🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bản Tình Ca Cuối Cùng Ebooks Nhóm Zalo Bản Tình Ca Cuối Cùng Nicholas Sparks Ebook by: Đào Tiểu Vũ eBook Giới Thiệu Tác Phẩm Tác giả: Nicholas Sparks Thể loại: Tiểu thuyết, Lãng mạn, Văn học phương Tây Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển (gram): 600 Kích thước: 14 x 20,5 cm Dịch Giả: Trần Thanh Hương Số trang: 579 Ngày xuất bản: 11-2014 Hình thức: Bìa Mềm Giá bìa: 110.000 ₫ Nguồn: isach.info Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Với Veronica "Ronnie" Miller, đâu là điều đáng nhớ nhất trong mùa hè cuối cùng trước khi tròn mười tám tuổi? Bị lưu đày đến nhà ông bố mà cô luôn ấp ủ nỗi oán hận suốt ba năm nay? Bị theo đuổi bởi một tay du côn nghiện phóng hỏa? Bị đe dọa phải vào nhà đá vì một tội cô không hề phạm phải? Hay... Hay những buổi tối bên bờ biển cùng Will canh tổ rùa quản đồng? Những ngày làm việc quên cả thời gian trong trung tâm bảo tồn sinh vật biển? Những giờ đồng hồ miệt mài cùng Will và em trai lắp đặt các ô cửa sổ kính màu? Những tháng ngày yêu thương chỉ có hai bố con? Những nốt nhạc cuối cùng cô đã thay bố mình hoàn thiện? Bằng những câu văn trong sáng, nên thơ và cảm động, Bản tình ca cuối cùng sẽ cho thấy những mối quan hệ sâu sắc có thể khiến trái tim ta tan vỡ để rồi lại được hàn gắn theo một cách mà chỉ ngòi bút của Nicholas Sparks mới có thể làm được. Lời khen tặng dành cho Bản tình ca cuối cùng Bản tình ca cuối cùng được viết nên bằng sự chân thành và tình yêu thực sự. - Southern Daily Echo Sparks đã làm được một việc tưởng như không thể, ông biến những điều dễ đoán biết trở nên thú vị, đặc biệt là những dòng hồi tưởng về quá khứ được viết rất thật. (Good Book Guide) Có đôi lúc bạn tình cờ bắt gặp một cuốn sách phi thường mà mới đầu bạn sẽ tưởng rằng nó cũng chỉ như bao cuốn sách khác. Nhưng khi đọc rồi bạn sẽ bất ngờ trước một kho báu ẩn chứa bên trong. (New York Sunday Post) Mời các bạn đón đọc. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Mục lục Giới Thiệu Tác Phẩm Chương 1 → 50 Chương 1 → 50 Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Download Ebooks Lời cảm ơn Như thường lệ, tôi sẽ bắt đầu bằng việc cảm ơn Cathy, vợ tôi và giấc mơ của tôi. Đó thật là 20 năm kì diệu và khi tôi thức dậy vào mỗi sang, suy nghĩ đầu tiên của tôi là mình thật may mắn khi có khoảng thời gian như vậy bên cạnh em. Những đứa con của tôi - Miles, Ryan, Landon, Lexie và Savannah - chúng là những niềm vui vô tận của cuộc đời tôi. Tôi yêu tất cả những đứa trẻ của tôi. Jamie Rabb, biên tập tại Grand Central Publishers, luôn luôn xứng đáng với những lời cảm ơn của tôi, không chỉ vì tài năng của cô mà còn vì sự tốt bụng mà cô ấy luôn mang lại cho tôi. Cảm ơn Jamie Denise DiNovi, đạo diễn của Message in a Bottle, A walk to Remember, Nights in Rodanthe và The Lucky One, không chỉ là một thiên tài mà còn là người thân thiện nhất tôi từng gặp. Cảm ơn vì tất cả. David Young, Chủ tịch tập đoàn Sách Hachette, đã khiến tôi tôn trọng và biết ơn trong suốt những năm chúng tôi làm việc cùng nhau. Cảm ơn anh. Jennifer Romanello và Edna Farley, nhà xuất bản của tôi, không chỉ là một người bạn tốt mà còn là một người tuyệt vời. Cảm ơn vì tất cả. Harvey-Jane Kowal và Sona Vogel, như thường lệ, xứng đáng cho những lời cảm ơn của tôi, vì sự chậm trệ của tôi với các bản thảo mà công việc của họ trở nên khó khăn hơn nhiều. Howie Sanders và Keya Khayatian, những đại diện của tôi tại UTA, thật tuyệt vời. Cảm ơn các bạn. Scott Schwimer, luật sư của tôi, đơn giản là người làm tốt nhất công việc của mình. Cảm ơn, Scott! Cũng xin cảm ươn Marty Bowen (đạo diễn của Dear John), cùng với Lynn Harris và Mark Johnson. Tôi xin cảm ơn Amanda Cardinale, Abby Koons, Emily Sweet, và Sharon Krassney. Tôi rất cảm kích vì tất cả những gì các bạn đã làm Xin cảm ơn gia đình Cyrus vì đã không chỉ chào mừng tôi tới nhà mà còn bởi những gì họ đã đóng góp cho bộ phim. Một lời cảm ơn đặc biệt cũng được gửi tới Miley, người đã chọn tên cho nhân vật Ronnie. Ngay khi nghe tới cái tên đó, tôi biết rằng nó hoàn hảo. Và cuối cùng, cảm ơn Jason Reed, Jennifer Gipgot, và Adam Shankman vì sự đóng góp của họ cho bộ phim The Last Song. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 1 Nhìn ra ngoài cửa sổ phòng ngủ, Ronnie tự hỏi, không biết mục sư Harris đã đến nhà thờ hay chưa. Cô nghĩ rằng ông đã đến, và khi cô ngắm nhìn những con sóng vỗ về trên bờ biển, cô băn khoăn liệu ông có thể nhận ra vai trò của ánh sáng khi nó tuôn trào qua ô cửa sổ kính màu đổ tràn trên ông hay không. Có lẽ không - xét cho cùng, cửa sổ đã được lắp đặt cách đây hơn một tháng, và chắc chắn ông quá bận rộn nên đã chẳng để ý. Tuy nhiên cô hy vọng có ai đó khác trong tỉnh tình cờ vào trong nhà thờ sáng nay, và trải qua cảm giác kỳ diệu tương tự cô đã có khi cô thoạt nhìn thấy ánh sáng rực rỡ sắc màu tràn ngập nhà thờ trong buổi sáng lạnh lẽo tháng Mười một. Và cô hy vọng vị khách bỏ chút thời gian quan tâm đến vị trí bắt nguồn của ánh sáng chiếu rọi vào và chiêm ngưỡng sự đẹp đẽ của ô cửa sổ. Cô đã thức dậy được một giờ rồi, nhưng chưa sẵn sàng đối mặt với ban ngày. Năm nay, những ngày nghỉ có cảm giác rất khác biệt. Hôm qua, cô đã dẫn em trai cô, Jonah, đi dạo xuống bờ biển. Những cây Giáng Sinh nằm rải rác trong những ngôi nhà họ đã đi qua. Vào thời gian này trong năm, họ có bãi biển gần như của riêng họ, nhưng Jonah tỏ ra không thích thú với những con sóng cũng như mòng biển đã mê hoặc cậu bé chỉ vài tháng trước đây. Thay vì thế, cậu bé muốn đến gian nhà xưởng, và cô đã đưa cậu đến đó, dù cô chỉ ở lại vài phút, trước khi cô bỏ đi mà không nói một lời nào. Trên khung giường bên cạnh đặt một chồng khung hình lấy từ hốc thụt của ngôi nhà nhỏ ven biển, cùng những thứ khác mà cô thu thập được vào buổi sáng hôm đó. Trong yên lặng, cô nghiên cứu chúng cho đến khi cô bị cắt ngang bởi tiếng gõ cửa. Mẹ cô thò đầu vào trong phòng. "Con có muốn ăn sáng không? Mẹ tìm thấy ít ngũ cốc trong tủ." "Con không đói, mẹ à." "Con cần phải ăn, cưng ơi." Ronnie tiếp tục nhìn chằm chằm vào đống hình, mà không thật sự nhìn thấy gì. "Mẹ ơi, con đã sai, và con không biết nên làm gì bây giờ nữa." "Ý con là về cha con ư?" "Về mọi thứ." "Con có muốn nói về nó không?" Khi Ronnie không trả lời, mẹ cô băng ngang phòng và ngồi cạnh cô. "Đôi khi sẽ nhẹ nhõm nếu con nói ra. Con đã quá yên lặng đôi ngày nay." Trong giây lát, Ronnie cảm nhận ký ức ùa về tràn ngập trong cô: Ngọn lửa và sự tái kiến thiết sau đó của nhà thờ, ô cửa sổ kính màu, bản nhạc mà cuối cùng cô đã hoàn tất. Cô nghĩ về Blaze và Scot và Marcus. Cô nghĩ về Will. Cô đã mười tám tuổi, và đang nghĩ về mùa hè cô đã bị lừa dối, mùa hè cô đã bị lôi cuốn, mùa hè cô đã sa vào tình yêu. Tuy chưa lâu lắm, nhưng sau đó, đôi lúc cô cảm thấy mình là một người hoàn toàn khác. Cô thở dài. "Jonah thế nào?" "Nó không ở đây. Brian đã dẫn nó đến cửa hàng giày. Nó y như một con cún con. Chân nó phát triển nhanh quá chừng." Ronnie mỉm cười, nhưng nụ cười tàn phai cũng nhanh như khi nó đến. Trong sự im lặng tiếp theo sau đó, cô cảm thấy mẹ vén mái tóc dài của cô và xoắn chúng thành một chùm tóc buông lơi phía sau lưng. Mẹ đã làm điều đó từ khi Ronnie còn là một cô bé. Thật kỳ lạ, cô vẫn tìm thấy trong đó sự an ủi. Dĩ nhiên không phải cô chưa từng thú nhận điều đó. "Mẹ cho rằng," Mẹ cô tiếp tục. Bà đến tủ và lấy một chiếc va li đặt trên giường. "Sao con không kể trong lúc đóng gói hành lý?" "Con thậm chí còn không biết bắt đầu từ đâu nữa." "Từ lúc khởi đầu thì thế nào? Jonah có đề cập gì đó về những con rùa?" Ronnie vòng tay lại, biết rằng câu chuyện không bắt đầu ở đó. "Không thật sự như vậy đâu." Cô nói. "Dù con không ở đó khi chuyện xảy ra, con nghĩ mùa hè thật sự bắt đầu với vụ hỏa hoạn." "Vụ hỏa hoạn nào vậy?" Ronnie vươn tay dến chồng hình trên khung giường, và nhẹ nhàng lấy ra một mảnh báo kẹp giữa hai khung ảnh. Cô trao mảnh báo đã ố vàng cho mẹ. "Vụ cháy này." Cô nói, "tại một nhà nguyện." Nghi ngờ cháy nhà nguyện do pháo hoa bất hợp pháp. Mục sư đã bị thương. Tại bãi biển Wrightsville, NC - Một vụ cháy đã thiêu rụi nguyện đường nổi tiếng First Baptist ngay trước thềm năm mới, và điều tra viên đã nghi ngờ do pháo hoa bất hợp pháp. Theo Tim Ryan, đội trưởng đội cứu hỏa Wrightville, đội cứu hỏa được triệu tập đến nhà nguyện phía trước biển ngay sau nửa đêm do một cuộc điện thoại nặc danh, đã phát hiện một đám cháy và khói lan tỏa phía sau tòa nhà. Những gì còn lại của một cái pháo hoa chai, loại bắn trên không, được suy đoán như nguồn gốc của ngọn lửa. Mục sư Charlie Harris đang ở bên trong nhà nguyện khi vụ hỏa hoạn bắt đầu, và được biết là bị phỏng mức-độ-hai ở cánh tay và bàn tay. Ông đã được chuyển đến Trung Tâm Y Khoa địa phương New Hanover và hiện đang trong phòng chăm sóc đặc biệt. Đây là vụ cháy nhà nguyện thứ hai trong vòng vài tháng tại hạt New Hanover. Vào tháng Mười một, nhà thờ Good Hope Covenant ở Wilmington đã hoàn toàn bị thiêu rụi. "Điều tra viên vẫn đang xử lý điều đó trong nghi ngờ, có khả năng là một sự đốt phá." Ryan lưu ý. Nhân chứng báo cáo rằng, ít hơn hai mươi phút trước vụ cháy, pháo hoa chai được nhìn thấy bị ném trên bãi biển phía sau nhà nguyện, có khả năng trong lễ mừng năm mới. "Pháo hoa chai là thứ bất hợp pháp ở Bắc Carolina, và đặc biệt nguy hiểm khi xét đến thời tiết khô hạn gần đây." Ryan cảnh báo, "Vụ cháy này đã chứng tỏ lý do. Một người nằm trong bệnh viện và một nhà nguyện đã biến mất." Khi mẹ cô đọc xong, bà ngước nhìn lên, gặp ánh mắt của Ronnie. Ronnie lưỡng lự; rồi, với một tiếng thở dài, cô bắt đầu kể về một câu chuyện mà cô vẫn còn cảm thấy hoàn toàn ngu dại; ngay cả trong lợi ích của sự nhận thức muộn màng. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 2 Ronnie Sáu tháng trước. Ronnie ngồi ủ rũ trong ghế trước xe hơi, tự hỏi tại sao trên thế giới mẹ và cha cô lại ghét cô nhiều đến thế. Đó là điều duy nhất có thể giải thích cho lý do cô đến đây thăm viếng cha cô, trong nơi tồi tệ Miền Nam hoang vắng tiêu điều này, thay vì rong chơi với bạn bè ở nhà cô trong Manhattan. Không, xóa bỏ điều đó. Cô không chỉ đến thăm cha cô. Việc thăm viếng hàm ý một ngày cuối tuần hoặc hai, thậm chí có thể một tuần. Cô cho rằng cô có thể sống sót với một cuộc thăm viếng. Nhưng ở lại cho đến cuối tháng Tám ư? Gần như toàn bộ mùa hè ư? Đó là lưu đày, và trong gần chín giờ được chở đến đây, cô có cảm giác mình như một tù nhân đang được chuyển xuống nhà lao ở vùng nông thôn. Cô không thể tin mẹ cô thật sự định làm điều này đến cùng như vậy. Ronnie quá lún sâu trong nỗi khốn khổ, nên phải mất một lúc cô mới nhận ra bản Sonata số 16 cung Do trưởng của Mozart. Đó là một trong những đoạn cô đã biểu diễn tại Carnegie Hall* cách đây bốn năm, và cô biết mẹ đã mở nó khi Ronnie đang ngủ. Quá tệ, Ronnie vươn tay tắt đi. (*Carnegie Hall: nằm ở trung tâm Manhattan - New York, được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi tiếng Willian Burnet Tuthill và xây dựng vào năm 1891 bởi nhà từ thiện Andrew Carnegie, là một trong những địa điểm tổ chức biểu diễn âm nhạc uy tín nhất trên thế giới cho cả âm nhạc cổ điển và hiện đại. - Wow!) "Tại sao con làm thế?" Mẹ cô nói, cau mày. "Mẹ thích nghe con chơi đàn." "Con không thích." "Nếu mẹ vặn nhỏ âm thanh đi thì thế nào?" "Mẹ thôi đi, được không? Con không có tâm trạng." Ronnie nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, biết rất rõ rằng bờ môi mẹ cô đang mím chặt. Mẹ cô đã làm như thế rất nhiều trong những ngày này. Cứ y như thể môi bà hít chặt lấy nhau như những thỏi nam châm ấy. "Mẹ nghĩ mẹ trông thấy một con bồ nông khi chúng ta vượt qua cầu đến bờ biển Wrightville." Mẹ cô nhận xét trong sự thoải mái gượng ép. "Gee, điều đó thật hay. Có lẽ mẹ nên gọi cho Crocodile Hunter*." (*Crocodile Hunter tên thật là Stephen Robert Irwin, người Úc, là một chuyên gia về động vật hoang dã, loạt film về động vật hoang dã của ông đươc trình chiếu trên toàn thế giới. Ông chết năm 2006 vì bị gai độc của cá đuối đâm phải trong khi đang làm film, để lại nỗi luyến tiếc cho cả thế giới.) "Ông ấy đã chết rồi." Jonah nói, giọng của cậu bé vọng lên từ băng ghế sau, trộn lẫn với âm thanh từ trò Game Boy của cậu. Cậu em trai mười tuổi chuyên-quấy-rối của cô say mê những thứ đó. "Chị không nhớ sao?" Cậu bé tiếp tục, "Điều đó thật sự đáng buồn." "Dĩ nhiên chị nhớ chứ." "Nghe không có vẻ gì giống như chị nhớ." "Ồ, chị có nhớ." "Vậy chị không nên nói điều chị vừa nói." Cô không bận tâm trả lời lần thứ ba. Em trai cô luôn cần nói câu cuối cùng. Điều đó khiến cô nổi điên. "Con có ngủ được chút nào không?" Mẹ cô hỏi. "Cho đến khi mẹ vấp vào cái ổ gà đó. Nhân thể, cám ơn về điều đó. Đầu con gần như vỡ ra rồi." Ánh mắt của mẹ cô vẫn tập trung vào con đường. "Mẹ vui vì giấc ngủ ngắn đã cho con tâm trạng tốt hơn." Ronnie thổi lách tách kẹo gum của cô. Mẹ cô rất ghét điều đó, lý do chính để bà không ngăn lại là vì họ đang lái xe trên đường I-95. Xa lộ liên bang, theo quan điểm khiêm tốn của cô, chỉ là lòng đường trải dài chán ngắt nhất từng được biết đến. Trừ phi ai đó đặc biệt thích thứ thức ăn nhanh ngậy mỡ, những nhà vệ sinh đáng ghê tởm ở nơi nghỉ chân dọc đường, và hàng tỉ những cây thông có thể ru người ta chìm vào giấc ngủ với sự đơn điệu tệ hại mang tính thôi miên của nó. Cô đã nói chính xác những lời đó với mẹ tại Delaware, Maryland và Virginia, nhưng mẹ cô lờ đi lời bình luận mọi lúc. Bất kể việc cố gắng cư xử đẹp trong chuyến đi, vì đây là lần cuối họ thấy nhau trong một khoảng thời gian, mẹ cô không phải người phù hợp để trò chuyện trên xe hơi. Bà không hoàn toàn thoải mái trong việc lái xe, điều chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì lẽ họ hoặc là đi xe điện ngầm hoặc bắt taxi mỗi khi họ cần đến nơi nào đó. Trong căn hộ, dù vậy... Đó lại là chuyện khác. Mẹ không chút băn khoăn về việc dính vào vài thứ ở đó, và người giám sát tòa nhà đã đến hai lần trong đôi tháng trước để yêu cầu họ kềm chế lại. Mẹ hẳn đã tin rằng, bà càng la mắng lớn tiếng về điểm trung bình của Ronnie, hay bạn bè của Ronnie, hay việc Ronnie tiếp tục lờ đi lệnh cấm túc, hay những rắc rối của cô - đặc biệt là những rắc rối - thì càng có khả năng sẽ khiến cho Ronnie quan tâm nhiều hơn. Được rồi, bà không phải người mẹ tệ hại nhất. Bà thật sự không phải. Và khi cảm thấy khoan dung, Ronnie thậm chí phải thừa nhận rằng bà khá tốt trong chừng mực những người mẹ có thể có. Chỉ là mẹ cô bị mắc vào vài lệch lạc thật kỳ lạ là trẻ con không bao giờ lớn lên, và Ronnie đã ao ước hằng trăm lần rằng giá cô được sinh ra vào tháng Năm thay vì tháng Tám. Đó là lúc cô đủ mười tám tuổi và mẹ cô không thể ép buộc cô làm điều gì nữa. Một cách hợp pháp, cô đủ tuổi để có những quyết định của chính cô, và có thể nói ngay rằng việc đến đây không nằm trong danh sách phải làm của cô. Nhưng ngay lúc này đây, Ronnie không có bất kỳ lựa chọn nào. Vì cô vẫn còn mười bảy. Vì trò bịp bợm của ngày tháng. Vì Mẹ cô hiểu biết về ba tháng còn lại của cô sớm hơn cô có thể. Điều đó có nghĩa gì? Không màng đến việc Ronnie đã nài xin dữ dội đến thế nào, dù cho cô kêu ca, hay la thét, hay khóc lóc về kế hoạch mùa hè, nó vẫn không khác biệt được chút nào. Ronnie và Jonah phải trải qua mùa hè với cha cô, và chấm hết. Không nếu, và, hay nhưng nhị gì, là cách mẹ cô diễn đạt. Ronnie đã được học để bất chấp những biểu hiện đó. Ngay khi qua khỏi cầu, giao thông mùa hè chậm lại, những chiếc xe hơi xếp hàng trườn tới. Xa khỏi lề đường, giữa những ngôi nhà, Ronnie thoáng thấy biển cả. Ái chà! Làm như cô quan tâm ấy. "Tại sao mẹ bắt tụi con làm điều này vậy?" Cô rên rỉ. "Chúng ta đã làm rõ rồi mà." Mẹ cô trả lời, "Các con cần có thời gian với cha con. Ông nhớ các con." "Nhưng sao lại suốt cả mùa hè chứ? Không thể chỉ đôi tuần sao?" "Các con và cha con cần nhiều hơn một đôi tuần bên nhau. Con đã không gặp ông trong ba năm rồi." "Đó đâu phải lỗi của con. Ông ấy mới là người đã bỏ đi." "Phải, nhưng con cũng không nhận điện thoại của ông ấy. Và mỗi lần ông đến New York để thăm con và Jonah, con đều phớt lờ ông ấy và rong chơi với đám bạn của con." Ronnie thổi lách tách gum của cô lần nữa. Từ góc mắt, cô thấy mẹ nhăn mặt. "Con không muốn gặp hay nói chuyện với ông ấy." Ronnie nói. "Chỉ cố làm điều tốt nhất, được không? Cha con là một người đàn ông tốt và ông ấy yêu con." "Vậy thì tại sao ông ấy lại bỏ rơi chúng con?" Thay vì trả lời, mẹ cô liếc vào gương chiếu hậu. "Con đang háo hức chờ mong điều này, đúng không, Jonah?" "Mẹ đùa sao? Điều này sẽ rất tuyệt." "Mẹ vui thấy con có quan điểm tốt. Có lẽ con có thể chỉ bảo cho chị con." Cậu bé khịt mũi. "Vâng, đúng ạ." "Con chỉ không hiểu tại sao con lại không thể trải qua mùa hè với bạn con," Ronnie than vãn gay gắt trở lại. Cô vẫn chưa bỏ qua. Mặc dù cô biết, có làm gì cũng chẳng tác động được đến mẹ, cô vẫn ấp ủ mộng tưởng rằng, cô có thể thuyết phục được mẹ quay đầu xe lại. "Con không có ý nói là con thích phí phạm toàn bộ thời gian ở các câu lạc bộ đấy chứ? Mẹ không cả tin đến thế đâu, Ronnie. Mẹ biết những gì xảy ra ở những loại câu lạc bộ đó." "Con không làm điều gì sai, mẹ à." "Về điểm số của con thì sao? Và những lệnh cấm túc? Và..." "Chúng ta có thể nói về những thứ khác không?" Ronnie cắt ngang, "Chẳng hạn như lý do khẩn thiết về việc phải ở cùng cha con ấy?" Mẹ cô phớt lờ cô. Trái lại, Ronnie biết mẹ cô có mọi lý do. Bà đã trả lời câu hỏi cả triệu lần rồi, cho dù Ronnie không muốn chấp nhận nó. Rốt cuộc, giao thông đã bắt đầu di chuyển trở lại, và chiếc xe chạy tới được nửa khối nhà trước khi lại bị dừng. Mẹ cô quay cửa kính xe và cố nhìn qua những chiếc xe phía trước. "Mẹ băn khoăn không biết điều gì đang diễn ra." Mẹ cô lầm bầm. "Thật sự kẹt cứng ở đây rồi." "Đó là bãi biển." Jonah tự nguyện, "Luôn luôn đông đúc ở bãi biển." "Mới có ba giờ ngày Chủ Nhật. Không thể là đám đông này được." Ronnie kéo chân của cô lên, căm ghét cuộc sống của cô. Căm ghét mọi thứ ở đây. "Mẹ ơi," Jonah hỏi, "Cha có biết Ronnie bị bắt giữ không?" "Có. Ông ấy có biết." Mẹ cô trả lời. "Cha sẽ làm gì?" Lần này, Ronnie trả lời. "Ông ấy sẽ chẳng làm gì hết. Tất cả những gì cha quan tâm là Piano." Ronnie căm ghét Piano, và thề rằng sẽ không bao giờ chơi nữa. Một quyết định mà ngay cả những người thân quen nhất cũng cho rằng lạ lùng, bởi vì piano đã từng là một phần quan trọng trong cuộc đời cô trong suốt thời gian cô quen biết họ. Cha cô, trước đây là một thầy giáo tại nhạc viện Juilliard*, cũng là thầy của cô, và trong một thời gian dài, cô đặt hết tâm trí vào nỗi khao khát không chỉ chơi đàn, mà còn sáng tác những nhạc khúc cùng với cha cô. (*Julliard: Được thành lập từ năm 1905, nằm ở trung tâm Lincoln tại New York, là một nhạc viện uy tín tầm cỡ thế giới có tỉ lệ tuyển sinh đầu vào rất gắt gao, chỉ khoảng 7-8% thí sinh nộp đơn xin theo học được nhận vào trường- theo Wikipedia) Cô cũng khá. Thật sự rất khá, và vì cha cô thân thiết với Juilliard, ban quản trị và các giáo viên ở đó đã nhận ra tài năng của cô. Từ trong chỗ khuất, tin đồn bắt đầu chậm rãi lan truyền "âm nhạc cổ điển là sự sống còn", tin truyền miệng đó đã tác động đến cuộc đời của cha cô. Một đôi bài báo đăng trên tạp chí âm nhạc cổ điển, và một bản tin không dài lắm trên báo New York Time tập trung vào mối liên hệ cha-con gái tiếp nối theo sau đó, tất cả những điều đó cuối cùng dẫn đến một sự xuất hiện đáng ao ước trong Young Performers series (Loạt trình diễn của Những Tài Năng Trẻ) tại Carnegie Hall cách đây bốn năm. Điều đó, cô tin rằng, là phần sáng chói nhất trong sự nghiệp của cô. Và đó là sự sáng chói, cô không ngây thơ tin rằng cô đã vươn tới được sự hoàn mỹ. Cô biết, hiếm đến thế nào để có một cơ hội giống như vậy, nhưng gần đây, cô thấy mình thường băn khoăn, liệu sự hy sinh có đáng hay không. Sau rốt thì có ai ngoài cha mẹ cô nhớ đến buổi biểu diễn đâu. Hoặc thậm chí quan tâm đến. Ronnie học được rằng trừ phi cô có một video được ưa chuộng trên You Tube, hoặc có thể biểu diễn trước cả ngàn người, không thì tài năng âm nhạc chẳng giá trị gì hết. Đôi khi cô ao ước giá như cha cô bắt đầu cho cô bằng cây guitar điện. Hoặc ít nhất, với những bài luyện thanh. Cô được cho rằng sẽ làm gì với khả năng chơi đàn Piano đây? Dạy nhạc tại một trường học địa phương chăng? Hay là chơi nhạc trong một tiền sảnh khách sạn khi người ta đăng ký phòng? Hoặc theo đuổi một cuộc đời khó khăn như cha cô? Hãy nhìn xem piano đã đưa ông tới đâu. Ông chính thức nghỉ dạy ở Juilliard để có thể rong duổi như một tay pianish hòa âm và tìm thấy bản thân đang chơi nhạc trong một nơi hội họp tầm thường mà thính giả chỉ vừa vặn lấp đầy đôi hàng ghế. Ông du hành bốn mươi tuần một năm, đủ dài để tạo căng thẳng trong hôn nhân. Điều kế tiếp cô biết là Mẹ la thét mọi lúc và Cha thu mình vào trong vỏ ốc của ông như ông vẫn thường làm, cho đến một ngày, ông đơn giản không quay về từ một lần lưu diễn mở rộng ở Miền Nam. Trong chừng mực cô biết, ông không còn biểu diễn trong thời gian này. Ông thậm chí cũng không dạy những bài học riêng. Làm sao lại đến nông nỗi này, hở Cha? Cô lắc đầu. Cô thật sự không muốn ở đây. Chúa biết là cô không muốn gì trong tất cả những thứ này. "Mẹ ơi." Jonah nói vọng lên, cậu bé nghiêng người tới trước, "Cái gì ở đó vậy? Có phải đó là một cái đu quay không?" Mẹ cô vươn thẳng cổ, cố nhìn qua chiếc xe minivan trong làn đường bên cạnh. "Mẹ nghĩ đúng là nó, con yêu." Bà trả lời, "Hẳn đó là một lễ hội trong thị trấn." "Chúng ta có thể đến đó không? Sau khi chúng ta đã ăn tối cùng nhau?" "Con sẽ phải hỏi cha con." "Vâng, và có lẽ sau đó, tất cả chúng ta sẽ ngồi quanh lửa trại và nướng kẹo dẻo." Ronnie xen vào. "Giống như chúng ta là một gia đình lớn, hạnh phúc." Lần này, cả hai người cùng phớt lờ cô. "Mẹ có cho rằng họ sẽ có những chuyến khác không?" Jonah hỏi. "Mẹ chắc chắn là họ có. Và nếu cha con không muốn cỡi chúng, mẹ chắc rằng chị con sẽ đi cùng con." "Tuyệt vời." Ronnie chìm trong ghế ngồi của cô. Rõ ràng mẹ cô sẽ đề xuất thứ gì đó giống như vậy. Toàn bộ mọi thứ quá chán nản để tin tưởng. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 3 Steven Steven Miller chơi Piano với một xúc cảm mãnh liệt, phấn khích, biết trước rằng bọn trẻ của ông sẽ đến bất kỳ lúc nào. Cây đàn Piano được đặt trong một góc thụt nhỏ nằm ngoài phòng sinh hoạt chung của căn nhà gỗ cạnh bãi biển mà giờ đây ông gọi là nhà. Phía sau ông là những thứ đại diện cho lịch sử cá nhân của ông. Không có gì nhiều. Không kể đến cây đàn Piano, Kim có thể đóng gói toàn bộ đồ dùng cá nhân của ông vào trong một chiếc hộp duy nhất, và chỉ mất không tới nửa giờ để đặt mọi thứ vào trong đó. Có một ảnh chụp nhanh của ông với cha mẹ khi ông còn nhỏ, một bức ảnh khác ông đang chơi Piano khi là thiếu niên. Chúng được đóng khung giữa hai bằng cấp mà ông đạt được, một từ Chapel Hill (Uviversity of North Carolina at Chapel Hill - một trường đại học công lập của bang NC) và cái khác từ Đại học Boston, và phía bên dưới là một giấy chứng nhận đánh giá của Juilliard sau khi ông giảng dạy trong mười lăm năm. Gần cửa sổ có ba bảng kế hoạch được đóng khung phác thảo lịch biểu diễn của ông. Dù vậy, quan trọng nhất là nửa tá ảnh của Jonah và Ronnie, một số được treo trên tường hoặc đóng khung và đặt trên nóc đàn piano, và bất cứ khi nào ông nhìn vào đó, ông được nhắc nhở rằng, bất chấp ý định tốt đẹp nhất của ông, không điều gì xảy đến theo cách ông hằng mong đợi. Ánh mặt trời chiều muộn chiếu nghiêng qua cửa sổ, khiến cho bên trong ngôi nhà trở nên ngột ngạt, và Steven có thể cảm thấy những hạt mồ hôi bắt đầu hình thành. May mắn là cơn đau trong dạ dày của ông đã giảm bớt từ lúc sáng, nhưng ông đã lo lắng trong nhiều ngày, nên ông biết nó sẽ trở lại. Ông đã luôn có một bao tử yếu; trong độ tuổi đôi mươi, ông có một chỗ loét, và phải nhập viện vì viêm túi thừa trong ruột già; khi ở độ tuổi ba mươi, ông có chỗ ruột thừa bị cắt bỏ sau khi vỡ tung trong lúc Kim đang mang thai Jonah. Ông đã nhai Rolaid (một loại thuốc kháng acide) như nhai kẹo, ông dùng Nexium (thuốc trị đau dạ dày) trong nhiều năm, và dù cho ông biết là ông có thể ăn uống tốt hơn và tập luyện nhiều hơn, ông nghi ngờ cả hai thứ thuốc sẽ giúp ích được gì. Vấn đề về dạ dày theo đuổi gia đình ông. Cái chết của cha ông cách đây sáu năm đã làm thay đổi cuộc đời ông, và từ đám tang, ông cảm thấy như thể ông ở trong giai đoạn chuẩn bị. Theo một giả định, ông tin rằng ông phải chuẩn bị. Năm năm trước, ông đã rời khỏi vị trí của ông ở Juilliard, và một năm sau đó, ông quyết định thử vận may trong việc trở thành tay hòa tấu Piano. Cách đây ba năm, ông và Kim quyết định li hôn; chưa đầy mười hai tháng sau đó, những cuộc hẹn lưu diễn bắt đầu cạn kiệt dần, cho đến khi chúng hoàn toàn chấm dứt. Năm ngoái, ông đã trở về đây, về lại thị trấn nơi ông lớn lên, một nơi ông không bao giờ hình dung sẽ gặp lại. Giờ đây ông đã dự định trải qua mùa hè với những đứa trẻ của ông, và ngay khi Ronnie và Jonah trở về New York, dù ông cố mường tượng những gì mùa thu sẽ mang đến, ông chỉ biết rằng những chiếc lá sẽ vàng trước khi chuyển sang đỏ, và rằng, trong những buổi sáng, hơi thở của ông sẽ lộ ra một chút hổn hển. Ông ao ước lúc đó sẽ không còn phải cố gắng dự báo tương lai nữa. Điều này không làm ông bận tâm. Ông biết việc dự báo là vô nghĩa, và hơn nữa, ông đã có thể hiểu biết đôi chút về quá khứ. Gần đây, tất cả những gì ông có thể cam đoan, là ông hoàn toàn bình thường trong một thế giới ưa thích những điều khác thường. Và nhận thức đó đã bỏ ông lại trong cảm giác thất vọng mơ hồ về cuộc đời mà ông đã sống. Nhưng ông có thể làm gì được? Không như Kim, thường thoải mái và thích ngao du, ông luôn trầm lặng hơn và bị trộn lẫn trong đám đông. Mặc dù ông chắc chắn có tài năng về âm nhạc và sáng tác, ông thiếu tính uy quyền và khả năng tự đề cao hoặc bất cứ thứ gì khiến cho một người biểu diễn được nổi bật trong đám đông. Có những lúc, thậm chí ông còn cho rằng ông là một người quan sát thế giới nhiều hơn là một thành phần của nó, và trong những khoảnh khắc trung thực đầy đau đớn, ông thỉnh thoảng tin rằng, ông là một thất bại trong toàn bộ những gì được coi là quan trọng. Ông đã bốn mươi tám tuổi. Hôn nhân của ông đã kết thúc, con gái ông xa lánh ông, và con trai ông sẽ lớn lên mà không có ông. Nghĩ lại, ông biết ông chẳng có ai để đổ lỗi trừ chính ông, và vượt trên mọi thứ, đây là những gì ông muốn biết: Liệu có còn khả năng cho một người giống như ông nhận biết về sự hiện diện của Thiên Chúa không? Cách đây mười năm, ông không bao giờ hình dung đến việc băn khoăn về một điều như thế. Thậm chí chỉ hai năm trước đây. Nhưng khi đã nửa đời người, đôi lúc ông suy nghĩ, soi xét lại chính mình. Mặc dù, không hiểu sao, đã có lần ông tin rằng câu trả lời nằm trong âm nhạc mà ông sáng tạo, lúc này đây, ông cho rằng ông đã lầm lẫn. Càng suy nghĩ về điều đó ông càng nhận ra, với ông, âm nhạc luôn mang xu hướng xa lìa thực tế hơn là một phương cách để sống một cuộc đời sâu sắc hơn. Ông được nếm trải đam mê và nỗi phấn chấn khi chơi nhạc của Tchaikovsky, hoặc cảm nhận ý thức về tài năng khi ông viết bản Sonata của chính mình. Nhưng giờ đây, ông biết rằng, việc chôn vùi bản thân trong âm nhạc không hơn gì một kẻ ích kỷ với khao khát chạy trốn. Bây giờ ông tin rằng câu trả lời thật sự nằm ở đâu đó trong mối quan hệ yêu thương mà ông dành cho những đứa trẻ của ông. Trong nỗi đau đớn ông đã trải qua khi thức giấc trong căn nhà thinh lặng và biết rằng chúng không ở đây. Nhưng dù như thế, ông biết còn có một thứ gì đó khác nữa. Và, không hiểu tại sao, ông hy vọng những đứa trẻ của ông sẽ giúp ông tìm thấy điều đó. Vài phút sau, Steve nhận ra ánh mặt trời đang phản chiếu trên kính chắn gió của chiếc Wagon phủ đầy bụi vừa dừng lại bên ngoài. Ông và Kim đã mua nó cách đây nhiều năm trong một cuộc đi chơi cuối tuần đến Costco và chạy trốn khỏi gia đình. Ông thoáng băn khoăn, không biết bà có nhớ thay dầu máy trước khi lái xuống đây hoặc kể từ khi ông bỏ đi hay không. Chắc chắn là không, ông quyết định. Kim không bao giờ tốt với những công việc đó, đó là lý do vì sao ông luôn phải quan tâm đến chúng. Nhưng phần đời đó của ông đã trôi qua mất rồi. Steve vươn dậy khỏi chỗ ngồi, và bươn bả, ông bước ra ngoài hiên trước, Jonah đã ra khỏi xe và đang lao đến bên ông. Mái tóc của cậu bé rối bời, cặp mắt kiếng bị xô lệch, tay chân khẳng khiu như những cây viết chì. Steve cảm thấy cổ họng nghẹn đắng, một lần nữa nhớ lại, trong ba năm qua, ông đã nhớ cậu bé nhiều như thế nào. "Cha!" "Jonah!" Steve la lên đáp lại khi ông băng qua bãi cát nén rải đá làm thành sân. Khi Jonah lao vào đôi tay ông, tất cả những gì ông có thể làm là cố gắng đứng vững. "Con lớn quá chừng." Ông nói. "Và cha nhỏ đi." Jonah nói. "Lúc này cha gầy nhom." Steve ôm con trai ông thật chặt trước khi đặt cậu bé xuống. "Cha rất vui vì con đã đến." "Con cũng vậy. Mẹ và Ronnie cứ cãi nhau suốt." "Điều đó không vui." "Cũng ổn mà. Con toàn lờ đi, ngoại trừ, khi con lôi kéo họ." "Vậy à." Steve đáp. Jonah chỉnh lại cặp mắt kiếng trên sống mũi cho ngay ngắn. "Sao mẹ không để tụi con đi bằng máy bay vậy?" "Con không hỏi mẹ sao?" "Không." " Lẽ ra con nên hỏi." "Điều đó không quan trọng. Con chỉ đang lo lắng thôi." Steve cười. Ông quên mất con trai ông lắm chuyện như thế nào. "Này, đây là nhà của Cha sao?" "Phải." "Nơi này tuyệt vời." Steve tự hỏi không biết Jonah có đùa không. Ngôi nhà có thể là bất cứ gì trừ tuyệt vời. Căn nhà gỗ là một loại cơ ngơi cũ kỹ nhất ở bãi biển Wrightsville, bị kẹp giữa hai căn nhà đồ sộ đã có sự tăng giá trong vòng mười năm gần đây, khiến cho nó thậm chí trông càng có vẻ nhỏ bé hơn. Nước sơn đã bong tróc, mái đã mất đi nhiều miếng ngói, và hiên trước đã mục nát; chẳng có gì ngạc nhiên cho ông nếu một cơn bão nhẹ kế tiếp thổi bay nó đi, và không nghi ngờ gì, điều đó sẽ làm vui lòng những người hàng xóm. Từ khi ông chuyển đến ở, chẳng gia đình nào thèm nói chuyện với ông. "Con nghĩ thế sao?" Ông hỏi. "Gì chứ? Bãi biển ở ngay đây. Cha có thể muốn điều gì khác sao?" Cậu bé hướng về phía biển. "Con có thể ra đó xem xét nó không?" "Chắc chắn rồi. Nhưng cẩn thận đấy. Và hãy ở loanh quanh phía sau ngôi nhà thôi. Đừng lang thang xa quá nhé." "Thỏa thuận." Steve quan sát cậu bé chạy đi trước khi quay nhìn Kim đang tiến đến. Ronnie cũng đã ra khỏi xe nhưng vẫn còn chần chừ gần đó. "Chào Kim." Ông nói. "Steve." Bà nghiêng người để trao cho ông một cái ôm ngắn. "Anh ổn không?" Bà hỏi. "Trông anh gầy quá." "Anh không sao." Phía sau bà, Steve nhận ra Ronnie đang chầm chậm tiến về phía họ. Ông bị ấn tượng bởi cô bé thay đổi quá nhiều so với bức hình gần nhất mà Kim đã e-mail cho ông. Đâu rồi cô gái rặt Mỹ mà ông nhớ, và thay vào đó là một phụ nữ trẻ với sọc tím trên mái tóc dài màu nâu, móng tay sơn đen và y phục tối tăm. Bất chấp những dấu hiệu rõ ràng của cuộc nổi loạn tuổi thiếu niên, ông nghĩ, cô bé giống mẹ biết bao nhiêu. Cũng tốt. Ông cho rằng cô vẫn đáng yêu như trước. Ông tằng hắng. "Chào, con yêu. Thật tuyệt được gặp con." Khi Ronnie không trả lời, Kim cau có với cô. "Đừng vô lễ. Cha con đang nói chuyện với con. Nói gì đi chứ." Ronnie vòng tay lại. "Được rồi. Điều này thì sao? Con sẽ không chơi Piano với cha đâu." "Ronnie!" Steve có thể nghe được sự giận dữ của Kim. "Gì nào?" Cô hất đầu. "Con nghĩ rằng con nên nói ra điều đó ngay từ đầu." Trước khi Kim có thể trả lời, ông lắc đầu. Điều cuối cùng ông muốn là một cuộc cãi cọ. "Không sao đâu, Kim." "Phải đấy. Mẹ. Điều đó ổn mà." Ronnie nói, chộp ngay lấy thời cơ. "Con cần duỗi chân một chút. Con sẽ đi dạo." Khi cô dậm mạnh chân đi khỏi, Steve quan sát Kim đấu tranh với thôi thúc gọi cô trở lại. Dù vậy, cuối cùng, bà không nói gì. "Chuyến đi có dài lắm không?" Ông hỏi, cố xoa dịu tâm trạng của bà. "Anh không thể hình dung được đâu." Ông cười, nghĩ về điều đó trong một thoáng, thật dễ dàng để hình dung họ vẫn còn kết hôn, cả hai vẫn còn trong cùng một đội, cả hai vẫn còn yêu nhau. Ngoại trừ, dĩ nhiên, họ không còn như thế nữa. Sau khi tháo dỡ những cái túi, Steve đến bếp, ông lấy những viên đá hình vuông từ cái khay kiểu cũ và đổ chúng vào một cặp ly không xứng đôi có sẵn trong căn nhà. Phía sau ông, ông nghe thấy Kim đi vào bếp. Ông với lấy một bình đựng trà ngọt, đổ vào hai chiếc ly, và trao một chiếc cho bà. Phía ngoài xa, Jonah luân phiên đuổi theo, và bị đuổi lại bởi những con sóng cũng như những con mòng biển vỗ cánh trên đầu. "Có vẻ Jonah đã tìm thấy trò vui." Ông nói. Kim bước một bước đến bên cửa sổ. "Nó bị kích động với việc đến đây hàng tuần rồi." Bà do dự. "Nó nhớ anh." "Anh cũng nhớ nó." "Em biết." Bà nói, hớp một ngụm nước trà trước khi nhìn quanh bếp. "Vậy, đây là nhà, huh? Nó thật... có cá tính." "Nói đến cá tính, anh cho rằng em đã nhận ra mái nhà thủng lỗ chỗ và không có máy điều hòa không khí." Kim cười nhẹ, hiểu ý. "Anh biết nó không có gì nhiều. Nhưng nó thật yên tĩnh và anh có thể ngắm mặt trời lên." "Và nhà thờ để anh ở đây miễn phí?" Steve gật đầu. "Nó thuộc về Carson Johnson. Ông ấy là một nghệ sĩ địa phương, và khi ông ấy qua đời, ông ấy để lại căn nhà cho nhà thờ. Mục sư Harris để anh ở đây cho đến khi chúng sẵn sàng để bán." "Vậy, thật giống như trở về quê nhà nhỉ? Ý em là nơi cha mẹ anh thường sinh sống, xem nào? Ba khối nhà từ đây, đúng không?" Thật ra là bảy, gần đúng. "Đúng vậy." Ông nhún vai. "Bây giờ nó quá đông đúc. Nơi này thật sự thay đổi kể từ lần cuối em đến đây." "Mọi thứ đều thay đổi." Ông nói. Ông ngả người dựa vào quầy bếp, bắt chéo chân. "Vậy, khi nào thì đến ngày trọng đại?" Ông hỏi, thay đổi chủ đề, "Cho em và Brian?" "Steve... về điều đó..." "Không sao đâu." Ông nói, giơ tay lên. "Anh vui khi thấy em tìm được ai đó." Kim nhìn chằm chằm vào ông, rõ ràng đang tự hỏi, liệu có nên chấp thuận lời lẽ của ông theo giá trị bề mặt hay lấn sâu vào lĩnh vực nhạy cảm. "Vào tháng Một." Cuối cùng bà nói. "Và em muốn anh biết rằng, với bọn trẻ... Brian không yêu cầu trở thành ai đó mà anh ấy không phải. Anh ấy giống anh." "Anh chắc là anh như thế." Ông nói, lấy một hớp nước trà. Ông đặt chiếc ly trở lại. "Bọn trẻ cảm nhận về anh ấy như thế nào?" "Jonah có vẻ thích anh ấy, nhưng Jonah cũng thích mọi người." "Còn Ronnie?" "Con bé đối xử với anh ấy cũng y như đối xử với anh." Ông cười trước khi nhận ra biểu hiện lo lắng của bà. "Con bé thật sự làm như thế nào?" "Em không biết." Bà thở dài. "Và em không nghĩ con bé cũng vậy. Nó đang trong thời kỳ tối tăm, ủ rũ. Nó lờ đi lệnh cấm túc, và phân nửa thời gian em không thể moi được gì khác hơn câu "sao cũng được" khi em cố gắng để nói chuyện với nó. Em đã thử bỏ qua những thứ tiêu biểu của tuổi thiếu niên, vì em nhớ đến những gì giống như vậy... nhưng..." Bà lắc đầu. "Anh đã thấy cách nó ăn mặc rồi, đúng không? Và tóc tai của nó, và thứ Mascara tồi tệ đó?" "Mmm" "Và sao?" "Nó có thể còn tệ hơn." Kim mở miệng định nói gì đó, nhưng khi thấy không lời nào được thốt ra, Steve biết ông đã đúng. Bất kể giai đoạn mà cô bé đang trải qua, bất kể nỗi lo sợ của Kim, Ronnie vẫn sẽ là Ronnie. "Em cũng đoán vậy." Bà thừa nhận, trước khi lắc đầu. "Không, em biết anh nói đúng. Chỉ là thời gian gần đây quá khó với con bé. Có những lúc nó vẫn ngọt ngào như trước đây. Như với Jonah. Dù cho chúng cãi nhau như chó với mèo, con bé vẫn đưa nó đến công viên mỗi cuối tuần. Và khi thằng bé có rắc rối với môn toán, con bé đã dạy kèm nó mỗi tối. Điều đó thật lạ lùng, vì con bé chỉ vừa vặn qua được những môn học. Và em đã không kể với anh điều này, nhưng em bắt nó phải thi SATs* vào tháng hai. Con bé nhớ mọi câu hỏi đơn. Anh có biết phải thông minh thế nào mới có thể nhớ được mọi câu hỏi đơn không?" (*SATs: Scholastic Assessment Test hay Scholastic Aptitude Test là một kỳ thi chuẩn hóa để bổ sung cho điểm trung bình ở trung học cho xét tuyển vào đại học ở Mỹ, có thể đăng ký thi vào bất cứ thời điểm nào thuận tiện, và điểm thi được tất cả các trường đaih học trên toàn nước Mỹ chấp nhận. Các thí sinh thi ba môn: Reading, Writing và toán, mỗi môn tối đa 800 điểm, và với 1500 điểm là tạm OK rồi, nhưng nếu muốn có học bổng thì phải đạt 2000 - theo kinh nghiệm cá nhân của Sẻ thì nó khó gần chết, và không làm sao mà nhớ hết được các câu hỏi.) Khi Steve cười, Kim nhăn mặt. "Điều đó không có gì vui hết." "Nó có vui đôi chút đấy chứ." "Anh không phải đối phó với con bé trong ba năm gần đây." Ông ngưng cười, kềm chế lại. "Em nói đúng, anh xin lỗi." Ông vươn tới chiếc ly lần nữa. "Quan tòa xem xét thế nào về chuyện ăn cắp vặt của nó?" "Như những gì em đã nói với anh trên điện thoại." Bà nói với một biểu hiện cam chịu. "Nếu nó không gây thêm bất kỳ rắc rối nào nữa, điều đó sẽ được xóa trong hồ sơ của nó. Nếu nó lặp lại, dù vậy..." Bà ngập ngừng. "Em đã lo lắng về điều này." Ông nêu ra. Kim quay đi. "Không phải lần đầu đâu, những rắc rối ấy." Bà thú nhận. "Nó thừa nhận đã lấy trộm chiếc vòng tay hồi năm ngoái, nhưng lần này, nó nói nó mua một đống thứ tại hiệu thuốc và không thể cầm được tất cả, vì thế nó nhét thỏi son môi vào trong túi. Nó trả tiền cho mọi thứ khác, và khi anh xem bản video, nó có vẻ là một nhầm lẫn chân thực, nhưng..." "Nhưng em không chắc chắn?" Khi Kim không trả lời, Steve lắc đầu. "Con bé sẽ không có hồ sơ lưu trữ trong chương trình America's Most Wanted* đâu. Con bé chỉ nhầm lẫn thôi. Và nó luôn có một trái tim nhân hậu." (*American's Most Wanted: Chương trình truyền hình thông báo về những tội phạm, được phát sóng vào giờ vàng mỗi thứ bảy của Mỹ để mọi người biết mà đề phòng.) "Điều đó không có nghĩa là bây giờ nó đang nói thật." "Và cũng không có nghĩa là con bé nói dối." " Anh tin con bé thế sao?" Vẻ mặt của bà trộn lẫn giữa hy vọng và ngờ vực. Ông xem xét qua trực giác của ông về những tình tiết, giống như ông đã làm hàng tá lần kể từ khi Kim nói với ông lần đầu tiên. "Phải." Ông nói. "Anh tin con bé." "Tại sao?" "Vì nó là một đứa trẻ tốt." "Làm sao anh biết được chứ?" Bà gạn hỏi. Lần đầu tiên, giọng bà nghe có vẻ giận dữ. "Lần cuối cùng anh ở bên con bé, nó vừa học xong cấp hai." Bà quay khỏi ông, khoanh tay lại khi bà đăm đắm nhìn ra ngoài cửa sổ. Giọng bà cay đắng khi bà tiếp tục. "Anh luôn có thể trở về, anh biết mà. Anh có thể giảng dạy ở New York lại. Anh không cần phải lưu diễn vòng quanh đất nước, anh không phải chuyển đến đây... Anh có thể dự phần vào cuộc đời của bọn trẻ." Lời nói của bà làm ông đau nhói, và ông biết bà đúng. Nhưng điều đó không đơn giản như thế, vì lý do cả hai đều hiểu, dù vậy, cả hai đều không chịu thừa nhận chúng. Khoảng lặng căng thẳng trôi qua khi cuối cùng Steve cũng làm thông cổ họng của ông. "Anh chỉ đang cố nói rằng Ronnie sẽ tìm thấy điều đúng đắn từ những sai lầm. Cũng như việc con bé nhất quyết đòi độc lập, anh vẫn tin con bé luôn là người tương tự như trước đây. Theo cách thật sự quan trọng, con bé không thay đổi. Trước khi Kim có thể tìm ra cách thức đáp lại ý kiến của ông, Jonah lao vào xuyên qua cửa trước, đôi má đỏ ửng. "Cha! Con tìm thấy một xưởng chế tạo rất tuyệt! Đi nào! Con muốn chỉ cho cha thấy!" Kim nhướng một bên mày. "Nó ở ngay sau nhà." Steve nói. "Em có muốn xem qua một chút không?" "Nó tuyệt lắm. Mẹ." Kim đảo mắt từ Steve đến Jonah và trở lại lần nữa. "Không sao đâu. Điều đó ổn mà." Bà nói. "Nghe có vẻ giống như thứ dành cho cha và con trai nhiều hơn. Và hơn nữa, em thật sự phải đi rồi." "Đi ư?" Jonah hỏi. Steve biết điều này khó khăn đối với Kim như thế nào, nên ông trả lời thay cho bà. "Mẹ con còn một chuyến trở về dài. Hơn nữa, cha muốn đưa con đến lễ hội đêm nay. Chúng ta có thể làm điều đó thay vì thế chứ?" Steve quan sát đôi vai của Jonah chùng xuống một chút. "Con nghĩ điều đó cũng ổn." Sau khi Jonah nói lời từ biệt mẹ - Ronnie vẫn ở nơi nào đó trong tầm nhìn, và, theo Kim, sẽ không có khả năng quay về sớm - Steve và Jonah tản bộ đến kho xưởng, đó là một nhà phụ nghiêng ngả, mái lợp tole theo cùng với ngôi nhà. Trong ba tháng gần đây, Steve đã trải qua phần lớn các buổi chiều ở nơi này, bị vây quanh bởi đủ loại đồ tạp nhạp và những mảnh kính màu nho nhỏ mà lúc này Jonah đang khám phá. Tại trung tâm của gian xưởng đặt một bàn làm việc lớn với sự khởi đầu của một ô cửa sổ kính màu, nhưng Jonah dường như cực kỳ thích thú với những món nhồi rơm kỳ lạ đặt trên kệ cao, chuyên môn của người chủ nhà trước đây. Thật khó để không bị mê hoặc bởi những con vật nửa sóc nửa cá vược hoặc đầu thú có túi ghép trên thân thể một con gà. "Những thứ này là gì vậy?" Jonah hỏi. "Nó được cho là nghệ thuật." "Con tưởng nghệ thuật là những thứ giống như sơn vẽ và chạm khắc." "Đúng vậy. Nhưng đôi khi nghệ thuật cũng là thứ khác nữa." Jonah nhăn mũi, nhìn chằm chằm vào thứ nửa thỏ nửa rắn. "Nhìn nó chẳng có gì giống nghệ thuật hết." Khi Steve cười, Jonah chỉ vào ô cửa sổ kính màu trên bàn làm việc. "Cái này cũng của ông ấy ư?" Cậu bé hỏi. "Thật ra, nó là của cha. Cha đang chế tạo nó cho nhà nguyện dưới phố. Ngôi nhà nguyện đã bị thiêu rụi năm ngoái, và ô cửa sổ kính màu nguyên thủy đã bị phá hủy trong đám cháy." "Con không biết cha có thể chế tác cửa sổ." "Tin hay không, người nghệ sĩ từng sống ở đây đã dạy cha làm nó như thế nào." "Người đã làm ra những con thú kỳ dị ấy à?" "Cùng người đó." "Và cha quen biết ông ấy?" Steve kết hợp với con trai ông tại bàn. "Khi cha là một đứa trẻ, cha đã lén đến đây trong lúc được cho là phải học Thánh Kinh. Ông ấy chế tác những ô cửa sổ kính màu cho phần lớn những nhà thờ quanh vùng. Nhìn bức vẽ trên tường xem." Steve chỉ một bức hình nhỏ Chúa Ki Tô thăng thiên đính trên kệ, dễ dàng bị bỏ qua trong những thứ hỗn độn. "Hy vọng rằng, nó sẽ giống y như thế khi hoàn tất." "Tuyệt vời." Jonah nói, và Steve cười. Đó rõ ràng là từ ưa thích mới của Jonah, và ông tự hỏi không biết ông sẽ nghe bao nhiêu lần trong mùa hè này. "Con có muốn giúp không?" "Con có thể sao?" "Cha trông mong vào điều đó." Steve trao cho cậu bé một cú đẩy thân thiện. "Cha cần một trợ tá tốt." "Có khó không cha?" "Cha cũng tầm tuổi con khi cha bắt đầu, vì vậy cha chắc chắn con có thể xoay sở được." Jonah thận trọng nhặt lên một mảnh kính và xem xét, giơ nó lên phía ánh sáng, vẻ mặt trang nghiêm. "Con cũng khá chắc chắn là con có thể xoay sở được." Steve cười. "Con vẫn còn đi nhà thờ chứ?" Ông hỏi. "Vâng. Nhưng không giống như khi chúng ta cùng đi. Đó là nơi Brian thích đến. Nhưng Ronnie thường không đi cùng. Chị ấy tự nhốt mình trong phòng và từ chối ra ngoài, nhưng ngay khi mọi người đi khỏi, chị ấy đến quán café Starbucks để rong chơi với bạn bè. Điều đó khiến Mẹ giận dữ." "Đó là điều xảy ra khi một đứa trẻ đến tuổi thiếu niên. Chúng thử lòng cha mẹ ấy mà." Jonah đặt mảnh kính trở lại bàn. "Con sẽ không làm thế." Cậu bé nói. "Con sẽ luôn ngoan. Nhưng con không thích ngôi nhà thờ mới nhiều lắm. Nó chán ngắt. Vì vậy có lẽ con sẽ không đi đến đó đâu." "Khá công bằng." Ông ngừng lời. "Cha nghe nói con đang chơi bóng đá mùa thu này." "Con không chơi tốt lắm." "Sao vậy? Nó vui mà, đúng không?" "Không, khi những đứa trẻ khác biến cha thành trò đùa." "Chúng biến con thành trò đùa sao?" "Không sao đâu. Điều đó không làm con bận tâm." "Vậy à." Steve nói. Jonah kéo lê bước chân, thứ gì đó rõ ràng đang làm cậu bé bận tâm. "Ronnie không đọc bất kỳ lá thư nào cha gởi cho chị ấy, Cha à. Và chị ấy cũng không còn chơi Piano nữa." "Cha biết." Steve trả lời. "Mẹ nói đó là vì chị ấy bị PMS." (Premenstrual syndrome: hội chứng tiền kinh nguyệt.) Steve gần như lặng người, nhưng nhanh chóng tự trấn tĩnh. "Con có biết thứ đó có nghĩa là gì không?" Jonah đẩy mắt kiếng lên. "Con không con là trẻ con nữa. Điều đó có nghĩa là hội chứng say mê đàn ông." (Pissed-at-Men Syndrome) Steve cười, làm rối tóc của Jonah. "Làm thế nào để tìm ra chị con đây?" "Cha nghĩ cha đã thấy cô bé đi về hướng lễ hội." "Chúng ta có thể cưỡi đu quay không?" "Bất cứ thứ gì con muốn." "Tuyệt vời." Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 4 Ronnie. Khu hội chợ thật đông đúc. Hay đúng hơn, Ronnie tự chỉnh lại, lễ hội ẩm thực Hải sản bờ biển Wrightsville thật đông đúc. Khi cô trả tiền cho ly soda từ một gian hàng giảm giá, cô có thể thấy những chiếc xe hơi đậu nối đuôi nhau dọc theo cả hai con đường dẫn xuống bến tàu, và thậm chí nhận ra một số thiếu niên táo bạo đang len lỏi đến gần trận đấu. Dù vậy, cho đến lúc này, trận đấu đang chán ngắt. Cô đã hy vọng đu quay có những vòng đua thường trực, và bến tàu trình bày những gian hàng và cửa hiệu giống như lối đi lót ván ở thành phố Atlantic*. Nói khác đi, cô đã hy vọng nó sẽ phần nào là nơi cô có thể lang thang trong mùa hè. Không may mắn đến thế. Lễ hội tạm thời được bố trí tại bãi đậu xe dẫn xuống bến tàu và nó gần tương đồng với một hội chợ nhỏ tỉnh lẻ. Những lối đi ọp ẹp là một phần của ngày hội du lịch, và bãi đậu xe nhồi nhét đầy những lều trò chơi giá cao và thức ăn giảm giá ngậy mỡ. Toàn bộ nơi chốn có phần nào... gớm guốc. (*Atlantic city, bang New Jersey, USA - là một thành phố nghỉ mát nổi tiếng về cờ bạc, ăn uống và mua sắm.) Dường như không ai khác chia sẻ quan điểm của cô. Nơi đây chật ních. Trẻ và già, những gia đình, nhóm những nhóc học cấp hai nhìn hau háu vào những kẻ khác. Bất luận cô đi đường nào, dường như cô luôn phải chiến đấu chống lại làn sóng người. Những thân thể đẫm mồ hôi. Những thân thể đẫm mồ hôi kinh khủng, hai trong số đó ép chặt cô vào giữa, khi đám đông đến một điểm dừng không thể hiểu nổi. Không nghi ngờ gì, họ có những chiếc bánh hog dog chiên và những thanh kẹo Snicker sấy khô mà cô thấy tại khu hàng giảm giá. Cô nhăn mũi. Quá ghê. Nhìn thấy một khe hở, cô trượt khỏi đường đi và những gian lều trò chơi hội hè, hướng về bến tàu. Thật may mắn, đám đông tiếp tục thưa thớt khi cô di chuyển đến bến tàu, vượt qua khu lều bày bán những món đồ thủ công. Không thứ gì cô hình dung mình có thể mua - Ai trên thế giới lại muốn một tượng thần lùn chế tạo từ những chiếc vỏ sò cơ chứ? Nhưng dĩ nhiên có người mua chúng hoặc những gian hàng đó sẽ không tồn tại. Bị xao lãng, cô va vào một chiếc bàn được điều hành bởi một người phụ nữ trung niên ngồi trên một chiếc ghế xếp. Mặc chiếc áo có in phù hiệu của SPCA (Society for the Prevention of Cruelty to Animals - Hiệp Hội cứu trợ động vật), bà có mái tóc trắng và khuôn mặt cởi mở, tươi cười - loại bà ngoại sẵn sàng bỏ ra cả ngày để làm bánh nướng trước Giáng Sinh, Ronnie phỏng đoán. Trên chiếc bàn trước mặt bà bày những quyển sách mỏng và lọ tặng phẩm, cùng với một thùng giấy lớn. Bên trong thùng có bốn chú chó con màu xám, một trong chúng đứng sững trên chân để ló đầu ra bên cạnh thùng nhìn vào cô. "Chào, chú nhóc." Cô nói. Người phụ nữ luống tuổi mỉm cười. "Cháu có muốn giữ nó không? Chú nhóc là một con chó vui vẻ. Bà đặt tên nó là Seinfeld." Chú chó con phát ra một tiếng rên hết sức cảm động. "Không đâu ạ." Dù vậy, chú nhóc rất đáng yêu. Thật sự đáng yêu. Thậm chí cô không cho rằng cái tên đó phù hợp với nó. Và cô phần nào muốn giữ nó, nhưng cô biết cô sẽ không muốn đặt nó xuống nếu cô làm vậy. Bình thường, cô có một sự say mê những con thú, đặc biệt những con thú bị bỏ rơi. Giống như những chú nhóc này. "Chúng sẽ ổn thôi, đúng không? Bà sẽ không bỏ rơi chúng, phải không?" "Chúng sẽ tốt." Người phụ nữ trả lời. "Đó là lý do tại sao chúng được đặt trên bàn. Để ai đó sẽ nhận nuôi chúng. Năm ngoái, chúng tôi tìm được nhà cho hơn ba mươi con thú. Bốn nhóc này đã được yêu cầu rồi. Bà chỉ đang đợi người chủ mới đến đón chúng đi. Nhưng nếu cháu thích, thì có thêm một chỗ nương náu nữa cũng tốt. "Cháu chỉ ghé qua đây thôi." Ronnie trả lời, ngay lúc đó, một tiếng gầm vọng lên từ bãi biển. Cô vươn cổ, cố nhìn. "Điều gì đang xảy ra vậy? Một buổi hòa nhạc sao?" Người phụ nữ lắc đầu. "Bóng chuyền bãi biển. Họ đã chơi hàng giờ rồi - một số vòng thi đấu. Cháu nên đến đó xem. Bà nghe thấy tiếng cổ vũ suốt cả ngày, vì thế trò chơi chắc khá hào hứng." Ronnie nghĩ về điều đó, cân nhắc, sao không chứ? Nó không thể tệ hơn những thứ đang xảy ra ở đây. Cô ném vài đồng dollar vào trong chiếc bình quà tặng trước khi tiến bước. Mặt trời đã xuống, trao tặng đại dương sự lấp lánh giống như vàng lỏng. Trên bờ biển, vài gia đình còn lại đang thu gom những chiếc khăn tắm gần mép nước, để mặc đôi tòa lâu đài cát bị cuốn trôi trong những con sóng thủy triều. Những cánh chim hải yến chao liệng qua lại, săn đuổi những con còng. Không mất quá lâu để đến gần trận đấu. Khi cô dịch chuyển dần đến mép sân đấu, cô nhận ra những cô gái khác trong đám khán giả có vẻ chú tâm đến hai cầu thủ phần sân bên phải. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Hai anh chàng - độ tuổi cô? Lớn hơn? - là loại mà bạn cô, Kayla, thường mô tả là "đẹp mã". Dù không ai trong bọn họ chính xác thuộc kiểu ưa thích của Ronnie, thật không thể không ngưỡng mộ thể vóc cao, gầy, đầy cơ bắp của họ và cách thức linh hoạt mà họ di chuyển trên sân cát. Đặc biệt là người cao hơn, với mái tóc màu nâu sẫm và chiếc vòng đan macramé trên cổ tay anh. Kayla chắc chắn sẽ tập trung vào anh - Cô ấy luôn nhắm đến những người cao - theo cùng cách đó, một tóc vàng mặc bikini phía bên kia sân bóng rõ ràng đang nhắm vào anh. Ronnie nhận ra tóc vàng và bạn cô ta ngay lập tức. Cả hai đều gầy và xinh đẹp, với hàm răng trắng đến lóa mắt, và hiển nhiên thường là trung tâm của mọi chú ý và luôn có những chàng trai thèm muốn họ. Họ giữ bản thân tách biệt khỏi đám đông và cổ vũ một cách kén chọn, chắc chắn để không bị làm rối mái tóc của họ. Có lẽ họ cũng giống như bảng quảng cáo được trưng bày, khá ổn để chiêm ngưỡng từ xa, nhưng không được quá gần. Ronnie không quen biết họ, nhưng cô không thích họ. Cô quay sự chú ý của cô trở lại trận đấu vừa khi chàng trai đáng yêu lấy thêm điểm số. Và rồi một điểm nữa. Và thêm một điểm nữa. Cô không hiểu về điểm số, nhưng họ rõ ràng là đội tốt hơn. Và tuy vậy, khi cô quan sát, cô bắt đầu cổ vũ trong yên lặng cho những anh chàng khác. Thật chẳng làm gì khác được vì cô luôn cổ vũ cho bên thua - như cô vẫn thế - và thật ra cũng vì cặp đôi chiến thắng gợi cô nhớ đến loại người thuộc trường tư hư hỏng mà cô thỉnh thoảng đụng độ trong câu lạc bộ, những chàng trai Bờ Đông quý tộc từ Dalton* hoặc Buckley* luôn cho rằng mình cao quý hơn người khác, đơn giản vì cha họ là chủ ngân hàng đầu tư. Cô đã thấy đủ loại được gọi là đám đông có đặc quyền để nhận ra một thành viên khi cô trông thấy họ, và cô dám đánh cá cả mạng sống của cô rằng hai người đó dứt khoát là thành phần của đám đông ngưỡng mộ xung quanh đây. Sự nghi ngờ của cô được xác nhận sau bàn ghi điểm kế tiếp, khi cộng sự của anh chàng tóc nâu nháy mắt với cô bạn búp bê Barbie rám nắng của tóc vàng khi anh ta sẵn sàng để giao bóng. Trong tỉnh này, tất cả những người xinh đẹp cố nhiên phải quen biết lẫn nhau rồi. (*Dalton school: trường tư thục lâu đời và nổi tiếng ở Manhattan, được xếp thứ 13 trong những trường tốt nhất nước Mỹ cho trẻ em từ lớp 8- 12.) (*Buckley School: Là một trường tư dành cho nam sinh con nhà giàu có và quyền thế. Thành lập từ năm 1913 ở Manhattan.) Tại sao cô không ngạc nhiên bởi điều đó nhỉ? Trận đấu dường như đột nhiên kém thú vị, và cô quay người để rời khỏi, ngay khi cú giao bóng vượt qua lưới. Cô lơ đãng nghe thấy ai đó la lên khi đội đối phương đánh trả cú giao bóng, nhưng trước khi cô có thể bước lên vài bước, cô cảm thấy khán giả quanh cô bắt đầu xô đẩy lẫn nhau, khiến cô mất thăng bằng trong một thoáng. Một thoáng quá dài. Cô quay người đúng lúc trông thấy một trong những cầu thủ đang lao thẳng đến cô với đầy đủ tốc độ, đầu anh vươn cao dõi theo đường bóng thất thường. Cô không có thời gian để phản ứng trước khi anh đâm sầm vào cô. Cô cảm thấy anh túm lấy vai cô trong một nỗ lực để đồng thời ngừng lực xô tới của anh và ngăn cô khỏi ngã xuống. Cánh tay cô giật mạnh trong sự va chạm và cô nhìn gần như thôi miên vào chiếc nắp bị bắn tung khỏi chiếc ly nhựa, dòng soda hình vòng cung ném vào không trung trước khi làm ướt sũng mặt mũi và áo của cô. Và rồi, cũng y như thế, nó đã kết thúc. Cuối cùng, cô thấy cầu thủ tóc nâu nhìn cô chăm chú, đôi mắt anh mở rộng sửng sốt. "Bạn có sao không?" Anh hổn hển. Cô có thể cảm thấy soda nhỏ giọt trên mặt cô và thấm xuyên qua áo cô. Mơ hồ, cô nghe thấy ai đó trong đám đông bắt đầu cười lớn. Và tại sao người ta lại không cười chứ? Đó là một ngày tuyệt vời đến thế cơ mà. "Tôi ổn." Cô cáu kỉnh. "Bạn chắc chứ?" Gã trai há hốc miệng kinh ngạc. Dù sao đi nữa, anh ta có vẻ thật sự hối hận. "Tôi đụng vào bạn khá mạnh." "Chỉ... để tôi đi." Cô nói qua hàm răng nghiến chặt. Dường như anh không nhận ra là vẫn đang giữ chặt vai cô, và anh ngay lập tức thả lỏng bàn tay. Anh lùi lại một bước và với tay chạm vào chiếc vòng xuyến một cách vô thức. Anh xoay nó gần như lơ đãng. "Tôi thật sự rất tiếc về điều đó. Tôi đang đuổi theo trái banh và..." "Tôi biết những gì anh đang làm. Tôi vẫn sống sót, được chưa?" Với điều đó, cô xoay người rời khỏi, không mong muốn gì khác hơn ra khỏi chỗ này xa nhất có thể. Phía sau, cô nghe thấy ai đó gọi theo, "Nhanh nào! Will! Hãy trở lại trận đấu nào!" Nhưng khi cô xuyên qua đám đông, không hiểu sao cô cảm nhận ánh mắt dõi theo của anh cho đến khi cô biến mất khỏi tầm nhìn. Áo của cô không bị hỏng, nhưng điều đó không khiến cô cảm thấy tốt hơn. Cô thích chiếc áo này, một vật lưu niệm từ buổi hòa nhạc Fall Out Boy* mà cô lén đi cùng Rick năm ngoái. Mẹ cô gần như đã giận sôi gan vào lần đó, không đơn giản vì Rick có một vết xăm hình lưới nhện trên cổ và đeo nhiều khoen trên tai hơn cả Kayla; mà vì cô đã nói dối về nơi cô đến và cô không về nhà cho đến chiều hôm sau, khi họ kết thúc việc đột nhập nhà anh trai của Rick ở Philadelphia. Mẹ đã cấm Ronnie gặp hay thậm chí nói chuyện với Rick lần nữa, một luật lệ mà Ronnie phá vỡ ngay ngày tiếp theo. (*Fall Out Boy: một Rock band nổi tiếng của Mỹ, từng được đề cử giải Grammy, thành lập năm 2001 và tan rã năm 2009, được xếp hạng trong 93 nghệ sĩ xuất sắc nhất thập niên 2000-10. Nhóm nhạc bao gồm ca sĩ kiêm guitar đệm Patrick Stump, lead guitar Joel Trohman, tay bass Pete Went và tay trống Andy Hurley) Đó không phải vì cô yêu Rick; thẳng thắn thì cô thậm chí còn không thích anh ta nhiều đến thế. Nhưng cô đã giận dữ với mẹ, và điều đó có vẻ đúng vào lúc đó. Nhưng khi cô đến nhà Rick, anh ta đã quá quắt và lại say sưa, y như anh ta đã làm tại buổi hòa nhạc, và cô nhận ra nếu cô tiếp tục gặp gỡ anh ta, anh ta sẽ tiếp tục gây áp lực với cô để cố làm mọi thứ anh ta muốn, y như anh đã làm đêm trước. Cô chỉ bỏ ra vài phút ở nhà của anh ta trước khi đến quảng trường Union* suốt phần còn lại của buổi chiều, biết rằng giữa họ đã kết thúc. (*Union Square: quảng trường giao lộ quan trọng ở New York, bên dưới quảng trường là các ga tàu điện ngầm. Quảng trường rất lớn với đài phun nước nổi tiếng và tượng cưỡi ngựa bằng đồng của George Washington cũng như các bức tượng nổi tiếng khác ở các góc của quảng trường) Cô không ngây thơ về ma túy. Một vài người bạn của cô đã hút bừa bãi, một vài đứa dùng cocain hoặc ecstacy. Và một đứa thậm chí còn nghiện thứ thuốc meth tệ hại. Mọi người, trừ cô, đều uống rượu vào cuối tuần. Mọi câu lạc bộ và tiệc tùng mà cô đến đều dễ dàng lọt qua. Tuy vậy, dường như bất luận nơi nào bạn bè cô hút thuốc hay uống rượu hay đập lốp bốp những viên thuốc mà họ thề rằng sẽ làm cho buổi tối đáng giá, họ đều trải qua phần còn lại của đêm nói líu ríu và lảo đảo, hoặc nôn mửa, hoặc mất kiểm soát hoàn toàn và làm những điều thật sự ngu ngốc. Mọi thứ thường dính líu đến anh chàng nào đó. Ronnie không muốn đến đó. Không, sau những điều đã xảy ra với Kayla vào mùa đông trước - Kẻ nào đó - Kayla không bao giờ biết được là ai - đã lén bỏ vài viên GHB (Gamma Hydroxy Butyric acid - thuốc chống trầm cảm, là một loại thuốc cấm vì sau khi uống ng ta có cảm giác lơ mơ và buồn ngủ) vào nước uống của cô ấy, và dù cô ấy chỉ có một hồi ức mơ hồ về những gì xảy ra sau đó, cô ấy khá chắc chắn nhớ được đã ở trong một căn phòng cùng ba gã mà cô ấy gặp lần đầu đêm đó. Khi cô ấy hồi tỉnh vào sáng hôm sau, quần áo của cô ấy nằm rải rác khắp phòng. Kayla không bao giờ nói điều gì nữa - Cô ấy thích giả vờ là điều đó chưa từng xảy ra hơn, và hối tiếc vì đã kể với Ronnie nhiều như vậy - Nhưng không quá khó để liên kết các đầu mối lại với nhau. Khi cô đến bến tàu, Ronnie đặt ly nước chỉ còn một nửa xuống và cáu kỉnh thấm nước trên áo bằng chiếc khăn ăn. Điều đó dường như hiệu quả, ngoại trừ chiếc khăn tan rã thành những mảnh nhỏ li ti trắng xóa tương tự như gàu trên da đầu vậy. Tuyệt thật. Cô ước chi chàng trai va vào ai khác. Cô chỉ ở đó trong bao lâu, mười phút? Điều gì kỳ lạ đến mức cô quay đi ngay lúc trái banh bay đến hướng của cô vậy? Và cô mang soda trong một đám đông tại trận đấu bóng chuyền mà cô thậm chí còn không muốn xem, tại một nơi mà cô thậm chí còn không muốn đến cơ chứ? Trong cả triệu năm, điều tương tự không thể nào lặp lại. Với điều ngẫu nhiên giống như vậy, cô có lẽ nên mua một tấm vé số. Và rồi, có một chàng trai như thế. Một chàng trai đáng yêu tóc nâu, mắt nâu. Rốt cuộc, cô nhận ra anh còn hơn cả đáng yêu, đặc biệt khi anh có biểu hiện... quan tâm. Anh có thể là thành phần của đám đông được mến mộ, nhưng trong một phần tỉ giây khi mắt họ gặp nhau, cô có một cảm nhận hết sức kỳ lạ rằng anh chân thực như biểu hiện của anh. Ronnie lắc đầu để xóa đi trong trí óc cô những ý nghĩ điên khùng đến thế. Hẳn là mặt trời đã tác động đến trí não của cô. Hài lòng rằng cô đã làm điều tốt nhất cô có thể với chiếc khăn ăn, cô nhặt ly soda lên. Cô dự định đổ phần còn lại đi, nhưng khi cô quay người, cô cảm thấy chiếc ly bị kẹp chặt giữa cô và một người khác. Lần này, không có gì tình cờ trong chuyển động chậm rãi, soda ngay lập tức phủ trên phía trước áo cô. Cô đông cứng, nhìn chằm chằm vào chiếc áo, không thể tin được. Chuyện cứ như đùa ấy. Đứng trước mặt cô là một cô gái tầm tuổi cô đang cầm một ly kem tươi Slurpee, có vẻ kinh ngạc y như cô. Cô ấy mặc đồ đen, mái tóc sẫm xõa dài buông lỏng những lọn loăn xoăn ôm lấy gương mặt. Giống Kayla, cô ấy có ít nhất nửa tá khoen trên mỗi tai, tóc nhuộm highlight với một cặp đầu lâu thu nhỏ đong đưa trên dái tai, và đôi mắt sẫm đánh bóng màu tối và kẻ mi tạo cho cô ấy có vẻ ngoài gần như hoang dã. Khi phần còn lại của soda thấm xuyên qua áo của Ronnie, chú gà Goth chuyển động cùng ly Slurpee hướng về phía vết bẩn trải rộng. "Không hay cho bạn rồi." Cô ấy nói. "Bạn nghĩ vậy à?" "Ít ra thì lúc này nó cũng cân xứng với bên kia." "Oh, tớ thấy rồi. Bạn đang cố hài hước." "Dí dỏm thì đúng hơn." "Vậy bạn nên nói điều gì đó như là 'Lẽ ra bạn nên dùng chiếc ly sippy cups* ấy." (*ly uống nước có núm hút trên nắp và có hai tay cầm hai bên của trẻ nhỏ, chẳng biết tiếng Việt có từ tương đương là gì. Hic!) Chú gà Goth cười lớn, một âm thanh nữ tính đáng kinh ngạc. "Bạn không phải người ở vùng này, đúng không?" "Không, Tớ ở New York. Tớ đến đây thăm cha tớ." "Vào cuối tuần?" "Không. Cả mùa hè." "Không hay cho bạn rồi." Lần này đến lượt Ronnie cười. "Tớ là Ronnie. Tên gọi tắt của Veronica." "Gọi tớ là Blaze (Ngọn lửa)." "Blaze?" "Tên thật của tớ là Galadriel. Nó có nguồn gốc từ Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn. Số phận của mẹ tớ giống như thế." "Ít ra thì bác ấy đã không đặt tên bạn là Gollum." (Tên gã yêu tinh đáng thương trong phim chúa tể những chiếc nhẫn.) "Hoặc Ronnie." Với một cái nghiêng đầu, cô ấy chuyển động qua bờ vai. "Nếu bạn muốn thứ gì đó khô ráo, có vài chiếc áo thun Nemo trong gian hàng ở đàng kia." "Nemo?" "Phải. Nemo. Trong Film ấy? Chú cá màu cam khoang trắng bơi lội vụng về ấy? Bị mắc kẹt trong một cái hồ nuôi cá và cha nó phải đi tìm ấy?" "Tớ không muốn một chiếc áo Nemo, được chưa?" "Nemo tuyệt mà." "Có thể, nếu bạn sáu tuổi." Ronnie trả miếng. "Tùy bạn thôi." Trước khi Ronnie có thể đáp, cô phát hiện ba gã đang xô lấn xuyên qua khe hở của những người tụ tập. Họ nổi bật trong đám đông trên bãi biển với chiếc quần sort xé rách và những hình xăm, bộ ngực trần lộ rõ bên dưới chiếc áo khoác bằng da nặng nề. Một trong số họ có một chiếc khoen nơi chân mày và đang mang một chiếc máy nghe nhạc kiểu cổ điển; một người khác có một mái tóc kiểu bờm ngựa Mohawk được tẩy trắng, và đôi cánh tay phủ kín những hình xăm. Người thứ ba, giống Blaze, có mái tóc đen dài được bù đắp bởi làn da trắng sữa. Theo bản năng, Ronnie quay nhìn Blaze, chỉ để nhận ra rằng cô ấy đã biến mất. Tại chỗ của cô ấy, Jonah đang đứng. "Chị làm đổ cái gì trên áo vậy?" Cậu bé hỏi. "Chị bị ướt và nhớp nháp." Ronnie tìm kiếm Blaze, tự hỏi cô ấy đã biến đi đâu. Và tại sao. "Đi ngay đi, được không?" "Em không thể. Cha đang tìm chị. Em nghĩ cha muốn chị về nhà." "Ông ấy đâu?" "Cha ngừng lại để vào nhà vệ sinh, nhưng sẽ đến đây bất kỳ lúc nào." "Nói với ông ấy là em không thấy chị." Jonah cân nhắc điều đó. "Năm đồng." "Gì cơ?" "Đưa cho em năm đồng và em sẽ quên là chị ở đây." "Em không đùa đấy chứ?" "Chị không còn nhiều thời gian đâu." Cậu bé nói, "Bây giờ là mười đồng." Qua đầu của Jonah, Ronnie nhận ra cha cô đang nhìn quanh quất đám đông xung quanh. Cô hụp xuống theo bản năng, biết rằng không có cách nào để trốn thoát. Cô trừng mắt vào em trai, kẻ tống tiền nhỏ bé, người rõ ràng cũng đã nhận ra điều đó. Cậu bé đáng yêu và cô yêu cậu, cô khâm phục khả năng tống tiền của cậu, nhưng tuy vậy, cậu là em trai nhỏ của cô. Trong một thế giới hoàn hảo, cậu bé sẽ luôn sát cánh bên cô. Nhưng cậu có làm thế không? Dĩ nhiên là không rồi. (Vì thế giới đâu có hoàn hảo!) "Chị ghét em. Em biết đấy." Cô nói. "Phải. Em cũng ghét chị. Nhưng nó vẫn có giá mười đồng." "Năm thì thế nào?" "Chị đã bỏ lỡ cơ hội rồi. Nhưng bí mật của chị sẽ an toàn với em." Cha cô vẫn chưa thấy họ, nhưng ông đang tiến lại gần hơn. "Tốt." Cô rít lên, thọc sâu vào trong túi, cô kéo ra một tờ tiền bị vò nhàu và Jonah nhét tiền vào túi. Liếc qua vai, cô thấy cha cô đang di chuyển về hướng của cô, đầu ông vẫn xoay từ bên này qua bên kia, cô lủi nhanh quanh một gian hàng. Ngạc nhiên cho cô, Blaze đang dựa vào cạnh gian hàng, hút thuốc. Cô ấy cười điệu, "Có rắc rối với cha bạn à?" "Có cách nào để tớ ra khỏi đây không?" "Đó là việc của bạn." Blaze nhún vai, "Nhưng ông ấy biết chiếc áo mà bạn đang mặc." Một giờ sau, Ronnie ngồi bên cạnh Blaze trên chiếc ghế dài gần cuối bến tàu, vẫn còn buồn bực; nhưng không đến nỗi chán ngắt như trước đó. Blaze hóa ra là một người biết lắng nghe tuyệt vời, với cảm nhận hài hước kỳ lạ - và trên tất cả, cô ấy có vẻ cũng yêu New York nhiều như Ronnie, cho dù cô ấy chưa từng đến đó. Cô ấy hỏi những câu hỏi căn bản như: Quảng trường Times* và tòa nhà chọc trời Empire State* và tượng Nữ Thần Tự Do* - Những cái bẫy du lịch mà Ronnie đã cố né tránh bằng mọi giá. Nhưng Ronnie chiều lòng cô ấy trước khi mô tả một New York thật sự: Những câu lạc bộ ở Chelsea, chuỗi hoạt động âm nhạc ở Brooklyn, và những người bán dạo trên đường phố Chinatown, nơi có thể mua được dĩa hát lậu hoặc những chiếc túi xách Prada giả hiệu hoặc khá nhiều những thứ khác với từng đồng xu tiền bạc. (*Times Square - quảng trường Thời đại: Một quảng trường giao lộ trung tâm, một biểu tượng của New York, và là nơi đón chào giao thừa với lễ hội thả bóng bay và trái bóng nổi tiếng Times square ball thay cho màn pháo hoa, cũng còn được mệnh danh là 'ngã tư của thế giới') (*Empire State: Niềm tự hào của New York, từng được xếp vào một trong những kỳ quan đương đại của thế giới, từng nắm giữ kỷ lục tòa nhà cao nhất thế giới trong 40 năm, việc thắp đèn vào ban đêm và màu sắc đèn chiếu sáng của tòa nhà này mang nhiều ý nghĩa kỷ niệm với từng cột mốc lịch sử quan trọng nào đó - mà nếu không nói ra thì không ai biết ^_^ ) (*Statue of Liberty: Bức tượng của nhà điêu khắc Pháp nổi tiếng Frédéric Bartholdi thực hiện tại Pháp và được dân Pháp tặng cho nước Mỹ năm 1886. Bartholdi đã lấy cảm hứng từ Libertas, nữ thần của tự do và đặc biệt là giải phóng nô lệ trong thần thoại La Mã. Thiết kế ban đầu của ông mang ý nghĩa như một ngọn hải đăng với một ngọn đuốc không bao giờ tắt giơ cao trên một tay của Libertas, sau này mới mang thêm ý nghĩa như một tuyên ngôn của nước Mỹ nên tay kia của tượng cầm bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ, và bức tượng trở thành biểu tượng của Hoa Kỳ với ý nghĩa tương tự. Ngoài lề một chút nhé, ông Bartholdi này có một bức tượng đá khổng lồ khác ở Pháp tên là Lion of Belfort mang biểu tượng tinh thần yêu nước của dân Pháp khắc trên đá sa thạch dưới chân pháo đài Belfort được làm trong thời kỳ pháo đài bị bị quân Phổ vây hãm, cực kỳ đẹp và ấn tượng mà Sẻ rất thích. Ôi, ai mà được làm chắt của ông này thì cực kỳ hãnh diện nhỉ.) Việc nói về nơi đó khiến cô mong ước vô vàn được trở về nhà thay vì ở đây. Bất kỳ nơi nào trừ ở đây. "Tớ cũng sẽ không muốn đến đây đâu." Blaze đồng ý. "Tin tớ đi. Nó chán ngắt." "Bạn sống ở đây bao lâu rồi?" "Chỉ toàn bộ đời tớ thôi. Nhưng ít ra tớ ăn mặc ổn." Ronnie đã mua chiếc áo Nemo ngu ngốc, biết rằng nhìn mình rất lố bịch. Kích cỡ duy nhất gian hàng có trong kho là XL, và nó dài gần tới gối cô. Tính năng đền bù duy nhất của nó là, ngay khi cô mặc nó, cô có thể trượt qua cha cô mà không bị phát hiện. Blaze đã đúng về điểm đó. "Người ta nói với tôi Nemo tuyệt." "Bà ta đang nói dối đấy." "Chúng ta làm gì tiếp đây? Bây giờ cha tớ chắc đã đi rồi." Blaze quay lại. "Tại sao chứ? Bạn muốn trở lại lễ hội à? Có lẽ đến ngôi nhà ma ám chăng?" "Không. Nhưng phải kiếm thứ gì đó để tiếp tục chứ." "Chưa đâu. Lát nữa mới có. Lúc này, chúng ta hãy đợi." "Cho điều gì?" Blaze không trả lời. Thay vì thế, cô ấy đứng lên và quay đi, đối diện với mặt nước tối sẫm. Mái tóc cô ấy phất phơ trong gió, và cô ấy nhìn đăm đắm vào mặt trăng. "Tớ đã thấy bạn trước đó, bạn biết đấy." "Khi nào?" "Khi bạn ở trận đấu bóng chuyền." Cô ấy di chuyển xuống bến tàu. "Tớ đang đứng ở đó." "Và sao?" "Bạn có vẻ không thuộc về nơi đó." "Bạn cũng thế." "Đó là lý do tại sao tớ đang đứng trên bến tàu." Cô ấy nhảy qua thành lan can và chọn một chỗ ngồi, đối diện Ronnie. "Tớ biết bạn không muốn ở đây. Nhưng cha bạn đã làm gì khiến bạn nổi điên như vậy?" Ronnie quệt lòng bàn tay vào quần, "Đó là một câu chuyện dài." "Ông ấy đang sống cùng bạn gái của ông ấy à?" "Tớ không nghĩ ông ấy có bạn gái. Sao nào?" "Coi như bạn may mắn." "Bạn đang nói về điều gì vậy?" "Cha tớ sống cùng bạn gái của ông ấy. Nhân tiện, đây là người thứ ba kể từ khi ly hôn, và bà ta vượt xa cả điều tồi tệ nhất. Bà ta chỉ hơn tớ vài tuổi và ăn mặc y như vũ nữ thoát y. Với tất cả những gì tớ biết, bà ta chính là một vũ nữ thoát y. Điều đó khiến tớ phát ốm mọi lúc tớ phải ở đó. Có vẻ như bà ta không biết làm sao để hành động quanh tớ. Mới phút trước bà ta cố cho tớ một lời khuyên như thể bà ta là mẹ tớ, phút kế tiếp bà ta đang cố để thành bạn tốt nhất của tớ. Tớ ghét bà ta." "Và bạn đang sống với mẹ bạn?" "Phải. Nhưng bây giờ bà ấy đã có bạn trai, và ông ta ở nhà mọi lúc. Ông ta cũng là một kẻ thua cuộc. Ông ta mang một mái tóc giả lố bịch vì bị hói khi ông mới đôi mươi hoặc đại khái thế, và ông ta luôn nói với tớ rằng tớ hãy suy nghĩ để cho trường College một sự thử sức. Cứ làm như tớ quan tâm đến điều ông ấy nghĩ. Tất cả chỉ là trò lường gạt thôi, đúng không?" Trước khi Ronnie có thể trả lời, Baze nhảy ra sau, "Đi nào. Tớ nghĩ họ đã sẵn sàng để bắt đầu rồi. Bạn sẽ được thấy điều này." Ronnie theo sau Blaze trở lên bến tàu, tiến thẳng đến đám đông đang bao quanh thứ có vẻ là một màn trình diễn đường phố. Giật mình, cô nhận ra những người biểu diễn là ba gã du côn cô đã thấy trước đó. Hai trong số họ đang nhảy break (kiểu nhảy cuồng nhiệt của dân da đen) với thứ âm nhạc phát ra từ chiếc máy nghe nhạc, trong lúc người có mái tóc đen dài đứng ở trung tâm đang tung hứng những trái banh vàng rực rỡ. Thỉnh thoảng anh ta ngừng tung hứng và đơn giản giữ trái banh, xoay nó trên những ngón tay, hoặc đảo nó ra sau bằng lưng bàn tay hay từ cánh tay này sang cánh tay khác. Hai lần, anh ta nắm chặt tay trên quả banh lửa, gần như dập tắt nó, ngay khi anh ta di chuyển bàn tay, để cho ngọn lửa thoát ra khỏi khe hở nhỏ xíu gần ngón tay cái. "Bạn biết anh ta sao?" Ronnie hỏi. Blaze gật đầu, "Đó là Marcus." "Anh ta có mang thứ gì để phủ bảo vệ bàn tay không?" "Không." "Nó không đau đớn sao?" "Không, nếu bạn giữ trái banh lửa đúng. Dù vậy, điều đó thật tuyệt, đúng không?" Ronnie phải đồng ý. Marcus dập tắt hai trái banh và rồi thắp chúng lại bằng cách chạm vào trái thứ ba. Trên mặt đất đặt một chiếc nón ảo thuật gia lật ngược, và Ronnie thấy người ta bắt đầu ném tiền vào đó. "Anh ta kiếm được những trái banh lửa ở đâu?" "Anh ấy chế tạo chúng. Tớ có thể chỉ cho bạn cách làm. Không khó đâu. Tất cả những gì bạn cần là một chiếc áo bằng cotton, kim và chỉ, và một ít chất gây cháy." Khi âm nhạc tiếp tục om sòm, Marcus tung ba trái banh lửa cho anh chàng tóc bờm ngựa và thắp thêm hai trái khác. Họ tung hứng chúng qua lại với nhau như những anh hề trong gánh xiếc, càng lúc càng nhanh, cho đến khi một trái bị ném lệch đi. Ngoại trừ là chúng đã không. Anh chàng đeo khoen chân mày đã bắt lấy nó kiểu chặn banh bóng đá, và bắt đầu hất nó lên từ chân này qua chân kia như thể nó không khác gì trò Hacky-Sack* (*Một kiểu trò chơi banh vải nhiều màu sắc được nhiều người đá qua đá lại giống như trò đá cầu, trò này phát triển ở Mỹ từ năm 1972.) Sau khi dập tắt ba trái banh, hai trái được cho là thích hợp, cả nhóm đá hai trái banh lửa qua lại với nhau. Đám đông bắt đầu vỗ tay, và tiền rải như mưa vào chiếc nón khi âm nhạc mạnh dần lên. Rồi đồng loạt, những trái banh bị chộp lấy và dập tắt khi âm nhạc đồng thời ầm ầm lên để kết thúc. Ronnie phải thừa nhận cô chưa từng thấy thứ gì giống như thế. Marcus tiến đến Blaze và bao phủ cô ấy trong một nụ hôn dài, nấn ná, có vẻ hoang dại không thích đáng trước công chúng. Anh ta từ từ mở mắt, nhìn chằm chằm thẳng vào Ronnie trước khi đẩy Blaze ra. "Ai vậy?" Anh ta hỏi, di chuyển về hướng Ronnie. "Đó là Ronnie." Blaze nói, "Cô ấy đến từ New York. Em chỉ vừa mới gặp cô ấy." Đầu Bờm Ngựa và Khoen Chân Mày kết hợp với Marcus và Blaze trong cái nhìn chăm chú của họ, khiến Ronnie theo bản năng cảm thấy không thoải mái. "New York, huh?" Marcus hỏi, kéo chiếc bật lửa từ trong túi và thắp một quả banh lửa. Anh ta giữ quả cầu lửa chuyển động giữa ngón cái và ngón trỏ, khiến cho Ronnie tự hỏi lần nữa bằng cách nào anh ta có thể làm được điều đó mà không bị phỏng. "Em có thích lửa không?" Anh ta nói. Không đợi câu trả lời, anh ta ném quả banh lửa về hướng cô. Ronnie nhảy khỏi chỗ, quá bất ngờ để trả lời. Quả banh đáp xuống phía sau cô ngay khi một viên cảnh sát lao tới dậm chân dập tắt ngọn lửa. "Ba đứa." Ông ấy nói, chỉ tay. "Biến. Ngay. Tôi đã nói với các người trước đó rằng các người không thể thực hiện màn trình diễn nhỏ của các người trên bến tàu, và lần tới, tôi thề là tôi sẽ tống giam đấy." Marcus giơ tay và bước lùi lại "Chúng tôi đi ngay mà." Những chàng trai chộp lấy áo khoác và bắt đầu đi khỏi bến tàu, hướng đến đám rước lễ hội. Blaze đi theo, bỏ Ronnie lại một mình. Ronnie cảm thấy ánh mắt của viên cảnh sát trên cô, nhưng cô lờ đi. Thay vì thế, cô lưỡng lự một thoáng trước khi đuổi theo họ. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 5 Marcus. Hắn biết cô sẽ đi theo họ. Họ luôn làm thế. Đặc biệt là những cô gái mới trong tỉnh. Đó là thứ xảy đến với các cô gái: Hắn đối xử với họ càng tệ, họ càng muốn hắn nhiều hơn. Họ ngốc như thế đó. Có thể đoán biết, nhưng ngu ngốc. Hắn dựa vào chậu hoa đặt trước khách sạn, Blaze quàng tay quanh hắn. Ronnie ngồi đối diện với họ trên một chiếc ghế dài; phía xa, Teddy và Lance đang nói líu nhíu khi cố gắng gây sự chú ý với các cô gái đi qua chúng. Bon chúng luôn say xỉn - Quỷ thật, chúng đã say thậm chí trước cả buổi biểu diễn - và như lệ thường, gần như cô gái xấu xí nhất cũng phớt lờ chúng. Phân nửa thời gian, ngay cả hắn cũng lờ chúng nốt. Trong lúc ấy, Blaze đang cắn nhẹ trên cổ hắn, nhưng hắn cũng lờ đi. Hắn đã phát ngán cái cách cô ta luôn bám riết theo hắn mọi lúc họ ra ngoài công chúng. Phát ngán về sự tầm thường của cô ta. Nếu cô ta không tốt đến thế trên giường, nếu cô ta không biết về những thứ thật sự chống lại hắn, hắn đã gạt bỏ cô ta cách đây một tháng vì một hoặc hai hoặc ba hoặc bốn hay năm cô gái khác mà hắn thường xuyên ngủ cùng rồi. Nhưng ngay lúc này, hắn cũng không thấy thích thú với họ nữa. Thay vì thế, hắn nhìn chằm chằm vào Ronnie, thích thú dải tóc màu tím trên tóc cô và thân hình nhỏ bé rắn chắc của cô, hiệu ứng lấp lánh trên bóng mắt cô. Nó có chút phong cách sang trọng, cuốn hút, bất chấp chiếc áo ngu ngốc cô đang mặc. Hắn thích điều đó. Hắn thích điều đó rất nhiều. Hắn đẩy vào hông của Blaze, ước chi cô ta không ở đây. "Đi kiếm cho anh ít khoai tây chiên." Hắn nói, "Anh hơi đói rồi." Blaze đẩy lại hắn. "Em chỉ còn lại vài dollar thôi." Hắn có thể nghe được sự than phiền trong giọng cô ta. "Vậy sao? Bằng đó cũng đủ để trả rồi. Và hãy chắc chắn rằng em sẽ không ăn chúng chút nào đâu đấy." Hắn có ý như thế. Blaze có một chút nhu nhược, một chút giận dỗi. Không ngạc nhiên gì khi tính đến gần đây cô ta say xỉn gần bằng Teddy và Lance. Blaze trình diễn màn bĩu môi, nhưng Mascus đẩy nhẹ và cô ta tiến đến một trong những gian hàng bán thức ăn. Cả hàng dài ít ra là sáu đến bảy người, và khi cô ta xếp vào cuối cùng, Marcus tản bộ thong dong về phía Ronnie và lấy một chỗ bên cạnh cô. Gần, nhưng không quá gần. Blaze là loại người ghen tuông, và hắn không muốn cô ta trở mặt với Ronnie trước khi hắn có cơ hội làm quen với cô. "Em nghĩ sao?" Hắn hỏi. "Về điều gì" "Màn biểu diễn. Em có thấy điều gì giống như thế ở New York không?" "Không." Cô thú nhận. "Tôi chưa thấy." "Em đang ở đâu?" "Ngay dưới bãi biển một chút." Hắn có thể thấy trong cách cô trả lời rằng cô không thoải mái, chắc vì Blaze không ở đây. "Blaze nói em trốn cha em." Để đáp lại, cô chỉ nhún vai. "Sao thế? Em không muốn nói về điều đó sao?" "Không có gì để nói." Hắn ngả người ra sau. "Có lẽ em chỉ không tin tưởng anh." "Anh đang nói gì vậy?" "Em kể cho Blaze, nhưng không kể cho anh." "Tôi thậm chí còn không biết anh." "Em cũng có biết Blaze đâu. Em chỉ vừa mới gặp cô ấy." Ronnie không có vẻ thông cảm lời đối đáp mạnh mẽ của hắn. "Tôi chỉ không muốn nói chuyện với anh, được chưa? Và tôi cũng không muốn trải qua mùa hè của tôi ở đây." Hắn đẩy lọn tóc ra khỏi mắt hắn. "Vậy thì bỏ đi là xong." "Phải, Đúng rồi. Tôi được cho rằng sẽ đi đâu đây?" "Chúng ta hãy đến Florida." Cô chớp mắt, "Gì cơ?" "Anh biết một anh chàng có một chỗ ở đó, ngay bên ngoài vịnh Tampa. Nếu em muốn, anh sẽ đưa em đi. Chúng ta có thể ở đó chỉ cần em muốn. Xe của anh ở đàng kia." Cô nhìn chằm chằm vào hắn trong nỗi bàng hoàng. "Tôi không thể đi Florida với anh. Tôi... Tôi chỉ mới gặp anh. Và còn Blaze thì sao?" "Có điều gì với cô ta nào?" "Anh cặp với cô ấy mà." "Vậy sao?" Hắn giữ gương mặt vô cảm. "Điều này quá kỳ lạ." Cô lắc đầu và đứng lên. "Tôi nghĩ tôi sẽ đi để xem Blaze đang làm gì." Marcus với tay vào trong túi lấy quả banh lửa. "Em biết anh đang đùa, đúng không?" Thật ra, hắn không đùa. Hắn nói điều đó với lý do tương tự hắn đã ném quả banh lửa vào cô. Để xem hắn có thể đẩy cô đi xa như thế nào. "Ồ, phải rồi. Tốt. Tôi vẫn đi đến đó để nói chuyện với cô ấy." Marcus quan sát cô hiên ngang bỏ đi. Hắn hết sức thán phục thân hình nhỏ bé tuyệt đẹp, hắn không chắc biết sẽ làm gì với cô. Cô ăn mặc không hoàn chỉnh, nhưng không giống Blaze, cô không hút thuốc hoặc tỏ ra bất kỳ thích thú nào với sự sa đọa, và hắn có cảm giác cô có nhiều thứ hơn là cô tỏ ra. Hắn băn khoăn không biết cô có coi trọng tiền bạc hay không. Chúng có ý nghĩa, đúng không? Căn hộ ở New York, ngôi nhà bên bờ biển? Gia đình cô phải có tiền mới có thể trang trải được những thứ như thế. Nhưng... mặt khác, cô không phù hợp vơi những người giàu có quanh đây, ít ra là những người hắn biết. Như vậy là sao? Và tại sao điều đó lại quan trọng? Bởi vì hắn không thích những kẻ giàu có, không thích cách họ khoe khoang về chúng, và không thích cách họ cho rằng họ tốt hơn những người khác. Một lần, trước khi hắn bỏ học, hắn nghe một đứa trẻ con nhà giàu ở trường kể về một chiếc thuyền mới nó được tặng nhân dịp sinh nhật. Đó không phải là một chiếc xuồng nhỏ tào lao; đấy là một du thuyền Boston Whaler dài hai mươi mốt feet với GPS (Global Positioning System - thiết bị định vị toàn cầu) và Sonar (Một thương hiệu nổi tiếng về hệ thống phát tín hiệu ngầm dưới nước dành cho tàu thuyền), và đứa trẻ tiếp tục khoác lác về việc nó sẽ sử dụng chúng suốt mùa hè ra sao và được neo đậu tại bến tàu của câu lạc bộ du thuyền như thế nào. Ba ngày sau đó, Marcus dìm chiếc du thuyền vào ngọn lửa và quan sát nó bị thiêu rụi từ phía sau khóm hoa mộc lan khi vừa mười sáu tuổi xuân. Hắn không kể cho ai về việc hắn đã làm, dĩ nhiên rồi. Kể với một người, và bạn sẽ phải đối mặt với cớm. Teddy và Lance là thí dụ điển hình: Đặt chúng vào trong một xà lim và chúng sẽ sụp đổ ngay khi cánh cửa rền rĩ đóng lại. Đó là lý do tại sao hắn khăng khăng bắt chúng phải làm tất cả nhưng công việc bẩn thỉu trong thời gian này. Cách tốt nhất để giữ chúng không bép xép là chắc chắn làm cho chúng mang mặc cảm tội lỗi nhiều hơn cả hắn. Những ngày này, chúng là những kẻ ăn trộm say xỉn, là kẻ hạ gục gã hói bất tỉnh tại sân bay trước khi lấy ví của lão ta, là kẻ đã sơn những hình chữ vạn ngược trên các giáo đường. Hắn không nhất thiết tin tưởng bọn chúng, thậm chí không giống chúng, nhưng chúng luôn đi cùng kế hoạch của hắn. Chúng đáp ứng cho mục đích. Phía sau hắn, Teddy và Lance tiếp tục hành động như những gã ngốc, và với Ronnie đã đi mất, Marcus bồn chồn không yên. Hắn không định ngồi đó suốt đêm, không làm gì hết. sau khi Blaze trở lại, sau khi hắn ăn khoai tây chiên, hắn tính toán để cả bọn đi lang thang đâu đó. Xem xét những gì xảy đến. Không bao giờ biết được điều gì có thể xảy ra trong một nơi như nơi này, trong một đêm như đêm nay, trong một đám đông như đám đông này. Có một điều chắc chắn: Sau một buổi trình diễn, hắn luôn cần thứ gì đó... nhiều hơn. Bất kể thứ đó có nghĩa là gì. Nhìn về gian hàng thực phẩm, hắn thấy Blaze đang trả tiền cho món khoai tây chiên, Ronnie ở ngay phía sau cô ấy. Hắn nhìn Ronnie chăm chú, một lần nữa ao ước cô nhìn về hướng của hắn, và cuối cùng, cô đã làm. Không nhiều, chỉ là một cái liếc trộm thật nhanh, nhưng điều đó khiến hắn tự hỏi lần nữa rằng cô sẽ thích làm gì trên giường. Chắc chắn là hoang dại, hắn nghĩ. Phần lớn bọn họ đều như thế, với chút ít khích lệ đúng. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 6 Will Bất luận đang làm gì, Will luôn cảm thấy gánh nặng của bí mật đè xuống anh. Bề ngoài, mọi thứ có vẻ bình thường: Trong sáu tháng gần đây, anh đã đến lớp học, chơi bóng rổ, tham dự buổi khiêu vũ và tốt nghiệp trung học, chuẩn bị vào đại học. Không phải tất cả đều hoàn hảo, dĩ nhiên. Cách đây sáu tuần, anh đã chia tay Ashley, nhưng không gì sánh được với điều đã xảy ra đêm đó, một đêm anh không thể nào quên. Phần lớn thời gian, anh có thể khóa chặt ký ức, nhưng thỉnh thoảng, vào lúc rảnh rang, nó quay trở lại với sức mạnh ngoài phạm vi lý trí. Những hình ảnh không bao giờ thay đổi hoặc phai nhạt đi, những hình ảnh không bao giờ mất đi nét sắc cạnh. Dù cho có nhìn qua đôi mắt của một người khác, anh vẫn thấy bản thân chạy lên bãi biển và túm chặt lấy Scott khi cậu ta nhìn chằm chằm vào ngọn lửa dữ dội. "Cậu đang làm cái quái gì vậy?" Anh nhớ đã thét lên như thế. "Đó không phải lỗi của tớ." Scott thét lại. Tuy nhiên, ngay sau đó, Will nhận ra họ không ở một mình. Trong một khoảng cách, anh thấy Marcus, Blaze, Teddy và Lance, đang quan sát họ, và ngay lập tức anh biết họ đã trông thấy mọi thứ xảy ra. Họ biết... Ngay khi Will chộp lấy điện thoại của anh, Scott cản anh lại. Đừng gọi cảnh sát! Tớ đã nói với cậu đó là một tai nạn! Vẻ mặt cậu ấy cầu xin. Đi nào, chàng trai! Cậu nợ tớ! Báo chí đã đưa tin phạm vi rộng trong đôi ngày đầu tiên, và khi Will xem những đoạn hình ảnh và bài viết trên báo, bao tử anh thắt lại. Đó là một thứ được che đậy như một đám cháy tình cờ. Lẽ ra anh có thể để mặc điều đó. Nhưng có người đã bị hại đêm hôm ấy, và anh cảm thấy mặc cảm tội lỗi trào dâng muốn phát bệnh mỗi khi anh lái xe qua địa điểm đó. Bất kể nhà thờ đã xây dựng lại hoặc vị mục sư đã rời khỏi bệnh viện từ lâu; điều quan trọng là anh biết những gì đã xảy ra và đã không làm điều gì hết. Cậu nợ tớ... Đó là những từ ngữ đã ám ảnh anh nhiều nhất. Không đơn giản vì anh và Scott là đôi bạn thân từ khi học mẫu giáo, nhưng vì một điều khác, một lý do quan trọng hơn nhiều. Và đôi khi, vào giữa đêm, anh nằm thao thức, căm ghét sự thật của những từ ngữ đó, và ao ước tìm ra cách để làm điều đúng. Thật kỳ lạ, rắc rối trong trận bóng chuyền lúc sớm trong ngày đã mở lại ký ức đó vào lúc này. Hay đúng hơn, đó là cô gái mà anh đã va phải. Cô ấy không hứng thú với lời xin lỗi của anh, và không giống những cô gái khác quanh đây, cô không cố che dấu sự giận dữ. Cô không giận sôi lên và không la lối; cô làm chủ bản thân theo cách gây ấn tượng với anh ngay lập tức về sự khác biệt. Sau khi cô bỏ đi, họ kết thúc trận đấu, và anh phải thừa nhận, anh đã bỏ lỡ đôi cú đánh mà bình thường anh sẽ không mắc phải. Scott nhìn trừng trừng vào anh, và - có lẽ vì sân đấu được chiếu sáng - cậu ấy mang vẻ mặt chính xác như cậu đã có vào đêm hỏa hoạn, khi Will lấy điện thoại ra và gọi cho cảnh sát. Và đó là tất cả những gì khiến cho ký ức tuôn trào trở lại. Anh có thể kềm nén cho đến khi họ chiến thắng trận đấu, nhưng sau khi nó kết thúc, anh cần đôi chút thời gian ở một mình. Vì thế anh đi vơ vẩn đến khu đất rộng và ngừng lại tại một trong những gian hàng trò chơi giá cao, không thể chiến thắng được đó. Anh đang sẵn sàng quăng trái banh bóng rổ căng phồng vào vòng tròn mảnh dẻ quá cao khi anh nghe một giọng nói phía sau anh. "Anh đây rồi." Ashley nói. "Anh đang né tránh bọn em sao?" Phải. Anh nghĩ. Thực ra anh đã như thế. "Không." Anh trả lời. "Anh đã không thử sức từ khi mùa học kết thúc, và anh muốn thấy anh đã sa sút như thế nào." Ashley cười. Chiếc áo ống màu trắng, sandal, và đôi bông tai đong đưa, phô diễn hiệu quả tối đa cho đôi mắt xanh và mái tóc vàng của cô. Cô đã thay đổi trang phục từ trận chung kết của giải thi đấu bóng chuyền. Hết sức điển hình, cô là cô gái duy nhất anh từng biết đã mang theo trang phục đồng bộ để thay đổi như một luật lệ chuẩn mực, ngay cả khi cô đi đến bãi biển. Trong buổi dạ vũ cuối tháng Năm vừa qua, cô đã thay đổi trang phục ba lần: Một bộ cho bữa tối, một bộ khác cho buổi khiêu vũ, và bộ thứ ba cho bữa tiệc tiếp sau đó. Cô thật sự mang theo cả một va li, và sau khi ghim chặt đóa hoa cài ngực của cô và làm điệu bộ để chụp hình, anh phải lôi nó vào xe. Mẹ cô không thấy có gì khác thường khi cô đóng gói như thể cô tham dự một kỳ nghỉ thay vì một buổi khiêu vũ. Nhưng có lẽ đó là một phần của vấn đề. Chỉ một lần Ashley cho anh nhìn thoáng qua tủ đồ của mẹ cô; bà phải có vài trăm đôi giày, và cả ngàn trang phục khác nhau. Tủ đồ của bà đủ chỗ cho một chiêc xe Buick.* (Một thương hiệu xe hơi tầm trung cấp của Mỹ với biểu tượng hình ba viên đạn, ở VN hiện nay hầu như không có loại xe này) "Đừng để em làm dừng anh. Em ghét thấy anh thua một dollar." Will ngoảnh mặt đi, và sau khi tập trung vào vòng tròn, anh đưa trái banh theo hình vòng cung thẳng đến rổ. Nó nảy ra khỏi vòng tròn và tấm ván, trước khi rơi xuống. Đó là cú đầu tiên. Cú thứ hai sẽ tốt hơn và anh sẽ thật sự thắng được một giải thưởng. Khi trái banh lăn tròn trở lại, người nhân viên lễ hội lén lút liếc nhìn Ashley. Ashley, trong lúc đó, thậm chí có vẻ không nhận biết về sự hiện diện của anh ta. Khi trái banh lăn xuống lưới và trở lại với Will, anh nhặt nó lên và nhìn người nhân viên. "Hôm nay có ai thắng không?" "Dĩ nhiên. Có nhiều người thắng mỗi ngày." Anh ta tiếp tục nhìn chằm chằm vào Ashley khi trả lời. Chẳng có điều gì đáng ngạc nhiên. Mọi người luôn chú ý đến Ashley. Cô ấy như một ngọn đèn neon rực rỡ thu hút bất kỳ ai có một chút testosterone (nội tiết tố sinh dục nam). Ashley bước lên phía trước, múa xoay tròn và dựa vào gian hàng. Cô cười với Will lần nữa. Ashley chưa bao giờ là một người tinh tế. Sau khi đạt được vương miện nữ hoàng trong lễ hội Homecoming* ở trường, cô đã đội vương miện tất cả các đêm. (*Homecoming là một hoạt động mang tính truyền thống của địa phương kết hợp với các trường học tại địa phương nhằm chào đón sự trở về của các cựu thành viên và tôn vinh thành tích của thành viên trong cộng đồng. Các hoạt động diễn ra thường là diễu hành, thi đấu, trò chơi, lửa trại... và kết thúc là một bữa tiệc công bố nữ hoàng và vua của năm đó và nữ hoàng và vua năm cũ phát biểu và trao vương miện cho người mới. Nữ hoàng và vua thường là học sinh cuối cấp, có nhiều thành tích và nhiều đóng góp và được mến chuộng và được nhiều phiếu bầu nhất. Lễ hội thường được tổ chức vào tháng 10 hàng năm) "Hôm nay anh chơi tốt." Cô nói. "Và cú giao bóng của anh còn tốt hơn nữa." "Cám ơn." Will trả lời. "Em nghĩ anh đã tốt gần bằng Scott." "Không cách nào." Anh nói. Scott đã chơi bóng chuyền từ khi lên sáu; Will đến với cuộc chơi chỉ sau năm đầu cấp ba. "Anh nhanh nhẹn và anh có thể nhảy, nhưng anh không thể chơi hoàn hảo như Scott được." "Em chỉ nói những gì em thấy." Tập trung vào vòng tròn, Will thở ra, cố thư giãn trước khi ném bóng. Huấn luyện viên của anh luôn nói những điều tương tự với anh khi ở vị trí biên ném bóng tự do, dù điều đó chưa từng cải thiện ưu thế của anh. Lần này, dù vậy, trái banh vun vút xuyên qua lưới. Hai trên hai. "Anh sẽ làm gì với con thú nhồi rơm nếu anh thắng?" Cô hỏi. "Anh không biết. Em có muốn nó không?" "Chỉ khi anh muốn em có nó thôi." Anh biết cô muốn anh đề nghị điều đó dù cô không muốn yêu cầu anh. Sau hai năm quen nhau, có thứ gì anh không biết về cô. Will chộp lấy trái banh, thở ra lần nữa, và ném cú kết thúc. Tuy vậy, lần này là một cú chạm quá mạnh, và trái banh nảy ra sau vòng tròn. "Cú đó gần được." người nhân viên nói. "Anh nên thử lần nữa." "Tôi biết khi nào nên rút lui." "Thế này nhé. Tôi sẽ bớt một dollar. Hai dollar cho ba cú ném bóng." "Khá đấy." "Hai dollar và tôi sẽ để cả hai người với ba cú ném bóng." Anh ta chộp lấy trái banh trao nó cho Ashley. "Tôi thích thấy cô thử một trái." Ashley nhìn chằm chằm vào trái banh, Thật rõ ràng là cô thậm chí chưa bao giờ tính tới một ý tưởng như thế. Điều cô chắc chắn không có. "Tôi không nghĩ thế." Will nói, "Nhưng cảm ơn về lời đề nghị." Anh quay về phía Ashley. "Em có nghĩ Scott vẫn còn quanh quẩn quanh đây không?" "Anh ấy đang ngồi cùng bàn với Cassie. Hay ít nhất cũng ở chỗ đó khi em đi tìm anh. Em nghĩ anh ấy thích bạn ấy." Will tiến về hướng đó, Ashley đi bên anh. "Bọn em đang nói chuyện," Ashley nói, nghe có vẻ khá hờ hững, "Scott và Cassie nghĩ sẽ rất vui khi đến chỗ của em. Cha mẹ em đã đến Raleigh để tham dự vài sự kiện xã hội cùng thống đốc, vì thế chúng ta sẽ có một nơi của riêng chúng ta." Will biết điều này sẽ đến. "Anh không nghĩ thế." Anh nói. "Tại sao không chứ? Nó không như những thứ lý thú đang xảy ra quanh đây đâu." "Anh chỉ không cho rằng đó là ý tưởng tốt." "Bởi vì chúng ta đã chia tay sao? Đâu có giống như em muốn chúng ta trở lại với nhau." Đó là lý do em đến cuộc thi đấu, anh nghĩ. Và chưng diện đẹp nhất đêm nay. Và đi tìm tôi. Và gợi ý đến nhà em vì cha mẹ em không ở nhà. Nhưng anh không nói những điều đó. Anh không có tâm trạng tranh cãi, cũng không muốn làm điều gì khó khăn hơn họ đã có. Cô không phải người xấu; cô chỉ không dành cho anh. "Anh phải làm việc sớm vào sáng mai, và anh đã trải qua suốt cả ngày chơi bóng chuyền ngoài trời nắng." Anh bày tỏ thay vì thế. "Anh chỉ muốn đi ngủ thôi." Cô túm chặt lấy cánh tay anh, kéo anh dừng lại. "Sao anh không nhận điện thoại của em nữa?" Anh không nói gì. Thật ra không có điều gì anh có thể nói. "Em muốn biết em đã làm gì sai," Cô gặng hỏi. "Em không làm sai điều gì hết." "Vậy đó là gì?" Khi anh không trả lời, cô trao cho anh một nụ cười nài xin. "Chỉ cần vượt qua và chúng ta sẽ nói về nó, được không?" Anh biết cô xứng đáng một câu trả lời. Rắc rối duy nhất, đó là câu trả lời mà cô không muốn nghe. "Như anh đã nói. Anh chỉ mệt thôi." "Cậu mệt." Scott la lớn. "Cậu nói với cô ấy là cậu mệt và cậu muốn đi ngủ sao?" "Đại khái thế." "Cậu mất trí à?" Scott nhìn chằm chằm vào anh từ phía bên kia bàn. Cassie và Ashley đã lên bến tàu để nói chuyện được một lúc lâu, không nghi ngờ gì là đang phân tích mọi thứ Will nói với Ashley, đang thêm thắt thái quá những kịch tính dẫn đến tình huống chắc chắn cần đến sự riêng tư. Dù vậy, với Ashley, luôn luôn đầy kịch tính. Anh đột ngột nhận ra rằng mùa hè sắp đến sẽ thật dài. "Tớ mệt." Anh nói. "Cậu không mệt sao?" "Có lẽ cậu đã không nghe những gì cô ấy gợi ý. Tớ và Cassie, Cậu và Ashley? Tại nhà của cha mẹ cô ấy bên bờ biển?" "Cô ấy đã đề cập đến điều đó." "Và chúng ta vẫn còn ở đây bởi vì...?" "Tớ đã nói với cậu rồi." Scott lắc đầu. "Không... Nhìn xem, đó là chỗ cậu làm hại tớ. Cậu dùng câu "Con mệt" lấy cớ với cha mẹ cậu khi họ muốn cậu rửa xe hơi, hoặc khi họ gọi cậu thức dậy để đến nhà thờ. Không phải khi nó là một cơ hội giống như thế này." Will không nói gì. Dù Scott chỉ nhỏ hơn anh một tuổi - Cậu sẽ là học sinh cuối cấp tại trường trung học Laney vào mùa thu này - Cậu thường hành động như thể cậu là người anh lớn hơn và khôn ngoan hơn của Will. Ngoại trừ đêm hôm ấy tại ngôi nguyện đường... "Thấy cái gã ở đàng kia tại gian hàng trò chơi ném bóng rổ không? Lúc này đây, tớ đã nhận ra hắn. Hắn đứng ở đó suốt ngày, cố mời ai đó chơi ném bóng, để hắn có thể kiếm được chút ít tiền và mua cho mình ít bia và thuốc lá vào cuối ca làm việc. Thật đơn giản. Không phức tạp. Không phải kiểu sống của tớ, nhưng là người tớ có thể hiểu được. Trừ cậu, tớ không thể nào nghĩ ra được. Tớ cho rằng... Cậu thấy Ashley đêm nay chứ? Cô ấy lộng lẫy. Cô ấy trông giống như các cô nàng trên tạp chí Maxim." (một tạp chí dành cho nam giới của Mỹ có nhiều chuyên mục về các kiều nữ nóng bỏng & gợi tình nhất." "Và?" "Quan điểm của tớ là, cô ấy nóng bỏng." "Tớ biết. Chúng tớ đã quen nhau hai năm, nhớ chứ?" "Và tớ đâu có nói cậu phải trở lại với cô ấy. Tất cả những gì tớ đề nghị là cả bốn chúng ta cùng đến nhà cô ấy, vui vẻ một chút, và xem xét những gì đã xảy ra." Scott dựa lưng vào ghế. "Và nhân thể, tớ không hiểu tại sao cậu lại chia tay với cô ấy trước. Rõ ràng là cô ấy vẫn còn quyến luyến cậu, và hai người luôn có vẻ hoàn hảo cho nhau." Will lắc đầu. "Bọn tớ không hoàn hảo cho nhau." "Cậu đã nói điều đó trước đây, nhưng như vậy có nghĩa là gì? Cô ấy giống như... kẻ tâm thần hay thứ gì đó khi các cậu ở riêng à? Điều gì đã xảy ra? Cậu phát hiện ra cô ấy chặn cậu lại với một con dao mổ thịt, hay cô ấy hú lên vào đêm trăng tròn khi bọn cậu dạo chơi trên bãi biển sao?" "Không. Không điều gì giống như thế hết. Chỉ là chẳng đi đến đâu, vậy thôi." "Chỉ là chẳng đến đâu." Scott nhại lại. "Cậu có nghe thấy bản thân cậu nói không vậy?" Khi Will không tỏ ra dấu hiệu gì động lòng. Scott chồm qua bàn. "Nào, chàng trai. Hãy làm việc này vì tớ. Sống một chút. Đây là kỳ nghỉ hè. Một người vì cả nhóm." "Bây giờ, cậu nghe có vẻ tuyệt vọng." "Tớ tuyệt vọng. Trừ phi cậu đồng ý đi với Ashley đêm nay, nếu không thì Cassie sẽ không đi với tớ. Và chúng ta đang nói đến một cô gái sẵn sàng để 'Romance the Stone' (Chuyện tình của đá). Cô ấy muốn thành 'Free Willy.'" (Giải cứu Willy) (* Romance the stone: tên một bộ film phiêu lưu mạo hiểm, tình cảm lãng mạn của Mỹ trình chiếu năm 1984. Film đoạt giải Oscar về biên tập film hay nhất, giải Quả cầu vàng cho film điện ảnh xuất sắc nhất.) (*Free Willy: Tên một bộ film thiếu nhi trình chiếu năm 1993, kể về tình bạn của một chú bé 13t cô đơn và chú cá heo hoang dã mắc nạn được cậu bé đặt tên là Willy.) (* Chú thích: Đây có lẽ chỉ là cách nói lóng của thiếu niên.) "Tớ rất tiếc. Nhưng tớ không thể giúp cậu." "Tốt. Hủy hoại đời tớ đi. Ai thèm quan tâm nào, đúng không?" "Cậu sẽ sống sót thôi." Anh ngừng lại. "Cậu có đói không?" "Một chút." Scott làu bàu. "Đi nào. Chúng ta hãy đi kiếm một vài cái Cheeseburgers thôi." Will đã đứng lên khỏi bàn, nhưng Scott vẫn tiếp tục trề môi. "Cậu cần thực hành cú thọc sâu." Cậu nói, ám chỉ đến trận đấu bóng chuyền lúc sớm. "Cậu để banh đi mọi hướng. Đó là tất cả những gì tớ có thể làm để giữ chúng ta trong trận đấu." "Ashley bảo tớ là tớ chơi tốt tương đương cậu." Scott khịt mũi và đẩy người khỏi bàn. "Cô ấy chẳng biết gì về những điều cô ấy nói đâu." Sau khi xếp hàng chờ mua thức ăn, Will và Scott đi đến chỗ để đồ gia vị, nơi Scott làm ướt sũng chiếc burger của cậu với tương cà chua, nó trào ra bên cạnh khi Scott úp chiếc bánh trở lại. "Ghê quá." Will nhận xét. "Thế này nhé. Có một anh chàng tên Ray Kroc và anh ta bắt đầu công ty được gọi là McDonald's. Đã từng nghe điều đó chưa? Bất luận thế nào, trên chiếc hamburger nguyên thủy của ông ta - trong nhiều cách thức về hamburger nguyên thủy của người Mỹ, xin nhớ kỹ cho - ông ta nhấn mạnh rằng, tương cà phải được thêm vào. Điều đó cho cậu thấy nó quan trọng như thế nào để có toàn bộ hương vị." "Giữ nó cho cậu đi. Cậu chỉ mê hoặc như thế thôi. Tớ sẽ đi kiếm thứ gì đó để uống." "Lấy cho tớ chai nước, được không?" Khi Will đi khỏi, thứ gì đó màu trắng lóe lên sau anh, thẳng đến hướng của Scott; Scott cũng thấy, và theo bản năng, cậu lao khỏi chỗ, làm rớt chiếc bánh cheeseburger trong tiến trình đó "Mày nghĩ mày đang làm cái quái gì vậy hả?" Scott hỏi, xoay quanh. Nằm trên mặt đất là một túi lớn của gói khoai tây chiên. Đàng sau cậu, Teddy là Lance nhét tay vào túi quần. Marcus đang đứng giữa chúng, cố gắng và thất bại trong việc tỏ ra vô tội. "Tao không biết mày đang nói về cái gì," Marcus trả lời. "Cái này!" Scott gầm gừ, đá cái hộp trở lại cho bọn chúng. Đó là gói đá, Will nghĩ trễ hơn, mọi người quanh họ đã nhận ra điều đó. Will cảm thấy tóc trên cổ anh nổi gai vì sự hỗn loạn của bầu không khí có thể cảm thấy được, gần như lý tính, một sự rùng mình hứa hẹn bạo lực. Bạo lực rõ ràng là thứ Marcus muốn... Như thể hắn đang nhử bọn họ. Will thấy một người cha xốc con trai lên và bỏ đi, trong lúc Ashley và Cassie trở lại từ bến tàu, đông cứng ở phạm vi bên ngoài. Gần đó, Will nhận ra Galadriel - trong thời gian này, cô ta tự gọi mình là Blaze - trong phạm vi gần hơn. Scott nhìn chằm chằm vào bọn chúng, hàm cậu siết chặt. "Mày biết không, tao đã phát ốm và mệt mỏi với những chuyện hôi thối của bọn mày rồi." "Mày làm gì được nào?" Marcus cười tự mãn. "Ném một cái pháo hoa chai vào tao à?" Đó là tất cả những gì cần làm. Khi Scott đột ngột tiến về phía trước, Will điên cuồng xô đẩy bản thân xuyên qua đám đông, cố gắng đến với bạn anh kịp lúc. Marcus không di chuyển. Không tốt chút nào. Will biết anh và bạn anh có khả năng về điều gì... và tệ hơn tất cả, họ biết điều Scott đã làm... Nhưng Scott, trong cơn giận, không có vẻ quan tâm đến. Khi Will cuốn tới, Teddy và Lance tản ra, vây Scott vào chính giữa. Anh cố thu hẹp khoảng trống, nhưng Scott di chuyển quá nhanh, và đột nhiên mọi thứ có vẻ xảy ra cùng lúc, Marcus lui lại nửa bước khi Teddy đá tung một chiếc ghế, ép Scott nhảy khỏi lối đi. Cậu đâm sầm vào chiếc bàn, làm đổ nó. Scott lấy lại thăng bằng và cuộn bàn tay cậu thành nắm đấm. Lance áp sát từ cạnh bên. Khi Will nỗ lực lao thẳng tới, gia tăng động năng, anh mơ hồ nghe thấy một âm thanh gào khóc của một đứa bé. Tách khỏi đám đông, anh xoay hướng về phía Lance cùng lúc một cô gái bước thẳng vào cuộc xung đột. "Ngừng ngay!" Cô gái quát to, vung cánh tay của cô lên. "Thôi ngay! Tất cả các anh!" Giọng cô vang vang và đầy vẻ uy quyền đáng kinh ngạc, đủ để khiến Will ngừng đường đua của anh lại. Tất cả mọi người khác đông cứng, và trong sự im lặng đột ngột, tiếng khóc của đứa trẻ vang lên chói tai. Cô gái quay quanh, nhìn trừng trừng vào từng người trong cuộc xung đột, và ngay khi Will thấy dải màu tím trên mái tóc cô, anh nhận ra chính xác nơi anh đã gặp cô trước đó. Chỉ là bây giờ cô đang mặc một chiếc áo thun ngoại cỡ in hình một con cá phía trước. "Cuộc chiến chấm dứt. Không có cuộc chiến nào nữa! Các anh không thấy đứa trẻ này đã bị tổn thương sao?" Thách thức họ phủ nhận, cô lao đến giữa Scott và Marcus, cúi xuống đứa bé đang khóc vì bị hất ngã trong cuộc náo động. Chú bé khoảng ba hoặc bốn tuổi, và chiếc áo bé mặc có màu cam của trái bí ngô. Khi cô gái dỗ dành cậu bé, giọng cô dịu dàng, nụ cười của cô làm yên lòng. "Em có sao không, bé cưng? Mẹ em đâu rồi? Chúng ta đi tìm bà ấy nhé, chịu không?" Ngay tức khắc, cậu bé có vẻ tập trung vào chiếc áo của cô. "Đây là Nemo," Cô nói. "Bạn ấy cũng đi lạc. Em có thích Nemo không?" Gần đó một người phụ nữ hớt hải đang ôm một em bé lao xuyên qua đám đông đang đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng. "Jason? Con ở đâu? Có ai thấy con trai nhỏ của tôi không? Tóc vàng, áo cam?" Vẻ nhẹ nhõm lộ rõ trên mặt bà, ngay khi bà phát hiện ra con trai. Bà chỉnh lại em bé bên hông và lao đến bên cạnh cậu bé. "Con không thể cứ chạy mất như thế, Jason!" Bà la lên. "Con làm mẹ sợ quá chừng. Con có sao không?" "Nemo." Cậu bé nói, chỉ vào cô gái. Người mẹ quay lại, lần đầu nhận ra cô gái. "Cám ơn cô - Nó đi vơ vẩn khi tôi bận thay tã cho em bé và..." "Ổn mà." Cô gái nói, lắc đầu. "Cậu bé rất tuyệt." Will nhìn người mẹ dẫn đứa bé đi khỏi, sau đó anh quay lại với cô gái, nhận ra cách dịu dàng cô cười với đứa trẻ đi chập chững. Tuy vậy, ngay khi họ di chuyển đủ xa, dường như cô đột ngột nhận ra mọi người trong đám đông đang nhìn chằm chằm vào cô. Cô khoanh tay lại, ngượng ngập, khi đám đông bắt đầu nhanh chóng tách ra cho việc tiến vào của cảnh sát. Marcus nhanh chóng lầm bầm điều gì đó với Scott trước khi lẩn vào đám đông. Teddy và Lance cũng làm tương tự. Blaze cũng quay người đi theo họ, và ngạc nhiên cho Will, cô gái với dải tóc tím vươn tay chụp lấy cánh tay cô ấy. "Đợi đã! Bạn đi đâu vậy?" Cô gọi theo. Blaze lắc cánh tay tự do, bước lùi. "Bower's Point." "Nó ở đâu?" "Phía bãi biển. Bạn sẽ tìm thấy nó." Blaze quay người và đuổi theo sau Marcus. Cô gái dường như không chắc chắn nên làm gì. Lúc này, bầu không khí căng thẳng, quá dầy đặc chỉ giây lát trước đó, đã tiêu tan nhanh như khi chúng xuất hiện. Scott chỉnh đốn lại chiếc bàn và đi về phía Will, cũng như cô gái được tiến đến bởi một người đàn ông anh đoán là cha cô. "Con đây rồi!" Ông gọi, mang một vẻ trộn lẫn giữa nhẹ nhõm và bực tức. "Chúng ta đang tìm con. Con sẵn sàng đi chưa?" Cô gái, đang nhìn Blaze, rõ ràng không vui khi gặp ông. "Không." Cô đáp cộc lốc. Với điều đó, cô sải bước vào đám đông, hướng về bãi biển. Một cậu nhỏ đi cùng người cha. "Con đoán chị ấy không đói." Cậu nhỏ tỏ ý. Người đàn ông đặt tay trên vai cậu bé, nhìn theo khi cô đi xuống những bậc thang hướng về bãi biển mà không một lần nhìn lại phía sau. "Cha đoán là không." Ông nói. "Cậu có tin được không?" Scott giận dữ, kéo Will ra khỏi cảnh tượng mà anh đang quan sát chăm chú. Scott vẫn còn kích động, adrenaline dâng trào. "Tớ đã định giã cho cái gã dị hợm ấy một trận." "Uh... Phải." Will đáp. Anh lắc đầu. "Tớ không chắc Teddy và Lance sẽ để yên cho cậu làm." "Bọn chúng sẽ không làm gì đâu. Những gã đó chỉ để trình diễn." Will không chắc về điều đó như thế, nhưng anh không nói gì. Scott hít vào một hơi thở sâu. "Giữ vững đấy. Cớm ở đây." Người cảnh sát tiến về phía họ một cách chậm rãi, rõ ràng đang cố đánh giá tình thế. "Điều gì xảy ra ở đây?" Ông ta yêu cầu. "Không gì hết. Thưa chỉ huy." Scott trả lời, nghe có vẻ nghiêm trang. "Tôi nghe nói có một cuộc chiến." "Không, thưa ngài." Viên cảnh sát đợi một lúc, biểu hiện của ông ngờ vực. Cả Scott và Will đều không nói gì. Lúc này, khu vực đồ gia vị chật ních người ta với những công việc của họ. Viên cảnh sát quan sát quang cảnh, để chắc chắn rằng ông không bỏ lỡ bất kỳ điều gì, rồi đột ngột gương mặt ông sáng lên khi nhận ra ai đang đứng phía sau Will. "Là anh à, Steve?" Ông gọi Will quan sát ông sải bước hướng về phía cha cô gái. Ashley và Cassie rụt rè tiến đến với họ. Gương mặt của Cassie ửng đỏ. "Các anh có ổn không?" Cô run rẩy. "Anh không sao." Scott trả lời. "Những gã đó điên khùng. Điều gì đã xảy ra? Em không thấy nó bắt đầu như thế nào." "Hắn ném thứ gì đó vào anh, và anh không bị kích động vì điều đó. Anh đã phát ngán và mệt mỏi với cách những gã đó hành động. Hắn cho rằng mọi người phải e sợ hắn, và rằng hắn có thể làm bất cứ thứ gì hắn muốn, nhưng lần kế tiếp hắn muốn làm gì đó, nó sẽ không khá..." Will gọi cậu. Scott luôn là một kẻ ba hoa vĩ đại; Cậu ta đã làm những điều tương tự trong suốt giải đấu bóng chuyền của họ, và Will đã học cách lờ đi từ lâu rồi. Anh quay đi, bắt lấy cảnh tượng viên cảnh sát đang nói chuyện với cha của cô gái, băn khoăn không hiểu tại sao cô lại dốc sức chạy khỏi cha mình như vậy. Và tại sao cô lại lãng phí thời gian với Marcus. Cô không giống họ, và không hiểu sao, anh nghi ngờ cô biết được những gì cô sẽ vướng phải khi đi cùng họ. Khi Scott tiếp tục, để cam đoan với Cassie rằng cậu ta có thể dễ dàng đối phó với cả ba kẻ đó, Will nhận ra mình đang cố gắng nghe lén cuộc trò chuyện của viên cảnh sát và cha cô gái. "Oh, chào, Pete." Người cha nói. "Điều gì diễn ra vậy?" "Những thứ cũ rích tương tự," Viên cảnh sát đáp. "Làm điều tốt nhất của tôi để giữ mọi thứ ở đây dưới tầm kiểm soát. Chiếc cửa sổ tiến hành thế nào rồi?" "Chậm." "Đó là điều anh nói lần trước khi tôi hỏi." "Phải. Nhưng bây giờ tôi có một vũ khí bí mật. Đây là con trai tôi, Jonah. Cậu bé sẽ là trợ lý của tôi trong mùa hè này." "Vậy sao? Thật tốt quá, chàng trai nhỏ... Con gái anh có định đến đây không, Steve?" "Nó đã ở đây." Người cha nói. "Phải, nhưng chị ấy lại đi rồi." Cậu nhóc thêm vào. "Chị ấy khá nổi điên với cha." "Rất tiếc đã nghe điều đó." Will nhìn người cha chỉ về hướng bãi biển. "Anh có ý tưởng nào về nơi chúng có thể đến không?" Viên cảnh sát liếc nhìn khi ông đảo mắt qua mép nước. "Có thể bất kỳ chỗ nào. Nhưng đôi đứa trong đám đó là kẻ xấu. Đặc biệt là Marcus. Tin tôi đi, anh không muốn cô bé bầu bạn với hắn ta đâu." Scott vẫn đang khoác lác để Cassie và Ashley chú ý. Để ngăn cậu lại, Will thình lình cảm thấy thôi thúc gọi viên cảnh sát. Anh biết đó không phải là chỗ để anh nói ra điều gì. Anh không biết cô gái, không biết tại sao cô lại lao đầu vào nơi đó. Có lẽ cô có lý do tốt đẹp. Nhưng khi anh thấy những nếp nhăn âu lo trên mặt cha cô, anh nhớ lại sự kiên nhẫn và ân cần của cô khi cô giải cứu đứa nhỏ, và từ ngữ vọt ra trước khi anh có thể dừng chúng lại. "Cô ấy đi đến Bower's Point." Anh thông báo. Scott ngừng giữa câu nói, và Ashley quay người nhìn anh với một cái nhướng mày. Cả ba người họ nghiên cứu anh với vẻ thiếu chắc chắn. "Con gái của bác, đúng không?" Khi người cha gật đầu nhẹ, anh tiếp tục. "Cô ấy đi đến Bower's Point." Viên cảnh sát tiếp tục nhìn anh chằm chằm, sau đó quay lại với người cha. "Khi tôi xong việc ở đây, tôi sẽ kiếm cô bé và thử thuyết phục cô bé về nhà, okay?" "Anh không phải làm việc ấy đâu, Pete." Viên cảnh sát tiếp tục nghiên cứu đám đông từ xa. "Tôi nghĩ, trong trường hợp này, sẽ tốt hơn nếu tôi đi." Không thể giải thích, Will cảm thấy một làn sóng kỳ lạ của sự khuây khỏa. Nó hẳn phải lộ rõ, vì khi anh quay lại với những người bạn, tất cả đều nhìn vào anh chằm chằm. "Tất cả những thứ đó là về cái quái quỷ gì vậy?" Scott gặng hỏi. Will không trả lời. Anh không thể, bởi vì anh không thật sự hiểu được chính bản thân mình. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 7 Ronnie. Dưới hoàn cảnh bình thường, Ronnie chắc chắn hiểu rõ giá trị của một buổi tối như đêm nay. Ở New York, ánh đèn của thành phố khiến cô không thể thấy được những ngôi sao, nhưng ở đây thì ngược lại. Thậm chí với hàng hàng lớp lớp sương mù của vùng duyên hải, cô có thể dễ dàng nhận ra giải ngân hà Milky Way, và thẳng về phía nam, sao Venus* bừng sáng rực rỡ. Những con sóng xô bờ và cuộn xoáy nhịp nhàng dọc theo bờ biển, và trên đường chân trời, cô có thể thấy ánh sáng yếu ớt của nửa tá tàu bắt tôm. (* Venus star là sao Kim trong thái dương hệ, thường thấy rõ bằng mắt thường trên bầu trời vào lúc chập tối và sáng sớm nên còn được gọi là sao Hôm hay sao Mai, trước đây vài thế kỷ người ta vẫn nghĩ đây là hai ngôi sao khác nhau, nhưng ngày nay người ta biết đó là sao Kim, và nó sáng hay tối là do sự dịch chuyển của nó quanh mặt trời theo quỹ đạo khác trái đất.) Nhưng hoàn cảnh không bình thường. Khi cô đứng trên hiên trước, nhìn chằm chằm vào viên cảnh sát, cáu tiết hơn bao giờ hết. Không, thay đổi điều đó. Cô không chỉ cáu tiết. Cô đang giận sôi sùng sục. Những gì xảy ra là quá sức... là bảo vệ quá mức cần thiết, là quá mức chịu đựng của cô, tuy vậy cô vẫn có thể xử lý nó một chút. Ý nghĩ đầu tiên của cô đơn giản là đi nhờ xe đến trạm xe bus và mua cho mình một vé về New York. Cô sẽ không nói với cha hay mẹ cô; cô sẽ gọi cho Kayla. Ngay khi cô ở đó, cô sẽ nghĩ ra nên làm gì kế tiếp. Bất luận điều cô quyết định là gì, nó không thể tệ hại hơn điều này được. Nhưng điều đó là không thể. Không, khi cảnh sát Pete ở đây. Lúc này ông đang đứng sau lưng cô, để chắc chắn là cô vào nhà. Cô vẫn không thể tin điều đó. Làm sao cha cô - người cha máu thịt của chính cô - có thể làm những thứ như thế này chứ? Cô đã gần như là một người trưởng thành, cô không làm điều gì sai, và thậm chí còn chưa đến nửa đêm. Vấn đề là gì? Tại sao ông khiến cho điều này trở thành thứ vượt xa hơn cả sự kinh khủng? Oh chắc chắn rồi, vào lúc đầu, cảnh sát Pete khiến mọi thứ nghe có vẻ bình thường, lệnh giải tán không có gì đặc biệt ở Bowser's Point, điều không làm những người khác ngạc nhiên - nhưng rồi ông quay sang cô, đặc biệt nhắm vào cô. "Ta sẽ đưa cháu về nhà," Ông nói, nghe có vẻ như cô chỉ mới lên tám tuổi. "Không. Cám ơn." Cô đáp. "Vậy ta sẽ bắt cháu vì tội lang thang, và yêu cầu cha cháu đưa cháu về nhà." Nó hé lộ cho cô thấy rằng cha cô đã yêu cầu viên cảnh sát đem cô về nhà, và trong một lúc, cô đông cứng trong sự sỉ nhục. Chắc chắn cô đã có những rắc rối với mẹ cô, và phải, thỉnh thoảng cô thổi bay lệnh cấm túc. Nhưng chưa bao giờ, không bao giờ, thậm chí chưa một lần nào, mẹ cô gởi cảnh sát theo sau cô. Trên hiên trước, viên cảnh sát cắt ngang suy nghĩ của cô, "Vào nhà đi." Ông nhắc nhở, khá rõ ràng là nếu cô không mở cửa thì ông sẽ làm. Từ bên trong, cô có thể nghe được âm thanh du dương của tiếng đàn dương cầm, và cô nhận ra bản Sonata được viết bởi Edvard Grieg* trong cung Mi thứ. Cô hít một hơi thở sâu trước khi mở cửa, rồi rập mạnh nó đóng sầm lại phía sau cô. (*Edvard Grieg 1843-1907, một nhà sáng tác và biểu diễn dương cầm xuất sắc người Na-Uy, nhạc của ông mang đậm tính dân tộc và sắc thái của dân ca Na-Uy.) Cha cô ngừng chơi và ngước nhìn lên, khi cô trừng mắt nhìn ông. "Cha gởi cảnh sát theo dõi con sao?" Cha cô không nói gì, nhưng sự im lặng của ông cũng đủ. "Tại sao cha lại làm một điều như thế?" Cô hỏi gặng. "Bằng cách nào cha có thể làm điều như thế?" Ông không nói gì. "Sao nào? Cha không muốn con vui chơi chứ gì? Cha không tin tưởng con? Cha không nhận ra rằng con không muốn ở đây à?" Cha cô xếp tay vào trong vạt áo. "Cha biết con không muốn ở đây..." Cô bước lên một bước, vẫn còn trừng mắt. "Vậy nên cha cũng quyết định rằng cha muốn hủy hoại cuộc sống của con?" "Marcus là ai vậy?" "Ai thèm quan tâm chứ!" Cô quát. "Đó không phải điểm chính! Cha không phải là người răn bảo mọi người độc thân con từng nói chuyện, vì vậy đừng cố thử." "Cha không cố thử..." "Con ghét ở đây! Cha có biết điều đó không hả? Con cũng ghét cha nữa!" Cô nhìn ông chằm chằm, vẻ mặt cô thách thức ông phủ nhận. Hy vọng ông thử làm, để cô có thể nói điều đó lần nữa. Nhưng cha cô không nói gì, như thường lệ. Cô căm ghét thói nhu nhược đó. Trong cơn giận, cô bước ngang qua phòng, tiến đến hốc thụt của phòng khách, chộp lấy bức ảnh cô đang chơi Piano - bức ảnh có cha cô ngồi bên cạnh cô trên chiếc ghế dài - và ném mạnh ngang qua phòng, dù ông nao núng trước âm thanh đổ vỡ của khung kiếng, ông vẫn im lặng. "Sao nào. Không có gì để nói hết sao?" Ông tằng hắng. "Phòng ngủ của con là cánh cửa đầu tiên phía bên phải." Cô thậm chí không muốn đề cao ý kiến của ông bằng một lời đáp lại, vì vậy cô lao xuống hành lang, quyết định không làm gì thêm với ông nữa. "Chúc ngủ ngon, con yêu." Ông nói với theo, "Cha yêu con." Có một thoáng, chỉ một thoáng, cô co rúm lại với những gì cô đã nói với ông; nhưng nỗi ân hận tan biến nhanh chóng như khi nó đến. Như thể thậm chí ông còn không nhận ra cô đã giận dữ; cô nghe thấy ông bắt đầu chơi đàn tiếp, chính xác chỗ ông đã ngừng lại. Trong phòng ngủ - không khó để tìm thấy, vì chỉ có ba cánh cửa mở ra hành lang, một là phòng vệ sinh và một cái khác cho phòng cha cô - Ronnie bật đèn. Với một tiếng thở dài thất vọng, cô cởi chiếc áo Nemo lố bịch mà cô đã gần như quên là mình đang mặc. Đó là ngày tệ nhất trong đời cô. Oh. Cô biết là cô đã hơi cường điệu về mọi thứ. Cô không ngốc. Tuy vậy, đó không phải là một ngày tuyệt hảo. Điều hay ho duy nhất xuất hiện trong cả ngày hôm nay là việc gặp gỡ Blaze, đã trao cho cô hy vọng rằng, ít ra cô có một người để cùng trải qua mùa hè này. Dĩ nhiên, giả sử rằng Blaze vẫn muốn trải qua thời gian cùng cô. Sau màn biểu diễn nhỏ của cha cô, ngay cả điều đó cũng chẳng còn chắc chắn nữa. Blaze và những người còn lại hẳn vẫn đang nói về nó. Chắc chắn đang cười nhạo. Đó là thứ mà Kayla sẽ mang theo trong nhiều năm. Toàn bộ mọi thứ khiến dạ dày cô nhộn nhạo. Cô quăng chiếc áo Nemo vào góc phòng - nếu cô thấy nó lần nữa, sẽ là quá sớm - và bắt đầu cởi chiếc áo hòa nhạc của cô ra. "Trước khi em trở nên kinh tởm, chị nên biết là em đang ở đây." Ronnie nhảy dựng lên với âm thanh đó, xoay người để thấy Jonah đang nhìn cô chằm chằm. "Ra ngoài." Cô thét lên. "Em đang làm gì ở đây? Đây là phòng của chị." "Không, nó là phòng của chúng ta." Jonah nói. Cậu bé chỉ ra. "Nhìn xem. Có hai giường." "Chị sẽ không chia sẻ phòng với em!" Cậu bé nghiêng đầu sang một bên, "Chị sẽ ngủ trong phòng của cha sao?" Cô mở miệng định trả lời, tính đến việc đi ra phòng sinh hoạt chung trước khi nhanh chóng nhận ra rằng cô sẽ không ra đó lần nữa, nên cô ngậm miệng lại mà không nói lời nào. Cô huỳnh huỵch lấy vali, kéo khóa, và mở nắp. Quyển Anna Karenina nằm trên đỉnh, và cô ném nó sang một bên, tìm kiếm bộ pajamas của cô. "Em đã cưỡi đu quay." Jonah nói. "Nó khá tuyệt vì rất cao. Đó là cách cha tìm thấy chị." "Tuyệt." "Nó thật tuyệt vời. Chị có cưỡi không?" "Không." "Chị nên cưỡi. Chị có thể nhìn thấy đường đến New York." "Chị nghi ngờ điều đó." "Em có thể đấy. Em đã trông thấy khá xa. Với mắt kiếng của em, ý em là vậy. Cha nói em có đôi mắt diều hâu." "Phải, đúng y chang." Jonah không nói nữa, thay vì thế, cậu bé vươn tới con gấu Teddy mà cậu mang theo từ nhà cùng với cậu. Nó là thứ cậu bé bám chặt bất cứ khi nào cảm thấy bất an, và Ronnie nhăn mặt, ân hận về những từ ngữ của cô. Đôi khi cách cậu bé nói chuyện khiến cô dễ dàng nghĩ cậu bé là một người lớn, nhưng khi cậu bé ôm chặt con gấu vào ngực, cô biết cô không nên nghiệt ngã như thế. Dù cậu bé phát triển sớm, dù cậu có những lời lẽ xác đáng quấy rầy mọi lúc, cậu nhỏ bé so với tuổi, với kích thước của đứa trẻ sáu hay bảy tuổi hơn là mười tuổi. Điều đó chưa bao giờ dễ dàng cho cậu. Cậu sanh sớm ba tháng, và cậu bé phải chịu chứng hen suyễn, thị lực kém, và thiếu sự phối hợp vận động. Cô biết những đứa trẻ tầm tuổi cậu có thể độc ác như thế nào. "Chị không có ý đó. Với cặp mắt kiếng của em, chắc chắn em có đôi mắt diều hâu rồi." "Vâng, lúc này chúng khá tốt." Cậu thì thào, nhưng khi cậu bé quay đi và đối diện bức tường, cô nhăn mặt lần nữa. Cậu bé là một đứa trẻ ngọt ngào. Thỉnh thoảng đau đớn khi bị trở thành trò cười, nhưng cô biết, cậu bé không có một cái xương kém cỏi nào trong người. Cô đến bên giường của cậu và ngồi xuống bên cạnh cậu bé. "Này." Cô nói. "Chị xin lỗi. Chị không có ý đó. Chỉ là chị có một đêm tệ hại thôi." "Em biết." Cậu bé nói. "Thế em có cưỡi vòng nào nữa không?" "Cha đưa em đi phần lớn các vòng. Cha gần như phát ốm, còn em thì không. Và em không sợ chút nào trong ngôi nhà ma ám. Em có thể nói những hồn ma là giả mạo." Cô vỗ nhẹ vào hông cậu bé. "Em luôn khá gan dạ mà." "Phải." Cậu bé nói. "Giống lần mất điện trong căn hộ ấy? chị đã sợ hãi đêm đó, nhưng em không sợ." "Chị nhớ." Cậu có vẻ hài lòng với câu trả lời của cô. Nhưng sau đó cậu im lặng, và khi cậu nói trở lại, giọng cậu còn hơn cả lời thì thầm. "Chị có nhớ mẹ không?" Ronnie vươn tay lấy tấm đắp. "Có." "Em cũng hơi nhớ bà ấy. Và em không muốn ở đây một mình." "Cha ở ngay phòng kế bên đây thôi mà." "Em biết. Nhưng bất luận thế nào, em thấy vui khi chị về nhà." "Chị cũng vậy." Cậu bé cười trước khi tỏ vẻ lo lắng lần nữa. "Chị nghĩ mẹ sẽ ổn chứ?" "Mẹ ổn mà." Cô cam đoan với cậu bé. Cô kéo tấm đắp cho cậu. "Nhưng chị biết mẹ cũng nhớ em." Trong buổi sáng, với tia nắng len lén xuyên qua bức màn, Ronnie mất một vài giây để nhận ra nơi cô đang ở. Chớp mắt vào chiếc đồng hồ, cô nghĩ, thứ này đang đùa với cô sao. Tám giờ ư? Vào buổi sáng? Trong mùa hè? Cô thả rơi người trở xuống, chỉ để thấy bản thân đang nhìn chằm chằm lên trần nhà, biết rằng giấc ngủ đã vượt xa khỏi câu hỏi. Không phải với ánh nắng đang đâm những đoản kiếm xuyên qua tấm rèm. Không phải với cha cô đang gõ liên tục trên phím dương cầm trong phòng sinh hoạt chung. Khi cô đột ngột nhớ ra những gì đã xảy đến đêm qua, cơn giận cô cảm thấy với những gì cha cô đã làm xuất hiện trở lại. Chào mừng một ngày mới trên thiên đường. Bên ngoài cửa sổ, cô nghe thấy tiếng rì rầm xa xa của động cơ. Cô nhổm dậy khỏi giường và kéo tấm rèm sang một bên, chỉ để nhảy trở lại, giật mình với cảnh tượng một con gấu trúc Bắc Mỹ đang ngồi trên đỉnh để xé những túi rác. Trong khi đám rác bừa bộn nặng mùi, con gấu trúc lại rất đáng yêu, và cô gõ nhẹ vào tấm kính, cố làm nó chú ý. Ngay lúc đó, cô nhận ra những chấn song trên cửa sổ. Những. Chấn. Song. Trên. Cửa. Sổ. Dính bẫy rồi. Nghiến chặt răng, cô quay người và sầm sập đi vào phòng sinh hoạt chung. Jonah đang xem phim hoạt hình và đang ăn một tô ngũ cốc; cha cô ngước nhìn lên, nhưng vẫn tiếp tục chơi đàn. Cô chống tay lên hông, đợi ông ngừng lại. Ông không ngừng. Cô nhận ra bức hình cô ném đi đã được đặt trở lại trên nắp đàn dương cầm, dù không có lớp kính. "Cha không thể giữ con bị khóa trong phòng tất cả mùa hè," Cô nói. "Điều đó sẽ không xảy ra đâu." Cha cô nhìn lên, dù vẫn tiếp tục chơi. "Con đang nói về điều gì vậy?" "Cha đặt những chấn song trên cửa sổ! Cứ như con là tù nhân của cha ấy!" Jonah tiếp tục xem phim hoạt hình. "Con đã nói với cha rằng chị ấy bị khùng." Cậu bé bình luận. Steve lắc đầu, tay ông tiếp tục lướt trên phím đàn. "Cha không lắp đặt chúng. Chúng đi cùng với căn nhà." "Con không tin." "Họ đã làm thế." Jonah nói, "Để bảo vệ những món đồ nghệ thuật." "Chị không nói chuyện với em, Jonah!" Cô quay lại cha cô. "Chúng ta hãy làm rõ một thứ nhé. Cha sẽ không đối xử với con trong suốt mùa hè này giống như con vẫn còn là một cô bé! Con đã mười tám tuổi rồi." "Chị chưa đủ mười tám cho đến ngày hai mươi tháng tám." Jonah nói phía sau cô. "Em làm ơn ở ngoài chuyện này." Cô quay người đối diện với cậu bé. "Đây là việc giữa chị và cha." Jonah nhướng mày. "Nhưng chị vẫn chưa được mười tám tuổi mà." "Điều đó không quan trọng." "Em tưởng chị quên." "Chị không quên. Chị không ngốc." "Nhưng chị nói..." "Em có thể im miệng trong một giây không?" Cô nói, không thể che dấu sự cáu giận của mình. Cô xoay ánh mắt về hướng cha cô, vẫn đang tiếp tục chơi đàn, không hề bỏ lỡ một nốt nhạc. "Những gì đêm qua cha đã..." Cô ngừng lời, không thể đặt toàn bộ những gì đã diễn ra, toàn bộ những gì đã xảy đến, trong vài từ được. "Con đã đủ tuổi để có quyết định riêng của mình. Cha không hiểu điều đó sao? Cha hãy từ bỏ quyền bảo con phải làm gì khi con ra khỏi cửa. Và hãy vui lòng lắng nghe con nói!" Đột ngột, cha cô ngừng chơi. "Con không thích cái trò nho nhỏ mà cha đang tiến hành." Ông có vẻ hoang mang. "Trò nào cơ?" "Trò này! Chơi đàn mọi phút con ở đây! Con không quan tâm cha muốn con chơi nhiều như thế nào. Con sẽ không bao giờ chơi dương cầm nữa. Đặc biệt không chơi chung với cha!" "Được mà." Cô chờ đợi nhiều hơn, nhưng không có gì nữa. "Vậy thôi ư?" Cô hỏi. "Đó là tất cả những gì cha có thể nói sao?" Cha cô có vẻ cân nhắc cách trả lời. "Con có muốn ăn điểm tâm không? Cha đã làm một ít thịt xông khói." "Thịt xông khói?" Cô hỏi gặng. "Cha làm thịt xông khói sao?" "Uh-Oh." Jonah nói. Cha cô liếc nhìn Jonah. "Chị ấy ăn chay, Cha à." Cậu bé giải thích. "Thật ư?" Ông hỏi. Jonah trả lời thay cô, "Trong ba năm. Nhưng đôi khi chị ấy khó hiểu lắm, vì vậy nó có chút ý nghĩa." Ronnie nhìn họ chằm chằm trong sự kinh ngạc, tự hỏi bằng cách nào mà câu chuyện lại xoay qua như thế. Đây không phải về thịt xông khói, đây là về những gì đã xảy ra đêm qua. "Chúng ta hãy làm rõ một điều nhé." Cô nói. "Nếu cha gởi cảnh sát đến để đem con trở về nhà lần nữa, con sẽ không chỉ từ chối chơi Piano, con sẽ không chỉ đi về nhà, mà con sẽ không bao giờ, không bao giờ nói chuyện với cha nữa. Và nếu cha không tin con, cứ thử đi. Con đã từng ba năm không nói chuyện với cha, và đó là điều dễ dàng nhất con từng làm." Với điều đó Ronnie dậm chân trở về phòng. Hai mươi phút sau, sau khi đã khóc như mưa và thay quần áo, cô ra khỏi cửa. Suy nghĩ đầu tiên khi lê bước qua bãi cát là cô nên mặc quần sort. Trời nóng hầm hập, không khí đặc quánh với độ ẩm. Đây đó trên bãi biển, người ta nằm dài trên khăn tắm hoặc chơi lướt sóng. Gần bến tàu, cô nhận ra nửa tá người lướt sóng đang nổi trên ván của họ, chờ đợi một con sóng tuyệt hảo. Bên trên họ, phía đầu bến tàu, lễ hội đã không còn nữa. Đu quay đã bị tháo dỡ, và những gian hàng đã bị mang đi, để lại đàng sau những túi rác nằm rải rác và thức ăn tàn dư. Tiến lên, cô đi vơ vẩn qua khu vực kinh doanh nhỏ của thị trấn. Vẫn chưa có cửa hàng nào mở cửa, nhưng dù sao thì phần lớn cũng là loại cô không bao giờ muốn đặt chân đến - những gian hàng ngoài bãi biển để hấp đẫn khách du lịch, đôi cửa hàng quần áo dường như chuyên về đầm và áo cánh mà mẹ cô có thể mặc, một cửa hàng Burger King và McDonald's, hai nơi cô từ chối bước vào trên nguyên tắc. Thêm một khách sạn và nửa tá nhà hàng và quán bar hạng sang, như vậy là khá nhiều rồi. Cuối cùng, địa điểm thú vị duy nhất là cửa hàng dụng cụ lướt sóng, một cửa hàng âm nhạc, và một quán ăn bình dân kiểu cũ, nơi cô có thể hình dung mình lang thang với bạn bè... nếu như cô có. Cô tiến về bờ biển và nhảy chân sáo trên những đụn cát, không nhận ra đám đông đang nhân dần lên. Đó là một ngày huy hoàng, phơi phới; bầu trời trên đầu xanh thăm thẳm, không một gợn mây. Nếu Kayla ở đây, bạn ấy ắt sẽ quan tâm đến việc trải qua cả ngày ngoài nắng, nhưng Kayla không ở đây, và cô không có ý định đặt cô ấy vào chỗ của cô. Nhưng biết làm gì bây giờ cơ chứ? Có lẽ cô nên thử kiếm một công việc. Nó sẽ cho cô lý do để ra khỏi nhà suốt cả ngày. Cô không thấy bảng hiệu "Help Wanted" nào trên cửa sổ trong thị trấn, nhưng ai đó phải đang thuê người chứ, đúng không? "Bạn về nhà không sao chứ? Hay viên cảnh sát cuối cùng cũng bỏ qua cho bạn?" Nhìn ra sau, Ronnie thấy Blaze nhìn lên cô từ đụn cát. Chìm trong suy tưởng, cô thậm chí không nhận ra cô ấy. "Không, ông ấy không bỏ qua tớ." "Oh, vậy bạn đã chạy khỏi ông ấy à?" Ronnie khoanh tay. "Bạn có làm được không?" Blaze nhún vai, biểu hiện của cô ấy tinh quái, và Ronnie cười. "Điều gì đã xảy ra sau khi tớ đi khỏi? Có gì hứng thú không?" "Không. Bọn con trai đã mất tích và tớ không biết họ đã đi đâu. Kết cục, tớ chỉ lẻn vào Bower's Point thôi." "Bạn không về nhà sao?" "Không." Cô ấy đứng lên, phủi cát bám trên quần Jeans. "Bạn có chút tiền nào không?" "Sao vậy?" Blaze đứng thẳng lên. "Tớ đã không ăn gì từ sáng hôm qua. Tớ khá đói." Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 8 Will. Will đứng trong lồng cầu thang bên dưới Ford Explorer trong bộ đồng phục, quan sát ống dẫn dầu đồng thời làm điều tốt nhất của anh để lờ Scott đi, mọi thứ nói dễ hơn làm. Chốc chốc, Scott lại diễn thuyết cho anh về buổi tối hôm trước, kể từ lúc họ đến làm việc sáng hôm đó. "Nhìn đi, cậu đang nghĩ về điều này với tất cả sai lầm." Scott tiếp tục, đang cố thay đổi một chiến lược khác. Cậu ấy đã phục hồi ba can dầu và đặt chúng vào chiếc kệ bên cạnh. "Có sự khác nhau giữa gặp gỡ và trở lại với nhau." "Chúng ta kết thúc điều này chưa vậy?" "Chúng ta sẽ, nếu cậu có chút ý thức nào. Nhưng từ những gì tớ biết, rõ ràng cậu đang nhầm lẫn. Ashley không muốn trở lại với cậu đâu." "Tớ không nhầm lẫn." Will nói. Anh lau tay vào khăn. "Đó chính xác là những gì cô ấy muốn." "Đó không phải là điều Cassie nói với tớ." Will dặt chiếc khăn sang một bên, và với lấy chai nước của anh. Cửa hàng của cha anh chuyên về sửa chữa thắng xe, thay dầu, hiệu chỉnh máy móc và lắp đặt bộ xử lý ngoại vi, và cha anh luôn muốn nơi này gây được sự chú ý như là sàn nhà được đánh bóng và nơi này chỉ mở cửa cho việc kinh doanh. Thật không may, máy điều hòa không khí không quan trọng nhiều với ông, và trong mùa hè, nhiệt độ ở nơi này nằm trong khoảng đâu đó giữa Mojave (thung lũng ở giữa bang California và Arizona) và sa mạc Sahara. Anh uống một hơi dài, hết chai nước trước khi cố chịu đựng Scott lần nữa. Không nghi ngờ gì, Scott là người ngoan cố nhất anh từng biết. Anh chàng thật sự khó chơi. "Cậu không biết về Ashley theo cách tớ biết." Anh thở dài. "Hơn nữa, điều đó đã trôi qua và kết thúc rồi. Tớ không hiểu sao cậu cứ lải nhải mãi thế." "Cậu không gạt qua một bên sự kiện 'khi Harry gặp Sally'* đêm qua đấy chứ? Bởi vì tớ là bạn cậu và tớ quan tâm đến cậu. Tớ muốn cậu vui vẻ trong mùa hè này. Tớ muốn vui vẻ trong mùa hè này. Tớ muốn vui vẻ với Cassie." (*When Harry met Sally: bộ phim tình cảm hài nằm trong danh sách 100 film hài hay nhất của Mỹ trình chiếu năm 1989 của đạo diễn Rob Reiner diễn viên Billy Cristal và Meg Ryan thủ vai chính.) "Vậy hãy hẹn cô ấy đi chơi đi." "Nếu điều đó dễ dàng như thế. Nhìn đi, đêm qua tớ đã gợi ý điều tương tự. Nhưng Ashley đã làm rối tung lên đến mức Cassie không muốn rời khỏi cô ấy." "Tớ thật sự rất tiếc là điều đó đã không diễn ra." Scott ngờ vực. "Phải, Tớ có thể nói thế." Vào đúng lúc đó, dầu đã bị hút cạn. Will chụp lấy chiếc can và tiến đến bậc thang trong lúc Scott ở lại để thay nắp và vứt bỏ dầu đã qua sử dụng vào thùng tô nô rác thải. Khi Will mở chiếc can và đặt vào đó một dụng cụ chiết rót, anh liếc nhìn Scott phía bên dưới. "Này, nhân tiện, cậu có thấy cô gái đã ngừng cuộc đánh nhau không?" Anh hỏi. "Người đã giúp chú nhóc nhỏ tìm thấy mẹ ấy?" Mất một lúc câu nói mới được ghi nhận. "Ý cậu là cô nàng ma ca rồng trong chiếc áo hoạt hình ấy à?" "Cô ấy không phải ma cà rồng." "Có. Tớ có thấy cô ấy. Về sự xuất hiện đột ngột, dải tóc màu tím xấu xí hay móng tay sơn đen nào? Cậu đã đổ soda vào cô ấy, nhớ không? Cô ấy nghĩ cậu bốc mùi." "Gì cơ?" "Tớ vừa nói đấy thôi." Cậu ấy nói, tìm kiếm thùng rác. "Cậu không thấy vẻ mặt của cô ấy sau khi cậu đâm sầm vào cô ấy, nhưng tớ có. Cô ấy đã không chạy khỏi cậu đủ nhanh. Do đó, cậu chắc chắn là bốc mùi rồi." "Cô ấy phải mua một cái áo mới." "Thì sao?" Will thêm can thứ hai. "Tớ không biết. Cô ấy chỉ làm tớ ngạc nhiên. Và tớ đã không thấy cô ấy ở quanh đây trước đó." "Tớ lập lại: Thì sao?" Will không thật sự chắc chắn lý do tại sao anh nghĩ về cô gái, xét đến việc anh biết về cô ít như thế nào. Phải, cô rất xinh xắn - anh đã nhận ra ngay tức thì bất chấp dải tóc màu tím và lớp mascara đen tối cô dùng - nhưng bãi biển đầy dẫy những cô gái xinh đẹp. Cũng không phải cách cô ngừng trận đánh. Thay vì thế, anh cứ nhớ mãi cách cô đối xử với cậu bé bị ngã. Anh thoáng thấy một lòng nhân hậu đáng kinh ngạc bên dưới vẻ ngoài nổi loạn của cô, và điều đó khơi dậy tính hiếu kỳ của anh. Cô không hề giống Ashley một chút nào. Và như vậy không có nghĩa Ashley là kẻ xấu, vì cô ấy không phải là người như thế. Nhưng có gì đó hời hợt về Ashley, cho dù Scott không muốn tin điều đó. Trong thế giới của Ashley, mọi người và mọi thứ được đặt gọn gàng trong những chiếc hộp nhỏ: Được mến mộ hoặc không, đắt giá hoặc rẻ tiền, giàu hoặc nghèo, xinh đẹp hoặc xấu xí. Và rốt cuộc, sự chán ngán tăng dần trong anh trước những phán đoán mờ nhạt, nông cạn và sự bất tài của cô, để có thể chấp nhận hoặc đánh giá cao bất kỳ điều gì giữa họ. Nhưng cô gái với dải màu tím trên mái tóc... Theo bản năng, anh biết cô không giống như thế. Anh không thể hoàn toàn chắc chắn, dĩ nhiên, nhưng anh có thể đoan chắc. Cô không đặt người khác vào trong những chiếc hộp nhỏ ngăn nắp bởi vì cô không đặt bản thân vào trong đó và điều đó đánh vào anh giống như sự hồi tỉnh và khác biệt, đặc biệt khi so sánh với các cô gái mà anh biết tại Laney. Nhất là Ashley. Dù với mọi thứ bận rộn trong xưởng sửa chữa, suy nghĩ của anh vẫn trôi dạt trở lại với cô nhiều hơn anh mong đợi. Không phải toàn bộ thời gian, nhưng đủ để anh nhận ra rằng, bất kể lý do là gì, anh dứt khoát muốn biết về cô nhiều hơn và nhận thấy bản thân đang tự hỏi không biết khi nào anh mới được gặp lại cô. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 9 Ronnie. Blaze dẫn đường đến quán ăn mà Ronnie đã thấy khi cô đi dạo qua khu vực kinh doanh, và Ronnie phải thú nhận rằng nơi đó có chút mê hoặc, đặc biệt với những ai mến chuộng những năm 1950. Có một quầy hàng kiểu xưa nằm bên cạnh với những chiếc ghế quầy bar, sàn nhà lát đá đen và trắng, và những gian hàng bằng nhựa Vinyl màu đỏ nứt nẻ xếp thành những bức tường. Phía sau quầy, thực đơn được viết trên một tấm bảng, và trong chừng mực Ronnie có thể nói, thay đổi duy nhất trên đó trong ba mươi năm gần đây là giá cả. Blaze đặt mua một Cheeseburger, một chocolate sữa lắc, và khoai tây chiên; Ronnie lưỡng lự và cuối cùng chỉ đặt một Coke ăn kiêng. Cô thấy đói, nhưng cô không dám chắc loại dầu mà họ sử dụng trong chiếc chảo chiên sâu hoáy đó là gì, và cả hai người họ, dường như thế, đều không phải là bất kỳ ai khác trong quán ăn. Là một người ăn chay không luôn dễ dàng, và có những lúc cô đã muốn buông xuôi mọi thứ. Như khi dạ dày cô đang gầm gào: Giống lúc này đây. Nhưng cô sẽ không ăn ở đây. Cô không thể ăn ở đây, không phải vì cô là kiểu người ăn-chay-nguyên-tắc, mà vì cô là kiểu người ăn-chay-vì-cô không-muốn-phát-ốm. Cô không quan tâm đến những gì người khác ăn; chỉ là bất cứ khi nào cô nghĩ đến việc thức ăn thật sự đến từ đâu, cô liền nghĩ đến một con bò đang đứng trên đồng cỏ hay chú heo Babe, và cô thấy mình muốn nôn mửa. Dù vậy, Blaze có vẻ hạnh phúc. Sau khi đề xuất yêu cầu của mình, cô ấy dựa lưng vào gian hàng. "Bạn nghĩ gì về nơi này?" Cô ấy hỏi. "Khá ngăn nắp. Nó có phần nào khác biệt." "Tớ đã đến đây từ khi còn là một đứa trẻ. Cha tớ thường đưa tớ đến vào mỗi Chủ nhật sau khi đi lễ nhà thờ để uống chocolate sữa lắc. Họ làm ngon nhất. Họ cho thêm vào một ít kem lạnh từ một nơi nhỏ xíu ở bang Georgia, nhưng nó đáng kinh ngạc. Bạn nên lấy một ly." "Tớ không đói." "Bạn đang nói dối." Blaze nói. "Tớ nghe thấy bao tử của bạn réo ầm ầm, nhưng dù sao thì đó cũng là mất mát của bạn. Nhưng cám ơn vì điều này." "Có gì ghê gớm đâu!" Blaze cười. "Vậy điều gì đã xảy ra đêm qua? Bạn có thích... nổi tiếng hay thứ gì đó không?" "Tại sao bạn hỏi như vậy?" "Vì cớm và cách ông ấy lựa chọn bạn. Phải có lý do." Ronnie nhăn mặt. "Tớ cho rằng cha tớ nói ông ấy đi tìm tớ. Ông ấy thậm chí còn biết nơi tớ sống." "Không hay cho bạn rồi." Khi Ronnie cười, Blaze với tay lấy lọ muối. Sau khi mở nắp, cô ấy bắt đầu rắc muối ra bàn trong lúc dùng ngón tay để gom chúng thành đống. "Bạn nghĩ gì về Marcus?" Cô ấy hỏi. "Tớ không thật sự nói chuyện với anh ta. Sao thế?" Blaze có vẻ lựa chọn từ ngữ cẩn thận. "Marcus chưa bao giờ thích tớ," Cô ấy nói. "Trưởng thành, ý tớ là thế. Tớ cũng không thể nói tớ thích anh ấy rất nhiều. Anh ấy luôn có đôi chút... khốn khổ, bạn biết không? Nhưng rồi, tớ không biết nữa, cách đây đôi năm, mọi thứ đã thay đổi. Và khi tớ thật sự cần một ai đó, anh ấy đã ở đó vì tớ." Ronnie nhìn đống muối lớn dần. "Và?" "Tớ chỉ muốn bạn biết." "Tốt." Cô nói. "Sao cũng được." "Bạn cũng thế." "Bạn đang nói cái gì vậy?" Blaze cạo một ít sơn đen từ móng tay cô. "Tớ thường ganh đua trong tập luyện thể hình, trong khoảng bốn hay năm năm. Đó là điều khủng khiếp nhất trong cuộc đời tớ. Rốt cục, tớ bỏ ngang vì huấn luyện viên của tớ. Ông ấy thật sự hống hách, luôn nói với bạn những gì bạn làm là sai, không bao giờ khen ngợi bạn về những gì bạn làm đúng. Chẳng hiểu thế nào, một ngày, tớ đã làm một cú ngã khỏi thanh tập thăng bằng, và ông ta bước thẳng đến, la thét với tớ về cách thích đáng trong tư thế đứng và cách tớ phải đông cứng như thế nào và mọi thứ mà tớ đã nghe ông ấy thét lên hàng triệu lần trước đó rồi. Tớ phát ngán phải nghe chúng, bạn biết không? Vì vậy, tớ nói, 'Sao cũng được.' Và ông ấy chụp lấy cánh tay tớ mạnh đến nỗi làm tớ thâm tím. Dù sao thì ông cũng đã nói với tớ, 'Em có hiểu những gì em đang nói khi em nói 'Sao cũng được' không vậy hả? Đó là một từ lóng thay cho từ 'f' theo sau bởi từ 'you' (có lẽ là fuck you chăng, ông này lôi thôi quá!) Và tầm tuổi em, em không bao giờ, không bao giờ được nói từ đó với ai hết.'" Blaze ngả người ra sau, "Vì thế, bây giờ, khi ai đó nói từ đó với tớ, tớ chỉ nói 'cậu cũng vậy'." Ngay lúc đó, người phục vụ mang thức ăn của họ đến, và cô ấy đặt chúng xuống trước mặt họ với một cú xoay tay hiệu quả. Khi cô ta đi khỏi, Ronnie vươn tới ly soda của cô. "Cám ơn về câu chuyện làm ấm lòng đó." "Sao cũng được." Ronnie cười lần nữa, thích tính cách hài hước của cô ấy. Blaze nghiêng người qua bàn, "Vậy điều tệ hại nhất bạn từng làm là gì?" "Gì cơ?" "Tớ nghiêm túc đấy. Tớ luôn hỏi người ta câu hỏi đó. Tớ tìm thấy trong đó sự thích thú." "Chắc rồi." Ronnie phản công. "Điều tệ hại nhất bạn từng làm là gì?" "Quá dễ. Khi tớ còn nhỏ, tớ có một người hàng xóm - Bà Banderson. Bà ấy không phải là người phụ nữ tử tế nhất, nhưng bà cũng không phải là một mụ phù thủy. Tớ muốn nói, không phải là bà ấy khóa tất cả các cửa vào ngày lễ Halloween hay thứ gì tương tự. Nhưng bà ấy thật sự ở trong khu vườn của bà, bạn biết không? Và sân cỏ của bà. Ý tớ là, khi chúng tớ đi ngang qua đó để bắt xe bus của trường, bà ấy liền nổi cơn dông tố, la thét rằng chúng tớ đã hủy hoại bãi cỏ. Dù sao đi nữa, vào một mùa xuân, bà ấy trồng tỉa tất cả những bông hoa trong vườn của bà. Hàng trăm cây. Chúng tuyệt đẹp. Rồi, có một đứa trẻ phía bên kia đường tên là Billy, và cậu ta cũng không thích bà Banderson nhiều, vì một lần cậu ấy đánh một trái bóng chày và nó rơi vào sân sau nhà bà ấy, bà đã không trả nó lại. Vì vậy, một ngày, chúng tớ lẻn vào nhà kho trong vườn của cậu ấy, và chúng tớ tìm thấy một bình phun lớn, chứa đầy Roundup. Thuốc diệt cỏ dại gì đó chăng? Tốt, vào đêm hôm đó, sau khi trời tối, cậu ấy và tớ lén lút xịt vào tất cả những cây hoa mới trồng, đừng hỏi tớ tại sao. Tớ cho rằng khi đó chúng tớ nghĩ đó là một trò vui. Có gì ghê gớm đâu. Chỉ cần mua một ít cây mới thôi, đúng không? Bạn không thể nói ngay tức thì, đương nhiên rồi. Phải mất một vài ngày trước khi nó bắt đầu công hiệu. Và bà Banderson đã ra đó mọi ngày, tưới nước và nhổ cỏ dại trước khi bà nhận ra rằng toàn bộ những cây hoa mới của bà đã bắt đầu héo rũ. Thoạt đầu, Billy và tớ cười hả hê về điều đó, nhưng sau đó tớ bắt đầu nhận ra bà đã ở ngoài đó trước khi tớ đến trường, đang cố tìm hiểu điều gì không đúng, và bà vẫn ở ngoài đó khi tớ trở về từ trường. Và vào cuối tuần, tất cả những cây hoa đã chết." "Điều đó thật kinh khủng." Ronnie la lên, cười khúc khích bất chấp bản thân. "Tớ biết. Và tớ vẫn còn cảm thấy tệ về điều đó. Đó là một trong những điều tớ ao ước có thể xóa bỏ." "Bạn có kể với bà ấy không? Hoặc đề nghị trồng lại những cây hoa?" "Cha mẹ tớ sẽ giết tớ mất. Nhưng tớ không bao giờ, không bao giờ đi ngang qua bãi cỏ của bà ấy nữa. "Wow!" "Như tớ đã nói, đó là điều tệ nhất tớ từng làm. Bây giờ đến lượt bạn." Ronnie nghĩ về điều đó. "Tớ đã không nói chuyện với cha tớ trong ba năm." "Tớ đã biết điều đó rồi. Và điều đó không tệ đến thế. Như tớ đã nói, tớ cũng cố không nói chuyện với cha tớ. Và mẹ tớ chẳng có ý tưởng gì về nơi tớ ở trong phần lớn thời gian." Ronnie nhìn xa xăm. Bên trên chiếc máy hát tự động là một bức tranh của Bill Haley & His Comets*. (*Bill Haley & His Comets: Bill Haley, một nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng thập niên 50s và nhóm nhạc rock&roll của ông; do đồng âm với sao chổi Haley, nên được gọi tên ban nhạc là 'Bill Haley và những sao chổi của ông ấy', lúc đầu chỉ là sự hài hước, sau thành tên nhóm nhạc luôn, hiện nay tiếp tục có những nhóm nhạc lấy tên sao chổi Haley và theo phong cách mặc đồ kẻ sọc như nhóm nhạc của ông, sau khi Bill Haley chết vào năm 1981.) "Tớ thường ăn cắp trong cửa hàng" Cô nói, chịu khuất phục. "Nhiều lần. Không có gì lớn. Chỉ tìm kiếm chút rùng mình khi làm việc đó thôi." "Thường ư?" "Không còn nữa. Tớ đã bị bắt. Thật ra tớ bị bắt hai lần, nhưng lần thứ hai là một tai nạn. Phải ra tòa, nhưng lời cáo buộc tiếp tục trong một năm. Nói chung, nó nghĩa là nếu tớ không gây rắc rối nữa, lời cáo buộc sẽ được bỏ qua." Blaze hạ chiếc burger của cô ấy xuống. "Vậy thôi ư? Đó là điều tệ nhất bạn từng làm ư?" "Tớ chưa bao giờ tiêu diệt cây trồng của một ai đó, nếu đó là ý cậu. Hoặc phá hoại có chủ ý thứ gì đó." "Bạn chưa từng kẹp đầu em trai bạn vào toilet sao? Hoặc đập phá xe hơi? Hoặc cạo râu mèo, hoặc thứ gì đó tương tự sao?" Ronnie cười nhỏ, "Không." "Bạn chắc chắn là một thiếu niên tẻ ngắt bậc nhất trên thế giới." Ronnie cười khúc khích lần nữa trước khi nhấp một hớp soda. "Tớ có thể hỏi cậu một câu hỏi không?" "Tiến lên đi." "Tại sao đêm qua bạn không về nhà?" Blaze lấy một nhúm muối mà cô ấy đã chồng thành đống và rải chúng trên khoai tây chiên của cô. "Tớ không muốn." "Mẹ bạn thì sao? Bác ấy không nổi điên lên sao?" "Chắc vậy." Blaze nói. Ngoài kia, cánh cửa quán ăn đung đưa mở ra và Ronnie quay người nhìn thấy Marcus, Teddy và Lance đang tiến về phía gian hàng của họ. Marcus mặc một chiếc áo thun trang trí hình đầu lâu, và một sợi dây xích đeo vào dây lưng lòng thòng trên quần jeans của hắn. Blaze lỉnh đi, nhưng thật lạ lùng, Teddy lấy một chỗ bên cạnh cô ấy, trong khi Marcus chen vào bên cạnh Ronnie. Khi Lance kéo một cái ghế từ bàn kế bên và tung nó thành vòng tròn trước khi ngồi xuống, Marcus vươn tới dĩa của Blaze. Cả Teddy và Lance đều tự động chụp lấy khoai tây chiên. "Này, Cái đó dành cho Blaze." Ronnie la lên, cố dừng họ lại. "Hãy lấy thứ của riêng anh ấy." Marcus đảo từ người này sang người kia. "Gì thế?" "Không sao đâu mà." Blaze nói, đẩy chiếc đĩa sang cho hắn. "Thật mà. Dù sao thì tớ đâu có ăn hết tất cả được." Marcus với lấy chai tương cà, hành động như thể hắn chứng tỏ quan điểm của hắn. "Hai người đang nói về chuyện gì vậy? Nhìn từ cửa sổ, chúng có vẻ hay ho." "Không có gì đâu." Blaze nói. "Để anh đoán nhé. Cô ấy đang kể với em về ông bạn trai sexy của mẹ cô ấy và những hoạt động đong đưa vào đêm mới đây của họ, đúng không?" Blaze ngọ nguậy trên ghế của cô. "Đừng thô tục thế chứ." Marcus trao cho Ronnie một cái nhìn chằm chằm lộ liễu. "Cô ấy có kể với em về cái đêm mà một trong những gã bạn trai của mẹ cô ấy đã lén lút vào phòng của cô ấy không? Cô ấy thích 'Ông có mười lăm phút để biến khỏi đây' lắm đấy nhé." "Im đi, được không? Điều đó không vui vẻ gì. Và chúng tôi không nói về ông ấy." "Gì cũng được." Hắn nói, cười tự mãn. Blaze vươn tới ly sữa lắc khi Marcus bắt đầu ăn Burger. Teddy và Lance chộp lấy nhiều khoai tây chiên hơn, và trong vài phút kế tiếp, cả ba đã ngấu nghiến phần lớn những gì trên dĩa. Để Ronnie mất tinh thần, Blaze không nói gì, và Ronnie băn khoăn về điều đó. Hay thật ra, cô không băn khoăn. Có vẻ rõ ràng là Blaze không muốn Marcus nổi khùng lên với cô ấy, vì thế cô ấy để hắn làm bất cứ điều gì hắn muốn. Cô đã thấy điều đó trước đây: Kayla, với tất cả những tình thế thô bạo với cô ấy, cô ấy đã làm theo cách tương tự khi dính líu đến các chàng trai. Và nói chung, bọn họ đã đối xử với cô ấy chẳng ra gì hết. Nhưng cô sẽ không nói điều đó ở đây. Cô biết nó sẽ chỉ tạo nên những điều tệ hại nhất. Blaze nhấm nháp ly sữa lắc và đặt nó trở lại bàn. "Vậy bọn con trai các anh muốn làm gì sau điều này?" "Chúng tôi ra ngoài." Teddy làu bàu. "Ông già của chúng tôi muốn tôi và Teddy làm việc hôm nay." "Họ là hai anh em." Blaze giải thích. Ronnie nghiên cứu họ, nhìn chẳng có nét gì tương đồng. "Vậy sao?' Marcus kết thúc miếng bánh burger và đẩy chiếc dĩa ra giữa bàn. "Anh biết. Thật khó tin có bậc cha mẹ nào lại có thể có hai đứa con xấu xí đến thế, huh? Dù sao đi nữa gia đình họ làm chủ một cái motel hôi thối ngay chỗ qua cầu. Hệ thống đường ống cứ như đã hàng trăm tuổi, và công việc của Teddy là lao đầu vào những cái toilet khi chúng bị tắc. Ronnie nhăn mũi, cố hình dung điều đó. "Thật ư?" Marcus gật đầu. "Bốc mùi. Huh? Nhưng đừng lo về Teddy. Hắn rất tuyệt với điều đó. Một người thật sự phi thường. Thực ra hắn thích điều đó. Và Lance đây - công việc của hắn là làm sạch khăn trải giường sau giữa trưa, khi đám đông đã cuốn gói." "Ew!" Ronnie nói. "Tớ biết. Nó hết sức ghê tởm." Blaze thêm vào. "Và bạn nên thấy vài người đến đó làm việc theo giờ. Bạn có thể nhiễm bệnh ngay khi đi vào phòng." Ronnie không biết phải đáp trả điều đó như thế nào, nên thay vì thế, cô quay sang Marcus. "Vậy anh làm gì?" Cô hỏi. "Bất cứ điều gì anh muốn." Hắn trả lời. "Nghĩa là gì?" Ronnie thách thức. "Tại sao em quan tâm chứ?" "Tôi không quan tâm." Cô nói, giữ giọng cô lãnh đạm. "Tôi chỉ hỏi vậy thôi." Teddy chộp lấy miếng khoai tây cuối cùng trên dĩa của Blaze. "Nghĩa là anh ấy lang thang với chúng tôi ở motel. Trong phòng của anh ấy." "Anh có một phòng ở motel ư?" "Anh sống ở đó." Hắn đáp. Câu hỏi hiển nhiên là tại sao, và cô đợi nhiều hơn, nhưng Marcus giữ im lặng. Cô ngờ rằng hắn muốn cô cố gắng moi thông tin từ hắn. Có lẽ cô đọc thấy quá nhiều từ đó, nhưng cô đột ngột cảm nhận rằng hắn muốn cô thấy hắn thú vị, muốn cô thích hắn. Dù cho Blaze đang ở đó. Sự nghi ngờ của cô được xác nhận khi hắn với tay lấy điếu thuốc. Sau khi mồi lửa, hắn thổi khói thẳng vào Blaze, rồi quay lại với Ronnie. "Em sẽ làm gì tối nay?" Hắn hỏi. Ronnie trượt ra khỏi chỗ ngồi, đột ngột không thoải mái. Có vẻ như mọi người, bao gồm Blaze đang đợi câu trả lời của cô. "Thì sao?" "Chúng tôi có một cuộc hội họp ở Bower's Point. Không chỉ chúng tôi. Một nhóm người. Anh muốn em đến. Lần này không có cớm nhé." Blaze nghiên cứu mặt bàn, chơi đùa với đống muối. Khi Ronnie không trả lời. Marcus rời khỏi bàn, tiến ra cửa mà không quay lại. Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com Chương 10 Steve. "Này, Cha ơi." Jonah gọi lên. Cậu bé đang đứng phía sau cây đàn piano trong góc thụt của ngôi nhà khi Steve mang dĩa mì spaghetti đến bàn. "Đó có phải là hình của cha với ông và bà nội không?" "Phải. Đó là cha và mẹ của cha." "Con không nhớ bức hình đó. Ý con là từ căn hộ." "Trong một thời gian dài, nó nằm trong văn phòng của cha ở trường." "Oh." Jonah nói. Cậu bé nghiêng người gần bức hình hơn, nghiên cứu nó. "Cha có phần giống ông nội." Steve không biết chắc phải nghĩ về điều đó thế nào. "Có lẽ có một chút" "Cha có nhớ ông không?" "Ông là cha của cha mà. Con nghĩ gì thế?" "Con nhớ cha lắm." Khi Jonah đến bên chiếc bàn, Steve ngẫm nghĩ, đó là một ngày thật đáng hài lòng, nếu không có biến cố gì. Họ đã trải qua buổi sáng trong xưởng, nơi Steve đã dạy Jonah cắt kính thủy tinh; họ ăn sandwich trên hiên trước và thu lượm vỏ sò vào chiều muộn. Và Steve đã hứa rằng ngay khi trời tối, ông sẽ đưa Jonah xuống bãi biển với đèn pin để quan sát hàng trăm con còng chạy như bay ra ra vào vào những cái hang trong cát của chúng. Jonah kéo ra một chiếc ghế và buông người xuống. Cậu bé uống một hơi sữa, để lại một hàng ria trắng. "Cha có cho rằng Ronnie sẽ về nhà sớm không?" "Cha hy vọng thế." Jonah lau miệng với lưng bàn tay. "Thỉnh thoảng chị ấy ở ngoài khá trễ." "Cha biết." "Cảnh sát trưởng có đưa chị ấy về nhà lần nữa không?" Steve nhìn ra ngoài cửa sổ; hoàng hôn đang xuống, và mặt biển đã trở nên tối sẫm. Ông băn khoăn không biết cô bé đang ở đâu và đang làm gì. "Không." Ông nói. "Không phải đêm nay." Sau khi họ đi dọc bờ biển, Jonah tắm vòi sen và trườn vào giường. Steve kéo tấm đắp và hôn lên má cậu bé. "Cám ơn vì một ngày tuyệt vời." Steve thì thầm. "Cha được hoan nghênh mà." "Ngủ ngon, Jonah. Cha yêu con." "Con cũng vậy, Cha." Steve đứng thẳng lên và bắt đầu tiến ra cửa. "Cha ơi?" Steve quay lại. "Gì nào?" "Ông nội có bao giờ đưa cha đi xem những con còng không?" "Không." Steve nói. "Tại sao không? Điều đó thật tuyệt vời." "Ông không phải kiểu người cha đó." "Ông là loại cha thế nào?" Steve cân nhắc về câu hỏi, "Ông khá phức tạp." Cuối cùng, ông nói. Bên chiếc đàn dương cầm, Steve hồi tưởng lại buổi chiều sáu năm trước, khi ông cầm lấy tay cha ông lần đầu tiên trong cuộc đời. Ông đã nói với cha rằng, ông biết ông ấy đã làm điều tốt nhất ông ấy có thể để nuôi nấng ông, rằng ông không trách cứ cha ông về điều gì hết, rằng trên tất cả, ông yêu ông ấy. Cha ông quay về phía ông, mắt ông ấy tập trung, và bất chấp liều morphine cao mà ông ấy đang dùng, trí óc ông ấy minh mẫn. Ông nhìn Steve chằm chằm trong một lúc lâu trước khi kéo tay ông ấy ra. "Nghe con giống như một mụ đàn bà khi con nói những lời đó." Ông ấy nói. Họ ở trong một phòng chung trên tầng bốn của bệnh viện. Cha ông đã ở đó trong ba ngày. Những ống truyền tĩnh mạch ngoằn ngoèo trên cánh tay ông, và ông đã không ăn thức ăn đặc trong hơn một tháng. Đôi gò má ông trũng sâu, và da ông trong suốt. Đứng gần, Steve nghĩ hơi thở của cha ông có mùi thối rữa, một dấu hiệu khác chứng ung thư loan báo thắng lợi của nó. Steve quay người đến bên cửa sổ. Bên ngoài, ông không thể nhìn thấy gì ngoài bầu trời xanh ngắt, một ảo tưởng kiên định rực rỡ bao quanh phòng. Không chim chóc, không một gợn mây, không một bóng cây trong tầm mắt. Đàng sau ông, ông có thể nghe thấy tiếng bip bip đều đặn từ màn hình trung tâm. m thanh có vẻ mạnh mẽ và vững vàng, với tiết tấu đều đặn khiến nghe có vẻ như cha ông sẽ sống thêm hai mươi năm nữa. Nhưng có phải trái tim của ông đang giết dần ông đâu. "Ông ấy thế nào?" Đêm đó, Kim hỏi khi họ nói chuyện qua điện thoại. "Không tốt." Ông nói. "Anh không biết ông có thể kéo dài được bao lâu nữa, nhưng..." Ông ngập ngừng. Ông có thể hình dung Kim ở đầu dây bên kia, đứng gần bếp, đang khuấy pasta hoặc thái cà chua, điện thoại kẹp chặt giữa tai và vai. Bà không bao giờ có thể ngồi yên khi nói chuyện điện thoại. "Có ai khác đến không?" "Không." Ông trả lời. Điều ông không nói với bà là, theo lời các y tá, không ai khác đến thăm ông ấy. "Anh đã có thể nói chuyện với ông ấy chưa?" Bà hỏi. "Có, nhưng không lâu. Ông ấy đã mơ màng trong hầu hết thời gian." "Anh có nói những gì em bảo anh nói không?" "Có." Ông nói. "Ông ấy nói gì?" Bà hỏi. "Ông ấy có nói rằng ông ấy cũng yêu anh không?" Steve biết câu trả lời bà muốn. Ông đang đứng trong nhà cha ông, xem xét những bức hình đặt trên lò sưởi: Ảnh gia đình sau khi Steve rửa tội, một tấm hình đám cưới của Kim và Steve, Ronnie và Steve khi còn trẻ thơ. Những chiếc khung hình phủ đầy bụi, đã không được chạm đến trong nhiều năm. Ông biết mẹ ông đã đặt những bức hình ở đó, và khi ông chăm chú nhìn chúng, ông tự hỏi không biết cha ông nghĩ gì khi ông ấy nhìn chúng, hoặc thậm chí ông có nhìn chúng chút nào, hay có nhận ra chúng đã ở đó hay không. "Có," Cuối cùng, ông nói. "Ông ấy nói với anh rằng ông ấy cũng yêu anh." "Em rất vui." Bà nói. Giọng của bà yên lòng và khuây khỏa, như thể câu trả lời của ông xác nhận điều gì đó với bà về thế giới. "Em biết điều đó quan trọng đối với anh như thế nào." Steve lớn lên trong một ngôi nhà kiểu nông trại màu trắng, trong một vùng những ngôi nhà tương tự ven biển của hòn đảo. Nó nhỏ bé, với hai phòng ngủ, một phòng tắm đơn và một gara tách biệt, nơi chồng chất những dụng cụ của cha ông và mùi mạt cưa thường trực. Sân sau, được che phủ bởi một cây sồi già đầy mấu, lá xanh quanh năm, che mất ánh nắng, vì thế mẹ anh trồng rau ở sân trước. Bà trồng cà chua và hành, củ cải và đậu, bắp cải và ngô, và trong mùa hè, không thể nhìn thấy con đường phía trước nhà từ phòng sinh hoạt chung. Đôi khi Steve có thể nghe lén những người hàng xóm làu bàu khe khẽ, phàn nàn về giá bất động sản tụt dốc. Nhưng khu vườn vẫn được trồng lại vào mỗi mùa xuân, và không ai từng nói một lời trực tiếp với cha ông. Họ biết, cũng như ông, rằng điều đó chẳng mang lại cho họ sự tốt đẹp nào hết. Hơn nữa, họ yêu quý vợ ông, và tất cả bọn họ đều biết, họ sẽ cần sự phục vụ của ông ấy một ngày nào đó. Cha ông được biết là một thợ mộc chạm trổ, nhưng ông ấy có năng khiếu trong việc sửa chữa bất kỳ cái gì. Qua nhiều năm, Steve thấy ông sửa chữa radio, truyền hình, xe ô tô, mấy cắt cỏ, ống nước thủng, máng xối đu đưa, cửa sổ vỡ, và một lần, ngay cả máy nén nước của một nhà máy chế tạo công cụ gần biên giới bang. Ông ấy chưa bao giờ đến trường trung học, nhưng có một hiểu biết bẩm sinh về cơ khí và các khái niệm về xây dựng. Ban đêm, khi chuông điện thoại reo, cha ông luôn trả lời, vì nó thường dành cho ông ấy. Phần lớn thời gian, ông ấy nói rất ít, lắng nghe khi một tình trạng khẩn cấp hoặc thứ gì khác được mô tả, và sau đó Steve sẽ quan sát ông cẩn thận ghi nhanh địa chỉ trên một mảnh giấy nào đó được xé từ tờ báo cũ. Sau khi gác điện thoại, cha ông sẽ đến gara, chất đầy hộp dụng cụ của ông, và đi khỏi, như thường lệ, mà không đề cập đến nơi ông sẽ đi hoặc khi nào ông sẽ về nhà. Vào buổi sáng, tờ check sẽ được cất gọn gàng bên dưới pho tượng Robert E.Lee* mà cha ông đã chạm khắc từ một mẩu gỗ trôi dạt, và mẹ ông sẽ xoa nắn lưng cho ông ấy và hứa sẽ gởi tiền vào tài khoản ngân hàng khi cha ông ăn điểm tâm. Đó là cảm giác thân mật thông thường duy nhất mà ông nhận thấy giữa họ. Họ không tranh cãi và né tránh sự xung đột như một luật lệ. Họ có vẻ thích thú với sự bầu bạn của người kia khi họ ở bên nhau, và chỉ một lần, ông bắt gặp họ cầm tay nhau trong lúc xem TV; nhưng trong suốt mười tám năm Steve sống ở nhà, ông chưa bao giờ thấy cha mẹ ông hôn nhau. (*Robert Edward Lee, đại tướng thống lĩnh Liên Minh Miền Nam trong cuộc nội chiến Nam - Bắc Mỹ 1861-1865, là một thần tượng quân sự trong trí nhớ người miền Nam dù Miền Nam thua miền Bắc vào năm 1865 dưới sự chỉ huy của tướng Ulysses S. Grant) Nếu như cha ông có một mối đam mê trong cuộc đời, thì đó là poker. Vào những đêm điện thoại không reo, cha ông đến một trong những hội để chơi bài. Ông là thành viên của những hội đó, không có tình thân hữu ngoài trò bài bạc. Ở đó ông sẽ ngồi cùng bàn với những người thợ xây dựng hay người săn nai, hay thành viên hội kín, hay những người cựu chiến binh, chơi trò Texas hold'em trong nhiều giờ. (Texas hold'em hay texas holdem là một biến thể của bài poker) Trò chơi làm ông ấy đam mê: ông ấy yêu sự tính toán xác xuất để kéo được một dãy năm con liên tiếp hay lựa chọn có nên tháu cáy hay không khi tất cả những gì ông nắm giữ là một đôi sáu. Khi ông nói về trò chơi, ông mô tả nó như là một môn khoa học, như thể vận may trong việc kéo những quân bài chẳng làm nên chiến thắng được. "Bí quyết là biết cách nói dối như thế nào," Ông