🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bác Hồ - Tấm Gương Đạo Đức Sáng Ngời (Xuất Bản Lần Thứ Hai)
Ebooks
Nhóm Zalo
(Xuất bản lần thứ hai)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. PHẠM NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH NGUYỄN THỊ HƯƠNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ĐƯỜNG HỒNG MAI
LÊ MINH ĐỨC
NGUYỄN HƯƠNG
BÙI BỘI THU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/1-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 4997-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/6/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-5654-6.
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Song Thành
Bác Hồ - Tấm gương đạo đức ngời sáng / Song Thành. - H. : Chính trị Quốc gia, 2019. - 188tr.; 15cm
1. Đạo đức Hồ Chí Minh
170 - dc23
CTL0187p-CIP
SONG THÀNH
TẤM GƯƠNG
ĐẠO ĐỨC SÁNG NGỜI
(Xuất bản lần thứ hai)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT Hà Nội - 2019
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, phát huy những kết quả đạt được trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và xác định đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là
5
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng vững chắc của đời sống tinh thần xã hội, xây dựng văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Để góp phần thực hiện Chỉ thị trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã, đang và tiếp tục tổ chức biên soạn, xuất bản những cuốn sách, bộ sách chuyên đề làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền; đoàn thể các cấp, theo kế hoạch, hướng dẫn của Ban Bí thư và
6
Ban Tuyên giáo Trung ương nhằm làm sâu sắc hơn những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giới thiệu những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những cách làm sáng tạo trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng thời, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, những cách làm hình thức, kém hiệu quả; góp phần ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội.
Cuốn sách Bác Hồ - Tấm gương đạo đức sáng ngời, do GS. Song Thành, nguyên Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh biên soạn, gồm bảy chuyên đề, góp phần làm rõ những phẩm chất cần có của mỗi cán bộ, đảng viên, trên cả ba lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, phong cách theo tấm gương cao đẹp của Bác Hồ. Nội dung cuốn sách được thể hiện bằng một văn phong chính luận giản dị, trong sáng, khúc
7
triết, vừa phổ cập, vừa nâng cao, kết hợp phân tích lý luận với những dẫn chứng sinh động rút ra từ tấm gương sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 5 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
8
TÔI HIẾN CẢ ĐỜI TÔI
CHO DÂN TỘC TÔI
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
là tấm gương đạo đức vô cùng cao đẹp và phong phú - tấm gương của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản lỗi lạc, đã vượt ra khỏi phạm vi dân tộc, trở thành tấm gương của nhân loại, được cả loài người ngưỡng mộ và noi theo. Chúng ta học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nên bắt đầu từ đâu? - Phải từ điểm xuất phát của tấm gương đó, từ lý tưởng
9
“suốt đời phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân”.
1. Vai trò của lý tưởng trong đời sống đạo đức
Vấn đề số một trong đạo đức của một vĩ nhân - cũng như của một người bình thường, là vấn đề lý tưởng, vấn đề lẽ sống: sống cho ai, sống vì cái gì? Nói cách khác, đó chính là mục đích, ý nghĩa, giá trị cuộc sống cao nhất mà mỗi cá nhân theo đuổi trong cuộc đời.
Lý tưởng, lẽ sống là vấn đề trung tâm của đạo đức, là cơ sở để hình thành quan niệm của người ta về hạnh phúc, nghĩa vụ, lương tâm, về thiện và ác; là động cơ cao nhất, mạnh mẽ nhất, thôi thúc người ta hành động và tu dưỡng về đạo đức. Nếu không có lý tưởng đúng đắn, hoặc khi lý
10
tưởng cao cả đã bị phai nhạt thì toàn bộ quan niệm và hành động của người ấy cũng thay đổi, sớm muộn sẽ dẫn tới sự suy thoái về đạo đức.
Lý tưởng mà Hồ Chí Minh kiên cường theo đuổi trong suốt cuộc đời mình là gì? - Người từng nói tha thiết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”1. “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”2.
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 4, tr.187, 272.
11
Ngày còn hoạt động yêu nước trên đất Pháp, Người đã từng được Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp A. Xarô mời lên gặp để vừa hăm dọa, vừa dụ dỗ, Người đã thẳng thắn tuyên bố: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”1. Cho đến khi phải từ biệt thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người “là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”2.
Đó không phải là những lời nói suông, mà đã được chứng minh bằng cả cuộc đời hơn 60 năm vào sinh, ra tử vì Tổ quốc và cách mạng.
1. T. Lan: Vừa đi đường, vừa kể chuyện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 15.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 615.
12
Nguyễn Tất Thành sinh ra khi nước đã mất, lớn lên khi các cuộc vận động chống Pháp đầu thế kỷ XX đều đã thất bại. Phong trào cứu nước lâm vào khủng hoảng, bế tắc như không có đường ra. Trước hoàn cảnh tăm tối đó, con người có thể có những cách ứng xử nào?
Một bộ phận triều đình đầu hàng giặc, phản bội Tổ quốc, cam tâm làm tay sai cho giặc, như Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân,... Một bộ phận khác sinh ra bi quan trước thế lực tàn bạo và sức mạnh cơ khí của kẻ thù, tìm cách thoát ly vào đạo, vào văn chương, nghệ thuật,... Số khác làm ngơ trước họa xâm lăng, thoái thác đấu tranh, tìm sự bình yên trong thú điền viên, vợ hiền, con thảo,...
Còn Nguyễn Tất Thành đã có sự lựa chọn nào? Xuất thân từ một gia đình nhà
13
nho yêu nước, gần gũi với nhân dân, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ Người, là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, có nhiều trăn trở về con đường cứu nước.
Nghệ - Tĩnh, quê hương của Người là mảnh đất giàu truyền thống chống ngoại xâm, cũng là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử. Ngay mảnh đất Kim Liên, Nam Đàn đã từng thấm máu bao liệt sĩ chống Pháp; cả chị và anh ruột của Người cũng đều hoạt động yêu nước, từng bị bắt và lưu đày hàng chục năm,... Nhờ những ảnh hưởng đó, từ rất sớm, Nguyễn Tất Thành đã biết đau nỗi đau mất nước, xót xa trước nỗi thống khổ của đồng bào, “đã có chí đuổi giặc, cứu nước, giải phóng dân tộc”.
14
Là con một vị Phó bảng, nổi tiếng học giỏi, thông minh xuất chúng, nếu muốn một cuộc sống “vinh thân, phì gia”, với anh không khó, nhưng anh không lựa chọn con đường tầm thường đó. Anh đã thuộc nằm lòng câu thơ đầy chí khí mà cụ Phan Bội Châu vẫn hay ngâm khi đã ngà ngà say trong lúc uống rượu với thân phụ mình:
Mỗi bữa, không quên ghi sử sách,
Lập thân, hèn nhất ấy văn chương1. Ngay trong thời gian đang học Trường Quốc học Huế - nơi được coi là “thiên đường trường học” lúc bấy giờ, anh đã làm liên lạc bí mật cho các sĩ phu yêu nước, tham gia cuộc biểu tình chống
1. Câu thơ của Viên Mai (Trung Quốc). Nguyên văn chữ Hán: “Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch; Lập thân tối hạ thị văn chương”.
15
thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế,... Phong trào bị đàn áp, Nguyễn Tất Thành không dao động, bi quan mà tiếp tục nuôi ý chí tìm đường cứu nước, đã dám một mình đi sang phương Tây - nơi phát sinh các trào lưu tư tưởng dân chủ, nơi đã bùng nổ các cuộc cách mạng tư sản, với ý thức “xem xét cách làm của họ để trở về giúp đồng bào chúng ta”.
2. Có lý tưởng nhưng phải có ý chí, nghị lực để thực hiện lý tưởng
Chính lý tưởng, niềm ham muốn mãnh liệt ấy, đã tạo cho anh một ý chí kiên cường, một nghị lực sắt thép, giúp anh chịu đựng gian khổ, vượt qua mọi phong ba bão táp trong những năm bôn ba tìm đường thực hiện lý tưởng, để “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không
16
thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”1. Trong lịch sử đấu tranh cách mạng, đã có bao người từng theo đuổi khát vọng cao cả: cứu nước, giải phóng dân tộc, nhưng chỉ vì thiếu ý chí và nghị lực, họ đã bị rớt lại ở dọc đường gian khổ của cách mạng.
Nghèo khó là chuyện bình thường của người cách mạng. Giữa thủ đô Pari hoa lệ, “ông Nguyễn nấu cơm trong một cái sanh nhỏ bằng sắt tây đặt trên ngọn đèn dầu, với một con cá mắm hoặc một tí thịt,... ăn một nửa, dành một nửa đến chiều. Có khi một miếng bánh mỳ với một miếng pho mát là đủ ăn cho cả ngày... Về mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông để một viên gạch
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 50.17
vào lò bếp của khách sạn. Chiều đến, ông lấy viên gạch ra, bọc nó trong những tờ báo cũ, để xuống đệm cho đỡ rét”1.
Những ngày ở Pác Bó, ốm đau, rét buốt, chỉ có “cháo bẹ, rau măng”, Người vẫn thấy “cuộc đời cách mạng thật là sang!”. Đã chọn lý tưởng ấy, con đường ấy thì phải sống theo cách ấy, nếu không chịu được gian khổ, sống khác đi, nếu không chuyển thành một chính khách tư sản thì sớm muộn cũng bỏ cuộc, hoặc đi vào con đường phản bội, đầu hàng, làm tay sai cho giặc.
Còn trước uy vũ của kẻ thù? Nguyễn Ái Quốc đã hai lần bị ngồi tù, một lần bị án tử hình vắng mặt (Tòa án Vinh kết án
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr. 35-36.
18
năm 1929), nhưng không uy vũ nào của kẻ thù khuất phục nổi Người.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của tinh thần: thắng không kiêu, khó không nản. Có giai đoạn Người hoạt động rất sôi nổi, được đánh giá cao, có giai đoạn bị hiểu lầm, ngộ nhận, lâm vào cảnh “như là phải sống ở bên lề, ở bên ngoài của Đảng”. Vượt qua được thử thách khổ ải, tù đày đã rất khó, nhưng vượt qua được thử thách do bị hiểu lầm, nghi kỵ của tổ chức, của đồng chí, bạn bè, còn day dứt hơn nhiều. Lênin từng nói: không sợ đói, không sợ chết, chỉ sợ không vượt qua được phút yếu đuối của bản thân. Để kiên trì chân lý, giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, Người đã bình tĩnh vượt qua những năm tháng cực kỳ khó khăn đó. Trong thử thách đau đớn, Người vẫn luôn “tự
19
khuyên mình”: “Gạo đem vào giã, bao đau đớn/Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông/Sống ở trên đời, người cũng vậy/Gian nan rèn luyện mới thành công”. Dù có lúc phải “hòa lệ thành thơ”, thì điều đó cũng chỉ vì nhân dân, vì Tổ quốc chứ không phải vì cảnh ngộ cá nhân.
Cuộc sống ba mươi năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là một chuỗi liên tục những thử thách cam go, khốc liệt trước gian truân, nghèo khó và uy lực của kẻ thù. Nhưng ý chí của Người là một khối kim cương nguyên chất, không sắt lửa nào lay chuyển được. Hồ Chí Minh là người chiến thắng vì tâm hồn Người luôn được chiếu sáng, dẫn dắt bởi một lý tưởng yêu nước, thương dân mãnh liệt, nhờ đó mà sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao
20
nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
3. Các thế hệ hiện nay phải kế tục, thực hiện thắng lợi lý tưởng Hồ Chí Minh
Ngày nay, chúng ta học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học cái tinh thần “ngày đêm lo nghĩ về Tổ quốc” của Người. Trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, nhiều đêm Người “không ngủ được” chỉ vì lo nghĩ việc nước, nhưng khi vừa chợp mắt, Người lại mơ thấy “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh!”. Thức và ngủ, thực và mộng quyện vào nhau trong một khát vọng duy nhất: cứu nước, giải phóng dân tộc. Đến khi phải từ biệt thế giới này, điều mong muốn cuối cùng của Người
21
cũng chỉ là khát vọng về xây dựng một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”1.
Bác Hồ và các thế hệ chiến sĩ cách mạng lớp trước đã hoàn thành được phần khó khăn nhất. Chúng ta đã có một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập”, còn “dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” sẽ được thực hiện như thế nào, trách nhiệm đó đang đặt lên vai các thế hệ hiện nay.
Tuy nay nước ta đã có độc lập, thống nhất, nhưng ngay cái “ham muốn tột bậc” của Người là “ai cũng có cơm ăn, áo
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 614.
22
mặc, ai cũng được học hành”, chúng ta vẫn chưa thực hiện được hoàn toàn, vẫn còn hàng triệu đồng bào, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vẫn còn thiếu đói, trẻ em còn thiếu trường học.
Thứ hai là học cái tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, tức là phải giữ vững lý tưởng, kiên trì con đường cách mạng chúng ta đi tới, lấy lòng trung trinh bất biến của mình nhằm ứng phó với mọi thay đổi, để “khó khăn nào cũng vượt qua, thử thách nào cũng chiến thắng”.
Bác Hồ đã từng nhắc nhở chúng ta: “Trước đây, Bác và các chú bước vào con đường cách mạng, ai cũng sẵn sàng nhận lấy hai cái này: một là ngồi tù, hai là lên máy chém. Ngoài cái được lớn là độc lập tự do cho nhân dân, Tổ quốc, không ai
23
nghĩ sẽ giành phần danh lợi cho cá nhân mình. Bây giờ ta đã có chính quyền rồi, hoàn cảnh đã khác trước...”1. Đây là một tâm tư mang tính dự báo của Người. Cầm quyền thì dễ chuyên quyền, điều đó Người đã cảnh báo, nhưng cầm quyền trong cơ chế thị trường, từng ngày, từng giờ phải cảnh giác, đối phó với bao mua chuộc, cám dỗ về tiền tài, danh vọng, địa vị có thể dẫn đến nguy cơ mất còn của chế độ, thì là điều sinh thời Người chưa có điều kiện nói tới. Tuy nhiên, Người cũng đã nhiều lần nhắc nhở: người cách mạng phải “đêm ngày nghĩ đến sự nghiệp cách mạng”, phải “ít lòng tham muốn về vật chất”, đừng để cho chủ nghĩa cá nhân thao túng “đã có xe rồi, lại “phấn đấu”
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 669.
24
để có chiếc xe đẹp hơn,... đã có nhà rồi lại “phấn đấu” theo kiểu như thế để có nhà đẹp hơn. Làm như vậy là trái với đạo đức cách mạng. Các chú có biết rằng dân tộc ta vĩ đại, Đảng ta vĩ đại, ta được anh em bầu bạn khắp năm châu yêu mến và ca ngợi là vì cái gì không? Vì cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta do Đảng ta lãnh đạo là chí công vô tư, mình vì mọi người”1.
Nếu để cho lý tưởng cách mạng cao cả bị phai nhạt, nếu để “mặt trời chân lý” tắt trong tim, thì còn có thể nói gì đến đạo đức “chí công vô tư, mình vì mọi người”? Thấm nhuần sâu sắc và thực hiện cho tốt những lời dặn dò trên đây của Bác Hồ, đó là con đường duy nhất để củng cố và
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672.25
nâng cao lý tưởng đạo đức của chúng ta, để kiên trì giữ vững và phát huy đạo đức cách mạng cao đẹp của người chiến sĩ tiên phong ở thời điểm đầy thử thách khó khăn này.
26
LÀM CÁN BỘ TỨC LÀ SUỐT ĐỜI LÀM ĐÀY TỚ TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN
Trong quan niệm truyền thống
của cha ông ta: “Dân là dân nước, nước là nước dân”, nghĩa là nước với dân là một. Dân khai phá, mở mang, xây dựng, lập nên nước. Có dân mới có nước, nhờ dân xây dựng, bảo vệ, phát triển, mà nước trở nên giàu đẹp. Vì vậy, dân là chủ của nước. Các tập đoàn phong kiến đã thay nhau tước đoạt quyền làm
27
chủ của dân, biến quốc gia thành cơ đồ riêng của một nhà, một dòng họ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân dân ta đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám, lật đổ chế độ thực dân - phong kiến, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa, trả lại địa vị làm chủ chân chính cho dân. Do đó, yêu nước phải gắn liền với yêu dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả cán bộ từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”1. Người nhắc lại: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? - Làm đày tớ. Làm đày tớ cho
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 83-84.
28
nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”1.
Sinh thời, Bác Hồ rất thích hai câu thơ của văn hào Lỗ Tấn:
Trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng!2. Người giải thích: “Nghìn lực sĩ” có
nghĩa là những kẻ địch mạnh,... cũng có nghĩa là những sự khó khăn gian khổ... ““Các nhi đồng” nghĩa là quần chúng nhân dân hiền lành, đông đảo. Cũng có nghĩa là những việc ích quốc, lợi dân... Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”3.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 572. 2. Nguyên văn chữ Hán:
Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ,
Thủ phủ cam vi nhũ tử ngưu. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 50.
29
Người đặt vấn đề:
“Ai làm cách mạng? - Nhân dân!
Ai kháng chiến thắng lợi?
Toàn dân!”1.
Vậy thì, “cán bộ phải đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào nhân dân; trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng, vô tận. Tuyên truyền, giáo dục, đoàn kết, tổ chức được trí tuệ và lực lượng đó thì việc gì khó mấy cũng làm được”2. Người nói và gương mẫu đi đầu thực hiện, để lại một tấm gương đạo đức vô cùng cao đẹp của một lãnh tụ hết lòng, hết dạ phục vụ nhân dân, tin tưởng, yêu thương, quý trọng nhân dân - những người làm ra lịch sử, quyết định vận mệnh của đất nước.
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 283.
30
1. Luôn tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”
Ngay trong hoàn cảnh đất nước còn chìm trong tăm tối, niềm tin đó ở Người vẫn không hề suy xuyển. Năm 1921, Người từng viết: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến”1.
Người thường nhắc lại một câu nói của Lênin: “... Một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản là phải luôn luôn tin tưởng vào quần chúng, rằng lòng yêu mến quần chúng một cách sâu sắc phải là tình cảm thúc đẩy mọi hành động, mọi suy nghĩ của những
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 28.31
người cộng sản”1. Người cũng thường dẫn câu nói chí lý của nhân dân Quảng Bình trong chiến tranh: “Dễ mười lần không dân cũng chịu: Khó trăm lần, dân liệu cũng xong”. Vì vậy, Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên: càng gian khổ khó khăn, càng phải thật thà bàn bạc với quần chúng; phải tin vào khả năng cách mạng và sức sáng tạo của quần chúng, rằng còn dân thì còn nước, được lòng dân là được tất cả, dân “bất tín” thì “vô lập”. Thật hiếm có lãnh tụ nào nói về nhân dân lại sâu sắc, thấm thía như Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời, không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân… Trong xã hội, không có gì tốt đẹp,
1. Hồ Chí Minh: Về Lênin và Cách mạng Tháng Mười, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.161.
32
vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”1.
Giành lại được độc lập, nhưng đất nước phải đối mặt với muôn vàn khó khăn chồng chất: kinh tế đình đốn, tài chính quốc gia kiệt quệ, công nhân thất nghiệp, nạn đói khủng khiếp đã từng cướp đi sinh mạng của hai triệu người, vẫn còn đe dọa. Thù trong, giặc ngoài đang lăm le lật đổ chính quyền của dân, hòng cướp nước ta một lần nữa! Vận mệnh đất nước như đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”!
Nhiều người lo lắng, thiếu tin tưởng: trong điều kiện đó, làm sao có thể giữ được độc lập? Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có một lòng tin không hề lay
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453.33
chuyển vào lực lượng và tinh thần yêu nước của dân ta. Người nói: sau 80 năm bị nô lệ, chúng ta cái gì cũng kém cỏi, duy chỉ có lòng sốt sắng của nhân dân là rất cao! Người ra lời kêu gọi nhân dân đem tài năng và sáng kiến đóng góp cho Chính phủ; Người đề ra các chiến dịch “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, gây phong trào cứu đói, “ngày đồng tâm nhịn ăn”, “hũ gạo nuôi quân”; mở cuộc vận động gây “Quỹ Độc lập” và “Tuần lễ vàng”, phong trào xóa nạn mù chữ, xây dựng “đời sống mới”, v.v..
Với tất cả nỗ lực đó, nhà nước cách mạng non trẻ của ta đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, được thừa nhận là nhà nước của dân, hoạt động vì cơm áo, hạnh phúc của dân, đấu tranh cho độc lập, tự do của dân, nên được toàn dân ủng hộ,
34
sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nhà nước của mình.
2. Luôn nêu cao tinh thần yêu dân, kính dân, trọng dân, phê phán thái độ “quan liêu, coi khinh quần chúng, lên mặt “quan cách mạng””
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính trị sáng suốt là chính trị “được lòng dân”. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người đã viết nhiều bài báo với bút danh Chiến Thắng, về chủ đề Sao cho được lòng dân, trong đó Người nhắc nhở: “Muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”1.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 52.35
Trong những điều Người dạy công an nhân dân, có điều: “Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép”, “làm công an thì phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ” và chính Người là mẫu mực của lối ứng xử này. Ngày xưa, “triều đình trọng tước, hương thôn trọng xỉ (tuổi)”, Bác Hồ hiểu và quý trọng tập quán tốt đẹp đó, Người luôn luôn tỏ thái độ tôn trọng đối với các bậc đại lão ở nông thôn. Tháng 5-1948, trong thư phúc đáp gửi cụ Phùng Lục, một phụ lão cứu quốc ở Ứng Hòa, Hà Đông, hưởng ứng cuộc vận động “đời sống mới” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, đã miễn bỏ việc con cháu định làm lễ mừng cụ thượng thọ 90 tuổi, đem số tiền 500 đồng đó quyên vào Quỹ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
36
“Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ và trân trọng chúc cụ sống lâu và luôn luôn mạnh khỏe để kêu gọi các con cháu ra sức tham gia công việc kháng chiến và cứu quốc.
Cháu lại kính gửi cụ lời chào thân ái và quyết thắng.
HỒ CHÍ MINH”1.
Hiếm có một vị Chủ tịch nước nào đã cao tuổi lại viết thư xưng “cháu” với người dân nhiều tuổi hơn mình như vậy. Đây không phải là hiện tượng duy nhất. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã có thư gửi một bậc phụ lão ở Hải Phòng, cụ Nguyễn Văn Ấm, tuy đã 94 tuổi, vẫn hăng hái đi học lớp “bình dân”, nêu một tấm gương sáng cho con cháu.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 521.37
Cuối thư, Người cũng chúc cụ học hành tiến bộ và “Mong rằng bao giờ cụ học xong, cụ sẽ viết thư cho cháu”. Mỗi lần nhận được thư chúc thọ hoặc quà biếu của các tầng lớp nhân dân gửi tặng, dù chỉ là mấy quả cam, một gói chè, một quả bí,... Người vẫn tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân.
Người thường phê phán bệnh quan liêu, mệnh lệnh của một số ông “quan cách mạng” và chỉ ra căn nguyên của nó là bệnh xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không yêu thương nhân dân,... Để làm tròn trách nhiệm là “người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, Người dạy cán bộ phải gần dân,
38
hiểu tâm lý, nguyện vọng của dân, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của dân. Người nêu câu hỏi: Vì ai mà làm? Đối ai phụ trách? Từ đó, nêu lên ba loại trách nhiệm của người cán bộ: trước hết phải là trách nhiệm trước nhân dân, hai là trách nhiệm trước công việc, sau cùng mới là trách nhiệm trước cấp trên. Phải lấy trách nhiệm trước nhân dân làm động cơ thôi thúc mình hành động để hoàn thành tốt công việc, rồi đem kết quả công việc mà báo cáo với cấp trên, vì Đảng và Chính phủ cũng chỉ mưu cầu giải phóng cho nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Vì vậy, Người yêu cầu phải kiên quyết thực hành theo các nguyên tắc sau đây:
“1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng...
39
2. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết… Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta...
3. Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng, nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng”1.
3. Luôn luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân, khi dân còn thiếu thốn, không có quyền đòi hỏi sung sướng cho riêng mình
Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 337-338.
40
dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”1. “Dân dĩ thực vi thiên”... “Vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”2.
Bác Hồ dù ở đâu, làm gì, việc lớn cũng như việc nhỏ, lúc nào Người cũng chỉ nghĩ đến dân, lo làm sao cho dân bớt khổ, được no ấm.
Trong kháng chiến chống Pháp, để an toàn, nơi ở của Người luôn luôn phải di chuyển. Người đề ra một số tiêu chuẩn
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 518.
41
để tìm địa điểm mới, trong đó có một yêu cầu bắt buộc là “gần dân, không gần đường”, vì Bác không thể sống xa dân, để khi cần vẫn có thể gặp gỡ, hiểu được dân tình.
Ở Việt Bắc, từ cơ quan này sang cơ quan khác, gần cũng 5-7 cây số, xa có khi tới 20-30 cây, Người thường đi bộ. Đi chiến dịch, anh em giúp việc kiếm cho Bác con ngựa để Bác đỡ mỏi chân, nhưng Người ít chịu cưỡi mà chỉ dùng để thồ đồ đạc mang theo. Sau vài lần như vậy, Người phát hiện đem ngựa đi công tác phải tốn vài chục cân thóc, trong lúc dân còn đói, không có thóc mà ăn, Người kiên quyết không đi ngựa nữa.
Sau khi đã về Hà Nội, mỗi khi có đơn thư khiếu nại của người dân, Người thường yêu cầu cán bộ các cấp, sau một
42
tuần, phải báo cáo kết quả cho Người biết. Trở lại thăm Pác Bó, thấy cuộc sống của đồng bào còn nghèo khổ, rách rưới, Người rất xúc động, yêu cầu phải gửi ngay chăn áo cho các cụ già và em nhỏ chống rét.
Thời chiến tranh chống Mỹ, Trung ương Đảng xây cho Bác một cái hầm trú ẩn, Người hỏi ngay: thế các chú đã lo cho dân phòng tránh máy bay địch bắn phá như thế nào? Khi thấy sức khỏe của Bác đã kém đi, Trung ương cử thêm một bác sĩ đến chăm lo sức khỏe cho Người, nhưng Người kiên quyết từ chối. Sau Trung ương đành phải cho bác sĩ Nhữ Thế Bảo nghỉ hưu - nhưng thỉnh thoảng vẫn vào thăm sức khỏe cho Bác.
Đối với các chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ
43
thường dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc ân tình, chu đáo nhất. Trong lễ khai mạc cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ” cuối năm 1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Người đã đến dự, trao tặng hai chiếc áo ấm và nói: “Đây tôi có hai chiếc áo rét, một chiếc tôi đã mặc mấy năm nay và một chiếc của Ủy ban vận động “Mùa đông binh sĩ” vừa mang biếu tôi. Cả hai chiếc tôi gửi tặng các binh sĩ ngoài mặt trận và ở sau mặt trận”1.
Mùa hè, năm 1967, trời Hà Nội nóng chưa từng thấy, ngồi trong nhà sàn mà mồ hôi vẫn ướt đầm, Bác Hồ nói với người thư ký: “Nắng nóng thế này, các chú bộ đội trực phòng không trên
1. Thành ủy Hà Nội - Ban Tuyên giáo: Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thủ đô Hà Nội - Biên niên sự kiện (1945-1969), Nxb. Hà Nội, 2000, tr. 83.
44
nóc Hội trường Ba Đình chịu sao được? Chú lên xem bộ đội có đủ nước uống không?”. Sau khi được biết là không có gì, Người bảo lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem còn bao nhiêu?
Tại sao Bác có sổ tiết kiệm? Bác Hồ viết báo nhiều, có năm hàng trăm bài. Nhuận bút gửi đến, Văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm cho Bác. Đồng chí Vũ Kỳ báo cáo còn tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền lớn, tương đương khoảng 60 lạng vàng). Người chỉ thị: “Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham mưu, nói là quà của Bác tặng để mua nước ngọt cho các chiến sĩ trực phòng không trên toàn miền Bắc, không phải riêng cho các chiến sĩ ở Ba Đình”.
Tháng 8-1969, nước sông Hồng lên cao, đe dọa đê điều, tính mạng, mùa
45
màng các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Khoảng một tuần trước khi Người mất, nước sông Hồng lên rất cao, Hà Nội được đặt trong tình trạng báo động. Bộ Chính trị quyết định chuyển Người đến một địa điểm mới đã được chuẩn bị sẵn. Người nói với đồng chí Phạm Văn Đồng: “Bác không thể bỏ dân mà đi được. Các chú phải làm sao để đê không vỡ, chứ không phải là lo riêng cho Bác”. Và Người đã ở lại với nhân dân Hà Nội mùa mưa bão năm ấy.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học cái tinh thần “sẵn sàng, vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”, như lời Bác Hồ đã hứa trong buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam đầu năm 1951.
46
Ngày nay, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức, nhưng đáng lo hơn cả là nguy cơ mất lòng dân. Đó cũng là mối lo canh cánh bên lòng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điều kiện Đảng cầm quyền, là lo làm sao giữ được mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Dân, lo làm sao để không xa dân, không rơi vào thoái hóa biến chất của một đảng cầm quyền. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta phải thấm nhuần sâu sắc và triệt để thực hiện điều Bác Hồ đã dạy:
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được.
Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”1.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 333. 47
“Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”1.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 555.
48
CẦN KIỆM, GIẢN DỊ,
COI KHINH SỰ XA HOA,
ĐỜI TƯ TRONG SÁNG
VÀ ĐỨC KHIÊM TỐN
PHI THƯỜNG
Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
chưa phải ở mức sống vật chất cao mà trước hết là ở giá trị đạo đức của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy sức mạnh này qua tấm gương đạo đức của Lênin. Người viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động,
49
đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi”1.
Suốt đời mình, Hồ Chí Minh đã phấn đấu, rèn luyện theo tấm gương vĩ đại và cao đẹp đó.
1. “Cần kiệm, giản dị, ít lòng tham muốn về vật chất”, đó là “tư cách của người cách mạng”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt yêu cầu này lên trang đầu của tác phẩm Đường kách mệnh, vì sao? Cách mạng là một sự nghiệp lâu dài và gian khổ. Hiện dân ta còn nghèo, lại phải trải qua nhiều năm
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 317.
50
chiến tranh tàn khốc, nay cuộc sống tuy đã bớt khó khăn hơn, nhưng vẫn phải cần kiệm, vì nước ta vẫn còn là một trong những nước có thu nhập vào loại thấp nhất thế giới. Bác Hồ từng nói: nếu đua về sự xa hoa với người thì bao giờ ta cũng thua, nhưng nếu đua về sự cần kiệm thì ta nhất định thắng.
Bước vào kinh tế thị trường là chấp nhận một cuộc thử thách lớn về mặt đạo đức đối với người cách mạng, nhất là những người có chức, có quyền. Sự tham muốn vô độ về vật chất tất yếu sẽ dẫn đến sa ngã, phạm tội. Bác Hồ hiểu đây là chỗ yếu thường tình của con người, nên ngay từ khi cách mạng còn trong trứng nước, Người đã nhắc nhở phải: “cần kiệm... vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, hy sinh, ít lòng tham muốn về
51
vật chất,...”1. Trước khi qua đời, Người dặn lại trong Di chúc: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”2.
Người nhắc nhở và suốt đời gương mẫu thực hiện.
Cuộc sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ người thợ ảnh bình thường ở ngõ hẻm Công Poăng đến khi làm Chủ tịch nước giữa Thủ đô Hà Nội, vẫn là một cuộc đời giản dị, thanh bạch, tao nhã.
Cũng như Lênin, Bác Hồ của chúng ta không bao giờ để cho những ham
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 280. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 - 612.
52
muốn tầm thường làm bận tâm. Người coi khinh sự xa hoa, không ưa những nghi thức trang trọng. Một cốt cách giản dị, một sự giản dị vĩ đại.
a) Cần kiệm, giản dị trong nếp sống. Ba mươi năm sống và làm việc ở nước ngoài, tại các thủ đô nhung lụa và ánh sáng của phương Tây, Người đã chứng kiến nhưng không hề lóa mắt trước cuộc sống xa hoa của giới thống trị cầm quyền ở đó. Khi đã trở thành Chủ tịch nước của dân, Người vẫn giữ nguyên nếp sống của người cách mạng đã quen với gian khổ, hy sinh.
Sau ngày độc lập, sống và làm việc tại Bắc Bộ phủ, Người vẫn giữ nếp sinh hoạt như ở chiến khu, ăn cơm tập thể cùng các nhân viên chính phủ. Bữa ăn thường chỉ có cơm gạo đỏ, chủ yếu với rau muống,
53
đậu phụ, thỉnh thoảng có cá mè và chút thịt, một phần vì Chính phủ còn nghèo, phần khác vì Bác muốn được đồng cam, cộng khổ với mọi người. Sau này, dù đã có bếp riêng, mỗi bữa, Người cũng chỉ cho làm ba món: một món mặn (thịt hay cá kho), một món rau và một món canh; món nào xét thấy ăn không hết, thì tuyệt đối Người không đụng đũa. Ăn xong, cái bát bao giờ cũng sạch, mâm cơm được sắp xếp lại gọn gàng, để đỡ cho người phục vụ. Đi xuống cơ sở, Người không chấp nhận tiệc tùng mà đem theo cơm nắm, muối vừng, đến bữa mang ra cùng ngồi ăn chung với cán bộ và bà con nông dân, thể hiện một lối sống chan hòa, gần gũi giữa lãnh tụ và quần chúng.
Hành lý của vị Chủ tịch nước sang Pháp đàm phán năm 1946 tại Pari chỉ
54
xếp gọn trong chiếc vali nhỏ với hai bộ kaki cùng vài bộ quần áo lót mà Người thường tự giặt lấy. Sau này, áo đã sờn, Người chỉ cho vá chứ không cho bỏ đi.
Hòa bình lập lại, trở về Thủ đô, Người vào sống trong Phủ Chủ tịch, nhưng kiên quyết không chịu vào ở trong Dinh Toàn quyền cũ, mà chọn căn buồng một tầng của người thợ điện xưa1, làm nhà riêng cho vị Chủ tịch nước. Sau vì ngôi nhà ven hồ quá nóng và ẩm thấp, không lợi cho sức khỏe của Người; hai nữa vì không tiện cho nghi thức ngoại giao, khi các nguyên thủ nước ngoài đến Hà Nội, muốn vào thăm nơi ở riêng của Người (nhất là sau chuyện không thể từ chối việc đòi vào thăm có tính đáp lễ của
1. Nay được gọi là nhà 54.
55
Chủ tịch Xôviết tối cao Vôrôsilốp1), Người mới đồng ý cho dựng ngôi nhà sàn hiện nay, do Người tự vẽ kiểu, giản dị như ngôi nhà nhỏ bình thường của đồng bào trên Việt Bắc (đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Nhà gác đơn sơ một góc vườn; Gỗ thường, mộc mạc, chẳng mùi sơn”2).
1. Trong chuyến thăm Liên Xô tháng 7-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới thăm Chủ tịch Vôrôsilốp tại nhà riêng; tháng 5-1957, Chủ tịch Vôrôsilốp thăm Việt Nam cũng muốn thể hiện sự thân tình như vậy. Sau ba lần từ chối không được, Người đành để Chủ tịch vào thăm ngôi nhà 54. Cuộc viếng thăm đã làm Chủ tịch Vôrôsilốp rơi nước mắt vì quá xúc động.
2. Ngôi nhà sàn lịch sử sinh thời Bác Hồ ở, khi xảy ra chiến tranh năm 1979, đã được tháo dỡ, bảo quản trong Nam. Ngôi nhà phục chế hiện nay, do nhu cầu trưng bày, có phần đẹp và sang hơn ngôi nhà Bác Hồ đã sống.
56
Vào thăm nhà Bác, ta thấy chỉ có hai phòng nhỏ: một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, một giá sách, một tủ mộc với hai bộ kaki, một đôi dép lốp, một cái quạt giấy đã cũ, một máy thu thanh và một chiếc đồng hồ đã mờ mặt. Đó là tất cả những gì mà Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, người thầy, người cha của cách mạng Việt Nam, đã có trên thế gian này! Khi ra đi, Người đã để lại tất cả.
Khách quốc tế vào thăm nhà Bác, thấy Người không hề có một chút của riêng, đã xúc động viết vào sổ ghi cảm tưởng: “Nơi thiêng liêng này mà tôi đã may mắn được đến thăm là một biểu hiện của sự khiêm tốn, phải được dùng làm mẫu mực cho tất cả những người lãnh đạo ở
57
các nước nghèo khổ đang đấu tranh cho hạnh phúc của nhân dân mình”1. b) Cần kiệm, giản dị trong ăn, mặc, ở. Phong cách sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều nét đã trở thành huyền thoại không những đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với cả thế giới. Đó là sự giản dị, thanh đạm, thanh cao trong sinh hoạt hằng ngày; đó là cách sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, rất quý trọng thời gian, chẳng ham muốn danh lợi cho riêng mình. Trong quan hệ giao tiếp với mọi người, với nhân dân cũng như với khách quốc tế, không chút cầu kỳ, Người sẵn sàng bỏ qua những nghi thức trang trọng.
1. Moóclen Ôxkiemba, đại sứ nước Cộng hòa nhân dân Cônggô tại Việt Nam, ngày 6-8-1973.
58
Giữa không khí lịch sử trang nghiêm khi đang đọc Tuyên ngôn Độc lập, sau mấy câu mở đầu, Người bỗng dừng lại hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe có rõ không?”. Tất cả gần 50 vạn người trên quảng trường đồng thanh, xúc động đáp lớn: “Có!”. Đó cũng là sự biểu thị đồng tình và ủng hộ của cả 25 triệu đồng bào toàn quốc đối với vị lãnh tụ lần đầu tiên ra mắt quốc dân, nhưng đã lập tức chiếm lĩnh được trái tim của người dân, đúng là vị Chủ tịch của dân, vì dân, luôn quan tâm đến dân!
Bác Hồ của chúng ta, người mà sự có mặt như choán hết cả gian phòng, như xóa nhòa sự có mặt của những người khác, nhưng với sự săn sóc, thái độ ân cần và nụ cười cởi mở của Người, đã lập tức rút ngắn khoảng cách, tạo cho những
59
người được tiếp xúc một sự gần gũi, thân tình và cảm giác thoải mái ngay. Năm 1955, Hà Nội vừa giải phóng được ít lâu, Người đến thăm NHA MAY CO KHI GIA LAM. Tấm biển trên cổng ra vào sơn chữ to nhưng không có dấu. Vào nhà máy, mở đầu câu chuyện với anh chị em công nhân, bỗng Người hỏi: “Nhà máy các cô, các chú “có khỉ” à?”. - Dạ thưa, có đâu ạ! Bác cười: “Có đấy! Biển Nhà máy cơ khí Gia Lâm của các cô, các chú viết bằng chữ quốc ngữ mà không có dấu, nên Bác đọc nhầm thành nhà máy có “khỉ” mà khỉ lại “già lắm””! Cuộc gặp gỡ đã được mở đầu rất vui. Ai cũng được hưởng một trận cười sảng khoái bên lãnh tụ, đồng thời nhận được một lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà thấm thía.
60
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ. Cuộc mít tinh chào mừng được tổ chức trang trọng tại Cung Đivanhao. Người đã khéo léo từ chối ngồi vào chiếc ghế danh dự mạ vàng dành cho khách quý và nói: “Cái ghế to quá! Tôi không muốn khác biệt với mọi người trong cuộc gặp mặt vui vẻ và thân tình này”. Cử chỉ khiêm nhường của Người đã làm cho nhân dân Thủ đô Niu Đêli xúc động và vỗ tay hoan hô nồng nhiệt.
Năm sau, Người ra sân bay Gia Lâm đón vị Tổng thống Ấn Độ sang thăm đáp lễ. Tại sân bay, vị Tổng thống cao tuổi này đã đọc một bài diễn văn không được hấp dẫn lắm, nên ít tiếng vỗ tay. Bỗng người ta thấy cụ Chủ tịch gạt người phiên dịch sang một bên và nói: “Tổng thống phát biểu thì Chủ tịch
61
phiên dịch mới hợp”. Rồi bằng một cách khéo léo kỳ lạ, Người đã dịch những câu tiếng Anh tẻ nhạt kia thành những câu tiếng Việt hấp dẫn, gây hào hứng sôi nổi cho người nghe. Tiếng hoan hô, vỗ tay nổi lên như sấm. Buổi đón tiếp đã thành công mỹ mãn. Vị Tổng thống nước bạn tỏ ra rất xúc động trước nhiệt tình mến khách của nhân dân Việt Nam.
2. Tinh thần “vị công vong tư”, xem thường mọi danh vị
Tư cách người cách mệnh, như Bác Hồ đã viết, đòi hỏi phải “vị công, vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo”. Khi giành được chính quyền rồi, không ít người nảy sinh “óc địa vị, cố tranh cho được ủy viên này, chủ tịch kia. Có đồng chí lo ăn ngon mặc đẹp… lợi dụng địa vị và công tác
62
của mình mà buôn bán phát tài... Đạo đức cách mạng thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc”1. Họ quên mất lời thề khi bước vào con đường cách mạng, không chịu rèn luyện theo tấm gương của người thầy vĩ đại, trở thành những con sâu trong cơ thể cách mạng, một thứ “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khi đã hiến dâng đời mình cho cách mạng, bao giờ cũng đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, theo tinh thần “chí công vô tư”. Những ngày hoạt động ở Pháp, Người chủ xướng việc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, thảo Tuyên ngôn của Hội và là linh hồn của tổ chức này, nhưng chức Tổng thư ký
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 90.63
Hội, Người lại dành cho ông Giôdép Môngnécvilơ, người nước Máctiních. Tại Quảng Châu, Người mở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ, sáng lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, nhưng Người không tham gia Ban Chấp hành Hội, mà giao chức vụ đứng đầu Tổng bộ cho Lâm Đức Thụ, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu.
Năm 1941, Người về nước, nhân danh đại biểu Quốc tế Cộng sản, triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8. Hội nghị đề cử Người giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng, Người từ chối, và đề cử đồng chí Trường Chinh, nêu lý do Người còn bận công việc của Quốc tế. Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, Đảng quyết định thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng do Người đứng đầu.
64
Cách mạng Tháng Tám thành công, Ủy ban Dân tộc giải phóng trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, do Người làm Chủ tịch.
Nói chuyện với học viên Trường võ bị Trần Quốc Tuấn, Người khuyên: “Những người thanh niên tốt muốn làm việc to chứ không muốn làm quan lớn”1. Người thường nhắc nhở cán bộ: “Phải tỏ cho mọi người biết rằng công việc là công việc chung, thiếu người ra gánh vác thì mình ra, nếu có người thay, mình sẽ nghỉ để làm việc khác, sẵn sàng nhường lại cho ai muốn làm và làm được”2. Về phần mình, trả lời các nhà báo, Người tuyên bố: “Bây giờ phải gánh chức Chủ
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 271, 52.
65
tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui... Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”1.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời của đạo đức “vị công vong tư”, xem thường mọi danh vị cá nhân.
3. Một đức độ khiêm tốn phi thường
a) Năm 1969, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về bốn ngày lễ lớn: 40 năm thành lập Đảng, 25 năm thành lập nước,
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187.
66
100 năm ngày sinh của Lênin, 80 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 8-7-1969, Nghị quyết này được công bố trên báo Nhân dân. Sau khi đọc báo, Bác cho gọi đồng chí Lê Văn Lương, Thường trực Ban Bí thư vào, hỏi: Nghị quyết này các chú bàn lúc nào, sao không cho Bác biết? Gần đây Bác mệt, có một số cuộc họp Bác không dự được, đó là lỗi của Bác. Riêng với Nghị quyết này, Bác chỉ tán thành ba phần tư, còn về việc riêng của Bác, Bác không đồng ý:
Thứ nhất, ai cũng biết Bác là Chủ tịch Đảng, đọc Nghị quyết này, người ta sẽ nghĩ: Bác chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị để bàn việc kỷ niệm ngày sinh của mình! Thế là không đúng.
Thứ hai, Lênin là bậc thầy của cách mạng thế giới, Bác chỉ là học trò nhỏ của
67
Lênin, sao lại xếp việc kỷ niệm ngày sinh của Bác ngang với kỷ niệm ngày sinh của Lênin, ngang với ngày thành lập Đảng, thành lập nước?
Thứ ba, Người chỉ vào đoạn giữa của Nghị quyết, hỏi: sao các chú cho in sách của Bác nhiều thế này? Kinh tế ta còn khó khăn, còn thiếu giấy in sách vở cho học trò, thế mà sách báo của ta, kể cả sách của Bác thì in lu bù! Nên bớt đi, để giấy cho các cháu học.
Thứ tư, Bác chỉ vào đoạn Nghị quyết nói về việc tu bổ các bảo tàng, nhà lưu niệm, di tích cách mạng,... và nói: việc này cần thiết, nhưng nước ta đang có chiến tranh, nhà cửa của nhân dân bị tàn phá nặng nề, phải dành vật liệu trước hết để xây nhà ở cho nhân dân, trường học, nhà trẻ cho các cháu. Khi nào hết chiến tranh,
68
đời sống nhân dân khá lên, lúc đó hãy xây bảo tàng này nọ,...
Hôm sau, gặp các đồng chí trong Bộ Chính trị, Người đề nghị bàn lại việc đó. b) Một lần khác, Người nói với một đồng chí trong Ban Bí thư: Bác thấy trong các dịp kỷ niệm lớn, báo chí ta chỉ đăng ảnh của Bác là không nên. Tình hình nước ta không giống với các nước khác, không nên rập khuôn. Ta làm gì cũng phải có tập thể, vì vậy cần chú ý: Khi cần đại diện cho Nhà nước, thì bên cạnh ảnh Bác, phải có ảnh Bác Tôn và chú Đồng, khi là công việc của Đảng, thì bên cạnh ảnh Bác, phải có ảnh chú Lê Duẩn và chú Trường Chinh. Đừng nên in ảnh Bác to quá! Đừng nên in ảnh một mình Bác. c) Một biểu hiện nổi bật trong đức khiêm nhường của Bác là khi nói hay
69
viết, Người thường nêu cao sự nghiệp anh hùng của toàn dân, toàn Đảng. Người thường nói nhiều, viết nhiều về những tấm gương của quần chúng nhân dân và quân đội anh hùng của chúng ta.
Người đặc biệt quan tâm đến loại sách “người tốt, việc tốt”, chú ý động viên, khen thưởng từng việc nhỏ, không bỏ sót bất cứ một việc làm ích quốc lợi dân nào. Trong quan niệm của Người: đó chính là thiên anh hùng ca bất tận của quần chúng, chính họ mới là những người làm nên lịch sử và lịch sử chính là lịch sử của họ, chứ không phải là lịch sử của một cá nhân anh hùng nào.
Nói về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhà cách mạng Mỹ Latinh, Tổng thống Chilê Xanvađo Agienđê đã viết:
70
“Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường”1.
Ngay từ năm 1926, khi cách mạng còn trong trứng nước, Người thầy của chúng ta đã sớm nhắc nhở: “phải xem thường danh vị, ngôi thứ và tiền bạc, vì chúng là cội nguồn sinh ra đố kỵ và hận thù và là nguyên nhân của những hành động chỉ điểm, phản bội làm tổn hại nghiêm trọng đến sự nghiệp cách mạng”2. Cách mạng thành công rồi, Người vẫn không ngừng nêu cao vai trò của đạo đức: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là
1. Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 378.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 514.71
không”1. Muốn thế, “phải cố gắng thực hiện cho kỳ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”2.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về “cần kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, giữ gìn đời tư trong sáng”..., đưa việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức thành nếp sống hằng ngày, cố gắng tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt trong đời sống và công tác của cán bộ, đảng viên, đó là cách thiết thực nhất để định hướng lại những giá trị đúng đắn cho toàn Đảng, toàn dân ta trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, góp phần giải tỏa cơn khát quyền lực, lòng tham muốn vô độ của một số người, về vật
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 354, 356.
72
chất, tiền tài, danh vị, đang làm băng hoại đạo đức xã hội, gây mối lo ngại và làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ ta.
73
NHÂN ÁI, KHOAN DUNG, CÓ TÌNH THƯƠNG YÊU
MÊNH MÔNG, SÂU SẮC
ĐỐI VỚI CON NGƯỜI
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
viết: “Lòng nhân đạo, tình thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất, tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch”1.
Người cách mạng là người giàu tình cảm. Vì giàu lòng yêu thương nhân dân,
1. Dẫn trong cuốn Phạm Văn Đồng: Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1983, tr. 115.
74
yêu thương con người mà đi làm cách mạng, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại cơm no, áo ấm, tự do, độc lập cho con người. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực. Bác Hồ là “muôn vàn tình thương yêu” đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình thân yêu đó, có chỗ cho tất cả mọi người, không quên, không bỏ sót một ai.
1. Tình thương yêu bao la đối với con người
Đó là một tình cảm rộng lớn Bác dành cho những người xung quanh ta, là đồng bào, đồng chí, bạn bè, những người nghèo khổ, bị áp bức, hễ ai đau khổ là Người thương. Người quan tâm sâu sắc đến mọi tầng lớp nhân dân: già trẻ, trai
75
gái, đồng bào các dân tộc thiểu số, kiều bào ta ở nước ngoài,... Người đặc biệt chăm lo đến các chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, các thương binh và gia đình liệt sĩ, những người đã hiến dâng xương máu của mình cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Người viết một cách chân thành: “Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột”1.
Trong tình yêu thương đó, Người dành cho đồng bào miền Nam ruột thịt một vị trí đặc biệt. Người nói một cách tha thiết: “Ở miền Nam... mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 49.
76
đau khổ của tôi”1. Nỗi khổ của đồng bào miền Nam là nỗi đau nhức nhối trong lòng Bác, “một ngày... đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”2, vì thế Người không đành lòng nhận huân chương khi nước nhà chưa thống nhất.
Bác Hồ có một tình yêu đặc biệt nồng nàn, thắm thiết với các cháu thiếu niên và nhi đồng. Mỗi dịp Trung thu đến, Người không quên gửi thư cho các cháu, khuyến khích các cháu “tuổi nhỏ làm việc nhỏ” để tham gia kháng chiến và xây dựng đất nước “tùy theo sức của mình”; Người nhắc nhở chính quyền các cấp và nhân dân phải cố gắng tạo những phương tiện
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 674. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 470.
77
tốt nhất để các cháu được học tập và vui chơi. Người vui lòng đến dự những buổi văn nghệ do các cháu biểu diễn. Hình ảnh Bác Hồ râu tóc bạc phơ tươi cười giữa đàn cháu nhỏ, cùng vỗ tay theo nhịp bài hát quen thuộc “Ai yêu các nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh. Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng...” mãi mãi in sâu trong tâm trí chúng ta, nó vừa cho thấy sức hấp dẫn kỳ lạ của Bác Hồ với thiếu nhi và sự quấn quýt của thiếu nhi đối với Bác Hồ, cũng vừa cho thấy đó là những phút giây vui vẻ nhất, hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Người.
Tình thương yêu đó không bó hẹp trong tình đồng bào mà được mở rộng ra với đồng chí, bạn bè, với nhân dân lao động toàn thế giới. Người là hiện thân của tinh thần quốc tế trong sáng, “bốn
78