi ta rất giận dữ, 80% nhận thức của ta chồng lên thực tại. Nếu con người tự họ hấp dẫn hay đáng sợ, tất cả chúng ta đều sẽ thấy cuốn hút hay ghê sợ bởi cùng người, mà chuyện đó thì không thể có. Ta không thấy điều hiển nhiên này một khi bị dục vọng hay giận dữ xâm chiếm, vì ta đi qua một “giai đoạn ngang ngạnh”, như Paul Ekman nói, nó ngăn ta nhận ra rằng người ta ghét lúc đó cũng có những phẩm chất tốt, hay người ta ham muốn điên cuồng cũng có những khiếm khuyết. Những cảm xúc tiêu cực có một đặc điểm khác mà đức Đạt-lai Lạt ma thường nhấn mạnh: chúng không cần được vun trồng mới nảy nở. Ta có thể có những cơn giận ghê gớm mà không cần tập luyện một giây nào. Như thầy tôi, Jigme Khyentse Rinpoche, đã nói: “Ta không cần dụng tâm thì mới dễ phật ý hay đố kỵ, ta không cần bộ tăng tốc giận dữ hay máy khuếch đại tự ái nào cả”. Trái lại, dẫu ta vốn nhẫn nhục hay từ tâm, ta cũng cần một nỗ lực nhất định để còn hơn vậy nữa. Tôi xin nói thêm rằng một cảm xúc có vẻ tích cực nhưng thực ra có thể tiêu cực và ngược lại. Ham muốn đôi khi thể hiện một dụng tâm cao quý, như ý định làm vơi khổ của tha nhân hay bảo vệ môi trường, nhưng ham muốn giàu có hay lạc thú không sớm thì muộn cũng sẽ trở thành cội nguồn những nỗi giày vò cho mình và người. Giận dữ có thể thể hiện ác tâm, nhưng cũng có thể là một sự phẫn nộ chính đáng, một ý thức nổi loạn trước một thảm sát chẳng hạn, đó là biểu hiện lòng nhân từ và khơi lên một mong muốn mạnh mẽ giúp đỡ người khác. CHRISTOPHE: Khi tôi khám phá ra, theo cách cá nhân và trong nghề nghiệp của mình, sự đa dạng vô cùng của các cảm xúc và nhất là cảm xúc tích cực, điều đó làm thay đổi đời tôi! Suốt một thời gian dài, như mọi thầy thuốc tâm thần đích thực, tôi có cảm giác như tồn tại rất nhiều cảm xúc tiêu cực, và rốt cuộc, nhìn kỹ thì chỉ có hai cảm xúc tích cực cao đẹp: niềm vui và tình yêu. Rồi tôi hiểu rằng đó là một sai lầm to lớn. Các nghiên cứu khoa học đã cho thấy vô vàn cảm xúc tích cực: lòng tin, thanh thản, mủi lòng, ngưỡng mộ, từ tâm… Gần đây người ta cũng đã nghiên cứu sự cao nhã, cảm xúc trước cái gì đó hùng vĩ đến độ ta cảm thấy nhỏ bé, như đứng trước Everest, Grand Canyon, hay trước ai đó hoàn toàn khác thường. Ngoài ra còn có sự nhiệt tình, dạng phản ứng cảm xúc có lợi đối với các đề nghị từ cuộc sống hay từ người khác, hay sự mở lòng vui vẻ và năng nổ với cái mới, điều rất đáng quý trong các nhóm. Tôi thấy nể trào lưu “tâm lý học tích cực” vì nó dạy chúng tôi phát hiện ra sự giàu có vô cùng của các trạng thái dễ chịu trong tâm hồn và dùng chúng để chữa trị. Tôi nỗ lực thúc đẩy việc nghiên cứu và sử dụng trong trị liệu các cảm xúc dễ chịu này, vì chúng có một lực, một sức mạnh đáng nể và có thể được trau dồi. VAI TRÒ CỦA CẢM XÚC MATTHIEU: Các chuyên gia về tiến hóa cho rằng cảm xúc hữu ích đối với việc sống còn và quản lý các sự kiện lớn trong đời – sinh sản, bảo vệ người thân, mối quan hệ giữa các cá thể, phản ứng khi đối mặt dã thú. Đố kỵ tất nhiên là một nguồn gây ra sự giày vò, nhưng cũng có thể xem nó là biểu hiện của một bản năng góp phần duy trì sự cố kết của một cặp cũng như sự sống còn của con cái. Giận dữ có thể gây tai hại, nhưng theo quan điểm tiến hóa, nó cho phép xua đuổi nhanh chóng tất cả những gì có thể làm hại chúng ta và cản trở ta thực hiện các dự định. Rất nhiều nhà tâm lý học có cùng ý kiến với Aristotle, đối với ông thì một cảm xúc là thích hợp khi nó thích nghi với hoàn cảnh và bộc lộ với sự mãnh liệt tương xứng với hoàn cảnh. Đứng trước bất công, một sự tức giận có thể thích hợp, nhưng sự phẫn nộ đến mức muốn hủy diệt thì không. Sau khi mất một người thân, nỗi buồn là thích hợp, nhưng nỗi thất vọng và trầm cảm lại không tương xứng và sẽ đi ngược lại an lạc lâu dài. Gần đây, tôi thấy đau buồn vô hạn khi có động đất ở Nepal, nơi tôi sống phần lớn thời gian. Nhưng khi khoảnh khắc này qua đi, tôi nghĩ rằng, thay vì rơi vào chán nản bởi nghĩ rằng phải xây dựng lại những gì đã xây nên, tốt hơn tôi nên dùng sức lực để giúp đỡ các nạn nhân. Thế nhưng cái có lợi cho sống còn của ta theo quan điểm tiến hóa không nhất thiết góp phần vào sự an lạc cá nhân. Ta không thể nói rằng đố kỵ, giận dữ hay ghen ghét giúp ích cho sự thanh thản nội tâm. Nhục dục phóng túng có thể tốt cho việc truyền giống, nhưng nó là nguồn gây ra giày vò bởi nó cứ liên miên nổi lên và không bao giờ tìm thấy sự thỏa mãn lâu bền. Ngược lại, không chắc rằng lòng bi hay sự giác ngộ có ích cho việc sinh sản. Ẩn sĩ đã chứng đắc sống cô tịch trên núi thì không giúp gì cho việc truyền giống cả. CHRISTOPHE: Dù tách biệt, các ẩn sĩ mà anh nói này góp phần theo cách của họ vào lợi lạc cho tất cả mọi người, khi không thêm bạo lực và chủ nghĩa duy vật vào thế giới, khi làm gương cho chúng ta. Thật ra, những cảm xúc được khắc sâu trong vốn gien của loài người và trong não ta, sau đó được giáo dục và môi trường văn hóa của ta củng cố. Mọi cảm xúc đều có ích cho ta: giận dữ, buồn bã, sợ hãi, lo âu, xấu hổ, đều có các chức năng rất cụ thể. Chúng phục vụ cho ta, với điều kiện chúng không lên đến cường độ quá mạnh, không kéo dài quá mức và ta không còn nhìn thấy dụng đích của chúng. Theo quan điểm tiến hóa, các cảm xúc có màu sắc tiêu cực hay khó chịu gắn liền với các hoàn cảnh thường là nguy hiểm, có thể đe dọa sự sinh tồn của ta. Giận dữ cho phép ta hăm dọa người khác (và cũng tránh một giao tranh phải trả giá đắt), nỗi sợ làm ta tránh xa những mối nguy hiểm tiềm tàng (và xui ta thận trọng hoặc chạy trốn), nỗi buồn buộc ta chậm lại mà suy ngẫm. Trong khi đó thì cảm xúc tích cực có liên hệ với các tình huống cần tìm nguồn lực (dinh dưỡng, nghỉ ngơi, những trao đổi dễ chịu, các trò chơi hay quan hệ tình dục). Nhưng không phải bao giờ cái dễ chịu cũng được ưu tiên hơn cái nguy hiểm: giữa thiên nhiên, ta phải lo liệu cái nguy hiểm trước cái dễ chịu. Vì điều này mà các cảm xúc tiêu cực có một kiểu ưu thế tiềm tàng so với cảm xúc tích cực, về tính sáng rõ, sức mãnh liệt, sức mạnh phun trào và khả năng khiến ta chú ý. Nhưng không có các cảm xúc tích cực, ta không cầm cự được lâu dài. Chính chúng sau đó sẽ mở lại cái nhìn và khả năng gắn bó với người khác, giúp ta tìm thấy các nguồn lực, nghĩ ra những giải pháp; chúng là nhiên liệu để ta đi tiếp. Do vậy chúng ta cần cả hai. Các cảm xúc tiêu cực thì hơi giống những cái “mồm to” trong gia đình. Chúng phản ứng nhanh hơn, la to hơn, và làm loạn bên bàn ăn cả nhà. Nhưng không có các cảm xúc tích cực, sẽ không ai ăn uống gì được nữa vì chuyện này sẽ sớm thành địa ngục! Như Descartes nói khi kết luận cuốn Bàn về niềm đam mê của tâm hồn: “Giờ ta đã biết hết chúng rồi, ta đừng sợ chúng nữa vì thực chất chúng đều tốt.” Quan trọng là chỉ cần tránh dùng chúng một cách sai lệch hay thái quá. ALEXANDRE: Để thoát khỏi những cảm xúc rối bời, trước tiên ta đừng xem chúng như kẻ thù, địch thủ phải đánh bại nữa, mà đúng hơn nên xem chúng như những sứ giả, thậm chí là những tín hiệu báo động. Và thử tận dụng chúng. Ngày nay, cái làm tôi buồn là kiểu khẳng định bản thân mà biến thành kiêu ngạo: “Tôi là vậy đó, tôi dễ cáu, nó là vậy, là bản tính tôi rồi.” Nếu coi thường bản thân là một tai họa thì việc đóng bít mình trong sự kiêu căng thái quá cũng gây nên tai họa. Cái cám dỗ biến thuốc độc thành thuốc giải mới thật ghê gớm. Hiền triết cũng như trẻ con không có nhu cầu tự khẳng định, họ đã hoàn toàn là họ rồi, vậy là đủ. Không còn ngại các cảm xúc tiêu cực nữa cũng là một tiến bộ to lớn. Những nỗi sợ hôm nay giày vò chúng ta có lẽ đã cứu mạng ngày ta còn nhỏ. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn phải vật lộn với hai cái tật rất khó bỏ: lo âu thái quá và thiếu kiên nhẫn. Nhưng, nghĩ lại, tôi hiểu rằng cả hai có một chức năng: cứu mạng tôi đồng thời làm tôi tránh xa sự cam chịu, chán nản và vô vàn chướng ngại tôi phải vượt qua. Nhưng giờ đây, tốt rồi, tôi có thể tiếp tục con đường mà không có những chỗ dựa cồng kềnh này. Có những công cụ sống giúp ích một thời gian rồi thì ta cần bỏ đi để tiến lên. Về điều này, các triết gia Hy Lạp, vốn là những người theo chủ nghĩa hoài nghi, có một hình ảnh hay: họ gọi chúng là thuốc xổ, nghĩa là các phương thuốc tự trục ra cùng với bệnh mà chúng chữa. Xin thứ lỗi vì tôi sống sượng, nhưng ví dụ hay nhất chính là thuốc nhuận tràng, khi giải quyết vấn đề xong thì nó cũng cuốn gói theo! CHRISTOPHE: Quả thực, ta nhận thấy rõ là các cảm xúc tiêu cực gây hại cho ta và khiến ta phải trả giá đắt, nhưng đôi khi điều này cũng đúng với các cảm xúc tích cực – niềm vui chẳng hạn, làm tim ta đập nhanh, rút năng lượng của ta, có thể biến thành cáu kỉnh thần kinh ở trẻ em… Nhưng nó trả lại cho ta nhiều đến mức khi bước ra thì ta là người thắng cuộc, được chích endorphine và mãn nguyện hiện sinh! Vả lại, như trẻ con, chúng rút năng lượng chúng ta khủng khiếp, nhưng cho chúng ta rất nhiều hạnh phúc về lâu dài. Tôi đặc biệt nghĩ về những khoảnh khắc quá đà, khi mọi thứ vượt ngoài tầm kiểm soát: đến một lúc, ta làm quá, ta đi quá trớn. Ta không lắng nghe những dấu hiệu mệt mỏi của thể xác, vì ta đang ngây ngất. Đó là niềm vui bệnh lý của chứng bệnh lưỡng cực: chúng đẩy đến chỗ thái quá, thiếu thận trọng, và cuối cùng là những tổn thất về người và tài chính (những xung đột và chi tiêu bệnh lý). MATTHIEU: Do vậy, quan trọng là nghĩ kỹ đến tác hại của trạng thái tinh thần đối với phẩm chất kinh nghiệm ta trải qua, cả ngắn hạn và dài hạn. Nhìn dưới một góc độ nào đó thì việc luôn tìm kiếm cái đem lại lạc thú khiến ta có vẻ như bình thường, chỉ có điều chuyện này hiếm khi dẫn đến hạnh phúc. Trái lại, ta có thể vun trồng một sự mãn nguyện bên trong không nhất thiết gắn liền với các cảm giác dễ chịu và do vậy ta thấy có vẻ ít hấp dẫn hơn, nhưng cuối cùng nó đem lại một sự viên mãn sâu xa và lâu bền. VỀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁC TÂM TRẠNG CHRISTOPHE: Để đi xa hơn trong hiểu biết về cảm xúc, ta có thể xem xét chúng theo hai trục – trục hóa trị (đúng hơn là dễ chịu hay khó chịu), và trục cường độ. Trên trục thứ hai này, ta phân biệt ra các cảm xúc bùng nổ, gần như không kiểm soát được khi chúng khởi động trong chúng ta, như giận dữ hay sợ hãi; và các trạng thái cảm xúc có cường độ thấp hơn, mà ta có thể gọi là “tâm tính” hay “tâm trạng”. Chúng có tầm quan trọng ngày càng lớn trong mắt các nhà nghiên cứu vì chúng đại diện cho cái cốt lõi trong cảm nhận của ta. Các cảm xúc mạnh mẽ thúc giục về mặt thể lực và tâm lý đến mức ta không thể để mình bị chúng chi phối nhiều lần một ngày. Việc này cuối cùng sẽ làm ta kiệt sức và chắc chắn sẽ giết chết ta. Khi ta yêu cầu ai đó nhớ lại lần sau cùng họ cảm thấy vô cùng giận dữ, vô cùng buồn, vô cùng lo lắng, vô cùng xấu hổ, hay, có lẽ, vô cùng hạnh phúc, thường thì họ khó mà tìm được những tình huống mới xảy ra gần đây. Trái lại, rất có thể là từ sáng nay chúng ta đã trải qua nhiều trạng thái cảm xúc chừng mực, với một chút buồn, một chút lo lắng, một chút vui vẻ hay hân hoan. Quan trọng là nhận ra các trạng thái kín đáo này và thấy rằng chúng rất có uy thế vì chúng tượng trưng cho một kiểu đất mùn tạo điều kiện cho những cảm xúc mạnh mẽ hơn nhiều cũng như cả một hệ thống tư duy, cả một thế giới quan nảy nở. Việc thường trực bị chi phối bởi những cảm xúc oán giận hay tức tối với người khác sẽ tác động đến thế giới quan của tôi và cách tôi sẽ cư xử trong xã hội. Vì lẽ đó mà chúng tôi khuyến khích bệnh nhân lưu ý đến các cảm xúc tinh tế này, nhất là trong các giai đoạn ngăn ngừa tái phạm, mới học nghệ thuật thanh thản, nghệ thuật cân bằng bên trong. Làm sao nhận ra các trạng thái cảm xúc này? Việc này sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nhờ các phương pháp thiền và quán, nhưng ngoài ra còn có các hình thức hoàn thiện bản thân khác như ghi nhật ký, tham gia các buổi trị liệu nhận thức khuyến khích ta thiết lập các mối liên hệ giữa các tình huống ta trải qua, các cảm xúc ta cảm thấy, các suy nghĩ xuất hiện vào lúc đó và cuối cùng là cách xử sự, hệ quả của cả chuỗi nhân quả này. MATTHIEU: Trong đạo Phật, ta nói về những ý nghĩ gần như ta không nhận thấy được, xuất hiện liên tục ở phía sau ý thức ta, như nước chảy dưới cỏ ở một cánh đồng. Những ý nghĩ này có thể gợi nên trong ta các tâm trạng khác nhau. Nếu chúng tiêu cực, chúng có thể nhen nhóm một cú nổ cảm xúc bất thần, một cơn giận chẳng hạn. Nếu chúng tích cực một cách tự nhiên hay do luyện tập, tập có lòng nhân chẳng hạn, việc chúng thường xuyên xuất hiện sẽ ảnh hưởng về lâu dài tới mảnh đất tinh thần của ta, đến mức mà, nếu ai đó xuất hiện trong tầm chú ý của ta, tình cảm đầu tiên nảy sinh trong ta sẽ là lòng nhân từ. Làm sao để nhận ra những trạng thái cảm xúc xuất hiện trong ta mà thường là ta không hay biết? Nếu ta để chúng lớn dần, chúng sẽ trở nên không kiểm soát được, và ta chỉ còn cách chờ cho chúng dịu lại. Nhưng nếu ta xem xét các tác động chúng tạo ra đối với ta, ta sẽ nhận ra rằng trong cơn bão mà chúng làm nổi lên, nhận thức của ta về người khác và hoàn cảnh không tương ứng với hiện thực. Nhờ lặp lại kinh nghiệm này, dần dần ta có thể thấy cảm xúc từ xa hơn. Lúc đó ta có thể dùng phương thuốc thích hợp để ngăn ngừa, với ý nghĩ rằng dập tắt một đốm lửa thì dễ hơn là một đám cháy rừng. Khi trui rèn thêm nữa hiểu biết và làm chủ tâm, ta đến được giai đoạn mà ta có thể điều khiển các cảm xúc ngay khi chúng nổi lên. Khi quá trình này trở nên quen thuộc đến mức các cảm xúc trước đây vẫn làm ta rối bời tiêu tan ngay khi xuất hiện, chúng không thể khuấy động tâm ta được nữa. Chúng cũng không thể thể hiện ra thành hành động và lời nói làm hại chính ta và người khác. Phương pháp này đòi hỏi rèn luyện, vì ta chưa quen đối trị ý nghĩ theo cách này. TA CÓ THOÁT KHỎI NHỮNG CẢM XÚC TIÊU CỰC ĐƯỢC KHÔNG?