🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bác Hồ Của Nhân Dân
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
ThS. NGUYỄN THỊ THÚY
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
Trình bày bìa: VĂN SÁNG ĐƯỜNG HỒNG MAI
Chế bản vi tính: NGUYỄN THỊ THU THẢO Sửa bản in: PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT Đọc sách mẫu: NGUYỄN THÚY NGUYỄN VIỆT HÀ
Giấy đăng ký xuất bản số: 427-2021/CXBIPH/2-365/CTQG. Quyết định xuất bản số: 05-QĐ/NXBCTQG, ngày 18/2/2021. Mã số ISBN: 978-604-57-6490-9.
In xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2021
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam
NguyÔn UyÓn
B¸c Hå cña nh©n d©n / NguyÔn UyÓn. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2020. - 452tr. ; 23cm
ISBN 9786045760512
1. T− t−ëng Hå ChÝ Minh 2. §¹o ®øc Hå ChÝ Minh 3. Phong c¸ch 335.4346 - dc23
CTM0408p-CIP
5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Nhà văn, nhà báo Nguyễn Uyển đã bước sang tuổi 80 với gần 60 năm trong nghề viết, để cho đời tới gần 30 đầu sách với đủ các thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, bút ký, tiểu luận, sách nghiệp vụ báo chí. Nhiều bút ký chuyên sâu về một địa phương như: Tình người Điện Biên; chuyên về ngành như: Cháy mãi một tình yêu (ngành Dầu khí Việt Nam), Sáng mãi niềm tin yêu (về Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng), Làm theo lời Bác (chủ
đề về Bác Hồ kính yêu)... Các tác phẩm văn và báo của ông đầy ắp hơi thở cuộc sống bởi ông rất chăm đi, chăm đọc, chịu suy ngẫm, chỉn chu trong từng con chữ để biểu đạt tình cảm nồng ấm với dân, với nước, với Đảng và Bác Hồ kính yêu.
Đọc các ấn phẩm của ông, văn hoặc báo, chúng ta đều thấy đó là một cây viết thiết tha với đất nước, tin yêu cháy dạ, cháy lòng với Đảng và Bác Hồ - niềm tin yêu có cội nguồn, bản lĩnh theo lẽ đời “Gốc bền nên nảy cành xanh lá”.
Bác Hồ của nhân dân là ấn phẩm tập hợp có chọn lọc những bài viết suốt 60 năm qua của ông theo chủ đề Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh, gồm ba phần chính:
A- Muôn đời noi gương Bác: gồm những bài nghiên cứu, cảm nhận, suy ngẫm cần học tập, noi gương và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
B- Bác để thương nhớ cho nhân dân: gồm những bài viết tỏ ơn nghĩa sâu đậm của nhân dân ở mọi vùng quê đối với Bác.
6 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
Bởi Người đã cùng Đảng lãnh đạo quân và dân ta đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Những tình cảm ơn sâu, nghĩa nặng, nhớ thương Bác Hồ đã làm nên sức mạnh phi thường xây dựng quê hương, đất nước ngày một to đẹp hơn, đàng hoàng hơn.
C- Bác truyền lẽ sống cho mỗi con người: là bút ký chân dung về những nhân vật tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ là những giáo sư, nhà báo, nhà văn; là những tấm gương tiêu biểu trong ngành kiểm tra đảng, ngành y thầm lặng cống hiến; là những người cần mẫn, sáng tạo “tìm lửa” của ngành dầu khí quốc gia; là những chiến sĩ biên phòng ngày đêm bảo vệ, giữ yên bờ cõi của Tổ quốc; là những nông dân của bản Mông trên triền núi khát khao vươn lên làm giàu... Công việc với họ như lẽ sống, bởi tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác đã hòa quyện trong tâm thức họ; thấm sâu lời dạy và ơn nghĩa với Người đã tạo nên “thần lực” giúp họ sáng tạo, vượt lên và làm nên.
Cách viết chân dung nhân vật của nhà văn, nhà báo Nguyễn Uyển rất riêng. Mỗi nhân vật đều có “chất” riêng, không ai giống ai, cho dù họ cùng một công việc. Mỗi người mỗi vẻ, mỗi cách suy nghĩ, mỗi cách làm để bật lên nét tinh cốt nhất của nhân vật... Bởi thế, Bác Hồ của nhân dân là một cuốn sách thiết thực và bổ ích với mỗi người đọc.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 9 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
7
A- MUÔN ĐỜI NOI GƯƠNG BÁC
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH -
TINH HOA CỦA THỜI ĐẠI
1. Tôi thật sự tâm đắc với nhận xét của nhà thơ Liên Xô - Ôxíp Manđenxtam sau lần phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc vào năm 19231: “Đó là một thanh niên gầy gò, linh hoạt, mặc áo len đan...Trong đôi mắt mở to, ứa lệ, anh nhìn về xa xăm... Tôi đã hình dung ra một cách rất cụ thể... một dân tộc hết sức lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái quá... Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một thứ văn hóa tương lai!”...
Nhà thơ thật tinh tường, thẩm định đúng phong cách, nhân cách Hồ Chí Minh ngay từ thuở bôn ba tìm đường cứu nước, khiến tôi thấy học Bác bao nhiêu cũng là chưa đủ. Đọc tiểu sử của Người không thể không suy ngẫm, không thể không vận vào mình để tự
vươn lên, để sống cho hay cho đẹp, để nêu gương ít nhất là với con cháu của mình. Người sinh ra trong gia đình nhà nho nghèo, hiếu học, thương người; nơi miền quê giàu khí phách chống giặc ngoại xâm. Nguyễn Sinh Cung (tên đầu đời), khi đang ngồi trên ghế ___________
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t.1, tr.191.
8 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
trường tiểu học đã để tâm tới khẩu hiệu của Đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”! Đau lòng trước cảnh đất nước bị nô lệ, Nguyễn Tất Thành (tên thời niên thiếu) đã quyết đi tìm đường cứu nước. Hành trang Người mang theo là lời cha (cụ
Nguyễn Sinh Sắc) dặn: “Con phải tự tìm ra cho mình một hướng đi, một con đường... Cứu nước là có hiếu với cha rồi đấy”!1. Để sang nước Pháp, một người bạn hỏi: Chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi? Thành giơ đôi bàn tay lên, giọng dứt khoát: “Đây, tiền đây. Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi!”.
Đó là phong cách độc lập, tự chủ chỉ nhằm một hướng cứu nước. Phong cách ấy là nguồn năng lượng giúp Người vượt lên. Ở tuổi 21, ngày 05/6/1911, Người lên tàu rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Mácxây (Pháp) làm phụ bếp với tên gọi Văn Ba. Công việc nhọc nhằn, bụi bặm, vất vả suốt ngày đêm, nhưng hễ được nghỉ là Người lại cặm cụi học tiếng Pháp bằng cách kết bạn với khách... Theo tàu, Người đi vòng quanh châu Phi, qua Trung Mỹ, Nam Mỹ... rồi tới nước Anh vừa lao động vừa học nói, học viết ngoại ngữ. Người sớm rút ra kết luận: “Những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo... Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu”2... Cho nên năm 1919 Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp - tổ chức duy nhất bênh vực các dân tộc thuộc địa.
Mang tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Người ký tên vào Bản yêu sách gửi Hội nghị các ___________
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An: Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.45.
2. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.30.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 9
nước đế quốc họp ở Vécxây ngày 18/6/1919 đòi tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội... được báo Nhân đạo đăng nguyên văn. Vấn đề dân tộc của Việt Nam lần đầu tiên được đưa ra quốc tế... hệt trái bom nổ giữa thủ phủ phe đế quốc. Người khẳng định: “...muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”!1. Phong cách độc lập, tự chủ, sáng tạo ở Người phát lộ như bản sắc tinh hoa nhất của dân tộc và thời đại. Bởi thời điểm này hết sức nguy hiểm, như Tố Hữu tự bạch: “Dấn thân vô là phải chịu tù đày/Là gươm kề cận cổ, súng kề tai...”.
Người vượt gian nan học nghề làm ảnh để có tài chính; học viết báo để vận động cách mạng. Trên diễn đàn Đại hội Tua, Đảng Xã hội Pháp tháng 12/1920, Người kêu gọi: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”!2.
Đường cách mạng sáng tỏ, ấy là khi Người tiếp nhận bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Yêu nước da diết khiến Người trở thành chiến sĩ cộng sản. Trong vai Ban Nghiên cứu thuộc địa, Người lợi dụng báo chí Pháp để vạch mặt chủ nghĩa thực dân; tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, xuất bản báo le Paria (Người cùng khổ) hối thúc giải phóng loài người khỏi ách thực dân... Phong cách tự chủ suy nghĩ, gắn lý luận với thực tiễn giúp Người mở mang tầm nhìn. Luận điểm của Người thêm sắc sảo: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt ___________
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.43.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 1, tr.35.
10 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
cả hai vòi”!1. Người gắn luận điểm Mác - Lênin với chủ nghĩa dân tộc phương Đông “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất của đất nước”2 sát với thực tế cách mạng Việt Nam. Người soạn thảo và công bố tại sào huyệt thực dân “Bản án chế độ thực dân Pháp”, đã lên án gay gắt tội ác của chế độ thực dân Pháp đối với người bản xứ trong đó chủ yếu là người Việt Nam.
Trong cương vị Ủy viên Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản những năm 1925 - 1930 tại Quảng Châu (trung tâm cách mạng của Trung Quốc), Người xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tận dụng mọi điều kiện để tuyên truyền, tổ chức, xây dựng lực lượng hướng tới đích giải phóng dân tộc. Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mở nhiều lớp huấn luyện. Ngày 21/6/1925, Người xuất bản báo Thanh niên - Tờ báo cách mạng đầu tiên, dấu son rạng rỡ của báo chí cách mạng Việt Nam. Người khẳng định, muốn làm cách mạng tới cùng phải có một đảng cách mạng chân chính. Bởi vậy khi thời cơ tới, Người kịp thời hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930...
Trước khi thành lập Đảng, cũng như khi có Đảng lãnh đạo đấu tranh để giành độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 02/9/1945), cũng như suốt những thập niên kháng chiến chống thực dân Pháp, rồi chống đế quốc Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người rất coi trọng công tác giáo dục cán bộ; xây dựng, củng cố tổ chức đảng vững mạnh từ Trung ương tới cơ sở. Người luôn lấy con người làm trung tâm suy nghĩ và hành động. Trong cuốn sách Hồ Chí Minh - Vĩ đại một con người”, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Cụ Hồ thuộc ___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.130; t.1, tr.508.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 11
bậc hiền triết lấy con người thật đang phải sống trên quả đất này làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động”. Người coi “Dân là gốc - Cán bộ là công bộc của dân” nên suốt đời cống hiến không mỏi mệt vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Khi ở Quảng Châu, Người chủ động đào tạo một lớp cán bộ rất tiêu biểu như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phạm Văn Đồng... Người xếp “Tư cách một người cách mệnh; người cán bộ mẫu mực” lên đầu cuốn sách Đường cách mệnh, đủ thấy công tác cán bộ là vấn đề quan trọng hàng đầu. Người nhắc cán bộ nên theo lời dạy của Khổng Tử “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Người khuyên “Phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc...”1.
Khoa học, độc lập, tự chủ... những phong cách tự thân ở Người có sức lan tỏa mạnh mẽ. Người luôn ý thức về phép dùng binh của Tôn Tử “Muốn thành công thì phải biết trước mọi việc”, nên khi giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Người nói rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”2. Người theo sát, nắm chắc mọi diễn tiến thời cuộc, sự kiện; chọn đúng thời cơ để hành động cách mạng nên đã biến yếu thành mạnh, lấy ít thắng nhiều; huy động tổng lực sức mạnh toàn dân để giành chính quyền, như Lời kêu gọi tổng khởi nghĩa: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”3.
Chính quyền về tay nhân dân, nhà nước non trẻ có vô vàn việc phải làm. Người dóng diết nhắc nhở cán bộ: “Việc gì lợi cho dân, ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.359.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.539; t.3, tr.596.
12 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”1. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”! “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong”. Người định rõ phương cách chữa bệnh quan liêu, chủ quan, máy móc của cán bộ: “Bất kỳ việc to việc nhỏ: Phải xem xét kỹ lưỡng, Phải bàn bạc kỹ lưỡng, Phải hỏi dân kỹ lưỡng, Phải giải thích kỹ lưỡng cho dân, Phải luôn gần gụi dân”!2. Năm 1947, ở lán Khau Tý, xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa thuộc An toàn khu, vừa chỉ đạo kháng chiến, Người vừa biên soạn và hoàn thành sách Sửa đổi lối làm việc dùng làm tài liệu học tập cho cán bộ, đảng viên, góp sức thiết thực đẩy mạnh kháng chiến, kiến
quốc; là cẩm nang xây dựng, củng cố tổ chức đảng. 2. Từng trải suốt 30 năm tìm đường cứu nước, rồi cũng ngần ấy năm trở về giữa lòng Tổ quốc, Người luôn chan hòa với những người bị bóc lột như nguồn lạch vô tận bồi đắp nên tình cảm quốc tế, tình nhân dân với Đảng sâu đậm, không chữ nghĩa nào lột tả cho hết. Tình thân ái ấy chân tình trong cả lá thư gửi lại các bạn cùng hoạt động ở Pháp, trước khi Người bí mật sang Liên Xô vào năm 1923. Đầu thư Người viết: “Các bạn thân mến! Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thân yêu nhau như anh em”3. Kết thư: “Các bạn hãy tin chắc rằng lòng tôi luôn luôn yêu các bạn. Nhờ các bạn bắt tay những người bạn Pháp của chúng ta!...”4. Về nước tháng 01/1941, Người lưu lại ở Pác Bó, Cao Bằng, vùng đất có phần lớn dân tộc Nùng sinh sống hết sức nghèo khó. Ngày mới đến, Bác cùng những người giúp việc tắm giặt kỳ cọ cho các cháu nhỏ của người ___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65; t.6, tr.308.
3, 4. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.68, 71.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 13
dân như con cháu trong gia đình. Thấy thế, một bà mế cứ tấm tắc: “Ông già này thương người quá, chả biết vợ con ông ở đâu? Trong nhà mà có một người già như thế này thì thật là có phúc”!1. Năm 1961, trên cương vị Chủ tịch nước, Bác trở lại thăm Pác Bó. Đồng bào ùa ra vây lấy Bác, Bác thân thiện nói với mọi người: “Tôi về
thăm nhà sao lại phải đón tôi”, khiến ai cũng rưng rưng nước mắt. Buổi ấy, Bác cùng ăn bữa cơm thân mật với gia đình ông Dương Đại Lâm. Bác bảo lấy chai rượu thuốc của Bác pha vào hũ rượu của ông Lâm để cùng uống. Bác bẻ cơm nắm mang theo chia cho mấy người cùng mâm, thân thương như ruột thịt...Tại thủ đô Hà Nội, những đêm giao thừa Người thường đến thăm các gia đình nghèo. Cho dù những chuyện này đến nay đâu đâu cũng biết, nhưng mỗi khi kể lại vẫn không thể cầm được nước mắt. Ấy là Tết Bính Tuất - 1946, Tết Độc lập đầu tiên Bác đến thăm người dân ở các ngõ hẻm thuộc phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng... Xúc động trước cảnh gia đình một người đạp xích lô không có Tết, chủ nhà đắp chiếu mê man vì sốt, Người lấy khăn lau nước mắt, nhắc thư ký ghi lại địa chỉ để báo với Chủ tịch Hà Nội... Tối 30 Tết năm 1960, Bác đến thăm gia đình chị Tín ở phố Hàng Chĩnh. Giao thừa sắp tới mà chị Tín vẫn phải gánh nước thuê đổi lấy gạo để sáng mùng 1 Tết có cơm ăn cho các con. Gặp Bác, chị Tín mừng rỡ để rơi cả đôi thùng gánh nước, run run cầm lấy đôi bàn tay Bác: Cháu không ngờ lại được Bác tới thăm! Nói rồi, chị òa khóc. Bác an ủi: Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai!... Bác vào nhà, thực ra chỉ là túp lều. Trên chiếc bàn gỗ rượp chỉ có nải chuối xanh và một nén hương. Chồng chị Tín là công nhân khuân vác đã mất cách đó mấy năm. Bốn đứa con, lớn nhất cũng mới 10 tuổi... ___________
1. Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.1, tr.393.
14 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
Trở về Bác kể lại tình cảnh nhà chị Tín cho Bộ Chính trị nghe, rồi nói: “Ta có chính quyền trong tay, nhưng chính quyền đó chưa thực sự là do dân, vì dân. Một số lãnh đạo các địa phương còn quan liêu và nặng về hình thức. Họ không chịu đi sâu, đi sát quần chúng, nên phục vụ quần chúng chưa tốt”1... Bức thư của Bác phúc đáp thư của cụ Phùng Lục ở huyện Ứng Hòa, Hà Đông khi cụ
không tổ chức lễ thượng thọ tuổi 90 mà đem 500 đồng kính dâng Chủ tịch nước để xung vào Quỹ kháng chiến kiến quốc, Bác viết: “Thưa cụ!
Những vị Thượng thọ như cụ là của quý giá của dân tộc và nước nhà.
Trong ngày chúc thọ, cụ lại miễn sự tế lễ linh đình, mà đem số tiền 500 đồng quyên vào Quỹ kháng chiến. Như thế là cụ đã nêu cái gương hăng hái kháng chiến và cái gương sửa đổi cổ tục thực hành đời sống mới cho toàn thể đồng bào noi theo.
Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ và trân trọng chúc cụ sống lâu và luôn luôn mạnh khỏe để kêu gọi các con cháu ra sức tham gia công việc kháng chiến và cứu quốc.
Cháu lại kính gửi cụ lời chào thân ái và quyết thắng. HỒ CHÍ MINH”2.
Những dòng chữ và cách xưng hô trong bức thư phúc đáp ngắn gọn, đủ thấy Bác của chúng ta không chỉ trọng dân mà còn lễ phép với người hơn tuổi. Tôi nhớ mãi chuyện Thủ tướng Nêru và nhân dân thủ đô Niu Đêli đón Bác trong chuyến thăm Ấn Độ năm 1958. Trên đài Chủ tịch, ở giữa hàng đầu có một cái ghế sơn son thếp vàng, bọc nhung đỏ giống như một ngai vàng. Thị trưởng ___________
1. Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.87.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.521.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 15
thành phố và Thủ tướng tha thiết mời Bác ngồi vào chiếc ghế trang trọng ấy, nhưng Bác nhất mực từ chối; phải thay chiếc ghế khác Bác mới ngồi khiến mọi người trong khán phòng đứng cả dậy vỗ tay hoan hô... Hôm sau, báo chí Ấn Độ loan tin: “Hồ Chủ tịch đã xóa bỏ một hình thức lễ tân bằng một cử chỉ rất dân chủ”... Kế tiếp, sau buổi biểu diễn của các cháu thiếu nhi Ấn Độ tặng hoa chào mừng Bác và đoàn, Người ân cần dặn dò các cháu: “Mai sau các cháu sẽ thành đội quân hùng mạnh để xây dựng Tổ quốc, bảo vệ hòa bình... Đối với các cháu, Bác là Bác Hồ, chứ không phải Cụ Chủ tịch”! Các cháu vỗ tay, hô vang: “Bác Hồ! Bác Hồ”! Một cháu nhỏ chạy lên biếu Bác hai chiếc kẹo!...
Dân chủ. Đó là một trong những phong cách đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người coi dân chủ là bản chất của Nhà nước ta. Người nhấn mạnh: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1. Người chỉ rõ chuyên chính dân chủ nhân dân: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại... Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ...”2.
Muốn vận động cách mạng thì phải dân vận khéo. Phải “tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, phải thương yêu nhân dân, gần dân, sát dân, hiểu dân, nghe dân... để định đoạt công việc. Cán bộ, đảng viên phải nói đi đôi với làm như lẽ sống ở đời. Phong cách
___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232; t.10, tr.457.
16 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
của Người là tấm gương sáng rõ nhất về những điều kể trên. “Đến tận nơi, xem tận chỗ” mới dễ dàng đưa nghị quyết vào cuộc sống. Cho nên chỉ trong 10 năm (1955 - 1965), mặc dù công việc bận rộn, vậy mà Người vẫn có tới hơn 700 lần tới các địa phương, cơ sở
thăm hỏi nhân dân, chiến sĩ, xem xét tình hình, kiểm tra công việc... Khi đất nước mới giành độc lập, đồng bào Hà Nội bị thiếu đói, Bác kêu gọi mọi người cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa để cứu đói. Bác nói và Bác thực hiện nghiêm ngặt. Thương Bác, đồng bào khắp nơi gửi thư lên Chính phủ và Bác, xin Bác đừng nhịn ăn. Nhiều người xin nhịn thêm thay cho Bác. Bác trả lời: “Tôi là người đề ra, tôi phải làm gương mẫu”1... “Bình sinh, Hồ Chủ tịch không thích hình thức, chống nói suông và rất coi trọng việc làm thiết thực. Từ năm 1927, viết về tư cách người cách mạng, ở trang đầu cuốn Đường kách mệnh, Bác đã dặn chúng ta: “Nói thì phải làm”” Đó là hồi ức của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong tác phẩm Hồ
Chủ tịch hình ảnh của dân tộc, tinh hoa của thời đại.
Tôi (người viết bài này) đã đôi lần tới hang Pác Bó nơi Người về đây với tên gọi Già Thu trong bộ quần áo chàm; từng chụp hình lưu niệm bên suối Lênin, dưới chân núi Các Mác, nơi Người cảm tác bằng thơ: “Non xa xa, nước xa xa/Nào phải thênh thang mới gọi là...”; từng lên lán Khau Tý ở Điềm Mặc, Thái Nguyên, nơi những tháng đầu kháng chiến chống Pháp, Người về đây với đồng bào Tày, nơi thế đất “Trên có núi, dưới có sông/... Nhà thoáng, ráo, kín mát/Gần dân không gần đường”, để chiêm nghiệm cảm tác trước cảnh đẹp núi non của Người:“Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa/Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ/ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Và, tôi cũng đã từng tới lán Nà Lừa
___________
1. Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Sđd, tr.36.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 17
(Nà Nưa) ở Tuyên Quang cùng nhiều nơi Người tới thăm dân, đi chiến dịch với chiến sĩ... đến đâu đều lưu nỗi nhớ sâu xa về đức khiêm tốn, gần dân, trọng dân với những lời khuyên nhủ ngắn gọn, thiết thực, dễ thuộc, dễ làm theo. Đó là bản lĩnh của Người, từ
ăn vận, sinh hoạt đến giao tiếp rất đỗi tự nhiên nên giàu sức nêu gương. Đúng như báo chí Ấn Độ miêu tả: “Sau vẻ dịu hiền của Người là ý chí sắt thép; dưới bề ngoài giản dị là một tinh thần quật cường, anh hùng, không có gì uy hiếp nổi”1.
Khái quát biết bao trong câu chữ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời: “Tất cả những gì tốt đẹp của dân tộc trong 4.000 năm lịch sử đều sống dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong thời đại Hồ Chí Minh”!. Càng tự hào, hãnh diện trong lời hào hùng của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại lễ
kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã hun đúc nên sự nghiệp Hồ Chí Minh, thời đại Hồ Chí Minh - thời đại rực rỡ nhất, vinh quang nhất trong lịch sử dân tộc ta”2.
Học tập và noi gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh - tinh hoa của dân tộc, mãi mãi là lẽ sống làm người của chúng ta, của mọi thời đại!
Báo Nhà báo & Công luận, ngày 21/4/2020.
___________
1. Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Sđd, t.2, tr.804.
2. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tại Lễ quốc gia 50 năm Di chúc Bác Hồ, vov.vn, ngày 30/8/2019.
18
“ĐOÀN KẾT” - Ý THỨC
THƯỜNG TRỰC CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
N
ăm mươi năm đã qua đi. Vậy mà, tôi không sao quên được hồi 9 giờ, ngày 09/9/1969. Thời khắc ấy, tôi vừa bước chân lên
phà Bến Gót, Việt Trì qua sông Lô sang Bến Hạc để về thôn Lạc Trung, xã Bình Dương ghi nỗi niềm của Anh hùng lâm nghiệp Nguyễn Văn Tần (cán bộ miền Nam tập kết) với Bác Hồ kính yêu khi Người về với thế giới người hiền, thì trời sầm sập đổ mưa. Đúng lúc ấy, tại Quảng trường Ba Đình cử hành trọng thể Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi qua những chiếc loa treo trên thân cột điện ở đôi bờ bến sông. Không cầm được nước mắt, không kìm nổi tiếng nấc bởi giọng nghẹn ngào của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất đọc Di chúc của Bác và Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao! Đau thương này thật là vô hạn!...”. Tôi bật khóc. Mọi người òa khóc!...
Ngày tháng đau thương xé lòng ấy dần qua đi, nhưng lời Di chúc của Bác và 5 lời thề trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ ấy cứ thấm đẫm trong tôi từng câu, từng chữ về tình cảm của Người với non sông đất nước, với Đảng, với dân: “Đoàn kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”1. Lời Người chắt ra từ tâm khảm, từ vô vàn niềm tin yêu với chúng ta ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 19
và các thế hệ mai sau: “Đoàn kết là một truyền thống...”, tâm nguyện ấy của Bác như lời tiên tổ thiêng liêng ẩn mãi trong tâm thức chúng ta. Người nhắc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”1. Đó là tư tưởng, là đạo đức, là văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Di chúc lịch sử - tiếng lòng của Người thêm lần khắc họa: Bác của chúng ta là người Việt Nam đẹp nhất. Người luôn lấy con người làm trung tâm của mọi tư duy, làm chủ đích cho mọi hành động. Chân lý hiển nhiên với Người, vì con người
luôn là nhân tố quyết định mọi thành bại của cách mạng. Trong bài nói chuyện tại trường Đại học Nhân dân (ngày 08/12/1956), Người mượn câu mở đầu trong Tam tự kinh “Nhân chi sơ tính bản thiện” làm tiêu đề cho bài nói, rằng: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã hội không gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”2. Xuất phát từ quan điểm ấy, nên Người luôn dạy phương pháp làm việc cho cán bộ, đảng viên phải hết lòng vì dân.
Thư gửi các kỳ, tỉnh, huyện, làng ngày 17/10/1945, Người viết: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng ý nghĩa gì... các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân”3... Người định phương cách làm việc rất rõ ràng cho cán bộ: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”4.
___________
1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611; t.10, tr.453; t.4, tr.64; t.4, tr.65.
20 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người nhấn mạnh: Cán bộ phải có 5 đức tính căn bản: “Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm”! Cán bộ, đảng viên phải mẫu mực, có tư cách, nêu cao tinh thần phê và tự phê. Phải luôn ý thức xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc!
Với những người làm báo là hội viên trong tổ chức Hội Nhà báo Việt Nam, Người dạy: “Đó là một tổ chức chính trị và nghiệp vụ. Nhiệm vụ của Hội là phải làm cho hội viên đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau để nâng trình độ chính trị và nghiệp vụ”1 (Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam, 1959).
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vị trí, vai trò của báo chí cách mạng và người làm báo trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Ảnh: Tư liệu
Quan điểm, tư tưởng, đạo đức nhất quán ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là đề tài, là chủ đề tư tưởng để khai thác, thể hiện ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.166.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 21
trong hết thảy các thể loại báo chí, các phương tiện thông tin, để góp sức cùng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Bởi lẽ hiển nhiên, như lời Điếu văn mà đồng chí Lê Duẩn đọc: “Người dạy: Sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết nhất trí...”! Bởi lẽ, trong toàn bộ di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì xây dựng tổ chức đảng vững mạnh là vấn đề Người đặc biệt quan tâm trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng.
Tư tưởng đoàn kết của Người là: Đoàn kết làm ra sức mạnh! Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta! Đoàn kết thống nhất trong Đảng là tư tưởng nổi bật nhất ở Người. Trong đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, Người coi đoàn kết là chiến lược để tập hợp lực lượng. Đoàn kết là chính sách, là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Đoàn kết là nền tảng để liên minh công - nông - trí thức. Đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của Đảng để phụng sự Tổ quốc.
Tư tưởng trên đây cũng là hành động cách mạng của Người khi Người vận động cách mạng cũng như những khi Người gặp gỡ đồng bào, chiến sĩ. Người nhắc cán bộ, đảng viên, đó không phải là đoàn kết hình thức, giả tạo, nó phải thể hiện trong tư
tưởng, hành động.
Với nhân dân, Người căn dặn: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”1. Với tổ chức của Đảng, người chỉ rõ nguyên tắc đoàn kết để tạo ra sức mạnh, thì: “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”2; Đảng viên phải nghiêm túc phê bình và tự phê bình. Đây là cách tốt nhất để phát triển và củng cố sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng. Đây cũng là quy luật phát triển Đảng.
___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.266; t.12, tr.544.
22 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
50 năm thực hiện Di chúc của Bác Hồ kính yêu và thực hiện lời thề của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trước anh linh Người, các hội viên nhà báo và báo giới Việt Nam luôn luôn tuân theo sự lãnh đạo và định hướng tư tưởng của Đảng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong đó, đoàn kết thống nhất trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng vì lợi ích dân tộc trở thành ý thức thường trực của các nhà báo, của các cơ quan báo chí. Nhận thức ấy đã trở
thành tâm thức thường trực khi nhà báo tác nghiệp, tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin và quyết định loan tin đến công chúng. Quán triệt quan điểm đoàn kết thống nhất của Người, báo chí Việt Nam luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng của Đảng, góp phần xây dựng và phát huy cái tốt đẹp của Đảng, nhân dân và toàn xã hội; quyết liệt đấu tranh, phê phán căn bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí; cá nhân chủ nghĩa, xa dân... mà lúc sinh thời Người chỉ danh, chỉ diện là “giặc nội xâm”. Báo chí luôn góp sức tuyên truyền để Đảng ta thực hiện đúng Di chúc của Người: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”1.
Ở thời hội nhập, hơn lúc nào hết, nội bộ báo giới càng phải đoàn kết chặt chẽ, thống nhất trên nguyên tắc của Đảng. Coi trọng tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí, thương yêu, giáo dục, bồi dưỡng lòng nhân ái cho nhau. Giúp nhau học tập nắm vững quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng trong từng thời kỳ để nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin. Thực tiễn 50 năm thực hiện Di chúc của Người, báo giới Việt Nam đã làm tròn bổn phận là cơ quan ngôn luận của Đảng, là phương tiện thông tin đại chúng hữu hiệu của Nhà nước, là diễn đàn tin cậy của nhân dân.
___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.612.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 23
Báo chí đã tinh tường hơn, dũng cảm hơn, mạnh mẽ hơn, sâu sắc, đa chiều, tương tác hơn trong công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng vững mạnh về năng lực. Thẳng thắn phê phán những cán bộ, đảng viên hư hỏng, vi phạm pháp luật, cá nhân, cơ hội chủ nghĩa, mất đoàn kết nội bộ, thoái hóa, biến chất, cục bộ, địa phương, phe nhóm lợi ích, thiếu công tâm. Phát hiện, tuyên truyền những gương cán bộ, đảng viên tốt, đặc biệt là cấp lãnh đạo để những tấm gương đẹp lan tỏa trong cộng đồng dân cư, để Đảng thân yêu của chúng ta luôn thực hiện tốt tâm nguyện của Người: Hết lòng hết sức giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, làm hạt nhân cho khối đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam hoàn toàn thắng lợi!
Sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc trong 50 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ, ở đó có công đóng góp không hề nhỏ của báo chí Việt Nam. Bởi, vâng theo Di chúc của Người: “Đoàn kết” - Mãi là đề tài thường trực của báo chí. “Đoàn kết” - Báo giới Việt Nam luôn trong một nhà!
Tạp chí Người làm báo, tháng 5/2019.
24
ĐỌC “TỨ TÔN CHÂM” -
NGẪM LỜI BÁC DẠY
T
ôi thuộc nằm lòng lời vàng ngọc của cụ Nguyễn Khắc Niêm khi triều kiến vua Thành Thái, vị vua thứ 10 của triều
Nguyễn: “Tôn tộc đại quy/Tôn lộc đại nguy/Tôn tài đại thịnh/Tôn nịnh đại suy”(*)! Các con cháu cụ Niêm gọi đó là “Tứ tôn châm”. Nhiều người coi đấy là phương châm “trị quốc” và cũng coi đó là 16 chữ vàng tôn vinh tư chất đẹp của người Việt Nam.
Tư tưởng ấy, lời răn ấy càng có ý nghĩa khi cán bộ, đảng viên đang sôi nổi học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh để Đảng ta mãi xứng là đảng cầm quyền.
Tôn tộc đại quy
Từ xa xưa dân ta đã truyền nhau: “Con người có tổ, có tông/ Như cây có cội, như sông có nguồn”. Lẽ đời, dân của nước phải hiểu lịch sử đất nước. Con cháu trong gia đình phải hiểu tổ tiên của mình. Ấy là phận làm dân, làm con, cháu, chắt, chít... Chẳng thế mà, khi chữ viết chưa phổ biến, chưa có công nghệ in ấn... nhưng nhờ những phiến đá cổ khắc chữ khai quật được nên người Arập đã xác định địa điểm hình thành các bộ lạc đầu tiên của mình sống du mục cùng tổ tiên từ phía Nam bán đảo Arập tới Trung Đông rồi định cư tại đây, cùng dân bản xứ lập nên nhà nước Xyri... Tương tự, nhiều nước ở phương Đông dùng chữ tượng hình ghép từ những tấm lá bằng vàng, bạc hoặc đồng để ghi chép vương phả
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 25
của dân tộc mình1.... Các dòng họ người Việt luôn dạy nhau tôn tộc, đóng góp công sức, tài chính để thờ phụng, tôn tạo lăng mộ; lập tủ sách dòng họ, khuyến học, khuyến tài; với ước mong “Tổ tiên công đức muôn đời thịnh/Con cháu thảo hiền vạn đại vinh”. Dòng họ hòa hợp sẽ góp phần tạo nên sự hòa hợp của dân tộc, của đất nước, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đoàn kết là chiến lược nhằm tập hợp lực lượng đấu tranh cách mạng. Tư tưởng của Người là: Đoàn kết làm ra sức mạnh; đoàn kết là then chốt của thành công. Tôn tộc góp phần làm nên sức mạnh của dân tộc, đại quy cho non sông đất nước. Kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, viếng các Vua Hùng tại Đền Giếng bên sườn Nghĩa Lĩnh, Người dạy: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”2. Tưởng nhớ, biết ơn các Vua Hùng là đạo lý, nhưng phải biết tự tôn dân tộc “cùng nhau giữ lấy nước”. Để hôm nay, mỗi khi mùng 10 tháng Ba về - Lễ và Hội Đền Hùng như nguồn sáng cho cháu con cả nước hướng vọng. Để nhận ra công sức cha ông: “Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông quy một mối/Lên cao, nhìn rộng, ngàn trùng đồi núi tựa đàn con” (câu đối).
Tôn lộc đại nguy
Ngạn ngữ Nga có câu: “Khi đồng tiền lên tiếng là khi sự thật im lặng”. Một nhà văn hóa lại viết: “Tiền bạc là phương tiện của người thông minh, là mục đích của những kẻ ngu ngốc”. Dân gian ta chắt lọc ra: “Tiền dùng đúng tiền hiền như Phật/ Bạc xài lầm bạc ác hơn ma”... đủ thấy bản tính hai mặt của tiền bạc. “Tôn lộc đại ___________
1. Xem Phan Quang: Sử thi huyền thoại Đông Tây, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 2009.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.59.
26 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
nguy”. Nôm na “lộc” là quà. Ít là sự thơm thảo chứa chan tình người. Nhiều là dụng ý “bẩn”, “lộc lớn” thường kích động lòng tham lam của người nhận, nhất là những người có quyền “quyết sách, ban phát”. Lòng tham thường tăng “sức” lạm quyền, lộng quyền; lan tỏa từ ngấm ngầm đến thản nhiên nhũng nhiễu, vơ vét để “vinh thân phì gia”, để cho phe nhóm dưới vỏ bọc mĩ miều “lợi ích xã hội”. Nhận lộc từ tiền bạc, kim cương, đá đen, đá đỏ tới biệt thự, đất đai, xe cộ... Trả lộc bằng tất cả những gì người “dâng lộc” muốn... nên dẫn tới trái phải đảo lộn, người ở cương vị “làm gương” sinh ra “tự diễn biến”, “tự suy thoái”, “tự chuyển hóa”... khiến niềm tin của công chúng phai mờ. Nhãn tiền, ấy là những vụ án trọng điểm được xét xử, cho thấy rõ sự nguy hại của “lộc”. Càng thấm thía “Nhân nghĩa làm cao con người/Tiền tài danh vọng làm nhục con người”. Người ta lấy ngân sách để biếu nhau, quà cáp cho nhau trăm tỷ, ngàn tỷ. Người ta nhận lộc để rồi sau đấy bỏ sau luật pháp, ban phát cho nhau đất đai, nhà cửa công sản, khuynh đảo xã hội, nguy hại đến vận mệnh quốc gia. Đó chính là “giặc nội xâm” như Bác Hồ kính yêu đã chỉ danh chỉ diện!
Thán phục bản lĩnh cao cường của Nguyễn Khắc Niêm dám đưa ra châm ngôn ứng xử cho cả vua chúa, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Bác Hồ kính yêu ngay từ lúc mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”1 (Sửa đổi lối làm việc - X.Y.Z). Đồng thời theo pháp luật, Bác cũng nghiêm trị tội tham ô của Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu ngay tại chiến khu Việt Bắc (năm 1950). Lòng tin với Đảng, với Nhà nước đang được khơi lại như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.289.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 27
“Chúng ta phải chống cho được tệ bè phái, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa trong công tác cán bộ, không để bị lợi ích nào cám dỗ”1. Và, “Bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật, bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân”2!.
Tôn tài đại thịnh
“Nhà ta coi chữ hơn vàng/Coi tài hơn cả giàu sang trên đời”. Thơ Nguyễn Bính và cũng là tự bạch chân tình của ông. Cũng như tác giả của “Tứ ngôn châm”, nhà đông con nhưng người nào cũng giàu chữ nghĩa (Nguyễn Khắc Viện là nhà văn hóa lớn, Nguyễn Khắc Dương là giáo sư thần học, Nguyễn Khắc Phi là giáo sư văn học, Nguyễn Khắc Phê - nhà văn...). Soi vào lịch sử, càng rõ các bậc tiền bối “khai quốc công thần” luôn rạng ngời phẩm chất, đạo đức cách mạng, thanh bần, đạm bạc, mẫu mực trong cuộc sống đời thường. Âu cũng là nét tài, nét đẹp. Tài năng, trí tuệ, hiểu biết, tư duy sắc sảo luôn là những tố chất để góp phần bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Cho nên, cách nay hơn 500 năm cụ Thân Nhân Trung đã nói: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”! Dân tộc ta luôn trọng người tài. Bởi người tài là người có bản lĩnh, cá tính, minh triết, ngay thẳng. Họ luôn luôn để chúng ta nể trọng (giàu sang không thể cám dỗ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy quyền không thể khuất phục). Cái tài của người lãnh đạo là biết nghe, dám nghe những lời phản biện, dám cãi, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Hơn nữa cũng phải biết nhìn, biết phát hiện và biết sử dụng người tài, đồng thời phải là người có ý chí mạnh mẽ. Hẳn như vậy, nên sử sách mới lưu truyền danh ngôn: “Không có tài năng vĩ đại ___________
1. Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị tổng kết công tác đảng, ngày 19/01/2018.
2. Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng, ngày 25/6/2018.
28 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
nào thiếu đi được ý chí mạnh mẽ” (Balzac), và “Một trong những tài năng lớn lao nhất là tài năng nhận ra và phát triển tài năng ở người khác” (Frank Tyger). Bác của chúng ta đã nói cụ thể, sát thực hơn về tài đức cần có của người cán bộ cách mạng: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”! Dùng người tài, không chỉ do phát hiện ra mà phải bồi dưỡng, dạy dỗ. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”1. Cho nên, Đảng phải luôn nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu: “Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”2; “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”3. Thiển nghĩ, đó là phương sách, là nghệ thuật, là phong cách khoa học dùng người của Bác mà Đảng ta phải nghiêm túc thực hiện.
Tôn nịnh đại suy
Xu nịnh thường ẩn trong tâm mưu kẻ bất tài. Khi đó phần đông con người lại thích những lời đường mật, tung hô, tâng bốc. Bởi thế, Nguyễn Khắc Niêm mới thẳng lời cảnh báo “Tôn nịnh đại suy”. Ngẫm ra, chỉ có người lãnh đạo thực sự cách mạng, thực sự
bản lĩnh, chí khí, tâm đức trong sáng mới trọng dụng những người ngay thẳng, dám cãi, dám phản biện, dám cảnh tỉnh; và mới không có chỗ để kẻ xu nịnh sống dựa như ký sinh trùng. Danh ngôn khuyết danh dạy rằng: “Ai vạch cho tôi sai lầm, đó là thầy của tôi. Ai chỉ cho tôi những hành động sai trái, đó là bạn tôi. Còn ai phỉnh nịnh tôi, đó là kẻ thù của tôi”. Người đời khuyên nhủ nhau tỉnh táo trước những lời phỉnh nịnh: “Không có cách nào khác để bảo vệ mình khỏi lời xu nịnh ngoài việc khiến người ta hiểu rằng nói với bạn sự thật sẽ không xúc phạm bạn”.
___________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.313, 313, 309.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 29
Với người lãnh đạo mà ưa xu nịnh thì vô cùng nguy hại, là dấu hiệu của sự suy thoái, đại bại, “đại suy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Người ta thường phạm những chứng bệnh sau này: 1. Tự cao tự đại, 2. Ưa người ta nịnh mình, 3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người, 4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lấp vào tất cả mọi người khác”1. Cho nên Bác đã dạy cán bộ
lãnh đạo phải: “Hiểu biết cán bộ - Biết người, cố nhiên là khó. Tự biết mình, cũng không phải dễ. Đã không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái của mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”2. Chỉ
như thế chúng ta mới là tấm gương trong, mới loại bỏ thói nịnh bợ; sự “đại suy” cho tổ chức, cho xã hội và cho đất nước!
(*) Thành Thái là vị vua trị vì (từ năm 1889 đến năm 1907) có tinh thần tự cường dân tộc, cầu tiến, thiên về cải cách nên luôn vi hành để được gần dân, hiểu dân. Ông khinh ghét, xem thường những kẻ xu nịnh, thẳng thừng khước từ bổ nhiệm một số quan lại được khâm sứ Lesveque và Hội đồng Thượng thư thỏa thuận, nên bị phế truất (ngày 29/7/1907). Dân gian lưu truyền rằng, đầu năm Đinh Mùi (1907) sau khoa thi Đình tại Huế, các tiến sĩ đồng khoa (trong đó có Nguyễn Khắc Niêm) được triều kiến. Vua Thành Thái yêu cầu các tân khoa góp kế để phục hưng đất nước. Tiến sĩ Nguyễn Khắc Niêm, khi ấy mới ở tuổi 18 (sinh năm 1889, tại làng Gôi Vị, nay là xã Sơn Hòa, Hương Sơn, Hà Tĩnh; sau là đại thần triều Nguyễn, từng đảm chức Thượng thư Bộ Lễ, Phủ doãn Thừa Thiên, Tổng đốc Thanh Hóa) đã dâng “Tứ tôn châm” kể trên.
Tạp chí Người làm báo, tháng 7/2018.
___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.317.
30
CÁN BỘ PHẢI HẾT LÒNG VÌ NHÂN DÂN
T
ư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đồng nhất. Yêu nước, thương dân là nguồn mạch xuyên suốt mọi
hành động cách mạng của Người. Giai đoạn nào cũng vậy, việc gì cũng thế, Người đều đau đáu một nỗi lòng vì dân vì nước. Bởi vậy, phong cách quần chúng của Người như “thần lực” để cán bộ, đảng viên noi theo, sao cho xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào nên Người sớm ra đi tìm đường cứu nước. Gắn bó mật thiết với Tổ quốc, với nhân dân nên Người chân tình nói với các nhà báo quốc tế: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”1. Tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân, nên Người rất dày công vun đắp mối liên hệ bền chặt giữa Đảng với dân, Người coi đó là cội rễ thắng lợi của cách mạng. Trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17/10/1945, Người viết: “Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng ý nghĩa gì... các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của nhân dân”2. Người chỉ rõ phương pháp làm việc của cán bộ phải là: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân,
___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187, 64.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 31
kính dân, thì dân mới yêu ta, kính ta”1. Đó là tinh thần phụ trách trước dân của cán bộ đảng viên mà Bác hằng vun đắp. Người phê phán mạnh mẽ thói quan liêu, cậy thế cậy quyền, cá nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương, dân chủ “giả vờ” của một bộ phận cán bộ. Nói chuyện với nhân dân và cán bộ tỉnh Nam Định (ngày 25/5/1963), Người chỉ rõ: “Cán bộ từ Trung ương đến xã đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên cần phải xung phong gương mẫu trong mọi công việc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Đồng bào cần phải luôn luôn giúp đỡ và phê bình cán bộ để họ làm tròn nhiệm vụ”2. Nói sao thì Người làm như vậy. Sinh thời, Người rất năng xuống các địa phương, các hợp tác xã nông nghiệp, công trường, xí nghiệp, các đơn vị vũ trang... xem xét, kiểm tra công việc; thăm hỏi người già, trẻ nhỏ, chiến sĩ. Đến với vùng úng, vùng hạn, lội đồng, thăm ruộng... rất đỗi bình dị như người trong cuộc cùng đồng hành, chia sẻ, ân cần chỉ bảo; và để xem xét, định ra chủ trương, chính sách sát hợp... Phong cách quần chúng ấy là tấm gương ngời sáng cho lớp lớp các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhà báo chúng ta noi theo. Bổn phận công dân của nhà báo không chỉ thượng tôn pháp luật, mà phải gánh vác trách nhiệm xã hội trên mặt trận thông tin tuyên truyền phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước. Học theo Bác, mỗi nhà báo chúng ta phải ý thức rất cao lời dạy của Người: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Chỉ như thế, các nhà báo mới năng nổ dấn mình vào thực tế, năng nổ tìm tòi, cổ vũ, nhân rộng những tấm gương “người tốt, việc tốt”, những điển hình tiên tiến; những mô hình và những nhân tố tích cực nảy sinh trong cuộc sống, góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ ___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65; t.14, tr.110.
32 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
nghĩa thân yêu của chúng ta. Chỉ như thế, chúng ta mới quyết liệt đấu tranh với những thói hư, tật xấu; những cá nhân, tổ chức cố ý làm trái pháp luật; những cán bộ, đảng viên (suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” - Nghị
quyết Trung ương 4, khóa XII). Chỉ như thế, thông tin của nhà báo mới có chất lượng cao, đúng bản chất; mới không sai lạc để tiếng xấu cho những nhà báo tốt. Học Bác, ngẫm về nghề báo, tự thấy mỗi người làm báo chúng ta phải thực sự dấn mình vào cuộc sống xã hội, hòa đồng với người lao động để thấu hiểu về họ hơn nữa. Chỉ như thế nhà báo mới tự mình phát hiện ra những điều hay lẽ
phải, cái tích cực và cái tiêu cực, những vấn đề đang nảy sinh (nghề báo gọi là tư liệu, chi tiết) do nhà báo tự khai thác tạo nên sự sinh động, hấp dẫn của tác phẩm báo chí.
Khoa học, thiết thực, cụ thể với công việc
Hơn ai hết, nhà báo phải hết sức coi trọng chất lượng thông tin. Chất lượng thông tin làm nên bởi nội dung thông tin (đúng, trúng, hay), ở đó tính trung thực là thước đo quan trọng nhất. Từ phong cách làm việc khoa học, thiết thực, sát thực của Chủ tịch Hồ Chí Minh giúp các nhà báo chúng ta suy ngẫm mỗi khi sáng tạo ra tác phẩm. Người dạy: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”1. Người đòi hỏi gắt gao, đảng viên phải rèn luyện tính đảng: “Một là: Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Hai là: Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn... Ba là: Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”2... Về mặt Đảng: “1. Phải nghiêm ___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.279, 307.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 33
ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành những nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống lại cái thói nghị quyết một đường thi hành một nẻo. 2. Nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng”. Phê bình thì phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật”1. Người nhắc nhở những người làm báo, phải có trách nhiệm thông tin: “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”2. Kinh nghiệm viết báo của Bác là bài học quý giá cho chúng ta ghi lòng, tạc dạ: “Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc3. Trả lời những điều tự vấn ấy sẽ giúp cho bài viết của nhà báo rõ đích; thông tin đến đúng đối tượng; diễn đạt hấp dẫn, văn phong phù hợp với bạn đọc.
Tác phong làm việc khoa học của Người có được là nhờ văn hóa uyên thâm, tư duy sắc sảo, bản lĩnh chính trị vững vàng. Theo Bác, học Bác, trước hết nhà báo phải rèn luyện bản lĩnh chính trị, suốt đời phấn đấu vì mục tiêu: “Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội”. Người dạy: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”4. Người khuyên các nhà báo: ... tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được”5. Người làm báo, có ba công việc thường nhật, ấy là: tiếp nhận thông tin; xử lý thông tin; quyết định loan tin. Nói thì đơn giản, nhưng đó là cả núi công ___________
1, 2, 3, 4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.307-308; t.5, tr.346; t.13, tr.465; t.2, tr.279; t.12, tr.166.
34 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
việc. Việc nào cũng cần đến thái độ khoa học, tư duy sắc sảo khi tiếp nhận thông tin; mới mẻ trong phân tích, lý giải, thực, hư, phải, trái, lợi hại, khi xử lý thông tin; bản lĩnh chính trị vững vàng, chắc chắn khi quyết định loan tin. Với lĩnh vực quản lý nhà nước, Người khuyên: Muốn quyết định vấn đề gì thì phải điều tra, nghiên cứu rõ ràng. Có nắm chắc thì mới đề ra chính sách đúng. Có đúc kết kinh nghiệm thì mới đề ra khuôn mẫu cho những công việc khác. Phong cách làm việc, nhìn nhận khoa học ở Người còn thể hiện rất rõ trong công tác cán bộ. Trong buổi nói với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm ngày 09/12/1961, Người nhắc nhở: “Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt. Người ta thường nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Ta hiểu như thế, nhưng không có tư tưởng thụt lui, nạnh kẹ: Tao làm cách mạng già đời không được gì. Nó mới vào, mà Bộ trưởng, Thứ trưởng, Chủ tịch, Chủ nhiệm, v.v.”1. Người thường nói: Phải biết lựa chọn cán bộ và sử dụng cán bộ. Dùng nhân như dụng mộc. Phải chí công vô tư trong tuyển chọn, xem xét và bố trí cán bộ. Giao việc cho cán bộ thì phải kiểm tra, kiểm soát thường xuyên từ trên xuống, từ dưới lên một cách có hệ thống. Cán bộ phải tránh nói nhiều, làm ít; thích đăng đàn “khai mạc”, “diễn văn”; quan liêu, xa rời nhân dân... Thật sống động và ý nghĩa biết bao!
Thiển nghĩ, những điều học từ tác phong làm việc của Bác Hồ kính yêu như thế, không chỉ bổ ích đối với cán bộ, đảng viên mà còn là những định hướng quan trọng và đề tài bổ ích cho các nhà báo chúng ta ở thời kỳ đổi mới và hội nhập, học tập, vận dụng và làm theo!
Tạp chí Người làm báo, tháng 12/2016
___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.274.
35
ĐỒNG HÀNH CÙNG
SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG C
hủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ thiên tài của dân tộc mà còn là người thầy vĩ đại nhất của báo chí cách mạng Việt Nam. Tư tưởng nhất quán của Người về mục đích cách mạng, đối tượng vận động cách mạng, vai trò tuyên truyền, định hướng hành động cách mạng cho công chúng đã khởi nguồn cho báo chí cách mạng Việt Nam đồng hành cùng dân tộc suốt 90 năm
qua (kể từ tờ Thanh niên do Người sáng lập - 21/6/1925). Đọc Người - Học tấm gương làm báo của Người, chúng ta không thể nào quên: Từ tuổi thành niên đặt chân đến xứ trời Âu, rồi bôn ba qua nhiều châu lục, tìm hiểu về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và “cùng khổ” với các dân tộc bị áp bức, bóc lột; được đánh thức bởi bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin trên báo l’Humanité năm 1920, Người đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Bắt đầu từ đây, Người chú tâm tìm mọi cách để đưa tư tưởng cách mạng vô sản về Việt Nam... Người xác định phương tiện tốt nhất để giáo dục, truyền bá, để bồi dưỡng tư tưởng cách mạng vô sản, để vận động cách mạng tốt nhất và trước hết chính là báo chí; là tờ báo của người Việt Nam, viết cho người Việt Nam, phục vụ người Việt Nam. Người miệt mài học tập, chau chuốt ngôn từ, tập viết từ những dòng tin vắn, từ bỡ ngỡ đến thành thạo với công việc làm báo. Cho nên, ngay từ khi ở Liên Xô
36 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
trở về phương Đông vào đầu năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), cùng với việc bắt tay thành lập tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên, biên soạn tài liệu, mở lớp đào tạo thanh niên, Người đồng thời sáng lập ra tờ báo Thanh niên. Đó là tờ báo cách mạng đầu tiên, tờ báo vô sản đầu tiên của người Việt Nam, xuất bản số đầu vào ngày 21/6/1925. Vì vậy, ngày 05/02/1985, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 52-QĐ/TW, lấy ngày 21/6 là Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam! Đây chính là cơ hội để Hội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan báo chí nối tiếp nhau bồi dưỡng truyền thống cách mạng, tổng kết những thành tích và kinh nghiệm để báo chí không ngừng đổi mới, phát triển mạnh, vững chắc, phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Sự mẫu mực của báo Thanh niên do Người chủ trì (dù chỉ tồn tại hơn 2 năm) đã thực sự nêu cao ngọn cờ tuyên truyền, vận động và tổ chức cách mạng trong nước, hướng tới yêu cầu cấp bách và tất yếu là xây dựng và thành lập Đảng. Đó là tờ báo cách mạng mẫu mực ở thời điểm đó, bởi nó thực sự đảm trách vai trò là cơ quan ngôn luận của tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Kể từ khi ra đời của tờ Thanh niên, báo chí cách mạng Việt Nam liên tục hình thành và phát triển theo nhịp bước của cách mạng. Sau sự ra đời của Đảng ngày (03/02/1930), có tới trên 100 tờ báo và tạp chí của Đảng từ Trung ương tới địa phương, tiêu biểu là Tạp chí Cộng sản ngày 05/8/1930, nhưng liên tiếp bị đế quốc, thực dân đàn áp, truy lùng... Tới thời kỳ mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh (1936 - 1939) chuyển sang hoạt động công khai, báo chí phát triển rầm rộ tới gần 300 tờ với sự
cách tân rõ nét về cả nội dung và hình thức, đòi quyền dân sinh, dân chủ... Những tờ báo tiêu biểu ở thời kỳ này là Hồn Trẻ tập mới (của Đảng bộ Hà Nội); các tờ Hà Thành thời báo; Thời thế; Tin tức (1937 - 1938); ở Sài Gòn có tờ Dân chúng, cơ quan của Trung ương
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 37
Đảng... Sự sôi động của báo chí đã tác động đến thái độ của nhà báo, công khai ủng hộ Mặt trận dân chủ do Đảng ta lãnh đạo, cho nên chính quyền phản động đã lồng lộn tìm cách bóp nghẹt, truy lùng những người viết và cả những người đọc báo... Tiếp đến là báo chí trong cao trào cách mạng mới (1939 - 1945), thời kỳ này Đảng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, đoàn kết toàn dân vùng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, hướng tới thắng lợi bằng Tổng khởi nghĩa.
Vận hội mới - Dân có Nước. Báo chí cách mạng nở rộ, trưởng thành và phát triển... Các cơ quan báo chí chính thống của Đảng và Nhà nước với nhiều loại hình nhanh chóng định hình vị thế của mình, như: Đài Tiếng nói Việt Nam (ngày 07/9/1945), Thông tấn xã Việt Nam (ngày 15/9/1945), Báo Nhân Dân (ngày 11/3/1951), Báo Quân đội nhân dân (ngày 20/10/1950), Truyền hình Việt Nam (năm 1970). Khi hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước diễn ra thì tính cách mạng của báo chí thế hiện hết sức rõ ràng. Tính cách mạng, chất lượng thông tin báo chí và trách nhiệm chính trị của báo chí ngày càng được nâng cao, nhất là từ khi tổ chức Hội Nhà báo Việt Nam ra đời (ngày 21/4/1950), tới nay đã 65 năm với 9 kỳ
đại hội, Hội luôn gắn kết chặt chẽ với các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí trong định hướng tuyên truyền; bồi dưỡng chính trị và kỹ năng nghiệp vụ cho hội viên nhà báo theo đúng lời dạy của Bác kính yêu: ...“những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì việc khác mới đúng được”1. Cho nên, suốt chặng đường cách mạng, chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.166.
38 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
Bắc, gìn giữ biển đảo... cùng sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, báo chí Việt Nam luôn luôn thể hiện khí phách của dân tộc Việt Nam, luôn hướng tới mục tiêu trước nhất là: Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Tính cách mạng của báo chí (30 năm đổi mới vừa qua) không chỉ góp phần vào sự nghiệp đổi mới tư duy do Đảng khởi xướng, mà chính báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam các cấp cũng thực sự năng động, đổi mới thông tin. Thông tin đa dạng nhiều chiều, cổ vũ mạnh mẽ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh luôn là cốt lõi của thông tin.
90 năm qua, các thế hệ nhà báo nối tiếp nhau theo gương Bác Hồ luôn luôn lấy báo chí làm phương tiện truyền bá và định hướng hành động cách mạng cho đối tượng vận động của mình. Và, vâng lời Bác: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng, cây bút trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”! (tại Đại hội III Hội Nhà báo Việt Nam, năm 1962); lớp lớp nhà báo hăng hái xung trận, nhất là ở những thời điểm cách mạng khó khăn, gian nan quyết liệt nhất. Hơn 400 nhà báo hy sinh anh dũng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, góp sức cùng dân tộc đưa non sông thu về một mối, là minh chứng hùng hồn về sức mạnh kỳ diệu của các nhà báo vâng theo lời Bác. Không ít nhà báo khi nằm xuống tại trận đánh thì cây bút, cuốn sổ vẫn trong tay; hoặc là chiếc máy ảnh, máy quay phim vẫn hướng về phía các chiến sĩ ào ào xung trận. Tên tuổi các nhà báo liệt sĩ còn sáng mãi, như: Mai Thúc Tề, Lý Chính Thắng, Trần Kim Xuyến, Trần Mai Ninh, Trần Đăng, Hoàng Lộc... Những tấm gương kiên cường ấy nối dài trong cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược, trong chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc... Những nhà báo “khai quốc công thần” đã lấy việc viết báo, dùng báo chí để làm cách mạng như: Trần Huy
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 39
Liệu, Ngô Tất Tố, Xuân Thủy, Hoàng Tùng, Nguyễn Thành Lê, Quang Đạm, Hồng Hà, Hiền Nhân, Thép Mới, rồi nhiều nữa là lớp nhà báo rất rạng danh như: Trần Lâm, Đào Tùng, Lý Văn Sáu, Hoàng Phong, Thái Duy, Hà Đăng, Hữu Thọ, Phan Quang... thêm phần minh chứng “Nhà báo cũng là chiến sĩ cách mạng”.
Nhà báo, với bổn phận thông tin nhanh, chân thực, lấy chính trị làm trọng, phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước là trọng trách tối thượng. Làm báo không đơn thuần là một nghề, mà trước hết là trách nhiệm xã hội - nghĩa vụ công dân. Người làm báo không đơn thuần là một nhà bình luận trung lập (ở khoảng giữa), đứng ngoài các cuộc đấu tranh xã hội hằng ngày, mà phải là một thành viên hữu cơ của xã hội. Nhà báo phải là người vừa phản ánh thực tiễn, vừa phải góp phần cải tạo thực tiễn; vừa thông tin, vừa hướng dẫn dư luận xã hội... Cho nên, nhà báo chứ không ai khác phải tuyệt đối tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp; không nói dối, không nói sai, không để những kẻ cơ hội lợi dụng báo chí, và hơn thế phải chịu trách nhiệm về những gì mình đã loan tin.
Học Bác, tự rèn, bồi bổ kỹ năng tác nghiệp qua các lớp nghiệp vụ chuyên sâu của Hội Nhà báo Việt Nam luôn là yêu cầu cấp thiết của các nhà báo ở hiện tại cũng như mai sau. Quan điểm nhất quán của Người trong viết báo luôn luôn hướng tới mục tiêu duy nhất là: Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội! Vậy mà mỗi khi đặt bút viết Người vẫn tự vấn: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?... nhằm định rõ chủ đích của tác phẩm, chủ đích của đối tượng cần tuyên truyền. Bằng cách tự vấn ấy nên mỗi bài viết của Bác đều sáng rõ chủ đề, sắc bén về lý luận, phong phú về cứ liệu, kết hợp hài hòa giữa tính hiện đại với truyền thống; giữa vốn tri thức rộng lớn với bản sắc văn hóa dân tộc nên có sức truyền cảm, lan tỏa và lưu giữ lâu bền. Phong cách báo chí Hồ Chí Minh thực
40 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
sự rọi sáng đường cho những chiến sĩ báo chí Việt Nam nối tiếp nhau đồng hành cùng dân tộc theo suốt chiều dài lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, chiến đấu chống cái xấu, cái ác; hết lòng vun đắp cho sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo...
Báo chí - nghề nghiệt ngã, nghề gian nan và hiểm nguy - dù viết để đấu tranh với kẻ thù, để chống giặc “nội xâm”, hay để ngợi khen nhân tố mới, con người mới, điển hình tiên tiến... thì các nhà báo đều phải tiếp nhận thông tin, tiếp cận sự kiện, tư liệu phong phú; phải sắc sảo trong xử lý thông tin và quyết đoán khi loan tin. Công chúng, bạn đọc cho dù họ không viết báo, làm báo nhưng họ
chính là những “giám khảo tài ba” và rất khó tính của chúng ta. Nếu nhà báo nói dối, nói sai, để kẻ xấu, bọn tham nhũng, cơ hội chính trị lợi dụng thì chẳng những nhà báo bị mất danh mà uy tín của báo chí cũng bị suy giảm - như thế đủ thấy sự nghiệt ngã của nghề nghiệp. Nghề báo - Nhà báo luôn luôn chịu sự đòi hỏi gắt gao về tính trung thực và tinh thần trách nhiệm cao trước dân, trước Đảng. Sự trong sáng luôn phải thường trực trong lòng mỗi một nhà báo. Trong sáng, ngay thẳng, minh bạch, rõ ràng, chính xác trong đấu tranh chống tiêu cực. Không có “ít xít ra nhiều”; vụ lợi biến trắng thành đen... Ấy là phẩm chất chiến sĩ cách mạng của hết thảy nhà báo chúng ta đã học và làm theo lời dạy bảo ân cần của Bác... Trong sáng, ngay thẳng, trung thực khi viết về nhân tố mới, người tốt, việc tốt, về điển hình tiên tiến... mà Người đã chỉ
bảo cặn kẽ cho cán bộ làm công tác tuyên truyền: Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và đảng viên mà giáo dục lẫn nhau - đó chính là một cách tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin thiết thực nhất! Lời nhắc nhở của Người, báo giới và các nhà báo chiến sĩ cách mạng của chúng ta luôn luôn coi trọng và làm theo, khiến cho chất lượng thông tin báo chí không ngừng đổi mới, đa dạng, nhiều chiều, cuốn hút bạn đọc. Bởi bằng bài viết, nhà báo đã
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 41
góp sức thiết thực vào công cuộc dân chủ hóa đời sống xã hội, phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, nhịp bước cùng những biến chuyển lớn lao của cách mạng! Đó là vinh hạnh lớn lao nhất của các nhà báo - chiến sĩ cách mạng!
Tạp chí Công nghiệp quốc phòng và kinh tế, ngày 21/6/2015.
42
LÀM THEO LỜI BÁC DẠY
K
ể từ khi Đảng ta ghi vào Cương lĩnh: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động”1 (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng), đã khơi dậy phong trào rộng lớn học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người; thôi thúc những người làm báo noi theo, trách nhiệm cao với nghề nghiệp.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nguồn mạch chính trị của người làm báo
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta suốt cuộc đời không ngừng đấu tranh cho hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng cốt lõi của Người là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thấm thía tư tưởng của Người nên lớp lớp nhà báo nối tiếp nhau không ngừng tuyên truyền lý tưởng, ý chí cách mạng cho nhân dân và chiến sĩ; theo sát phục vụ sách lược và chiến lược cách mạng của Đảng: Về vấn đề dân tộc, giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc; Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; Về tư tưởng đại đoàn kết dân tộc; Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại... Tư tưởng chính trị ấy ở Người, do Người và Đảng lãnh đạo đã tạo nên chiến thắng hào hùng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; Chiến thắng Điện Biên Phủ
___________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.253-254.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 43
năm 1954; giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Theo tư tưởng cách mạng của Người, khi có chính quyền, Đảng ta đã tập trung xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Cách mạng thành công, Người dạy cán bộ: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”1. (Thư gửi các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17/10/1945). Sinh thời, Người nhắc nhủ: Đảng là người lãnh đạo, nhưng cũng là đày tớ trung thành của dân, nên phải thường xuyên rèn luyện, chỉnh đốn, xây dựng tổ chức vững mạnh về năng lực lãnh đạo, để xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền. Vâng lời Người, công tác xây dựng đội ngũ đảng luôn được Đảng hết sức coi trọng. Chống “tự diễn biến”, “tự suy thoái”, “tự chuyển hóa”, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên là công việc đã và đang được tiến hành mạnh mẽ. Các nhà báo ai cũng nằm lòng lời dạy chí tình của Bác tại Đại hội II Hội Nhà báo Việt Nam: “Nhiệm vụ của Hội Nhà báo là phải làm cho hội viên đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ nhau để nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ”, “Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì việc khác mới đúng được”2. Ý thức sâu sắc lời dạy của Bác nên báo giới cả nước nhập cuộc mạnh mẽ, quyết liệt, thông tin nhanh, sâu sắc, tương tác, đa thể loại... phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2. Đạo đức Hồ Chí Minh nhuần nhuyễn trong đạo đức báo chí
Bác quan niệm đạo đức là cái gốc của người cán bộ cách mạng. Người ví: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì ___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65; t.12, tr.166.
44 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”1. Với người làm báo, Người dạy: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng”2. Đạo đức trong tư tưởng của Người là đoàn kết, là đạo đức của Đảng. “Đoàn kết là thắng lợi. Đoàn kết là then chốt của thành công”. Đó là tư tưởng nhưng cũng là hành động cách mạng của Người. Người dạy: Dân ta phải nhớ
chữ đồng: đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh. Phải chống lại căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “cá nhân chủ nghĩa”, “xa dân” mà Người cho đó là “giặc nội xâm”. Người khuyên: Đảng phải xây dựng cái tốt đẹp cho con người, cho xã hội. “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch; phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân”(Di chúc của Người)! Như thế đủ thấy quan niệm đạo đức của Bác không chỉ là hành vi giao tiếp, ứng xử mà còn biểu hiện sâu đậm trong công việc. Cho nên, làm báo phải thạo nghề, phải có tâm, có đức. Tâm, đức thể hiện trong cách viết, trong lối diễn đạt, trong sử dụng ngôn từ. Phải yêu nước, thương dân; trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc; cần, kiệm, liêm, chính; thẳng thắn, đứng đắn, khiêm tốn, cầu tiến bộ; vì lẽ phải và sự công bằng; có tinh thần quốc tế trong sáng. Tư tưởng và đạo đức cách mạng của Người được thể hiện khá nhuần nhuyễn trong “10 Điều quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo”, trách nhiệm của chúng ta là phải giúp nhau nghiêm chỉnh thực hiện; tự soi để căn chỉnh hành vi của mình.
___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292; t.13, tr.466.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 45
3. Phong cách Hồ Chí Minh cần có cho những người làm báo
Phong cách Hồ Chí Minh biểu hiện rất đậm trong đời sống và trong công việc cách mạng. Người là hình mẫu điển hình nhất của phong cách quần chúng; nói rõ, viết ngắn, cụ thể, sát thực. Người giản dị, chân tình, lịch thiệp, linh hoạt, chủ động; yêu dân, thương dân, thăm dân khi úng, lúc hạn; dạy dân cách trồng cây, xây giếng; thăm hỏi người già, người nghèo khó. Nói về đoàn kết với dân miền biển,
Người ví: “Như chiếc thuyền, người lái và người chèo phải một hướng, phải đoàn kết với nhau”! Người dạy cách viết, phải tự vấn: “- Vì ai mà mình viết? - Mục đích viết làm gì? Phải đặt câu hỏi: Viết cho ai? - Viết cho đại đa số: công - nông - binh! Viết để làm gì? - Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng! Thế thì
viết cái gì? Trong vấn đề này cũng phải có lập trường vững vàng: ta, bạn, thù thì viết mới đúng” 1 (Bài giảng tại Lớp chỉnh Đảng Trung ương, ngày 17/8/1953). Người là mẫu hình sáng nhất về phong cách tư duy khoa học, tự chủ, sáng tạo, hiện đại, nhìn xa, trông rộng mang tính chân lý. Cùng đó là phong cách làm việc cụ thể. Với cán bộ lãnh đạo, Người yêu cầu phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, cá nhân phụ trách; phải làm gương trong công tác và lối sống; nói phải đi đôi với làm. Người nhấn mạnh tính cẩn trọng: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí vấn đề này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy nghĩ kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”2. Người nhắc nhở nhà báo phải đề cao trách nhiệm khi thông tin: “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”!. Học Người, các nhà báo đã sâu sát thực tế hơn, phản ánh thực tại như cuộc sống vốn có. Bớt đi những tin, bài nhạt nhòa, nông cạn, những bài báo viết theo báo
___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.205; t.5, tr.279.
46 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
cáo, diễn lại chủ trương. Bớt đi những thông tin chiêu trò “sáng đăng, trưa gặp, chiều gỡ”. Học phong cách của Bác, các cấp Hội Nhà báo luôn đẩy mạnh phong trào thi đua: Vinh danh nhà báo tốt, trao thưởng những tác phẩm đúng, trúng, hay, giàu sức lan tỏa.
Kỷ niệm 128 năm ngày sinh của Người, báo giới tự hào luôn năng nổ đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng của Đảng, góp sức tạo nên những dấu mốc lịch sử vẻ vang, hiển hách của dân tộc.
Tạp chí Người làm báo, tháng 5/2018.
47
HỌC QUAN SÁT CỦA TIỀN NHÂN
N
ghề báo, có rất nhiều thể loại đòi hỏi người viết phải nhìn nhận đúng bản chất nhân vật. Không ít nhà báo viết về cái hay, cái tốt nhằm nêu gương nhân vật như một điển hình tiên tiến nhưng lại bị chính nhân vật phản ứng vì nói không đúng. Thậm chí có người còn bịa đặt, gán ghép nhiều điều tốt cho nhân vật đến nỗi khi lên “giấy trắng mực đen” thì tác giả phải lảng tránh vì tự thấy ngượng ngùng. Để viết được sâu sắc, tinh tế, sinh động đúng cử chỉ, lời ăn, tiếng nói của nhân vật, đặc biệt với thể ký chân dung, gương người tốt, việc tốt còn nhờ ở tài quan sát của chính người viết...
Lời dạy tiền nhân
Khổng Tử (người nước Lỗ, 551 - 479 Trước Công nguyên) cả đời chăm lo đạo đức làm nền tảng của xã hội, nói: “Biết người” là khâu quan trọng trong đạo xử thế. Vậy phải làm thế nào để hiểu được người khác? Điều quan trọng là phải biết quan sát! Có ba việc phải lưu ý: 1- Xem người đó làm gì. Tức là quan sát cái bên ngoài. 2- Xem cái động cơ của lời nói, việc làm. Tức là nghĩ tới cái bên trong. 3- Xem thái độ ngôn và hành của người đó, có vẻ gì là lo lắng suy nghĩ không. Tức là xem cái thần sắc của người đó. Quan sát từ đầu đến cuối, từ ngoài đến trong, thì liệu người đó còn che đậy được gì nữa đây?1.
___________
1. Xem Hồ Văn Phi: Đàm đạo với Khổng Tử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, tr.208.
48 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
Bác Hồ dạy: “Người viết báo phải viết đúng sự thật, có thế nào viết thế ấy. Viết biểu dương cũng như viết phê bình phải chân thành, đúng đắn. Thái độ phải rõ ràng trong khen, chê. Lập trường phải vững vàng”1. Người đặc biệt nhắc nhở: Phê bình phải đúng đắn, thật thà, chân thành. Nêu cái hay, cái tốt, thì phải có chừng mực, chớ phóng đại. Có thế nào nói thế ấy. Muốn thế, nhà báo phải có tài liệu, tư liệu... Muốn có tài liệu thì phải tìm, tức là phải quan sát. Bác mách bảo:
1- Nghe: Lắng tai nghe cán bộ, nghe các chiến sĩ, nghe đồng bào để lấy tài liệu mà viết.
2- Hỏi: Hỏi những người đi xa về, hỏi nhân dân, hỏi bộ đội những việc, những tình hình ở các nơi.
3- Thấy: Mình phải đi đến, xem xét mà thấy. Cụ thể, sâu sát thực tế.
4- Xem: Xem báo chí, xem sách vở. Xem báo chí trong nước, xem báo chí nước ngoài... Muốn có nhiều tài liệu thì phải xem cho rộng. 5- Ghi: Ghi những cái gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã đọc được thì chép lấy để dùng mà viết... Tìm tài liệu cũng như các công việc khác, phải chịu khó2.
Đương nhiên, bài báo hay trước tiên phụ thuộc vào chủ đề. Sự độc đáo của chủ đề là phẩm chất hay của bài viết, khiến người đọc cảm thấy không đọc ở nơi nào khác được. Bài báo tốt là nhờ phát hiện vấn đề chính xác, viết hấp dẫn, bổ ích, thiết thực. Tài quan sát phải được coi là đức hạnh, là phẩm chất làm người. Sách Nghiệp vụ báo chí của Hội Nhà báo Việt Nam từng viện dẫn tài nhìn người của Hoàng hậu ở nước nọ khi chọn vợ cho con là Đại Quận Công. Đại thể, theo yêu cầu, một hôm những người giúp việc đưa tới ba ___________
1, 2. Cách viết, Hội những người viết báo Việt Nam xuất bản năm 1955, in lại trong tập Báo chí mấy thể loại thông dụng, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 49
cô gái trẻ, đẹp trên cùng một chiếc xe. Ngồi trong nhà, qua ô cửa quan sát, Hoàng hậu thấy: Cô Cả nhảy tót qua cửa xe để xuống; bà thầm nghĩ cô này lẳng lơ! Cô Hai dáng vẻ vênh vang; bà thầm nghĩ cô Hai kiêu kỳ, hướng ngoại! Khi ấy, cô Ba không có vẻ đẹp sắc nước hương trời như cô Cả, cô Hai, nhưng từ tốn, khoan thai bước xuống; bà thốt ra lời: Cô Ba khiêm nhường, hướng nội, hiền thảo!... Đó là cách quan sát mang tính nhân tướng học, theo quan niệm nhìn người của một tầng lớp xã hội.
Con mắt tinh tường
Với nghề báo, cho dù thời gian cách xa ta cả nhiều ngàn năm thì nghệ thuật “biết người”, quan sát để chọn người của Khổng Tử vẫn rất bổ ích cho mỗi người làm báo. Quan sát cái bên ngoài; nghĩ cái bên trong; xem cái thần sắc của con người để hiểu thấu đáo về nhân vật, thật sự thiết thực để nhà báo thể hiện nhân vật qua ngôn từ thuật, tả cử chỉ, hành động; tâm đức, bản tính của nhân vật sát thực, trung thực, khách quan; không phỏng đoán, suy diễn, đặt điều cho nhân vật. Không Tử còn nói, cần quan sát cái bên ngoài đối với những người có hoàn cảnh khác nhau: “Láng giềng của người đó. Bè bạn của họ là ai. Cử chỉ của những người thành đạt. Việc mà người cùng khổ không làm. Cái mà người nghèo không nhận”. “Biết người biết mặt khó biết lòng. Như vậy phải mất công mất sức, phải thận trọng tỉ mỉ, phải biết quan sát tinh tế... Phải có quan điểm độc lập khi quan sát. Không bị người khác lôi kéo. Người bị người khác ghét bỏ, ta quan sát tỉ mỉ; người được người khác hoan nghênh, ta càng phải quan sát kỹ càng... Nếu được người hiền đức khen ngợi mới là người tốt; còn người tà ác nói tốt thì không thể tốt được”. “Nghĩa là tin người nhưng không tin mù quáng. Phải biết kết hợp với sự quan sát tỉ mỉ của mình”. “Kiến thức sâu sắc khi quan sát một người thì không được phỏng đoán tùy tiện, nhưng lại phải quan sát ngay được cái
50 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
thiện, cái ác của người đó... Quan sát cái sai của một người là để hiểu về người đó... Sai lầm của con người có nhiều loại. Quan sát sai lầm của một người thì biết người đó là loại người nào”1.
Thiên chức của nhà báo là thông tin. Trước nhất, phải giúp người đọc hiểu đúng, hiểu đầy đủ vấn đề mình viết. Bởi vậy, hơn ai hết, báo chí và nhà báo phải luôn học hỏi tiền nhân, thấm sâu những lời dạy của Bác kính yêu: “Nhiệm vụ của tờ báo là: Tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức nhân dân để đưa dân chúng đến mục đích chung... Nhà báo phải đi sâu vào thực tế, gắn bó với thực tế. Phải biết lãnh đạo dư luận. Nghĩa là báo chí phải hướng dẫn dư luận, định hướng dư luận xã hội lành mạnh, định hướng hành động cách mạng cho quần chúng”2 (Trích Thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng, tháng 5/1949 của Hồ Chủ tịch). Người nhắc nhở: Nhà báo phải cổ vũ nhân tố mới bằng cách viết cho hay, viết cho chân thật và hùng hồn. Bác coi chân thật là nguyên tắc của báo chí. Cho nên báo chí phải phản ánh đúng sự thật, chống giả dối. “Chống làm láo báo cáo hay”! Cho nên chúng ta phải hết sức coi trọng khâu lấy tài liệu (nghe, hỏi, thấy, xem, ghi); luôn sâu sát thực tế, chịu khó khai thác tài liệu. Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa rõ thì chớ nói, chớ viết. Điều này thật vô cùng quan trọng khi mà hiện nay thông tin mạng xã hội đang lấn lướt, thật giả lẫn lộn... Nhà báo viết để cổ vũ dân chúng noi gương, nên theo Bác là: Phải viết cho hay, cho văn chương... Thấy hay, thấy lạ, thấy văn chương thì người ta mới đọc.
Lời tiền nhân thật hữu ích; chẳng khi nào cũ với nghề báo, với mỗi người làm báo, nhất là khi viết bài xoay quanh chủ đề nêu gương người tốt, việc tốt.
Tạp chí Người làm báo, tháng 9/2018.
___________
1. Xem Hồ Văn Phi: Đàm đạo với Khổng Tử, Sđd, tr.209-212.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.102-103.
51
LÀM BÁO LÀ LÀM CÁCH MẠNG
L
ịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và lịch sử báo chí Việt Nam nói riêng sẽ mãi mãi ghi nhớ chặng đường đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh) từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Suốt chặng đường dài của tuổi thanh niên, bôn ba qua nhiều châu lục, tìm hiểu về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và từng “cùng khổ” với các dân tộc bị áp bức, bóc lột, rồi được đánh thức từ bản Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, trên báo l’Humanité năm 1920, Người đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.
Bắt đầu từ đây, Người đã chú tâm tìm mọi cách đưa tư tưởng cách mạng vô sản về Việt Nam. Người xác định phương tiện tốt nhất để giáo dục, truyền đạt, bồi dưỡng tư tưởng cách mạng vô sản, để vận động cách mạng tốt nhất và trước hết là báo chí, là tờ
báo của người Việt Nam, viết cho người Việt Nam, phục vụ người Việt Nam. Cũng vì vậy, ngay khi từ Liên Xô trở về phương Đông, đầu năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), cùng với việc bắt tay vào thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, biên soạn tài liệu, mở lớp đào tạo thanh niên, Người cũng đồng thời sáng lập ra tờ báo Thanh niên. Đó là tờ báo cách mạng đầu tiên, tờ báo vô sản
52 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
đầu tiên của người Việt Nam, xuất bản số đầu tiên vào ngày 21/6/1925.
Báo Thanh niên là tờ báo cách mạng mẫu mực, mở đầu cho nền báo chí cách mạng Việt Nam, bởi lẽ: Tờ báo đã thực sự đảm trách vai trò là cơ quan ngôn luận của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đối tượng tuyên truyền của tờ báo tập trung vận động những đồng chí thành viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và những thanh niên yêu nước. Tôn chỉ nhất quán, cương lĩnh tuyên truyền nhất quán là “cách mệnh”. Muốn sống thì phải làm cách mệnh. Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng. Công nông là gốc cách mệnh. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy... Tờ báo cũng xác định rõ, mục đích của cách mệnh là: Làm cho dân mình tự do, độc lập. Con đường của cách mạng được lựa chọn là: Con đường của Cách mạng tháng Mười Nga, con đường của Lênin vĩ đại. Đối tượng của cách mạng phải đánh đổ là bọn đế quốc xâm lược nước ta và bọn vua chúa quan lại làm tay sai cho chúng; và, mục đích là đánh thực dân xâm lược, nếu ai mà thân bọn thực dân xâm lược là cừu địch của mình. Cơ sở và lực lượng của cách mạng là: cách mạng phải lấy dân chúng làm cơ sở, vì cách mạng là cốt mưu lợi cho dân chúng chứ không phải là mưu lợi cho mấy người cầm đầu; và ngọn cờ tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi triệt để phải có sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân Việt Nam...
Nhất quán với tôn chỉ, mục đích cách mạng, nhất quán với đối tượng tuyên truyền, vận động cách mạng, tuân theo tư tưởng chỉ dẫn của Người, dựa vào cương lĩnh bước đầu là “Đường cách mệnh” và tổ chức nòng cốt là Việt Nam cách mạng Thanh niên, báo Thanh niên ở thời điểm đó đã đạt được những hiệu quả lớn lao: Đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; góp phần rất tích
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 53
cực đưa tới sự ra đời của ba tổ chức đảng trong nước là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Nhờ đó, đến ngày 03/02/1930, dưới sự chủ trì của Người, các tổ chức trên đã họp lại, hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau đó là Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể khẳng định, ý nghĩa lớn lao nhất của những năm 1920 này là sự ra đời, hiện diện của báo Thanh niên. Dù chỉ tồn tại trong hơn hai năm hoạt động, nhưng tờ
báo đã thực sự nêu cao ngọn cờ tuyên truyền, cổ động và tổ chức cách mạng trong nước. Vai trò của báo chí cách mạng được xác lập như một yếu tố tất yếu để vận động đối tượng của cách mạng, để hướng tới yêu cầu cấp bách lúc đó là xây dựng và thành lập Đảng.
Theo dòng thời cuộc, Đảng và Bác Hồ kính yêu đã không ngừng hình thành, bổ sung nhận thức mới, phát triển, hoàn chỉnh các quan điểm cơ bản về bản chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc và hiệu quả hoạt động của báo chí cách mạng. Đấy là lời dạy của Bác tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam (năm 1959) về trách nhiệm của Hội: “Đó là một tổ chức chính trị và nghiệp vụ. Nhiệm vụ của Hội là phải làm cho hội viên đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ nhau để nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ”1. Và, vai trò của báo chí được luật pháp của Nhà nước ta ghi nhận (tại Điều 1, Luật báo chí năm 1990: “Vai trò, chức năng của báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân”. Đấy còn là Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 17/10/1997 của Bộ Chính trị về công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.166.
54 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
về nguyên tắc hoạt động của báo chí: “Phải đảm bảo tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân văn, tính chiến đấu và tính đa dạng, có trách nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân dân”.
Quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua việc sáng lập và giữ vững tôn chỉ, mục đích hoạt động của báo Thanh niên như ngọn đuốc mãi mãi soi sáng cho báo chí cách mạng Việt Nam. Ngày nay cả nước ta đã có tới trên 500 tờ báo và tạp chí cùng với hàng trăm cơ quan báo nói, báo hình, báo điện tử; chủ thể trực tiếp sáng tạo nên những sản phẩm báo chí kể trên là hơn 10.000 nhà báo, luôn ý thức với công việc của mình theo quan điểm của Người: Làm báo là làm cách mạng - Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cũng còn vì lẽ kế thừa tư tưởng của Người, trong suốt quá trình vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi báo chí là công cụ, là vũ khí sắc bén của Đảng, góp sức đặc biệt quan trọng trong từng thời kỳ cách mạng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh giành chính quyền và vận động quần chúng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, xây dựng đất nước.
Báo chí Việt Nam đã thực sự là công cụ sắc bén về tư tưởng và văn hóa của Đảng và Nhà nước, của các đoàn thể chính trị, xã hội; là diễn đàn của nhân dân, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Nhà nước, giữ vững tôn chỉ, mục đích của báo chí, giữ vững định hướng tuyên truyền; làm tốt việc động viên, cổ vũ phong trào hành động cách mạng của các tầng lớp nhân dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; kịp thời đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, phản động, những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tham gia mạnh mẽ vào cuộc đấu tranh
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 55
chống tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội; góp phần tích cực thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam!
Trích trong sách Báo chí - Mấy thể loại thông dụng,
Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004.
56
NHÀ BÁO LÀ CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG B
áo chí là một nghề - nghề không mấy dễ dàng. Điều ấy đã được thực tế khẳng định. Song điểm tựa nào, xuất phát từ đâu để nhà báo có thể vượt lên, để thực sự là nhà chính trị, thực sự là
chiến sĩ cách mạng, thì chính quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy của báo chí cách mạng Việt Nam - đã chỉ cho cán bộ báo chí của chúng ta cả một phương hướng để suy nghĩ, nhìn nhận, xem xét, để hành nghề: “... những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng”1 (Bài của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam (ngày 16/4/1959). Tới Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam (tháng 9/1962), Người lại dạy: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa, chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động”2. Với nhà báo, người trực tiếp tạo ra sản phẩm báo chí, Người căn dặn phải xác định rõ trách nhiệm trước khi sáng tạo ra ___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.166; t.13, tr.466.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 57
sản phẩm, phải tự vấn mình là: Viết cho ai? Viết để làm gì? Và viết như thế nào?. Người đặc biệt nhắc nhở báo chí và nhà báo phải chú trọng tuyên truyền điển hình: “Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau, đó chính là một cách tuyên truyền giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin thiết thực nhất”1. “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”2. Người chỉ bảo cặn kẽ cho cán bộ làm công tác tuyên truyền “Một người phải biết học nhiều người. Hơn nữa, cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi... phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi cát, tre gỗ... mà xây nên. Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người. Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn. Đó cũng là cách thực hành đường lối quần chúng trong công tác giáo dục”3.
Quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về báo chí còn thể hiện rõ ràng rằng, báo chí cũng là vũ khí, là phương tiện để phê bình và tự phê bình rất lợi hại. Người quan niệm, phê bình là để cho nhau tiến bộ, để tốt hơn lên, đẹp hơn lên: “Dao có mài mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch. Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”4. Người nhắc nhở, khi phê bình công khai trên báo chí, nên tránh: “Đao to búa lớn, có bé xé ra to, hoặc lợi dụng tự phê bình và phê bình để hạ bệ nhau, mạt sát ___________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.669, 663, 665.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.80.
58 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
nhau”. Người gọi đó là kiểu phê bình không nghiêm chỉnh, không có tinh thần phụ trách, không trị bệnh cứu người... Bác của chúng ta là một nhà báo vĩ đại, một nhà báo đích thực, sắc sảo. Trong tư tưởng và tiềm thức của Người, làm báo đồng nghĩa với làm cách mạng. Từ tuổi thành niên, rời xa quê hương đặt chân lên đất người ở xứ trời Âu để tìm đường cứu nước, Người đã là một tấm gương về phong cách làm báo Hồ Chí Minh vì cách mạng, vì độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc: miệt mài học tập, chau chuốt ngôn từ, tập viết từ những dòng tin vắn để rồi thành thạo trong công việc làm báo, để lại cho đời hàng ngàn tác phẩm báo chí cùng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại, khai sáng cho non sông, đất nước Việt Nam ta.
Tiếp thu di sản tư tưởng quý giá ấy, suốt lịch trình của cách mạng trong mọi thời kỳ, mỗi khi ra chỉ thị, nghị quyết về công tác báo chí, bao giờ Đảng và Nhà nước ta cũng chỉ rõ trách nhiệm của nhà báo: cần coi trọng việc nâng cao chất lượng thông tin đại chúng; chất lượng chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng khoa học. Những yếu tố này lại phụ thuộc vào đội ngũ báo chí, chủ thể trong hoạt động báo chí... Chất lượng nhà báo bao gồm nhiều mặt: từ vốn kiến thức chung và kiến thức chuyên môn, năng lực nghiệp vụ, khả năng nhanh chóng nắm bắt tình hình và định hướng đúng đắn suy nghĩ cho đến đạo đức, tác phong và phẩm chất chính trị... Tại Đại hội VI, Hội Nhà báo Việt Nam, Tổng Bí thư Đỗ Mười nhắc nhở: Trách nhiệm hàng đầu của nhà báo Việt Nam ngày nay là trung thành với nhân dân, phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào. Mọi thông tin, nghị luận và hành vi của nhà báo đều phải thể hiện đầy đủ trách nhiệm cao cả ấy...
Như vậy, làm báo không đơn thuần là một nghề mà trước hết là một trách nhiệm xã hội quan trọng. Người làm báo không chỉ
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 59
đơn thuần là một nhà bình luận trung lập, đứng ngoài các cuộc đấu tranh xã hội hằng ngày, mà phải là một thành viên hữu cơ của xã hội. Nhà báo vừa phản ánh thực tiễn, vừa phải góp phần cải tạo thực tiễn, vừa thông tin, vừa hướng dẫn dư luận xã hội. Vẫn biết báo chí là một nghề nghiệt ngã, là nghề thống khổ suốt ngày, suốt đêm; lao động báo chí là loại lao động dưới dạng khoa học, mang tính khám phá, sáng tạo, một loại lao động đôi khi phải đánh đổi bằng cả cuộc đời. Cũng còn vì lẽ nhà báo phải tuyệt đối tuân thủ quy tắc nghề nghiệp, không nói dối, không nói sai, phải chịu trách nhiệm trước xã hội về những điều mình loan tin... Cho nên, học tập quan điểm, tư tưởng báo chí cách mạng và phong cách làm báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là yêu cầu bắt buộc đối với các nhà báo chúng ta. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã viết tới trên 2.000 bài báo (mỗi năm trên 40 bài). Toàn bộ các bài viết của Người đều nhất quán trong tôn chỉ, mục đích, quan điểm chính trị, nhưng phong cách biểu hiện lại rất độc đáo, đa dạng. Hoạt động báo chí của Người đã thực sự tác động sâu sắc đến cách mạng, thức tỉnh lòng yêu nước, thương dân, thôi thúc mọi người đoàn kết chống ngoại xâm, chống bất công xã hội... Người dạy các nhà báo chúng ta, mỗi khi đặt bút viết phải tự vấn: viết cho ai, viết để làm gì... và, chính Người đã tự vấn mình như thế, nên trong suốt tiến trình cách mạng, chống thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mỹ mỗi bài báo của Người (dưới rất nhiều bút danh) đều hướng tới một mục tiêu duy nhất là: Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan điểm nhất quán ấy đã tạo nên phong cách báo chí Hồ Chí Minh: sâu sắc về lý luận, phong phú về cứ liệu và lại có sự kết hợp hài hòa giữa tính hiện đại với truyền thống, giữa vốn tri thức rộng lớn với bản sắc văn hóa dân tộc, rất Việt Nam.
Quan điểm tư tưởng và phong cách báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc dẫn đường cho nhà báo
60 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
chúng ta, giúp chúng ta có hướng vươn tới mãi mãi xứng với danh hiệu mà Người ban cho: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng”.
Trích trong sách Báo chí - Mấy thể loại thông dụng,
Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004.
61
NHÀ BÁO VỚI GƯƠNG NGƯỜI TỐT V
ấn đề biểu dương những người tốt, việc làm tốt trong xã hội ta đã được đặt ra từ rất sớm, có thể nói đã được manh nha từ trong thành ngữ, ca dao, tục ngữ, kể cả các câu chuyện cổ, nhưng nó chỉ thực sự trở thành phương tiện khi Nho học chiếm dần vị trí độc tôn, khi các nhà nho tỏ ra nhiệt tâm nêu gương nhị thập tứ hiếu (hai mươi bốn gương hiếu đễ), những gương “cổ học tinh hoa”, những gương tiết hạnh (dành cho phụ nữ)... Nhưng ý tưởng chính trị - xã hội này chỉ trở thành mục đích sâu rộng, có ý nghĩa cách mạng khi chế độ xã hội chủ nghĩa được xác lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sinh thời, Bác Hồ của chúng ta rất quan tâm đến vấn đề biểu dương người tốt, việc tốt. Người đã khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”1. Người nhắc nhở: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi cát, tre gỗ... mà xây nên. Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người”2. Quan điểm của Người vừa là sự kế thừa những nhân tố tích cực trong tư tưởng của lớp người trước vừa là sự nâng cao tầm cỡ, vị trí của con người xã hội chủ nghĩa - đó là con người phát triển toàn diện, vừa hồng, vừa chuyên. Chủ nghĩa xã hội - một ___________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.222; t.15, tr.665.
62 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
danh từ, là mục đích cao cả của toàn Đảng, toàn dân ta; còn xã hội chủ nghĩa là một tính từ chỉ phẩm chất mà người theo chủ nghĩa xã hội cần phải có. Chỉ có mẫu người như thế mới đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, của những nhiệm vụ chính trị đang đặt ra trước mắt chúng ta.
Ngay từ những năm 50 thế kỷ XX, trong không khí hòa bình được lập lại ở miền Bắc, Bác Hồ đã yêu cầu các báo đảng và các đoàn thể mở mục “Người mới, việc mới” song song với phong trào thi đua ở các cấp, các ngành. Ngay sau đó, nhiều tờ báo đã sớm ra các chuyên mục: Người mẫu mực, sự việc mẫu mực; Người kiểu mẫu, việc kiểu mẫu; Gương trong; Người thật, việc thật; Việc nhỏ, nghĩa lớn... Điều đáng mừng là việc tặng “Huy hiệu Bác Hồ” cho những cá nhân, những điển hình tiên tiến đã sớm trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội ta. Cuối năm 1960, Bác yêu cầu nên gọi là “Người tốt, việc tốt”. Tháng 6/1968, Bác đã có cuộc làm việc với cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương về việc xuất bản sách về gương người tốt, việc tốt. Từ đó cho thấy, trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Bác luôn quan tâm đến vấn đề biểu dương kịp thời và nhân rộng những gương người tốt, việc tốt, và Người đã coi đó là một trong những phương pháp lãnh đạo và giáo dục quần chúng thiết thực nhất và có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, Bác cũng nhắc nhở báo giới cần phân biệt rõ: một là gương những anh hùng, chiến sĩ thi đua - những tấm gương sáng chói, tiêu biểu, xuất hiện ngày càng nhiều trong sản xuất và trong chiến đấu, nhưng không phải ai cũng dễ dàng làm theo; hai là những tấm gương lao động bình dị, những việc làm tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn, ra ngõ là gặp, ai ai cũng có thể làm theo. Người tốt, việc tốt chính là loại người thứ hai này. Không phải ngẫu nhiên Người lại ví: Mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả
dân tộc ta là một rừng hoa đẹp!
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 63
Cũng chính trong cuộc gặp gỡ các cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng ngày ấy, Bác đã lưu ý chúng ta: “Những chiến công và thành tích nổi bật, vang dội thì ai cũng có thể thấy được. Còn những việc nhỏ, bình thường thôi, nhưng ích nước lợi dân thì hay bị xem thường”1.
Vừa là lời phê bình nhẹ nhàng, vừa là sự gợi ý cách làm báo, cách tuyên truyền, cách lãnh đạo quần chúng. Quan điểm của Bác rất rõ ràng: muốn giáo dục quần chúng, muốn lôi kéo được quần chúng đi theo cách mạng thì người cách mạng không thể cứ lý thuyết suông, dùng đường lối hoặc bằng pháp luật, mà phải bằng phương pháp thiết thực nhất, ấy là nêu gương người tốt, việc tốt, mắt thấy, tai nghe, ai cũng gặp, rất gần gũi, rất dễ làm theo. Đảng muốn lãnh đạo cách mạng thì phải kịp thời nắm được và phát huy tốt thế mạnh này. Người chỉ ra: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở
đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có!... ”2. Phát hiện và nêu gương người tốt, việc tốt đã trở thành vấn đề bức xúc trong suy nghĩ của Người: “Lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách làm tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”3; “Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau, đó chính là cách tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin thiết thực nhất!”4. Vậy, bổn phận của nhà báo là thế nào và chúng ta đã làm được những gì và làm ra sao? Hàng loạt sách về gương người tốt, việc tốt được xuất bản, khổ nhỏ có thể bỏ túi dễ
dàng, giá bán phải chăng đã được đưa đến tận tay người lao động bình thường. Nhưng đáng tiếc là có những lúc chúng ta đã xao lãng, nhất là trong cơ chế thị trường, khi mà báo chí và xuất bản ___________
1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.663, 663, 672, 669.
64 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
đang bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về nhận thức tư tưởng. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề nóng bỏng này. Từ nhận thức đến phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền, quảng bá, nhân rộng những gương người tốt, việc tốt là cả một quá trình không ngừng rèn luyện, phấn đấu mà báo giới chúng ta không thể xem nhẹ; thực hiện đúng và tốt nhất chức năng đó chính là góp phần xây dựng nền tảng vững chắc cho xã hội tốt đẹp của chúng ta. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, Đài Phát thanh - Truyền hình Việt Nam, báo Hà Nội Mới, Nhân Dân, Quân đội nhân dân... đều có chuyên mục “Người tốt, việc tốt”. Nhiều quận trong thành phố Hà Nội cũng như một số tỉnh, thành khác đã có sự đầu tư đáng kể vào việc tuyên truyền, cổ vũ và nhân rộng những gương người tốt, việc tốt. Nếu như trong sản xuất nông nghiệp, người nông dân đã sử dụng nhiều phương tiện, từ thô sơ đến hiện đại, từ cái gầu sòng, gầu dai, đến cái máy bơm nước... từ con trâu, cái cày đến cái máy gặt, đập tuốt lúa... để làm ra hạt thóc thì việc tuyên truyền người tốt, việc tốt cũng đã xuất hiện với rất nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Đó là câu thơ, bài vè, diễn ca, những bài viết ngắn gọn vài trăm chữ, những truyện tranh thậm chí cả những bút ký, phóng sự. Những thể loại dân gian này như là những vũ khí thô sơ nhưng rất giàu tính năng và hiệu quả đạt được khá cao, tác dụng giáo dục, tuyên truyền rất mạnh, chẳng kém gì những bài thơ hay, những áng văn có giá trị. Đây cũng chính là quan điểm quần chúng trong báo chí cách mạng mà Đảng và Bác luôn luôn chăm lo cho báo giới chúng ta.
Tất nhiên, đã nói đến người tốt, việc tốt, tức là nói đến người thật, việc thật. Bản chất của người làm báo cách mạng là phải trung thực. Với người tốt, việc tốt, yếu tố trung thực càng phải được đề lên hàng đầu, nếu không sẽ mất đi lòng tin của quần
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 65
chúng, làm giảm uy tín của báo chí cách mạng. Bác đã nhắc nhở chúng ta: “Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ đảng viên mà giáo dục lẫn nhau” - chữ có thật ở đây xin được viết nghiêng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” được ban hành đã đặt thêm một trách nhiệm lớn lao cho giới báo chí nói chung và cho mỗi nhà báo nói riêng. Khái niệm người tốt, việc tốt được mở ra cả bề rộng lẫn chiều sâu, cả đề tài lẫn hình thức thể hiện. Con người tốt hôm nay không chỉ có đức hy sinh tận tụy phục vụ nhân dân và Tổ quốc mà phải có hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, biết làm nên sự nghiệp từ bàn tay và trí óc của mình, cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước. Nét đặc trưng căn bản của người tốt, việc tốt mà báo chí ta nêu gương là yêu nước và tiến bộ, “người tiên tiến, việc tiên tiến, biện pháp tiên tiến”. Nguồn lực con người, sức sáng tạo từ con người có vai trò quyết định làm cho đất nước trở nên phồn thịnh. Bởi thế một trong những thước đo giá trị thông tin, số lượng thông tin của mỗi tờ báo, tạp chí ngày nay còn ở chỗ đã phát hiện, tuyên truyền nhân tố mới, con người mới, điển hình tiên tiến mức độ nào. Điều này càng phải được ăn sâu vào tiềm thức của các nhà báo chúng ta.
Trích trong sách Báo chí - Mấy thể loại thông dụng,
Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004.
66
PHÊ BÌNH VÀ TỰ PHÊ BÌNH
C
hủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cách mạng kiên cường đã dành cả cuộc đời cho dân tộc được tự do, độc lập; cho
nhân dân được ấm no, hạnh phúc; cho người tốt, việc tốt bừng nở như hoa mùa xuân, cho nên Người rất kiên trì giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền. Người đòi hỏi gắt gao ở họ phải biết phê bình và tự phê bình để gạt bỏ cái xấu, cái ác, cái gian tà. Người xem phê bình và tự phê bình như một trong những nguyên tắc để xây dựng Đảng, xây dựng đạo đức mới. Theo Người, đạo đức cao nhất của người cán bộ, đảng viên là: “Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.
Người chỉ rõ: Những ai làm hại đến tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và Nhà nước thì dù chức vị gì vẫn phải đem ra xét xử theo đúng pháp luật! Người cho rằng: Tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm” - giặc ở trong lòng! Theo ý Người, loại giặc này làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như Việt gian, mật thám.
Người vạch rõ nguồn lạch của thứ “giặc nội xâm” ấy là: Do cán bộ lãnh đạo quan liêu, “... không sát sao công việc, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức... Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn... thành thử có mắt mà
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 67
không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí”1. Người cũng cho rằng: “Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi, v.v. mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”2. Trong bài “Tự phê bình”, Người chỉ rõ, vũ khí sắc bén để chống lại thứ “giặc nội xâm” ấy không gì khác, chính là “tự phê bình”. Người viết:
“Dao có mài, mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch. Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”3. Người cặn kẽ giải thích: Tự phê bình là thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa... Nó như cơm ăn, nước uống, như rửa mặt hằng ngày... Điều đó nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Khó là vì người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị. Người chỉ ra ích lợi tự phê bình, là thứ vũ khí sắc bén nhất của cách mạng. “Thật thà tự phê bình chẳng những giúp cho mình sửa chữa, giúp cho mình tiến bộ, mà còn giúp cho người khác biết để mà tránh”4. Muốn thế, việc tự phê bình phải được tiến hành một cách nghiêm túc, chống thói qua loa, đại khái, hình thức... ngại động chạm, ngại phê bình. Người khẳng định: “Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích”, rằng: Phải bỏ hẳn thái độ “xong việc thì thôi”. Không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được (bài đăng trên báo Cứu quốc, số 51, ngày 26/9/1945). Quan điểm, tư tưởng của Người trong tự phê bình và phê bình được rọi sáng như ___________
1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.357; t.5, tr.278; t.7, tr.80; t.7, tr.81.
68 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
một phương châm, một nguyên tắc để xây dựng Đảng, xây dựng đạo đức mới ngày một tốt đẹp hơn...
Người cho rằng, cùng với phê bình nội bộ còn phải công khai phê bình trên báo chí. Người cho đó là sự hiệu nghiệm như “thuốc đắng dã tật”. Chính vì vậy, Người đã gay gắt phê phán những ai cho rằng phê bình công khai trên báo chí là có hại; kẻ địch sẽ lợi dụng, là làm giảm uy tín của chính quyền, đoàn thể; làm mất thể diện cán bộ... chỉ là sự lầm tưởng, là ốm mà sợ thuốc... Những ai sợ phê bình công khai thì không xứng đáng là cán bộ, là cách “người ốm giấu bệnh”.
Tư tưởng cao đẹp ấy còn được Người triển khai qua bài phát biểu tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam (ngày 08/9/1962): “... Phê bình và tự phê bình là vũ khí rất cần thiết và rất sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm. Vì khéo lợi dụng nó mà Đảng ta và dân ta ngày càng tiến bộ. Đối với báo chí cũng vậy. Phê bình phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách mách có chứng. Phải phê bình với tinh thần thành khẩn, xây dựng “trị bệnh cứu người”. Chớ phê bình lung tung không chịu trách nhiệm”1. Xuất phát từ quan điểm này, Người đã viết nhiều bài phê bình trên báo, dưới nhiều bút danh khác nhau. Chính Người đã yêu cầu các báo phải mở mục “Hoan nghênh bạn đọc phê bình báo”. Và, tự tay Người đã sửa chữa lại cách dùng câu, dùng từ, thậm chí cả cách bố cục, trình bày một bài báo, một trang báo của rất nhiều tờ báo địa phương và Trung ương (cho dù tờ báo đó đã phát hành). Về thái độ của người phê bình và được phê bình (kể cả cá nhân và tập thể), Người nhắc nhở: “... Những người (bất kỳ ở địa vị nào) và những cơ quan được phê bình phải có thái độ thật thà, khiêm tốn. Phê bình đúng, thì phải đăng báo nhận khuyết ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.464.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 69
điểm và quyết tâm sửa chữa. Nếu phê bình sai, thì đăng báo giải thích. Quyết không được “phớt” lời phê bình và “trù” người phê bình. Có một vài cán bộ và cơ quan, vì sợ phê bình mà chẳng những không giúp đỡ người viết báo lại còn có thái độ không tốt với họ, thậm chí đi kiện họ trước tòa án. Những hành động như
vậy phải chấm dứt. Mặt khác, các báo cũng cần khuyến khích quần chúng giúp ý kiến và phê bình báo mình để tiến bộ mãi”1!... Tuy nhiên, Người cũng đề phòng khuynh hướng sai lệch khi phê bình công khai trên báo chí. Đó là khuynh hướng “đao to búa lớn, có bé xé ra to”, hoặc lợi dụng phê bình để hạ bệ nhau, mạt sát nhau. Người cho đó là “kiểu phê bình không nghiêm chỉnh, không có tinh thần phụ trách, không phải trị bệnh cứu người”. Khi báo chí đã phê bình, Người yêu cầu: phải xử lý ngay, chống “đánh trống bỏ dùi”.
Thấm nhuần tư tưởng cao đẹp của Người về đấu tranh phê bình và tự phê bình; tuân thủ định hướng của Đảng, báo chí đã góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh xây dựng xã hội mới, phanh phui trước công luận nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng, vi phạm nghiêm trọng luật pháp... Song cũng thật đáng tiếc, không ít trường hợp lợi dụng danh nghĩa “nhà báo” để tư lợi, cá nhân, cục bộ, thậm chí vì chiếc “phong bao, phong bì” mà cố tình nói dối, nói sai; thông tin theo kiểu “hù dọa”, “chộp giật”, hoặc để kẻ xấu, phần tử xấu, cơ hội lợi dụng làm nhiễu thông tin, làm phương hại tới vai trò của báo chí, tới uy tín của nhà báo.
Ôn lại những lời dạy bảo chí thiết, chí tình của Người, chúng ta phải thường xuyên tự rèn mình, tự xét mình, sửa mình phấn đấu trở thành những nhà báo tích cực có thái độ về chính trị, và có trách nhiệm cao cả của một công dân. Rằng, trên phương diện ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.464.
70 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
ngôn luận, trên mặt trận tư tưởng, chức phận cao cả của nhà báo trong đấu tranh phê và tự phê cũng như trong đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực không phải để “phá” mà là để “xây” - xây dựng và bảo vệ đất nước ngày càng tốt đẹp.
Trích trong sách Báo chí - Mấy thể loại thông dụng,
Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004.
T
71
ĐIỂM TỰA TIN YÊU
háng tư. Lúa chiêm vào độ chín. Nao nao nhớ Điềm Mặc - xứ sở an toàn khu (ATK) - thủ phủ kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược; địa danh thành lập Hội Nhà báo Việt Nam thân yêu của chúng ta (ngày 21/4/1950). Nhớ. Bởi, đấy là di tích các nhà báo chiến sĩ tiền bối trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, với nghề nghiệp, lập nên Hội Nhà báo Việt Nam theo chỉ dẫn của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Nhớ. Bởi đó là điểm tựa để chúng ta đi, sáng láng hôm nay, mai sau và mãi mãi!
69 năm qua, những người làm báo có mái ấm ngôi nhà mang tên Hội Nhà Báo Việt Nam nền nếp, gia phong. Ngôi nhà mà vị Cha già dân tộc - Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà báo vĩ đại Hồ Chí Minh răn dạy: “Đó là một tổ chức chính trị và nghiệp vụ. Nhiệm vụ của Hội là phải làm cho hội viên đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ nhau để nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ” (tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam (ngày 17/4/1959). Ngôi nhà mà Người từng tận tình khuyên nhủ con cháu: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ” (tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam (tháng 9/1962).
69 năm qua, những hội viên Hội Nhà báo Việt Nam hăm hở đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng quyết liệt và vẻ vang của Đảng, của dân tộc, anh dũng chiến thắng quân xâm lược thực dân Pháp và Mỹ - ngụy, non sông thu về một mối; đập tan các thế lực xâm lược biên cương Tây Nam, phía Bắc; phá thế bao vây cấm vận
72 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
của các thế lực thù địch; vượt lên chính mình, đổi mới tư duy để xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam rạng ngời hôm nay... Suốt dặm dài oai hùng ấy, những hội viên nhà báo hãnh diện vững bước bởi có một điểm tựa tin yêu: Hội Nhà báo Việt Nam quy tụ
thành khối thống nhất ý chí và hành động, những “nhà báo chiến sĩ” yêu nghề, say nghề, nhất mực thủy chung với Đảng, với nước, với dân. Điểm tựa tin yêu ấy được nhen nhóm, tiếp lửa ngay từ những ngày khởi lập Hội trong thư Bác gửi Lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng tại an toàn khu: 1. Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng, để đưa dân chúng đến mục đích chung; 2. Mục đích là kháng chiến và kiến quốc. Để đi đến kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công”1.
Dấu ấn Hội Nhà báo Việt Nam in đậm mãi trong tâm trí các thế hệ nhà báo, đó là những buổi trao đổi, bồi dưỡng nghiệp vụ ngay tại các tòa soạn, các chi hội nhà báo; là những lớp chuyên sâu nghề nghiệp của Tổ chức quốc tế các nhà báo, Trường báo chí...; là giải báo chí giữa thời kỳ quản lý kinh tế lỗi thời, kẻ thù bao vây cấm vận. “Giải báo chí Bông lúa vàng” do Hội phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đứng ra tổ chức nhằm khích lệ sự phát hiện của nhà báo, sự sáng tạo của nông dân trên mặt trận nông nghiệp, xây dựng nông thôn; khích lệ nhân rộng những điển hình tiên tiến, nhân tố mới, các mô hình hiệu quả kinh tế cao... Những năm đất nước bước vào đổi mới, Giải báo chí của Hội càng thêm nở rộ. Bắt đầu là “Giải Báo chí toàn quốc của Hội Nhà báo Việt Nam” khởi đầu từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX; sau này là nền tảng, căn cốt của “Giải báo chí quốc gia” được tổ chức hơn 10 năm nay. Theo đó là rất nhiều giải báo chí chuyên đề, phối hợp với ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.102.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 73
các bộ, ban, ngành, đoàn thể... góp sức phát hiện, khích lệ, quảng bá, nhân rộng các điển hình tiên tiến tạo nên luồng gió thi đua mạnh mẽ của báo giới từ Trung ương tới các địa phương. Chăm lo “bồi dưỡng chính trị, nghề nghiệp” cùng với Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các khoa đào tạo báo chí khu vực là Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí của Hội Nhà báo Việt Nam ngày một chuyên sâu, hiện đại về phương tiện, gắn lý thuyết với thực hành; là sự năng động của Thường trực Hội, các ban chuyên môn, với những cuộc hội thảo sâu sắc về chính trị, nghề nghiệp, đạo đức, thời cuộc, về trách nhiệm xã hội - nghĩa vụ công dân trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, phương tiện truyền thông, của không gian mạng thời Cách mạng công nghiệp 4.0, bắt nhịp mạnh mẽ với xu thế phát triển hiện đại; thôi thúc những người làm báo luôn luôn sáng tạo, đắm say với nghề.
Tự tin, trách nhiệm, bởi chúng ta luôn được Đảng, Nhà nước và Hội Nhà báo Việt Nam tạo thế, tạo đà trên mỗi bước đường đi. Ngày Báo chí cách mạng ngày 21/6 hằng năm được tổ chức trọng thể nhằm biểu dương vai trò báo chí và nhà báo; tăng cường mối liên hệ mật thiết với công chúng; chí cốt với sự lãnh đạo của Đảng, với truyền thống cách mạng vẻ vang của nghề báo! Tự tin, hãnh diện với “Hội báo tết - báo Xuân” do Hội Nhà báo Việt Nam khởi xướng, vận hành suốt mấy mươi Xuân nay, thành cuộc thi đua làm báo hay, đẹp, đúng, trúng, bản sắc và hiện đại, phấn khởi, tưng bừng từ Trung ương đến địa phương, nay là “Hội báo toàn quốc” thêm đa hình, đa thanh, đa sắc, đậm đà, mới mẻ, sáng tạo, trách nhiệm. Tự hào, với việc lưu giữ quá khứ hiển vinh bằng việc ra đời Bảo tàng Báo chí Việt Nam tôn vinh các thế hệ làm báo, tri ân các nhà báo liệt sĩ, ghi công những nhà báo tài danh, khẳng định vai trò to lớn của báo chí cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tin tưởng, bởi chính tổ chức Hội Nhà
74 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
báo Việt Nam đã định ra danh hiệu “Huy chương vì sự nghiệp Báo chí Việt Nam” nay là “Kỷ niệm chương” ghi nhận, tôn vinh sự đóng góp của nhà báo vào sự nghiệp báo chí cách mạng. Tự tin, bởi suốt dặm trường cách mạng, Hội Nhà báo Việt Nam luôn theo sát cổ vũ, động viên, khích lệ, bồi dưỡng chính trị, nghề nghiệp và đạo đức; ngăn chặn cái hư, cái xấu; bảo vệ cái phải, cái đúng của báo chí,...
Cơ chế kinh tế thị trường, đất nước hội nhập; đồng tiền hiện hai mặt, mà mặt trái như bùa mê tàn phá đạo đức, nhân cách của số ít người có chức có quyền, trong đó có cả nhà báo, khiến lòng tin của công chúng bị suy giảm; bởi thế Hội Nhà báo Việt Nam đã nhanh chóng điều chỉnh từ “Quy ước đạo đức báo chí” gắn kết chặt chẽ với Luật báo chí thành “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo”. Chưa khi nào như lúc này, quy định đạo đức nghề nghiệp được các cấp hội nhà báo đặt ra là tiêu chí cần có trước nhất của mỗi người làm báo, khiến cho những nhà báo chân chính nhận thấy Hội thực sự là điểm tựa, là niềm tin yêu, là nơi để cái đẹp luôn được tôn vinh nhân rộng, cái xấu được ngăn chặn, tẩy rửa. Lẽ sống của nhà báo là thông tin trung thực, đúng quan điểm, đúng đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đạo đức nghề báo thấm đẫm trong cả phong cách ứng xử, phương cách tác nghiệp, tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, loan tin, trong cách thức tham gia mạng xã hội. Đạo đức là gốc chuẩn, là nguồn lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tâm trí để nhà báo hoàn thành sứ mệnh cao cả: Nhà hoạt động chính trị bằng phương tiện báo chí! Cho nên, suốt nhiều thập niên qua, ở đâu, nơi nào các cấp hội nhà báo cũng chú trọng rèn giũa cho hội viên những đức tính, phẩm hạnh căn cốt nhất: tôn trọng sự thật, trung thực, khách quan, nhân văn, trách nhiệm vì lợi ích đất nước và lợi ích chính đáng của nhân dân!
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 75
Đức đạo căn cốt, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân được tôi luyện, thôi thúc khiến cho các hội viên nhà báo dù hoạt động ở lĩnh vực nào, loại hình nào, phương tiện nào, thời nào cũng miệt mài tích tụ kiến thức văn hóa, kiến thức cuộc sống và nghề
nghiệp như lẽ sống ở đời. Luôn dấn mình vào thực tiễn để thông tin giàu sức sống, để tác phẩm có sức lan tỏa và lưu giữ lâu bền với đối tượng bạn đọc, nghe, xem của mình. Chúng ta đã, đang đi trên xa lộ thông tin thênh thang, mênh mang của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Theo đó, nhà báo không chỉ tiếp thu mà còn phải ứng dụng công nghệ thành thạo và sáng tạo. Việc tác nghiệp hôm nay, ngày mai của nhà báo đã và đang khác xưa cả trời cả vực. Dẫu là vậy thì kỹ năng nghề báo và chuẩn mực đạo đức sẽ mãi dẫn chỉ đường đi, đích đến cho các tác phẩm báo chí của nhà báo. Ở đó Hội Nhà báo Việt Nam mãi mãi là điểm tựa tin yêu cho mỗi chúng ta, như những gì chúng ta đã trải nghiệm suốt 69 năm qua!
Báo Nhà báo & Công luận, tháng 4/2019.
76
HỘI CỦA CHÚNG TA
B
iết tôi “thâm niên” nghề báo nên cháu gái tuổi trung niên, níu lại trong khuôn viên sang trọng, hiện đại của Bảo tàng Hà Nội đang diễn ra Hội báo toàn quốc, lời vồn vã:
- Ông ơi! Hội Nhà báo Việt Nam của chúng ta quá tuyệt vời! Tôi hỏi lại:
- Là cháu nói về Hội hay Hội báo toàn quốc năm nay (2018)? Giọng trong veo, cô đáp một thôi một hồi:
- Cháu thấy Hội báo năm nay (2018) quá hoành tráng, đa sắc màu của báo chí, của các phương tiện truyền thông và các thiết bị công nghệ kỹ thuật báo chí hiện đại. Các chương trình giao lưu, tọa đàm, hội thảo quá phong phú, thiết thực bắt nhịp với thời cuộc, thời đại. Cháu vô cùng ấn tượng với các cuộc Tọa đàm: “Báo chí truyền thông với vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội”; “Làm báo trong xu thế Cách mạng công nghiệp 4.0”... Với cháu, Hội Nhà báo Việt Nam của chúng ta là cao sang, đĩnh đạc và uy tín nhất từ xưa tới nay. Càng dày năm tháng thì Hội của chúng ta càng thêm rạng ngời ông ạ!...
Nghĩ cháu là hội viên nhà báo, chí thiết với Hội nên mới dồi dào cảm xúc như thế, tôi hỏi cho ra nhẽ:
- Cháu tên gì? Làm ở báo nào?
- Cô gái cười giòn, lời ùa theo:
- Ông ơi! Cháu đâu có là nhà báo. Cháu là Nga - Nguyễn Ngọc Quỳnh Nga, Giám đốc doanh nghiệp. Mấy năm nay cháu đều đến.
Nhà báo, nhà văn NGUYỄN UYỂN 77
Gặp “người dưng” quá đằm thắm với Hội khiến tôi nao nao nhớ xưa, ngẫm nay với nơi mà cả cuộc đời mình gắn kết... Bấm đốt ngón tay. Vậy là sắp tới ngày kỷ niệm thành lập “Hội Nhà báo Việt Nam - Hội của chúng ta” như cách nói của “người dưng”! Mấy chục năm trước, chúng tôi - những người làm việc ở
Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam - số 59 Lý Thái Tổ, Hà Nội đã dày công cùng cán bộ Hội Nhà báo Thái Nguyên tìm đến xóm Roòng Khoa (nay là xóm Đồng Lá 3), xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa, xưa là rừng xanh núi thẳm, nơi cư trú của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao từng che chở cho Bác Hồ và Trung ương Đảng chỉ huy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp suốt 9 năm, được gọi là An toàn khu (ATK). Gặp nhân chứng là các nhà báo “cây đa cây đề” từng ở ATK như Nguyễn Thành Lê, Quang Đạm, Hoàng Tùng... rồi đến tận địa bàn để tìm chứng tích, để khảo cứu, thấu hiểu lý do thành lập Hội, xác định đúng nơi diễn ra Đại hội lần thứ nhất Hội Nhà báo Việt Nam là ngày 21/4/1950, để dựng Nhà bia di tích, để lập bảo tàng và viết lịch sử Hội. Cho nên tháng năm đi cứ đầy thêm nỗi nhớ. Nơi đây, địa danh nguồn cội tổ chức Hội của chúng ta. Nơi đây, hằng năm, vào ngày 21/4 lại đón hàng chục đoàn nhà báo tỉnh, thành phố, cơ quan cùng hàng trăm hội viên trong Nam, ngoài Bắc tới “ôn cố tri tân”, để xốc lại hành trang cho nghề nghiệp nghiệt ngã nhưng rất đỗi vinh quang của mình. Đến để nhận ra: Năm 1950, sau nhiều năm (kể từ ngày thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ) cuộc kháng chiến chống Pháp đã phát triển mạnh ở mọi miền đất nước, trong đó có sự đóng góp tích cực và quan trọng của báo chí. Đội ngũ làm báo cũng đông lên tới hàng trăm người, số tờ báo cũng nhiều lên xấp xỉ 120 tờ.
78 BÁC HỒ CỦA NHÂN DÂN
Một nét Hội báo toàn quốc năm 2017
Tiêu biểu là các tờ Cứu quốc, Sự thật, Độc lập, Phụ nữ, Lao động, Văn nghệ, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam,... Bởi vậy, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã chỉ đạo cho thành lập tổ chức hội của những người viết báo để đoàn kết, giúp đỡ nhau, phục vụ kháng chiến và cách mạng mạnh mẽ hơn. Đồng chí Xuân Thủy, Chủ nhiệm Báo Cứu quốc, phụ trách Đoàn báo chí kháng chiến (thành lập năm 1948) được Tổng Bí thư Trường Chinh giao đứng ra tổ chức Đại hội thành lập Hội Những người viết báo Việt Nam (nay là Hội Nhà báo Việt Nam). Đại hội diễn ra tại hội trường Mặt trận Liên Việt (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) ở xóm Roòng Khoa vào ngày 21/4/1950. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành gồm 10 nhà báo. Đồng chí Xuân Thủy là Hội trưởng; Phó Hội trưởng là: Hoàng Tùng, Đỗ Đức Dục; Tổng Thư ký là Nguyễn Thành Lê... Vậy là cội rễ Hội của chúng ta là đây và từ đây - dấu mốc quan trọng về bước trưởng thành của báo chí cách mạng Việt Nam lại