🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bảo Đảm An Ninh, Trật Tự Ở Địa Bàn Cơ Sở Và Một Số Nghiệp Vụ Công An Xã, Phường, Thị Trấn Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM Phó Chủ tịch Hội đồng Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM MINH TUẤN Thành viên NGUYỄN HOÀI ANH PHẠM THỊ THINH NGUYỄN ĐỨC TÀI TỐNG VĂN THANH 2 BAN BIÊN SOẠN TS. BÙI THANH TUẤN (Chủ biên) PHẠM VĂN TUẾ PHẠM THỊ XUÂN NGUYÊN TRẦN NGỌC ÁNH BÙI THỊ NHƯ QUỲNH HOÀNG CHIẾN THẮNG PHẠM BÁ THIỆN PHẠM NGỌC PHƯƠNG TS. LÊ THẾ CƯƠNG TS. LÊ ANH THỰC ĐẶNG HỒNG VŨ LÊ VĂN VŨ 4 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Địa bàn xã, phường, thị trấn là nơi thường xuyên diễn ra hoạt động tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân, là cấp gần dân nhất, trực tiếp tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiều địa bàn cơ sở còn có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, đóng vai trò “phên giậu” của Tổ quốc. Song đây cũng chính là địa bàn thường nảy sinh nhiều vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, nhất là các “điểm nóng” về an ninh xã hội. Do đó, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở luôn là mục tiêu nhất quán và ưu tiên hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo. Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, từ năm 2018 đến nay, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an đã hết sức quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện toàn diện các nhiệm vụ nhằm đẩy nhanh xây dựng công an xã, thị trấn chính quy. Đến tháng 6/2022, đã bố trí hơn 48.000 cán bộ Công an xã, thị trấn chính quy tại 100% xã, thị trấn trên toàn quốc. Thực tiễn đã chứng minh, việc bố trí Công an chính quy tại xã, phường, thị trấn là chủ trương rất đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược, lâu dài, nhằm tăng cường công tác nắm tình hình, giải quyết các vấn đề an ninh, trật tự ngay tại cơ sở; tăng cường cải cách hành chính, đưa các dịch vụ công về an ninh, trật tự trực tiếp đến 5 với người dân. Nhờ vậy, công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở tiếp tục được nâng lên, mối quan hệ giữa Công an và nhân dân ngày càng được củng cố, góp phần quan trọng bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa bàn các xã, phường, thị trấn; bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Để giúp bạn đọc hiểu sâu sắc hơn chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng cường bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở và những yêu cầu nghiệp vụ đặt ra đối với đội ngũ Công an cơ sở, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở và một số nghiệp vụ Công an xã, phường, thị trấn. Nội dung cuốn sách gồm 4 chương, giới thiệu những vấn đề cơ bản về bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở như lực lượng tham gia, nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Công an, văn hóa giao tiếp, ứng xử của lực lượng Công an ở địa bàn cơ sở; một số nghiệp vụ của Công an ở địa bàn cơ sở như công tác cấp, quản lý căn cước công dân, quản lý cư trú và ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; công tác xử lý vi phạm hành chính; phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội; công tác xây dựng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”... Cuốn sách là tài liệu học tập, tham khảo hữu ích cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và nhân dân ở địa bàn cơ sở. Trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 12 năm 2022 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM AN NINH, TRẬT TỰ Ở ĐỊA BÀN CƠ SỞ I- BẢO ĐẢM AN NINH, TRẬT TỰ Ở ĐỊA BÀN CƠ SỞ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN 1. Địa bàn cơ sở và bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở Căn cứ Điều 110, Hiến pháp năm 2013 và Điều 2, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, các đơn vị hành chính ở nước ta được phân thành bốn cấp: cấp Trung ương; cấp tỉnh (gồm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương); cấp huyện (gồm huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương); cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn). Theo đó, cấp xã được coi là đơn vị hành chính cấp cơ sở, cấp thấp nhất trong hệ thống tổ chức các đơn vị hành chính; là khu vực lãnh thổ xác định với một cộng đồng dân cư sinh sống cố định, liên kết với nhau 7 trong sinh hoạt vật chất và đời sống tinh thần, với một hệ thống chính trị hoạt động hợp pháp theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân, dân cư cư trú sinh sống và phản ánh rõ nét vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, phát huy dân chủ. Đảng ta đã chỉ rõ: “Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đoàn kết nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư”1. Đặc biệt, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị cơ sở được triển khai trong thực tiễn tại địa bàn phần lớn do chất lượng hoạt động của đội ngũ những người làm việc ở cơ sở, trong đó có lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự. Theo số liệu thống kê, đến ngày 01/7/2021, Việt Nam có 10.599 đơn vị hành chính cấp xã, ____________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18/3/2002 tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”. 8 bao gồm: 1.723 phường, 612 thị trấn và 8.264 xã, trong đó có 352 xã thuộc các thành phố trực thuộc tỉnh, 313 xã thuộc các thị xã và 7.599 xã thuộc các huyện1. Xã, phường, thị trấn, với tính chất, đặc điểm là nơi thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, là cấp gần dân nhất, trực tiếp tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân; nơi quyền con người và quyền công dân được thể hiện rõ nét nhất. Đây cũng chính là địa bàn thường nảy sinh nhiều vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, nhất là các “điểm nóng” về an ninh xã hội. Nhiều địa bàn cơ sở còn có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, đóng vai trò là “phên giậu” của Tổ quốc. Do đó, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở luôn là mục tiêu nhất quán và là ưu tiên hàng đầu mà Đảng, Nhà nước chỉ đạo sát sao các cơ quan chức năng cần thực hiện. Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nêu rõ phương châm: “Thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ____________ 1. Bộ Nội vụ: Báo cáo số 135/BC-BNV, ngày 11/01/2021 tổng kết công tác giai đoạn 2016 - 2020 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2021 ngành nội vụ, Hà Nội, 2021. 9 ổn định chính trị - xã hội”1. Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới nhấn mạnh nhiệm vụ: “Chủ động nắm tình hình, kịp thời dự báo, phát hiện các vấn đề bức xúc nảy sinh, có phương án phù hợp giải quyết các vụ tranh chấp, khiếu kiện, đình công, lãn công ngay từ đầu và tại cơ sở”2. Tiếp đó, tại Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 05/9/2019 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia tiếp tục khẳng định: “Giải quyết các vụ việc phức tạp về an ninh quốc gia phải từ cơ sở” và theo phương châm “Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ”3. Bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị (trực tiếp, chủ yếu là cấp xã), mà nòng cốt là lực lượng chuyên trách bảo đảm ____________ 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI: Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 2. Bộ Chính trị: Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15/3/2018 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia. 10 an ninh, trật tự đang công tác tại địa bàn cơ sở. Thực tiễn cho thấy, lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở đa dạng về thành phần và thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ trên cả địa bàn nông thôn, thành thị, biên giới, hải đảo, bao gồm: Công an xã, phường, thị trấn chính quy, Công an xã bán chuyên trách, dân quân tự vệ, dân phòng, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, bảo vệ tổ dân phố, tổ tự quản về bảo vệ an ninh, trật tự... Chính sự đông đảo, đa dạng và đoàn kết của các lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự này đã đóng góp rất quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là xây dựng thế trận an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân”, ổn định an ninh, trật tự, phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở địa bàn cơ sở, cũng như trên phạm vi cả nước. Vì vậy, tăng cường xây dựng lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở là một trong những nội dung trọng tâm, xuyên suốt, có sự kế thừa và luôn được bổ sung, phát triển trong hệ thống quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia. Bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở là vấn đề rất quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và phát triển đất nước. Trong bối cảnh hiện nay, đứng trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới càng phải chủ động nắm chắc 11 và giải quyết sớm các vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự ngay từ cơ sở. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng phát huy vai trò, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là tại địa bàn chiến lược; chỉ đạo bộ, ban, ngành có liên quan xây dựng, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở (bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách, dân phòng) trở thành nòng cốt, hạt nhân của phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Không thể phủ nhận vai trò rất quan trọng của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự những năm qua, lực lượng này đã thể hiện được vai trò là “cánh tay nối dài” của Công an nhân dân ở cơ sở, là cầu nối giữa chính quyền cơ sở, Công an chính quy với nhân dân. 2. Các nguy cơ gây mất an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở Trong các giai đoạn lịch sử cách mạng, vấn đề an ninh, trật tự tại cơ sở luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bất kỳ loại đối tượng nào muốn tiến hành hoạt động phạm tội cũng đều khởi đầu ở 12 một địa bàn cơ sở cụ thể. Vì vậy, nhận diện được âm mưu, hoạt động của đối tượng ngay từ địa bàn cơ sở không chỉ giúp cơ quan Công an tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền và trực tiếp bố trí triển khai các lực lượng, biện pháp kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn, mà còn giúp bịt kín mọi sơ hở, thiếu sót làm phát sinh, phát triển các tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật từ cơ sở, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh, trật tự của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở địa bàn cơ sở đã, đang xuất hiện những yêu cầu, nhiệm vụ, thách thức mới. Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự nảy sinh từ cơ sở nhưng chưa phát hiện kịp thời, giải quyết triệt để nên đã lan rộng, kéo dài gây ra tình hình phức tạp về an ninh, trật tự trên địa bàn rộng, được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm, bị các thế lực thù địch, đối tượng phản động, phần tử xấu lợi dụng chống phá. Do sự phát triển về nhiều mặt của đời sống xã hội nên những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự nảy sinh ngay từ cấp cơ sở, có tính liên thông với các địa bàn trong và ngoài nước, có tác động sâu rộng đến đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi phải nhận diện được các nguy cơ gây mất an ninh, trật tự ngay tại cơ sở để sớm có biện pháp ứng phó cũng như có định hướng tổ chức lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, 13 trật tự đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Qua nghiên cứu cho thấy, một số nguy cơ đe dọa an ninh, trật tự tại cơ sở, nổi bật là: - Mâu thuẫn, bức xúc của một bộ phận quần chúng nhân dân trên địa bàn cơ sở. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ chế thị trường đã góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những vấn đề tiêu cực cũng phát sinh làm nảy sinh mâu thuẫn, bức xúc trong quần chúng nhân dân, như: vấn đề ô nhiễm môi trường từ các nhà máy, xí nghiệp, xử lý rác thải công nghiệp; vấn đề giải phóng mặt bằng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất... Những năm qua, việc triển khai các chính sách an sinh xã hội ngày càng được quan tâm và đạt được nhiều kết quả quan trọng; nhưng vẫn còn một số hạn chế, tiềm ẩn bức xúc trong xã hội. Đặc biệt là, việc thực hiện chưa nghiêm, sai lệch chính sách, không kịp thời quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng nguyện vọng của nhân dân..., thậm chí có nơi xảy ra những vi phạm của chính quyền cấp cơ sở. Bên cạnh đó, hoạt động tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước đã tác động, làm xuất hiện tâm lý nghi ngờ về hiệu quả của các chính sách và năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước. Điều này đã tạo ra những mâu thuẫn, bức xúc trong quần chúng 14 nhân dân, gây ra những vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự tại cơ sở; thậm chí dễ bị lợi dụng, kích động bùng phát thành các cuộc biểu tình, khiếu kiện quy mô lớn như đã xảy ra ở một số tỉnh, thành phố. Điển hình, tại các khu công nghiệp, nhất là các khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xảy ra đình công, lãn công phản đối chính sách của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp FDI, có vụ lên đến hàng chục nghìn người. Vì vậy, yêu cầu, đòi hỏi chủ động nắm bắt tình hình từ sớm, không để xảy ra những vụ việc phức tạp, kéo dài là yêu cầu khách quan, cấp thiết. - Các đối tượng có hoạt động tôn giáo trái pháp luật trên địa bàn cơ sở. Hoạt động tôn giáo trái pháp luật là một trong những vấn đề có thể phát sinh và hình thành điểm phức tạp về an ninh, trật tự trên địa bàn cơ sở. Thực tế cho thấy, hoạt động tôn giáo trái pháp luật đã diễn ra ở nhiều địa bàn cơ sở, như: hoạt động tuyên truyền phát triển đạo trái pháp luật; hoạt động cơi nới, mở rộng hoặc xây dựng mới cơ sở thờ tự không theo quy định của pháp luật; hoạt động bổ nhiệm, phong phẩm, sinh hoạt tôn giáo trái pháp luật... Những điều này không những ảnh hưởng đến quyền chính đáng theo hoặc không theo tôn giáo, mà còn gây ra những phức tạp về an ninh, trật tự đối với cộng đồng dân cư ở cơ sở. Ở một số địa bàn cơ sở, nhất là liên quan đến Công giáo, còn xảy ra 15 các hiện tượng: đòi lại đất đai, cơ sở thờ tự; lôi kéo, kích động quần chúng giáo dân chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền vu cáo Việt Nam “đàn áp tôn giáo”... - Các đối tượng mãn hạn tù, đối tượng truy nã, trốn thi hành án, đối tượng phạm tội đang lẩn trốn trên địa bàn cơ sở. Địa bàn cơ sở là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư tích cực đóng góp chung vào sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, cộng đồng dân cư cũng có những con người cần phải được định hướng, giáo dục, cải tạo để chấp hành tốt các quy định của pháp luật, như: người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án nhưng đang tại ngoại hoặc được hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách; người đang chấp hành án cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế; người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đang trong thời gian thử thách; người đã chấp hành xong bản án, quyết định của tòa án nhưng chưa được xóa án tích... Cùng với đó là hoạt động của các đối tượng bị truy nã, trốn thi hành án, đối tượng phạm tội đang lẩn trốn. Điều này đòi hỏi tại địa bàn cơ sở phải phát hiện, tác động chuyển hóa các đối tượng, làm trong sạch địa bàn. 16 - Hoạt động phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội trên địa bàn cơ sở. Bên cạnh những hoạt động kinh tế - xã hội tuân thủ quy định của pháp luật thì trên địa bàn cơ sở còn có những hoạt động phạm pháp hình sự, như: trộm cắp tài sản, đánh bạc, buôn bán, tàng trữ, sử dụng chất ma túy, cố ý gây thương tích... Các loại tội phạm hoạt động đan xen, gắn kết giữa hình sự, kinh tế, môi trường, ma túy, công nghệ cao... Thủ đoạn hoạt động phạm tội do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ngày càng tinh vi, xảo quyệt, kết hợp với sử dụng công nghệ cao, có tổ chức, xuyên quốc gia. Các hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, buôn bán hàng cấm... diễn ra trên không gian mạng khó kiểm soát và có dấu hiệu gia tăng. Do đó, tệ nạn xã hội, các loại tội phạm vẫn phát sinh, phát triển tại cả khu vực nông thôn, đô thị với nhiều phương thức, thủ đoạn mới, tinh vi hơn. Hoạt động này ngày càng diễn ra phức tạp tại những địa bàn mà phong trào quần chúng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự chưa cao; hệ thống chính trị cơ sở còn hạn chế, có mâu thuẫn cục bộ hoặc vi phạm nhất định... Đặc biệt, sự hình thành, phát triển các khu đô thị mới, chung cư cao cấp tại các tỉnh, thành phố lớn hiện nay, một mặt phản ánh sự phát triển đô thị trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; 17 song đồng thời, cũng dẫn đến sự hình thành các cộng đồng, cấu trúc dân cư đô thị mới có liên quan đến an ninh, trật tự. Hiện nay, các phần tử xấu, các loại tội phạm có xu hướng sử dụng địa bàn các khu đô thị mới, các khu chung cư với nhiều tầng an ninh khép kín (lực lượng chức năng không dễ vào kiểm tra, xử lý) để che giấu và thực hiện tội phạm. Điều này gây ra những bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến ý thức tham gia bảo đảm an ninh, trật tự của người dân cũng như tác động tiêu cực đến môi trường cộng đồng dân cư, thậm chí tác động, lôi kéo một bộ phận thanh niên tham gia vào hoạt động này. Bên cạnh đó, các tệ nạn xã hội xảy ra trên địa bàn cơ sở, nhất là địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã gây ra tình trạng mất an ninh, trật tự, ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển của địa bàn. Thực tiễn đó cũng đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cơ quan, tổ chức, mọi công dân, của nhiều lực lượng, trong đó có lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ trị an, trật tự, an toàn xã hội. Muốn vậy, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là phải tổ chức, xây dựng, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. - Nguy cơ xảy ra cháy, nổ, tai nạn trên địa bàn cơ sở. Một trong những vấn đề gây tổn thất về 18 người và của có thể xảy ra trên địa bàn cơ sở là các vụ cháy, nổ, tai nạn. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, các địa bàn cơ sở có hoạt động sản xuất, kinh doanh, các làng nghề dịch vụ, các khu dân cư đông đúc. Khi xảy ra các vụ việc này, nếu không có lực lượng chức năng tại địa bàn cơ sở kịp thời giải quyết từ sớm thì có thể để lại hậu quả lớn về người và của. Do vậy, để phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục hậu quả xảy ra, một trong những yêu cầu rất quan trọng là phát huy được vai trò của lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự tại cơ sở. - Xảy ra tình trạng các đối tượng phạm tội sinh sống trên địa bàn kích động, tập hợp lực lượng, tuyên truyền, tụ tập, gây rối trật tự công cộng, khiếu kiện trên địa bàn cơ sở. Địa bàn cơ sở là nơi triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. Tuy nhiên, đây cũng là địa bàn mà các loại đối tượng có nhiều hoạt động gây phức tạp về an ninh, trật tự sinh sống, hoạt động. Quá trình hoạt động, các đối tượng này có những hoạt động kích động quần chúng nhân dân tham gia gây phức tạp về an ninh, trật tự; tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; tập hợp lực lượng hình thành các hội, nhóm chống phá; tụ tập, gây rối an ninh, trật tự; kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện, biểu tình chống đối. Nguy cơ 19 lệ thuộc vào các luồng thông tin “một chiều”, bị “định hướng” thông tin trong cuộc chiến tranh thông tin toàn cầu, gây ra nhiều luồng quan điểm “trái chiều” trong dư luận xã hội, đe dọa đoàn kết dân tộc và ổn định xã hội. Bên cạnh đó, tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường đã khiến nhiều giá trị văn hóa xuống cấp; khuynh hướng thương mại hóa trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, chạy theo lợi nhuận đơn thuần không bị đẩy lùi mà tiếp tục có những biểu hiện mới, phức tạp. Tình trạng buông lỏng quản lý liên kết, để cho các đối tác liên kết thao túng diễn ra ở một số nhà xuất bản dẫn tới hệ lụy là cho ra đời nhiều ấn phẩm có nội dung lệch lạc, độc hại; thậm chí phủ nhận những thành quả cách mạng, xuyên tạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp vai trò của Đảng. Trong khi đó, các phần tử thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng đến mọi tầng lớp nhân dân; triệt để lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là tại cơ sở để kích động quần chúng nhân dân tập trung đông người, gây mất an ninh, trật tự, hình thành “điểm nóng”, xung đột xã hội, từ đó, tạo dựng “ngòi nổ” cho các cuộc biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn chống chính quyền, chống Đảng, 20 Nhà nước. Vì vậy, bên cạnh việc tổ chức lực lượng, biện pháp công tác công an thì sự tham gia của các lực lượng quần chúng nhân dân có vai trò quan trọng trong xây dựng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. - Hoạt động phức tạp liên quan đến quản lý nhà nước về an ninh, trật tự tại địa bàn cơ sở. Bên cạnh những hoạt động phức tạp nêu trên, tại địa bàn cơ sở còn nảy sinh những vấn đề phức tạp liên quan đến quản lý nhà nước về an ninh, trật tự như: người dân di cư không khai báo biến động về nhân khẩu, hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng, lưu trú có hoạt động nghi vấn; quản lý ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; vấn đề quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ... Đây là vấn đề có thể phát sinh những vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, không quản lý tốt sẽ dẫn đến bỏ lọt đối tượng, địa bàn, làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn. - Tác động từ mặt trái của không gian mạng đến quần chúng nhân dân ở địa bàn cơ sở. Trong thời đại ngày nay, không gian mạng ngày càng đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển xã hội thông tin và kinh tế tri thức, kinh tế số, thương mại điện tử, thanh toán điện tử..., làm thay đổi diện mạo mới của nhiều quốc gia, đem lại những thành tựu vượt bậc cho nhân loại. 21 Song, các quốc gia cũng phải đối mặt nhiều hơn với các nguy cơ, thách thức trong bảo đảm an ninh, trật tự như: chiến tranh mạng, khủng bố mạng, tội phạm mạng... Ở nước ta, sử dụng không gian mạng trong chiến lược “diễn biến hòa bình” là một hướng ưu tiên của các thế lực thù địch nhằm tăng cường hoạt động tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước ta, phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ. Gần đây, lợi dụng không gian mạng, các đối tượng đã gia tăng các hoạt động tuyên truyền thông tin, âm mưu kích động, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy tâm lý phản kháng, thể hiện sự bất bình của người dân với chính quyền cơ sở. Cùng với đó, không gian mạng ngày càng làm xói mòn các giá trị truyền thống, lan tỏa các trào lưu tư tưởng văn hóa, xã hội độc hại, kích động bạo lực, khủng bố; đồng thời tạo ra những điều kiện thuận lợi để các loại tội phạm tiến hành hoạt động phạm tội trên địa bàn cơ sở như: cho vay lãi suất cao; đánh bạc qua mạng; lừa đảo trên không gian mạng ngày càng gia tăng. 3. Nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Công an ở địa bàn cơ sở - Nguyên tắc hoạt động: + Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân, dựa vào 22 nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và hệ thống chính trị ở cơ sở để thực hiện nhiệm vụ. + Chịu sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp ủy đảng, sự quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân cùng cấp và sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Công an cấp trên. + Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự với nhiệm vụ quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. - Nhiệm vụ, quyền hạn: + Nắm tình hình an ninh, trật tự; tham mưu, đề xuất với đảng ủy, ủy ban nhân dân và cơ quan Công an cấp trên quyết định chủ trương, biện pháp, kế hoạch bảo đảm an ninh, trật tự và tổ chức thực hiện các quyết định đó; tiếp nhận, phân loại, xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự trên địa bàn cơ sở. + Tham mưu, đề xuất với đảng ủy, ủy ban nhân dân cùng cấp về chủ trương, kế hoạch, nội dung, hình thức, biện pháp phát động, duy trì và đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ an ninh Tổ quốc cho nhân dân; chăm lo xây dựng, củng cố và đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức quần chúng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, giúp các tổ chức này hoạt động 23 có hiệu quả và trở thành hạt nhân thúc đẩy phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” trên địa bàn cơ sở. + Tham mưu cho ủy ban nhân dân cùng cấp và tổ chức thực hiện quy định của pháp luật về quản lý, giáo dục các đối tượng phải chấp hành hình phạt quản chế, cải tạo không giam giữ, người bị kết án treo cư trú trên địa bàn, quản lý người được đặc xá, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện, người sau cai nghiện ma túy và người chấp hành xong hình phạt tù thuộc diện phải tiếp tục quản lý theo quy định của pháp luật. Phối hợp với các lực lượng có liên quan quản lý, giáo dục các loại đối tượng quản lý theo yêu cầu. + Thực hiện công tác công an theo quy định của Bộ Công an và hướng dẫn của Công an cấp trên; sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự trên địa bàn theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an. + Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo các tài liệu, đồ vật có liên quan cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trường hợp phát hiện, bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và 24 bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp luật; giải ngay người bị bắt lên cơ quan Công an cấp trên trực tiếp hoặc báo ngay cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. + Thực hiện các quy định quản lý hành chính về trật tự, an toàn xã hội: Đăng ký, quản lý cư trú, quản lý người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú trên địa bàn xã, phối hợp thực hiện khai báo, tiếp nhận thông tin tạm trú của người nước ngoài; bảo vệ bí mật nhà nước; phối hợp thực hiện cấp, phát căn cước công dân, chứng minh nhân dân và các giấy tờ đi lại khác; phối hợp với các cơ quan, ban, ngành của xã quản lý nhà nước về dân cư; xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu căn cước công dân theo quy định của pháp luật và của Bộ Công an; quản lý về an ninh, trật tự với các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật; quản lý vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ; tổ chức thực hiện, quản lý công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn và các lĩnh vực khác về an ninh, trật tự trên địa bàn theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an. + Tổ chức bảo vệ hiện trường, cấp cứu nạn nhân trong các vụ án, vụ cháy, nổ, vụ tai nạn trên địa bàn, thu thập thông tin có liên quan và làm 25 các thủ tục cần thiết chuyển cho các đơn vị chức năng theo quy định. + Xử phạt vi phạm hành chính; lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đối với người vi phạm pháp luật trên địa bàn theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an. + Được yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn xã phối hợp hoạt động, cung cấp thông tin và thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến bảo đảm an ninh, trật tự theo quy định. + Trong trường hợp cấp thiết, để cấp cứu người bị nạn, cứu hộ, cứu nạn, đuổi bắt người phạm tội quả tang, người có quyết định truy nã, truy tìm thì người chỉ huy lực lượng Công an ở cơ sở được huy động người, phương tiện của tổ chức, cá nhân, để thực hiện nhiệm vụ và phải trả lại ngay phương tiện đã huy động khi tình huống chấm dứt và phải báo cáo ngay với chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp về việc huy động đó; người huy động phải chịu trách nhiệm cá nhân trước ủy ban nhân dân cùng cấp và trước pháp luật về việc huy động của mình. + Tổ chức tuần tra, kiểm soát, giữ gìn trật tự công cộng, trật tự giao thông, giải quyết các vụ gây rối trật tự theo quy định. Phối hợp tổ chức công tác bảo đảm an toàn tuyệt đối cho đối tượng cảnh vệ tại địa bàn theo quy định; bảo vệ an toàn 26 các sự kiện, hoạt động diễn ra trên địa bàn theo phương án, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. + Được sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và thực hiện một số biện pháp công tác công an theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an để bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn. + Tham gia thực hiện công tác tuyển sinh, tuyển dụng vào lực lượng vũ trang nhân dân; luyện tập, diễn tập thực hiện các phương án quốc phòng, an ninh, cứu nạn, cứu hộ, khắc phục hậu quả thiên tai và các sự cố nghiêm trọng khác. + Xây dựng lực lượng Công an cấp xã trong sạch, vững mạnh về chính trị, tổ chức và nghiệp vụ. + Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật và nhiệm vụ khác thuộc chức năng của Công an cấp xã do Công an cấp trên, đảng ủy và ủy ban nhân dân cùng cấp giao. II- LỰC LƯỢNG THAM GIA BẢO ĐẢM AN NINH, TRẬT TỰ Ở ĐỊA BÀN CƠ SỞ 1. Khái niệm, nguyên tắc tổ chức, các loại hình và nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở - Khái niệm: Lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở là lực lượng quần chúng tự nguyện, được tuyển chọn tham gia thực hiện 27 nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh, trật tự tại địa bàn cơ sở. Các lực lượng này giữ vai trò quan trọng làm nòng cốt trong xây dựng mô hình tự quản về bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn cơ sở; hỗ trợ lực lượng Công an thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ và xây dựng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” trên địa bàn cơ sở. - Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở: Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt động dưới sự giám sát, quản lý của chính quyền địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở xã, phường, thị trấn, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, sự quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, hướng dẫn, kiểm tra của cơ quan Công an trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự; đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. - Một số loại hình tổ chức, hoạt động của lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở: Nhận thức được vai trò, trách nhiệm trong xây dựng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, trong những năm qua, Công an các địa phương đã chỉ đạo các lực lượng tăng cường các 28 biện pháp xây dựng, củng cố lực lượng này cả về tổ chức và hoạt động. Quá trình tiến hành đã đạt được những kết quả nhất định, tạo điều kiện hỗ trợ cho lực lượng Công an trong hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự. Nhiều mô hình lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự được xây dựng, củng cố đã phát huy vai trò, tác dụng hiệu quả trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự. Đối với địa bàn các xã, thị trấn, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự được xây dựng mang tính phổ biến đó là lực lượng Công an xã bán chuyên trách; Tổ an ninh nhân dân; Tổ hòa giải; lực lượng dân phòng; bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp. Đối với địa bàn các phường, khu vực đô thị, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự có tính phổ biến là lực lượng bảo vệ dân phố; dân phòng; bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp... Thực tế hiện nay cho thấy, ở các phường, xã, thị trấn trong toàn quốc thường có ba loại hình lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự như sau: + Loại hình tổ chức có chức năng tư vấn, tương ứng với loại hình này là hội đồng an ninh, trật tự ở cơ sở, thành phần gồm chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban mặt trận Tổ quốc, trưởng công an, bí thư đoàn thanh niên, chủ tịch hội cựu chiến binh, chủ tịch hội phụ nữ... đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Ở cơ quan, 29 doanh nghiệp, thành phần gồm bí thư đảng ủy, thủ trưởng cơ quan, trưởng phòng (tổ trưởng) bảo vệ, đại diện công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ. Hội đồng an ninh, trật tự có nhiệm vụ giúp (tư vấn) cho cấp ủy, chính quyền, thủ trưởng cơ quan, doanh nghiệp... đề ra chủ trương, quyết định biện pháp và chỉ đạo công tác an ninh, trật tự chung trong xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp. + Loại hình có chức năng quản lý, điều hành, tương ứng với loại hình này là ban an ninh, trật tự và ban bảo vệ dân phố. Ở nông thôn, ban an ninh, trật tự được thành lập ở thôn, ấp, bản, làng, phum, sóc...; ở cơ quan, doanh nghiệp lớn, ban an ninh, trật tự được thành lập ở phân xưởng, xí nghiệp, công ty... Nếu cơ quan, doanh nghiệp nhỏ và thôn nhỏ có nơi không cần thiết phải thành lập ban an ninh, trật tự; ở thành phố, thị xã: ban bảo vệ dân phố được thành lập theo các khu phố, cụm dân cư. Bảo vệ dân phố là một trong các lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được xây dựng theo Nghị định số 38/2006/NĐ-CP, ngày 17/4/2006 của Chính phủ. Đây là tổ chức được thành lập ở các phường, thị trấn nơi bố trí lực lượng Công an chính quy, do ủy ban nhân dân phường quyết định thành lập. Ban an ninh, trật tự và ban bảo vệ dân phố là lực lượng 30 nòng cốt trong việc thực hiện phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và thực hiện một số biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác theo quy định của pháp luật, có trách nhiệm quản lý, điều hành và phối hợp với Công an xã, phường, thị trấn, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp hướng dẫn, hỗ trợ các tổ an ninh nhân dân, an ninh công nhân, đội dân phòng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự. + Loại hình có chức năng thực hành, tương ứng với loại hình này là các tổ an ninh nhân dân, an ninh công nhân, đội dân phòng, đội thanh niên xung kích an ninh có nhiệm vụ trực tiếp thực thi các nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự ở các cơ sở. Tổ an ninh nhân dân được cơ cấu ở các thôn, xóm, tổ dân phố. Trong một thôn, xóm, khu phố có thể có nhiều tổ an ninh nhân dân, căn cứ đặc điểm thực tế, số lượng dân cư, mối quan hệ ràng buộc của quần chúng ở khu tập thể, khu dân cư để hình thành tổ an ninh nhân dân cho phù hợp. Hiện nay, hầu hết các địa phương đều đang duy trì hoạt động của tổ an ninh nhân dân, tuy nhiên cũng có địa phương gọi là tổ tự quản, tổ liên gia an toàn, nhiều nơi vừa có tổ an ninh nhân dân, vừa có tổ tự quản... do đó, nên thống nhất tên gọi tổ an ninh nhân dân là đúng nghĩa nhất, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ là tổ chức của nhân dân 31 làm công tác an ninh, trật tự, phù hợp với quy định trước đây của Bộ Công an về chức năng, nhiệm vụ của tổ an ninh nhân dân. Tổ an ninh công nhân được cơ cấu ở các tổ, đội sản xuất, phân xưởng, phòng, ban trong cơ quan, doanh nghiệp, riêng ở các phân xưởng, phòng, ban lớn có thể có nhiều tổ an ninh công nhân tuỳ thuộc phạm vi, quy mô, tính chất công việc chuyên môn và yêu cầu thực tế nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, bảo vệ an ninh, trật tự. Dân phòng là lực lượng nòng cốt trong hoạt động phòng cháy và chữa cháy tại các thôn, làng, ấp, bản hoặc tổ dân phố, do chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, phường thành lập, quản lý và chỉ đạo. Căn cứ vào Luật phòng cháy và chữa cháy ngày 29/6/2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy ngày 22/11/2013 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, lực lượng dân phòng là lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, nhưng chủ yếu làm nhiệm vụ tham gia công tác phòng cháy, chữa cháy và được huy động trong các trường hợp cần thiết bảo đảm an ninh, trật tự tại cơ sở. Các đội thanh niên xung kích an ninh, đội thiếu niên Sao đỏ là tổ chức của đoàn thanh niên, Đội thiếu niên lập ra để thu hút thanh, thiếu niên vào hoạt động bảo vệ an ninh, trật tự. Đây cũng là tổ chức của quần chúng trực tiếp tham gia bảo vệ an ninh, trật tự cần được duy trì hoạt động. 32 Các đội dân phòng, thanh niên xung kích an ninh, hình thành theo thôn, xóm, khu phố, cụm dân cư hoặc cơ cấu theo tổ chức đoàn thanh niên (chi đoàn, phân đoàn) tuỳ theo tính chất nhiệm vụ công tác an ninh, trật tự ở cơ sở. Pháp lệnh Công an xã số 06/2008/PL-UBTVQH12 quy định về xây dựng lực lượng Công an xã bán chuyên trách quy định lực lượng Công an xã là lực lượng vũ trang bán chuyên trách, làm nòng cốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn cơ sở. Trước đây lực lượng Công an xã bán chuyên trách còn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự tại cơ sở, tuy nhiên, với việc triển khai thực hiện mô hình Công an bốn cấp hiện nay, công tác này do lực lượng Công an xã chính quy đảm nhiệm, đồng thời 100% địa bàn xã trong cả nước đã được bố trí Công an chính quy nên lực lượng Công an xã bán chuyên trách hiện nay chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ tham gia bảo vệ an ninh, trật tự. - Nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở, theo chỉ đạo của lực lượng Công an xã, lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở có nhiệm vụ cơ bản sau: + Tham gia thu thập thông tin, tình hình về an ninh, trật tự trên địa bàn cơ sở. Nội dung thu thập thông tin gồm: vụ việc tụ tập đông người, 33 khiếu kiện đông người trái pháp luật, gây rối trật tự công cộng, vi phạm trật tự, an toàn giao thông và tệ nạn xã hội. Thu thập thông tin về tình hình chấp hành pháp luật của người bị cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án nhưng đang tại ngoại hoặc được hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách; người đang chấp hành án cải tạo không giam giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú, quản chế, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân; người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đang trong thời gian thử thách; người đã chấp hành xong bản án, quyết định của tòa án, của cơ quan có thẩm quyền nhưng chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, quản lý tại gia đình; người phải chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành; người bị quản lý trong thời gian làm thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào 34 trường giáo dưỡng. Theo đó, kịp thời báo cáo với cơ quan Công an, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trực tiếp quản lý có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý. + Tham gia tuyên truyền pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở hỗ trợ lực lượng Công an cấp xã và phối hợp với các lực lượng chức năng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc tổ chức tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng, phát động, duy trì và đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, tuyên truyền nhân dân nâng cao ý thức bảo vệ an ninh Tổ quốc. + Tham gia thực hiện công tác phòng, chống thiên tai, phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Theo sự phân công, chỉ đạo của lực lượng Công an cấp xã, lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở phối hợp với lực lượng dân phòng, lực lượng chức năng thực hiện xây dựng nội dung an toàn về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ theo quy định; chuẩn bị lực lượng, phương tiện và tham gia thực hiện nhiệm vụ chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ khi có cháy, nổ xảy ra. 35 + Tham gia vận động, đôn đốc quần chúng nhân dân trên địa bàn chấp hành quy định của pháp luật quản lý hành chính về trật tự xã hội (quản lý cư trú, quản lý ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự, quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ...). Trường hợp lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự phát hiện hoặc do nhân dân phản ánh vi phạm về quản lý cư trú, và an ninh, trật tự xảy ra tại cơ sở hoạt động ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự trên địa bàn phụ trách phải kịp thời báo cáo cho Công an cấp xã trực tiếp quản lý. + Tham gia vận động, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ người vi phạm pháp luật đã bị xử lý trở về sinh sống tại địa bàn. Lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở phối hợp với tổ chức, đoàn thể quần chúng trên địa bàn phụ trách tham gia vận động, giúp đỡ người đã chấp hành xong hình phạt tù, chấp hành xong quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện, người đang chấp hành án hình sự tại cộng đồng đang cư trú, sinh sống trên địa bàn phụ trách chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. + Tham gia hỗ trợ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và thực hiện các nhiệm vụ khác về 36 bảo đảm an ninh, trật tự. Lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở hỗ trợ lực lượng chức năng thực hiện việc hướng dẫn, phân luồng, giải quyết ùn tắc giao thông; hỗ trợ tham gia tuần tra, kiểm soát, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông khi được huy động. Khi nhận được tin báo có vụ việc mất an ninh, trật tự xảy ra trên địa bàn phụ trách, lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở phải kịp thời có mặt, tùy theo tính chất, mức độ vụ việc để đề nghị người dân tham gia hỗ trợ giải quyết; tham gia bảo vệ hiện trường và báo ngay cho lực lượng chức năng đến giải quyết. Hỗ trợ và tham gia cùng lực lượng Công an tổ chức tuần tra, kiểm soát để phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi phạm khác về an ninh, trật tự. Thực hiện các nhiệm vụ khác trong bảo đảm an ninh, trật tự khi được cấp có thẩm quyền giao. - Quan hệ công tác, phối hợp của lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở: + Lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân, sự quản lý của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Đồng thời, chịu sự quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Công an cấp xã trong bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn. 37 + Theo sự phân công, chỉ đạo của Công an cấp xã, lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở tham gia phối hợp với người đứng đầu các thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, đơn vị dân cư tương đương, trưởng ban công tác mặt trận, bí thư chi bộ thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự tại địa bàn. + Lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở phối hợp với lực lượng dân quân tự vệ (lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác) dưới sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân cấp xã tham gia hỗ trợ các lực lượng chức năng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” ở cơ sở. Hai lực lượng này phối hợp với nhau và lực lượng khác trên địa bàn cơ sở thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, hải đảo, vùng biển, vùng trời Việt Nam, bảo đảm an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm pháp luật; tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân xây dựng địa bàn cơ sở vững mạnh toàn diện; thực hiện chính sách xã hội; phòng, chống, khắc phục hậu quả sự cố thiên tai, dịch bệnh, phòng cháy, chữa cháy; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và hoạt động phòng thủ dân sự khác. 38 + Phối hợp với đoàn thể quần chúng, tổ chức quần chúng tự quản ở địa phương, dân phòng, hòa giải viên cơ sở, lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đóng trên địa bàn tham gia bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn cơ sở; tham mưu Công an cấp xã xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi phạm pháp luật khác về an ninh, trật tự trên địa bàn cơ sở được phụ trách. 2. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể đối với từng lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở Bảo vệ dân phố, dân phòng, Công an xã bán chuyên trách là các lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật khác về an ninh, trật tự tại địa bàn cơ sở. Theo quy định của pháp luật hiện nay, các quyền, nghĩa vụ của lực lượng trên được quy định tại các văn bản pháp luật khác nhau, như: Nghị định số 38/2006/NĐ-CP, ngày 17/4/2006 về bảo vệ dân phố, Pháp lệnh Công an xã năm 2008, Luật phòng cháy và chữa cháy năm 2001, Luật phòng cháy và chữa cháy sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2013. - Lực lượng bảo vệ dân phố: Nghị định số 38/2006/NĐ-CP, ngày 17/4/2006 của Chính phủ về bảo vệ dân phố đã quy định 39 chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức, hoạt động và chế độ, chính sách đối với bảo vệ dân phố. Theo đó, tại khoản 1, Điều 2 quy định vị trí, chức năng của bảo vệ dân phố nêu rõ: Bảo vệ dân phố là lực lượng quần chúng tự nguyện làm nòng cốt trong phong trào bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, được thành lập ở các phường, thị trấn (sau đây gọi chung là phường) nơi bố trí lực lượng Công an chính quy, do ủy ban nhân dân phường quyết định thành lập. Bảo vệ dân phố có trách nhiệm làm nòng cốt trong việc thực hiện phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện một số biện pháp công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trên địa bàn1. Về nguyên tắc hoạt động của bảo vệ dân phố, tại Điều 3 cũng nêu: Bảo vệ dân phố chịu sự lãnh đạo toàn diện của đảng ủy phường, sự giám sát của hội đồng nhân dân phường, sự quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân phường và sự chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp công tác của Công an phường. ____________ 1. Xem Chính phủ: Nghị định số 38/2006/NĐ-CP, ngày 17/4/2006 về bảo vệ dân phố. 40 Mọi hoạt động của bảo vệ dân phố được thực hiện theo quy định của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng danh nghĩa của bảo vệ dân phố để thực hiện hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân1. Về nhiệm vụ (được quy định cụ thể tại Điều 5 Nghị định số 38/2006/NĐ-CP, ngày 17/4/2006 của Chính phủ về bảo vệ dân phố và được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư liên tịch số 02/2007/TTLT BCA-BLĐTBXH-BTC, ngày 01/3/2007 của Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính): + Nắm tình hình an ninh, trật tự, phát hiện các vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân, các vụ vi phạm hành chính, vi phạm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn phường; phản ánh cho cơ quan Công an và ủy ban nhân dân phường, có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn; tham gia hoà giải, giải quyết kịp thời không để những hậu quả xấu xảy ra. + Phổ biến, tuyên truyền nâng cao cảnh giác, ý thức phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự nhằm vận động nhân dân trong phường tự giác chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, ____________ 1. Xem Chính phủ: Nghị định số 38/2006/NĐ-CP, ngày 17/4/2006 về bảo vệ dân phố. 41 chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy tắc, quy ước, nội quy về bảo đảm an ninh, trật tự; tham gia xây dựng phường, cụm dân cư, hộ gia đình an toàn về an ninh, trật tự, không có tội phạm, tệ nạn xã hội. + Đôn đốc, nhắc nhở nhân dân trong phường chấp hành các quy định của pháp luật về đăng ký, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu; sử dụng, quản lý chứng minh nhân dân và giấy tờ tuỳ thân khác; quy định về đăng ký hoạt động ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; tham gia giữ gìn trật tự công cộng, trật tự, an toàn giao thông, an toàn phòng cháy, chữa cháy. + Vận động nhân dân tham gia cảm hoá, giáo dục, giúp đỡ và quản lý những người đã chấp hành xong hình phạt tù, chấp hành xong quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, trung tâm cai nghiện người chưa thành niên phạm tội, người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, giúp đỡ những đối tượng đang trong diện quản lý, giáo dục tại phường. Vận động thuyết phục người thân của các đối tượng đang bị truy nã, trốn thi hành án, đối tượng phạm tội đang lẩn trốn để tác động họ ra đầu thú. + Khi có vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự xảy ra trong địa bàn, phải kịp thời có mặt và tìm 42 mọi cách báo ngay cho Công an phường; bảo vệ hiện trường, tham gia sơ cứu người bị nạn, giải cứu con tin; bắt, giữ người phạm tội quả tang; tham gia chữa cháy, cứu tài sản và thực hiện các công việc khác theo sự phân công, hướng dẫn của ủy ban nhân dân và Công an phường. + Phối hợp với lực lượng dân phòng và bảo vệ chuyên trách các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đóng trên địa bàn để bảo đảm an ninh, trật tự theo chỉ đạo của ủy ban nhân dân và Công an phường. Tổ chức tuần tra, kiểm soát và tham gia các hoạt động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi phạm khác về trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Về quyền hạn (được quy định cụ thể tại Điều 6 Nghị định số 38/2006/NĐ-CP và được hướng dẫn bởi Mục III Thông tư liên tịch số 02/2007/TTLT BCA-BLĐTBXH-BTC): + Bắt, tước hung khí và áp giải người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, trốn thi hành án phạt tù đến trụ sở Công an phường theo quy định của pháp luật. + Yêu cầu chấm dứt ngay hành vi vi phạm và báo cáo với ủy ban nhân dân, Công an phường để có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật đối với những người đang có hành vi vi phạm trật tự công cộng, trật tự xây dựng, trật tự, an toàn giao thông, các vi phạm quy định an toàn cháy nổ 43 và những người vi phạm các quy định khác về trật tự, an toàn xã hội. + Tham gia với lực lượng Công an hoặc lực lượng chức năng để truy bắt người phạm tội, người đang bị truy nã, trốn thi hành án; kiểm tra tạm trú, tạm vắng; kiểm tra giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ tuỳ thân khác của những người tạm trú, người có nghi vấn đến địa bàn khu phố được phân công phụ trách. + Sử dụng vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Nghị định số 38/2006/NĐ-CP cũng quy định về lề lối làm việc, chính sách, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, đoàn thể, đơn vị, tổ chức và mọi công dân trong tổ chức, bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng, thực hiện chế độ, chính sách và hỗ trợ, giúp đỡ bảo vệ dân phố thực thi nhiệm vụ. - Lực lượng dân phòng: Theo quy định của pháp luật hiện hành, dân phòng là một trong bốn lực lượng nòng cốt của hoạt động phòng cháy, chữa cháy. Khi xảy ra cháy nổ, lực lượng dân phòng có mặt đầu tiên ở hiện trường, trực tiếp tham gia giải quyết các tình huống ngay từ khi mới phát sinh, trước khi lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy có mặt. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, chế độ, chính sách của 44 lực lượng dân phòng được quy định tại Luật phòng cháy và chữa cháy năm 2001 và Luật phòng cháy và chữa cháy sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2013. Theo đó, lực lượng dân phòng có nhiệm vụ: 1) Đề xuất việc ban hành quy định, nội quy an toàn về phòng cháy và chữa cháy; 2) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật và kiến thức phòng cháy và chữa cháy; xây dựng phong trào quần chúng tham gia phòng cháy và chữa cháy; 3) Kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành các quy định, nội quy an toàn về phòng cháy và chữa cháy; 4) Tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy và chữa cháy; 5) Xây dựng phương án, chuẩn bị lực lượng, phương tiện và thực hiện nhiệm vụ chữa cháy khi có cháy xảy ra; tham gia chữa cháy ở địa phương, cơ sở khác khi có yêu cầu. Bên cạnh đó, Bộ Công an cũng ban hành các thông tư quy định về trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ, cứu nạn cho lực lượng dân phòng, lực lượng phòng cháy, chữa cháy cơ sở và lực lượng phòng cháy, chữa cháy chuyên ngành (Thông tư số 150/2020/TT-BCA, ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an); phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành thông tư liên tịch về chế độ đối với một số người được điều động, huy động trực tiếp chữa cháy, phục vụ chữa cháy, cán bộ, đội viên đội dân phòng, đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở và 45 chuyên ngành tham gia huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy (Thông tư liên tịch số 52/TTLT-BLĐTBXH-BTC-BCA, ngày 10/12/2015). Gần đây nhất, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 04/2021/TT-BLĐTBXH, ngày 30/6/2021 Hướng dẫn chế độ đối với một số người được điều động, huy động trực tiếp chữa cháy, phục vụ chữa cháy, thành viên đội dân phòng, đội phòng cháy, chữa cháy cơ sở và chuyên ngành tham gia huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy. Đáng chú ý, tại Chương II của Thông tư đã quy định cụ thể, chi tiết chế độ đối với người được điều động, huy động trực tiếp chữa cháy, phục vụ chữa cháy bị tai nạn, bị thương, bị chết; đối với thành viên đội dân phòng, đội phòng cháy, chữa cháy cơ sở và chuyên ngành tham gia huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy. - Lực lượng Công an xã bán chuyên trách: Pháp lệnh số 06/2008/PL-UBTVQH12, ngày 21/11/2008 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội - Pháp lệnh Công an xã, tại Điều 3. Vị trí, chức năng của Công an xã, quy định: “Công an xã là lực lượng vũ trang bán chuyên trách, thuộc hệ thống tổ chức của Công an nhân dân, làm nòng cốt trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn xã. Công an xã có chức năng tham mưu cho cấp ủy đảng, ủy ban nhân dân cùng cấp về công tác 46 bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn xã; thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, các biện pháp phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh, trật tự trên địa bàn xã theo quy định của pháp luật”1. Tại Điều 4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Công an xã, khẳng định: “Công an xã chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy đảng, sự quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân cùng cấp và sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Công an cấp trên. Hoạt động của Công an xã tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân”2. Cũng tại Điều 9 Pháp lệnh số 06/2008/PL UBTVQH12 và được hướng dẫn chi tiết tại Chương 2 Thông tư số 12/2010/TT-BCA, ngày 08/4/2010 của Bộ Công an đã nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Công an xã như sau: 1) Nắm tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn xã, đề xuất với cấp ủy đảng, ủy ban nhân dân cùng cấp và cơ quan Công an cấp trên về chủ trương, kế hoạch, biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự và tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch, biện pháp đó. 2) Làm nòng cốt xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; tuyên truyền, phổ biến ____________ 1, 2. Xem Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh Công an xã, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 47 chủ trương, chính sách, pháp luật về an ninh, trật tự; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quy định của pháp luật về an ninh, trật tự trên địa bàn xã theo thẩm quyền. 3) Tham mưu cho ủy ban nhân dân xã và tổ chức thực hiện quy định của pháp luật về quản lý, giáo dục các đối tượng phải chấp hành hình phạt quản chế, cải tạo không giam giữ, người bị kết án tù nhưng được hưởng án treo cư trú trên địa bàn xã; quản lý người được đặc xá, người sau cai nghiện ma túy và người chấp hành xong hình phạt tù thuộc diện phải tiếp tục quản lý theo quy định của pháp luật. 4) Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức và lực lượng khác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội theo quy định của pháp luật; bảo đảm an ninh, trật tự; bảo vệ tính mạng, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức trên địa bàn xã. 5) Thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý cư trú, chứng minh nhân dân và các giấy tờ đi lại khác; quản lý vật liệu nổ, vũ khí, công cụ hỗ trợ, phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường; quản lý về an ninh, trật tự đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện trên địa bàn xã theo phân cấp và hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an. 6) Tiếp nhận, phân loại, xử lý theo thẩm quyền các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự trên địa bàn xã; kiểm tra người, đồ vật, giấy tờ tùy thân, 48 thu giữ vũ khí, hung khí của người có hành vi vi phạm pháp luật quả tang; tổ chức cấp cứu nạn nhân, bảo vệ hiện trường và báo cáo ngay cho cơ quan có thẩm quyền; lập hồ sơ ban đầu, lấy lời khai người bị hại, người biết vụ việc, thu giữ, bảo quản vật chứng theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an; cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng, thông tin thu thập được và tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền xác minh, xử lý vụ việc. 7) Tổ chức bắt người phạm tội quả tang, người có quyết định truy nã, truy tìm đang lẩn trốn trên địa bàn xã; dẫn giải người bị bắt lên cơ quan Công an cấp trên trực tiếp. 8) Xử phạt vi phạm hành chính; lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đối với người vi phạm pháp luật trên địa bàn xã theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an. 9) Được yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn xã phối hợp hoạt động, cung cấp thông tin và thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến bảo đảm an ninh, trật tự. 10) Trong trường hợp cấp thiết, để cấp cứu người bị nạn, cứu hộ, cứu nạn, đuổi bắt người phạm tội quả tang, người có quyết định truy nã, truy tìm, được huy động người, phương tiện của tổ chức, cá nhân và phải trả lại ngay phương tiện được huy động khi tình huống chấm dứt và báo cáo ngay với chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp. Trường hợp có thiệt hại 49 về tài sản thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; người được huy động làm nhiệm vụ mà bị thương hoặc bị chết thì được giải quyết theo chính sách của Nhà nước. 11) Được sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và thực hiện một số biện pháp công tác công an theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an để bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn xã. 12) Tham gia thực hiện công tác tuyển sinh, tuyển dụng vào lực lượng vũ trang nhân dân; luyện tập, diễn tập thực hiện các phương án quốc phòng, an ninh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai và các sự cố nghiêm trọng khác. 13) Xây dựng lực lượng Công an xã trong sạch, vững mạnh về chính trị, tổ chức và nghiệp vụ. 14) Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật1. Ngoài các điều khoản trên, Pháp lệnh cũng quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng Công an xã, Phó Trưởng Công an xã, Công an viên; bảo đảm điều kiện hoạt động, gồm bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ hoạt động, nơi làm việc, trang bị, trang phục, phù hiệu, giấy chứng nhận, đào tạo, huấn luyện, tiền lương, phụ cấp và chế độ, chính sách đối với Công an xã. ____________ 1. Xem Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh Công an xã, Sđd. 50 3. Quan điểm của Đảng về phát huy sức mạnh tổng hợp, “thế trận lòng dân” trong bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở Trong suốt quá trình hình thành và phát triển từ những ngày đầu của chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở luôn được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền và ngành Công an; sự giúp đỡ, cộng tác, phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là sự kế thừa và vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo truyền thống dựng nước, giữ nước của ông cha ta, đó là tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, chiến tranh du kích... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và tổ chức phát huy cao nhất vai trò của các lực lượng nòng cốt ở cơ sở trong bảo vệ an ninh, trật tự, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, nhất là tập hợp tất cả tầng lớp nhân dân vào những tổ chức quần chúng tham gia kháng chiến, như: Hội Cứu quốc, Hội Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân... Người yêu cầu: “Toàn quốc đồng bào, bất kỳ già trẻ, gái trai, bắt kỳ giàu nghèo, quý tiện, đều phải vào các Hội Cứu quốc. Đoàn kết được chặt chẽ, giải phóng sẽ 51 thành công”1, “Muốn kháng chiến lâu dài để tới thắng lợi cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới mong đi tới thắng lợi cuối cùng”2. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và trải qua thời kỳ khôi phục, xây dựng đất nước sau ngày giải phóng cũng đã chứng minh vai trò và những đóng góp đặc biệt quan trọng của hệ thống chính trị cơ sở nói chung và lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở nói riêng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đổi mới, do tác động đan xen của nhiều yếu tố, đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở ngày càng cao, nhất là trong bối cảnh các vấn đề phức tạp phát sinh liên quan đến đất đai, tranh chấp, khiếu kiện, dân tộc, tôn giáo và tội phạm hình sự, vi phạm pháp luật... tại địa bàn cơ sở diễn biến khó lường, với nhiều biểu hiện mới mang tính “phi truyền thống”, khó nhận diện và giải quyết. Trước tình hình đó, Đảng ta đã kịp thời có nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, trong đó có xây dựng, củng cố, phát huy vai trò của cấp cơ sở nói chung, lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở nói riêng ____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.3, tr.251. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.95. 52 qua việc ban hành một số văn bản, như: Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18/3/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn; Chỉ thị số 09/CT/TW, ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” trong tình hình mới, đề ra yêu cầu điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ, chế độ, chính sách để tạo điều kiện cho lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự cơ sở đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đề ra một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp về khoán kinh phí chi trả phụ cấp để giảm dần số lượng những người hoạt động không chuyên trách; Kết luận số 120-KL/TW, ngày 07/01/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đề ra yêu cầu tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, 53 hiệu quả; Nghị quyết số 08-NQ/ĐUCA, ngày 01/8/2017 của Đảng ủy Công an Trung ương về tiếp tục hoàn thiện pháp luật về an ninh, trật tự đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Luật lực lượng trị an cơ sở; Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15/3/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia. Đảng ta xác định rõ quan điểm và yêu cầu: “Giải quyết các vụ việc phức tạp về an ninh quốc gia phải từ cơ sở” và “chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ”1. Từ kinh nghiệm đúc rút trong thực tiễn và quá trình tổng kết, đánh giá sâu sắc việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020), ____________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia. 54 Đại hội XIII đánh dấu nhiều bước ngoặt, điểm mới về tư duy lý luận trong lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội; trong đó, có tăng cường vai trò ở cấp cơ sở đối với thực hiện các mục tiêu phát triển, như: “Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở”1; “Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư”2... Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII thể hiện tư duy mới của Đảng về an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên vấn đề xây dựng lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự rộng rãi, hướng về cơ sở được ghi nhận: ____________ 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.173, 172. 55 “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở”1. Quan điểm này tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của địa bàn cơ sở nói chung, bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở nói riêng; đồng thời là cơ sở chính trị quan trọng, định hướng chiến lược tổng thể để xây dựng lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở vững mạnh toàn diện. Như vậy, bằng sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thông qua các nghị quyết quan trọng về bảo đảm an ninh, trật tự, đã thể hiện sự khẳng định vai trò quan trọng của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Việc xây dựng, củng cố, duy trì lực lượng này là vô cùng cần thiết, thực hiện nghiêm túc quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế nhà nước; tăng cường công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở. ____________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.158. 56 4. Sự hình thành, phát triển của lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở đã được thành lập và duy trì hoạt động ngay từ những ngày đầu của cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Trong giai đoạn 1930 - 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập các đội Tự vệ đỏ, Hộ lương diệt ác, Tự vệ công nông, Danh dự trừ gian... Đây vừa là những tổ chức tiền thân của lực lượng vũ trang nhân dân, vừa là cơ sở cho việc hình thành lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở sau này. Để bảo vệ an ninh, trật tự tại địa bàn dễ nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự, có thể hình thành những “điểm nóng”, gây ra những vụ việc phức tạp, khó lường, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lực lượng Công an xã bán chuyên trách đã được thành lập và góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Để kịp thời trấn áp các thế lực phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo đảm an ninh, trật tự, tính mạng và tài sản của nhân dân, các tổ chức Công an đầu tiên được thành lập ở cả ba miền với tên gọi khác nhau. Hệ thống tổ chức Công an xuống đến tận xã. Ở các xã thuộc Bắc Bộ 57 và Trung Bộ, “Ban trật tự xã” được thành lập do một ủy viên trật tự thuộc Ủy ban hành chính xã phụ trách. Các làng thuộc vùng nông thôn Nam Bộ thành lập “Quốc gia tự vệ cuộc làng”. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 23/SL, ngày 21/02/1946 hợp nhất các Sở cảnh sát và Sở liêm phóng trong toàn quốc thành Việt Nam Công an vụ, ngày 18/4/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Nghị định số 121/NgĐ quy định hệ thống tổ chức của Việt Nam Công an vụ. Theo Nghị định, hệ thống tổ chức Công an xuống đến cấp xã và ở cấp xã vẫn gọi là Ban trật tự xã do một Ủy viên hành chính xã làm trưởng ban. Tại Nam Bộ, tổ chức Công an được triển khai xuống đến tỉnh, quận, huyện và làng. Tháng 10/1947, căn cứ yêu cầu thực tế của địa phương, Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính tỉnh Hà Tĩnh ban hành Nghị quyết số 10/NQ-KC về xây dựng “Ban Công an xã” trong toàn tỉnh. Theo đó, tổ chức “Ban Công an xã” gồm Trưởng Công an xã, Phó Công an xã và các Công an viên; “Ban Công an xã” được thay thế cho “Ban trật tự xã” trước đây. Đây là những dấu mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành, phát triển của lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở nói chung, lực lượng Công an viên (Công an xã bán chuyên trách) nói riêng; đồng thời là tiền đề để thành lập lực lượng Công an xã sau này. 58 Trước yêu cầu đòi hỏi của tình hình thực tiễn trong đẩy mạnh công tác trị an thành phố, tháng 10/1955, Bộ Công an đã chỉ đạo thành lập lực lượng hộ tịch viên (nay là cảnh sát khu vực) và ban bảo vệ trị an (nay là bảo vệ dân phố) ở địa bàn thành phố, thị xã miền Bắc. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của lực lượng bảo vệ dân phố trong toàn quốc. Ngày 23/7/1963, Bộ Công an ban hành Quy định số 143/VP quy định về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của ban bảo vệ dân phố. Trước những yêu cầu phát triển của đất nước, ngày 16/5/1995, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) ban hành Quyết định số 521/QĐ-BNV quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban bảo vệ dân phố thay thế Quy định số 143/VP. Thực hiện Quyết định này, lực lượng bảo vệ dân phố trong toàn quốc tiếp tục được xây dựng, củng cố, kiện toàn và ngày càng lớn mạnh. Cùng với sự phát triển về số lượng, lực lượng bảo vệ dân phố toàn quốc cũng được bố trí các trang bị, phương tiện công tác, được hưởng một số chế độ, chính sách và tích cực tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, công tác bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Trải qua hơn nửa thế kỷ, lực lượng bảo vệ dân phố ngày càng được củng cố, trưởng thành, có nhiều đóng góp quan trọng trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở và giữ vai trò nòng cốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh 59 Tổ quốc”, hỗ trợ đắc lực cho lực lượng Công an, cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự tại địa bàn cơ sở. Lực lượng bảo vệ dân phố đã làm tốt công tác nắm, phản ánh cho Công an, ủy ban nhân dân phường tình hình an ninh, trật tự ở địa bàn; tham gia hòa giải, giải quyết kịp thời nhiều vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân; thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân tự giác chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy tắc, quy ước, nội quy về bảo vệ an ninh, trật tự; tham gia giữ gìn trật tự công cộng, trật tự, an toàn giao thông, an toàn phòng cháy, chữa cháy; cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ và quản lý những người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư; tích cực tham gia phối hợp giải quyết các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự xảy ra trong địa bàn; tổ chức tuần tra, kiểm soát và tham gia các hoạt động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi phạm khác về trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật..., góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội tại các địa bàn xã, phường, thị trấn. Ngay sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Trước tình hình miền Bắc liên tiếp xảy ra nhiều vụ cháy, ngày 27/6/1955, 60 Bộ Công an ban hành Chỉ thị số 479/TA-FT “Về việc xây dựng phong trào quần chúng tham gia phòng hỏa, cứu hỏa ở các thành phố, thị xã”. Thực hiện Chỉ thị này, lực lượng phòng hỏa, cứu hỏa chuyên nghiệp đã tích cực phát động và xây dựng phong trào quần chúng phòng hỏa, cứu hỏa ở khắp các thành phố, thị xã. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền, với sự nhiệt tình tham gia của các tầng lớp nhân dân, các đội dân phòng lần lượt được thành lập và hoạt động tích cực dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền sở tại. Riêng nghiệp vụ chuyên môn do lực lượng phòng hỏa, cứu hỏa hướng dẫn. Tiếp đó, ở nhiều thành phố, thị xã trên toàn miền Bắc, phong trào quần chúng phòng hỏa, cứu hỏa được phát triển sâu rộng và đi vào hoạt động có nền nếp. Năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng cháy và chữa cháy. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng dân phòng. Từ khi Luật phòng cháy và chữa cháy được ban hành đến nay, lực lượng dân phòng hoạt động theo quy định của Luật phòng cháy và chữa cháy. Ngoài chức năng chính là tham gia hoạt động phòng cháy, chữa cháy, lực lượng dân phòng còn phối hợp với lực lượng Công an xã và bảo vệ dân phố tham gia giữ gìn an ninh, trật tự ở nơi cư trú. 61 Như vậy, cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, các lực lượng bảo vệ dân phố, dân phòng, Công an xã bán chuyên trách đã được rèn luyện, trưởng thành trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự, là lực lượng vũ trang bán chuyên trách, làm nòng cốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Trong suốt quá trình cách mạng, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở ngày càng được củng cố, kiện toàn; đã có những đóng góp quan trọng trong bảo đảm an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở; giúp đỡ, hỗ trợ, thể hiện được vai trò là “cánh tay nối dài” của lực lượng Công an nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phòng, chống có hiệu quả các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm ổn định chính trị, cuộc sống bình yên cho nhân dân..., góp phần bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 62 Chương 2 CÔNG TÁC CẤP, QUẢN LÝ CĂN CƯỚC CÔNG DÂN, QUẢN LÝ CƯ TRÚ VÀ NGÀNH, NGHỀ KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN I- CÔNG TÁC CẤP, QUẢN LÝ CĂN CƯỚC CÔNG DÂN 1. Nhận thức chung - Khái niệm: Căn cước công dân là loại giấy tờ tùy thân của công dân do cơ quan Công an có thẩm quyền cấp, chứng nhận về những đặc điểm riêng và nội dung cơ bản của mỗi công dân trong độ tuổi do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm thuận tiện cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong đi lại, giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam. - Đối tượng cấp, đổi, cấp lại căn cước công dân: (i) Đối tượng được cấp căn cước công dân: Công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên đã đăng ký thường trú được cấp căn cước công dân. 63 (ii) Các trường hợp đổi căn cước công dân: 1) Khi công dân đủ 25 tuổi, đủ 40 tuổi và đủ 60 tuổi. Nếu công dân được cấp căn cước công dân được cấp, đổi, cấp lại trong thời hạn 2 năm trước các tuổi này thì vẫn có giá trị sử dụng đến tuổi đổi căn cước công dân tiếp theo; 2) Căn cước công dân bị hư hỏng không sử dụng được; 3) Thay đổi họ, chữ đệm và tên, đặc điểm, nhân dạng; 4) Xác định lại giới tính, quê quán; 5) Có sai sót về thông tin trên căn cước công dân; 6) Khi công dân có yêu cầu như thay đổi nơi thường trú. (iii) Các trường hợp cấp lại căn cước công dân: 1) Bị mất căn cước công dân; 2) Được trở lại quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật quốc tịch. - Quyền và nghĩa vụ của công dân: + Công dân có quyền: 1) Được cấp, đổi, cấp lại căn cước công dân theo quy định; 2) Sử dụng căn cước công dân của mình trong giao dịch, thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp theo quy định; 3) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật về căn cước công dân. + Công dân có nghĩa vụ: 1) Chấp hành các quy định về công tác cấp, quản lý căn cước công dân; 2) Làm thủ tục cấp, đổi, cấp lại căn cước công dân theo quy định; 3) Xuất trình căn cước công dân khi người có thẩm quyền yêu cầu kiểm tra theo quy định; 4) Bảo quản, giữ gìn căn cước công dân 64 đã được cấp; khi công dân bị mất căn cước công dân phải kịp thời trình báo với cơ quan quản lý; 5) Nộp lại căn cước công dân cho cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp đổi, bị thu hồi, tạm giữ căn cước công dân theo quy định. - Nguyên tắc, đối tượng và thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong công tác cấp, quản lý căn cước công dân: + Nguyên tắc: (i) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật. (ii) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. (iii) Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. (iv) Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định. (v) Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. (vi) Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. (vii) Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị 65 xử phạt về từng hành vi vi phạm. (viii) Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính. (ix) Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. + Đối tượng: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính do lỗi cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính. Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền xử lý. Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. + Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính: Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm. Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau: (i) Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được 66 tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm. (ii) Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm. (iii) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định trên. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. (iv) Trong thời hạn được quy định trên mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt. Thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính: Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. 2. Trách nhiệm của lực lượng Công an ở cơ sở trong công tác cấp, quản lý căn cước công dân - Tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân trên địa bàn cơ sở phụ trách nắm được và chấp hành tốt những quy định của pháp luật về căn cước công dân. 67 + Nội dung tuyên truyền, hướng dẫn: (i) Tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân nắm được các văn bản pháp luật về cấp căn cước công dân; quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc cấp, bảo quản, sử dụng căn cước công dân. (ii) Tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt các quy định về bảo quản và sử dụng căn cước công dân, như: bảo quản căn cước công dân không bị mất mát, hư hỏng...; sử dụng căn cước công dân đúng mục đích; phải mang theo khi đi lại, giao dịch; phải xuất trình khi người có thẩm quyền yêu cầu kiểm tra; nghiêm cấm sửa chữa, tẩy xoá, giả mạo, mua bán, cho thuê, cho mượn căn cước công dân..., những thủ đoạn và các đối tượng xấu lợi dụng căn cước công dân để hoạt động vi phạm pháp luật. (iii) Tuyên truyền nhân dân nâng cao ý thức cảnh giác, phát hiện những hoạt động sử dụng căn cước công dân để làm điều trái pháp luật, phát hiện bọn tội phạm lẩn trốn ở khu vực như đối tượng trốn truy nã, truy tìm, trốn thi hành án... + Phương pháp tuyên truyền, hướng dẫn: (i) Việc hướng dẫn nhân dân có thể tiến hành tập trung thông qua các cuộc họp, học tập; (ii) Qua kiểm tra, khảo sát lập danh sách vào sổ đăng ký thường trú, sổ hộ khẩu số căn cước công dân đã được cấp của các công dân trong khu vực; (iii) Tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc bảo quản, sử dụng căn cước công dân của công dân trên địa bàn; phát hiện và 68 xử lý các trường hợp vi phạm để tuyên truyền, nhắc nhở, xử phạt vi phạm hành chính; (iv) Thông qua các công tác khác hằng ngày của Công an cơ sở để tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân trong địa bàn nắm được và chấp hành tốt những quy định của pháp luật về căn cước công dân, như: công tác đăng ký, quản lý cư trú, công tác thăm hỏi nhân dân, công tác quản lý ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự, công tác quản lý giáo dục đối tượng... - Nắm tình hình, lập danh sách người thuộc diện cấp căn cước công dân. + Lực lượng Công an cơ sở trực tiếp quản lý tại địa bàn có vai trò hết sức quan trọng trong công tác cấp và quản lý căn cước công dân. Để việc cấp căn cước công dân đúng đối tượng, đúng pháp luật thì đòi hỏi phải xác định được chính xác đối tượng trong diện được cấp bao gồm cấp mới, cấp đổi, cấp lại; việc này chính là nhiệm vụ của Công an cơ sở. Vì vậy, Công an cơ sở phải thông qua các mặt công tác của mình, nhất là công tác quản lý cư trú để nắm tình hình về công tác cấp căn cước công dân, việc chấp hành các quy định của pháp luật về căn cước công dân trên địa bàn phụ trách. + Thường xuyên rà soát, thống kê, lập danh sách những người đến độ tuổi làm căn cước công dân; những người chưa có căn cước công dân để báo cáo chỉ huy Công an cấp xã, báo cáo Công an 69 cấp trên có kế hoạch tổ chức làm căn cước công dân cho công dân. + Công an cơ sở kết hợp việc kiểm tra cư trú định kỳ, đột xuất cũng như công tác thăm hỏi, tiếp xúc giải quyết công việc với nhân dân: (i) Kiểm tra căn cước công dân trọng tâm là những người đến độ tuổi cấp, những người mới chuyển từ nơi khác đến... (ii) Phát hiện các trường hợp đến độ tuổi làm căn cước công dân hoặc căn cước công dân bị mất, hư hỏng, hết thời hạn sử dụng hay những trường hợp sử dụng từ 2 căn cước công dân trở lên để hướng dẫn công dân làm thủ tục cấp mới, cấp đổi, cấp lại và xử lý theo quy định của pháp luật. - Phối hợp với Công an cấp trên tổ chức việc cấp căn cước công dân. + Phối hợp với Công an cấp trên tổ chức việc cấp tại địa bàn: Trên cơ sở công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn, Công an cơ sở rà soát, thống kê, lập danh sách những người đến tuổi làm căn cước công dân; những người chưa có căn cước công dân, cung cấp danh sách những người trong diện được cấp căn cước công dân bao gồm cấp mới, cấp đổi, cấp lại cho lực lượng làm công tác cấp căn cước công dân. + Khi được Công an cấp trên thông báo lịch cấp căn cước công dân tại địa bàn, Công an cơ sở tham mưu cho lãnh đạo Công an xã, kết hợp với cán bộ 70 cơ sở để chuẩn bị địa điểm và các điều kiện cần thiết, thông báo, hướng dẫn cho nhân dân về thời gian, địa điểm, lịch trình cấp căn cước công dân. Trong khi tổ cấp phát làm việc tổ chức cấp căn cước công dân tại địa bàn, Công an cơ sở phải phối hợp với lực lượng cấp căn cước công dân kiểm soát việc kê khai bảo đảm cho việc cấp được chính xác, an toàn và đúng đối tượng; phối hợp hướng dẫn nhân dân về thủ tục kê khai, giữ gìn trật tự trong quá trình cấp căn cước công dân. + Đối với các trường hợp đề nghị cấp, cấp đổi, cấp lại căn cước công dân không theo đợt thì Công an cơ sở phải hướng dẫn công dân làm đơn xin cấp căn cước công dân theo mẫu, xác minh, báo cáo chỉ huy Công an cấp xã xác nhận để Công an cấp trên làm thủ tục cấp căn cước công dân. + Khi căn cước công dân đã hoàn thành Công an cấp trên chuyển về thì Công an cơ sở tiếp nhận căn cước công dân vào sổ theo dõi và trả cho nhân dân. Khi trả căn cước công dân cho nhân dân phải thu lại giấy biên nhận để hủy theo quy định. Có trách nhiệm gửi Phiếu thông tin thay đổi về hộ khẩu, nhân khẩu theo quy định. - Định kỳ hoặc đột xuất, kiểm tra việc sử dụng, bảo quản căn cước công dân và xử lý các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật. + Tổ chức kiểm tra, kiểm soát và hướng dẫn nhân dân thực hiện các quy định về bảo quản, 71 sử dụng căn cước công dân là việc làm có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý căn cước công dân. Qua kiểm tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện những hành vi lợi dụng hoặc giả mạo căn cước công dân để hoạt động phạm tội hoặc vi phạm pháp luật... Từ đó, giúp cải tiến công tác cấp, quản lý căn cước công dân, kịp thời khắc phục những sơ hở, thiếu sót, đấu tranh có hiệu quả với các hành vi vi phạm. + Việc kiểm tra, kiểm soát có thể tiến hành thường xuyên hay đột xuất; kết hợp giữa kiểm tra, kiểm soát căn cước công dân với các công tác khác như quản lý hộ khẩu, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông, giữ gìn trật tự công cộng... Trong khi tiến hành kiểm tra, kiểm soát căn cước công dân phải quan sát, xem xét, đối chiếu kỹ giữa các nội dung trong căn cước công dân với đặc điểm dấu vết riêng trên mặt của người được kiểm tra; giữa căn cước công dân với các loại giấy tờ có liên quan khác mà họ mang theo; giữa căn cước công dân với lời khai, thái độ của người được kiểm tra... + Khi kiểm tra, kiểm soát phát hiện nghi vấn thì khéo léo yêu cầu công dân về trụ sở Công an nơi gần nhất để xác minh làm rõ. Trường hợp phát hiện vi phạm thì tùy theo mức độ vi phạm và thẩm quyền của Công an cơ sở mà xử lý cho phù hợp. Trong kiểm tra, kiểm soát căn cước công dân phải giữ đúng tư thế tác phong, thái độ đúng mực, 72 nhưng phải cảnh giác đề phòng bọn tội phạm hoặc phần tử xấu chống cự hoặc tấn công. + Công an cơ sở trong khi làm nhiệm vụ được quyền kiểm tra, kiểm soát căn cước công dân của công dân tại nơi công cộng hoặc tại phạm vi địa bàn mình quản lý. Những trường hợp thuộc đối tượng được cấp căn cước công dân đã được thông báo, nhắc nhở nhưng không đến làm thủ tục lấy căn cước công dân hoặc vi phạm những quy định khác về việc bảo quản và sử dụng căn cước công dân thì phải lập biên bản, xử phạt vi phạm hành chính. Các trường hợp nghiêm trọng khác thì chuyển giao cho cơ quan chức năng để truy cứu trách nhiệm hình sự. + Công an ở cấp cơ sở trong quá trình tham gia cấp căn cước công dân, quản lý căn cước công dân mà có hành vi vi phạm thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại về vật chất sẽ phải bồi thường. + Quá trình cấp phát, quản lý căn cước công dân phát hiện các trường hợp vi phạm thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể xử phạt hành chính theo Luật xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. + Khi tiến hành xử phạt phải căn cứ vào mức phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Công an nhân dân được quy định tại Điều 24 73 (mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực), Điều 39 (thẩm quyền của Công an nhân dân) Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13; Điều 66 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Công an nhân dân đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự. II- CÔNG TÁC ĐĂNG KÝ, QUẢN LÝ CƯ TRÚ 1. Nhận thức chung - Khái niệm: Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc đơn vị hành chính cấp xã hoặc đơn vị hành chính cấp huyện ở nơi không có đơn vị hành chính cấp xã. Đăng ký, quản lý cư trú là quá trình cơ quan Công an dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật để tiến hành đăng ký, quản lý hoạt động cư trú của công dân, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, phục vụ cho công tác quản lý xã hội của Nhà nước và công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. - Đối tượng, phạm vi: Đối tượng của công tác đăng ký, quản lý cư trú là các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài 74 vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống. Phạm vi của công tác đăng ký, quản lý cư trú được áp dụng đối với tất cả các địa bàn trên lãnh thổ Việt Nam. - Nội dung: 1) Đăng ký, quản lý thường trú; 2) Đăng ký, quản lý tạm trú; 3) Thông báo lưu trú; 4) Khai báo tạm vắng. - Nguyên tắc: Để bảo đảm cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, Điều 3 Luật cư trú đã quy định nguyên tắc cư trú và quản lý cư trú; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm hài hoà quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và xã hội; kết hợp giữa việc bảo đảm quyền tự do cư trú, các quyền cơ bản khác của công dân và trách nhiệm của Nhà nước với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Trình tự, thủ tục đăng ký cư trú phải đơn giản, thuận tiện, kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, không gây phiền hà; việc quản lý cư trú phải bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả. Thông tin về cư trú phải được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của pháp luật; tại một thời điểm, mỗi công dân chỉ có một nơi thường trú và có thể có thêm một nơi tạm trú. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về đăng ký, quản lý cư trú phải được 75 phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật. - Các hành vi bị nghiêm cấm: Điều 7 Luật cư trú quy định cụ thể 13 hành vi bị nghiêm cấm, để áp dụng đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân: Cản trở công dân thực hiện quyền tự do cư trú; lạm dụng việc sử dụng thông tin về nơi thường trú, nơi tạm trú làm điều kiện để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; đưa, môi giới, nhận hối lộ trong việc đăng ký, quản lý cư trú; không tiếp nhận, trì hoãn việc tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ, tài liệu, thông tin đăng ký cư trú hoặc có hành vi nhũng nhiễu khác; không thực hiện, thực hiện không đúng thời hạn đăng ký cư trú cho công dân khi hồ sơ đủ điều kiện đăng ký cư trú; xóa đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú trái với quy định của pháp luật; thu, quản lý, sử dụng lệ phí đăng ký cư trú trái với quy định của pháp luật; tự đặt ra thời hạn, thủ tục, giấy tờ, tài liệu biểu mẫu trái với quy định của pháp luật hoặc làm sai lệch thông tin, sổ sách, hồ sơ về cư trú; cố ý cấp hoặc từ chối cấp giấy tờ, tài liệu về cư trú trái với quy định của pháp luật; lợi dụng việc thực hiện quyền tự do cư trú để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; làm giả giấy tờ, tài liệu, dữ liệu về cư trú; sử dụng giấy tờ, tài liệu, dữ liệu giả về cư trú; cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu sai sự thật về cư trú; 76 khai man điều kiện, giả mạo hồ sơ, giấy tờ, tài liệu để được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú; mua, bán, thuê, cho thuê, mượn, cho mượn, cầm cố, nhận cầm cố, hủy hoại giấy tờ, tài liệu về cư trú; tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp sức, cưỡng bức người khác vi phạm pháp luật về cư trú; giải quyết cho đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú khi biết rõ người đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú không sinh sống tại chỗ ở đó; đồng ý cho người khác đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú vào chỗ ở của mình để vụ lợi hoặc trong thực tế người đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú không sinh sống tại chỗ ở đó; truy cập, khai thác, hủy hoại, làm cản trở, gián đoạn hoạt động, thay đổi, xóa, phát tán, cung cấp trái phép thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú. - Quyền và nghĩa vụ của công dân về cư trú: + Quyền của công dân về cư trú: 1) Lựa chọn, quyết định nơi cư trú của mình phù hợp với quy định của Luật cư trú và quy định khác của pháp luật có liên quan; 2) Được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân, thông tin về hộ gia đình trong Cơ sở dữ liệu về cư trú, trừ trường hợp cung cấp theo quy định của pháp luật. 3) Được khai thác thông tin về cư trú của mình trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; được cơ quan đăng ký cư trú trong cả nước không phụ thuộc vào nơi cư trú của mình xác nhận thông tin về cư trú khi có yêu cầu. 77 4) Được cơ quan đăng ký cư trú cập nhật, điều chỉnh thông tin về cư trú của mình trong Cơ sở dữ liệu về cư trú khi có thay đổi hoặc khi có yêu cầu. 5) Được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền tự do cư trú của mình khi có yêu cầu; 6) Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền tự do cư trú; 7) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với hành vi vi phạm pháp luật về cư trú theo quy định của pháp luật. + Nghĩa vụ của công dân về cư trú: 1) Thực hiện việc đăng ký cư trú theo quy định của Luật cư trú và quy định khác của pháp luật có liên quan; 2) Cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, giấy tờ, tài liệu về cư trú của mình cho cơ quan, người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin, giấy tờ, tài liệu đã cung cấp; 3) Nộp lệ phí đăng ký cư trú theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí. + Quyền, nghĩa vụ của chủ hộ và thành viên hộ gia đình về cư trú: 1) Những người cùng ở tại một chỗ ở hợp pháp và có quan hệ gia đình là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha, mẹ, vợ, chồng, con và anh ruột, chị ruột, em ruột, cháu ruột thì có thể đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú theo hộ gia đình. 2) Người không thuộc trường hợp có quan hệ gia đình là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha, mẹ, vợ, chồng, con và anh ruột, chị ruột, em ruột, cháu ruột thì nếu có đủ điều kiện 78