" Bậc Thầy - L. S. Hilton PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bậc Thầy - L. S. Hilton PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup 30-03-2020 Tặng Vị Thần Na Uy của tất cả mọi điều, cùng lời cảm tạ. MỞ ĐẦU Gấu váy nặng nề và gót giày nhọn hoắt lướt vun vút và gõ lạch cạch trên mặt sàn lát gỗ. Chúng tôi đi ngang hành lang đến một cửa đôi, tiếng rì rầm khe khẽ sau cửa cho biết cánh đàn ông đã ở trong phòng. Căn phòng được thắp nến, giữa các sofa và ghế ăn thấp có kê bàn nhỏ. Cánh đàn ông đang chờ, họ mặc quần lụa xa tanh đen dày cùng áo khoác có khuyết thùa ngang kiểu nhà binh, sợi ngang của vải óng ánh lộng lẫy bù khuyết cho lần áo trong hồ cứng ngắc. Thi thoảng, một chiếc khuy măng séc nặng nề hay một chiếc đồng hồ thanh mảnh lại nhoáng vàng trong ánh nến, một hình thêu chữ lồng thấp thoáng bên dưới một chiếc khăn tay lụa hoa mỹ. Cảnh tượng này hẳn sẽ có vẻ sến súa và giả tạo nếu mọi chi tiết không hoàn hảo đến vậy, nhưng tôi lại thấy như bị thôi miên, mạch đập của tôi chậm và sâu. Yvette đang được một người đàn ông có cổ tay áo gắn lông công dẫn đi - tôi nhìn lên và thấy một người khác tiến về phía mình, một cây dành dành giống của tôi gắn trên ve áo ông ta. “Vậy cách thức là thế này sao?” “Khi chúng ta ăn, đúng vậy. Sau đó cô được chọn. Bonsoir*.” “Bonsoir.” Dáng ông ta cao và mảnh khảnh, dù cơ thể có vẻ trẻ hơn khuôn mặt đã có phần nhăn nheo và đanh cứng, với mái tóc muối tiêu chải ngược trên vầng trán cao và cặp mắt lớn hơi sụp mí, như một vị thánh Byzantine. Ông ta dẫn tôi đến sofa, đợi tôi ngồi xuống rồi đưa cho tôi một ly vang trắng, chiếc ly bằng pha lê đơn giản, trong veo và cứng rắn. Nghi thức thì sáo rỗng, nhưng tôi thích từng bước thực hiện của nó. Julien rõ ràng có vẻ thích sự mong đợi. Các cô hầu bàn gần như khỏa thân trở lại với những đĩa nhỏ đựng bánh tôm hùm nhỏ xíu, rồi đến ức vịt xé nhỏ trong một hỗn hợp mật ong và gừng, mâm xôi và dâu tây đựng trong bánh ngói hình khay. Những món ăn mang tính lịch sự, không hề nhằm đến việc đáp ứng nhu cầu của chúng tôi. “Trái cây màu đỏ làm cái ấy của đàn bà thành mỹ vị,” bạn cùng bàn của tôi nhận xét. “Tôi biết.” Đôi chỗ có tiếng nói chuyện khe khẽ, nhưng hầu hết chỉ nhìn ngắm và uống rượu, ánh mắt chuyển từ đối phương sang những động tác nhanh nhẹn của các nữ hầu bàn có vóc dáng như vũ nữ, mảnh dẻ nhưng săn chắc cơ bắp, đùi căng đầy trên ống ủng bó chặt. Làm thêm sau giờ múa ba lê chăng? Tôi loáng thoáng thấy Yvette ở bên kia phòng, đang được bón sung nhồi hạnh nhân bằng một cây dĩa bạc nhọn đầu, cơ thể cô ườn ra như một con rắn, một bên đùi sẫm màu lấp ló giữa lớp lụa đỏ. Một cách trang nghiêm, các hầu bàn cầm cây dập nến đi quanh phòng, chỉnh mờ ánh sáng trong một làn mây hình sáp ong, và cùng lúc đó tôi cảm thấy tay người đàn ông trên đùi mình, vừa xoa vừa ve vuốt, không chút vội vã, và đáp lại là sự căng cứng giữa hai chân tôi. Các cô gái đưa ra những khay sơn mài đựng bao cao su, chai pha lê nhỏ chứa dầu thơm Tahiti, dầu bôi trơn được chắt vào khay đĩa. Vài cặp đang hôn nhau, có vẻ hài lòng với đối tượng được ghép đôi của mình; số khác lịch sự đứng dậy và băng qua phòng để tìm con mồi họ đã chọn từ trước. Váy của Yvette rơi xuống cạnh đôi chân mở rộng của cô, một người đàn ông vục đầu vào cô. Tôi bắt gặp ánh mắt cô, và cô mỉm cười, vẻ kiêu sa, trước khi ngả đầu giữa đống gối theo kiểu ngây ngất của một con nghiện chìm vào cơn phê. PHẦN MỘT BÊN NGOÀI CHƯƠNG MỘT Nếu hỏi tất cả bắt đầu thế nào, thì tôi có thể thành thật nói rằng lần đầu là tai nạn. Khi đó là sáu giờ tối, cái giờ mà cả thành phố lại một lần nữa rung lên trên trục của nó, và dù các đường phố phía trên ngập trong gió buốt của một tháng Năm nữa đầy khốn khổ, ga tàu bên dưới lại ngột ngạt và ẩm ướt, bẩn thỉu đầy giấy báo và vỏ thức ăn nhanh, những du khách bực dọc ăn mặc xuề xòa lòe loẹt chen chúc giữa những người tan sở về nhà đeo vẻ mặt cam chịu xám xịt. Tôi đang đứng trên sân ga đợi tàu tuyến Piccadilly ở Green Park sau một ngày khởi đầu tuyệt diệu của một tuần tuyệt diệu đầy ức hiếp và khi dễ trong công việc siêu tuyệt diệu của mình. Khi con tàu ở làn đối diện lăn bánh khỏi ga, một loạt tiếng ca cẩm rì rầm lan trong đám đông. Bảng thông báo cho biết chuyến tàu tiếp theo bị kẹt ở Holborn. Có kẻ nằm vắt ngang đường ray, có lẽ vậy. Kinh điển luôn, ý nghĩ ấy hiện rõ trên mặt mọi người. Vì sao họ cứ phải nhằm giờ cao điểm để mà tự xử chứ? Hành khách bên kia đường ray lục tục bỏ đi, trong số họ có một cô gái đi đôi giày cao gót lênh khênh và mặc váy bó sát màu xanh coban. Váy Alaïa mùa trước của Zara, tôi nghĩ. Có lẽ đang trên đường đến chỗ những bầy khách du lịch bốc mùi là quảng trường Leicester để nhập bọn với đám mạt vận nhà quê khác. Cô có mái tóc cực phẩm, một bờm tóc nối màu mận đổ xuôi đồ sộ, luồn một mớ gì đó như chỉ vàng loằng ngoằng sáng rực lên trong ánh đèn neon. “Judeee! Judy! Là cậu phải không?” Cô bắt đầu vẫy tay về phía tôi một cách nhiệt tình. Tôi giả bộ không nghe thấy. “Judy! Đây này!” Mọi người bắt đầu ngoảnh nhìn. Cô gái nọ đã lập cập bước đến đứng chênh vênh bên vạch cảnh báo màu vàng. “Tớ đây! Leanne đây mà!” “Bạn cô đang vẫy cô kìa,” người phụ nữ bên cạnh tôi tốt bụng nói. “Gặp cậu trên tầng ngay nhé!” Tôi không hay nghe thấy những giọng nói như của cô nữa. Tôi chưa từng nghĩ sẽ lại nghe thấy giọng cô. Rõ ràng cô sẽ không biến mất, mà con tàu thì không có dấu hiệu gì là sẽ xuất hiện, thế nên tôi vác chiếc cặp tài liệu da nặng nề lên vai và tìm đường chen qua đám đông. Cô đang đợi trên lối đi giữa hai sân ga. “Chào cậu! Tớ đã ngờ ngợ là cậu mà!” “Chào, Leanne,” tôi thận trọng mở lời. Cô nhảy cóc mấy bước cuối về phía tôi và choàng tay ôm lấy tôi như thể tôi là người chị em đã thất lạc lâu ngày. “Trông cậu này! Chuyên nghiệp dữ. Tớ không biết là cậu sống ở London đấy!” Tôi không nói thẳng ra đó có lẽ là bởi tôi và cô đã không nói chuyện cả một thập kỷ rồi. Bạn trên Facebook không hẳn là kiểu của tôi, và tôi cũng không bao giờ cần được nhắc nhở về nơi mình sinh ra. Rồi tôi lại cảm thấy mình như một con khốn. “Trông cậu ổn lắm, Leanne. Tớ thích kiểu tóc của cậu đấy.” “Thực ra tớ không lấy tên Leanne nữa. Bây giờ là Mercedes rồi.” “Mercedes? Cũng… hay đấy. Tớ thì chủ yếu dùng tên Judith. Nghe chững chạc hơn.” “Ừ, nhìn bọn mình này? Đều chững chạc hết cả rồi.” Tôi không nghĩ khi đó tôi biết cảm giác chững chạc là như thế nào. Tôi tự hỏi liệu cô có biết không. “Tớ bảo này, tớ có một tiếng trước giờ làm.” Lèm. “Cậu có muốn đi uống chút gì không? Tâm sự tí?” Đáng lẽ tôi có thể nói rằng mình bận, rằng tôi đang vội, rồi lấy số điện thoại của cô như thể mình định gọi lại thật. Nhưng tôi phải đi đâu cơ chứ? Và có điều gì đó dễ chịu đến kỳ lạ trong giọng nói quen thuộc ấy khiến tôi cảm thấy vừa cô đơn vừa yên lòng. Tôi chỉ còn vẻn vẹn hai tờ hai mươi bảng, mà còn ba ngày nữa mới đến kỳ trả lương. Thế nhưng, biết đâu lại có khoản gì mới. “Được thôi,” tôi đáp. “Để tớ mời cậu một ly. Đến Ritz nhé.” Hai ly cocktail sâm banh ở quán Rivoli, giá 38 bảng. Tôi còn 12 bảng trong thẻ Oyster và hai bảng tiền mặt. Tôi sẽ không còn nhiều tiền ăn cho đến cuối tuần. Có lẽ tôi ngu ngốc khi khoe mẽ như thế, nhưng đôi khi bạn cần cho thế giới thấy một chút bất cần. Leanne - Mercedes -thò một móng tay giả phủ sơn hồng tươi vào khều nhiệt tình quả anh đào dại đang bập bềnh trong ly và húp một ngụm đầy vui vẻ. “Ngon thật đấy, cảm ơn cậu nhé. Dù bây giờ tớ thích sâm banh Roederer hơn cơ.” Chà, thật đáng đời thói sĩ diện hão của tôi. “Tớ đi làm gần đây,” tôi mở lời trước. “Tranh nghệ thuật. Trong một nhà đấu giá. Tớ làm mảng Danh họa xưa.” Thực ra thì không phải, nhưng tôi cũng chẳng lo Leanne sẽ phân biệt được một bức Rubens với một bức Rembrandt. “Sang chảnh nhỉ,” cô đáp lại. Rồi cô nghịch chiếc que quấy rượu trong ly vẻ buồn chán. Tôi tự hỏi liệu cô có thấy hối hận vì đã gọi tôi, nhưng thay vì thấy khó chịu thì tôi lại có một cảm giác lâm ly là muốn làm vừa lòng cô. “Nghe thì thế,” tôi nói vẻ bạn bè tin cẩn, cảm thấy brandy và đường đang dịu dàng ngấm vào máu mình, “nhưng lương bèo bọt lắm. Tớ toàn cháy túi.” “Mercedes” bảo cô đã ở London một năm nay. Cô làm việc ở một quán bar sâm banh ở St James. “Cứ bảo chỗ ấy đẳng cấp, nhưng cũng toàn những trò tởm cũ thôi. Không có gì mờ ám cả,” cô vội thêm. “Chỉ là quán bar thôi mà. Nhưng tiền tip thì đã lắm.” Cô kể mình kiếm được mỗi tuần hai nghìn. “Nhưng cũng hại người,” cô nói vẻ não nuột, chọc tay vào vòng bụng nhỏ xíu của mình. “Uống rượu ấy mà. Nhưng bọn tớ không phải trả tiền. Olly bảo nếu cần thì cứ đổ vào chậu cây.” “Olly?” “Anh ta là chủ quán. Này, hôm nào cậu đi cùng tớ đi, Judy. Kiếm thêm chút đỉnh, nếu cậu cạn túi thật. Olly lúc nào cũng cần tìm thêm người. Cậu muốn gọi một ly nữa không?” Một cặp vợ chồng già đóng bộ bảnh bao, có lẽ đang trên đường đi nghe opera, ngồi xuống bàn đối diện chúng tôi. Người phụ nữ quét cặp mắt chỉ trích lên đôi chân rám nắng giả của Mercedes, rồi lên khe ngực nhấp nhánh của cô. Mercedes xoay người trên ghế, rồi chậm rãi và cố ý bắt tréo qua lại hai chân, cho tôi và ông lão tội nghiệp cạnh cô thấy một chớp nhoáng chiếc quần lót dây bằng ren đen của mình, trong lúc đó vẫn luôn nhìn thẳng vào mắt người phụ nữ kia. Chẳng cần phải hỏi có ai không vừa ý không. “Tớ nói rồi đấy,” cô nói, khi người phụ nữ kia đã quay khuôn mặt đỏ gay sang quyển thực đơn cocktail, “vui dữ lắm.” Dzui. “Bọn con gái từ đâu cũng có. Cậu chỉ cần tút lại một tí là trông hết sảy ngay. Đi nhé.” Tôi nhìn xuống bộ đồ Sandro bằng vải tuýt đen của mình. Áo khoác ôm, váy xòe xếp li. Ý định của nó là tạo vẻ điệu đà, chuyên nghiệp với chút ít phong cách Bờ Tây - ít nhất đó là điều tôi tự nói với mình khi vụng về chữa lại phần gấu lần thứ bao nhiêu tôi cũng chẳng nhớ nữa - nhưng bên cạnh Mercedes trông tôi như một con quạ thiểu não. “Bây giờ sao?” “Ừ, sao lại không? Tớ có nhiều thứ trong túi xách lắm.” “Tớ không biết nữa, Leanne.” “Mercedes.” “Xin lỗi.” “Đi mà, cậu có thể mặc cái áo ren của tớ. Ngực kia mà mặc vào thì đỉnh lắm. Hay là cậu có hẹn?” “Không,” tôi nói, nghiêng đầu sang phải để hút những giọt angostura sủi bọt cuối cùng. “Không, tớ không có hẹn.” CHƯƠNG HAI Tôi từng đọc ở đâu đó rằng quan hệ nhân quả là những vệ sĩ che chở chúng ta khỏi sự ngẫu nhiên, khỏi tính bất trắc đáng sợ của sự tình cờ. Vì sao hôm đó tôi lại đi cùng Leanne? Hôm ấy cũng chẳng tệ hơn bất cứ hôm nào. Nhưng lựa chọn được đưa ra trước những lời giải thích, dù chúng ta có buồn biết đến hay không. Trong thế giới tranh nghệ thuật, chỉ có hai nhà đấu giá ta thực sự cần biết tới. Họ là những người thực hiện các phiên bán trị giá hàng trăm triệu bảng, người xử lý những bộ sưu tập của các công tước túng quẫn và những nhà lãnh đạo chính trị không giỏi giao tiếp, những người tuồn hàng ngàn năm mỹ thuật và tay nghề qua những căn phòng tĩnh mịch như bảo tàng của mình và biến nó thành tiền mặt quyến rũ. Khi được nhận vào làm ở British Pictures vào ba năm trước, tôi cảm thấy cuối cùng mình đã thành công. Ít nhất là trong một hai ngày đầu. Rồi tôi nhanh chóng nhận ra rằng chỉ có phu khuân vác, những người thực chất làm công việc bê tranh, mới quan tâm đến tranh. Những kẻ còn lại có lẽ chỉ làm màu. Dù tôi được tuyển dụng dựa trên thực lực, dù chăm chỉ, cẩn thận và nói chung là khá hiểu biết về nghệ thuật, tôi vẫn không thể không thừa nhận rằng theo tiêu chuẩn của nhà đấu giá mà nói, tôi rõ ràng không lấy gì làm xuất sắc. Sau vài tuần làm việc trong ban của mình, tôi nhận ra rằng không ai ở đó thực sự quan tâm bạn có phân biệt được một bức Brueghel với một bức Bonnard hay không, rằng có những mật mã khác, sống còn hơn cần giải. Sau ba năm, vẫn có khá nhiều điều tôi còn thích ở công việc của mình tại nhà đấu giá. Tôi thích bước qua người gác cửa mặc đồng phục để vào sảnh lớn thơm mùi hoa lan. Tôi thích vẻ kính cẩn đầy thỏa mãn mà thân chủ dành cho các “chuyên gia” khi tôi leo lên cầu thang bề thế bằng gỗ sồi, vì lẽ tự nhiên, mọi thứ ở nhà đấu giá này đều có cái vẻ bề thế của ba thế kỷ cộng lại. Tôi thích nghe trộm những cuộc đối thoại của các chuyên gia nhận dạng châu Âu, những nguyên âm giọng Pháp và Ý của họ cũng nảy vun vút như mái tóc họ. Tôi thích điểm này, không như họ, tôi không chầu chực để đánh bẫy một chú nhím đi ngang qua mớ tóc sấy khô tua tủa của mình. Tôi tự hào với thành quả mình đạt được, giành được vị trí trợ lý sau một năm thực tập ở British Pictures. Không phải tôi định ở lại ban này lâu. Tôi sẽ không dành cả cuộc đời còn lại để ngắm tranh vẽ ngựa và chó. Ngày hôm ấy, cái ngày tôi tình cờ gặp Leanne, bắt đầu bằng một email từ Laura Belvoir, phó ban. Bức thư có tiêu đề “Tiến Hành Ngay Lập Tức!” nhưng nội dung chẳng có gì. Tôi bước sang đầu kia của văn phòng để hỏi thực ra chị ta cần gì. Gần đây các sếp vừa trải qua một khóa học quản lý và Laura rất ủng hộ ý tưởng giao tiếp số từ bàn này sang bàn khác, không may là chị ta còn chưa qua được bước gõ phím. “Tôi cần cô xác định nguồn gốc cho bộ tranh Longhi.” Chúng tôi đang chuẩn bị một loạt tranh chân dung nhóm của họa sĩ Venice này cho phiên bán tác phẩm Ý sắp tới. “Chị muốn tôi kiểm tra tên tranh trong kho à?” “Không, Judith. Đó là việc của Rupert. Cô đến Heinz xem có nhận diện được nguyên mẫu không.” Rupert là trưởng ban, hiếm khi xuất hiện trước mười một giờ. Kho dữ liệu Heinz là một catalog khổng lồ những bức ảnh được gắn tên - việc của tôi là tra tìm xem những vương tôn công tử Anh nào, trong những cuộc vui vào thế kỷ mười tám của họ, đã ngồi làm mẫu cho Longhi vẽ, vì nhận diện được cá nhân cụ thể trong bức tranh có thể khiến chúng thú vị hơn với người mua. “OK. Chị có bộ ảnh nào không ạ?” Laura thở dài. “Trong thư viện ấy. Chúng được đánh dấu là Longhi/Spring.” Vì Nhà Đấu Giá chiếm cả một dãy nhà, nên từ ban của tôi đến thư viện mất bốn phút đi bộ, và đó là chặng đường tôi đi nhiều lần mỗi ngày. Dù người ta đồn rằng bên ngoài đã là thế kỷ hai mốt, Nhà Đấu Giá vẫn vận hành chủ yếu như một ngân hàng thời Victoria. Nhiều nhân viên dành cả ngày làm việc của mình cuốc bộ qua các hành lang để giao giấy tờ viết tay cho nhau. Kho dữ liệu và thư viện hầu như còn không được số hóa đàng hoàng; người ta thường va phải những hồn ma bé nhỏ như trong truyện của Dickens, bị nhét đầy trầm uất vào những hốc tối khuất lấp giữa từng đống hóa đơn và bản sao sổ sách. Tôi lấy phong bì đựng ảnh rồi quay lại bàn để lấy túi xách. Chuông điện thoại reo. “A lô? Serena ở bàn tiếp tân đây. Có quần của Rupert này.” Vậy là tôi lật đật lết đến bàn tiếp tân, nhận cái túi khổng lồ từ thợ may của Rupert, được giao tới từ phố Savile Row cách đây năm trăm mét có lẻ, và mang nó về ban. Laura ngẩng lên. “Cô vẫn chưa đi à Judith? Cô làm gì từ nãy đến giờ thế? Mà tiện thể đang ở đây, cô đi mua cho tôi một cốc cappuccino được không? Đừng đến căng tin, đến cái chỗ dễ thương ở hẻm Crown ấy. Nhớ lấy hóa đơn nhé.” Giao cà phê xong, tôi đi bộ đến kho dữ liệu. Tôi có năm bức ảnh trong túi, các cảnh vật ở nhà hát Fenice, đại lộ Zattere dọc biển và một tiệm cà phê trên khu cầu Rialto, và sau khi lục tìm đống thùng hết vài giờ đồng hồ, tôi đã lập được một danh sách mười hai nhân dạng nguyên mẫu khá rõ ràng, từng sống ở Ý cùng thời điểm với các bức chân dung. Tôi bổ sung cho chỉ mục Heinz các bức ảnh để từng nguồn gốc được đánh dấu vào catalog rồi mang chúng về cho Laura. “Cái gì đây?” “Bộ tranh Longhi mà chị bảo tôi làm.” “Đây là đợt tranh Longhi từ phiên bán sáu năm trước. Thật tình, Judith. Lô ảnh ở trong email tôi gửi cô sáng nay cơ mà.” Hẳn là bức email không có nội dung kia. “Nhưng Laura, chị nói là chúng ở trong thư viện mà.” “Ý tôi là cái thư viện điện tử ấy.” Tôi không nói gì. Tôi đăng nhập vào catalog trực tuyến của ban, tìm những bức ảnh đúng (được đặt tên thư mục là Lunghi), download chúng xuống điện thoại và quay lại Heinz khi bên tai còn vo ve lời trách mắng của Laura về tội lãng phí thời gian. Tôi đã hoàn thành đợt xác định nguồn gốc thứ hai vào lúc chị ta trở về sau bữa trưa ở Caprice, và tiếp tục với những khách mời thuộc diện chào hàng qua điện thoại chưa phúc đáp về buổi ngắm tranh riêng trước phiên bán. Rồi tôi viết loạt tiểu sử và gửi chúng cho Laura và Rupert bằng email, chỉ cho Laura cách mở file đính kèm, bắt tàu đến kho Nghệ thuật ứng dụng gần cảng Chelsea để kiểm tra một mẫu lụa mà Rupert nghĩ có thể sẽ hợp với một bức màn trong phòng tranh Longhi, không chút ngạc nhiên nhận ra là nó không hợp, đi bộ gần hết chặng đường về vì tuyến Circle bị kẹt ở đường Edgware, rồi đi vòng đến cửa hàng Lillywhites trên giao lộ Picadilly để lấy một cái túi ngủ cho chuyến cắm trại của con trai Laura, trở lại trong tình trạng kiệt sức và bẩn thỉu vào 5 giờ 30 để đối mặt với một cuộc xỉa xói nữa vì tội bỏ lỡ buổi xem tranh nội bộ của ban với chính những bức tranh mà tôi đã nghiên cứu suốt cả buổi sáng. “Thật tình, Judith,” Laura bình luận, “cô sẽ không bao giờ khá lên được nếu cứ nhảy loi choi khắp thành phố trong khi đáng lẽ cô nên trực tiếp thấy tác phẩm.” Tạm thời không nói đến sợi dây vô hình đang bị già néo, có lẽ cũng không đáng ngạc nhiên lắm khi gặp Leanne ở ga tàu ít lâu sau đó, tôi quả thực muốn uống một chút. CHƯƠNG BA Cuộc phỏng vấn ở hộp đêm Gstaad hôm ấy gồm có Olly, tay Phần Lan khổng lồ trầm uất, chủ hộp đêm kiêm luôn quản lý và vệ sĩ gác cửa, nhìn tôi từ đầu đến chân trong chiếc áo ren màu nude mà tôi vội vã lồng vào trong nhà vệ sinh ở Ritz. “Cô biết uống rượu không?” anh ta hỏi tôi. “Cô ấy người Liverpool đó,” “Mercedes” cười khùng khục, và thế là xong. Vậy là trong tám tuần sau đó, tôi làm việc các tối thứ Năm và thứ Sáu ở hộp đêm. Không phải khung giờ mà hầu hết người ở tuổi tôi thấy hào hứng, nhưng uống rượu sau giờ làm cùng đồng nghiệp không hẳn là một điểm nhấn lớn trong sự nghiệp của tôi. Cái tên, cũng như mọi thứ khác ở nơi này, là một nỗ lực lỗi thời nhắm vào tầng lớp giả tạo*; điều duy nhất có thật về hộp đêm này là khoản tiền chênh lệch cao đến chảy nước mắt tính trên đầu chai rượu sâm banh. Trên thực tế, nó chẳng khác là mấy so với Annabel, hộp đêm nổi tiếng một thời ở quảng trường Berkeley cách đó vài con phố. Cũng những bức tường màu vàng be thập niên tám mươi, cũng những bức tranh dở ương, cũng một đám đàn ông tuổi xế chiều bụng phệ buồn thảm, cũng một đàn gái ngả ngớn không hẳn là gái làm tiền nhưng luôn cần trợ cấp để trả tiền nhà. Công việc rất đơn giản. Trước khi hộp đêm mở cửa lúc chín giờ, khoảng mười cô gái tụ tập lại để nhận rượu phát từ tay pha chế Carlo trong chiếc áo trắng mới là thẳng thớm chỉnh tề nhưng hơi bốc mùi. Đám nhân viên còn lại bao gồm một bà lão lọm khọm chịu trách nhiệm giữ áo khoác, và Olly. Đúng chín giờ anh ta kéo chốt cánh cửa mở ra phố và nói một câu đùa thần thánh muôn đêm như một. “OK các gái, tụt quần.” Sau khi mở cửa, chúng tôi ngồi tán gẫu, lật giở tạp chí Ngôi sao hoặc nhắn tin cả giờ đồng hồ cho đến khi khách bắt đầu kéo vào, hầu như luôn đi một mình. Kế hoạch là họ sẽ chọn cô gái mình thích và đưa cô ta đến ngồi ở một trong những gian buồng riêng che rèm nhung màu hồng, một việc được gọi khá sỗ sàng là “bị múc”. Khi bạn đã bị múc, mục tiêu của bạn là khiến khách hàng gọi càng nhiều chai sâm banh đắt đến lố bịch ở đây càng tốt. Chúng tôi không có lương, chỉ được nhận mười phần trăm trên mỗi chai rượu cùng toàn bộ chỗ tiền boa khách hàng quyết định để lại. Đêm đầu tiên, tôi bò ra khỏi bàn khi đã uống hết quá nửa chai thứ ba và phải nhờ cụ bà giữ tóc cho trong khi tôi móc họng nôn ra. “Con bé ngốc nghếch,” bà ta nói với vẻ thỏa mãn thảm đạm. “Rượu ấy có phải để mày uống đâu.” Thế là tôi khôn ra. Carlo phục vụ sâm banh bằng những chiếc ly khổng lồ to cỡ chậu cá vàng, mà chúng tôi sẽ đổ vào xô đựng đá hoặc bồn hoa ngay khi khách hàng rời bàn. Một chiến lược khác là thuyết phục ông ta mời một “người bạn” đến chia ly rượu. Các cô gái đi giày chứ không bao giờ đi Sandal hở mũi, như một mẹo để nửa đùa nửa thật thuyết phục ông ta uống rượu từ trong giày của bạn. Bạn có thể đổ một lượng sâm banh đáng ngạc nhiên vào một chiếc Louboutin cỡ 39. Nếu không còn cách nào khác, chỉ việc đổ ra sàn. Ban đầu, tôi cảm thấy nơi này còn tiếp tục mở cửa được đúng là kỳ tích. Dường như nó phải thuộc về thời vua Edward, với những trò tán tỉnh gượng gạo và khoản phí cắt cổ để được ngồi cùng chúng tôi. Sao lại có người đàn ông nào chấp nhận chuyện này khi anh ta có thể yêu cầu bất cứ thứ gì mình muốn từ ứng dụng I-Hooker? cổ lỗ đến đau lòng. Nhưng tôi dần nhận ra rằng đó chính là thứ lôi kéo cánh đàn ông trở lại. Họ không tìm sex, dù nhiều người trong số đó có thể sẽ động tay động chân sau vài chậu cá vàng. Những người đàn ông này không phải tay chơi, ngay cả trong mơ. Họ là những ông chồng trung niên muốn được tự huyễn hoặc mình rằng họ đang hẹn hò thực sự, dù chỉ trong vài giờ, với một cô gái thực sự, gái đẹp, ăn mặc chải chuốt có phong thái lịch sự, những người tỏ ra muốn nói chuyện với họ. Mercedes, với bộ móng tay và mái tóc nối, là cô gái được xếp hạng chơi bời, dành cho những khách hàng muốn thứ gì đó hơi hư hỏng một chút, nhưng Olly muốn đám còn lại chúng tôi mặc những bộ váy đơn giản, tinh tế, không trang điểm quá dày, đầu tóc sạch sẽ, nữ trang kín đáo. Họ không muốn liều lĩnh hay rắc rối, hay bị vợ phát hiện, hay có lẽ cả nỗi xấu hổ và phiền toái của việc phải cố cho cương lên. Vẫn biết là thảm hại đến khó tin, nhưng họ chỉ muốn được cảm thấy có người muốn mình. Olly biết thị trường của mình, và cung ứng cho nó một cách hoàn hảo. Trong hộp đêm có một sàn nhảy nhỏ xíu, với Carlo kiêm việc DJ, để tạo ấn tượng rằng bất kỳ lúc nào khách cũng có thể cuốn chúng tôi vào một đêm disco, dù chúng tôi không bao giờ được phép khuyến khích chuyện đó. Có một thực đơn gồm món bít tết hoàn toàn chấp nhận được, sò điệp và kem - đàn ông trung niên thích nhìn các cô gái ăn tráng miệng nhiều chất béo. Lẽ hiển nhiên là mấy ly kem ngọt ấy chỉ nằm yên trong bụng cho đến khi chúng tôi lẻn được vào nhà vệ sinh. Những cô nàng dính ma túy hay lẳng lơ quá lộ liễu không trụ nổi một đêm - một Thông Báo Lịch Sự dành cho các quý ông tuyên bố rằng ở đây Nghiêm Cấm việc Hộ Tống bất kỳ Quý Cô nào Ra Khỏi Hộp Đêm. Họ phải không ngừng khao khát chúng tôi. Tôi thấy dần dần mình trở nên mong chờ tối thứ Năm và thứ Sáu. Trừ Leanne (tôi vẫn chưa quen nghĩ cô là Mercedes), những cô gái khác không thân thiện cũng chẳng khó gần; vui vẻ nhưng không tọc mạch. Họ không tỏ ra quan tâm đến cuộc sống của tôi, có lẽ vì không một chi tiết nào họ lộ ra về chính mình là thật. Đêm đầu tiên, khi chúng tôi bước có phần ngật ngưỡng trên phố Albemarle, Leanne gợi ý tôi chọn một cái tên để dùng trong hộp đêm. Tên đệm của tôi là Lauren; trung tính, không để lộ điều gì. Tôi nói với họ rằng tôi học bán thời gian ngành Lịch sử nghệ thuật. Tất cả các cô gái ở đó dường như đều đang học gì đó, chủ yếu là quản trị kinh doanh; và có lẽ một vài người trong số họ đang học thật. Không ai là người Anh; rõ ràng ý tưởng rằng họ đang làm việc trong một hộp đêm để tìm cách vươn lên gợi khách liên tưởng gì đó đến Eliza Doolittle. Leanne đang cố sửa chất giọng phương ngữ Liverpool nặng trịch của mình - đệm ngồi cô nói thành “đệm ngoài”; tôi điều chỉnh giọng nói của chính mình, thứ giọng tôi dùng ở nơi làm việc, thứ đã trở thành giọng nói tôi mơ ước, để cho nó có vẻ bớt lộ là giọng tập, nhưng tôi nói nghe vẫn khá là “quý tộc”, trước vẻ hài lòng ra mặt của Olly. Công việc ban ngày của tôi ở phố Prince thì có muôn vàn những quy tắc bất thành văn nhỏ xíu. Địa vị của bất cứ ai trên nấc thang xã hội đều có thể được xếp vào hạng thứ n chỉ qua một cái liếc mắt, và học được những quy tắc đó còn khó hơn nhận diện tranh, vì toàn bộ ý nghĩa của chúng là nếu bạn ở bên trong, bạn sẽ không bao giờ cần ai phải dạy về chúng. Những giờ đồng hồ cần mẫn tự học cách nói và cách đi đứng của tôi có thể qua mặt được phần đông mọi người - như Leanne chẳng hạn, có vẻ ngỡ ngàng và miễn cưỡng thán phục sự lột xác của tôi - nhưng ở đâu đó trong Nhà Đấu Giá là một chiếc rương chứa những chiếc chìa khóa mở vào Xứ Sở Diệu Kỳ của Alice mà tôi sẽ không bao giờ được sở hữu, những chiếc chìa khóa mở ra những khu vườn còn tí hon hơn nữa với những bức tường càng thêm bất khả xâm phạm vì chúng vô hình. Thế nhưng ở Gstaad, tôi là món hàng “đẳng cấp” và các cô gái khác, nếu có nghĩ đến, đều tin rằng chẳng có khác biệt nào giữa bạn gái các danh thủ bóng đá và những cô nàng sớm nở tối tàn nằm đối diện nhau trên hai trang tạp chí OK!. Tất nhiên, theo một nghĩa sâu xa hơn thì họ nghĩ vậy cũng đúng. Chủ đề tán gẫu ở hộp đêm chủ yếu là quần áo, sắm sanh giày dép túi ví hàng hiệu, và đàn ông. Có mấy cô tuyên bố mình có bạn trai nghiêm túc, nhiều người đã lấy chồng, trong trường hợp đó việc đương nhiên của họ là than phiền không ngớt về bạn trai của mình; những người khác đang hẹn hò, mà trong trường hợp đó việc đương nhiên của họ là than phiền không ngớt về các mối hẹn hò. Với Natalia và Anastasia và Martina và Karolina thì sự thật hiển nhiên là đàn ông là nỗi khổ cần thiết mà họ phải chịu đựng vì giày dép, vì túi ví và vì những bữa ăn tối thứ Bảy trong các nhà hàng Nhật ở Knightsbridge. Các tin nhắn được mổ xẻ kỹ càng, về tần suất và mức độ tình cảm của chúng, nhưng mọi hồi âm giàu xúc cảm đều được để dành cho khả năng những người đàn ông của họ đang gặp gỡ những người phụ nữ khác hoặc không tặng đủ lượng quà cần thiết. Liền sau đó là âm mưu đi và âm mưu lại - với những trò lừa đảo chi tiết trên iPhone, họ nói chuyện về những người đàn ông có du thuyền, thậm chí có máy bay, nhưng tôi không bao giờ cảm thấy chút thỏa mãn nào trong đó. Tình yêu không phải là thứ ngôn ngữ mà bất cứ ai trong chúng tôi dùng đến; da thịt tươi mát và cặp đùi săn chắc là đơn vị tiền tệ của chúng tôi, những thứ đó chỉ có giá trị cho những ai đã quá tuổi được thưởng thức chúng miễn phí. Mọi người đều nhất trí rằng đàn ông lớn tuổi nói chung là ít phiền phức, dù họ phải gánh chịu không ít lời ca thán khó nghe về công năng sinh lý yếu kém. Hói, hôi mồm và Viagra là thực tế không thể tránh khỏi, dù bạn sẽ không bao giờ biết được qua những tin nhắn tán tỉnh đầy mời gọi đã hình thành nên phương thức giao tiếp giữa các cô gái và những người đàn ông của họ. Đây chính là cách thế giới của họ vận hành, và họ để dành sự chán ghét, đôi khi cả nước mắt, cho những cô gái còn lại. Ở Gstaad, lần đầu tiên tôi có cái gọi là bạn gái, và tôi có phần hổ thẹn về niềm vui mà chuyện này mang lại cho mình. Hồi đi học tôi không có bạn bè. Thứ tôi có là không ít lần thâm tím mặt mày, thái độ cao ngạo hung hăng, vấn đề trốn học có hệ thống và thú vui lành mạnh đối với sex, nhưng bạn bè thì tôi không có thời gian. Ngoài việc giải thích rằng chúng tôi từng quen biết ở miền Bắc, Leanne và tôi có một thỏa thuận ngầm rằng chúng tôi là bạn tốt từ thuở niên thiếu (nếu việc người này không tự nguyện tham gia ấn mặt người kia vào bồn cầu có thể xếp họ vào dạng bạn tốt của nhau) và không bao giờ nhắc đến chuyện này. Ngoài Frankie, thư ký ở ban tại Nhà Đấu Giá, thì sự hiện diện thường xuyên duy nhất của phái nữ trong đời tôi là mấy người chung nhà, hai cô nàng người Hàn Quốc thật thà đang học y ở Imperial. Chúng tôi đính lịch trực nhật trong nhà tắm mà chúng tôi đều lịch sự tuân theo, ngoài ra hầu như chúng tôi không cần gì đến đối thoại. Ngoại trừ những phụ nữ gặp ở loại tiệc đặc biệt mà tôi thích đến dự, tôi luôn xác định sẽ chỉ gặp thù địch và ganh ghét từ phe cùng giới. Tôi không bao giờ học được cách buôn chuyện, hay khuyên nhủ, hay lắng nghe những câu chuyện xào xáo vô tận về khát khao không thành của họ. Nhưng ở đây, tôi thấy mình có thể hòa nhập. Khi ngồi trên tàu điện ngầm, tôi luân phiên đọc Burlington Magazine và The Economist for Heat và Closer, để khi câu chuyện về cánh đàn ông nguội đi tôi cũng có thể tham gia bộ phim truyền hình dài vô tận của họ về các tài tử điện ảnh. Tôi bịa ra một chuyện thất tình (và ám chỉ một lần phá thai) để giải thích vì sao tôi không hẹn hò. Tôi Chưa Sẵn Sàng, và tôi thích thú được nghe họ khuyên rằng đã đến lúc Kết Thúc và Bước Tiếp. Cuộc chơi ban đêm của tôi, tôi giữ cho riêng mình biết. Tôi nhận ra thế giới kỳ lạ nhỏ bé và cô đọng này hợp với mình, ở đây thế giới bên ngoài lùi xa, và không có gì thực sự là thật. Nó khiến tôi thấy an toàn. Leanne không nói dối về chuyện tiền. Phóng đại thì có thể, nhưng thu nhập vẫn khá là đáng ngạc nhiên. Ngoài tiền phần trăm tính trên đầu chai rượu coi như bù tiền taxi đi lại, tôi kiếm được khoảng sáu trăm một tuần riêng tiền tip, những tờ hai mươi và năm mươi vo viên, đôi khi còn nhiều hơn nữa. Hai tuần làm việc đã trang trải xong khoản nợ tín dụng ngân hàng thảm hại của tôi, và một vài tuần sau tôi bắt chuyến tàu Chủ nhật đến một trung tâm mua sắm gần Oxford để làm vài khoản đầu tư nho nhỏ. Một bộ váy đen của Moschino để thay thế bộ đồ Sandro cũ kĩ, một chiếc váy cocktail Balenciaga trắng thuần đến chói mắt, giày đế bằng Lanvin, một chiếc váy họa tiết dạo phố của DVF. Cuối cùng bộ răng bảo hiểm y tế quốc gia của tôi cũng được làm laser ở phố Harley, tôi đặt hẹn ở Richard Ward để cắt lại tóc sao cho có vẻ vẫn như cũ nhưng đắt gấp năm lần. Không một thứ nào trong đó là dành cho hộp đêm. Cho nó, tôi có vài bộ váy đơn giản mua trên phố chính và nâng cấp cho chúng bằng giày Louboutin chính hãng. Tôi dọn sạch một ngăn trong tủ quần áo rồi cẩn thận cất hầu hết những thứ mình vừa mua vào đó, bọc trong một lớp khăn giặt khô. Tôi thích ngắm nhìn chúng, đếm đi đếm lại chúng như một kẻ đầu cơ hà tiện. Khi còn bé tôi từng đọc ngấu nghiến những bộ truyện lấy bối cảnh trường nội trú kiểu cổ lỗ, những bữa tiệc lúc nửa đêm trong khu học xá, và những bữa tiệc mừng chiến thắng trên sân vận động. Những bộ cánh mới này là váy đồng phục và gậy chơi bóng vợt của tôi, là trang phục của con người tôi sẽ trở thành. Ông ta bắt đầu đến khi tôi đã làm việc ở hộp đêm được một tháng. Thứ Năm thường là đêm đông khách nhất ở Gstaad, trước khi những người đàn ông lên thành phố làm việc trở về vùng nông thôn, nhưng hôm ấy trời mưa như trút và trong quầy bar chỉ có hai vị khách. Tạp chí và điện thoại bị cấm sử dụng ngay khi có khách, nên đám con gái đều vật vờ vô vị, chuồn ra hiên vừa lom khom hút thuốc vừa lúng túng cố bảo vệ mái tóc khỏi bị xù lên vì ướt. Chuông reo và Olly bước vào. “Ngồi thẳng lên, các quý cô! Đêm nay là đêm may mắn của các cô đấy!” Vài phút sau, một trong những người đàn ông ghê tởm nhất tôi từng thấy bê cái bụng khổng lồ vào phòng. Ông ta thậm chí không buồn thử ngồi ở quầy bar, mà phịch ngay xuống chiếc ghế đệm dài gần nhất, nóng nảy vẫy tay đuổi Carlo đi cho đến khi đã cởi cà vạt và lấy khăn tay lau mặt. Ông ta có cái vẻ lôi thôi mà chỉ những thợ may thực sự xuất sắc mới có thể giải quyết, và thợ may của ông ta rõ ràng đã bị ngợp quá. Cái áo khoác mở cúc để lộ áo sơ mi màu kem chật ních bọc lên tầng mỡ bụng đè trên hai đầu gối mở rộng, nhiều lớp cằm đùn trên cổ áo, ngay cả đôi giày ông ta đi cũng có vẻ chật ních. Ông ta gọi một cốc nước đá. “Lâu rồi không thấy Lão Béo,” có người nói thầm. Công thức chung là các cô gái phải nói chuyện sôi nổi, không ngừng hất tóc và đánh mắt chớp mi đưa tình, trông như thể chúng tôi chỉ đang tình cờ có mặt ở đó, trong bộ cánh điệu đà mà không người đưa rước, cho đến khi khách hàng chọn xong. Lão béo là người lựa chọn nhanh chóng. Ông ta hất hàm về phía tôi, những cánh da thịt lốm đốm chảy xệ trên má ông ta rúm lại thành một nụ cười. Trong lúc bước qua tôi để ý thấy những vạch vằn thô cứng trên chiếc cà vạt bị vứt một bên, chiếc nhẫn khắc dấu hằn trên ngón út mập ú. Ọe. “Em là Lauren,” tôi mỉm cười nhẹ nhàng. “Ngài có muốn em ngồi cùng không?” “James,” ông ta đáp lại. Tôi ý tứ ngồi xuống, bắt tréo chân ở mắt cá, rồi nhìn ông ta, chớp mắt đầy mong đợi. Không nói chuyện cho đến khi họ gọi rượu. “Chắc là cô muốn tôi mua rượu cho?” ông ta cằn nhằn, như thể đã biết hộp đêm này hoạt động thế nào những vẫn cảm thấy bị ép buộc. “Cảm ơn ngài. Thế thì hay quá.” Ông ta không buồn nhìn vào thực đơn. “Thứ gì đắt nhất?” “Em nghĩ…” Tôi do dự. “Gọi đại cho xong đi.” “Ừm, James, thế thì là Cristal 2005. Ngài thấy thế nào?” “Lấy đi. Tôi không uống.” Tôi gật đầu với Carlo trước khi ông ta kịp đổi ý. Chai 2005 có cái giá dữ dội là ba ngàn. Ba trăm đã vào túi tôi rồi. Ê, Quý Ngài Hào Phóng. Carlo ôm chai rượu qua như thể nó là đứa con đầu lòng của mình, nhưng James vẫy tay đuổi anh ta đi, mở nút và đổ đầy hai chậu cá vàng cho xong nhiệm vụ. “Cô có thích sâm banh không, Lauren?” ông ta hỏi. Tôi cho phép mình nở một nụ cười gượng. “Chà, có lúc cũng hơi vô vị.” “Sao cô không mời các bạn cô uống rồi gọi thứ gì mình thích ấy?” Tôi thích ông ta vì điều đó. Vẻ bề ngoài ông ta rất đáng tởm, đó là sự thật, nhưng việc ông ta không bắt tôi phải giả bộ có cái gì đó thật can đảm. Tôi gọi một chai Hennessey và nhấp thật chậm rãi, rồi ông ta kể tôi nghe một chút về nghề nghiệp của mình, mà tất nhiên là liên quan đến tiền bạc, rồi ông ta cố nhấc mình lên và lắc lư ra khỏi quán, để lại năm trăm bảng tiền năm mươi mới toanh trên bàn. Đêm hôm sau, ông ta trở lại và làm đúng như hôm trước. Leanne nhắn tin cho tôi vào sáng thứ Tư để báo rằng ông ta đã đến hỏi Lauren vào thứ Ba, và vào thứ Năm ông ta lại xuất hiện, sau khi hộp đêm mở cửa vài phút. Một số cô gái ở đây có “khách quen”, nhưng không ai hào phóng như vậy, và điều đó cho tôi một địa vị mới trong số họ. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy không hề có sự ghen tị. Nhưng nói cho cùng, công việc là công việc. CHƯƠNG BỐN Từ khi bắt đầu làm việc ở hộp đêm, chuỗi hổ thẹn diễn ra hằng ngày trong cuộc sống của tôi ở ban đấu giá bị quắng đi nhẹ hẫng. Tại Gstaad, ít nhất cũng có một ảo giác rằng tôi cầm trịch. Tôi cố gắng tự nhủ rằng mình thấy cũng vui với việc cuộc sống ngay thẳng, cuộc sống “thực” của tôi, cách Olly và các cô gái chỉ vài con phố London, bị tước đoạt mọi giá trị hay quyền lực. Tại hộp đêm, tôi cảm thấy mình được trân trọng mỗi lần bắt tréo chân, trong khi ở công việc thực sự của mình, công việc đáng lẽ phải là sự nghiệp của tôi, tôi vẫn chỉ là một đứa chạy vặt. Trên thực tế, Gstaad và phòng trưng bày tranh cao cấp nhất thế giới có nhiều điểm chung hơn nó sẵn sàng thừa nhận. Làm việc ở Nhà Đấu Giá dù đáng thất vọng, nhưng tôi vẫn nhớ lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy một bức tranh, và kỷ niệm đó vẫn còn rực sáng trong tôi. Bức tranh biểu tượng của Bronzino, Venus, Cupid, Folly and Time, tại Phòng Trưng bày Quốc gia, ở quảng trường Trafalgar. Đến giờ tôi vẫn cảm thấy bức tranh này có tính xoa dịu, không chỉ vì sự duyên dáng bí ẩn, đầy phong cách trong bố cục - tinh nghịch và gợi dục đầy thuần khiết, hay ẩn ý đen tối về cái chết - mà vì chưa có lấy một học giả nào đưa ra giả thuyết nào về ý nghĩa của nó mà được chấp nhận. Vẻ đẹp của nó nằm đâu đó trong nỗi bực dọc mà nó khơi lên. Lần đó là trong chuyến tham quan London của trường, nhiều giờ nóng bức trên xe buýt với mùi xúc xích và khoai tây phô mai, đám gái xinh buôn quàng quạc ở hàng ghế sau, các giáo viên trông có vẻ yếu ớt và ngượng nghịu đến kỳ lạ trong trang phục thường ngày không đặc trưng. Chúng tôi đã trầm trồ khi đi qua cổng Cung điện Buckingham, rồi lội bộ dọc trung tâm thương mại đến phòng trưng bày trong chiếc áo nỉ đồng phục màu xanh lính thủy - chỉ còn thiếu tấm thẻ tên nữa là giống hệt nhân viên tổng đài. Đám con trai trượt trên mặt sàn lát gỗ, đám con gái bình phẩm to và thô lỗ về từng bức tượng khỏa thân chúng tôi đi qua. Tôi cố gắng lỉnh đi một mình, muốn đắm mình vào trong những căn phòng tưởng chừng bất tận hình ảnh, rồi tôi tình cờ gặp được bức tranh của Bronzino. Như thể tôi vấp ngã vào một cái hố, một cảm giác choáng ngợp vì sốc, bộ não bị bỏ lại sau cơ thể. Vị nữ thần đứng đó, và kia là con trai nàng, kia là ông lão bí ẩn đứng trên họ. Khi đó tôi chưa biết họ là ai, nhưng tôi nhận ra, một cách vô thức, rằng mình chưa từng biết thế nào là thiếu thốn cho đến khi nhìn thấy những nét màu tinh tế kia phát sáng và hòa quyện vào nhau. Rồi tôi cũng biết khao khát, lần đầu tiên tôi biết mình muốn gì và mình không có gì. Tôi ghét cảm giác ấy. Tôi ghét sự thực rằng mọi thứ tôi biết đột nhiên trở nên xấu xí trong mắt tôi, và rằng khởi nguồn của cảm giác ấy, sức lôi kéo và quyến rũ bí ẩn của nó, chiếu rọi vào tôi từ bức tranh này. “Rashers thích ngắm đàn bà khỏa thân kìa!” Leanne và vài đứa bạn bắt kịp tôi. “Cái đồ les!” “Đồ lesssss!” Giọng điệu the thé sỗ sàng của chúng nó làm phiền đến những khách tham quan khác, họ quay lại nhìn, mặt tôi nóng rực lên vì xấu hổ. Hồi đó Leanne có mái tóc vàng ngả cam, uốn xoăn tít và xịt gel cứng ngắc thành một khối như mớ tóc giả trên đỉnh đầu. Cũng như lũ bạn, cô trát lớp phấn nền dày cộp và viền mắt đen bê bết. “Đã không biết cư xử thì đừng có cho vào chứ,” tôi nghe thấy một người nói. “Biết là mở cửa tự do nhưng…” “Tôi biết,” một người khác ngắt lời. “Bọn quỷ sứ.” Họ nhìn như thể chúng tôi bốc mùi khó ngửi. Tôi tự hỏi có phải với họ chúng tôi thực sự bốc mùi. Tôi ghét âm điệu chán ghét trong giọng nói tròn trịa, có học của họ. Tôi ghét bị vơ chung vào với những đứa khác. Nhưng Leanne cũng đã nghe thấy. “Các bà biến đi được rồi đấy,” cô hung hăng nói. “Hay các bà cũng là đồ les?” Hai người phụ nữ vừa lên tiếng có vẻ sốc nặng. Họ không phản ứng lại, chỉ bình tĩnh bỏ vào sâu hơn trong nhà trưng bày. Mắt tôi thèm thuồng dõi theo họ. Tôi quay sang bọn con gái. “Nhỡ họ đi mách thì sao. Bọn mình bị đuổi ra mất.” “Thế thì sao? Đằng nào đến đây cũng hết rồi. Cậu làm sao đấy hả Rashers?” Khi đó tôi đã khá giỏi đánh nhau. Mẹ tôi, mỗi khi có lòng để ý đến tôi, thường rất dịu dàng đối với vết bầm tím và quầng đen quanh mắt tôi, nhưng thường thì tôi cố gắng giấu mọi bằng chứng. Ngay cả khi đó, bà đã coi tôi như một đứa trẻ xa lạ. Tôi có thể nhảy xổ vào Leanne ngay tại đó, nhưng - có thể là vì bức tranh, hay có thể vì biết là có những người phụ nữ kia sau lưng - tôi không muốn làm thế. Tôi sẽ không hạ thấp mình như thế nữa. Vậy nên tôi chẳng làm gì cả. Tôi cố gắng bao bọc mình trong nỗi chán ghét như một lớp áo choàng lông, để cho chúng thấy rằng chúng ở dưới tầm tôi sâu đến mức chúng chẳng đáng để tôi chú ý. Đến khi tốt nghiệp, tôi đã khá thành công trong việc thuyết phục chính mình như vậy. Tôi đã tiết kiệm được tiền cho chuyến đi đầu tiên kéo dài hai năm tới miền Bắc nước Ý khi còn ở tuổi thiếu niên, làm việc ở trạm xăng, dọn lô nhuộm tóc trong thẩm mỹ viện, chịu đứt tay vì giấy gói bạc trong cửa hàng đồ ăn nhanh Trung Quốc, nhỏ máu vào món thịt lợn chua ngọt đặc biệt của tối thứ Sáu. Tôi tự trang trải cho một năm đệm ở Paris và sau đó là một khóa học cơ bản kéo dài một tháng ở Rome. Tôi đã tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác khi tôi vào đại học. Tôi chưa bao giờ thực sự được thấy những người như thế, đừng nói đến một nơi như thế. Họ thuộc về nhau, những con người và những tòa nhà ấy; biết bao thế hệ được hưởng đặc ân không phải cố gắng gì đã hòa trộn đá vàng màu mật với làn da màu mật tới một sự hoàn hảo về kiến trúc trong từng chi tiết được thời gian mài nhẵn. Tôi có vài người yêu thời đại học, nhưng nếu bạn nhìn đời theo cách tôi nhìn và, nói thật lòng, thích những thứ mà tôi thích, có lẽ những người bạn gái sẽ không bao giờ là thứ dành cho bạn. Tôi tự nhủ rằng mình không cần họ, và hơn nữa, bên cạnh thư viện và việc làm thêm tôi chẳng còn mấy thời gian cho việc gì ngoài đọc. Tôi không bám lấy giáo trình trong danh mục khóa học yêu cầu: bên cạnh Gombrich và Bourdieu tôi đọc hàng trăm tiểu thuyết, lục nát chúng để lấy chi tiết về những tập quán của xứ sở quý tộc xa lạ kia, về cách nói năng, cách dùng từ ngữ phân biệt những kẻ thuộc về câu lạc bộ vô hình ấy với những kẻ không thuộc về nó. Tôi không ngừng tự học ngoại ngữ: tiếng Pháp và tiếng Ý là ngôn ngữ của nghệ thuật. Tôi đọc Le Monde rồi Foreign Affairs, Country Life rồi Vogue rồi Opera Magazine rồi Tatler rồi tạp chí mã cầu, rồi Architectural Digest và cả Financial Times. Tôi tự học về rượu vang, về các loại sách hiếm và bạc cổ: tôi đến mọi buổi trưng bày miễn phí có thể đến, đầu tiên là vì nghĩa vụ rồi sau là vì thú vui; tôi học cách sử dụng dĩa ăn đồ tráng miệng và cách bắt chước giọng nói của đất nước mà mặt trời không bao giờ lặn. Khi đó tôi đã biết rằng mình không nên giả vờ là một người không phải mình, nhưng tôi cho rằng nếu tôi vào vai tắc kè hoa cho giỏi, sẽ không ai nghĩ đến chuyện chất vấn. Tôi cố gắng theo đuổi không phải vì lòng háo thắng. Một phần là để tránh phải ở trong một môi trường mà việc thú nhận bất kỳ sở thích nào không dành cho các show truyền hình thực tế đều là một lời mời gọi để bị đấm vỡ hàm. Hầu hết thời gian, tôi trốn học chỉ để bắt xe buýt lên phố đến phòng đọc Picton ở Thư viện Trung Tâm, hoặc Phòng Trưng bày Nghệ thuật Walker, vì những không gian yên tĩnh đó phả vào tôi hơi thở của thứ gì đó hơn cả cái đẹp mà chúng chứa đựng. Đó là những nơi văn minh. Và văn minh có nghĩa là biết những gì là đúng. Dù người ta cố giả bộ rằng điều đó không quan trọng, thì nó vẫn đúng. Phủ nhận nó cũng ngu ngốc chẳng khác gì nghĩ rằng cái đẹp là không quan trọng. Và để lọt được vào giữa những thứ đúng đắn chuẩn mực, tôi phải lọt được vào giữa những người sở hữu chúng. Vì người ta còn luôn muốn được hiểu thấu đáo, những hiểu biết về sự khác nhau giữa một hầu tước dòng dõi và một hầu tước được phong luôn có lúc được việc. Khi mới đến Nhà Đấu Giá, dường như mọi chuyện khá là suôn sẻ; mọi vấp váp được khắc phục mượt mà. Tôi có quan hệ tốt với Frankie, thư ký của ban, dù cô có giọng nói như một quý phu nhân đang ra lệnh cho phu khuân vác trên đồng cỏ bao la và những người bạn mà cô thực sự gọi là “Đười Ươi” và “Chuột Chít”. Frankie hòa nhập được theo một cách mà tôi không bao giờ có thể, nhưng đồng thời, cô có vẻ hơi lúng túng trong làn sóng tiền mới mẻ ngỗ ngược đang chậm rãi len lỏi vào Nhà Đấu Giá. Thế giới hội họa đã thức dậy từ giấc ngủ vùi lịch thiệp trong một sân chơi tỷ phú, nơi những cô gái như Frankie đang dần tuyệt chủng. Cô từng có lần khá buồn rầu nói với tôi rằng cô muốn sống ở vùng nông thôn nhưng mẹ cô nghĩ cô sẽ có nhiều cơ hội “gặp được ai đó” khi làm việc trong thành phố. Dù Frankie là độc giả tích cực của Grazia, dường như cô không bao giờ nghe theo bất kỳ mẹo hướng dẫn trang điểm nào - cô đeo một cái bờm nhung không nhăn và cặp mông trông như cái nấm vải tuýt khổng lồ. Có lần tôi đã phải tế nhị lái cô ra xa một chiếc váy dạ hội thảm họa màu xanh ngọc trong một chuyến trốn làm đến Peter Jones. Tôi nghĩ mẹ cô còn lâu mới cần lo lắng đến việc đặt thiệp mời cưới, nhưng tôi khâm phục phong cách bất cần của Frankie, thái độ phớt tỉnh tuyệt vời của cô đối với việc ăn kiêng và niềm tin lạc quan bất diệt rằng sẽ có ngày cô gặp được “Người Ấy”. Tôi thật lòng hy vọng cô sẽ tìm được - tôi có thể hình dung ra cô trong ngôi nhà kiểu Georgia, bày bánh cá ra đĩa trước chiếc bếp lò Aga cho một gia đình đông vui và yên ấm. Thi thoảng chúng tôi ăn trưa cùng nhau, và trong khi tôi nghe không biết chán về thời thơ ấu cưỡi ngựa lùn của cô, cô có vẻ cũng thích nghe về những chuyến phiêu lưu (đã được biên tập kỹ càng) thời nhỏ của tôi. Frankie chắc chắn là một trong những điều tôi thích ở công việc của mình: còn lại là Dave, làm khuân vác ở nhà kho. Theo cảm nhận của tôi, Dave có lẽ là người duy nhất trong Nhà Đấu Giá thực sự quý mến tôi. Anh đã bỏ lại một chân ở Baghdad trong cuộc chiến tranh Iraq đầu tiên và bắt đầu tìm hiểu các tài liệu về hội họa trong khi dưỡng thương. Anh có cặp mắt tinh đời tuyệt diệu cùng đầu óc nhạy bén; niềm đam mê của anh là tranh thế kỷ mười tám. Anh từng nói với tôi rằng sau những gì mình chứng kiến ở Vùng Vịnh thì niềm đam mê đó, cơ hội để được gần những bức tranh vĩ đại đó, đôi khi là thứ duy nhất giúp anh tiếp tục sống. Tôi có thể thấy tình yêu trong cung cách anh nâng niu khi vận chuyển chúng. Tôi kính trọng sự chân thành trong sở thích của anh, cũng như kiến thức của anh, và tôi chắc chắn đã học được nhiều điều về hội họa từ Dave hơn từ bất kỳ cấp trên nào trong ban. Tất nhiên chúng tôi có tán tỉnh nhau, hình thức gần nhất với chuyện phiếm bên máy nước lạnh mà tôi có được, nhưng tôi còn quý Dave vì anh cho tôi cảm giác an toàn. Sau câu đùa bạo dạn vào lúc này lúc khác, anh có sự quan tâm kiểu anh em, có phần cổ hủ dành cho tôi. Thậm chí anh từng gửi tôi thiệp chúc mừng khi tôi được thăng chức. Nhưng tôi biết anh đã có một gia đình hạnh phúc - vợ anh luôn được gọi là “bà xã nhà tôi” - và nói thẳng ra tôi thấy thoải mái khi ở bên một người đàn ông không muốn ngủ với mình. Ngoài tranh phong cách Rococo, thú vui còn lại của Dave là sách “tội phạm có thực” giật gân. Vợ chồng ăn thịt nhau là một trào lưu đang được ưa chuộng, với nhiều bà vợ biến chồng thành món pa tê ăn kèm một chai Chardonnay ướp lạnh, và Dave, người từng sử dụng các vũ khí dạng súng đầy hiệu quả, thích thú trước sự tài tình đậm tính Shakespeare của những món hung khí chết người họ sử dụng. Bạn sẽ phải kinh ngạc vì những chuyện bạn có thể làm với chiếc máy uốn tóc hay một con dao nhíp nếu bạn bỏ công sức vào đó. Chúng tôi đã dành nhiều giờ nghỉ giải lao rít đôi điếu thuốc vui vẻ trong khu nhà kho bụi bặm, phân tích những trào lưu giết chóc mới nhất, và đôi khi tôi tự hỏi những sở thích của anh liên quan thế nào với nhau, các vị nam thần và nữ thần được khắc họa đẹp đẽ và tinh tế qua lớp vải toan mà Dave yêu thích là nơi xoa dịu những bạo lực mà anh đã chứng kiến, hay là sự thừa nhận trong vẻ đẹp thường gợi dục của chúng rằng thế giới nghệ thuật cổ điển cũng tàn bạo và nhẫn tâm như mọi thứ anh từng chứng kiến trong sa mạc. Nếu tôi thán phục hiểu biết Dave có được thông qua tự học, thì anh đôi khi cũng ngượng ngùng tỏ ra nể trọng sự chuyên nghiệp của tôi. Một buổi sáng sau hôm tiếp James, một thứ Sáu đầu tháng Bảy, có vài phút trước khi ban mở cửa, nên tôi lẻn vào nhà kho tìm Dave. Đêm qua là một đêm dài ở Gstaad và võng mạc tôi đau rát vì khói và thiếu ngủ. Dave nhận ra ngay khi thấy tôi đeo kính râm vào lúc chín giờ sáng. “Đêm qua lao lực hả, tình yêu?” Anh đưa cho tôi một cốc trà ngọt, viên Ibuprofen, và một phong Galaxy. Không gì chữa đau đầu bằng sô cô la rẻ tiền. Dave tốt bụng duy trì một ảo tưởng rằng như nhiều cô gái khác làm việc ở đây, tôi cũng có một đời sống xã hội hoành tráng trong vòng vây quý tộc ở Chelsea. Tôi không nói sự thật cho anh biết. Khi cảm thấy mình đã tương đối giống người thường để bỏ kính râm ra, tôi lấy sổ và thước dây từ cặp để bắt đầu đo một loạt tranh nhỏ vẽ phong cảnh Naples cho đợt bán “Grand Tour” sắp tới. “Sốc chưa,” Dave bình luận, “đưa cái đó ra bán mức khởi điếm hai trăm với danh nghĩa Romney. May ra chỉ đáng xếp vào ‘cùng trường phái’.” “Sốc thật,” tôi lẩm bẩm tán đồng, cắn bút. Một trong những điều đầu tiên tôi học được ở Nhà Đấu Giá là mức khởi điếm là mức giá thấp nhất một người bán phải thu được từ tác phẩm. Tôi hất hàm về phía túi quần sau của anh. “Sách mới hả Dave?” “Ừ, nếu cô thích thì anh cho mượn. Đã lắm.” “Romney ở Ý lúc nào ấy nhỉ?” “1773 đến 1775. Rome và Venice là chủ yếu. Chuyện là, vợ thằng cha này làm thịt hắn ở cửa hàng Cuisinart. Ở Ohio.” “Làm gì có, Dave.” “Làm gì có chuyện bức đó là của Romney.” Điện thoại tôi báo tin nhắn của Rupert, trưởng ban. Tôi phải đi định giá ngay sau khi ghi chép xong. Rupert đang ngồi tại bàn ăn bữa sáng có lẽ là thứ ba trong ngày, một cái sandwich kẹp xúc xích đã chảy mù tạt lên một bên cổ tay áo đính khuy măng séc nặng trịch. Sau đây tôi sẽ lại phải đến hiệu giặt là, tôi buồn rầu thầm nghĩ. Tôi có tội nợ gì với lũ đàn ông béo vậy nhỉ? Anh ta đưa cho tôi một địa chỉ ở St John’s Wood và chi tiết khách hàng, rồi bảo tôi đi ngay, nhưng khi tôi ra đến cửa văn phòng lại gọi với theo. “Ờ, Judith?” một trong nhiều điều tôi ghét ở Rupert là việc anh ta coi “Ơ” là tên tôi. “Vâng, Rupert?” “Về mấy bức Whistler…” “Hôm qua tôi đã đọc về chúng rồi, theo lời anh dặn.” “Ờ, đúng rồi, nhưng hãy nhớ rằng Đại tá Morris là một khách hàng rất tầm cỡ. Ông ấy mong đợi sự chuyên nghiệp tuyệt đối.” “Tất nhiên rồi, Rupert.” Có lẽ tôi không ghét Rupert lắm, tôi thầm nghĩ. Anh ta tin tưởng giao cho tôi một vụ định giá quan trọng. Trước đó tôi đã từng được giao cho vài việc nhỏ, thậm chí đã vài lần ở ngoài London, nhưng lần này là cơ hội đầu tiên tôi được trao đổi với một khách hàng “tầm cỡ”. Tôi coi đó là một tín hiệu tốt, rằng lòng tin ông chủ dành cho tôi đang tăng lên. Nếu tôi có thể định giá đúng, chính xác nhưng hấp dẫn người bán, tôi sẽ dành được vụ giao dịch này cho Nhà Đấu Giá bằng cách mua được tranh về bán. Whistler là một họa sĩ lớn, một cái tên sẽ thu hút nhiều nhà sưu tầm có máu mặt, và điều đó có nghĩa là lọi nhuận béo bở cho Nhà Đấu Giá. Để ăn mừng tôi tính tiền taxi vào tài khoản của ban, dù cấp dưới chúng tôi không được phép đi taxi. Khoản ngân sách đó để dành cho việc đi lại thiết yếu như đón Rupert từ Wolseley qua góc đường đến Piccadilly. Tôi xuống xe ở cách vài phố để có thể yên lặng dạo bộ dưới bóng cây rậm của mùa hè cạnh con kênh. Đầu tôi đã tỉnh táo, và có mùi tử đinh hương ẩm ướt từ những khu vườn có tường bao an ninh. Tôi mỉm cười khi nghĩ rằng những con phố này, với những nhóm vú em người Philippines nghiêm cẩn và công nhân người Ba Lan đang lắp đặt những bể bơi khổng lồ trong các tầng hầm, đã từng không hơn gì một nhà thổ cao cấp, đàn bà đứng đợi sau các tấm rèm xa hoa nặng trĩu, xếp hàng như những người mẫu khỏa thân của Etty, cho bạn tình ghé qua trên đường ra khỏi thành phố. London đã luôn và vẫn sẽ là một thành phố của gái điếm. Một con mắt laser quét chòng chọc qua người tôi trong khi tôi ấn chuông căn hộ tầng trệt. Khách hàng đích thân ra mở cánh cửa dẫn vào ngôi nhà hai mặt tiền trát vữa màu kem. Tôi có phần chờ đợi người ra mở cửa là một người giúp việc. “Đại tá Morris phải không ạ? Tôi là Judith Rashleigh,” tôi vừa tự giới thiệu vừa chìa tay, “từ British Pictures. Chúng ta có hẹn về bộ sưu tập Whistler.” Ông ta thở ra một câu chào rồi tôi đi theo cái bàn tọa lồng trong quần Cavalry Twill của ông ta vào đại sảnh. Chẳng mong đợi sẽ được gặp một sĩ quan trẻ khỏe, nhưng tôi vẫn phải tự ngăn mình không co rúm lại khi bàn tay với những móng tay vàng xỉn chộp lấy tay mình. Cặp mắt nhỏ nanh ác giật giật trên bộ ria mép kiểu Hitler ngả bạc, bám lấy môi trên ông ta như một con sên trong cú nhảy khi trượt tuyết. Ông ta không mời tôi trà, mà dẫn thẳng tôi vào một phòng vẽ chật chội, nơi những tấm rèm kiểu cách màu nhạt tạo sự đối lập cục bộ kỳ quặc với những bức tranh tuyệt đẹp trên tường. Viên đại tá kéo rèm xuống trong khi tôi ngắm nhìn một bức Sargent, một bức Kneller và một tuyệt tác hoạt họa nhỏ xíu của Rembrant. “Các bức tranh thật tuyệt vời.” Đáng giá ít nhất mười triệu. Đây thực sự sẽ là một vụ định giá tử tế. Ông ta đắc ý gật đầu, dành cho tôi một nhịp thở phì phò như hải mã nữa. “Tôi để mấy bức Whistler trong phòng ngủ,” ông ta thở gấp, tung tẩy đi về phía cánh cửa thứ hai. Căn phòng này còn tối tăm và bí bức hơn nữa, với mùi ngai ngái khó ngửi của mồ hôi đã khô trộn với mùi hắc của nước hoa lỗi thời. Một chiếc giường lớn trải nệm và chăn lông màu xanh rêu, chiếm hầu hết không gian. Tôi phải lách vòng qua nó để đến chiếc bàn bày năm bức tranh nhỏ xếp hàng. Tôi lấy đèn pin ra kiểm tra kỹ lưỡng từng bức, kiểm tra sự nhất quán của chữ ký và thật khẽ khàng tháo khung để kiểm tra hình in chìm trên giấy. “Rất đẹp,” tôi nói. “Dành cho series Thames Sonata, đúng như ngài đã gợi ý.” Tôi khá hài lòng với giọng nói tự tin, chuyên nghiệp khi định danh của mình. “Tôi không cần cô nói với tôi chuyện đó.” “Tất nhiên. Nhưng ngài đang có ý định rao bán chúng chứ? Chúng sẽ không thích hợp lắm cho đợt trưng bày tác phẩm Ý, nhưng sẽ rất lý tưởng cho catalog mùa xuân. Hẳn là ngài có văn bản nguồn gốc tranh chứ?” Nguồn gốc tranh là mấu chốt trong vụ làm ăn này - con đường một bức tranh đi từ giá vẽ của họa sĩ qua tay nhiều người chủ và phòng tranh khác nhau, con đường được ghi trên giấy trắng mực đen để chứng minh rằng nó là hàng thật. “Đương nhiên. Có lẽ cô sẽ thích xem qua mấy cái này trong khi tôi đi tìm?” Ông ta đưa cho tôi một album nặng trịch. “Chúng thuộc cuối thời Victoria. Lạ mắt lắm đấy.” Có lẽ là do hai bàn tay đang bấu lấy mông tôi quờ quạng, nhưng tôi đã có một hình dung rõ rệt đến đáng buồn về những bản khắc a xit của tay đại tá. Chẳng phải thứ gì tôi không xử lý nổi. Tôi thản nhiên giật hai bàn tay kia ra và mở cuốn album. Không tồi, theo tiêu chuẩn tranh khiêu dâm thế kỷ mười chín. Tôi lật giở vài trang như thể thực sự có quan tâm. Sự chuyên nghiệp là thứ tôi cần. Nhưng rồi tôi cảm thấy một bàn tay bò quanh ngực mình, và đột nhiên trọng lượng của ông ta đè lên tôi, thình lình đẩy tôi xuống giường. “Đại tá! Buông tôi ra ngay!” Tôi cố gắng lấy giọng của một trưởng hội nữ sinh giận dữ nói với ông ta, nhưng đây không còn có vẻ là kịch câm nữa rồi. Cơ thể ông ta nặng nề đè lên phổi tôi trong khi ông ta lăn sang bên để tìm cách luồn những ngón tay nhọn hoắt thô bỉ xuống dưới váy tôi. Tấm chăn xanh lục làm tôi phát ngộp; tôi không sao ngẩng được đầu lên. Nỗ lực đẩy ông ta ra rõ ràng chỉ làm lợi cho ông ta, trong khi ông ta ấn một nụ hôn ướt át hôi thối lên cần cổ lộ ra của tôi và tiếp tục chồm lên người tôi. Tôi thở gấp từng hơi - tôi không lấy được chút không khí nào, và đó là điều làm tôi hoảng sợ. Tôi thực sự không thích thế này. Tôi cố gắng luồn tay xuống dưới để nâng mình lên và hất ông ta ra, nhưng ông ta ấn chặt cổ tay phải tôi xuống giường. Tôi chật vật quay mặt sang phải và hít vào một luồng hơi hôi hám dưới nách ông ta. Mồ hôi ra ướt đẫm vạt trước chiếc áo sơ mi Viyella của ông ta và khuôn mặt nhăn nhúm của ông ta kề sát vào mặt tôi. Ở khoảng cách này, hàm răng ông ta hiện rõ những chân răng ngắn ngủn màu nâu xỉn, nhỏ xíu gớm ghiếc. “Cô thấy thế nào?” ông ta thở dốc, nheo cặp mắt tí hin với vẻ dụ dỗ. “Tôi còn nhiều thứ như thế lắm. Cả video nữa. Tôi cá đồ chó cái như cô sẽ thích thứ đó đấy nhỉ?” Bụng ông ta cọ sột soạt lên lưng tôi. Tôi để cho ông ta có thời gian lần mò con ruồi nhỏ xíu của mình. Chúa mới biết được ông ta nghĩ mình sẽ tìm thấy gì ở đó. Rồi tôi cắn tay ông ta mạnh hết sức, cảm thấy da thịt ông ta lỏng ra dưới hàm mình. Trong tích tắc ông ta ré lên và nhổm dậy, tôi chộp lấy túi xách, tìm được điện thoại và nhắm thắng vào háng ông ta như một khẩu súng lục. “Đồ…” “Chó cái? Phải, ông nói một lần rồi. Vấn đề của chó là chúng nó biết cắn đấy. Nào. Tránh mẹ nó ra.” Ông ta đang chăm lo cho bàn tay của mình. Tôi không cắn đến chảy máu, nhưng vẫn nhổ vào ông ta cho chắc ăn. “Tôi sẽ gọi Rupert ngay bây giờ!” “Tôi không nghĩ vậy đâu. Nói để ông biết, video bây giờ hơi lỗi thời rồi, Đại tá Morris ạ. Chúng ta đã có kỹ thuật số. Như điện thoại của tôi đây này. Nó có thể quay thứ này và tự động gửi mail cho tất cả bạn bè của tôi. Dù không có kính lúp để xem cái thứ ông đang giấu trong quần. Ông đã nghe đến YouTube bao giờ chưa?” Tôi chờ đợi, dán mắt lên mặt ông ta, cảm thấy xương sống cứng lại dưới lớp áo vì căng thẳng, vẫn không có cách nào tôi đi qua được ông ta trong không gian tù túng này trừ phi ông ta chịu để tôi qua. Tôi hít vào rồi thở ra thật chậm rãi. Đây là một khách hàng rất quan trọng. “Vậy thì, rất cảm ơn ngài đã dành thời gian, thưa Đại tá. Tôi sẽ không quấy rầy ngài thêm nữa. Tôi sẽ cho người của bộ phận kho đến đóng gói tranh vào chiều nay, được không?” Khi ra đến cửa trước tôi có thêm một khoảnh khắc hoảng loạn nữa, nhưng chốt cửa mở ra, rồi khẽ khàng đóng lại sau lưng tôi với một tiếng lách cách nặng nề. Tôi vươn thẳng lưng đi đến đường Abbey. Tôi hít vào bốn giây, giữ bốn giây, rồi thở ra bốn giây. Rồi tôi lấy khăn trong túi ra lau mặt, sửa lại tóc và gọi về ban. “Rupert? Judith đây ạ. Chúng ta có thể cử người đến lấy bộ Whistler vào chiều nay.” “Ờ, Judith. Mọi chuyện, ờ, ổn cả chứ?” “Có gì để mà không ổn đây?” “Không có, ờ, rắc rối gì với Đại tá chứ?” Anh ta biết. Rupes khốn kiếp biết. Tôi giữ giọng nói thật tự nhiên. “Không có rắc rối gì hết. Mọi chuyện khá là… dễ xử lý.” “Giỏi lắm.” “Cảm ơn anh, Rupert. Tôi sẽ về văn phòng sớm.” Tất nhiên là anh ta biết. Vì thế anh ta mới cử một cô em xinh tươi đến thay vì tự mình đi làm việc định giá quan trọng này. Vì sao mày lại dốt thế hở Judith? Sao mày lại tin rằng anh ta có thể cử một đứa vô danh tiểu tốt trong ban đi làm một việc tầm cỡ trừ phi khách hàng mong đợi xơ múi gì khác? Trong lòng anh ta đã biết rõ nên dùng tôi vào việc gì chăng? Rồi, chỉ trong vài giây, tôi dựa vào tường và giấu mặt vào hai cánh tay, để adrenalin trào qua mình. Tôi run đến mức cảm thấy cơ bụng ê ẩm. Tôi cảm thấy mình bị bao phủ trong thứ mùi hôi hám của tay đại tá khốn kiếp Morris và tôi giận dữ đến rã rời, như bị thứ gì đấm mạnh vào tim. Tôi cau rúm mặt lại cố nén cơn thút thít. Tôi có thể khóc, tôi thầm nghĩ. Tôi có thể dúi mặt vào lớp gạch London lấm tấm và khóc than cho mọi thứ mà tôi không có, cho sự bất công, cho sự mệt mỏi rã rời nó gây ra cho tôi. Tôi có thể khóc như con bé bánh bèo vẫn luôn là một phần của tôi, vì tôi phải chấp nhận. Nhưng nếu khóc tôi có thể sẽ không dừng lại được. Không thể chấp nhận. Chuyện này chẳng là gì cả. Tôi phát hiện mình lại nghĩ rằng thực ra Rupert có thể đang biết ơn tôi, vì tôi không làm một chuyện đương nhiên, ầm ĩ lên về chuyện bị quấy rối và nằng nặc đòi báo cảnh sát, nhưng tôi dập ngay ý nghĩ đó cùng nỗi thương thân tủi phận của mình. Mong đợi được khen ngợi là chuyện lãng phí thời gian, cũng như chỉ tổ lãng phí thời gian đi hậm hực vì nó. Có thể tôi không có cái tên quý tộc, không được đi học hay được hưởng những kỳ nghỉ bắn súng cuối tuần cùng giới quý tộc, nhưng tôi không đố kỵ với những Rupert trên thế giới này, và tôi chưa đủ mặc cảm để khinh bỉ họ. Ghét thì tốt hơn. Căm ghét giữ cho bạn lạnh lùng, giúp bạn bước nhanh, giữ cho bạn cô đơn. Nếu bạn muốn biến mình thành người khác, thì cô đơn là một khởi đầu tốt. Khi tôi đến dự phỏng vấn ở phố Prince, Rupert uể oải đưa cho tôi vài tấm bưu thiếp để nhận dạng; trò sơ đẳng - một bức Velazquez, một bức Cranach. Khi đó tôi tự hỏi anh ta có thèm đọc CV của tôi không, rồi sau đó, khi đề cập đến bằng thạc sĩ của mình, tôi liền nhận ra từ vẻ mặt ngạc nhiên nghi ngại của anh ta là anh ta đã không đọc. Tấm bưu thiếp cuối cùng, mà anh ta đẩy rất điêu luyện qua mặt bàn, cho thấy một cô gái bán khỏa thân mảnh khảnh bao bọc trong những tấm rèm mỏng manh. “Allegoria dell’Inclinazione, của Artemisia Gentileschi,” tôi trả lời không do dự. Trong một khoảnh khắc chớp nhoáng, Rupert quả thực đã tỏ ra bị ấn tượng. Tôi đã đính bức bưu thiếp ấy trên tường kể từ chuyến đi đến Florence khi tôi mười sáu tuổi. Artemisia là con gái của một họa sĩ, là người xuất sắc nhất trong các thợ học việc của ông, một trong số họ đã cưỡng bức nàng khi họ thực hiện một tác phẩm ở Rome. Nàng đưa hắn ra tòa và, sau khi bị tra tấn bằng bàn kẹp tay để chứng minh rằng nàng nói thật, nàng đã thắng kiện. Đôi bàn tay chính là tương lai của nàng, và nàng chấp nhận nguy cơ chúng bị vặn tới không thể phục hồi, nàng đã đòi công bằng một cách mãnh liệt như vậy. Nhiều bức tranh của nàng bạo lực có tiếng, đến mức nhiều nhà phê bình cảm thấy khó mà tin được rằng một người phụ nữ đã vẽ chúng, nhưng tôi chọn bức này vì Artemisia đã dùng chính khuôn mặt của mình để làm mẫu. Khi vẽ bức tranh này nàng hai mươi mốt tuổi, bị ép gả cho một họa sĩ cung đình hạng ba ăn bám vào tài năng của nàng, nhưng tôi cho rằng nàng đã thể hiện mình theo cách mình muốn, không chút hổ thẹn, khuôn mặt ngay thẳng của nàng bình thản, cầm một chiếc la bàn, biểu tượng của lòng quyết tâm của chính nàng. Tôi sẽ lựa chọn, bức tranh nói với tôi, tôi sẽ lựa chọn. Như mọi thiếu nữ khi yêu, tôi đã tin chắc rằng không có ai hiểu Artemisia như tôi hiểu nàng. Chủ thể có lẽ chỉ có một, nhưng cảm xúc thì vẫn như cũ. Tôi và nàng, chúng tôi thật giống nhau. Nếu nàng không chết ở thế kỷ mười bảy, chắc chắn chúng tôi đã có thể trở thành bạn thân suốt đời. Chính Artemisia đã giúp tôi giành được công việc này. Buổi phỏng vấn ấy là lần duy nhất Rupert nhìn thấy tôi, tức là thấy một con người chứ không phải một sự hiện diện không đáng bận tâm. Nhưng ngay cả khi đó, thứ anh ta thấy chỉ là một đứa chạy vặt hoàn hảo, lanh lợi, sẵn sàng làm cu li cho anh ta mà không bao giờ ca thán. Lúc này, mắt ráo hoảnh đứng dựa vào bức tường ngoại ô, tôi cảm thấy một cuộn chỉ tình yêu uốn lượn trở lại với bản thân tôi năm mười sáu tuổi, đứng ở Casa Buonarroti với chiếc cặp sách chân phương và bộ quần áo xấu xí, ước gì tôi có thể xuất hiện như một hồn ma từ tương lai để nói với cô bé ấy rằng mọi thứ rồi sẽ ổn. Vì đúng là như vậy. Tôi sẽ không đi báo cảnh sát. Rupert sẽ đuổi việc tôi ngay khi tôi tố cáo. Không. Tôi có thể nhẫn nhịn, tôi có thể khiến mọi chuyện ổn thỏa. CHƯƠNG NĂM Tối hôm ấy về đến nhà thần kinh tôi xèo xèo bốc khói, và tôi tự nhủ sau chuyện Đại tá Morris mình xứng đáng được hưởng một chút tiệc tùng. Tôi nhắn tin cho Lawrence hỏi xem đêm nay chỗ anh ta có gì hay không. Lawrence là một người tôi quen từ những ngày đầu đến London: giàu có, hoài nghi và nghiện heroin mức độ nhẹ. Tôi biết anh ta ở gần ổ hút, nơi mà như mọi sở thích đặc biệt khác, là một thế giới nhỏ bé. Bây giờ anh ta tổ chức những trò vui riêng tư tại nhà ở Belgravia và gợi ý tôi ghé qua quảng trường vào khoảng mười một giờ. Những bữa tiệc của Lawrence đáng lẽ tốn một trăm năm mươi bảng, nhưng tôi biết anh ta sẽ cho tôi vào miễn phí. Tôi mở cửa phòng ngủ và ngả đầu vào chiếc áo kimono lụa đang treo ở đó, hít vào mùi hương của vải lanh sạch và mùi dầu phong lữ tỏa ra từ chiếc lò đốt tinh dầu nhỏ bằng gốm. Tôi nhìn đống sách, chiếc giường trải nệm gọn gàng, chiếc khăn hoa Ball treo trên cái mành sáo Venice cáu bẩn, và không thể nhìn chúng thêm được nữa. Tất cả đều rẻ tiền, tất cả đều có một vẻ lạc quan đáng thương hại. Thậm chí cả đống quần áo đẹp đẽ đầy hứa hẹn được gấp gọn trong cái tủ nhựa xiêu vẹo cũng không thể xoa dịu được tôi. Tôi lục lọi đống đồ của mình, cố gắng xác định cảm xúc. Không có gì quá dữ dội. Bên trong, tôi cần mềm mỏng, nữ tính; bên ngoài tôi sẽ là con mèo tự bước trên chân mình. Tôi chọn quần lót ren kiểu Brazil màu cà phê và áo lót tiệp màu. Bên ngoài, tôi xỏ quần thụng, áo phông đen và giày Converse. Tôi sẽ thay sang giày cao gót khi đến đó - dạo này tôi có thể trả được tiền taxi, nhưng tôi muốn vận động để làm sạch phổi và những mầm mống vi trùng còn sót lại từ cái chăn của Đại tá. Tôi dành dư dả thời gian để trang điểm sao cho mặt mũi trông như thể không hề trang điểm rồi đi bộ đến Belgravia. Những con phố trát vữa tường trắng toát dường như được bao bọc trong bí mật. Nơi đây luôn thật bình yên; bất kể tội lỗi gì cũng đều được che giấu sau những cái cổng trưởng giả, được đồng tiền bao bọc an toàn. Khi tôi tới, Lawrence đang đứng tựa ngưỡng cửa ở số 33 quảng trường Chester, hút thuốc. Có lẽ đang tranh thủ chút bình yên tránh xa cộng đồng ồn ã gồm những kẻ bị đày ải ra Soho, hiện đang chiếm gác mái của anh ta, ăn chực uống chờ và tự huyễn tưởng rằng mình là nghệ sĩ: về lý thuyết phí vào cửa sẽ đủ cho họ có mì ăn cầm hơi và đĩa nghe nhạc. Đôi khi chính tôi cũng nghĩ đến việc hỏi xin một phòng ở đây để tiết kiệm tiền thuê nhà, nhưng bầu không khí ở đây quá nhộn nhạo; nó sẽ khiến tôi phân tâm khỏi tương lai tôi cần gây dựng. “Chào tình yêu.” Lawrence mặc quần nhung xanh lam có một đường sọc lụa cùng áo trắng cũ mèm, tay áo sờn xơ xác toang hoác trên cổ tay khẳng khiu của anh ta. “Ê Lawrence. Ai đây nào? Ai xinh nhất nào?” “Bây giờ là cưng chứ ai.” “Anh có vào không?” Từ độ dài âm điệu của Lawrence tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ ngủ gật ngay trên bậc cửa này được. “Chưa cưng ạ. Em vào trước đi. Amuse-toi.*” Bữa tiệc ở dưới tầng hầm nhưng tôi đi một vòng xung quanh trước, tưởng tượng, như tôi vẫn luôn làm, rằng tôi sẽ sống thế nào nếu một ngôi nhà như thế này là của tôi, tôi sẽ thay đổi các phòng, sơn lại màu và bài trí lại chúng ra sao. Không có ai trông thấy tôi miết tay lên vòng cung gợi cảm của hàng tay vịn thế kỷ mười tám, cảm nhận sự vững chãi rắn câng của chất gỗ gụ bóng nhoáng. Tôi biết được từ các tạp chí nội thất sang trọng rằng nhà cửa không nên trông quá “chuẩn”, rằng chiếc sofa thập niên bảy mươi bằng nhung kẻ xanh xấu ỉn chồm chỗm trong phòng vẽ của Lawrence cũng là một dấu hiệu không thể giải thích bằng lời về đẳng cấp của anh ta giống như giọng nói hay cách anh ta mặc áo sơ mi cũ sờn, nhưng tôi tưởng tượng căn phòng sẽ thế nào khi được phủ lại bằng màu ghi Trianon, với chỉ một vài món đồ hoàn hảo, rảnh rang và thanh nhã, và tôi yên tĩnh ngồi giữa chúng. Quảng trường Chester là liều thuốc có tác dụng giải độc từ Đại tá Morris hiệu quả hơn nhiều so với màn tự động viên cao ngạo của tôi khi nãy. Khát khao và thiếu thốn, tôi tự nhủ, và khoảng cách giữa chúng, là thứ tôi phải dàn xếp. Đôi khi tôi thấy cuộc đời mình như một mạng lưới dây xiếc mà tôi phải bước qua, bị kéo căng giữa cái tôi có thể từ bỏ, hoặc giả vờ rằng tôi đã từ bỏ, với cái tôi sẽ sở hữu. Tôi vặn vẹo tuột gần hết quần áo rồi xỏ vào đôi giày cao gót đi tiệc da lộn đen Saint Laurent, rồi sải bước vòng quanh căn phòng, miết ngón tay lên những món đồ cổ đáng yêu bị bạc đãi của Lawrence, chạm vào chúng như chạm vào bùa may mắn. Mày, tôi thầm nghĩ, mày và mày và mày. Tôi gần như nhảy chân sáo theo cầu thang xuống tầng hầm. Khi bước qua tấm rèm lụa Sơn Đông đen, tôi thấy một cô gái tóc vàng tôi đã gặp gỡ ở những bữa tiệc trước đang gục đầu trên một gã ngoài bốn chục, gạt tóc khỏi mặt một cách chuyên nghiệp để gã nhìn rõ miệng cô nàng, ngậm trọn vẹn chiều dài của hắn. Tôi từng gặp cô ta mấy lần; cô ta là người Nga, nhưng tự xưng là Ashley - Lawrence thường trộn lẫn vài cô nàng bán thân với khách hàng để giúp khuấy động bữa tiệc. Tôi bước qua họ và nhận một ly rượu từ bartender kiêm bảo kê của Lawrence, đang đứng nghiêm trang cạnh một trong những bức tường đen bóng lộn với một khay sâm banh trên tay, điềm nhiên như thể đang phục vụ bánh mì nướng tại một bữa tiệc cocktail ngoại giao. Tôi thử một ngụm, nhưng tôi không cần. “Helene có đây không?” tôi hỏi. Một khách quen khác ở chỗ Lawrence. “Đằng kia.” Anh ta hất hàm. Helene đang nằm trên một chiếc ghế dài bằng nhung đen, bộ ngực như món thạch sữa tràn ra khỏi chiếc áo ngực thêu. “E Judith, chào cưng.” Cô ngước mặt lên và tôi cúi xuống hôn cô, đón nhận cái lưỡi hơi chua vị sâm banh của cô. “Lawrence bảo cậu sẽ đến. Bọn tớ đang đợi cậu đấy, nhỉ?” Một thanh niên đang quỳ giữa cặp đùi banh rộng của Helene ngẩng đầu lên. Bản thân tôi không muốn cơ thể của cô, nhưng có chút ham muốn tội lỗi với cái bụng của cô, khoảng mềm mại trắng nhợt ấy. Tôi thả tay lả lướt trên cái gò đầy đặn, khám phá bề mặt mịn màng lả lơi của nó. “Đây là Stanley.” “Chào Stanley.” Anh ta đứng dậy và cúi xuống hôn tôi nhanh đến nỗi tôi không kịp cảm nhận mặt anh ta. Miệng anh ta rộng và không quá ướt át; anh ta có thứ mùi cỏ ướt của thanh niên bên dưới lớp nước hoa. Tôi vừa lướt tay thăm dò tấm lưng trần của anh ta thì anh ta kéo tôi lại gần, cơ bắp căng ra dưới hai xương bả vai. Ưng. Helene đang lười biếng đu đưa một cặp còng tay, chất thép sáng loáng, loại chính hiệu của cảnh sát. “Tớ bảo với Stanley là cậu có thể thích chơi đôi?” “Hẳn rồi. Cậu thích tớ nằm đâu?” “Nằm dưới. Thế được không, Stanley?” Anh ta gật đầu. Trông có vẻ nói chuyện không phải là một sở trường của anh ta. Tôi nằm cạnh Helene trên ghế rồi chúng tôi lại bắt đầu hôn, tôi vuốt ve những chỗ hõm và đường cong quyến rũ trên cơ thể cô, còn cô chậm rãi tụt quần lót tôi xuống và nhẹ nhàng đặt một ngón tay lên cô bé mềm mại của tôi. Tôi ngậm nhũ hoa của cô vào miệng và mút, đảo đầu lưỡi cho đến khi cô phát ra tiếng kêu ậm ừ nho nhỏ, rồi đẩy hai ngón tay vào trong cô. Cô luôn chặt như thế, mềm mại, rất mềm mại. Giờ đã cảm thấy dục vọng nổi lên trong mình, tôi xoay người úp mặt xuống, nhích bên dưới cô cho đến khi chúng tôi nằm chồng lên nhau, mặt tôi áp vào mặt ghế nhung, cái bụng ngọt ngào của cô vừa vặn trên eo lưng tôi. Tôi với tay phải lên và cô làm theo. Stanley hơi lóng ngóng khi còng cổ tay chúng tôi vào với nhau, nhưng rồi cũng làm xong. “Thế,” Helene thầm thì, “đẹp không nào?” Anh ta làm cô trước, mở rộng hai chân tôi rồi tiến vào trong cô từ phía sau để tôi cảm thấy bi của anh ta cùng sức nóng và chất dịch của cô trên mông mình. Tôi luồn tay xuống dưới cô bé bị đè ép của mình và bắt đầu vuốt ve. Tôi đã rất hứng rồi, tôi muốn anh ta bên trong tôi, tôi nhổm hông lên cùng lúc với Helene khi cô tiếp nhận anh ta. Tôi nghe tiếng cô thở gấp khi anh ta rút ra, rồi đầu thằng bé của anh ta, trơn nhẵn trong bao cao su, cọ sát vào hai cánh môi của tôi và trượt vào dễ dàng, tì tay lên mông Helene làm điểm tựa. Anh ta làm tôi gần đến đỉnh, rồi trở lại với Helene, làm cô mạnh hơn cho đến khi cơ thể cô cứng lại và giật nẩy trên người tôi, rồi lại tiến vào tôi lần nữa. Tôi thầm cầu cho anh ta kéo dài đến khi tôi qua đỉnh; rồi anh ta đưa tôi lên đỉnh và Helene lăn sang một bên, cửa mình ướt át cọ vào đùi tôi, rồi làm nốt giúp anh ta bằng miệng. Tôi nằm thở, một chân thò xuống đất, mở rộng hết cỡ, chất dịch của tôi lạnh dần đi trên cánh môi cô bé phập phồng. Đây chính là cách xả của tôi. Không chỉ là niềm vui xác thịt đơn thuần mà cả việc bị một người xa lạ mở phanh ra và làm tình khiến tôi thấy thật tự do, không thể mạo phạm. CHƯƠNG SÁU Đó hóa ra lại là bữa tiệc cuối cùng của tôi ở London. Từ khi làm việc ở hộp đêm Gstaad tôi phải chăm lo cho bản thân, ngủ đủ giấc và chạy thể dục, không kém gì chăm lo cho sự nghiệp thực sự của mình. Tôi tự nhủ rằng tôi phải gạt bỏ sự vụ với Đại tá Morris đi. Lão già khốn kiếp ấy đã thất bại trong nỗ lực thảm hại của lão, và điều duy nhất quan trọng đối với tôi là kết quả sau cùng. Tôi phải hoàn thành suôn sẻ việc định giá và đó là thứ duy nhất có ý nghĩa ở Nhà Đấu Giá. Vì vậy tôi phải khỏe khoắn và sảng khoái, ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải đặt đồng hồ báo thức lúc năm giờ để chạy vòng quanh công viên Hyde trước khi đến văn phòng. Từ khi James bắt đầu diễu vào hộp đêm cùng những trận mưa đồng năm mươi bảng, tôi bắt đầu thường xuyên đi làm mặt, làm móng và chi tiền cho vài buổi tập Pilate đắt đỏ ở phòng tập gym. Nhờ đọc loại báo mới, tôi biết rằng đây không phải là chi tiêu hoang phí, mà là Đầu Tư Cho Bản Thân. James bây giờ đã được coi là khách quen của tôi và vào các ngày thứ Năm và thứ Sáu Olly bảo tôi không cần phải tiếp bất kỳ ai khác, dù đôi khi tôi vẫn ngồi với một người khác nếu được đề nghị, để James phải ngồi một mình, theo dõi tôi chăm chú cho đến khi chai rượu bắt buộc đã cạn và tôi có thể dưỡn dẹo băng qua sàn nhảy cùng một nụ cười niềm nở trên mặt. Tôi không khỏi mơ tưởng về những việc tôi có thể làm nếu giữ được sự ưa thích của James với mình. Công việc ở British Pictures hầu như chẳng trả nổi cho tôi mức tiền công tối thiểu. Dù việc học hành của tôi coi như miễn phí, nhưng tôi vẫn lấy một khoản vay tốt nghiệp mười ngàn bảng khi học xong để trang trải tiền nhà và chi phí sinh hoạt. Chẳng mấy chốc tôi sẽ phải bắt đầu trả nợ. Tôi từng nghĩ mình đủ khả năng giành được một vị trí không quá thấp trước khi đến kỳ trả nợ nên việc mạo hiểm này có vẻ hợp lý, nhưng hạn trả nợ sẽ đến vào mùa thu này, chỉ cách vẻn vẹn vài tháng, mà cho đến tận khi bắt đầu đi làm ở hộp đêm tôi vẫn chỉ gắng gượng qua ngày. Với một ngàn bảng mỗi tuần từ James, cộng thêm số tôi kiếm được từ những vị khách khác, tôi có thể hy vọng sẽ bắt đầu trả được nợ và dễ thở đôi chút, có thể còn kiếm được một căn hộ ở riêng. Tôi mở một tài khoản tiết kiệm và theo dõi số dư bắt đầu cao lên. Điều James muốn đã rõ ngay từ đầu, nhưng sự ngạo mạn của ông ta được phủ trong một lớp do dự, như thể ông ta không biết phải bắt đầu từ đâu. Như phần lớn đàn ông khác, chủ đề nói chuyện ưa thích của ông ta là bản thân mình, nên moi tin từ ông ta rất dễ. Ông ta có vợ, Veronica, và một cô con gái tuổi teen, đang sống ở Kensington, gần công viên Holland. Ông ta tự nhận là thích đọc sách triết học trong thời gian rảnh, dù ý tưởng về tư duy nghiêm túc của ông ta thiên về “CEO Jesus” hơn là mỹ học Kant. Thế nhưng chúng tôi vẫn có khá nhiều đề tài để nói từ đó. Tôi nhờ ông gợi ý vài tựa sách rồi Google phần bình luận để có vẻ như tôi đã đọc. Veronica quản lý nhà cửa và giữ ghế ở vài hội đồng từ thiện khác nhau. Tôi có phần thắc mắc về bà ta, liệu bà có biết, có quan tâm xem chồng mình ở đâu buổi tối hay không. Tôi ngờ là không. Họ có làm tình không? Tôi không thể tưởng tượng được là James có khả năng đó - ngay cả khi lượng estrogen sản sinh từ ngần ấy mỡ không gặm nhấm hết của quý của ông ta, thì việc leo cầu thang lên hộp đêm thôi cũng đủ khiến ông ta chực nhồi máu cơ tim. Nhưng khi những buổi tối ngồi với nhau kéo dài ra, ông ta háo hức thuyết phục tôi rằng mình từng là tay chơi khi còn trẻ. Ồ James, ông ta từng có một thời tung hoành. Người phụ nữ có chồng hơn tuổi ở St Moritz, hai chị em ở Cap Ferrat. Ông ta đủ tuổi để tuyên bố mình từng là nguồn khoái cảm cho một quý cô nào đó, và tôi sẽ tha hồ được nghe những giai thoại về các “nường” chơi hết mình trên xe thể thao và các quảng trường của London, những bữa tiệc tại gia chết cười và những hộp đêm ở Soho. Có vẻ như, phần còn lại của xã hội London thập niên bảy mươi chính là một thiên đường khêu gợi cho kẻ béo phì. “Bánh quy không, Judith?” Frankie, thư ký ban, hỏi, kéo tâm trí tôi trở lại với cuộc họp đồng thời đẩy đĩa bánh sô cô la nhuận tràng trên bàn họp về phía tôi. Laura cau mày. Chúng tôi đang dự cái mà Rupert gọi là Thảo Luận Ưu Tiên - tôi, Frankie, Rupert, Laura và chuyên gia tranh chân dung Oliver, người gầy hơn và sắc mặt màu lựu kém tươi hơn ông sếp của chúng tôi chút ít. “Không, cảm ơn cậu,” tôi thầm thì đáp lại. Laura cau mày nhìn về phía chúng tôi rồi kéo chiếc khăn quàng lên cao hơn che phủ lớp da rám nắng Barbados. Tôi đổi ý và lấy một chiếc bánh quy. Ít nhất Frankie còn dành cho tôi chút tình đoàn kết dịu dàng giữa nữ giới với nhau, không như Laura, đối xử với tôi gần như một cô hầu kém cỏi. “Họ đây rồi,” giọng con gái vang lên. Một cô tóc vàng cao ráo với mái tóc chải phồng đầy nghệ thuật hổn hển đặt xuống một chồng catalog mới. “Đây là Angelica,” Laura nói. “Angelica sẽ đến làm việc với chúng ta để lấy kinh nghiệm trong một tháng. Cô ấy vừa học xong trường Burghley, Florence.” Nếu Dave có mặt ở đó tôi đã đảo mắt với anh. Burghley có những khóa học lịch sử nghệ thuật dành cho bọn nhà giàu đần độn quá lười biếng để vào được một trường đại học dù chỉ là vỏ bọc. Họ học một năm ở Disneyland Phục Hưng, tưởng rằng mình có thể tiếp thu văn hóa như kiểu ngấm thuốc qua hơi cần sa, và kiếm một tấm chứng chỉ đẹp đẽ. “Chào mừng cô đến với ban, Angelica,” Rupert thân thiện nói. “Cảm ơn các anh chị đã nhận em vào đây,” cô ta đáp. “Angelica là con gái đỡ đầu của tôi,” Laura nói thêm, nâng lớp Botox của mình thành một nụ cười. Hóa ra là thế. Tôi ngồi thẳng lên một chút. “Nào,” Rupert nói, “hôm nay là ngày trọng đại, các chàng trai cô gái. Chúng ta vừa nhận một bức Stubbs.” Anh ta phát catalog cho mọi người. Trông chúng như tờ chương trình của một vở opera thế kỷ mười tám. George Stubbs, bìa catalogue đề, Công tước xứ Richmond cùng phu nhân ngắm ngựa. “Ồ ồ,” Frankie reo lên, đúng kiểu nhân viên gương mẫu, “Một bức Stubbs!” Tôi hiểu được vì sao cô lại phấn khích. George Stubbs là một họa sĩ mang lại lợi nhuận khổng lồ, có tiếng là mang về mức giá hơn hai mươi triệu. Tôi cũng có chút hứng thú với ông - ông quê ở Liverpool, giống tôi, và dù đã từng bỏ công học về giải phẫu, có nghĩa tranh vẽ ngựa của ông là một trong những bức tranh xuất sắc nhất của thế kỷ mười tám, ông vẫn bị Viện Hàn lâm Hoàng gia đương thời coi là hạng “họa sĩ giải trí” và từ chối nhận ông làm thành viên chính thức. Tôi tò mò muốn xem chúng tôi có được tác phẩm nào của ông. “Các cô nên đọc cho kỹ,” Oliver nói thêm. “Tôi đã nghiên cứu bức này khá lâu rồi.” Tôi lật nhanh qua các trang, nhưng khi đến trang minh họa chính tôi đột nhiên lạnh toát. Tôi đã từng thấy bức tranh này, và không đời nào nó lại nằm trong một cuốn catalog được. “Rupert, tôi xin lỗi,” tôi nói, “nhưng tôi không hiểu. Đây là bức tranh tôi đã thấy hồi tháng Một, bức ở gần Warminster ấy?” “Đừng lo, đánh giá của cô ổn cả. Tôi đã đích thân quay lại đó xem. Cũng không thể mong đợi một thực tập sinh nhận ra tranh của Stubbs được mà!” Tôi không nhận ra, vì nó không phải là tranh Stubbs. Và khi đó tôi không còn là thực tập sinh nữa, Rupert biết rất rõ. Tôi đã tận lực học hỏi để có thể đưa ra đánh giá đó. Tôi thử lại lần nữa. “Anh có nói gì…” Rupet ngắt lời tôi bằng một nụ cười gượng gạo. “Muốn làm cô ngạc nhiên thôi. Nào…” Tôi ngắt lời. “Nhưng tôi chắc chắn mà. Tôi còn chụp cả ảnh.” “Tranh đã được vệ sinh sau khi tôi lấy về, Judith ạ. Những chi tiết cô nhận diện rất chính xác trước đó hóa ra là lớp vẽ phủ. Có vấn đề gì không?” Tôi không dại gì thách thức anh ta thêm. “Không, tất nhiên là không.” Tôi cố tỏ vẻ nhiệt tình. “Tuyệt quá rồi!” Một đợt xem tranh dài hai tuần được lên kế hoạch vào tháng Chín, trước khi bán. Rupert nghĩ tầm quan trọng của bức tranh đủ để tổ chức một buổi đấu giá riêng cho nó. Oliver nghĩ nó nên được đưa vào một buổi bán chung. Laura nói về những nhà sưu tầm cần liên hệ. Frankie ghi biên bản. Tôi thì sốc đến mức thậm chí không buồn quan tâm trong bộ não rộng lớn trống rỗng của Angelica đang lộn xộn những ý nghĩ gì. Tôi cố tỏ vẻ sốt sắng đặt vài câu hỏi ở cuối cuộc họp về việc sắp xếp buổi xem tranh riêng, để còn căn dặn người mẫu quảng cáo, rồi tôi làm bộ tự nhiên hỏi xem họ có vần tranh vào kho chiều nay không. “Tôi nghĩ tôi có thể đưa Angelica xuống kho tham quan,” tôi gợi ý bằng giọng gần gũi. Vần tranh, như tôi giải thích với Angelica trên đường qua những lối đi quanh co bụi bặm trong tầng hầm, là từ lóng ở Nhà Đấu Giá chỉ việc bốc dỡ tác phẩm, gọi như vậy vì chúng phải được vần bằng xe lăn lên một đoạn dốc lát ván mỏng để đưa vào kho. Đây là cơ hội cho nhân viên cấp dưới được lại gần ngắm các tác phẩm khi chúng được mở gói trong phòng kiểm định để chuyên gia đến xem. Tôi giải thích, được ngắm các kiệt tác bày trên băng ghế gỗ thường ngày thay vì trong một phòng trưng bày trang trọng là một trải nghiệm tuyệt vời. Angelica cắm mặt vào điện thoại. “Ờ,” cô ta đáp chiếu lệ, tay lùa qua mớ tóc bạch kim, “tôi thấy cả đống ở Uffizi rồi. Như kiểu, ừm, Branzini ấy?” “Tôi nghĩ chắc cô định nói Bronzino?” “Ờ. Đúng rồi.” Như tôi hy vọng, Dave có mặt ở đó. Anh và đồng nghiệp đang vần mười bức Pompeo Batoni cho buổi đấu giá “Grand Tour”. “Được đấy, Judith, trông ổn đấy. Có người mới à?” “Anh biết anh là bạn trai duy nhất của em mà Dave,” tôi đùa lại. Tôi đã đặt mua cả một bao truyện tội phạm có thật trên Amazon và đã làm nhàu một ít viền đống sách bìa mềm. Trong khi giới thiệu Angelica, tôi đưa chúng cho anh và nói tôi mua được chúng ở hàng giảm giá ở Marylebone Oxfam. “Hôm nay có gì thế?” tôi hỏi cho Angelica, vì cái tạm coi là sự chú ý của cô ta vẫn ghim chặt trên điện thoại. “Batoni ở Rome.” “Họa sĩ Ý kìa!” tôi reo lên. “Vừa khéo, Angelica! Sao cô không giúp đo tranh nhỉ?” Tôi ra hiệu hút thuốc với Dave và anh tập tễnh bước vào khu tầng hầm tối om để làm điếu thuốc với tôi. Tôi kể tóm tắt cho Dave về chuyến đi đến Warminster. Rupert nói anh ta nhận được cuộc gọi từ một người bạn có hiệu đồ cổ ở Salisbury, người này đã thấy bức tranh tại một bữa tiệc tối và nghĩ nó có thể là tranh thật. Tôi được cử đến đó chỉ vì Rupert bận đi tập bắn. Chủ nhà, một cựu vệ binh tự giới thiệu đầy nghiêm túc rằng tên mình là Tiger, giải thích rằng gia đình anh ta đã sống ở đây khoảng một thế kỷ, anh ta nghĩ bức tranh do cụ cố của mình mua. Tôi không hỏi nhiều, vì Rupert đã lệnh cho tôi tuyệt đối không để lộ rằng chúng tôi nghĩ bức tranh có thể là hàng thật. Tôi tháo bức tranh khỏi tường phòng ăn và đặt nó lên ghế bên cửa sổ để xem thật rõ. Ban đầu, tôi có thể thấy bạn của Rupert phấn khích ở chỗ nào. Bố cục bức tranh rất có tiết tấu, một nhóm phu nhân, quý tộc, cùng người giữ ngựa chiếm phần nền bên trái, ngắm nhìn ba con ngựa có vẻ đang phi nước đại qua đồi cỏ về phía người xem. Lũ ngựa được khắc họa đẹp đẽ, hai con màu hạt dẻ và một con màu xám, bốn vó vươn dài cân đối trong bước chạy; màu sắc được tô nhạt, như thể trong một buổi sáng mù sương, chỉ có bộ trang phục đỏ của những người giữ ngựa tranh đoạt ánh sáng với bộ lông sáng bóng của lũ ngựa. Tuy nhiên khi nhìn kỹ, tôi thấy kém ấn tượng với nhóm người xem, những người có vẻ vô hồn và kiểu cách, bối cảnh quanh họ bày bừa những đồ phục sức của một buổi dã ngoại thế kỷ mười tám rườm rà. Họ làm mất cân bằng bố cục bức tranh, phân tán sự chú ý khỏi những con vật duyên dáng đang đổ bộ, những con người chiếm chỗ trên bức toan khiến tôi cảm thấy không đúng với phong cách của Stubbs. Thấy không chắc chắn, tôi phát hiện một chữ ký có vẻ quá nổi bật, rồi quay mặt sau của bức toan lại để kiểm tra phần khung. Một tấm nhãn được dán trên khung, đề tên “Ursford và Sweet”, một phòng tranh London đã đóng cửa từ lâu. Trên nhãn có đề tên tranh, “Công tước xứ Richmond cùng phu nhân ngắm ngựa, và năm sáng tác, 1760. Sau hình người trong bức tranh là một tấm biển tên đường đề Newmarket. Stubbs là nghệ sĩ vẽ ngựa xuất sắc nhất đương thời, hay có lẽ mọi thời, nhưng cho đến giờ theo tôi biết ông chưa từng vẽ tại đường đua Newmarket. Tôi có đem theo một catalogue raisonné*, bản tổng hợp mới nhất mọi tác phẩm đã biết của Stubbs, tôi liền lật qua các trang cho đến khi tìm được một đại diện khác của cùng vị công tước và phu nhân đang ngắm ngựa nọ tại Goodwood, vẽ năm 1760. Có sự tương đồng giữa những khuôn mặt, dù theo tính thời đại hơn là tính cá nhân - mà hiện giờ tôi cho hẳn là điều đã thuyết phục Rupert. Rất có thể Stubbs đã vẽ các vị khách của mình ở Newmarket, dù trong catalog không hề nhắc đến điều đó, hay đến sự tồn tại của bức tranh trước mặt tôi. Một bức tranh Stubbs mới được phát hiện sẽ là sự kiện trọng đại, và có lợi nhuận rất lớn, nên tôi tiếc nuối chụp ảnh bức tranh thật cẩn thận và tóm tắt kỹ lưỡng vào sổ của mình, kèm theo ý kiến cá nhân ở cuối, rằng đây là một bức của người cùng thời bắt chước phong cách Stubbs. Rồi sau đó tôi có một tiếng đồng hồ trước khi tàu chạy, và Tiger đề nghị đưa tôi đi xem chuồng ngựa. Tôi nghĩ Dave không cần biết về cuộc phi nước đại vui vẻ của tôi quanh chuồng ngựa. “Thế nên em thấy rất lạ, Dave ạ. Em đã viết hồi tháng Một rằng nó là tranh ‘cùng trường phái’ và giờ nó lại xuất hiện dưới danh nghĩa một bức Stubbs. Và cái biển đề Newmarket đã biến mất - Rupert bảo nó là lớp vẽ phủ mà lúc vệ sinh bị xóa đi, với cả chữ ký cũng đổi chỗ.” “Cô bảo nó từ đâu ra?” “Chủ tranh bảo cụ cố anh ta mua nó. Nó có dán nhãn từ Ursford và Sweet ở phố Bond; chỗ đó đóng cửa hồi chiến tranh.” “Ừm, nhưng cô nói nó đúng là từ thế kỷ mười tám?” “Ừ…” “Thế thì Urstord chắc phải kiếm được nó từ đâu đó.” “Không phải từ đây. Nếu nguồn gốc của nó thuộc về bên mình thì Rupert đã ghi vào catalog rồi chứ.” “Chỗ kia thì sao?” Cũng như Oxford và Cambrige, việc hai nhà đấu giá hàng đầu ở London nhắc đến tên nhau là điều cấm kỵ. “Tất nhiên có thể là một buổi bán tư nhân, nhưng có nhiều khả năng nó là của họ. Có điều muốn xin phép vào kho dữ liệu của họ thì lâu lắm.” “Ừm, anh có bạn làm trong kho Danh Họa xưa ở đó. Anh ta có thể đưa cô vào kho dữ liệu của họ, không thành vấn đề. Cô có thể vào hôm nay, trong giờ nghỉ trưa. Mà sao cô quan tâm đến vụ này thế?” “Em không biết nữa. Em chỉ không muốn có sai sót.” Không thể nói với Dave rằng tôi đột nhiên biến thành thám tử Nancy Drew vì tôi nghĩ mình đã phát hiện một cách để cuối cùng cũng ghi chút công trạng trong ban, bằng cách cứu thể diện của họ khỏi một sai lầm tai tiếng. Stubbs là tin sốt dẻo; người Anh luôn thích những kiệt tác của mình có khía cạnh hoang dại trong đó. Tôi thấy phấn khích; tôi tưởng tượng tiết lộ xuất sắc của mình tại cuộc họp ban sắp tới, có thể cả một bữa trưa chúc mừng trong phòng họp của ban giám đốc, một sự thăng tiến thật sự. Để thể hiện rằng tôi có giá trị gì đó chứ không chỉ đáng cho thể loại như Đại tá Morris nổi hứng. Đây sẽ là một cơ hội để thành công nhờ những điều đúng đắn, tài năng và kỹ năng ứng dụng, một cơ hội để chứng minh rằng tôi biết làm việc. Về lý thuyết tôi được nghỉ trưa một tiếng, nhưng tôi có thể dễ dàng đi lâu hơn vì những thành viên khác của British Pictures có vẻ coi như mình có quyền đương nhiên hưởng ba tiếng, và tôi băng qua Picadilly đến phố Bond Mới với bốn mươi phút trong tay. “Anh là Mike, bạn của Dave? Tôi là Judith Rashleigh. Cảm ơn anh cho tôi làm việc này… ở ban tôi đang hơi gấp.” Tôi mỉm cười khi thấy cuốn sách thò ra khỏi túi quần jean sau của Mike: Đổ vỡ: Câu chuyện có thật về tình yêu của người mẹ, sự phản bội của người chồng và một vụ sát nhân máu lạnh ở Texas. “Tôi có thể đưa cô vào, rồi tôi đi ăn trưa. Cô đang vội cũng chẳng sao, nhưng nếu có ai hỏi vì sao cô không có thẻ thông hành từ trưởng ban, thì không liên quan gì đến tôi, rõ chưa?” “Rõ. Chúng tôi biết ơn anh rất nhiều. Như tôi đã nói, chúng tôi đang hơi rối. Cảm ơn anh lần nữa nhé.” Kho dữ liệu của đối thủ chúng tôi nằm trong một phòng trưng bày lát gỗ rất đẹp, nhìn ra Savile Row. Họ cũng chưa số hóa dữ liệu, và lục tìm trên những dãy dài tủ tài liệu hai ngăn từ đầu thập niên 1700, khó mà tin được là bộ não cơ học mạnh mẽ nhất sẽ không chảy tan thành một vũng lầy trước viễn cảnh rối bời đó. Có vài người đang làm việc, hầu hết trạc tuổi tôi, thực tập sinh và trợ lý đang mong chờ đến lúc ăn trưa, lén lút nhắn tin. Không ai chú ý đến tôi. Nếu năm sáng tác 1760 của bức tranh là chính xác, thì có khoảng 150 năm nằm giữa ngày ra đời của nó và ngày Ursford đóng cửa năm 1913. Ursford mở cửa vào khoảng năm 1850, nhưng nhãn dán trên bức tranh được đánh máy, có nghĩa phòng tranh này thu được nó sau 1880, vậy thì điều logic là phải bắt đầu từ đó trở đi. May mắn là hai nhà đấu giá sử dụng cùng một hệ thống lưu trữ, nên tôi bắt đầu từ thẻ chỉ mục, mỗi tấm ghi chú một bức tranh duy nhất, thường kèm theo ảnh, và chi tiết về ngày và giá bán. Cập nhật chỉ mục là một trong những công việc buồn tẻ nhất tôi từng phải làm quen. Có nhiều cuộc bán tranh Stubbs, nhưng không có mục mô tả nào khớp với bức tranh tôi đã thấy. Có cả vài bức xếp loại “cùng trường phái”, những bức tranh mang phong cách và tên của họa sĩ, và cùng thời kỳ, nhưng không chắc chắn là do họa sĩ đó sáng tác, năm bức trong số đó có năm sáng tác từ 1870 đến 1910. Một trong số này quả thật tương ứng với bức có thể là Stubbs kia, mã định danh là ICHP905/19, có nghĩa nó từng là một tác phẩm do Important Country House Pictures bán vào năm 1905 và là món thứ mười chín được bán. Tôi vội quay lại chồng dữ liệu và túm cả hai tay lên tay nắm của một tủ tài liệu đề 1900-1905, vần một hồi cho đến khi có khoảng trống đủ rộng mở ra. Tủ tài liệu được đặt trên thảm lông nên rất khó đẩy ra đủ xa để vào đọc. Tôi lách người vào và bước nhanh theo dãy tủ cho đến số 1905, tìm cái tên “Important Country House Pictures”. Nó đây rồi. Tài sản của một Bá tước: Công tước xứ Richmond cùng phu nhân ngắm ngựa. Bán cho ngài W. E. Sweet, với giá 1.300 ghi nê. Bá tước vùng Halifax, tôi đoán, một trong những nhà sưu tầm tranh Stubbs lớn nhất nước. Vậy ra nó là tranh thật. Tôi không khỏi cảm thấy thất vọng một cách vô lý. Kế hoạch đỉnh cao nhằm cứu Rupert khỏi một sai lầm định danh tai hại đã thành công cốc. Một chuyên gia nào đó trước đây đã xác định sai bức tranh thật thành tranh “cùng trường phái”, chỉ có vậy mà thôi. Tôi mới là người đã nhầm lẫn. Tuy vậy, ít nhất tôi có thể đóng góp chút thông tin hữu ích về nguồn gốc bức tranh. Rupert hẳn sẽ hài lòng về điều đó. Tôi đi bộ dọc theo Burlington Arcade trở về, nhìn vào cửa kính các shop lụa cashmere và hộp đồ trang sức mạ vàng mê hồn của hiệu bánh macaron Ladurée. Tôi nghĩ tôi có thể mua cho mình một chiếc áo len cổ chui cổ điển tử tế bằng tiền làm ở hộp đêm. Thế nhưng, vẫn có gì đó khiến tôi lấn cấn. 1.300 ghi nê là một số tiền lớn vào năm 1905, thế nhưng giữa không khí phấn khởi về bức Stubbs trong ban, lại không ai nhắc đến mức giá khởi điểm. Tôi hình dung lại cuốn catalog, đến con số in kín đáo trên trang bìa sau: 800.000. Thấp đến buồn cười. Không hợp lý chút nào. Nếu bức tranh đúng là hàng thật như tôi đã thấy, vì sao Rupert lại đồng ý đặt một mức giá tối thiểu thấp như vậy? Khi tôi về đến ban chỉ có Frankie ở đó, cô đang gặm một miếng bánh mì nướng quết phô mai to tướng từ chiếc thìa đầy dầu ở Crown Passage. Ngoài trời ẩm ướt như mọi khi, và tôi không khỏi nhận ra áo khoác của cô, đang vắt trên thành ghế, sặc mùi chó Labrador. Nó khiến tôi cảm thấy quý mến cô. “Frankie,” tôi hỏi, “cậu có nhớ cậu để tập ghi chép tớ mang từ Warminster về mấy tháng trước ở đâu không? Tập nghiên cứu về Stubbs ấy?” “Chắc ở cùng chỗ tài liệu cho buổi đấu giá tới. Rupert phấn khởi lắm!” “Ừ, ừ, tất nhiên rồi. Tớ chỉ muốn xem qua một tí.” Cô với tay ra sau và nhặt một kẹp tài liệu lên, lật qua các lá, rồi lắc đầu. “Không có ở đây. Chỉ có ghi chép của Rupert và ảnh sau khi vệ sinh thôi. Tớ tìm lại lần nữa nhé?” “Thôi, không cần đâu. Xin lỗi vì quấy rầy cậu ăn trưa nhé.” Có điều gì đó trong chuyện này vẫn làm phiền tôi. Tôi kiểm tra con số trong nhật ký văn phòng và đi gọi điện thoại trong nhà vệ sinh bẩn thỉu của ban. Chị Tiger nghe điện. Tôi chưa gặp chị ta; lần tôi đến chị ta đang đi thăm chị gái ở Bath, có lẽ cũng là chuyện tốt, nếu xét đến những chuyện ông anh Tiger làm được với một cây roi ngựa. Chị ta có giọng nói ngọt ngào dễ chịu. “Judith Rashleigh đây ạ. Mấy tháng trước tôi có đến Warminster. Chồng chị đã cho tôi xem bức tranh vẽ ngựa.” “Ồ, phải rồi. Ưm, chúng tôi hài lòng lắm. Tôi giúp gì được cô?” “Chắc là anh chị rất hài lòng với kết quả đánh giá bức tranh?” “Ừ, thì, chúng tôi vốn cũng biết là nó không phải tranh Stubbs thật mà. Nhưng anh chàng kia trả chúng tôi giá khá tốt.” “Người mua tranh ấy ạ?” “Anh chàng đến hôm trước đấy.” “Tất nhiên rồi,” tôi vội nói, “Rupert.” Chị Tiger do dự. “Không… tôi nghĩ không phải là tên đó.” “Ồ.” Tôi cố tỏ ra thật tự nhiên để che đậy sự bối rối của mình. “Tôi nhầm. Tôi chỉ muốn biết chắc là anh chị đã biết mọi chi tiết trong trường hợp anh chị còn có gì muốn cho chúng tôi xem. Chúng tôi muốn cập nhật tình hình.” “Các cô đã rất tử tế khi giới thiệu cho chúng tôi một phòng tranh khác.” “Chuyện đó… ừm… không có gì. Tôi sẽ không quấy rầy chị thêm nữa, nhưng chị có còn nhớ tên người đến mua không ạ?” Giọng chị ta trở nên hơi cảnh giác. “Không. Sao?” Tôi lúng búng một tràng thuật ngữ, cảm ơn chị ta rồi cúp máy. Tôi ngồi xuống bồn cầu nghĩ ngợi. Chị Tiger đã buồn rầu thừa nhận rằng bức tranh không phải tranh Stubbs thật. Chị ta đã bán nó, và hài lòng với mức giá tốt cho một bức “cùng trường phái”. Thế mà bức tranh chúng tôi đang bán trong ban và nó lại là một. Tôi xem lại lần nữa cuốn catalog chúng tôi đang chuẩn bị. Bức tranh được đề, theo phong cách truyền thống, là “Tài sản của một quý ông”. Theo lẽ đương nhiên tôi mặc định “quý ông” đó là ông Tiger, nhưng rõ ràng là không phải. Câu chuyện của Rupert khớp với nghiên cứu của tôi tại kho dữ liệu của bên kia: bức tranh bị định danh nhầm, nên người phát hiện ra nó là tranh thật hẳn phải là “anh chàng” bí ẩn đã đến mua nó từ vợ chồng Tiger và bây giờ đang định bán nó qua chúng tôi. Xui cho nhà Tiger, dù tôi còn lâu mới ngu ngốc đến mức đi nói cho họ biết. Nếu “anh chàng” kia đã chơi họ, thì đó cũng không phải chuyện của chúng tôi - rõ ràng anh ta đã trả một số tiền đàng hoàng dựa trên trực giác và sắp nhận được phần thưởng. Thế nhưng, chuyện này có vẻ không đúng. Tôi cảm thấy bất an, thấp thỏm một cách kỳ lạ, cảm giác ấy đeo bám tôi cho đến khoảng ba giờ khi Rupert lướt vào, rõ ràng là vừa ăn xong một bữa trưa thịnh soạn nữa, và lẩm bẩm gì đó về một cuộc gặp mặt ở thư viện Brook. Họ quả thực còn cung cấp gối cho hội viên đến ngủ trưa trong thư viện vào buổi chiều. “Hẹn gặp cô tối nay nhé, Angelica,” anh ta nói trên đường ra. Angelica thậm chí không buồn ngẩng lên, còn mải tập trung cho nên nhắn tin khẩn yếu. “Ờ, rồi, Rupes.” Tôi đang tự hỏi “tối nay” có gì thì Rupert dừng ở bàn tôi, lục lọi cặp tài liệu. “Ờ, Judith. Có lẽ cô muốn đến chỗ này,” anh ta nói, đưa cho tôi một phong bì cứng. “Angelica cũng đến. Gặp mặt xã giao một chút. Mặc đẹp nhé!” “Tôi sẽ cố gắng, Rupert.” “Tôi tin cô. Trông cô luôn rất, ờ, xinh. Hẹn gặp cô sau nhé!” Tôi để nguyên phong bì tại chỗ anh ta đặt xuống, đề phòng Angelica nghĩ tôi không biết mình vừa được mời đi đâu, nhưng khi mở phong bì tôi phải cố lắm mới không toét miệng cười. Rupert đã đưa cho tôi một thiệp mời đến bữa tiệc Tentis ở Phòng tranh Serpentine. Tentis & Tentis là một hãng kiến trúc lớn vừa đàm phán xong với thành phố về một số căn hộ thuộc dạng đắt nhất London. Tạp chí người nổi tiếng ở hộp đêm Gstaad đăng đầy tin về chuyện đó. Rupert đã tìm cách tống được cho họ một lô giảm giá gồm những tranh đấu giá thừa lại từ thập niên tám mươi để trang trí cho tường nhà của các tỷ phú. Tôi đã mất cả tuần để gom đủ các giấy tờ nguồn gốc. Bữa tiệc nhằm ăn mừng sự hợp tác sắp tới với hội chợ nghệ thuật Frieze Masters. Rupert thực sự đã mời tôi đến đó. Sẽ có phóng viên chụp ảnh - bọn con gái ở hộp đêm có thể đọc được về nó. Biết đâu ngay cả bọn đĩ tôi đi học cùng cũng sẽ đọc được. Quy định ăn mặc đề ở cuối tấm bìa dày màu kem cổ điển ghi “đồ đen”. Tôi không có váy dài, nhưng giờ không phải lúc tiết kiệm. Tôi ngóng đồng hồ đến đúng năm giờ, chạy ra ngân hàng ở Picadilly, rồi gọi taxi. Vào lúc sáu giờ, tôi đã về đến phòng trọ sau khi đi qua trung tâm thương mại Harvey Nicks, với một túi cotton chứa chiếc váy lụa đen tuyền Ralph Lauren buộc vòng qua một vai bằng sợi dây vàng mảnh đến gần nhu vô hình. Tôi không mấy quan tâm đến ý kiến của Rupert về gu thời trang của tôi, nhưng đây là cơ hội thực sự đầu tiên tôi có để làm quen với những người quan trọng. Tôi muốn trông mình phải hoàn hảo. Nhưng tôi do dự về đồ trang sức. Đôi hoa tai kim cương mờ đục mẹ tôi tặng lần sinh nhật thứ hai mươi mốt đã bị đem cầm ở Hatton Garden từ lâu, nên tôi đi theo quan điểm rằng không đeo nữ trang luôn phong cách hơn là đeo nữ trang rẻ tiền, và không đeo gì. Chiếc váy không cần thêm thứ gì bên dưới, chỉ cần đi giày cao gót đơn giản. Tôi năn nỉ Pai cho mượn chiếc xắc Gucci đen cho đủ bộ. Hầu như không trang điểm gì, chỉ mascara và một vệt đỏ mận trên môi. Tôi gọi taxi để không phải đến nơi với vẻ rũ rượi. Vẻ mặt gã tài xế khi tôi vào xe đã cho tôi biết mọi điều tôi cần. Một đám đông paparazi đang đợi ở cuối tấm thảm đỏ trải ra từ mái đình bằng kính trong công viên Hyde, phát sáng màu hồng và tím như một con tàu vũ trụ cổ điển. Một vài người trong số họ chụp vài kiểu ảnh lấy lệ, tôi đoán chỉ theo phép lịch sự, nhưng vẫn khiến tôi thấy vui. Tiếng ồn của bữa tiệc dội về phía tôi, đồng điệu, tươi vui, như tiếng rì rầm của một con thú khổng lồ. Tôi đưa tấm thiệp cho một người giữ cửa, anh ta vẫy tay cho tôi qua, rồi tôi nhắm mắt tận hưởng một giây háo hức ngọt ngào, chuẩn bị đón nhận tất cả. Nàng lọ lem sẽ cảm thấy thế nào, khi cuối cùng đến được buổi dạ hội, nàng lại thấy mình đang đứng tại bữa tiệc văn phòng của cò nhà đất? Những hũ nến Jo Malone khổng lồ không thể che đậy được mùi hơi thở đầy sâm banh chua lòm choáng ngợp. Hàng trăm gã đàn ông bợt bạt trong bộ vest rẻ tiền bu quanh quầy bar miễn phí với vẻ háo hức như dân Mormon được thả vào thành phố Atlantic. Bất kể Tentis & Tentis đã thuê được đám đông này từ đâu thì nơi đó rõ ràng chưa từng biết đến Moët*. Tôi soi được cái đầu nhỏ xíu của một siêu mẫu quá đát thò ra khỏi đám đông như một cây cần tây hoang mang, nhưng ngoài cô ra nơi đây chẳng khác gì tối thứ Sáu ở All Bar One Hammersmith. Tôi thấy một nỗi ân hận kinh khủng về tấm hóa đơn Harvey Nicks đang nằm trên mặt tủ ở nhà. Người duy nhất không phớt lờ quy định ăn mặc là Rupert, bụng anh ta tạo thành một khu vực VIP mini riêng. Anh ta đang nói chuyện với ai đó tôi biết mang máng, một chủ phòng tranh tên là Cameron Fitzpatrick. Tôi bắt gặp ánh mắt của Rupert, và anh ta phục phịch bước về phía tôi. Rất ít người mặc đồ đen mà trông không bảnh lên, và Rupert là một trong số ít đó, nhưng lần đầu tiên tôi thấy mừng khi gặp anh ta. “Rupert,” tôi chào xã giao, vẫy cái xắc tay về phía anh ta. “Chào anh!” Trong một thoáng, trông anh ta có vẻ bối rối. “Ồ, ờ, Judith. Đúng rồi. Tôi phải đi bây giờ. Có hẹn ăn tối.” “Tôi không định giữ chân anh, nhưng tôi có tìm hiểu thêm một chút về nguồn gốc của bức Stubbs.” “Gì cơ?” “Ở cuộc họp ban hôm nay? Bức Stubbs ấy?” “Judith, tôi phải đi đây, ngày mai ta sẽ nói chuyện,” anh ta nói với lại rồi chạy biến. Hy vọng duy nhất của tôi về một người để trò chuyện cùng, Fitzpatrick, cũng đã biến mất vào đám đông. Tôi chen đến quầy bar qua một đám con gái ăn mặc thiếu vải với những đôi giày mà Kim Kardashian có lẽ muốn đòi lại. Tôi thậm chí không tận hưởng nổi những cái nhìn họ ném về phía mình. Rõ ràng họ đã nghe đến câu gợi cảm là sức mạnh, nhưng cũng chỉ nghĩ đến đó. Cố gắng bộc lộ vẻ quyến rũ của mình bằng cách nhét mông vào một chiếc váy gần như có thể thông báo về lần gần nhất bạn đến hiệu tẩy lông có lẽ không phải là con đường tốt nhất để đến với công cuộc giải phóng nữ giới. Tôi đoán buổi tối của họ sẽ kết thúc bằng một màn nhảy khiêu dâm thiếu lửa vào ba giờ sáng ở Vingt Quatre trước một đám đông trung lưu dính đầy mayonnaise. Không phải tôi, ồ không. Không phải cô Judith bán tranh nghệ thuật thành đạt kiêm nữ tiếp viên. Tôi không muốn uống lắm, nhưng vẫn uống hai ly cho có việc để làm. Tôi thong thả băng qua căn phòng một lần nữa, giả vờ đang tiến về phía ai đó, nhưng chẳng có chút hứng thú nào. Angelica chẳng buồn ló mặt. Có thể cô ta không biết gì về hội họa, nhưng khóa học trường đời của cô ta rõ ràng đã bao gồm một lớp nâng cao về những bữa tiệc cần tránh. Rõ ràng là một mã bí mật nữa tôi chưa phá giải được. Sao tôi lại có thể phấn khích đến đáng thương như thế chứ? Tôi thực sự nghĩ điều gì sẽ có thể xảy ra? Trò chuyện lịch thiệp với một đám đông tỏa sáng, kể chuyện cười với Jay Jopling trước khi được đưa đến chiếc bàn Lucien Freud từng ngồi ở Wolseley để ăn tối chăng? Điều đó sẽ không bao giờ xảy đến với tôi, vì tôi chỉ là một con nhân viên quèn, không phải sao? Một cô nàng bưng bê trà nước ảo tưởng sức mạnh. Tôi thấy nhục nhã. Ngay cả đám paparazi bên ngoài cũng đã bỏ đi làm những việc hay ho hơn. Cô siêu mẫu quá đát cũng đã biến mất, hẳn là đang nhét tờ chi phiếu béo bở trả cho việc xuất hiện vào bên dưới mấy miếng gà phi lê trong áo ngực, trên đường đi đến nơi những người thông minh thực sự có mặt. Chúa ơi, tôi thật là thảm hại. Tôi nghĩ tôi nên tự trừng phạt mình bằng cách cuốc bộ về nhà nhưng tôi quá trầm uất. Hai mươi bảng tiền taxi nữa thì đã làm sao? ít nhất tôi có thể kể với Dave rằng tôi đã đến một nơi sang trọng; anh ấy thích nghe những chuyện như thế. Nhưng có phải nó luôn thế này không? Có phải London là một loạt những không gian đóng chặt ngày càng nhỏ, như búp bê Nga, để khi bạn tưởng bạn đã vào bên trong thì chỉ có một cái rương bóng bẩy khác, được khóa chặt để ngăn bạn ở bên ngoài? Tôi giằng cái váy ngu xuẩn xuống ngay từ khi trả tiền xe. Sợi dây mỏng manh đứt phựt và tôi giận dữ đến mức túm lấy đường xẻ ở chân và xé thứ khốn kiếp ấy làm hai, trước sự ngạc nhiên của một cặp vợ chồng già đi ngang qua, tay túm chặt tờ chương trình từ nhà hát Albert Hall. Căn phòng trọ nằm chờ tôi, âm ỉ một cơn giận trắng xóa. Sau khi lội qua mê cung gớm ghiếc chất đầy xe đạp, giày dép, mũ bảo hiểm thường trực chắn ở lối đi, tôi thấy một cái hộp trên bàn bếp với tờ giấy nhắn ghi “Judy” dán trên đó. Trong hộp là một chiếc cốc gốm màu hồng béo ị có tai thỏ. Tờ giấy ghi, “Rất xin lỗi. Tớ mượn cái tách của cậu rồi nhỡ tay làm vỡ. Tớ đền cậu cái này!” Bạn cùng phòng tôi còn vẽ một cái mặt cười nữa, con đĩ ngu xuẩn. Tôi nhìn vào thùng rác. Trong đó có mảnh võ tách và đĩa của tôi, chiếc tách men Villeroy 1929 hoàn hảo màu xanh lục sáng mà tôi đã phải đến tận chợ trời Camden Passage khổ sở suốt hai tuần mới có được. Nó chỉ có giá bốn mươi bảng mà thôi, nhưng vấn đề không phải ở đấy. Vấn đề không phải thế. Tôi nghĩ mình còn ít keo siêu dính trong ngăn kéo của cái tủ bát đĩa giả-Victoria xấu xí, nhưng tay nắm tủ bị kẹt và tôi đá vào chân cái tủ khốn kiếp quá mạnh khiến nó văng ra, và cái tủ vẹo về một bên khiến tất cả đống đồ sứ tởm lợm vỡ tan, rồi sau đó là một vài phút đáng hận mà sau khi bình tĩnh lại tôi phải mất khá lâu mới dọn dẹp xong. CHƯƠNG BẢY Tôi tỉnh giấc lúc năm giờ với cái đầu ong ong. Tôi nằm trần truồng trên giường, nhìn chằm chằm lên trần nhà lóa mắt. Tôi đã để hộp đêm làm rối trí não mình. Quan hệ thân thiết với đám con gái và đồng tiền kiếm quá dễ dàng đã khiến tôi cùn đi. Tôi sẽ sửa chữa lại chuyện này, và điều đó có nghĩa là tra đến tận cùng về bức Stubbs. Một bữa tiệc tệ hại chẳng là gì cả. Tôi phải tập trung. Tôi đến văn phòng sớm, mong gặp Dave, nhưng Laura chặn đầu tôi và bắt tôi dành cả một buổi sáng bồn chồn để tra cứu giá khởi điểm cho Stanley Spencers để giúp gã gây quỹ đầu tư nào đó gian lận tiền thuế thu nhập. Thuế thặng dư vốn có thể nói là lĩnh vực duy nhất ở ban này có vẻ có tính kinh doanh. Tôi đi xuống nhà kho vào giờ ăn trưa, nhưng Dave đã ra ngoài. Tôi gọi vào di động của anh và rủ anh đi uống sau giờ làm, rồi tôi đi thẳng ra N. Pearl mua một chiếc áo lụa cashmere cổ tròn tuyệt đẹp màu xanh nhạt tốn hơn cả số tiền tôi đổ vào Harvey Nicks. Vì lý do nào đó tiêu thêm tiền lại khiến tôi thấy khá hơn khi nhớ về thảm họa Tentis. Tôi định thay áo để đến hộp đêm trong nhà vệ sinh ở thư viện London trên quảng trường St James để có thêm thời gian gặp Dave trong Bunch of Grapes ở phố Duke. Khi anh tập tễnh bước vào - vì tự ái quá cao mà anh không chịu dùng gậy - tôi gọi cho anh một cốc bia London Pride và cho mình một ly tonic. “Cảm ơn cô vì mời anh uống, Judith, nhưng bà xã sẽ thắc mắc không biết anh đi đâu.” Tôi giải thích rằng ghi chép của mình về bức tranh đã bị mất, và rằng bức Stubbs không được mua trực tiếp từ cặp vợ chồng ở Warminster mà qua một người mua bí ẩn. Nghe quả thực có vẻ vớ vẩn, nhưng tôi tin chắc là có gì không ổn. Tôi không thể giải thích được cho Dave, nhưng sau thất bại toàn diện tối hôm trước dường như việc chứng minh mình đúng về bức Stubbs càng trở nên quan trọng hơn. “Em muốn xem bức tranh, Dave. Nó đến kho rồi, đúng không? Anh có mắt nhìn hơn em. Em không tin cái chuyện vẽ phủ đó.” Dave hạ giọng. “Cô không có ý nói Rupert định bán tranh giả đấy chứ?” “Tất nhiên là không. Em nghĩ có lẽ anh ta nhầm lẫn và em không muốn ai bị mất mặt, thế thôi. Nếu giúp họ khỏi mất mặt mà khiến em đẹp mặt thì càng tốt. Nhưng đây cũng đâu phải lần đầu tiên có người mắc lỗi khi định danh đâu, đúng không? Anh biết mà. Làm ơn đi? Mười phút thôi rồi anh muốn mắng em là đồ ngốc cũng được, em sẽ không bao giờ nhắc đến chuyện này nữa.” “Judith, chuyện này đã có chuyên gia rồi. Anh sẽ cần mấy thứ kiểu dụng cụ mới xem được.” “Dave. Anh quan tâm đến tranh thật đúng không? Anh nghĩ chúng ta nên bán hàng thật chứ? Vấn đề danh dự này khác?” “Chúng ta thực sự nên xin phép.” “Em làm việc ở đó, anh cũng làm việc ở đó. Bọn mình có thẻ ra vào… Coi như em chỉ đi xem ‘tác phẩm’ thôi. Như Laura vẫn luôn nói đấy.” “Mười phút?” “Tối đa. Đi mà,” tôi nói giọng mềm mỏng hơn. “Bọn mình là bạn tốt, đúng không?” “Ôi, được rồi.” Hầu hết nhân viên đã về, nên Dave đưa tôi vào bằng mã số của cửa sau. Chúng tôi phải dùng đèn pin trong nhà kho, có mức sáng thấp để bảo vệ tác phẩm. Dave đi thẳng đến rương chứa đúng bức tranh và nhấc nó ra. Tôi soi vào nơi tôi nhớ là có tấm biển đề Newmarket, và nơi tôi nghĩ chữ ký đã được dời đi. “Judith, anh không dám chắc. Anh thấy có vẻ bình thường.” “Nhưng có dấu, ở ngay đây này. Lớp véc ni này được bao lâu rồi?” Đầu chúng tôi chụm vào nhau trong khi soi xét tấm vải toan, đầu ngón tay cả hai chúng tôi huơ lên khoảng trống. “Nếu nó được vệ sinh,” Dave nói, đã bắt đầu có hứng thú, “thì có thể có dấu vết trên lớp vẽ dưới. Mình phải đưa nó ra chỗ sáng.” “Ừm, có chuyển đi được không?” “Cô bảo chữ ký lúc đầu ở đâu?” “Ừ, ở đâu thế?” Rupert. Họ nói người béo thường di chuyển lặng lẽ đến đáng ngạc nhiên. Tôi cười ngờ nghệch. “Rupert. Chào anh, xin lỗi, chúng tôi chỉ…” “Xin hãy giải thích rõ hai người đang làm gì ở đây. Cô là nhân viên cấp dưới, cô không được phép ở đây.” Thực ra chuyện đó chẳng có gì to tát. Tôi chuồn xuống đây sau giờ làm suốt. Thường là vì Rupert bảo tôi xuống. Anh ta quay sang Dave, giọng mềm mỏng hơn. “Hai người đang làm gì thế? Không phải đã đến giờ anh về nhà rồi sao, Dave?” Dave có vẻ xấu hổ và lí nhí một câu chào. Tôi ghét cách anh gọi Rupert là “ngài”. Rupert vẫn giữ vẻ hòa nhã, lịch sự bình thản cho đến khi Dave đã tập tễnh đi lên cầu thang, rồi xem xét tôi một hồi lâu. Trong ánh sáng ngả xanh trông anh ta như El Greco trương phình đến quái gở. Tôi biết anh ta sẽ không làm to chuyện. Quyền lực khi lặng yên sẽ hiệu quả hơn nhiều. “Judith, tôi đã định nói chuyện với cô từ lâu rồi. Tôi nghĩ cô không thực sự phù hợp với nơi này. Tôi muốn cho cô một cơ hội, nhưng tôi đã nhận được vài lời phàn nàn trong ban về thái độ của cô. Ý kiến của cô ở cuộc họp về bức Stubbs là không đúng mực và thành thật mà nói thì rất hỗn xược.” “Tôi chỉ nghĩ… tức là, tôi chỉ định… tôi không rõ…” Tôi lắp bắp như một nữ sinh mắc lỗi, nổi giận với chính mình mà không sao dừng lại được. “Tôi nghĩ cô nên thu dọn đồ đạc và đi đi, được chứ?” anh ta bình tĩnh nói tiếp. “Anh… sa thải tôi?” “Nếu cô muốn nói theo cách đó, đúng vậy. Tôi sa thải cô.” Tôi sững sờ. Thay vì phản đối, thay vì tự bào chữa, tôi bắt đầu khóc. Nực cười. Tất cả nước mắt dồn nén bây lâu lại chọn đúng lúc này để trào ra như suối, đấy tôi xuống vai một người đàn bà cầu xin, mặc cho tôi không muốn. Ngay cả khi cảm thấy những giọt nước mắt nóng bỏng, giận dữ dâng đầy mắt mình, tôi vẫn biết rằng Rupert đang giấu giếm điều gì đó. Ngay cả lời mời dự tiệc ngu xuẩn kia cũng là để dụ dỗ tôi giữ im lặng. Thế nhưng chuyện đáng lẽ sẽ không ra thế này. Tôi chỉ đang cố làm việc đúng đắn, làm việc tốt. “Rupert, xin anh. Tôi không làm gì sai cả. Xin anh để cho tôi giải thích?” “Tôi không quan tâm đến lời giải thích của cô.” Anh ta phớt lờ tôi suốt đoạn đường quay về ban. Tôi đi đằng trước anh ta xuyên qua những hành lang hẹp, cảm thấy như một tù nhân. Anh ta đứng khoanh tay nhìn tôi thu dọn đồ đạc từ trên bàn và bỏ vào cặp. Chiếc váy và đôi giày cao gót cho hộp đêm bị nhét xuống đáy. Tôi không thế chịu được việc nhìn thấy chúng. “Cô xong chưa?” Tôi ngơ ngác gật đầu. “Làm ơn trả lại thẻ ra vào. Tôi nghĩ không cần gọi an ninh đưa cô ra đâu nhỉ.” Tôi câm lặng đưa lại thẻ. “Cô đi được rồi đấy, Judith.” Tôi nghĩ đến Đại tá Morris. Tôi nghĩ đến những vất vả tôi đã trải qua vì Rupert, lấy vest cho anh ta từ hiệu may, lấy áo cho anh ta từ tiệm giặt, những cuộc gọi tôi phải trả lời khi anh ta trốn việc, về muộn sau giờ nghỉ trưa, những giờ làm thêm trong thư viện và kho dữ liệu, cố gắng chứng minh rằng tôi giỏi hơn thế, thông minh hơn thế, rằng tôi có thể chạy nhanh hơn thế, rằng tôi có thể nhận thêm và làm tốt hơn thế. Tôi đã nhún nhường và cần mẫn. Tôi không bao giờ cho phép mình thể hiện cảm giác bị sỉ nhục hay bị gạt ra ngoài. Tôi không bao giờ để cho bất kỳ ai trong số họ - Laura, Oliver, Rupert - thấy rằng tôi nhận ra sự khác biệt giữa tôi và họ. Tấm bằng Oxbridge của tôi tốt hơn bằng cấp của tất cả bọn họ. Tôi đã thực sự tin rằng bằng thời gian và công sức tôi sẽ thành công, rằng tôi có thể vươn lên đứng giữa họ. Tôi không bao giờ tự phỉnh phờ rằng Rupert tôn trọng hay coi trọng tôi. Nhưng tôi đã tin rằng tôi được việc, rằng tôi có giá trị gì đó. Thật đáng thương. “Chắc anh định giao cho Angelica công việc của tôi?” Tôi ghét giọng mình khi nói câu đó, rền rĩ, cay đắng. “Không phải việc của cô. Xin đi ngay cho.” Tôi nhìn thẳng vào mặt anh ta, biết rằng mặt mình nhòe nhoẹt nước mắt. Tôi nghĩ về cảm giác khi tỉnh giấc trong phòng trọ và không trở dậy để đến phố Prince. Đại sảnh mát lạnh, chất đá mịn dịu dàng trên tay vịn dưới bàn tay tôi. Đây từng là cơ hội của tôi. Có thể tôi chưa vượt xa khỏi cánh cổng vào, nhưng tôi đã vào được bên trong, tôi đã là một phần của thế giới mà tôi thuộc về và mỗi ngày tôi lại nghĩ tôi đang trèo cao hơn một chút. Tôi nghĩ về việc tôi sẽ phải gửi CV đi đâu và nơi nào sẽ nhận tôi. Tôi đã làm hỏng chuyện. Tôi đã mất kiểm soát, tôi đã để bản thân muốn quá nhiều, trở nên quá hăm hở, thiếu suy nghĩ, ngu ngốc, ngu ngốc. Tôi đã để mình thôi giận dữ, đã nhảy chân sáo như Pollyanna nghĩ rằng thiện chí là tất cả và chúng ta có thể phô phang ngay trong căn nhà kho lầy lội. Cơn giận đã luôn là bạn của tôi, và tôi đã ghẻ lạnh nó. Cơn giận đã giữ cho sống lưng tôi thẳng; cơn giận đã đưa tôi qua các trận ẩu đả và lời sỉ nhục. Cơn giận đã đẩy tôi từ số không tròn trĩnh lên đại học; nó đã là sức mạnh và sự khuây khỏa của tôi. Trong một khoảnh khắc tôi cảm thấy sức nóng trắng lóa của nó ở sâu trong cơ thể và nhìn thấy trong chóp nhoáng khuôn mặt đỏ gay chảy xệ của Rupert đang cúi trên máy tính. Đến đi, Cơn Giận ra hiệu, chỉ một lần này. Đến đi nào. Chiếc cặp cũ nát của tôi có bọc đồng ở góc; tôi tưởng tượng ra mình vung nó vào thái dương của anh ta, nhưng tôi không cần. Tôi có thể cảm thấy cơn đau nhức trong gân tay, trong hàm răng mình. Tôi muốn ngấu nghiến cổ họng anh ta như một con chó. Anh ta theo dõi tôi, và trong một tích tắc tôi thấy một tia cảnh giác trong mắt anh ta. Tôi chỉ cần có vậy. “Anh biết không, Rupert,” tôi nói, giọng thản nhiên, “anh là đồ đĩ. Đồ đĩ bất tài, đốn mạt, phì nộn.” “Cút ngay.” Tôi không biết ai trong hai chúng tôi là người tôi khinh bỉ hơn. Để chuộc lỗi, tôi mời Cơn Giận uống rượu. Cơn Giận là người bạn tốt, theo tôi hết ly này đến ly khác. Khi James đến hộp đêm tôi đã uống hết nửa chai Bolly thứ hai với một khách hàng khác và lần này tôi nuốt hết. Tôi không buồn nói tạm biệt, chỉ bỏ mặc anh chàng vô danh ngạc nhiên ngồi đó và sụp xuống bên cạnh James trong khi Carlo làm việc với chai Cristal. “Em nghĩ đêm nay em sẽ uống thứ này, nếu ngài không phiền.” “Ngày xấu hả?” Tôi gật đầu. Cuộc rượu này sẽ không vui vẻ gì. Tôi thấy mình lạnh lẽo và tàn nhẫn và bất cần. Tôi nâng bát rượu lên một cách khô khốc. Hẳn rồi, tôi thấy ông ta thật dâm dục, nhưng chúng tôi đang uống trong quán rượu của cơ hội cuối cùng, Cơn Giận và tôi. “James. Thẳng thắn với nhau đi. Ngài bằng lòng trả bao nhiêu để ngủ với em?” Ông ta có vẻ sững sờ, rồi sau đó là tự ái. “Tôi không cần trả tiền để mua sex.” “Vì sao? Sex không quan trọng với ngài bằng tiền sao?” “Lauren, có chuyện gì thế?” Nếu là một bộ phim, thì đây sẽ là một cảnh phim kinh điển. Một cơn lốc kỷ niệm cuộn về, Judith bé nhỏ kiên cường nhận bằng đại học, Judith lê bước về nhà sau giờ làm muộn, thức chong chong nhìn đống catalog, một giọt nước mắt buồn bã lăn xuống má Judith khi Rupert sa thải cô ta, phát hiện ngỡ ngàng rằng cô ta đang ở đây, trong một tầng hầm nhơ bẩn, tin rằng ông khách già bẩn thỉu này là niềm hy vọng duy nhất của mình. Judith đó sẽ đứng dậy và lịch sự bỏ đi, đến với tương lai rực rỡ của mình vì cô ta không cần hy sinh nhân cách để đổi lấy bất cứ điều gì. Hừm, phải. Tôi thì đã xong hẳn với mấy thứ khởi đầu mới rồi. Đây có vẻ là hy vọng duy nhất của tôi. Nếu đây là việc tôi sinh ra để làm, thì tôi phải làm cho tử tế. Tôi và Cơn Giận, chúng tôi sẽ tiến xa. Tôi để nước mắt đã kìm nén suốt nhiều giờ qua dâng long lanh lên mi mắt, cộng thêm hiệu ứng ướt át hành tỏi, một chút run rẩy và cắn môi dưới. Tôi ngước mặt lên nhìn ông ta. “James, em xin lỗi. Vừa rồi em thật thô lỗ quá. Chỉ là nơi này… Em không thể chịu đựng được khi nghĩ ngài cho rằng em là… người như thế. Em chỉ thử ngài thôi. Ngài thật tuyệt vời, còn em… em…” Ngay cả lòng tự tôn cao ngất của ông ta cũng sẽ co lại trước từ yêu, nên thay vào đó tôi thút thít một chút. Lại một lần nữa, lạy Chúa. Ông ta đưa cho tôi chiếc khăn tay lớn màu trắng có mùi Persil sạch sẽ. Tôi nhớ đến mẹ tôi, vào một trong những ngày vui vẻ của bà, tắm cho tôi và quấn tôi trong một chiếc khăn bông trắng sạch sẽ có mùi giống hệt, và sau đó cơn thút thít biến thành thật. Rồi sau đó chúng tôi trò chuyện và tôi nói với ông ta rằng tôi sợ hãi, rằng tôi vừa mất việc (tiếp tân ở một phòng tranh) và khi ông ta mời tôi đi chơi xa dịp cuối tuần tôi giả bộ nói rằng mình chưa bao giờ đến miền Nam nước Pháp, và nơi đó hẳn sẽ như thiên đường, nhưng chúng ta nên đưa một người bạn theo để cho mọi người thấy tôi không phải là loại gái đó. Không hẳn. Tôi thì thầm to nhỏ rằng ông ta có thể sẽ thuyết phục được tôi. Trên thực tế, chính khả năng sẽ phải ngủ chung giường với ông ta khiến tôi muốn có người khác đi cùng. Hơn nữa nên chuẩn bị sẵn nhỡ ông ta nổi hứng thích chơi tay ba. Không khó để gợi ý rằng việc thuyết phục kia sẽ phải bao gồm một khoản, ba ngàn bảng chẳng hạn, để giúp tôi trang trải cho đến khi tìm được việc. Và thế là khi ông ta rời đi, đã có một ngàn trên bàn để mua hai vé đến Nice, và tôi ngật ngưỡng bước đến chỗ Mercedes để nói với cô rằng chúng tôi sẽ đi Riviera. “Chúa ơi, Jude,” cô nói vẻ ngưỡng mộ, “cậu bỏ gì vào đó thế? Cocain à?” CHƯƠNG TÁM Tôi dùng vài đồng năm mươi bảng của James để sắm vài thứ cho chuyến đi. Một túi du lịch da bện màu nâu nhạt và túi xách tiệp màu từ một cửa hiệu nhỏ ở Marylebone có thể nhìn nhầm thành đồ của Bottega Veneta, một bộ bikini buộc dây màu đen, kính râm Tom Ford, khăn quàng Vuitton Sprouse màu xanh ngọc và be. Khi hạ cánh xuống sân bay Nice, tôi hài lòng thấy những món phụ kiện này khiến tôi trông giống nhiều phụ nữ đi nghỉ cuối tuần khác: cực kỳ chải chuốt nhưng không quá lố. Mercedes (chúng tôi đã giao hẹn sẽ dùng tên ở hộp đêm để không bị lỡ miệng) thì từ tốn đến khác thường trong quần jean và áo trắng đơn giản. James đang đợi chúng tôi ở quán cà phê cạnh phòng đợi khách đến. Tôi hít một hơi thở sâu khi nhìn thấy đống mỡ không biết ngượng của ông ta, những khoảnh ngấm mồ hôi trên chiếc áo hồng nhạt của ông ta. Ừ thì ông ta béo, nhưng ông ta có cần phải phì nộn đến thế không? Có chút gì đó tự mãn trong việc này, như thể có tiền là ông ta có thể mặc kệ tác động mình gây ra cho người khác - mà tất nhiên sự thật là thế. Tôi hít sâu một hơi. Tôi đột nhiên mong ước được trở về phòng trọ tồi tàn của mình. Tôi đã sống nhiều giờ ở đó, hoạch định, mơ ước, an toàn trong mộng tưởng về tương lai sắp đến. Nhưng chỉ có thế này thôi. Đây chính là tương lai. Hay ít nhất là tương lai trong vài tháng tới, khi chưa có kế hoạch hay hơn. Tôi làm được, tôi tự nhủ. Hơn bao giờ hết, tôi phải làm được. Tất cả chỉ là vấn đề kiểm soát. Một người đàn ông trẻ tuổi trông có vẻ là người Ma Rốc trong chiếc áo khoác sẫm màu với hàng chữ “Hôtel du Cap” in trên ngực khuân hành lý của chúng tôi vào chiếc xe dài màu đen. James vần mình vào ghế trước và phía bên ông ta ngồi lập tức võng xuống như một chiếc giường cũ. Tôi không dám nhìn Mercedes. “S’il vous plait, Mesdemoiselles”* Tôi lách qua cánh cửa anh ta đang mở cho mình và ngồi lên hàng ghế sau bọc da màu trắng ngà. Trên xe rất mát, cửa sổ dán kính màu, động cơ rầm rì trầm thấp. Vậy ra cảm giác là thế. James đang nghịch điện thoại nên tôi không cần phải cố bắt chuyện. Khi chúng tôi đến khách sạn, Mercedes nắm chặt tay tôi đầy phấn khích. “Đẹp quá, James,” cô trầm trồ và huých tôi một cái. “Rất đáng yêu,” tôi nhiệt tình góp lời. Chúng tôi chờ đợi kín đáo trong đại sảnh lát cẩm thạch đen trong khi James làm thủ tục nhận phòng. Một nhân viên tiếp tân hỏi xin hộ chiếu của chúng tôi, và tôi nói nhanh với cô ta bằng tiếng Pháp, kèm nụ cười bình tĩnh, rằng hộ chiếu ở trong túi hành lý đã được xách lên phòng và chúng tôi sẽ mang chúng xuống sau. Tôi không muốn James có cơ hội nhìn thấy tên thật của chúng tôi; việc đó sẽ phá hỏng không khí. “Cậu nói tiếng Pháp siêu thế!” Mercedes ngạc nhiên. Tôi nhún vai. “Có lẽ không nên để James biết thì hơn.” Chúng tôi được đưa tới một phòng veste trên tầng hai. Hai phòng ngủ mở ra phòng khách rộng mênh mông có sofa trắng và một bình hoa rum lớn. Cánh cửa đôi mở ra ban công nhìn xuống thảm cỏ dài chạy tới bể bơi nổi tiếng mà tôi từng thấy trong biết bao nhiêu tạp chí. Xa hơn nữa về bên phải theo hướng Cannes, là một cụm du thuyền khổng lồ đậu kín bến cảng cũ. Xem ra to lớn là âm hưởng chủ đạo của mọi thứ ở đây. Ngay trong số những du thuyền khổng lồ đó, có một chiếc đặc biệt nổi bật, thân tàu to lớn vươn cao như thủy quái Kraken. Tôi cũng từng thấy nó trong ảnh. Mikhail Balensky, “Người đàn ông đến từ Stan”, như báo chí Anh thường gọi, là một nhà công nghiệp người Uzbekistan có sự nghiệp như trong truyện comic, kể cả là theo những bài viết khiêm tốn. Khởi nghiệp từ ngành dầu mỏ, ông ta mở rộng sang buôn vũ khí nhưng, khi phát hiện không có đủ chiến tranh để thu về lợi nhuận đáng kể, đã quyết định tự gây ra vài cuộc chiến. Tài trợ cho vài nhóm phiến quân bất mãn trong một nước nhỏ mà chúng ta không biết gì đến, bán vũ khí cho cả hai bên, rồi ngồi nhìn hai bên bắn nhau, rồi mua hết những tài nguyên cứng còn sót lại trong tay chính phủ mà ông ta vừa giúp lập nên. Rất hiệu quả. Đó là chuyện của hai thập kỷ trước; Balensky ngày nay xuất hiện ở các gala cùng các nguyên thủ quốc gia, tham dự tiệc mùa hè Met Ball hay Serpentine, hoặc bị chụp cảnh đang vung ra vài triệu bạc ở một buổi tiệc từ thiện tởm lợm nào đó đại diện cho sự nghiệp nổi bật hiện thời. Những điều bạn biết được nhờ theo dõi Hello! quả là đáng kinh ngạc. “Mademoiselle?”* Anh chàng khuân vác tế nhị kéo tôi khỏi cơn mộng Riviera. Tôi có một tờ mười euro đã gập sẵn trong tay. Tôi trả tiền tip cho anh ta và bảo anh ta bỏ hành lý của chúng tôi vào phòng ngủ bên trái, còn hành lý của quý ông thì vào phòng bên phải. Bất kể James nghĩ gì trong đầu thì tôi cũng không định ngủ chung giường với ông ta. Để đề phòng ông ta có ý kiến, tôi bước ra ban công, quay lưng về phía ông ta và nhìn kiên định phong cảnh trước mắt. Tôi cảm thấy ông ta bước tới sau lưng và với tay ra nắm lấy tay tôi. “Hài lòng chứ, em yêu?” Em yêu. Lạy Chúa. “Đẹp lắm ạ,” tôi đáp với sự ngập ngừng kinh ngạc. “Anh mua cho em cái này,” ông ta nói thêm, đưa cho tôi một túi bóng màu đen rúm ró kèm theo một điệu cười mà rõ ràng ông ta cho là tinh quái. “Để tí nữa em mặc.” Tôi tự hỏi trong túi chứa thứ khủng khiếp gì, nhưng tôi vẫn cố gắng tặng ông ta một nụ hôn phớt lên cái má ẩm ướt chảy xệ. “Cảm ơn cưng. Anh chu đáo quá.” “Anh định là chúng mình sẽ ăn trưa ở bể bơi rồi sau đó đến Cannes mua sắm một tí. Chắc hai cô em sẽ thích thế.” “Tuyệt lắm. Em thay đồ cái đã.” Mercedes đang quay tròn quanh phòng tắm, săm soi mớ đồ vệ sinh Bulgari. “Lạy Chúa tôi, cái phòng tắm này còn rộng hơn cả căn hộ của tớ.” “Tìm cái tủ lạnh đi,” tôi rít lên. “Tớ cần uống cái đã.” James xuất hiện để ăn trưa ở Eden Roc, bể bơi bên vách đá của khách sạn, trong chiếc quần bơi Vilebrequin màu chói dưới chiếc áo choàng trắng của khách sạn, hai vạt áo buông rủ cam chịu ở hai bên cái bụng trắng bệch của ông ta. Từ sau cặp kính râm tôi thấy hai đứa trẻ con tóc vàng trong bể đang chỉ trỏ và cười khúc khích cho đến khi cô vú em suỵt chúng im. Cả ba chúng tôi đều gọi xa lát tôm hùm và nước khoáng Perrier. James chọc nguyên từng khối bơ từ khay đá, cuộn chúng lại rồi nhét vào mồm. Một cơn mưa vụn bánh mì cỡ nhỏ rơi xuống nếp cằm trước khi mắc vào thảm lông xám trên ngực ông ta. Giống như thể đang xem một Lucien Freud phiên bản hoạt hình vậy, nhưng điều đó cũng không làm cảnh tượng ấy dễ nhìn hơn chút nào. Trong khi Mercedes gảy đĩa xa lát của mình và nghịch điện thoại (tôi nghĩ tôi cần phải bảo cô thôi cầm dao như cầm bút đi), thì tôi giục James kể lại cho mình nghe về những ngày tháng rõ ràng là chuyện bịa khi ông ta còn là tay chơi ở Riviera, giả bộ trầm trồ với những câu chuyện phóng đại của ông ta về chuyện khiêu vũ với Elizabeth Taylor ở Jimmy’z và dự tiệc cùng Dionne Warwick ở Golfe Juan. Không phải ông ta cố gắng thuyết phục tôi rằng ông ta từng rất ngon lành, mà tôi nhận ra, ông ta thực sự tin như vậy. Sau bữa trưa chúng tôi được lái xe đưa tới Croisette. Trên bờ biển bên dưới khách sạn Carlton, một nhóm phụ nữ mặc burka* nghịch nước một cách đáng thương trên sóng. Trời đã trở nên ảm đạm, ẩm thấp vô cùng và James cáu kỉnh, thô lỗ khăng khăng với tài xế rằng ông ta biết chỗ đỗ xe tốt nhất rồi sau đó lại mắng mỏ anh ta bằng tiếng Pháp bồi khi chúng tôi phải lái xe ba vòng quanh khu nhà. Tôi không nghĩ lòng kiên nhẫn của ông ta sẽ cầm cự được qua một chuyến mua hàng, vì thế tôi gợi ý chúng tôi dừng lại bên ngoài hiệu Chanel và để xe nổ máy chờ. Tôi bước vào cửa hàng trước tiên và hỏi người bán hàng có thể mang ghế đến trong khi tôi và Mercedes xem túi xách được không. Bà ta có vẻ hơi sốc trước gợi ý rằng bà ta sẽ phải làm việc thấp kém đó. Nhưng rồi bà ta thoáng nhìn thấy James ở ngưỡng cửa. “Tout de veste, madame.”* Tôi đã biết thứ mình muốn: một chiếc túi xách đeo vai đệm lông cổ điển màu đen có quai xách da mạ vàng. Mercedes chần chừ, nhìn qua một lượt áo khoác vải tuýt trái mùa. Chúng rất đẹp; đáng lẽ tôi cũng muốn thử một chiếc, để cảm nhận lớp lót lụa trên cánh tay trần của mình, cái lúc lắc của sợi dây vàng nhỏ xíu khâu vào viền gấu áo, nhưng James rõ ràng đã cảm thấy vai đại gia kém thú vị dần đi. “Cậu thích cái túi nào, Mercedes?” “Cái to kia kìa.” Người bán hàng dường như mất hàng thế kỷ để gói hai cái túi vào lớp giấy lót rồi vào cái túi cotton cầm tay màu đen đóng dấu chữ C của Chanel, rồi cuối cùng bỏ chúng vào túi cứng thắt ruy băng. Lúc này tôi đã hiểu ra cơn bực dọc của James xuất phát từ thực tế rằng ông ta không thể tự thừa nhận việc ông ta luôn kiệt sức và khó chịu không phải là vấn đề chung của cả thế giới này mà là của riêng ông ta, vì ông ta quá béo để hòa nhập với thế giới. Thế nhưng ông ta vẫn mạnh dạn chìa ra tấm thẻ American Express trong khi Mercedes và tôi giả vờ tỏ ra hứng thú với đám khăn quàng, tế nhị rời ánh mắt khỏi máy thu tiền. Kết quả tốt. Nhưng khi James từ chối đề nghị quả thực có phần độc ác của tôi rằng chúng tôi nên đi dạo quanh các con phố lát đá dốc đứng của thành phố cũ thay vì về khách sạn để ngủ trưa, tôi hiểu rằng tôi sẽ phải bỏ công sức ra. Khi chúng tôi về đến căn phòng veste tôi đẩy Mercedes vào phòng của chúng tôi. “Hay là anh tắm một cái cho thoải mái đi, cưng?” tôi lảnh lót nói với lại. Ít nhất tôi sẽ không bị bao trùm trong lớp mồ hôi bẩn thỉu đó. “Tớ ghét cậu,” tôi nói khi Mercedes lấy đồ để quay lại bể bơi. “Đừng lo. Ông ta chỉ muốn ôm ấp một tí thôi. Dù sao thì, nhìn này.” Cô cho tôi xem mấy lọ thuốc trong túi đồ trang điểm đầy ắp. “Cái gì thế?” “Chẳng có gì mấy. Xanax. Vài viên Vallie.” “Đưa cho tớ nào.” “Không phải cho cậu. Cho ông ta đấy.” “Tớ không hiểu.” “Ngốc. Bọn mình sẽ cho ông ta uống Mickey Finn*. Tớ không muốn phí cả buổi tối với lão béo đó đâu. Bọn mình đang ở miền Nam nước Pháp đấy, Jude.” “Lauren.” “Được rồi, nghe này,” cô thầm thì, dù tôi có thể nghe được tiếng nước chảy từ phòng bên cạnh. “Bọn mình sẽ đi ăn tối, rồi tớ nghiền vài viên này để cậu bỏ vào brandy của ông ta.” “Ông ta không uống rượu.” “Thì nước có ga cũng được. Nửa giờ thôi là ông ta sẽ gục. Bọn mình có thể lên phố rồi sáng ngày mai ông ta đã được ngủ một đêm ngon lành. Ông ta không biết được đâu.” “Ông ta béo lắm đấy, Mercedes. Tớ không nghĩ làm chết khách hàng sẽ tạo hình ảnh tốt đâu.” “Đừng có nhát thế, thuốc không mạnh đâu. Tớ uống suốt mà. Tớ vào nhà vệ sinh ở gần bể bơi để chuẩn bị đây. Hay là tối nay cậu lại muốn một hiệp nữa trên đệm cao su hả?” “Đừng có quá đáng. Chuyến này cậu được đi miễn phí đấy nhé.” “Biết rồi. Tớ chỉ muốn nói sao cậu lại không được hưởng vui vẻ chứ hả? Bọn mình sẽ xuống chỗ mấy cái du thuyền to bự kia xem. Thôi nào, sẽ vui mà.” Có lẽ là vì bầu không khí thư thái của Riviera, nhưng tôi đã cảm thấy vui vẻ hơn nhiều. Mặc kệ. Ngay cả nếu James phát hiện ra, ông ta cũng chỉ có thể nổi giận rồi tống chúng tôi về nhà với mỗi người một cái túi xách giá hai ngàn bảng, thu hoạch không tệ chỉ trong một ngày. Rồi sẽ có cơ may khác. “Thôi được rồi,” tôi nói. “Nhưng cẩn thận đấy. Nhìn nhãn thuốc cho kỹ.” “Cậu nên mặc mớ giẻ của cậu vào đi. Tụt quần ra, gái!” Sau khi Mercedes chạy đi, tôi kiểm tra túi đồ chơi của James. Bên trong chứa một chiếc quần lót PVC không đáy, áo hai dây lưới có ren như áo lót, lộ nhũ hoa, và một đôi tất đùi đen có kẹp giữ PVC. Loại đồ hư hỏng bán trong các hiệu đồ chơi tình dục cho khách du lịch ở khu Soho. Tôi lồng tất cả lên người, rửa sạch cô bé và bôi một vệt dầu thơm lên dải lông mu và giữa mông. Thêm vào đôi sandal cao gót đen và bới rối mái tóc, tôi soi mình trong gương với căn phòng tắm cẩm thạch xa hoa làm nền phía sau. Chậc, nếu cái ông ta muốn là gái điếm giá rẻ… Nó còn có thể tệ hơn thế này, tôi nghĩ. Nếu tôi nheo mắt lại, tôi hầu như còn có thể giả bộ rằng trông mình giống vũ nữ hơn là gái đứng đường. “Mẹ nghĩ tôi sống trong tu viện, tu viện khuất nẻo nhỏ xinh, ở miền Nam nước Pháp,” tôi hát khe khẽ, thử nở một nụ cười thèm muốn. Tốt. Rất tốt. Tôi ngất nghểu đi ngang qua phòng khách và gõ cửa phòng James. “Cưng ơi, em xong rồi đây,” tôi õng ẹo. “Vào đi.” Căn phòng trống trơn. Từ nhà tắm vọng ra tiếng tõm vang rền, theo sau là một tràng đánh rắm liên thanh. Tôi dừng ngay tại ngưỡng cửa. Chúa ơi. Vài phút trôi qua rồi có tiếng giật nước và James xuất hiện, cùng một luồng hơi xú uế nóng hổi kèm mùi hương chiết xuất Chanh Penhaligon. “Bụng dạ hơi nhộn nhạo,” ông ta nói, giọng trách móc. Sao ông ta không thể giữ kín sự thô bỉ của mình cho riêng mình biết chứ? Lúc này ông ta đã trần truồng dưới lớp áo choàng mở phanh. Trong khi ông ta nhìn tôi, một nụ cười nhếch lên, nhưng ông ta vẫn do dự không tiến về phía tôi. Tôi nhận ra ông ta chưa bao giờ làm việc này. Cảm thấy tự tin hơn, tôi bước về phía ông ta. Tôi nhắm mắt và lướt ngón tay dọc theo cái tạm coi là quai hàm ông ta, xuống đến cổ, ngang qua những đụn thịt trên ngực. “Vậy thì,” tôi thỏ thẻ, “ông muốn làm gì em nào?” Im lặng. Tôi gồng mình chuẩn bị cho một nụ hôn, mắt hé ra nhìn trộm. “James là thằng bé hư.” Tôi mở mắt. Ông ta phụng phịu, mỡ trên khuôn mặt đột nhiên khiến ông ta trông như một đứa bé bị thổi phồng. “James là thằng bé hư và nó muốn cô chủ phạt nó.” Tôi suýt nữa bật cười vì mừng rỡ. “Thế thì nằm lên giường, ngay lập tức!” Tôi nín thở chui vào buồng tắm và tháo sợi dây lưng từ chiếc áo choàng còn lại. James nằm dang tay chân trên giường, trọng lượng của ông ta thách thức cả tấm nệm công nghệ cao. Trong khi lật hai tay ông ta lên quá đầu và trói hai cổ tay lại với nhau tôi liếc nhanh xuống dưới qua cái bụng khổng lồ vằn vện. Tôi thực sự sẽ phải nâng cả tầng váy thịt kia lên để tìm của quý của ông ta sao? Chúa ơi. Tôi không có nhiều dụng cụ để ứng biến, vì vậy tôi vừa phác nhanh lời thoại cho mình vừa rút thắt lưng từ chiếc quần ông ta vắt trên ghế. Cầm đầu khóa, tôi cuộn nó lại ba vòng rồi vừa khó nhọc nuốt nước bọt vừa tiến đến giường. Ba ngàn bảng. Mấy tháng phẩm giá. Phải thú thật rằng tôi chưa bao giờ để thứ gì gớm ghiếc thế này lại gần mình, nhưng tôi tự nhủ tắt đèn thì mèo nào chẳng xám. “Lật người lại!” Ông ta lật nghiêng, và không thể lật thêm nữa nếu không muốn tạo một lỗ thủng trên giường. Mông ông ta trông như một đôi gà công nghiệp giá rẻ. Tôi phải tập trung nếu không sẽ bật cười hoặc chết nghẹn. Tôi vuốt cái roi tự chế dọc theo một bên mông nhăn nhúm. “James đáng bị đánh đòn. Cô đã thấy cậu ta nhìn các bạn gái khác ở bể bơi. Cô rất là ghen tị. Thằng bé hư đốn, hư đốn!” Với mỗi từ “hư đốn” tôi lại phát ông ta một cái, thử thăm dò xem ông ta muốn bị đánh mạnh đến đâu. “Vâng, cô chủ, tôi là thằng bé hư.” “Và cậu đáng bị phạt, đúng không nào?” “Vâng.” Lần này mạnh hơn. “Vâng, gì nữa?” “Vâng, thưa cô chủ.” Mạnh hơn nữa, đủ mạnh để tạo lằn đỏ. Ông ta thở ra. Tôi cũng vậy. Tôi tiếp tục với trò đó thêm một lát, nhưng thực sự không cách nào phân biệt được ông ta có phấn khích hay không; khuôn mặt ông ta đã đỏ sẵn vì nắng từ lúc ăn trưa. Vì vậy tôi lăn người ông ta lại, tháo dây chiếc áo lót để ông ta nhìn thấy vú mình rồi bò quanh người ông ta cho đến khi mặt tôi ở ngay trên háng ông ta, mông tôi vểnh lên cao để ông ta nhìn thấy cô bé của tôi qua khe hở trên quần lót. Của quý ông ta nhỏ xíu, một mẩu thịt năm phân vui thích ngỏng lên từ đệm thịt bờm xờm. Tôi nhét một cái bao cao su vào gót sandal, nhưng còn không tìm được cách nào để lồng nó lên ông ta, đừng nói đến chuyện đút vào trong tôi. Tạ ơn Chúa, nhưng tôi vẫn phải cho ông ta phát tiết bằng cách nào đó. “Cậu có xứng đáng được ra không hả, cậu bé hư?” “Vâng, làm ơn, làm ơn!” Chát. “Làm ơn gì?” “Làm ơn, thưa cô chủ.” “Và cậu muốn thế nào?” Ông ta vặn vẹo khuôn mặt, giả bộ nói ngọng, nghe càng ghê tởm. “Jameth muống ăng bánh.” Tôi đã làm nhiều trò dâm dục. Hầu hết là tôi thích, và một số trò thì không, nhưng tôi đã từng ép bản thân, đôi khi vì tò mò và đôi khi vì muốn biết mình chịu được đến đâu. Trai, gái, tay ba hay nhiều hơn nữa; đôi khi tôi thấy sợ và đôi khi đau đớn, nhưng nó là thứ quyền lực duy nhất mà tôi có và tôi muốn thử kiểm tra giới hạn của nó. Mỗi một trò lại là một lớp phủ mới trên lớp vỏ bọc sức mạnh của tôi; đây cũng chỉ là một lớp nữa mà thôi. Chẳng là gì cả. Tôi vén tóc ra và ngậm nó vào miệng và ông ta cho ra sau khoảng hai mươi giây, một vài giọt dịch đặc mà tôi nuốt chửng như uống thuốc. Tiền vào túi. Trong phòng tắm của mình tôi lột bỏ đống đồ dây ghê tởm và tắm nhanh một cái. Tôi thoáng tự hỏi mình nên cảm thấy thế nào. Tôi chẳng thấy mình muốn gì ngoài vài vòng bơi, thế là tôi đi bơi. James khăng khăng bắt chúng tôi đến một nơi gọi là Tétou để ăn tối. Ông ta tuyên bố đó là nơi duy nhất ở miền Nam nước Pháp có xúp hải sản đáng ăn. “Ợ, xúp cá,” Mercedes lẩm bẩm. “Đừng có cho bột tỏi vào nhá, hôi chết được.” Ngay khi nhân viên mở cửa tôi nhảy vào trong nhà hàng, trông chỉ như một căn lều bằng kính bên bờ biển, và nhìn quanh các ghế ngồi. Tôi muốn James giữ được tâm trạng vui vẻ ông ta có từ sau cuộc tâm tình nho nhỏ của chúng tôi. “Quý ông đây cần một cái ghế khác,” tôi thầm thì nhanh với người bồi bàn bằng tiếng Pháp. “Ông ấy rất… phương phi.” Người bồi bàn nhìn tôi vẻ kỳ quặc, nhưng đến khi James lặc lè bước vào thì một chiếc ghế không tay vịn đã được tìm thấy. Mercedes tỏ ra phấn khởi. Trước khi đến chúng tôi đã mất khá lâu để ăn diện, cô mặc một chiếc váy Léger nhái bó sát, còn tôi mặc áo váy lụa vàng chanh rất đơn giản, một chiếc váy suông mềm mại, trẻ con có gấu váy chỉ nằm dưới quần lót vài phân, cùng đôi giày Zanotti da lộn để cao mười hai phân. Tôi nhận ra giây phút tĩnh lặng đầy tán thưởng của các thực khách xung quanh khi chúng tôi ngồi xuống, dù tôi ngờ rằng chẳng có ai nghĩ James đang đưa hai cô cháu gái đi ăn mừng ngày tốt nghiệp. Với nụ cười ranh mãnh, James đề nghị uống sâm banh, và một chai Krug xuất hiện. “Nào James,” Mercedes thúc giục, “Xả láng đi nào! Uống một ngụm đi.” Mấy lượt cằm của James cười khùng khục khi ông ta nâng ly. “Sao lại không nhỉ? Chỉ lần này thôi nhé.” Món xúp hải sản được phục vụ làm hai lần, đầu tiên là xúp tôm cua đặc sệt ăn cùng bánh mì nướng và xốt rouille, rồi đến một bát xúp cá trắng. Xốt nghệ tây trông khá ngon lành, nhưng Mercedes nói đúng về chuyện tỏi. Bữa tối diễn ra khá vui vẻ. Tôi bảo Mercedes cất cái điện thoại của nợ đi, và cô ngồi lắng nghe đến vòng thứ ba những chiến tích của James, cười đúng lúc và kín đáo bảo đảm, một cách điệu nghệ như cô vốn thế, rằng chiếc ly cao của ông ta luôn có rượu. Khi đĩa được dọn đi và chúng tôi nhận thực đơn đồ tráng miệng, James xin phép ra ngoài. “Bụng hơi lâm râm,” ông ta thú nhận. Tôi thấy ruột thắt lại vì kinh hoàng. Có chuyện quái gì với ông ta vậy? Cả hai chúng tôi đều ngoảnh đi nơi khác trong khi ông ta lịch phịch qua các bàn và lớn giọng hỏi toilet ở đâu. “Mau,” Mercedes nói. “Dịch khăn ăn ra. Tớ có mang theo đây.” Trong tay cô là một cái gói tự chế, gập bằng giấy viết của Hotel du Cap. Cô đổ nó vào ly của ông ta như một nhân vật phản diện chính hiệu trong khi tôi gọi ba phần bánh tác tropézienne. James từ chối đề nghị của tôi về một cuộc dạo chơi lãng mạn trên bờ biển, như tôi đã liệu trước, và chiếc xe đợi sẵn đưa chúng tôi về khách sạn. Tôi lại gợi ý rằng không đi dạo thì chúng tôi uống rượu trên bao lơn để thưởng thức cảnh đẹp cũng được. Đường về không dài, nhưng chỉ sau năm phút James đã gật gù như một cây bắp cải nở bung. Ông ta phát ra tiếng ngáy lớn nhờn nhợt. Tôi bắt gặp ánh mắt tài xế trong gương chiếu hậu. “Có lẽ anh đợi ở đây trong khi chúng tôi đưa quý ông đây vào phòng nhé? Chắc là uống hơi nhiều sâm banh…” Tiếng lạo xạo trên đoạn đường rải sỏi của Hôtel du Cap đánh thức James. Tất nhiên ông ta giả bộ rằng mình không ngủ, nhưng lại ngô nghê nói thêm rằng mình sẽ về phòng nghỉ sớm. Tôi ân cần theo ông ta lên phòng và gồng mình chuẩn bị đón một nụ hôn chúc ngủ ngon nồng nhiệt, nhưng ông ta đã nghiêng ngả bước về giường. Tôi nghe tiếng ông ta lục cục vài phút, rồi vệt sáng dưới cửa tắt ngấm và sau đó là im lặng. Tôi đếm đến sáu mươi, hai lần, cho đến khi tiếng ngáy lại vang lên. Mercedes muốn đến Jimmy’z, hộp đêm nổi tiếng trên bến cảng Cannes, nhưng lúc này còn quá sớm, hơn nữa tôi hình dung nó sẽ dở ẹc. Tôi bảo người tài xế đưa chúng tôi đến nơi nào “décontracté”* và anh ta ngoặt xe sang phải về hướng Antibes, leo xa khỏi bờ biển và lên đồi trong khoảng mười lăm phút, tới khi chúng tôi đến một tòa nhà thấp bằng đá theo phong cách Ibiza, tuyền màu trắng và bạc, với sân thượng mênh mông và một nhóm giữ cửa đông đảo mặc vest đen. Hai chiếc Ferrari đang tìm chỗ đậu khi chúng tôi tấp vào. “Nơi này trông được đấy, nhỉ?” Mercedes nói, rồi đột nhiên tôi bật cười. Tôi chưa bao giờ làm việc này cùng ai và tôi cảm thấy ngây ngất, thậm chí ấm áp khi đi cùng cô. Tôi bảo tài xế có thể đi; chúng tôi sẽ nhờ người giữ cửa gọi taxi đưa về. “Đi nào, gái,” tôi nói bằng cái giọng tôi đã không dùng đến suốt một thập kỷ. “Bọn mình phải vui vẻ một chầu mới được.” Người gác cửa liếc nhanh chúng tôi một lượt và nới lỏng chiếc áo choàng nhung thừa thãi. “Bonsoir, mesdames.” Chúng tôi chọn một bàn trên sân hiên và gọi Kir Royal. Có vài nhóm khách thuộc kiểu quý tộc lâu đời, đồng loạt áo sơ mi trắng mở cổ và đồng hồ to bự, một đám gái điếm Nga vàng vọt và vài cặp đôi trẻ. Trong khi tôi tự hỏi liệu Balensky có đích thân xuất hiện hay không, thì hai cặp sâm banh xuất hiện. “Quà tặng của hai quý ông kia,” người bồi bàn nghiêm trang nói. Tôi nhìn theo ánh mắt anh ta và thấy hai chàng trai Ả Rập trẻ tuổi trong cặp kính râm lố bịch gật đầu chào chúng tôi. “Bọn mình sẽ gửi trả lại,” tôi nói thầm với Mercedes. “Bọn mình không phải gái bao.” “Ý kiến của riêng cậu thôi, tình yêu.” “Con quỷ.” Chúng tôi uống ba ly Kir trong khi hộp đêm đông dần, rồi chuyển vào trong sàn nhảy. Tôi theo dõi cánh đàn ông ngắm nhìn chúng tôi. Tôi nghĩ đây là khoảnh khắc mình thích nhất, tán tỉnh, lựa chọn. Tôi sẽ chọn anh, hay anh, hay anh? Chúng tôi nhảy một điệu shimmy nửa vời trong khi quyết định. “Kia thì sao?” “Già quá.” “Còn kia?” “Béo quá. Quá là béo.” Chúng tôi ré lên cười rũ rượi. Dường như đó là điều buồn cười nhất trên đời. “Thế còn họ?” “Có vẻ tiềm năng.” Mercedes phát đi tín hiệu bằng cách chóp lia lịa hàng mi giả về phía một góc phòng có sàn nâng cao, rõ ràng là khu vực VIP. Hai người đàn ông ngồi ở một bàn có chai đá đựng vodka, cả hai đều đang nhắn tin trong khi bồi bàn đặt xuống một khay sushi. Họ đều còn trẻ và ưa nhìn, dù ở quá xa nên không soi được đồng hồ và giày. “Được.” “Tớ sẽ đến chào.” Tôi túm cô lại. “Không được! Tớ xấu hổ chết!” Con gái thì phải như vậy, đúng không? “Bọn mình ngồi chờ họ đến.” “Nhỡ họ không đến thì sao? Nhỡ có ai khác vợt được họ trước thì sao?” “Họ sẽ đến. Rồi cậu xem.” Và rồi bằng cách nào đó, một giờ đồng hồ sau, chúng tôi đã ngồi trên một chiếc Porsche mui trần phóng nhanh đến ngu ngốc về phía bến cảng cũ Antibes, rượu Dom Perignon khô dần trên chiếc váy vàng của tôi còn Mercedes thì hôn thắm thiết một trong hai người ở ghế sau. Tất cả mọi người đều hút thuốc và một gã hơi béo không ai biết tên đang hít cocain từ hộp phấn Guerlain trong ngăn hành lý. “Tớ muốn đi Saint-Tropez,” Mercedes ngẩng mặt lên khoảng một giây thét lác. “Tớ muốn xem tranh Picasso!” tôi hét lên đáp lại. Rồi chúng tôi bẻ lái điên cuồng trên mặt đường lát đá của thành phố cũ, suýt đâm nhào một tay thợ săn ảnh đang quỳ gối trên cầu cảng, anh chàng béo đã biến mất còn Mercedes được đưa xuống một thanh ván cầu, hai chân giãy giụa như một con bọ. “Cởi giày ra!” Tôi gọi với theo. “Quỷ thần ạ, Lauren,” cô rít lên, “vào đây!” Người lái chiếc Porsche cũng là chủ con tàu mới cứng, sáng loáng và bóng lộn như tiền của anh ta, tên là Steve, và nếu tôi là một ả điếm Nga thì anh ta hẳn đã thơm phức như quà Giáng sinh. Nhưng tôi nhận ra anh ta không hề động đến vodka hay cocain, nên tôi cũng vậy, và trong khi Mercedes ử ử như trong phim con heo rẻ tiền cùng người bạn của anh ta ở sau cánh gà, thì anh ta pha cho tôi một cốc sô cô la nóng và chúng tôi ngắm ba bức tranh Picasso của anh ta, cũng khá đẹp. Rồi anh ta khoe với tôi về bộ sưu tập tranh đương đại của mình, vì tất nhiên là anh ta sưu tầm tranh đương đại, rồi Mercedes và Gã Kia xuất hiện trở lại và tất cả chúng tôi lột đồ để nhảy vào bồn tắm sục của Steve trên boong con tàu khổng lồ của anh ta, uống thêm một chút Dom và anh ta cố tỏ vẻ như thế này là hạnh phúc. Có thể là đúng vậy. Có thể hạnh phúc, chỉ một lần này, là không phải cố gắng tìm đối tác làm tình. Chúng tôi ngất ngưỡng bước vào Hotel du Cap lúc ba giờ, xách giày nhăn nhó bước trên lớp sỏi qua người khuân vác trực đêm vô cảm. Sau khi mở cửa phòng veste hết sức khẽ khàng, chúng tôi cảm thấy cần phải bò kiểu đặc công vào phòng ngủ, nhưng vai Mercedes va vào chân bàn trong khi cô thực hiện một cú lộn gấu bông, làm bình hoa rum kiểu baroque rơi xuống sàn với một tiếng choang dường như vang đến tận Saint-Tropez. Chúng tôi đông cứng người, nhưng âm thanh duy nhất chỉ có tiếng thở đột nhiên nặng nề của chúng tôi. Trong vài giây tôi cảm thấy như thể mình vừa nuốt một quả bóng bay, nhưng James không hề nhúc nhích sau cánh cửa. Thậm chí không có cả tiếng ngáy. Thế là khi đã yên ổn nằm trên giường chúng tôi cười như nắc nẻ. Tôi không nhớ mình đã từng cười đến lúc ngủ thiếp đi như vậy bao giờ chưa. Một luồng nắng trắng lóa xuyên giữa hai tấm rèm nặng đánh thức tôi lúc chín giờ. Tôi tụt khỏi chăn và nhìn ra phòng khách. Bình hoa rum đã được thay một cách thần kỳ và tờ Thời báo trải trên bàn, nhưng không có dấu hiệu gì của sự sống. James hẳn vẫn đang ngủ. Tôi lục trong túi lấy hai viên Ibuprofen rồi lết mình đến dưới vòi sen, để dòng nước chảy qua lớp trang điểm tối qua. Chỉ còn phải qua ngày hôm nay nữa thôi - có lẽ tôi có thể thuyết phục ông ta đến bảo tàng Picasso ở Antibes? Ông ta sẽ thích cảm giác là người có văn hóa. Sau tối qua tôi gần như thấy hơi thương hại ông ta. Quấn mình trong chiếc khăn bông to sụ, tôi đến đánh thức Mercedes. “Dậy đi nào, ông ta chưa dậy. Bọn mình sẽ để lại lời nhắn rồi ra vườn ăn sáng" Chúng tôi khoác áo choàng ngoài bikini, rồi với kính râm trên mặt và một cốc pha lê lớn đựng nước cam tươi ngọt lịm, mọi thứ có vẻ cũng tuyệt vời. Tôi nghĩ gọi đồ ăn sáng cho ba người thì sẽ chu đáo hơn, nhưng dù chúng tôi đã ăn rất chậm món bánh sừng bò nóng hảo hạng cùng liễn mộc qua và sung ướp be bé, James vẫn chưa xuất hiện. Nhìn những vị khách khác đang ăn sáng, và những người làm vườn của khách sạn mặc áo khoác đỏ lúi húi trên lối đi, gần như đánh bóng thảm cỏ, tôi suýt quên mất ông ta, như thể tự chúng tôi đến được đây. Và điều đó cũng tuyệt vời. Mercedes hạ kính, hơi nheo mắt dưới ánh nắng chói chang. “Cậu nghĩ ông ta không sao chứ?” “Tất nhiên. Có lẽ ông ta ăn sáng trên phòng.” Dù chúng tôi đã để lại lời nhắn, và ông ta có vẻ là kiểu người muốn tận dụng thời gian ở bên tôi, ít nhất là có mặt. “Để tớ chạy lên kiểm tra,” Mercedes đề nghị. Khi quay lại cô cầm theo hai chiếc khăn tắm in logo của khách sạn. “Tớ gõ cửa nhưng ông ta không trả lời. Bọn mình đi bơi đi!” CHƯƠNG CHÍN Nghe có vẻ buồn cười, nhưng thấy James không xuất hiện để ăn trưa tôi biết là có gì không ổn. Mercedes lại lăn ra ngủ ngay lập tức dưới ánh nắng, dây buộc áo bikini của cô buông lỏng trên lưng, và tôi giết thời gian bằng việc đọc tiểu sử của Chagall mà tôi mang theo phòng khi chúng tôi có cơ hội đến Saint-Paul de Vence. Lúc mười hai rưỡi, tôi bắt đầu lo lắng, và dù thử tập trung vào cuốn sách thêm vài phút nữa, tôi biết đã có chuyện lạ. Nhỡ ông ta ốm thì sao? Ông ta đã nói suốt về vụ tiêu chảy kinh tởm của mình. Biết đâu ông ta cần bác sĩ. Chúng tôi không hề cần đến phiền toái. Tôi thắt chặt áo choàng rồi băng ngang thảm cỏ, bồn chồn sốt ruột khi vào trong đợi nổi thang máy. Đến tầng hai tôi chạy bổ theo hành lang, lẩm bẩm “Désolé”* với một người hầu phòng đang lúi húi hút bụi. Tôi đi thẳng vào phòng James và vừa nhìn thấy ông ta, tôi đã biết ngay. Tôi chưa từng thấy xác chết bao giờ. Nhưng trên cơ thể kia có một sự bất động quạnh quẽ, sự trống rỗng kỳ lạ dấu hiệu thiếu vắng sự sống. Trông James không có vẻ như đang ngủ. Trông ông ta như đã chết. Cơ thể to lớn dưới tấm chăn trắng phủ trong một chiếc áo ngủ cotton; đôi chân có bộ móng dày cứng ngắc thò ra, trông ông ta như một đứa bé già nua gớm ghiếc. Tôi biết, nhưng vẫn thực hiện một số động tác tôi đã học được trên phim ảnh -đi lấy hộp phấn từ trong túi đồ trang điểm và cẩn thận giơ gương trước mặt ông ta. Không có gì cả. Tôi không dám mở mắt ông ta, nhưng tôi rón rén nâng cánh tay đầy thịt lên và cố gắng sờ tìm mạch đập. “James?” tôi rít lên khẩn thiết, cố gắng kiềm chế tiếng hét. “James!” Chẳng có gì. Tôi vòng qua giường để nhấc điện thoại lên gọi lễ tân, nhưng rồi tôi xem lại tình trạng của mình. Tôi thấy chóng mặt và buồn nôn, nhưng tôi không thể để mất kiểm soát. Ông ta đã uống rượu - ông ta không hay uống rượu, có thể ông ta không biết uống. Tôi hít một hơi sâu và run rẩy. Tất cả hiện ra trước mắt tôi, đội nhân viên nhanh nhẹn mà dè dặt kín đáo, xe cấp cứu, đồn cảnh sát. Nếu khám nghiệm tử thi họ sẽ phát hiện cái thứ cocktail gây mê ngu ngốc mà Mercedes đã cho ông ta uống và đây sẽ thành một vụ ngộ sát. Tôi nhìn thấy các mặt báo, tên chúng tôi trên đó, khuôn mặt mẹ tôi. Nguy cơ vào tù không thể tưởng tượng nổi. Tôi đột nhiên nghe thấy tiếng máy hút bụi lại gần. Người hầu phòng đang trên đường đến để dọn phòng chúng tôi. Tôi chạy ra cửa chính, lóng ngóng vớ đống thẻ treo vé ăn sáng và thẻ an ninh, đánh rơi chúng, lục tìm tấm thẻ “Không làm phiền”. Ở một nơi thế này, tấm biển này sẽ cho chúng tôi vài giờ. Tôi chậm chạp ngồi xuống một chiếc sofa trắng. Thở đi, Judith. Nghĩ đi. Tôi chưa hề đưa hộ chiếu xuống quầy lễ tân; tôi quên béng mất. Tôi đã ghi nguệch ngoạc hai chữ LJ trên thẻ ăn sáng, chỉ là tên viết tắt tưởng tượng. Chúng tôi đã gọi nhau bằng tên ở hộp đêm, hầu như lúc nào cũng đeo kính râm. Nhân viên khách sạn đã thấy chúng tôi đến và đi, nhưng đây là miền Nam nước Pháp - họ sẽ chỉ đoán chúng tôi là gái điếm, được thuê để chơi đôi vào dịp cuối tuần. Nếu chúng tôi thoát ra được, họ sẽ không có manh mối nào để lần theo chúng tôi ngoài miêu tả nhân dạng, và đây là một khách sạn lớn, nhân viên được đào tạo để không quá tọc mạch, tôi đoán vậy. Dấu vân tay thì sao? Tôi hoàn toàn không biết quy trình thế nào, nhưng tôi chắc chắn không có tiền án tiền sự gì và theo tôi biết thì Leanne cũng vậy. Không phải họ có một cơ quan nào đó lưu giữ chúng sao? Một ngân hàng dữ liệu ADN quốc tế công nghệ cao chăng? Tôi không thể nghĩ theo hướng đó. Tôi thường vọc vào sách y khoa của bạn cùng phòng nhưng tôi không dám chắc có dấu hiệu rõ rệt nào của cơn đau tim đột ngột hay không. Ông ta bị béo phì, trời thì nóng và ông ta vừa quan hệ tình dục - chắc hẳn đó phải là kết luận hiển nhiên? Tôi tạ ơn Chúa vì thực tế rằng những cô gái ngoan thì luôn nuốt: sẽ không có mấy bằng chứng về tôi trên chăn đệm. Khi ai đó phát hiện ra còn có vấn đề khác, thì chúng tôi đã trở lại với cuộc sống của mình. Còn nếu có ai tìm đến… Người khuân vác trực đêm hôm qua đã thấy chúng tôi về. Chúng tôi có thể nói mình ra ngoài chơi, rằng chúng tôi không thể thực hiện được thỏa thuận. Hai cô gái ngốc nghếch cùng đi chơi với một ông già. Chúng tôi có thể nói rằng James nổi giận khi chúng tôi không chịu thực hiện lời hứa về chuyện sex, và bảo chúng tôi hôm nay phải về nhà, rồi chúng tôi bỏ lên phố chơi mà không có ông ta. Chúng tôi không chào vì nghĩ ông ta đang ngủ, đang tức giận. Hoàn toàn hợp lý. Tôi lấy điện thoại ra khỏi túi áo choàng và nhắn tin cho Leanne lên ngay lập tức. Ngón tay đầy dầu của tôi trơn tuột trên màn hình. Ông ta có vợ - Veronica. Họ sẽ tìm bà ta, thông qua hộ chiếu của ông ta, có lẽ bà ta sẽ muốn giữ kín mọi chuyện, để tránh scandal. Chắc hẳn bà ta phải dự đoán được một cơn đau tim sẽ đến trong tương lai không quá xa. Điện thoại tôi rung lên. Leanne đã đứng ở cửa. Tôi mở cửa lôi cô vào phòng. “Ngồi xuống đi. Đừng nói gì và vì Chúa đừng có la hét. Ông ta chết rồi. Không đùa đâu, không nhầm lẫn gì cả. Cái thứ cậu cho ông ta uống mạnh quá. Ông ta nằm trong kia kìa.” Tôi chưa từng chứng kiến mặt ai trắng bợt đi - một phần trong tôi thấy thú vị khi thấy máu quả thực đã rút hết khỏi mặt cô, để lại màu xanh nhợt dưới lớp da rám nắng. Tôi đi vào phòng tắm, lấy một chiếc khăn vải lanh treo cạnh chậu rửa quấn quanh bàn tay rồi lấy cho cô một chai cognac nhỏ từ trong tủ lạnh, không lấy cốc. “Uống đi.” Cô ngoan ngoãn tu một hơi hết sạch, rồi bắt đầu khóc thút thít, vùi mặt vào hai tay áo choàng. Tôi lấy cái chai và bước qua phòng James. Tôi không nhìn thứ nằm trên giường, chỉ đặt cái chai rỗng lên tủ đầu giường. Trong cơ thể ông ta đã có cồn sẵn rồi, nên chẳng ảnh hưởng gì. Tôi cố nói bằng giọng dịu dàng hết mức. “Leanne, chuyện xấu rồi. Rất xấu. Bọn mình không thể nói cho ai biết được, cậu hiểu không? Nếu nói ra thì thành tội phạm đấy, dù bọn mình không cố ý. Bọn mình có thể phải đi tù. Nói là cậu hiểu đi.” Cô gật đầu. Trông cô non nớt đến khó tin. “Tớ xử lý được. Cậu có muốn tớ xử lý không?” Cô lại gật đầu, biết ơn, tuyệt vọng. Bản thân tôi cũng khó mà tin được, nhưng bản năng là tất cả những gì chúng tôi có. Tôi chỉ cần hành động nhanh như suy nghĩ. Leanne bắt đầu thở dốc, và tiếng nấc từ cổ họng cô chuyển dần thành hoảng loạn. Tôi nắm chặt hai cánh tay cô. “Nhìn tớ. Leanne, nhìn tớ này! Thôi ngay. Thở đi. Nào, hít sâu vào. Rồi một hơi nữa, thế nào. Thấy khá hơn chưa?” Cô lại gật đầu. "OK. Giờ cậu chỉ cần làm đúng như lời tớ bảo. Họ không biết bọn mình là ai - sẽ ổn cả thôi. Nghe này! Sẽ ổn cả thôi. Thay đồ đi, mặc đẹp đẽ lịch sự vào. Bỏ tất cả vào túi. Kiểm tra kỹ phòng ngủ, đồ trang điểm, chai lọ, không được sót thứ gì.” Tôi không nghĩ chuyện đó thực sự có ý nghĩa gì nhưng có việc để tập trung làm sẽ giúp cô giữ yên lặng. Cô thất thểu về phòng ngủ của chúng tôi như một bệnh nhân. Tôi quay lại với James. Nếu nhìn đi nơi khác thì không sao, nhưng tôi có một nỗi sợ ghê rợn rằng biết đâu một trong hai bàn tay béo mập đã chết kia sẽ đột nhiên với ra chộp lấy tôi. Nhìn quanh căn phòng, tôi thấy chiếc áo khoác vải lanh màu xanh lính thủy của ông ta vắt trên ghế. Lại dùng khăn, tôi với vào trong và tìm thấy điện thoại của ông ta, đang tắt. Càng tốt. Có một chiếc ví chứa thẻ tín dụng, bằng lái xe, vài đồng năm mươi euro và một chiếc kẹp tiền bằng bạc Tiffany. Có lẽ là quà của Veronica. Tôi lấy chỗ tiền mặt ra. Hầu hết là đồng 500 euro hồng, vài tờ 200 vàng. Tôi đếm, không tin nổi, liền đếm lại. Rồi tôi chợt nhớ ra. Nơi này là Eden Roc. Khách sạn này nổi tiếng là chỉ nhận tiền mặt - tôi nhớ từng đọc một gã phê bình nhà hàng thô lỗ khoe khoang về chuyện này. Chúa mới biết một phòng veste ở đây tốn bao nhiêu, nhưng rõ ràng James đã rút toàn bộ số tiền cần đến để trả hóa đơn khách sạn, cộng thêm số tiền ông ta hứa với tôi. Có hơn 10.000 euro. Tôi lấy hai tờ 50 từ trong ví, thêm 200 nữa rồi bỏ lại vào trong chiếc kẹp tiền trong túi áo khoác. Trong một giây điên rồ tôi còn nghĩ đến việc tháo chiếc đồng hồ vàng Rolex khổng lồ nhưng chuyện đó quá ngu xuẩn. Chỗ tiền còn lại tôi cuộn chặt và nhét vào túi áo choàng của mình. Leanne đang ngồi kiên nhẫn trên giường trong chiếc quần jean và áo phông màu ghi, nhìn chằm chằm xuống đôi chân mang Sandal đế xuồng. Tôi quẳng cho cô chiếc áo khoác vải dù Alaĩa màu be của mình. Tôi khá tiếc khi phải hy sinh chiếc áo, nhưng tôi đoán giờ mình có thể mua cái khác. “Mặc vào đi, cả kính nữa. Tớ sắp xong rồi.” Cô cố gắng, nhưng bắt đầu run lên và không thể luồn được cánh tay vào ống tay áo hẹp. “Giờ mà cậu xoắn lên là tớ đánh cho đấy. Thôi đi. Cậu phải thấy may là tớ không gọi cảnh sát.” Tôi nhét đồ đạc của mình vào chiếc túi du lịch, bao gồm cả mớ đồ lót rác rưởi mặc hôm trước. Giày, đồ trang điểm, sạc điện thoại, sách, bàn chải đánh răng, laptop. Rồi tôi lấy hai cái túi Chanel ra khỏi túi """