🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bà Tổng Thống Trước Họng Súng
Ebooks
Nhóm Zalo
BÀ TỔNG THỐNG TRƯỚC HỌNG SÚNG Tác giả: Jeffrey Archer
Thể loại: Trinh thám - Văn học Dịch giả: Kiều Hòa
Nhà xuất bản: Thanh Niên
Ngày cập nhật: 21/02/2022
ebook: nguyenthanh-cuibap
GIỚI THIỆU
Về tác giả cuốn "Bà tổng thống trước họng súng" (Shall we tell the president)?
J
EFFREY ARCHER là tác giả của nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn bao gồm Hai số phận (Kane và Abel), Kẻ mạo danh (A Prisoner of Birth) và Truyện mèo O ‘Nine (Cat O ‘Nine Tales). Ông cũng là tác giả đã đứng đầu danh sách các tác giả có sách bán chạy nhất trên toàn thế giới, với doanh số sách bán ra đạt hơn 270 triệu bản.
Ông cũng là người duy nhất từng 17 lần giữ vị trí số một trong danh sách các tác giả có sách bán chạy nhất thuộc lĩnh vực tiểu thuyết hư cấu, 4 lần giữ vị trí tác giả có sách bán chạy nhất trong lĩnh vực truyện ngắn và là tác giả có tác phẩm phi hư cấu bán chạy nhất với tác phẩm Nhật ký trong tù-kiếp đọa đày (Prison The Dairies). Tác giả đã kết hôn, có hai con trai. Ông sống ở London và Cambridge.
www.jeffreyarcher.com
Facebook.com/JeffreyArcherAuthor
@Jeffrey_ Archer
VÀI LỜI VỀ ẤN BẢN SỬA ĐỔI CỦA TÁC GIẢ
K
hi bắt đầu đặt bút viết Bà Tổng thống trước họng súng (Shall we tell the President?), tôi đã đặt bối cảnh câu chuyện trong sáu hoặc bảy năm tiếp theo ở tương lai. Thời điểm tương lai đó hiện nay đã lùi vào quá khứ; vì vậy, một
số chi tiết trong câu chuyện đã không còn phù hợp. Cũng chính trong khoảng thời gian đó, tôi đã viết cuốn Đứa con gái hoang đàng (The Prodigal Daughter ), trong đó nhân vật chính Florentyna Kane đã trở thành nữ Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Chi tiết này là tiền đề hợp lý để tôi xây dựng cô ấy thành nhân vật vị Tổng thống hư cấu của mình khi viết lại cuốn tiểu thuyết Bà Tổng thống trước họng súng thay vì giữ nguyên tên tuổi thực của nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết gốc ban đầu - Edward M. Kennedy1*. Chi tiết thay đổi này đã kết nối câu chuyện trong Bà Tổng thống trước họng súng một cách tự nhiên với câu chuyện trong hai cuốn tôi đã viết trước đó Hai số phận và Đứa con gái hoang đàng.
Tôi đã giữ nguyên cốt truyện của tiểu thuyết Bà Tổng thống trước họng súng nhưng đã thay đổi một số chi tiết đáng kể, cũng như điều chỉnh vài chi tiết nhỏ trong ấn bản viết lại và sửa đổi này.
JEFFREY ARCHER
1* Edward Moore “Ted” Kennedy (22 tháng 2 năm 1932 - 25 tháng 8 năm 2009) là một Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ của tiểu bang Massachusetts và là đảng viên đảng Dân chủ. Ông được bầu vào Thượng viện lần đầu vào tháng 11 năm 1962 và tổng cộng chín lần. Ông làm việc trong Thượng viện được 46 năm. Tại thời điểm ông mất, ông là thành viên kỳ cựu thứ nhì của Thượng viện và ông cũng là Thượng Nghị sĩ phục vụ thời gian dài thứ ba trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông là con của Joseph P. Kennedy, là em trai của Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ John F. Kennedy và Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ của tiểu bang New York Robert F. Kennedy, cả hai người này đều bị ám sát và là cha của Patrick J. Kennedy.
T
CHƯƠNG 1
Chiều thứ Ba, ngày 20 tháng Một 12 giờ 26 phút
ôi, Florentyna Kane, trịnh trọng tuyên thệ…
“Tôi, Florentyna Kane, trịnh trọng tuyên thệ…” “… rằng tôi sẽ đảm đương vị trí Tổng thống Hoa Kỳ một cách trung thành…”
“… rằng tôi sẽ đảm đương vị trí Tổng thống Hoa Kỳ một cách trung thành…”
“… và sẽ làm hết khả năng để giữ gìn, duy trì và bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ. Cầu xin Chúa hãy giúp con.” “… và sẽ làm hết khả năng để giữ gìn, duy trì và bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ. Cầu xin Chúa hãy giúp con.” Tay vẫn đặt trên cuốn Kinh Thánh Douay, vị Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ mỉm cười với chồng mình, nay đã trở thành Đệ nhất Phu quân của nước Mỹ trong lễ tuyên thệ nhậm chức. Đây là thời điểm kết thúc một hành trình phấn đấu gian nan và cũng là điểm khởi đầu của một hành trình đấu tranh đầy cam go khác. Florentyna Kane, hơn ai hết, thấm nhuần sâu sắc cả ngọt bùi và cay đắng của những cuộc đấu tranh này. Cuộc đấu tranh đầu tiên của bà là để được bầu vào Quốc hội, sau đó là Thượng Nghị viện và cuối cùng, trong bốn năm tiếp theo, là cuộc đấu tranh để trở thành nữ Phó Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Sau một chiến dịch chạy đua khốc liệt để được chọn là ứng cử viên
Tổng thống cho Đảng của mình, bà chỉ cần tập trung đánh bại đối thủ duy nhất - Thượng Nghị sĩ Ralph Brooks bằng lá phiếu bầu thứ năm tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ2* vào tháng Sáu. Đến tháng Mười một, bà đã giành phần thắng trong cuộc đua tranh vô cùng gay gắt với ứng cử viên Đảng Cộng hòa, cựu Hạ Nghị sĩ – Đại biểu quốc hội Hoa Kỳ đến từ New York. Florentyna Kane được bầu làm Tổng thống với 105.000 phiếu bầu, chỉ hơn gần một phần trăm số phiếu bầu so với đối thủ, một tỉ lệ chênh lệch nhỏ nhất trong lịch sử bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ, thậm chí số phiếu bầu của bà còn thấp hơn con số phiếu bầu 118.000 mà Tổng thống John F. Kennedy đã từng giành được trước đối thủ của ông là Tổng thống thứ 37, Richard Nixon hồi năm 1960.
Tổng thống chờ đợi hai mươi mốt phát súng thần công chào mừng kết thúc trong khi những tràng vỗ tay ngớt dần đi. Florentyna Kane hắng giọng và đối diện với năm mươi ngàn công dân đang chăm chú nhìn lên tòa nhà Quốc hội (hay Điện Capitol) cùng hai trăm triệu người dân cả nước đang xem qua các thiết bị phát sóng truyền hình. Hôm nay, một ngày cuối tháng Một, thời tiết dễ chịu khác thường, mọi người không cần đắp những tấm chăn dày hay khoác lên mình những chiếc áo khoác to sụ vốn là vật bất li thân trong những khoảng thời gian này. Bãi cỏ lớn dành cho đám đông quần chúng hướng về cánh phía đông của Điện Capitol, mặc dù vẫn còn đẫm nước, nhưng không còn bị tuyết ngày Giáng Sinh phủ trắng xóa nữa.
“Thưa Phó Tổng thống Bradley, Ngài Chánh án tòa án tối cao Hoa Kỳ, Tổng thống Carter, Tổng thống Reagan; Thưa Đức cha và các công dân thân mến.”
Phu quân Tổng thống ngước nhìn lên và đồng thời mỉm
cười hài lòng với chính mình khi nhận ra những ngôn từ mà ông đã đóng góp vào bài phát biểu của vợ mình. Ngày hôm đó của hai vợ chồng Tổng thống đã bắt đầu vào khoảng 6 giờ 30 sáng. Cả hai hầu như đã không thể ngủ ngon sau buổi hòa nhạc vinh danh tân Tổng thống vào buổi tối hôm trước. Florentyna Kane đã tập dượt lần cuối bài diễn văn nhậm chức Tổng thống của mình, gạch chân những từ ngữ quan trọng nhất bằng mực đỏ và thay đổi vài chi tiết. Khi bà thức dậy vào buổi sáng hôm đó, Florentyna đã chọn ngay, không đắn đo, một chiếc váy màu xanh trong tủ quần áo của mình. Bà ghim chiếc cài áo nhỏ xinh mà người chồng đầu tiên của bà, Richard, đã trao cho bà ngay trước khi ông ấy qua đời.
Mỗi lần Florentyna mang chiếc ghim cài áo đó, bà lại nhớ đến Richard. Làm thế nào mà Richard dù không thể bắt máy bay ngày hôm đó chỉ vì một cuộc đình công của nhân viên bảo trì nhưng lại vẫn thuê được một chiếc xe hơi để đảm bảo rằng anh ấy có thể ở bên cạnh Florentyna khi bà phát biểu trong lễ trao bằng của trường Harvard.
Richard đã không bao giờ có thể nghe được bài phát biểu của bà ngày hôm đó, một tờ Tin tức tuần đã mô tả vụ tai nạn như một âm mưu bàn đạp nhằm đạt được các mục đích xấu xa trong cuộc đua vào Nhà Trắng – bởi vì khi bà đến được bệnh viện thì Richard đã mất rồi.
Tâm trí của bà nhanh chóng quay trở lại thế giới thực, nơi mà ở đó, bà đã trở thành một nhà lãnh đạo quyền lực nhất trên trái đất. Nhưng dù vậy, bà vẫn không có đủ quyền năng để đưa Richard quay trở lại. Florentyna lại ngắm mình trong gương. Bà cảm thấy tự tin. Cuối cùng, bà cũng đã giữ cương vị Tổng thống này được gần hai năm kể từ sau cái chết bất
ngờ của cố Tổng thống Parkin. Các nhà sử học có thể sẽ kinh ngạc nếu họ phát hiện ra rằng bà đã tiên liệu được về cái chết của vị cố Tổng thống trong khi cố gắng gỡ gạc lại điểm số bằng một cú đánh trả gần 1.4 mét từ người bạn lâu năm mà sau đó đã trở thành chồng bà, Edward Winchester.
Cả hai đã phải dừng trận đấu gôn khi những chiếc máy bay trực thăng xuất hiện và bay vòng tròn trên đầu họ. Khi một trong những chiếc trực thăng hạ cánh, một Đại úy Thủy quân lục chiến đã nhảy ra khỏi khoang lái và chạy thẳng về phía bà. Anh ta nghiêm túc chào bà theo kiểu nhà binh và đồng thời thông báo: “Thưa bà Tổng thống, ngài Tổng thống đã qua đời.” Giờ đây, người dân Mỹ đã chắc chắn rằng họ đã sẵn sàng tiếp tục cuộc sống với sự lãnh đạo của một người phụ nữ trong Nhà Trắng. Lần đầu tiên trong lịch sử, Hoa Kỳ đã bầu một người phụ nữ vào vị trí được khao khát nhất trong đời sống chính trị đất nước bằng cách sử dụng quyền lực dân chủ của mình. Bà thoáng đưa mắt ra ngoài cửa sổ phòng ngủ, nhìn vào mặt nước mênh mang, bình yên, khoáng đạt, đang lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sáng sớm của dòng sông Potomac.
Bà rời khỏi phòng ngủ và đi thẳng đến phòng ăn riêng nơi chồng bà, Edward, đang trò chuyện với hai đứa con là William và Annabel. Florentyna hôn trán cả ba người họ trước khi cùng ngồi xuống để ăn sáng với nhau.
Họ cười về những chuyện quá khứ và nói về những chuyện tương lai; nhưng ngay khi đồng hồ điểm tám giờ, Tổng thống rời khỏi phòng ăn trước và đi thẳng đến Phòng Bầu dục. Chánh văn phòng Nhà Trắng, cô Janet Brown, đang ngồi bên ngoài sảnh đợi để chờ bà.
“Chào buổi sáng, bà Tổng thống.”
“Chào buổi sáng, Janet. Mọi việc vẫn được kiểm soát tốt đấy chứ?” Bà mỉm cười với cô.
“Tôi nghĩ là như vậy, thưa bà.”
“Cô làm tốt lắm. Tại sao cô không sắp lịch làm việc của tôi như cô vẫn thường làm nhỉ? Đừng e ngại về tôi, tôi sẽ làm theo hướng dẫn của cô. Cô muốn tôi làm gì đầu tiên đây?”
“Có 842 bức điện và 2.412 bức thư nhưng chúng sẽ được giải quyết sau, chỉ ưu tiên điện và thư của các Nguyên thủ quốc gia. Tôi sẽ bố trí trả lời tất cả những thư từ đó trước mười hai giờ.”
“Cứ đề ngày hôm nay vào điện và thư trả lời đi, điều đó sẽ khiến họ thích thú và đánh giá cao. Tôi sẽ ký từng cái một ngay khi chúng được chuẩn bị sẵn sàng.”
“Vâng, thưa bà. Tôi cũng đã chuẩn bị lịch trình cho bà. Bà sẽ bắt đầu ngày làm việc chính thức đầu tiên bằng buổi cà phê lúc 11 giờ với cựu Tổng thống Reagan và Carter, sau đó bà sẽ được đưa đến Lễ nhậm chức. Sau Lễ nhậm chức, bà sẽ tham dự một bữa tiệc trưa tại Thượng viện trước khi duyệt Lễ diễu hành chào mừng ngày nhậm chức ngay trước Nhà Trắng.”
Janet Brown đưa cho bà một bộ thẻ có đánh số ghim lại với nhau tầm ba đến năm chiếc một, giống như cái cách cô ấy đã làm trong mười lăm năm qua kể từ khi Janet gia nhập đội ngũ nhân viên của Florentyna khi bà được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ lần đầu tiên. Những chiếc thẻ tóm tắt lịch trình hàng giờ của Tổng thống; hôm nay, số lượng thẻ có vẻ ít hơn so với thông thường. Florentyna liếc qua các tấm thẻ, và ngỏ lời cảm ơn cô Chánh văn phòng của mình. Edward Winchester xuất hiện ở cửa. Ông mỉm cười với Florentyna
khi bà quay về phía ông. Ông vẫn thường cười với bà như vậy, trong nụ cười ấy là sự pha trộn giữa tình yêu thương và lòng ngưỡng mộ của ông đối với bà. Florentyna chưa từng hối hận vì quyết định kết hôn gần như vội vã của mình ngay sau khi đánh bóng gôn vào lỗ thứ mười tám trong cái ngày lạ thường mà bà được thông báo về cái chết của cố Tổng thống Parkin. Bà có linh cảm rằng chắc chắn Richard sẽ chấp nhận quyết định đó của bà.
“Em sẽ phải giải quyết một số công việc giấy tờ đến tận 11 giờ.” Bà nói với ông. Ông gật đầu và rời đi để chuẩn bị cho ngày nhậm chức sắp tới của bà.
Đám đông những người ủng hộ đã tập trung bên ngoài Nhà Trắng.
“Tôi ước gì trời đổ mưa.” H. Stuart Knight, người đứng đầu Sở Mật vụ3*, trải lòng với sĩ quan phụ tá của mình; đó cũng là một trong những ngày quan trọng nhất trong cuộc đời anh ấy. “Tôi biết đại đa số những người này đều vô hại, nhưng những dịp như thế này luôn khiến tôi bồn chồn, lo lắng.”
Đám đông ước chừng khoảng một trăm năm mươi người thì có tới năm mươi người trong số đó là nhân viên thuộc Sở Mật vụ của Knight. Chiếc xe dẫn đường luôn đi trước xe của Tổng thống năm phút có nhiệm vụ kiểm tra tỉ mỉ nhằm đảm bảo tuyến đường đến Nhà Trắng được thông suốt và an toàn; các nhân viên Sở Mật vụ sẽ quan sát những nhóm nhỏ người dân tụ tập dọc hai bên đường đi, một số người đang vẫy cờ; những người này có mặt ở đó là để được tận mắt chứng kiến Lễ nhậm chức và một ngày nào đó họ có thể kể với con cháu của họ rằng họ đã nhìn thấy Florentyna Kane nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ như thế nào.
Đến 10 giờ 59 phút, người quản gia mở cổng trước của Nhà Trắng và đám đông bắt đầu cổ vũ, tung hô để chúc mừng.
Tổng thống và Phu quân vẫy tay chào những con người đang rạng ngời niềm vui trong ánh mắt và chỉ có thể nhận ra năm mươi nhân viên Sở Mật vụ là những người không nhìn về phía họ bằng cảm nhận dựa trên kinh nghiệm và bản năng nghề nghiệp.
Hai chiếc xe limousine màu đen đỗ lại một cách êm ả tại cổng phía Bắc của Nhà Trắng lúc 11 giờ sáng. Đội Cảnh vệ danh dự nghiêm trang hành lễ chào hai vị cựu Tổng thống và Phu nhân của họ theo cung cách đặc biệt chỉ dành để tiếp đón các vị cựu Nguyên thủ quốc gia, trong khi Tổng thống Kane chào đón họ trên bậc thềm tòa nhà Quốc hội và sau đó đích thân dẫn đường đưa họ đến thư viện để uống cà phê với Edward, William và Annabel.
Vị lớn tuổi hơn trong số hai vị cựu Tổng thống than thở rằng trông ông thật xanh xao do chế độ dinh dưỡng của ông trong suốt tám năm qua phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng nấu nướng của bà vợ: “Bà ấy đã không đụng đến cái chảo rán hàng năm nay rồi, nhưng bà ấy đang cải thiện trình độ nấu nướng mỗi ngày. Để chắc chắn, tôi đã đưa cho bà ấy một bản sao của cuốn Cẩm nang Nấu ăn Thời báo New York; cuốn đó gần như là ấn phẩm duy nhất không chỉ trích tôi mà họ từng xuất bản.” Florentyna phá lên cười trong sự hồi hộp. Bà muốn tiếp tục thực hiện các nghĩ lễ và thủ tục nhậm chức chính thức, nhưng bà đã ý thức được rằng vị cựu Tổng thống đang tận hưởng niềm vui được trở lại Nhà Trắng, vì vậy bà cố tỏ ra đang chăm chú lắng nghe, đeo một chiếc mặt nạ để che giấu cảm xúc thực sự của mình đã trở thành
bản chất thứ hai của bà sau gần hai mươi năm hoạt động chính trị.
“Thưa bà Tổng thống…” Florentyna đã phải phản xạ chớp nhoáng để tránh bị bất cứ ai nhận ra phản ứng theo bản năng của bà đối với những lời nói đó. Bà ngước nhìn cô thư ký báo chí của mình và đứng lên khỏi ghế để dẫn các vị cựu Tổng thống và phu nhân của họ tới các bậc thềm của Nhà Trắng. “Chỉ còn một phút nữa là đúng 12 giờ trưa.” Ban Quân nhạc đã đánh bài nhạc truyền thống có tên là Chào mừng người lãnh đạo tối cao (Hail to the Chief)4* hồi cuối. Vào lúc một giờ chiều, họ sẽ chơi lại bài đó từ đầu.
Hai vị cựu Tổng thống đã được hộ tống đến chiếc ô tô đầu tiên trong đoàn xe mô-tô bảo vệ đi kèm, một chiếc limousine chống đạn, màu đen, có mui kính trong suốt. Chủ tịch Hạ viện5*, Jim Wright và Lãnh tụ đa số Thượng viện6*, Robert Byrd, đại diện cho Quốc hội, ngồi vào chiếc xe thứ hai. Ngay phía sau chiếc limousine đó là hai chiếc xe chở đầy nhân viên của Sở Mật vụ. Florentyna và Edward ở trong chiếc xe thứ năm trong đoàn. Phó Tổng thống Bradley đến từ New Jersey và phu nhân đi trên chiếc xe tiếp theo.
H. Stuart Knight kiểm tra theo thông lệ thêm một lần nữa. Con số nhân viên của anh không còn là năm mươi người nữa, bây giờ con số đó là một trăm. Từ giờ cho đến trưa, tính cả cảnh sát khu vực và lực lượng bổ sung từ Cơ quan điều tra liên bang - FBI7*, tổng quân số có thể lên tới năm trăm người. Không quên quân số từ CIA8*, Knight rầu rĩ nghĩ ngợi. CIA chắc chắn sẽ không cho anh ấy biết liệu họ có tham gia bảo vệ ở đó hay không và anh ấy thậm chí không phải lúc nào cũng có thể nhận định được chính xác ai trong đám đông kia là nhân viên CIA. Anh đã nghe thấy tiếng reo hò cổ
vũ của những người xem đạt đến cao trào đỉnh điểm khi chiếc xe limousine của Tổng thống bắt đầu lăn bánh hướng tới Điện Capitol.
Edward trò chuyện vui vẻ với Florentyna, nhưng tâm trí của bà thì lại đặt ở một nơi khác. Bà vẫy tay chào hưởng ứng đám đông dọc theo Đại lộ Pennsylvania một cách vô thức, trong khi tâm trí bà đang duyệt lại bài phát biểu nhậm chức thêm một lần nữa. Khách sạn Willard đang cải tạo; bảy tòa cao ốc văn phòng đang xây dựng, những căn nhà giống nhau, xếp tầng xếp dãy như những ngôi nhà trên vách đá của người da đỏ; các cửa hiệu mới, các nhà hàng và những vỉa hè được bố trí cảnh quan rộng rãi đều lần lượt bị vượt qua. Tòa nhà J. Edgar Hoover, nơi đặt trụ sở FBI, vẫn được gọi theo tên của vị Giám đốc FBI đầu tiên, bất chấp nỗ lực nhằm thay đổi của một số Thượng Nghị sĩ nào đó. Con đường này còn có thể biến đổi như thế nào nữa trong mười lăm năm tới.
Đã đến Điện Capitol. Edward ngắt ngang dòng suy nghĩ miên man của bà Tổng thống: “Cầu Chúa phù hộ, em yêu.” Florentyna mỉm cười và nắm chặt bàn tay ông. Sáu chiếc xe lần lượt dừng lại.
Tổng thống Kane bước vào tầng trệt của Điện Capitol. Edward nán lại một chút ở phía sau để cảm ơn người tài xế. Những chính khách khác ngay lập tức được các nhân viên Mật vụ vây quanh khi họ bước ra khỏi xe. Họ liên tục vẫy tay chào đám đông và nhanh chóng rảo bước theo lối riêng đến chỗ ngồi dưới sân khấu diễn thuyết. Trong khi đó, trưởng ban tiếp tân dẫn Tổng thống Kane lặng lẽ băng qua những hành lang kín và dài hun hút tới khu vực tiếp đón. Cứ khoảng mười bước chân lại có một lính Thủy quân Lục chiến
hành lễ chào mừng bà. Phó Tổng thống Bradley đã chờ để đón bà. Hai người cùng đứng đó và không nói gì, cả hai đều không chờ đợi câu đáp lại của nhau.
Hai vị cựu Tổng thống vừa mỉm cười vừa đi qua hành lang kín và dài hun hút đó. Lần đầu tiên vị cựu Tổng thống cao niên trông có vẻ đúng độ tuổi của ông ấy, mái tóc của ông dường như đã chuyển màu hoa râm ánh bạc chỉ sau một đêm. Lại thêm lần nữa, ông ấy và Florentyna thực hiện nghi thức bắt tay với nhau; họ đã thực hiện nghi thức đó tới bảy lần chỉ trong ngày hôm đó. Trưởng ban tiếp tân đã dẫn họ đi qua một phòng tiếp đón nhỏ trên đường tới bục diễn thuyết. Sân khấu tạm thời này được dựng lên trên những bậc thềm phía Đông của Điện Capitol để phục vụ cho Lễ nhậm chức hôm nay cũng giống như bất kỳ Lễ nhậm chức Tổng thống nào trước đó. Đám đông đứng dậy và cổ vũ trong hơn một phút khi Tổng thống và các cựu Tổng thống vẫy tay chào họ; cuối cùng họ ngồi xuống trong im lặng và chờ đợi buổi lễ chính thức bắt đầu.
“Người dân Mỹ thân mến của tôi, khi tôi bắt đầu đảm đương nhiệm vụ này, Hoa Kỳ đang phải đối mặt với các vấn đề diễn ra trên diện rộng và đầy rẫy nguy cơ trên toàn thế giới. Những cuộc nội chiến tàn bạo nổ ra không ngớt ở Nam Phi giữa người da đen và người da trắng; ở Trung Đông, hậu quả của những trận chiến năm ngoái đang được khắc phục, nhưng cả hai bên chiến tuyến vẫn đang tái trang bị vũ khí quân sự và bổ sung lực lượng thay vì tái thiết các trường học, bệnh viện hoặc trang trại. Đâu đó trên các đường biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng như đường biên giới giữa Nga và Pakistan, đang tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ chiến tranh giữa bốn quốc gia đông dân nhất trên Trái đất. Nam
Mỹ thay đổi giữa cánh tả và cánh hữu, nhưng dường như không bên nào có thể giúp họ nâng cao điều kiện sống cho người dân. Pháp và Ý- hai trong số các bên tham gia ký kết ban đầu của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)9* gần như sắp rút khỏi hiệp ước đó.”
“Năm 1949, Tổng thống Harry S. Truman đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẵn sàng đứng sau hỗ trợ cho các tổ chức bảo vệ tự do đang gặp nguy hiểm ở khắp nơi trên thế giới bằng tất cả nguồn sức mạnh và tài lực của mình. Ngày nay, có một số người có thể cho rằng sự hào hiệp và trượng nghĩa này đã đến hồi kết thúc, bởi vì nước Mỹ đã sức cùng lực kiệt đến nỗi không thể đảm đương toàn bộ gánh nặng của vai trò nhà lãnh đạo của toàn thế giới. Trong bối cảnh mà các cuộc khủng hoảng quốc tế tiếp diễn liên tục, việc có những công dân Mỹ tự đặt câu hỏi tại sao anh ta lại nên quan tâm đến các sự kiện ở quá xa nhà mình và tại sao anh ta lại phải cảm thấy nên có trách nhiệm đối với sứ mệnh bảo vệ tự do bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ, cũng không có gì là bất thường.”
“Tôi đã không phải lên tiếng hồi đáp những câu hỏi đầy hoang mang này một mình. John Donne – một nhà thơ cổ điển của nước Anh, cách đây hơn ba thế kỷ rưỡi đã viết: Con người không phải là một hòn đảo. Mỗi người đều là một phần của lục địa. Lãnh thổ Hoa Kỳ trải dài từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương và từ Bắc Cực đến Xích đạo. Bản thân tôi là một phần của toàn nhân loại và bởi thế anh đừng bao giờ hỏi chuông nguyện hồn ai; chuông nguyện hồn anh đấy.”
Edward thích phần đó của bài phát biểu. Những lời đó thể hiện rất đúng cảm xúc của chính ông ấy. Mặc dù vậy, ông vẫn băn khoăn tự hỏi, liệu khán giả có đáp lại một cách
nhiệt tình như họ đã từng đón nhận những bài hùng biện khí thế ngút trời của Florentyna trong quá khứ hay không. Những tràng pháo tay vang lên như sấm hết đợt này đến đợt khác khiến đầu óc ông váng vất đã một lần nữa khẳng định điều mà ông vừa băn khoăn. Phép màu kỳ diệu vẫn còn hiệu lực.
“Tại chính đất nước quê hương của chúng ta, chúng ta sẽ tạo ra một dịch vụ y tế mà cả thế giới tự do ngoài kia phải ghen tị. Các công dân Mỹ được hưởng quyền lợi tư vấn sức khỏe, hỗ trợ điều trị y tế tốt nhất và được đối xử bình đẳng như nhau. Không một người Mỹ nào được phép chết chỉ vì anh ta không đủ khả năng chi trả các chi phí chăm sóc sức khỏe và điều trị bệnh tật để được sống tiếp.”
Nhiều đảng viên Đảng Dân chủ đã bỏ phiếu chống Florentyna Kane bởi thái độ của bà đối với Chương trình Chăm sóc Y tế10*. Khi một bác sĩ đa khoa có tuổi, với mái đầu đã bạc, đã nói với bà ấy: “Người Mỹ phải học cách tự đứng trên đôi chân của mình”. Florentyna đã phản bác lại: “Làm sao họ có thể làm điều đó khi họ ốm liệt giường và không nơi nương tựa?” - “Chúa lòng lành đã gửi đến cho chúng ta một nữ Tổng thống.” - vị bác sĩ trả lời bà và bỏ phiếu ủng hộ cho thành viên Đảng Cộng hòa.
“Tất nhiên, nền tảng chính của chính quyền này sẽ nằm trong lĩnh vực luật pháp và trật tự và cuối cùng để kết thúc bài phát biểu này, tôi xin thông báo về việc tôi dự định trình lên Quốc hội một dự luật kiểm soát vũ khí trong đó quy định việc mua bán vũ khí không có giấy phép bị coi là hành vi bất hợp pháp.”
Tiếng vỗ tay từ đám đông vang lên có đôi chút miễn cưỡng.
Florentyna ngẩng đầu lên: “Và vì vậy tôi xin tuyên bố với các bạn, người dân yêu quý của tôi, hãy kết thúc thế kỷ này trong một niềm kiêu hãnh rằng Hoa Kỳ đã dẫn đầu toàn thế giới về thực thi công lý cũng như quyền lực, về chăm sóc con người cũng như xây dựng những sự nghiệp lớn lao, một kỷ nguyên mà Hoa Kỳ dám tuyên chiến – cuộc chiến chống lại bệnh tật, nạn phân biệt đối xử và đói nghèo.”
Bà Tổng thống ngồi xuống, nhưng toàn bộ khán giả đã đứng dậy gần như đồng thời.
Những tràng pháo tay của khán giả đã làm gián đoạn bài phát biểu dài mười sáu phút tới mười lần. Nhưng khi người lãnh đạo tối cao của quốc gia đã quay lưng về phía chiếc micro và giờ đây đã yên tâm rằng đám đông ủng hộ mình, đôi mắt của bà không còn nhìn vào đám đông đang reo hò, cổ vũ nữa. Bà nhìn lướt nhanh qua những con người quyền lực trên sân khấu chỉ để tìm một người mà bà muốn thấy. Bà đi đến bên chồng, hôn lên má ông, rồi khoác lấy cánh tay ông trước khi một người tiếp tân nhanh nhẹn, chủ động đi theo để mở đường cho họ từ sân khấu.
H. Stuart Knight ghét những việc không diễn ra theo lịch trình, thế mà ngày hôm nay lại chẳng có việc gì diễn ra theo đúng kế hoạch cả. Tất cả mọi người đều sẽ bị trễ giờ ăn trưa ít nhất là ba mươi phút.
Bảy mươi sáu vị khách đều đứng lên khi Tổng thống bước vào phòng. Họ là những quý ông quý bà hiện đang nắm quyền kiểm soát Đảng Dân chủ. Cánh phía Bắc của tòa nhà Quốc hội - Thượng Nghị viện - nơi tập trung những người đã quyết định hậu thuẫn đắc lực cho bà Tổng thống, hiện giờ đều có mặt đầy đủ, chỉ ngoại trừ những người ủng hộ Thượng Nghị sĩ Ralph Brooks.
Bên cạnh một số người góp mặt tại buổi tiệc trưa đã là thành viên Nội các của bà Tổng thống, tất cả những nhân vật đang hiện diện ở đây đều đóng góp ít nhiều trong hành trình chạy đua vào Nhà Trắng của bà.
Bà Tổng thống không có cơ hội mà có lẽ bà cũng không định dùng bữa trưa của mình bởi vì mọi người đều muốn nói chuyện với bà ngay lập tức. Thực đơn bữa tiệc đã được xây dựng đặc biệt dựa trên những món ăn yêu thích của bà, bắt đầu với món súp khai vị tôm hùm bisque11*, tiếp theo là món thịt bò nướng và cuối cùng là pièce de résistance12*- món ăn chủ đạo của bữa tiệc – chiếc bánh sô-cô-la ướp lạnh được bếp trưởng tạo hình mô phỏng Nhà Trắng. Edward quan sát thấy Florentyna phớt lờ cái nêm hình chữ V gọn ghẽ của Phòng Bầu dục được đặt ngay ngắn trước mặt bà ấy. “Đó là lí do mà bà ấy không bao giờ cần giữ gìn một thân hình thon thả.” Marian Edelman, người vừa bất ngờ được bổ nhiệm giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tư pháp, nhận xét. Marian đang nói chuyện với Edward về tầm quan trọng của quyền trẻ em và Edward đang hết sức tập trung để lắng nghe những gì bà ấy nói, nhưng có lẽ phải để chuyện đó sang một dịp khác.
Đến khi cánh còn lại của Nhà Trắng tàn tiệc trưa và không ai còn ăn nổi thêm chút gì nữa, bà Tổng thống và đảng của bà đã trễ mất bốn mươi lăm phút so với lịch trình của Cuộc diễu hành chào mừng Lễ nhậm chức Tổng thống. Khi họ đến được Lễ đài trước Nhà Trắng, vị trí đẹp nhất để chứng kiến cuộc diễu hành, Đội cảnh vệ danh dự của Tổng thống đã đứng chờ nghiêm trang trong hơn một giờ đồng hồ giữa đám đông hai trăm ngàn người. Ngay khi Tổng thống đã yên vị tại chỗ ngồi, cuộc diễu hành chào mừng bắt đầu. Các đơn vị
quân đội thuộc lực lượng vũ trang quốc gia đã diễu hành qua, trong khi đội quân nhạc Hoa Kỳ cử lên những bản nhạc, từ Hành khúc Sousa đến Chúa phù hộ nước Mỹ. Những chiếc xe rước tham gia đoàn diễu hành đại diện cho từng bang trong Hợp chủng quốc. Một số trong đó giống như là xe đến từ bang Illinois khiến người ta liên tưởng đến các sự kiện gợi nhớ nguồn gốc Ba Lan của Florentyna.
Những chiếc xe đó đã bổ sung thêm các màu sắc và sắc thái cảm xúc tươi sáng hơn, biểu trưng cho những gì thuộc về con người của bà Tổng thống. Diễu hành chào mừng không chỉ là một sự kiện trọng thể mà còn là một hoạt động hết sức trang nghiêm.
Florentyna vẫn cảm thấy đây là quốc gia duy nhất trên thế giới giao phó chức vụ lãnh đạo đất nước cho con gái của một người nhập cư.
Khi chiếc xe rước cuối cùng khuất dạng khỏi đại lộ thì cuộc diễu hành kéo dài ba giờ đồng hồ cũng kết thúc. Chánh văn phòng Nhà Trắng, Janet Brown, nghiêng người qua hỏi Tổng thống xem liệu bà ấy muốn làm gì trong thời gian từ giờ cho đến Dạ tiệc khiêu vũ chào mừng sau Lễ tuyên thệ nhậm chức Tổng thống.
“Ký tất cả các văn kiện bổ nhiệm Nội các, thư trả lời các Nguyên thủ quốc gia và dọn dẹp bàn làm việc của tôi cho ngày mai.” Tổng thống Kane trả lời ngay lập tức. “Đó là những công việc khởi đầu cho nhiệm kỳ bốn năm đầu tiên của tôi.”
Tổng thống quay lại và đi thẳng về Nhà Trắng. Khi bà bước qua mái vòm cổng phía nam, đội quân nhạc lại chơi bài Chào mừng nhà lãnh đạo tối cao để chào mừng bà. Còn chưa tới Phòng Bầu dục, bà đã cởi xong áo khoác ngoài. Nữ
Tổng thống ngồi xuống chiếc ghế ngay sau chiếc bàn làm việc bằng gỗ sồi và da thuộc đường bệ với một phong thái vững vàng. Bà lặng yên ngắm nhìn quanh căn phòng trong giây lát. Mọi thứ được trang hoàng và bố trí đúng như bà mong muốn. Ngay sau lưng bà là bức hình Richard và William đang chơi bóng bầu dục. Trước mặt bà là cái chặn giấy có khắc câu danh ngôn của George Benard Shaw13*, người mà Annabel vẫn hay nhắc đến: Một số người nhìn vào những điều đã có và đặt ra câu hỏi, tại sao tôi lại mơ về những điều chưa từng xảy ra rồi tự hỏi, tại sao không. Bên trái Florentyna là lá cờ Tổng thống, bên phải bà là quốc kỳ nước Mỹ. Chính giữa bàn là một mô hình bằng giấy bồi của khách sạn Baron ở Warsaw mà William đã làm từ khi mới mười bốn tuổi. Than đang cháy đỏ trong lò sưởi. Bức chân dung Abraham Lincoln14*treo trong phòng nhìn chằm chằm xuống vị Tổng thống hậu bối. Bên ngoài khung cửa sổ nhô ra với tầm nhìn rộng là những bãi cỏ xanh mướt trải dài một mạch đến tận đài tưởng niệm George Washington15*. Bà Tổng thống mỉm cười. Bà đã trở về ngôi nhà đúng nghĩa. Florentyna Kane với tay lấy một chồng giấy tờ chính thức và liếc qua họ tên của những người sẽ phục vụ trong nội các của mình. Có tới hơn ba mươi quyết định bổ nhiệm mà bà cần ký tên. Bà Tổng thống đặt bút ký từng cái một với những nét bút bay bướm và đẹp đẽ nhất. Quyết định bổ nhiệm cuối cùng dành cho Janet Brown, bà bổ nhiệm cô giữ chức vụ Chánh văn phòng Nhà Trắng. Bà Tổng thống yêu cầu gửi những thư bổ nhiệm này cho Quốc hội ngay lập tức. Thư ký báo chí của bà gom từng tờ quyết định sẽ viết tiếp lịch sử bốn năm tới của nước Mỹ và nói: “Cảm ơn bà Tổng thống.” Sau đó cô hỏi thêm: “Bà muốn xử lí công việc nào tiếp
theo?”
“Luôn luôn giải quyết vấn đề lớn và khó khăn nhất trước tiên, Tổng thống Lincoln đã khuyên như thế mà. Hãy bắt tay vào xem xét Dự thảo Luật Kiểm soát súng thôi.”
Thư ký báo chí của Tổng thống khẽ rùng mình, vì bản thân cô đã hiểu rằng, trận chiến trong Nhà Trắng suốt hai năm tới có thể sẽ diễn ra dữ dội, dai dẳng và khó đi đến hồi kết, chẳng khác gì cuộc Nội chiến mà Tổng thống Lincoln đã từng phải đối mặt trong quá khứ. Nhiều người vẫn giữ quan điểm rằng việc sở hữu súng ống và vũ khí là một quyền lợi căn bản, không thể thay đổi hay hạn chế. Cô chỉ cầu nguyện rằng cuộc chiến mới sẽ không có cùng kết cục với cuộc chiến năm xưa - một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
2* Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ là đại hội đại biểu của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ với mục đích đề cử ra ứng viên Tổng thống Hoa Kỳ và Phó Tổng thống Hoa Kỳ, bắt đầu được tổ chức từ năm 1832 vào khoảng thời gian bầu cử sơ bộ Tổng thống của mỗi khoá.
3* Cục Tình báo, Sở Mật vụ: Cơ quan bảo vệ an toàn cho Tổng thống và gia quyến của Hoa Kỳ.
4* “Chào mừng người lãnh đạo tối cao” là bài nhạc truyền thống được chơi trong Lễ nhậm chức để chào mừng các vị Tổng thống mới đắc cử của Hoa Kỳ.
5*Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ là người đứng thứ hai trong thứ tự kế nhiệm Tổng thống Hoa Kỳ, đứng sau Phó Tổng thống Hoa Kỳ và đứng trước Chủ tịch Thượng viện Tạm quyền Hoa Kỳ.(quyền lực tương đương: Lãnh tụ đảng đa số trong Thượng viện)
6* Phó Tổng thống thường đồng thời giữ vai trò Chủ tịch Thượng viện, do đó Lãnh tụ đảng đa số trong Thượng viện gần như đứng sau Phó Tổng thống. (quyền lực tương đương Chủ tịch tạm quyền của Thượng viện Hoa Kỳ)
7* FBI: Cơ quan điều tra liên bang chịu trách nhiệm điều tra các vụ phạm pháp và bảo vệ an ninh của Hoa Kỳ. 8* CIA: Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ.
9* NATO là tên tắt của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là một liên minh quân sự dựa trên Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký kết vào ngày 4 tháng 4 năm 1949 bao gồm Mỹ và một số nước ở châu Âu. Trên danh nghĩa, NATO là một liên minh phòng thủ trong đó các nước thành viên thực hiện phòng thủ chung khi bị tấn công bởi bên ngoài, nhưng trong thực tế thì NATO cũng tổ chức nhiều cuộc tấn công nhằm vào các quốc gia khác.
10*‘Medicare’ là một chương trình chăm sóc người già trên 65 tuổi của chính phủ Mỹ.
11*Một món súp hải sản của Pháp có vị thanh dành cho các bữa tối đặc biệt, dùng chung với rượu vang và bánh mỳ trong thời tiết giá lạnh.
12*pièce de résistance: tâm điểm.
13*Một danh nhân từng đoạt cả giải Nobel văn chương và giải Oscar cho kịch bản chuyển thể hay nhất.
14*Vị Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ..
15*Vị Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ.
CHƯƠNG 2
Tối thứ Năm, ngày 3 tháng Ba (hai năm sau) 5 giờ 45 phút N
ick Stames đã làm việc từ 7 giờ sáng đến 5 giờ 45 phút chiều và giờ anh rất mong được trở về nhà. Anh thậm chí còn không nhớ nổi mình có ăn trưa nay không nữa. Vợ anh ấy, Norma, lúc nào cũng cằn nhằn về chuyện anh ấy chẳng bao giờ về nhà đúng giờ để cùng ăn tối, hoặc là về quá muộn khi bữa tối đã nguội lạnh và chẳng còn ngon lành gì nữa. Nick bắt đầu suy nghĩ, không biết lần gần đây nhất anh ấy ăn chút gì đó là vào lúc nào? Norma vẫn đang ngủ khi anh ấy đến văn phòng lúc 6 giờ 30 phút sáng. Giờ thì chắc hẳn lũ trẻ đã tan trường và cô ấy lại trở về với việc nấu bữa tối thường nhật. Anh đã không thể giành phần thắng; nhưng nếu anh ấy là kẻ thất bại, cô ấy sẽ lại phàn nàn cả về chuyện đó nữa. Thế nhưng, chết tiệt thật… Theo tiêu chuẩn đánh giá của mọi người, anh ấy lại là một người thành công. Là nhân viên đặc vụ trẻ tuổi nhất phụ trách Văn phòng Khu vực của FBI và tất nhiên, anh ấy không thể ngồi ở vị trí đó ở tuổi bốn mươi mốt mà vẫn về nhà đúng giờ để ăn tối mỗi ngày. Dù sao đi nữa, Nick yêu công việc của mình. Công việc chứ không phải cô gái nào khác chính là người tình của anh
ấy, ít nhất, vợ anh ấy cũng có thể tạ ơn Chúa vì điều đó. Nick Stames đã giữ vị trí đứng đầu Văn phòng Khu vực của FBI tại thành phố Washington trong chín năm. Đây là Văn phòng Khu vực lớn thứ ba ở Mỹ, mặc dù phụ trách phạm
vi lãnh thổ nhỏ nhất – chỉ gần một trăm sáu mươi ki-lô-mét vuông thủ đô Washington DC – với hai mươi hai đội: mười hai tổ điều tra tội phạm, mười đội an ninh. Chúa ơi, anh ấy phụ trách đảm bảo an ninh cho thủ đô của thế giới. Thế nên, đôi khi, anh ấy phải về nhà muộn là chuyện thường tình. Nhưng tối nay, anh muốn tạo bất ngờ. Mỗi khi có cơ hội, anh đều thể hiện tình yêu và sự trân trọng dành cho vợ mình. Tối hôm nay, anh định về nhà đúng giờ. Anh nhấc ống nghe điện thoại nội bộ và gọi cho điều phối viên hình sự, Grant Nanna.
“Xin chào, Grant.”
“Vâng, sếp.”
“Tôi chuẩn bị về nhà đây.”
“Tôi không biết là anh có nhà để về cơ đấy.”
“Cả ông cũng nói thế sao.”
Nick Stames đặt điện thoại xuống rồi đưa tay vuốt mái tóc dài sẫm màu của mình. Anh ấy có lẽ trông giống một tên tội phạm hình sự trên phim ảnh hơn là một đặc vụ FBI, bởi vì mọi thứ về anh ấy đều mang màu sẫm – đôi mắt sẫm màu, làn da sẫm màu, mái tóc sẫm màu, thậm chí bộ vest và đôi giày cũng sẫm màu nốt; nhưng hai thứ sau cùng thì đúng chất của một nhân viên đặc vụ. Trên ve áo, anh cài một chiếc cài áo hình quốc kỳ Mỹ và Hy Lạp.
Cách đây vài năm, có một lần, anh ấy được đề bạt thăng chức và có cơ hội gia nhập hàng ngũ mười ba trợ lý cho Giám đốc trụ sở chính của FBI. Nhưng Nick vốn không thuộc tuýp người hợp với việc mài mông bên bàn giấy suốt cả ngày, vậy nên anh ấy từ chối cơ hội một bước lên mây, thoát khỏi khu ổ chuột để bước vào cung điện đó. Văn phòng Khu vực ở Washington được đặt tại các tầng bốn,
năm và tám của tòa nhà bưu điện cũ trên đại lộ Pennsylvania. Các căn phòng ở đó giống như các toa tàu lửa và thường bị so sánh với các căn nhà trong khu ổ chuột của người da đen.
Khi mặt trời bắt đầu khuất dạng phía sau các tòa nhà cao tầng, văn phòng ảm đạm của Nick trở nên tối hơn. Anh ấy rảo bước tới chỗ công tắc đèn điện. Một nhãn dán huỳnh quang dán trên công tắc ghi rõ Đừng trở thành lũ ngốc Cục Năng lượng16*. Chỉ vì dòng người bao gồm cả phụ nữ và đàn ông mặc vest sẫm màu, nghiêm túc di chuyển liên tục ra vào tòa nhà bưu điện cũ chính là dấu hiệu tiết lộ vị trí của Văn phòng Khu vực FBI thành phố Washington; cho nên, dòng cảnh báo này của chính phủ nhằm lưu ý rằng các cơ quan của Cục Năng lượng Liên bang chiếm cứ hai tầng của tòa nhà rộng lớn mênh mông trên đại lộ Pensylvania.
Nick chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ, phía bên kia đường là trụ sở mới của FBI, khu văn phòng được hoàn thành vào năm 1976, một con quái vật xấu xí, đồ sộ có những cái thang máy còn to lớn hơn cả văn phòng của anh. Anh ấy vốn không lấy làm phiền về chuyện đó. Nick đã đạt đến hạng thứ mười tám trong ngành và chỉ có Giám đốc được hưởng mức lương cao hơn anh ấy. Dù sao đi nữa, anh ấy cũng sẽ không ngồi sau bàn giấy cho đến khi Cục buộc anh ấy nghỉ hưu với một khoản thù lao hấp dẫn. Anh ấy muốn được sát cánh với các đặc vụ ở văn phòng của mình nơi con phố này. Anh sẽ gắn bó với Văn phòng Khu vực FBI thành phố Washington và chết hiên ngang, chứ không chấm dứt cuộc đời một cách nhàn hạ. Một lần nữa, anh nhấc điện thoại nội bộ lên. “Julie, tôi chuẩn bị về nhà đây.”
Julie Bayers nhìn lên và liếc nhanh đồng hồ đeo tay như
thể đang là giờ nghỉ trưa vậy.
“Vâng, thưa sếp.” Cô trả lời, trong giọng nói của cô có chút hoài nghi.
Khi đi ngang qua văn phòng, Nick cười cởi mở với Julie. “Bánh Moussaka17*truyền thống của Hy Lạp, cơm trộn thập cẩm và vợ; đừng để lộ thông tin cho bọn Mafia nhé.” Nick hối hả bước gần qua ngưỡng cửa thì điện thoại riêng của anh ấy reo lên. Chỉ một chút nữa thôi, anh ấy đã có thể bước vào thang máy đang mở cửa chờ đợi, nhưng Nick không bao giờ có thể từ chối các cuộc gọi đến. Julie đứng dậy và bắt đầu bước tới văn phòng của anh. Nick rất cảm kích khi cô làm việc đó, nhưng như thường lệ, anh ấy nhanh chóng quay lại. “Không sao đâu, Julie, cứ để tôi nhận điện thoại.” Anh ấy trở lại văn phòng và nhấc ống nghe.
“Tôi, Stames đang nghe đây.”
“Chào sếp, tôi là Trung úy Blake, thuộc Lực lượng Cảnh sát Thủ Đô.”
“A, chào cậu, Dave, chúc mừng cậu được thăng chức. Tôi đã không gặp cậu trong…” anh ngập ngừng một chút như để nhớ lại, “phải đến năm năm ấy nhỉ, khi đó cậu mới chỉ là hạ sĩ. Dạo này cậu thế nào rồi?”
“Cảm ơn sếp, tôi đang công tác khá ổn.”
“Nào, Trung úy, trở lại chủ đề chính với các vụ án nhé. Cậu đang mắc phải vụ việc nào đó chăng? Tóm được một thằng nhóc mười bốn tuổi ăn cắp kẹo cao su và cần tôi cử những anh chàng cừ nhất đến để tìm nơi nghi phạm giấu hàng hả?”
Blake bật cười lớn. “Không tệ đến thế đâu, sếp Stames. Có một gã ở Trung tâm Y tế Woodrow Wilson muốn gặp người đứng đầu FBI. Hắn nói hắn có thông tin vô cùng quan
trọng muốn khai báo.”
“Tôi hiểu. Chính tôi cũng muốn gặp anh ta. Liệu anh ta có phải một trong số những người thường xuyên đưa tin cho chúng ta không, Dave?”
“Không phải, sếp ạ.”
“Tên hắn là gì?”
“Angelo Casefikis.” Rồi Blake đánh vần cái tên đó cho Stames nghe.
“Có thêm thông tin gì khác không?” Stames hỏi. “Không, tôi chỉ nói chuyện với anh ta qua điện thoại. Tất cả những gì anh ta nói là nước Mỹ sẽ phải trả giá đắt nếu FBI không nghe câu chuyện của anh ta.”
“Anh ta đã nói thế sao? Giữ máy, chờ chút nhé, tôi sẽ kiểm tra xem tên hắn có thuộc danh sách những kẻ lập dị thường đưa tin quấy rối không?”
Nick Stames nhấn nút kết nối với nhân viên ca trực. “Ai đang trực ca vậy?”
“Paul Fredericks đây, thưa sếp.”
“Paul, kiểm tra danh sách bọn ấm đầu18*.”
Danh sách bọn ấm đầu, như vẫn thường được biết đến một cách trìu mến ở Cục, là một tập hợp các thẻ đánh số màu trắng ghi tên của tất cả những kẻ thích gọi điện vào lúc nửa đêm và phàn nàn rằng người Sao Hỏa đã hạ cánh ở sân sau nhà họ, hoặc rằng họ đã khám phá ra mưu đồ thống trị thế giới của CIA.
Đặc vụ Fredericks lập tức liên lạc trở lại với bản danh sách ở ngay trước mặt.
“Đã sẵn sàng, sếp. Xin cho biết tên của hắn.”
“Angelo Casefikis.” Stames nói.
“Một tên điên Hy Lạp.” Fredericks nói. “Sếp không bao giờ
tưởng tượng được mấy tên nước ngoài kiểu này muốn làm gì đâu.”
“Người Hy Lạp không phải là người nước ngoài.” Stames ngắt lời. Tên của anh ấy, trước khi được rút ngắn vốn là Nick Stamatakis. Anh ấy sẽ không giờ tha thứ cho cha mình vì ông đã Anh hóa họ của một dòng họ lớn gốc Hy Lạp, lạy Chúa lòng lành hãy cứu rỗi linh hồn ông ấy.
“Xin lỗi sếp. Không có cái tên nào như thế trong hồ sơ lưu về những kẻ đưa tin quấy rối lẫn hồ sơ những người cung cấp tin tức. Gã đó có nhắc đến tên bất cứ đặc vụ nào mà hắn biết không ạ?”
“Không, hắn chỉ muốn gặp duy nhất người đứng đầu FBI thôi.”
“Chẳng phải chúng ta cũng thế sao?”
“Đừng hỏi linh tinh nữa, Paul, hoặc là anh sẽ nhận nhiệm vụ trực ca giải quyết những người đưa tin này nhiều hơn một tuần theo quy định đấy.”
Mỗi một đặc vụ thuộc Văn phòng Khu vực đều phải trực một tuần mỗi năm để giải quyết các vụ việc liên quan đến danh sách các kẻ đưa tin quấy nhiễu, trả lời các cuộc gọi suốt đêm, chống lại những người Sao Hỏa lọc lõi, ngăn cản các cuộc đảo chính đê tiện của CIA và trên tất cả, không bao giờ làm mất danh tiếng của Cục. Đặc vụ nào cũng ngán nhiệm vụ khó nhằn này. Paul Fredericks nhanh chóng đặt điện thoại xuống. Hai tuần trực cho nhiệm vụ này đủ để khiến bạn tự viết một cái thẻ trắng nhỏ nhắn có tên chính mình trên đó.
“Chà, cậu có ý kiến gì không?” Stames hỏi Blake trong lúc uể oải lấy điếu xì gà từ ngăn bàn bên trái. “Hắn tỏ ra như thế nào?”
“Hoảng loạn và nói năng không mạch lạc. Tôi đã phái một vài lính mới đến gặp hắn, nhưng họ không thể khai thác thêm được thông tin gì ngoài việc nước Mỹ nên lắng nghe những gì mà hắn sắp nói. Gã đó dường như thực sự bị điều gì đó làm cho khiếp sợ. Hắn bị một vết thương do súng bắn vào chân và vết thương đó có vài dấu hiệu biến chứng. Nó đã bị nhiễm trùng. Rõ ràng là gã đã để vết thương trong tình trạng như thế vài ngày trước khi đến bệnh viện.”
“Có biết gã bị bắn trong tình huống nào không?” “Vẫn chưa biết rõ. Chúng tôi vẫn đang tìm nhân chứng, nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm được thêm bất cứ điều gì và gã Casefikis đó không chờ chúng tôi cả ngày.” “Muốn gặp FBI thật sao? Chỉ gặp người chức vụ cao nhất, hừm?” Stames nói. Anh hối tiếc vì đã nhấn mạnh trong lúc anh tuôn ra câu đó, nhưng đã quá trễ. Anh đã vô tình bao gồm chính mình trong số đó. “Cảm ơn, Trung úy.” Stames nói. “Tôi sẽ cử ai đó phụ trách xử lí ngay lập tức và thông báo lại ngắn gọn cho cậu vào sáng mai.”
Stames đặt điện thoại xuống. Đã 6 giờ tối – tại sao anh lại quay lại văn phòng cơ chứ? Cái điện thoại chết tiệt. Grant Nanna cũng có thể xử lí vụ việc tốt như anh cơ mà. Và anh đáng lẽ đã không nhấn mạnh một cách thiếu suy nghĩ về việc gã kia muốn gặp người có chức vụ cao nhất. Đã có quá đủ các mâu thuẫn va chạm giữa FBI và Cảnh sát Thủ đô mà chả cần đến cú bồi thêm đó. Nick nhấc điện thoại nội bộ và kết nối với Trưởng ban Hình sự.
“Grant.”
“Tôi tưởng anh nói anh phải về nhà.”
“Đến văn phòng tôi một lát nhé?”
“Vâng, tôi có mặt ngay, thưa sếp.”
Grant Nanna xuất hiện chỉ sau vài giây cùng với điếu xì gà quen thuộc đã trở thành thương hiệu của ông. Ông ấy mặc chiếc áo khoác mà ông chỉ mặc mỗi khi đến gặp Nick trong văn phòng của anh.
Sự nghiệp của Nanna có nhiều dấu ấn đáng khen đến nỗi có thể đem viết thành tiểu thuyết. Ông ấy sinh ra ở El Campo, Texas và có bằng Cử nhân của trường Đại học Baylor. Từ đây, Nanna lấy bằng luật ở SMU19*. Khi còn là một đặc vụ trẻ tuổi và được chỉ định phụ trách Văn phòng Khu vực của FBI ở Pittsburgh, Nanna đã gặp người vợ tương lai của mình, Betty, một người viết tốc ký của FBI. Họ có với nhau bốn đứa con trai và chúng đều học trường đại học Bách khoa Virginia: hai kĩ sư, một bác sĩ và một nha sĩ. Nanna đã là đặc vụ FBI hơn ba mươi năm, nhiều hơn Nick tới mười hai năm. Trên thực tế, Nick đã từng là tân binh được Nanna dẫn dắt. Tuy nhiên, Nanna không hề có chút ác cảm nào với Nick, kể cả khi ông giữ chức vụ Trưởng ban Hình sự, ông vẫn rất tôn trọng Nick khi gọi anh ấy là sếp cả trong những lúc chỉ có hai người với nhau.
“Có chuyện gì vậy, sếp?”
Stames ngước nhìn lên khi Nanna bước vào văn phòng. Anh ấy phải thừa nhận rằng, Điều phối viên Hình sự năm mươi lăm tuổi, luôn ngậm xì gà trên môi, với thân hình rắn chắc, cao khoảng một mét tám, chắc chắn không có cân nặng đáng mơ ước theo tiêu chuẩn của Cục. Một người đàn ông cao một mét tám được yêu cầu phải giữ cân nặng ở mức từ bảy mươi đến bảy mươi ba cân. Nanna lúc nào cũng sợ rúm cả người mỗi khi đến kỳ kiểm tra cân nặng của toàn bộ nhân viên đặc vụ FBI mỗi quý. Rất nhiều lần, ông ấy đã bị buộc phải giảm số cân thừa vì vi phạm nghiêm trọng quy
định của Cục, đặc biệt là dưới thời Giám đốc Hoover, khi mà cái đáng khao khát chính là thanh gọn và thiện chiến. Ai lại đi để tâm đến điều đó chứ, Stames đã nghĩ. Kiến thức và kinh nghiệm của Grant đáng giá hơn cả tá các đặc vụ trẻ trung, vạm vỡ, tráng kiện mà ngày nào cũng đứng đầy ngoài sảnh Văn phòng Khu vực FBI thành phố Washington. Cũng giống như hàng trăm lần trước đó, anh ấy tự nhủ rằng sẽ xử lí vấn đề cân nặng của Nanna vào lúc khác.
Nick thuật lại toàn bộ câu chuyện về gã Hy Lạp kỳ lạ ở Trung tâm y tế Woodrow Wilson, chính xác như Trung úy Blake nói trước đó. “Tôi muốn ông cử hai nhân viên đến đó điều tra. Ai đang làm nhiệm vụ trực ca tối nay vậy?”
“Aspirin, nhưng sếp ạ, nếu anh nghi ngờ đó có thể là kẻ chỉ điểm, tôi chắc chắn không thể cử ông ấy đi.” “Aspirin” là biệt danh của một đặc vụ lớn tuổi nhất vẫn được Văn phòng Khu vực FBI tại thành phố Washington thuê. Sau những năm tuổi trẻ làm việc dưới trướng của Hoover, ông ấy xử lí mọi vấn đề một cách rập khuôn và máy móc theo đúng các luật lệ và quy định, khiến cho hầu hết mọi người đều mệt mỏi. Ông ấy sắp nghỉ hưu vào cuối năm nay và mọi người giờ đây chuyển dần từ sự bực tức sang sự luyến tiếc.
“Không, đừng cử Aspirin đi nhé. Hãy cử hai đặc vụ trẻ tuổi nào đó.”
“Calvert và Andrews được không?”
“Đồng ý.” Stames hưởng ứng. “Nếu ông tóm tắt thông tin cho họ ngay lập tức, tôi vẫn có thể về nhà kịp bữa tối. Gọi về nhà cho tôi, nếu phát hiện ra điều gì đặc biệt.” Grant Nanna rời văn phòng của Nick, còn Nick mỉm cười
chào tạm biệt một cách tình tứ lần thứ hai với thư ký của mình. Julie là điều hấp dẫn duy nhất trong Văn phòng Khu vực này. Cô ngước lên và mỉm cười hờ hững “Làm việc cho một đặc vụ FBI thì không vấn đề, nhưng mình sẽ không đời nào lấy một đặc vụ FBI làm chồng.” Cô tự nhủ với hình ảnh của mình trên tấm gương nhỏ ở ngăn kéo bàn trên cùng.
Điều phối viên hình sự Grant Nanna trở về văn phòng của mình và nhấc điện thoại nhánh để gọi đến Phòng Hình sự. “Calvert và Andrews đến văn phòng tôi nhé.”
“Vâng thưa sếp.”
Tiếng gõ cửa nghe có vẻ chắc chắn và dứt khoát. Hai đặc vụ trẻ tuổi bước vào. Một người là Barry Calvert với thân hình to lớn, vạm vỡ xét theo bất cứ tiêu chuẩn hình thể nào, nhờ chiều cao hơn hai mét đo chân trần mà không mấy người có được. Ở tuổi ba mươi hai, anh ấy được đánh giá là một trong những nhân viên trẻ giàu tham vọng sự nghiệp nhất trong bộ phận Hình sự. Anh ta mặc một chiếc áo khoác màu xanh lá đậm, quần dài sẫm màu khó tả và mang giày leo núi màu đen được đóng da cẩn thận. Mái tóc nâu được cắt ngắn, tỉa gọn gàng và rẽ ngôi sang bên phải. Chiếc kính phi công hình giọt nước cổ điển của anh ta là một dấu hiệu của sự không theo lề thói. Anh luôn ở lại rất muộn sau giờ tan sở lúc 5 giờ 30 phút chiều. Không chỉ là vì anh ấy đang phấn đấu để leo dần lên các nấc thang sự nghiệp, mà còn là do anh ấy yêu công việc. Cho đến thời điểm này, anh không yêu bất kỳ ai, hay ít nhất là không quan hệ tình cảm kiểu tạm bợ. Calvert là một người gốc Midwester. Anh đã gia nhập FBI sau khi lấy bằng cử nhân chuyên ngành Xã hội học của trường Đại học Indiana. Sau đó anh ấy đã tham gia khóa học kéo dài mười lăm tuần tại Quantico, Học viện FBI. Xét
theo mọi góc độ, anh ấy đúng là hình mẫu chuẩn mực của một nhân viên đặc vụ FBI.
Ngược lại, Mark Andrews là một trong những đặc vụ tập sự FBI khác thường hơn cả. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử tại Yale và hoàn thành việc học tại trường Luật Yale, anh quyết định trải nghiệm thực tế trong vài năm trước khi anh ấy gia nhập một công ty luật. Anh ấy cảm thấy việc tìm hiểu về tội phạm hình sự và trải nghiệm “vào hang bắt cọp” rất hữu ích cho nghề luật của mình. Anh ta đã không đề cập đến điều này trong phần khai lí do khi nộp đơn xin gia nhập vào Cục - không ai được phép coi nhiệm vụ và công việc của Cục Điều tra Liên bang như một trải nghiệm để học hỏi. Trên thực tế, Hoover coi trọng nghề nghiệp đến mức ông không chấp nhận các đặc vụ từng xin ra khỏi Cục quay trở lại làm việc. Cao hơn một mét tám, Mark Andrews trông vẫn nhỏ bé khi đứng bên cạnh Calvert. Andrews có một khuôn mặt tươi tắn, cởi mở với đôi mắt xanh nước biển trong veo và một mái tóc xoăn dày, dài vừa đủ chấm tới cổ áo sơ mi. Ở tuổi hai mươi tám, anh là một trong những đặc vụ trẻ nhất trong phòng. Anh luôn ăn mặc hết sức thời thượng và đôi khi không đúng quy định. Nick Stames đã từng bắt gặp anh ta mặc một chiếc áo khoác thể thao màu đỏ kết hợp với quần nâu và anh đã cho Andrews trở về nhà để ăn mặc lại theo đúng quy cách của Cục. Nguyên tắc là: Không bao giờ làm điều gì ảnh hưởng tới danh tiếng của Cục. Sự dễ mến của Mark đã giúp anh ta tránh được rất nhiều rắc rối trong Ban Hình sự; thế nhưng, sự kiên định với mục đích nghề nghiệp của anh ấy còn quan trọng hơn cả việc thể hiện học vấn và phong thái của một sinh viên đã tốt nghiệp Ivy League20*. Anh ấy tự tin, nhưng không bao giờ tự cao tự đại hay đề cao
lợi thế riêng của mình. Anh ấy không để cho bất cứ ai trong Cục biết kế hoạch nghề nghiệp của mình.
Grant Nanna tóm tắt lại các tình tiết trong câu chuyện về người đàn ông sợ hãi đang chờ đợi họ ở Trung tâm Y tế Woodrow Wilson.
“Hắn có phải là một người da đen không?” Calvert hỏi. “Không, một gã người Hy Lạp.”
Sự ngạc nhiên lộ rõ trên khuôn mặt của Calvert. Tám mươi phần trăm cư dân của thành phố Washington này là người da đen và chín mươi tám phần trăm những người bị bắt vì các cáo buộc hình sự đều là người da đen. Một trong những lí do mà vụ đột nhập tai tiếng tại Watergate trở nên đáng ngờ ngay từ đầu đối với những người biết rất rõ về Washington là vì thực tế không có người da đen nào tham gia vụ đó, mặc dù không có đặc vụ nào chịu thừa nhận chuyện này.
“Xong rồi, Barry, cậu xử lí được vụ này chứ?”
“Chắc chắn rồi, sếp có cần báo cáo đặt sẵn trên bàn làm việc ngay sáng mai không?”
“Không cần đâu, sếp trưởng muốn các cậu liên lạc trực tiếp với anh ấy nếu cuộc điều tra chuyển hướng đặc biệt, còn không thì chỉ cần lập báo cáo cho vụ điều tra đêm nay thôi.” Chuông điện thoại của Nanna reo vang. Polly, nhân viên điều phối trực tổng đài thông báo: “Sếp Stames đang trên đường dây gọi thoại trực tiếp từ xe riêng của ông ấy cho ông, thưa ông.”
“Anh ta chẳng bao giờ buông bỏ được phải không nào?” Grant lấy lòng bàn tay che ống nói của điện thoại và nói với hai đặc vụ cấp dưới.
“Chào sếp.”
“Ông Grant, tôi đã nói với ông rằng gã người Hy Lạp đó trúng viên đạn ở chân và vết thương đã bị nhiễm trùng chưa nhỉ?”
“Sếp đã nói rồi.”
“À phải, ông giúp tôi một việc, được không? Gọi cho cha Gregory tại nhà thờ Thánh Constantine và Thánh Helen rồi nhờ ông ấy đến bệnh viện cùng gặp anh chàng người Hy Lạp đó nhé.”
“Tất cả những gì anh yêu cầu sẽ được thực hiện, sếp ạ.” “Và về nhà đi, Grant. Aspirin có thể xử lí các công việc ở văn phòng đêm nay.”
“Tôi đang rời văn phòng đây, sếp.”
Đường dây đã ngắt kết nối.
“Được rồi, hai cậu, lên đường thực hiện nhiệm vụ đi.” Hai chàng đặc vụ đi thẳng tới cuối hành lang u ám, bụi bặm, bước vào thang máy đang chờ phục vụ. Chiếc thang máy cổ lỗ sĩ, cũng như mọi khi, có vẻ như cần phải khởi động bằng một cái quay tay vậy. Cuối cùng, khi đã ra đến Đại lộ Pennsylvania, họ chọn đi một chiếc xe của FBI.
Mark lái chiếc Ford màu xanh đậm chạy xuôi theo Đại lộ Pennsylvania, qua Viện lưu trữ Quốc gia và Phòng trưng bày Mellon. Anh ta chạy vòng quanh khuôn viên Capitol bề thế, hướng ra Đại lộ Độc Lập và đi thẳng tới khu Đông Nam của thành phố Washington. Khi hai đặc vụ chờ đèn đỏ ở đường Số 1 gần Thư viện Quốc hội, Barry nhìn đồng hồ đeo tay và bực bội với tình trạng ùn tắc giao thông giờ cao điểm.
“Tại sao họ không cử Aspirin thực hiện nhiệm vụ chết tiệt này nhỉ?”
“Vậy ai sẽ đưa Aspirin đến bệnh viện đây?” Mark trả lời. Mark mỉm cười. Hai người bọn họ đã thiết lập một mối
quan hệ hữu hảo ngay khi mới gặp nhau lần đầu tiên ở Học viện FBI tại Quantico. Trong ngày đào tạo đầu tiên của khóa học, mỗi học viên đều nhận được một bức điện tín xác nhận việc nhập học tại Học viện. Ngay sau đó, mỗi đặc vụ mới gia nhập được yêu cầu kiểm tra điện tín của những người ở bên phải và bên trái mình để xác thực thông tin của họ. Hoạt động diễn tập chủ yếu nhấn mạnh việc luôn phải hết sức thận trọng. Mark đã liếc nhìn bức điện của Barry và cười nhăn nhở khi trả lại bức điện: “Tôi cho rằng sự có mặt của anh là hợp lệ,” anh nói thêm, “nếu quy định của FBI chấp nhận để King Kong21*đứng trong hàng ngũ của mình.”
“Nghe này.” Calvert đáp trả, trong khi đọc bức điện của Mark một cách chăm chú. “Andrews thân mến, một ngày nào đó anh có thể sẽ cần King Kong giúp đỡ đấy.”
Đèn chuyển xanh, nhưng một chiếc xe phía trước xe của Mark và Barry ở làn đường bên trong muốn rẽ trái vào đường Số 1. Chỉ trong một khoảnh khắc, hai chàng đặc vụ FBI thiếu kiên nhẫn lại bị mắc kẹt giữa dòng xe cộ một lần nữa.”
“Anh thử nghĩ xem gã này sẽ nói gì với chúng ta?” “Tôi hi vọng anh ta có vụ gì đấy với ngân hàng trong thành phố.” Barry trả lời. “Tôi đã là đặc vụ điều tra, và ba tuần rồi, tôi chưa được giao phó một đầu mối tình nghi nào. Sếp Stames đang bắt đầu cảm thấy bồn chồn vì chuyện đó rồi.”
“Không, chắc chắn không phải đâu, gã này bị bắn một phát vào chân và viên đạn vẫn chưa được lấy ra. Nhiều khả năng hắn là một trong số những kẻ đưa tin quấy nhiễu thuộc danh sách đen. Biết đâu đấy, hắn bị vợ bắn vì ghen tuông chuyện chim chuột, trai gái khi hắn
không về nhà đúng giờ.”
“Anh thấy đấy, sếp có lẽ chỉ mời một linh mục giúp cho một người Hy Lạp đồng hương nào đó. Anh và tôi có thể phải lặn ngụp trong địa ngục chừng nào sếp muốn.” Cả hai bọn họ cùng phá lên cười. Họ biết chắc nếu một trong hai người bọn họ gặp rắc rối, Nick Stames có thể sẽ di dời cả tượng đài Washington cho dù anh có phải gỡ từng viên đá một, chỉ cần anh ấy cho rằng điều đó có ích. Khi chiếc xe tiếp tục xuôi theo Đại lộ Độc Lập hướng vào trung tâm khu đông nam thành phố Washington, mật độ giao thông dần dần thưa đi. Chỉ sau vài phút, họ vượt qua đường Số 19 và Kho vũ khí quân sự thành phố, rồi dừng lại ở Trung tâm Y tế Woodrow Wilson. Họ đã tìm ra ra bãi đậu xe dành cho khách đến thăm, Calvert đậu xe và kiểm tra lại từng ổ khóa trên mỗi cửa xe thêm một lần nữa. Không có gì đáng xấu hổ đối với một đặc vụ hơn việc để mất cắp chiếc xe của mình và sau đó được Cảnh sát Thủ đô gọi điện yêu cầu đến lấy lại. Đó là cách nhanh nhất để đến với một tháng trực và phụ trách giải quyết những kẻ gây rối lập dị.
Lối vào bệnh viện cũ kỹ và tồi tàn, còn hành lang thì toàn một màu xám xịt ảm đạm. Cô gái trực ca đêm tại bàn tiếp tân nói với họ rằng cái gã Casefikis đó ở trên tầng bốn, phòng 4308. Cả hai đặc vụ đều ngạc nhiên bởi kẽ hở an ninh quá thiếu sót này. Họ không cần phải xuất trình phù hiệu và họ được phép đi lang thang quanh tòa nhà như thể hai thực tập sinh vậy. Không ai buồn nhìn họ đến lần thứ hai. Có lẽ bởi vì bản thân là đặc vụ khiến họ trở nên quá cảnh giác với vấn đề an ninh chăng?
Thang máy đi rất chậm, đưa họ lên tầng bốn một cách khó khăn. Đi cùng trong thang máy là một người đàn ông
chống nạng và một người phụ nữ ngồi xe lăn. Hai người đó trò chuyện với nhau như thể họ có rất nhiều thời gian rảnh rỗi, không để ý đến tốc độ di chuyển ì ạch của cái thang máy. Khi họ đến tầng bốn, Calvert bước ngay tới chỗ một y tá và yêu cầu được gặp bác sĩ trực ca.
“Tôi nghĩ bác sĩ Dexter đã hết ca trực, nhưng tôi sẽ kiểm tra lại lần nữa xem sao.” Cô y tá trợ lý trả lời và vội vã rời đi. Không phải ngày nào cũng có đặc vụ FBI đến nơi này và cái anh chàng thấp hơn, người sở hữu đôi mắt xanh lục, trong veo kia, trông rất ưa nhìn. Cô y tá quay trở lại cùng với bác sĩ, cả hai cùng đi xuôi xuống hành lang. Bác sĩ Dexter khiến cho cả Calvert và Andrews ngạc nhiên. Họ tự giới thiệu bản thân với nhau. Chắc hẳn là vì đôi chân của cô ấy, Mark nhận định. Lần cuối cùng anh ấy nhìn thấy một đôi chân đẹp như thế là khi Câu lạc bộ Điện ảnh Yale chiếu lại bộ phim nổi tiếng The Graduate – đó là đôi chân của diễn viên Anne Bancroft.
Đó là lần đầu tiên Mark thực sự ngắm nghía đôi chân của một người phụ nữ và kể từ lúc đó, anh ấy đã không thể ngừng ngắm nghía đôi chân đó được.
“B.s Elizabeth Dexter” – hàng chữ màu đen nổi bật trên nền đỏ của tấm biển tên bằng nhựa tô điểm thêm cho chiếc áo choàng trắng tinh của bác sĩ. Mark có thể quan sát thấy cô ấy mặc một chiếc sơ mi lụa màu đỏ cùngchiếc váy đen rủ đến đầu gối bên trong áo choàng. Bác sĩ Dexter có chiều cao vừa phải và thân hình mảnh khảnh đến mức mong manh. Cô ấy không trang điểm, Mark đoán là như vậy. Rõ ràng, làn da mịn màng và đôi mắt đen thẫm hút hồn của cô ấy không cần đến bất kỳ sự tô điểm nào nữa. Sau tất cả thì cũng có điều gì đó khiến cho chuyến đi điều tra trở nên bõ
công. Mặt khác, Barry lại chẳng để tâm gì tới cô bác sĩ xinh đẹp, mà chỉ yêu cầu được xem hồ sơ bệnh án của cái tay Casefikis quái gở đó. Mark mở đầu cuộc điều tra bằng một nhận định chớp nhoáng:
“Cô Dexter có quan hệ gì với ngài Thượng Nghị sĩ Dexter không nhỉ?” Mark hỏi, hơi nhấn mạnh từ Thượng Nghị sĩ. “Vâng, ông ấy là cha tôi.” Cô trả lời thẳng thắn. Rõ ràng cô ấy đã quá quen thuộc, hay nói đúng hơn là cảm thấy chán khi bị hỏi câu hỏi đó – và tất nhiên là bị hỏi bởi những người cứ cho rằng đó là một cái gì đó ghê gớm lắm. “Tôi đã nghe ông ấy giảng khi tôi học năm cuối ở trường Luật Yale.” Mark đáp và nhận ra rằng anh đang cố khoe khoang để gây chú ý. Nhưng cùng lúc đó, anh ấy nhận ra, Calvert có lẽ đã hoàn thành cái báo cáo chết dẫm kia chỉ trong chốc lát.
“Ồ, anh cũng từng học ở Yale à?” Bác sĩ Dexter hỏi. “Anh tốt nghiệp năm nào vậy?”
Mark trả lời: “Cách đây ba năm, trường Luật.”
“Biết đâu chúng ta đã từng gặp nhau rồi nhỉ. Tôi mới tốt nghiệp trường Y của Đại học Yale năm ngoái.”
“Nếu tôi đã từng được gặp cô trước đây, bác sĩ Dexter, tôi chắc chắn sẽ không quên đâu.”
“Khi nào thì hai người bạn đồng môn Ivy League kết thúc câu chuyện hồi tưởng về những ngày tháng sinh viên đáng nhớ đây nhỉ?” Barry Calvert ngắt lời, “Có một anh chàng đến từ Midwestern muốn được bắt đầu công việc của anh ấy đấy.”
Ồ, phải rồi, Mark nghĩ, cái đích cuối cùng mà Barry nhắm đến là trở thành Giám đốc Cục FBI một ngày nào đó. “Bác sĩ Dexter, cô có thể cung cấp cho chúng tôi vài
thông tin mà cô biết về người đàn ông này không?” Calvert hỏi.
“Khá ít thông tin, tôi e là như vậy.” Cô Dexter trả lời trong khi với tay lấy lại tập hồ sơ bệnh án về Casefikis. “Anh ta tự tìm đến chúng tôi và nói rằng mình bị thương do súng bắn. Vết thương đã có dấu hiệu nhiễm trùng cho thấy anh ta đã bị bắn khoảng một tuần rồi. Tôi ước gì anh ta đã tìm đến chúng tôi sớm hơn. Tôi vừa mới gắp viên đạn ra sáng nay. Anh biết đấy, Calvert, chúng tôi có nhiệm vụ phải thông báo cho cảnh sát ngay lập tức khi có bệnh nhân bị thương do súng bắn nhập viện và vì thế chúng tôi đã gọi điện báo cho các đồng sự của các anh ở Sở Cảnh sát Thủ đô.”
“Không cùng cơ quan với chúng tôi.” Mark chỉnh lại. “Tôi xin lỗi.” Bác sĩ Dexter trả lời khá nghiêm túc. “Đối với một bác sĩ, bất cứ ai làm việc trong các cơ quan an ninh đều là cảnh sát hết.”
“Và đối với một cảnh sát, bác sĩ là bác sĩ, nhưng bác sĩ cũng có chuyên ngành riêng chứ - chẳng hạn như chuyên khoa chỉnh hình, phụ khoa, thần kinh - phải không nào? Cô không có ý nói tôi trông giống như một gã cảnh sát trên đường phố thuộc Sở Cảnh sát Thủ đô đấy chứ?”
Bác sĩ Dexter đã không bị gài để tự đưa ra một phản ứng tâng bốc. Cô với tay lấy lại tập bìa hồ sơ làm bằng bột giấy manilla. “Tất cả những gì chúng tôi biết là anh ta là người gốc Hy Lạp và tên anh ta là Angelo Casefikis. Anh ta chưa từng khám chữa tại bệnh viện này trước đây. Và anh ta nói mình đã ba mươi tám tuổi... Không còn gì nữa. Tôi e là như thế.”
“Vậy cũng tốt lắm rồi, chúng tôi cũng thường nhận được có bấy nhiêu thông tin thôi. Cảm ơn cô, bác sĩ Dexter.”
Calvert nói. “Chúng tôi có thể gặp anh ta được không?” “Đương nhiên rồi. Làm ơn đi theo tôi.” Elizabeth Dexter quay người lại và dẫn họ đi xuôi hành lang.
Hai người đàn ông đi theo cô, Barry đưa mắt chăm chú tìm cánh cửa được đánh số 4308, Mark thì chỉ mải ngắm nghía đôi chân cô bác sĩ. Nhìn vào từ ô cửa sổ nhỏ, họ thấy trong phòng có hai người đàn ông ngay từ bên ngoài ô cửa sổ nhỏ, Angelo Casefikis và một người đàn ông da đen trông khá vui vẻ, anh chàng đó cứ nhìn chằm chằm vào một chiếc máy phát hình không có tiếng. Calvert quay sang phía bác sĩ Dexter.
“Chúng tôi gặp riêng anh ta một chút được không, bác sĩ Dexter?”
“Tại sao vậy?” Cô ấy hỏi lại.
“Chúng tôi không biết anh ta định kể gì với chúng tôi và anh ấy có thể không muốn câu chuyện bị người khác nghe thấy.”
“Ồ, anh không cần quá lo lắng đâu.” Bác sĩ Dexter nói và cười lớn. “Người đưa thư yêu thích của tôi, cái người ở trên giường bên cạnh anh chàng Hy Lạp là Benjamin Reynolds, bị điếc và im lặng như một cái bưu kiện ấy. Và cho đến khi chúng tôi phẫu thuật cho anh ta vào tuần tới, anh ta sẽ không thể nghe thấy ngay cả tiếng tù và của thiên thần đưa tin Gabriel báo hiệu Ngày phán xét22*, chứ đừng nói đến một thông tin bí mật quốc gia.”
Calvert lần đầu tiên mỉm cười. “Anh ta thật là một nhân chứng dở tệ.”
Bác sĩ dẫn trước và đưa cả Calvert lẫn Andrews vào trong phòng, sau đó, cô quay đi và bỏ họ lại. Hẹn gặp lại sau, quý cô đáng yêu, Mark tự hứa với mình. Calvert nhìn Benjamin
Reynolds với con mắt đầy nghi hoặc, nhưng người đưa thư da đen chỉ phản ứng lại bằng một nụ cười thật hạnh phúc. Anh ta vẫy tay chào và tiếp tục xem chương trình vô thanh có tên là Kim tự tháp 25.000 đô-la trên cái TV. Tuy nhiên, Barry Calvert vẫn đứng ở phía bên kia giường bệnh và chủ động chặn tầm nhìn của anh ta hướng tới Casefikis đề phòng anh ta có thể hiểu được nội dung câu chuyện thông qua khẩu hình miệng. Barry suy nghĩ thấu đáo về mọi thứ.
“Ông Casefikis phải không?”
“Vâng, đúng. Tôi đây.”
Casefikis có vẻ ngoài trông khá xanh xao và ốm yếu với nước da tai tái. Anh ta có khổ người tầm thước; mũi to, lông mày rậm và khuôn mặt hằn dấu vết của những nỗi lo lắng, bất an thường trực. Tóc anh ta dày, sẫm màu và bù xù; hai bàn tay dường như đặc biệt lớn trên nền trắng của chiếc giường bệnh, với những đường gân lộ rõ. Khuôn mặt anh ta trông tối sầm bởi bộ râu lâu ngày không cạo. Một chân bị cuốn băng dày và cứng, nằm yên bất động trên tấm ga trải giường. Anh ta đảo mắt lo lắng, hết nhìn Calvert lại đến Andrews.
“Tôi là Đặc vụ Calvert và đây là Đặc vụ Andrews. Chúng tôi là nhân viên của Cục Điều tra Liên bang. Chúng tôi được biết là anh muốn gặp chúng tôi.”
Cả hai người đều dùng tay trái rút phù hiệu FBI của mình từ túi áo khoác bên phải và giơ ra cho Casefikis xem. Ngay cả một thao tác dường như không đáng nói đến như vậy cũng được đào tạo rất cẩn thận cho tất cả các đặc vụ FBI để bên tay thuận và mạnh hơn của họ có thể tự do rút súng và bắn nếu cần.
Casefikis nhăn mặt, lúng túng, môi bặm chặt lại, rõ ràng
là không biết phải nhìn vào đâu để xác thực hai cái phù hiệu FBI kia. Chữ ký của đặc vụ phải kéo dài ra bên ngoài con dấu của Bộ Tư Pháp mới đảm bảo độ xác thực. Anh ta nhìn số thẻ 3302 và số phù hiệu 1721 của Mark. Anh ta chẳng nói gì cả, như thể đang băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu, hoặc giả đang nghĩ xem có nên thay đổi ý định và tiếp tục giữ im lặng hay không. Anh ta nhìn chằm chằm vào Mark để tìm kiếm thêm dấu hiệu của sự thông cảm và bắt đầu kể câu chuyện.
“Tôi chưa từng vướng phải rắc rối nào cần phải có sự can thiệp của cảnh sát từ trước tới nay.” Anh ta nói. “Chưa từng, với bất kỳ cảnh sát nào.”
Cả hai đặc vụ, không ai mỉm cười hay nói bất cứ điều gì. “Nhưng bây giờ tôi đang gặp rắc rối lớn và, lạy Chúa lòng lành, tôi cần được giúp đỡ.”
Calvert bắt đầu tham gia câu chuyện. “Tại sao anh cần chúng tôi giúp đỡ?”
“Tôi là người nhập cư bất hợp pháp và vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi đều mang quốc tịch Hy Lạp, đến Baltimore theo đường biển và đã làm việc ở đây hai năm rồi. Chúng tôi không có đường quay lại.”
Anh ấy bắt đầu kể với cảm xúc kích động.
“Tôi phải có giấy tờ thông tin cá nhân mới xin được việc làm, chừng nào chúng tôi còn chưa bị trục xuất.” “Chúng tôi không đủ thẩm quyền làm việc...” Mark bắt đầu tham gia.
Barry huých nhẹ vào cánh tay của Mark. “Nếu điều đó quan trọng với anh và anh có thể giúp chúng tôi giải quyết bọn tội phạm, chúng tôi sẽ nói chuyện với cơ quan quản lý xuất nhập cảnh. Chúng tôi chỉ có thể hứa với anh như vậy
thôi.”
Mark trầm ngâm. Có khoảng sáu triệu người nhập cư bất hợp pháp tại Hoa Kỳ, thêm một cặp vợ chồng nữa cũng không phải điều gì đáng kể lắm.
Casefikis trông có vẻ tuyệt vọng. “Tôi cần công việc, tôi cần tiền, các anh hiểu chứ?”
Cả hai người đều hiểu. Họ phải đối mặt với cùng một vấn đề tương tự cả chục lần một tuần, đằng sau hàng tá các khuôn mặt khác nhau.
“Khi tôi được nhận vào làm công việc bồi bàn trong một nhà hàng, vợ tôi đã rất vui. Trong tuần làm việc thứ hai, tôi được giao một công việc đặc biệt là phục vụ bữa trưa trong một phòng khách sạn cho các ông lớn. Vấn đề khó khăn duy nhất ở đây là họ muốn một người phục vụ không biết tiếng Anh. Tiếng Anh của tôi rất tệ nên ông chủ nói với tôi rằng tôi có thể đi, chỉ cần giữ mồm giữ miệng và chỉ được nói tiếng Hy Lạp. Tôi đồng ý để đổi lấy hai mươi đô-la tiền công. Chúng tôi ngồi phía sau xe tải nhỏ để đi đến một khách sạn, có lẽ thuộc khu Georgetown. Khi đến nơi, họ đưa tôi đến phòng bếp để cùng làm việc với các nhân viên dưới tầng hầm. Tôi sửa sang trang phục và bắt đầu mang thức ăn đến phòng ăn riêng. Trong căn phòng đã có khoảng năm, sáu người đàn ông và tôi nghe thấy một ông lớn thông báo rằng tôi không biết tiếng Anh. Vì vậy, họ cứ tiếp tục nói chuyện. Tôi không để tâm đến câu chuyện của họ cho đến khi phục vụ ly cà phê cuối cùng. Khi họ bắt đầu nói về Tổng thống Kane, tôi thích bà Kane nên tôi mới lắng nghe. Tôi đã nghe thấy họ nói: Chúng ta phải làm cho bà ta nổ tung. Một người đàn ông khác nói: Ngày phù hợp nhất vẫn là ngày 10 tháng 3, như chúng ta đã lên kế hoạch. Và rồi tôi lại nghe thấy họ
nói: Tôi đồng ý với ngài Thượng Nghị sĩ, hãy giải thoát chúng ta khỏi con mụ chó cái đó. Dường như có ai đó đang nhìn chằm chằm vào tôi, vì vậy tôi rời khỏi căn phòng. Khi tôi đi xuống tầng dưới và đang rửa tay trong nhà vệ sinh thì một người đàn ông bước vào và hét lên: Này, anh bạn, chụp lấy! Tôi nhìn xung quanh rồi đưa hai cánh tay cao lên. Đột nhiên, gã đó tiến lại áp sát tôi. Tôi chạy ra cửa và băng xuống đường. Hắn bắn tôi, tôi cảm thấy chân hơi nhói đau, nhưng tôi vẫn có thể chạy thoát vì hắn ta già, to béo và chậm chạp hơn tôi. Tôi nghe thấy hắn ta hét lên, nhưng tôi biết rõ hắn ta không thể bắt kịp được tôi. Tôi hoảng sợ. Tôi về nhà khá nhanh chóng, chúng tôi rời khỏi nhà ngay đêm đó và trốn khỏi thị trấn với sự giúp đỡ của những người bạn bè đồng hương Hy Lạp. Hi vọng tất cả sẽ ổn, nhưng vết thương ở chân tôi đã chuyển biến xấu sau vài ngày, nên vợ tôi, Ariana, đã bắt tôi phải đến bệnh viện và gọi cho các anh, vì bạn tôi có báo rằng lũ người đó đã đến chỗ tôi ở để tìm tôi và nếu tìm thấy tôi, chúng sẽ giết tôi.”
Anh dừng lại, hít thở sâu, khuôn mặt lún phún râu, toát mồ hôi lấm tấm và đưa đôi mắt khẩn cầu nhìn hai nhân viên đặc vụ.
“Anh tên đầy đủ là gì?” Calvert hỏi, giọng nói nghe có chút phấn khích như thể anh ta sắp viết một một vé phạt vi phạm giao thông vậy.
“Angelo Mexis Casefikis.”
Calvert yêu cầu anh ta đánh vần tên họ của mình. “Anh sống ở đâu?”
“Bây giờ là tại căn hộ Blue Ridge Manor, số 1501, đường Elkin, Wheaton. Nhà của bạn tôi, một người đàn ông tốt bụng, xin đừng làm phiền anh ta.”
“Sự việc này xảy ra khi nào?”
“Thứ Năm tuần trước.” Casefikis trả lời ngay lập tức. Calvert kiểm tra ngày tháng. “Ngày 24 tháng 2 nhỉ?” Người Hy Lạp nhún vai. “Thứ Năm tuần trước.”
Anh ta lặp lại.
“Nhà hàng mà anh đang làm việc ở đâu?”
“Cách chỗ tôi ở chỉ vài con phố thôi. Nhà hàng đó tên là Golden Duck.”
Calvert tiếp tục ghi chép lại. “Thế còn cái khách sạn mà anh được đưa đến nằm ở đâu?”
“Tôi cũng không rõ, một chỗ nào đó ở Georgetown. Có lẽ tôi có thể đưa các anh đến đó khi tôi được ra viện.” “Bây giờ, anh Casefikis ạ, xin hãy thận trọng khi trả lời câu hỏi này. Liệu có còn ai khác cũng phục vụ trong bữa tiệc trưa đó và người đó cũng có thể đã nghe lỏm được cuộc trò chuyện trong căn phòng đó?”
“Không, thưa ngài. Tôi người phục vụ duy nhất có mặt trong căn phòng đó.”
“Anh đã kể với ai về những gì anh nghe lỏm được vào bữa đó chưa? Vợ của anh chẳng hạn? Người bạn đang cho anh ở nhờ? Hoặc bất kỳ ai khác?”
“Không, thưa ngài. Tôi chỉ mới kể với các anh. Tôi không nói với vợ tôi những gì tôi đã nghe thấy. Không nói với một ai cả, tôi quá sợ hãi.”
Calvert tiếp tục phỏng vấn và yêu cầu Casefikis mô tả từng người đã có mặt trong căn phòng đó và luôn yêu cầu anh ta nhắc đi nhắc lại mọi điều đã kể để kiểm tra xem liệu câu chuyện có còn giữ nguyên như ban đầu khi phải nhắc lại hay không. Anh ta vẫn nói đúng như cũ. Mark yên lặng quan sát.
“Xong rồi đấy, anh Casefikis, chúng ta chỉ có thể làm được bấy nhiêu đó trong tối nay thôi. Chúng tôi sẽ quay trở lại vào sáng mai để ký tên xác nhận vào biên bản khai báo.”
“Nhưng họ đang định giết tôi. Họ sẽ giết tôi mất.” “Đừng lo, anh Casefikis. Chúng tôi sẽ cắt cử một cảnh sát bảo vệ trong phòng của anh càng sớm càng tốt, sẽ không ai giết được anh đâu.”
Casefikis cụp mắt xuống, không nguôi lo lắng. “Chúng ta sẽ gặp lại vào sáng mai nhé.” Calvert vừa nói, vừa gập cuốn sổ tay lại. “Anh nghỉ ngơi một chút đi. Chúc ngủ ngon, anh Casefikis.”
Calvert quay lại, liếc nhìn anh chàng Benjamin vẫn đang mải mê với chương trình Kim tự tháp 25.000 đô-la không lời trên TV, không gì hơn tiền bạc. Anh ta lại vẫy tay và mỉm cười với họ, hàm răng nhe ra có cả ba màu răng trắng, vàng và cả đen nữa. Calvert và Andrews trở lại hành lang.
“Tôi không tin được dù chỉ một lời của gã đó.” Barry nói ngay lập tức. “Với cái thứ tiếng Anh bập bẹ của mình, anh ta dễ dàng hiểu sai nội dung cốt lõi của câu chuyện. Tình huống có vẻ bình thường. Mọi người lúc nào mà chẳng nguyền rủa Tổng thống. Cha tôi cũng thường làm vậy, nhưng điều đó không có nghĩa là ông ấy sẽ ám sát bà Tổng thống.”
“Có lẽ là như thế, nhưng còn vết thương do đạn bắn của hắn thì sao? Đó là vết thương thật sự do súng bắn.” Mark nói.
“Tôi biết. Tôi đồ rằng đó là điểm duy nhất làm tôi lo lắng đấy.” Barry nói. “Vết thương đó có thể chỉ là vỏ bọc cho thứ gì đó hoàn toàn khác. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ nói lại câu chuyện này với sếp theo hướng an toàn.”
Calvert đi tới một chiếc điện thoại tính phí ngay bên sườn thang máy và lấy ra hai đồng 25 xu. Đặc vụ nào cũng luôn mang theo cả túi đầy đồng 25 xu - không có đặc quyền dành cho các nhân viên của Cục trong chuyện gọi điện thoại.
“Chà, anh chàng đó có nuôi hi vọng tấn công pháo đài Knox23* không vậy?” Giọng nói của Elizabeth Dexter khiến Mark giật mình, mặc dù anh cũng có phân nửa mong đợi cô quay lại. Cô ấy rõ ràng đang trên đường về nhà: chiếc áo choàng ngoài màu trắng đã được thay thế bằng một chiếc áo vest màu đỏ.
“Cũng không hẳn là như vậy.” Mark trả lời. “Chúng tôi sẽ phải trở lại vào sáng mai để hoàn tất thủ tục, để anh ta ký tên và điểm chỉ vào văn bản lời khai, sau đó chúng tôi sẽ lấy vàng.”
“Tốt thôi.” Cô nói. “Bác sĩ Delgado sẽ trực ca ngày mai.” Cô mỉm cười ngọt ngào. “Anh cũng sẽ thích cô ấy cho mà xem.”
“Các nữ bác sĩ xinh đẹp tập trung làm việc hết cho bệnh viện này hay sao vậy?” Mark nói. “Tôi phải làm sao để được ở lại đây một đêm?”
“Chà,” bác sĩ Dexter trả lời, “cúm mùa hiện đang là mốt trong tháng này. Ngay cả Tổng thống Kane cũng đã bị cúm rồi đấy.”
Calvert nhìn xung quanh một cách cảnh giác khi nhắc đến tên của Tổng thống. Elizabeth Dexter liếc nhìn đồng hồ đeo tay của cô ấy.
“Tôi vừa kết thúc hai giờ làm thêm không lương đấy.” Cô nói. “Nếu anh không có thêm bất kỳ câu hỏi nào nữa, anh Andrews, tôi nên về nhà ngay bây giờ.” Cô mỉm cười và
quay đi, gót giày gõ mạnh xuống sàn nhà lát gạch. “Chỉ một câu hỏi nữa thôi, bác sĩ Dexter.” Mark nói trong khi đi theo cô vòng ra một góc để tránh ánh mắt và đôi tai không tán thành của Barry Calvert. “Cô sẽ nói sao nếu tôi mời cô ăn tối hôm nay?”
“Tôi sẽ nói sao ư?” Cô Dexter nhại lại để trêu chọc. “Để xem nào, tôi nghĩ rằng tôi sẽ chấp nhận một cách biết ơn và không quá háo hức. Cũng khá thú vị để tìm hiểu xem mấy chàng G-man24* các anh thực sự thế nào.”
“Chúng tôi cắn.” Mark nói. Họ mỉm cười tình tứ với nhau. “Thế nhé, bây giờ là 7 giờ 15 phút . Nếu cô không từ chối cơ hội này, tôi sẽ đến đón cô lúc 8 giờ 30 phút.”
Elizabeth ghi nhanh địa chỉ và số điện thoại của mình trên một trang trong sổ ghi nhớ của Mark.
“Vậy ra, cô là người thuận tay trái phải không, Liz?” Đôi mắt thẫm màu ánh lên trong giây lát khi cô ấy ngước lên và bắt gặp ánh mắt Mark. “Chỉ có người yêu của tôi mới gọi tôi là Liz.” Cô nói và rời đi.
*
“Tôi là Calvert đây, thưa sếp. Có một điều mà tôi chưa lí giải nổi. Tôi không biết tay Hy Lạp là một gã ngốc hay câu chuyện của gã là có thật nên tôi muốn để sếp quyết định.” “Tốt thôi, Barry. Kể tôi nghe ngay đi.”
“Chà, câu chuyện có thể nghiêm trọng, hoặc cũng có thể chỉ là một trò lừa bịp. Anh ta thậm chí có thể chẳng hơn gì một tên trộm tầm thường đang cố gắng thả con săn sắt, bắt con cá rô. Nhưng tôi không thể chắc chắn câu chuyện đó rơi vào trường hợp nào. Và nếu mọi lời anh ta nói đều là sự thật, tôi cho rằng sếp nên biết ngay lập tức.” Barry thuật lại những chi tiết nổi bật mà anh thu được trong cuộc nói
chuyện cho Stames, nhưng không hề đề cập đến ngài Thượng Nghị sĩ, đồng thời cố tình nhấn mạnh rằng có một chi tiết bổ sung mà anh không muốn báo cáo qua điện thoại.
“Anh đang cố gắng làm gì thế? Đưa tôi ra tòa để ly hôn à? Tôi cho rằng tôi sẽ phải quay lại văn phòng.” Nick Stames nói, tránh né biểu hiện khó chịu vì bị làm phiền của vợ anh. “Được rồi, được rồi. Tạ ơn Chúa, vì ít nhất thì tôi cũng đã ăn được một ít bánh moussaka. Tôi sẽ gặp anh sau ba mươi phút nữa nhé, Barry.”
“Vâng, thưa sếp.”
Calvert dập ống nghe xuống cái giá đỡ điện thoại trong giây lát rồi quay số gọi đến Sở Cảnh sát Thủ đô. Lại mất hai đồng 25 xu nữa và chỉ còn lại mười sáu đồng trong túi. Anh ấy thường nghĩ rằng cách nhanh nhất để kiểm tra xem ai đó có phải là một đặc vụ FBI hay không là bảo anh ta lộn túi từ trong ra ngoài. Nếu có hai mươi đồng 25 xu, anh ta chắc chắn là đặc vụ chính thức của Cục điều tra Liên bang.
“Trung úy Blake đang nghe máy ở bàn tiếp tân. Tôi sẽ nối máy cho anh sang đó.”
“Trung úy Blake xin nghe.”
“Tôi là Đặc vụ Calvert. Chúng tôi đã đến gặp anh chàng Hy Lạp mà các anh thông báo và chúng tôi muốn các anh cắt cử một cảnh sát bảo vệ trong phòng của anh ta.”
“Anh ta không phải gã người Hy Lạp của tôi, rõ là đồ chết tiệt.” Blake nói. “Anh không thể trưng dụng một trong số những anh chàng dễ thương bên phía các anh hay sao?”
“Chúng tôi không còn ai rảnh rỗi lúc này cả, Trung úy ạ.” “Chính xác mà nói tôi cũng đâu có dư thừa nhân lực, vì Chúa. Anh nghĩ chỗ chúng tôi là gì, khách sạn Shoreham à?
Ôi, chết tiệt, tôi sẽ cố gắng xoay xở hết sức. Nhưng sẽ chẳng ai đến được đó trong vòng vài giờ tới đâu đấy.” “Vậy tốt rồi. Cảm ơn anh đã giúp đỡ, Trung úy. Tôi sẽ báo cáo lại cho văn phòng của tôi việc này.” Barry đặt lại cái ống nghe điện thoại.
Mark Andrews và Barry Calvert lại phải đợi thang máy, nó lừ lừ di chuyển một cách chậm chạp xuống tầng dưới, đúng như cái cách mà nó đi lên lúc nãy. Cả hai đặc vụ, không ai bảo ai, đều không nói một lời nào cho đến khi họ đã ở trong chiếc xe Ford màu xanh đậm.
“Sếp Stames đang quay lại văn phòng để nghe báo cáo chi tiết.” Calvert nói. “Tôi không thể hiểu được sao sếp lại muốn điều tra rõ hơn vụ việc này, nhưng chúng ta nên báo cáo cho anh ấy đầy đủ. Biết đâu, một ngày nào đó, chúng ta lại phải đào bới lại vụ này thì sao.”
Mark liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Thêm một giờ bốn mươi lăm phút làm ngoài giờ nữa, chính xác thì, đó là thời gian làm ngoài giờ tối đa cho phép đối với một đặc vụ trong bất kỳ ngày nào.
“Hi vọng thế.” Mark nói. “Tôi vừa có một cuộc hẹn.” “Ai đó mà tôi cũng biết chăng?”
“Cô bác sĩ Dexter xinh đẹp.”
Barry nhướn mày. “Đừng để sếp biết. Nếu anh ấy nghĩ rằng cậu đã hớt được ai đó trong lúc đang làm nhiệm vụ, sếp chắc hẳn sẽ cho anh một lời nguyền ở trong các mỏ muối ở Butte, Montana đấy.”
“Ồ, tôi không biết là ở Butte, Montana còn có cả các mỏ muối nữa cơ đấy.”
“Chỉ những nhân viên đặc vụ FBI có quan hệ tình ái linh tinh mới biết đến những mỏ muối ở Butte thôi.”
Mark lái xe trở lại trung tâm thành phố Washington trong khi Barry viết nốt báo cáo về cuộc phỏng vấn. Khi họ về đến tòa nhà bưu điện cũ thì đã 7 giờ 40 phút và Mark thấy bãi đậu xe gần như trống rỗng. Vào giờ này buổi tối, hầu hết những con người văn minh đều đang ở nhà và làm những việc văn minh, chẳng hạn như ăn bánh moussaka. Xe của Stames đã ở đó. Rõ là chết tiệt. Họ đi thang máy lên tầng năm và đi vào phòng tiếp khách của Stames. Căn phòng thật trống vắng khi không có Julie ở đó. Calvert gõ cửa phòng sếp trưởng FBI một cách từ tốn và cả hai đặc vụ cùng bước vào. Stames nhìn lên. Anh ấy đã tìm thấy một trăm lẻ một việc phải làm kể từ khi anh ấy trở lại văn phòng. Gần như anh ấy đã quên mất rằng lí do đặc biệt khiến anh ấy quay lại đây là để gặp và nghe hai chàng đặc vụ kia báo cáo trực tiếp về vụ việc.
“Đúng rồi. Barry. Báo cáo lại từ đầu đi, từ từ và chính xác.”
Calvert kể lại chính xác từng chi tiết những gì đã xảy ra từ lúc họ đến Trung tâm Y tế Woodrow Wilson cho đến khi anh ấy yêu cầu Sở Cảnh sát Thủ Đô cắt cử một người bảo vệ anh chàng Hy Lạp trong phòng bệnh. Khả năng ghi nhớ và báo cáo lại của Barry khiến Mark bị ấn tượng. Anh ấy không hề phóng đại hoặc biểu lộ định kiến cá nhân với bất cứ chi tiết nào. Stames cúi đầu xuống một lúc rồi đột nhiên quay sang Mark.
“Cậu có muốn bổ sung thêm gì không?” Anh ấy hỏi. “Thực sự là không, thưa sếp. Toàn bộ câu chuyện có vẻ cường điệu một chút. Mặc dù anh ta không nói dối, nhưng chắc chắn là anh ta rất hoảng sợ. Ngoài ra, trong hồ sơ của chúng ta không có bất kỳ thông tin nào về anh ta hết. Tôi đã
gọi điện đàm cho bộ phận trực đêm để kiểm tra tên của anh ta. Nhưng không có thông tin gì về tay Casefikis đó.” Nick nhấc điện thoại và yêu cầu được nối máy đến trụ sở Cục. “Polly, nối máy cho tôi đến Trung tâm Thông tin Máy tính Quốc gia.” Đường dây được nối trực tiếp. Một phụ nữ trẻ trả lời điện thoại.
“Tôi là Stames, từ Văn phòng Khu vực FBI tại Washington. Cô giúp tôi kiểm tra thông tin về kẻ tình nghi sau đây trên máy tính ngay nhé? Tên Angelo Casefikis: người da trắng; nam giới; gốc Hy Lạp; chiều cao khoảng hơn một mét bảy; cân nặng khoảng bảy mươi tư cân; tóc màu nâu sẫm; mắt nâu; ba mươi tám tuổi; không có dấu hiệu phân biệt hoặc vết sẹo lộ rõ; không có số nhận dạng.” Nick đang đọc báo cáo mà Calvert đã đặt trước mặt anh ta và im lặng chờ đợi kết quả kiểm tra.
“Nếu câu chuyện của hắn là sự thật,” Mark nói, “chúng ta có lẽ sẽ không có bất kỳ thông tin lưu trữ nào về hắn ta hết.”
“Nếu hắn nói thật.” Calvert nói.
Stames tiếp tục chờ đợi. Thời gian chờ đợi để xem một người nào đó có hồ sơ thông tin trong dữ liệu của FBI hay không dài tưởng như phải tới vài ngày, cuối cùng cũng kết thúc. Cô gái ở đầu bên kia, phía Trung tâm Dữ liệu Máy tính, đã quay lại.
“Chúng tôi không có bất cứ thông tin gì về gã Angelo Casefikis này. Chúng tôi thậm chí không có lấy một người mang họ Casefikis. Dữ liệu máy tính chỉ có thể cung cấp một thông tin có nghĩa duy nhất là một trường hợp mang họ Casegikis sinh năm 1901. Xin lỗi, tôi không thể giúp được gì, ông Stames.”
“Cảm ơn cô rất nhiều.” Stames đặt điện thoại xuống. “Được rồi các cậu, hiện tại, hãy cứ đặt trường hợp gã Casefikis này vào diện tình nghi và điều tra theo đúng quy trình. Giả sử anh ta đang nói sự thật thì đây trở thành một cuộc điều tra nghiêm túc. Không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của anh ta trong hồ sơ thông tin, vì vậy chúng ta tạm thời tin vào câu chuyện mà hắn kể cho đến khi chứng minh được chúng sai sự thật. Anh ta có thể là đầu mối dẫn đến điều gì đó và nếu đúng là như vậy, thì đó chính là câu chuyện của tôi, nó tự tìm đến tôi. Barry, ngay sáng mai, tôi muốn cậu trở lại bệnh viện và dẫn theo một chuyên viên lấy dấu vân tay. Cậu phải lấy dấu vân tay của anh ta để đề phòng trường hợp anh ta khai tên giả và đem phân tích dấu vân tay đó qua máy tính nhận dạng ngay lập tức. Hãy nhớ hoàn thành biên bản lấy lời khai đầy đủ có chữ ký của anh ta. Sau đó, hãy kiểm tra hồ sơ của Cảnh Sát Thủ Đô xem có bất kỳ vụ việc nào liên quan đến nổ súng xảy ra vào ngày 24 tháng 2 có thể dính dáng đến anh ta hay không. Ngay khi chúng ta có thể đưa anh ấy ra ngoài, tôi muốn anh ấy được đưa lên xe cứu thương để chỉ cho chúng ta nơi mà anh ta đã phục vụ bữa tiệc trưa đó. Nếu có thể, hãy gây sức ép để bệnh viện đồng ý cho chúng ta thực hiện ngay sáng mai. Cho đến nay, anh ta chưa từng bị bắt, hay bị truy nã bởi bất kỳ tội danh nào, vì thế, đừng đi quá xa, chẳng phải anh ta đã chọn tôi giống như một người biết rất rõ về quyền của mình hay sao.”
“Mark.” Stames vừa gọi vừa quay đầu lại. “Tôi muốn cậu quay lại bệnh viện ngay lập tức và đảm bảo rằng Sở Cảnh sát Thủ đô đã cử người bảo vệ ở đó. Nếu chưa có, cậu hãy ở lại với Casefikis cho đến khi họ đến thay thế. Sáng mai, cậu
hãy đến kiểm tra nhà hàng Golden Duck một vòng. Tôi sẽ sắp xếp một cuộc hẹn tạm thời để chúng ta gặp Giám đốc nhà hàng ngay sáng mai, lúc 10 giờ sáng, như vậy sẽ đủ thời gian để cậu có thể báo cáo lại cho tôi nếu có phát hiện gì thêm. Và trong trường hợp việc kiểm tra dấu vân tay qua máy tính nhận dạng không mang lại kết quả nào; tương tự, nhà hàng đó và khách sạn đó là có thật, chúng ta có thể sẽ phải đối mặt với cả núi rắc rối. Tôi sẽ không tiến thêm dù chỉ một xăng-ti-mét trong cuộc điều tra này khi chưa báo cáo cho Giám đốc FBI biết. Tạm thời các cậu đừng viết gì trong báo cáo vội. Cũng đừng nộp biên bản ghi nhớ chính thức cho tới sáng mai. Quan trọng hơn cả, đừng vội đề cập đến ngài Thượng Nghị sĩ nào đó có thể có dính dáng tới vụ này với bất kỳ ai – kể cả Grant Nanna. Có lẽ là sáng mai, sau khi chúng ta đã gặp vị Giám đốc nhà hàng đó, tất cả những gì chúng ta có thể làm là viết một bản báo cáo hoàn chỉnh và nộp lại toàn bộ cho Sở Mật vụ. Hãy ghi nhớ về phạm vi trách nhiệm công việc đã được quy định rõ ràng: Sở Mật vụ bảo vệ Tổng thống, chúng ta xử lí các vấn đề về an ninh và tội phạm liên bang. Nếu như một Thượng Nghị sĩ nào đó có tham gia vào vụ việc thì đó mới là trách nhiệm của chúng ta; nếu chỉ Tổng thống liên quan đến vụ việc thì đó là trách nhiệm của họ. Tốt nhất là để cho Giám đốc Cục quyết định nên tiến hành công việc tiếp theo như thế nào. Tôi không muốn dây dưa với Điện Capitol hay là Sở Mật vụ, Giám đốc FBI nâng niu họ như con đẻ vậy. Chỉ có bảy ngày để tìm ra những kẻ chủ mưu, chúng ta chẳng có thời gian để ngồi và thảo luận về những chi tiết vụn vặt nhạy cảm đâu.”
Stames nhấc chiếc điện thoại màu đỏ nối máy thẳng với văn phòng của Giám đốc Cục.
“Tôi, Nick Stames, từ Văn phòng Khu vực FBI thành phố Washington.”
“Chào buổi tối.” Một giọng nói trầm tĩnh, nhỏ nhẹ trả lời. Bà McGregor, một người phục vụ tận tụy của Giám đốc Cục Điều tra Liên bang vẫn đang trong ca trực. Người ta vẫn đồn rằng, ngay cả Hoover25* cũng có chút kiêng nể đối với bà ấy.
“Bà McGregor, tôi xin đặt lịch hẹn trước tạm thời cho tôi và hai đặc vụ Calvert, Andrews để gặp Giám đốc trong khoảng mười lăm phút nếu có thể. Thời gian vào khoảng bất cứ lúc nào từ 9 giờ sáng đến 11 giờ sáng ngày mai. Cũng có thể sau khi điều tra thêm vào tối nay và đầu giờ sáng ngày mai, tôi sẽ không cần phải làm phiền ông ấy.”
Bà McGregor đã xem qua sổ lịch trình trên bàn làm việc của Giám đốc. “Giám đốc sẽ tham dự một cuộc họp của các cảnh sát trưởng vào lúc 11 giờ nhưng ông ấy dự kiến sẽ đến văn phòng lúc 8 giờ 30 phút và chưa có hạng mục công việc nào trong sổ lịch trình trong khoảng từ lúc đó đến 11 giờ. Tôi sẽ ghi tạm bằng bút chì cho anh vào khoảng 10 giờ 30 phút sáng nhé, anh Stames. Anh có muốn tôi thông báo qua với Giám đốc về chủ đề mà anh định thảo luận với ông ấy không?”
“Tôi nghĩ tốt hơn là không.”
Bà McGregor không bao giờ ép buộc hay hỏi câu hỏi thứ hai. Bà biết rõ nếu Stames gọi đến, chắc hẳn phải có việc gì đó rất quan trọng. Anh ta gặp Giám đốc mười lần một năm vì các hoạt động xã hội nói chung, nhưng chỉ ba hoặc bốn lần một năm vì vấn đề nghiệp vụ và anh ta thường không lãng phí thời gian của Giám đốc.
“Cảm ơn, anh Stames. 10 giờ 30 phút sáng mai, trừ khi
anh hủy hẹn trước nhé.”
Nick đặt điện thoại xuống và nhìn hai nhân viên của mình. “Xong rồi, chúng ta đã đặt lịch hẹn gặp Giám đốc lúc 10 giờ 30 phút sáng mai. Barry, cậu chở tôi quá giang về nhà nhé, sau đó cậu tự về nghỉ ngơi và quay lại đón tôi ngay đầu giờ sáng mai. Chúng ta có thể giành thời gian để cùng nhau xem lại một lượt các chi tiết.” Barry gật đầu. “Mark, cậu quay lại bệnh viện ngay nhé.”
Tâm trí của Mark trôi bồng bềnh trong khi anh hình dung thấy bác sĩ Dexter đang đi dọc theo Trung tâm Y tế Woodrow Wilson, tiến về phía anh ấy, cổ áo lụa đỏ nổi lên trên nền trắng của chiếc áo choàng bệnh viện, vạt váy đen mềm rủ đu đưa theo nhịp bước. Mark vẫn mở to mắt đón chào và kết quả khá là hài lòng. Anh ấy bất giác mỉm cười.
“Andrews,” Stames chất vấn, “có cái quái gì đáng buồn cười khi chúng ta phải báo cáo về nguy cơ đe dọa tính mạng của Tổng thống?”
“Xin lỗi sếp. Anh đẩy một cuộc hẹn của tôi đến chỗ phá sản rồi. Tôi dùng xe riêng của mình được chứ sếp? Tôi hi vọng có thể đi thẳng từ bệnh viện đến cuộc hẹn ăn tối sau khi kết thúc nhiệm vụ.”
“Được chứ, tốt thôi. Chúng tôi sẽ sử dụng xe công vụ và hẹn gặp cậu vào sáng mai. Súng ống, đạn dược sẵn sàng đi nhé Mark và hi vọng Cảnh sát Thủ đô sẽ canh gác ở đó cho tới trước bữa sáng ngày mai.”
Mark nhìn đồng hồ đeo tay. “Chúa ơi, đã tám giờ tối mất rồi.”
Mark rời văn phòng với cảm giác hơi khó chịu. Ngay cả khi có viên Cảnh sát Thủ đô nào đó đã ở bệnh viện khi anh đến thì anh vẫn sẽ muộn giờ hẹn với Elizabeth Dexter. Tất nhiên,
anh luôn có thể gọi điện cho cô ấy khi đã đến bệnh viện. “Cậu thích một đĩa bánh moussaka hâm nóng và một ít vang Hy Lạp vị nhựa cây chứ, Barry?”
“Tuyệt quá sếp, còn hơn cả mong đợi ấy chứ.” Hai người rời khỏi văn phòng. Stames cẩn thận, chủ động kiểm tra các hạng mục công việc ca đêm theo thói quen của mình.
“Barry, cậu kiểm tra lại lần nữa xem Aspirin có đang làm nhiệm vụ không, và khi cậu đi ra ngoài thì nói với ông ấy rằng chúng ta sẽ không trở lại vào tối nay nữa.”
Calvert đi vòng đến Phòng Hình sự và gửi lại lời nhắn cho Aspirin. Ông ấy đang chơi trò chơi ô chữ trên tờ báo Ngôi sao Washington. Ông đã điền được ba ô chữ, đêm nay có vẻ rất dài. Barry bắt kịp Nick Stames khi anh ấy bước vào trong chiếc xe Ford màu xanh biển.
“Vâng, sếp, ông ấy đang làm việc.”
Họ nhìn nhau, một đêm đau đầu. Barry ngồi vào ghế lái và điều chỉnh ghế ngả về phía sau càng nhiều càng tốt. Họ lặng lẽ đi lên phía đại lộ Hiến Pháp, rồi đi qua Nhà Trắng trên đường cao tốc E và chạy hướng về phía cầu Tưởng Niệm.
“Nếu Casefikis là manh mối mở đầu cho một vụ án mới, chúng ta sẽ sắp có một tuần khủng khiếp trước mắt.” Nick Stames nói. “Anh ta có tỏ ra chắc chắn về ngày xảy ra vụ ám sát không?”
“Khi tôi hỏi anh ấy từng chi tiết một lần nữa, anh ta vẫn lặp lại là ngày 10 tháng 3, tại Washington.”
“Hừm, bảy ngày, không quá dài. Tôi tự hỏi không biết ngài Giám đốc sẽ làm gì đây.” Stames nói.
“Giao lại vụ này cho Sở Mật vụ, nếu ông ấy còn lý trí.” Barry nói.
“À mà thôi, tạm quên chuyện này đi một lúc. Giờ hãy tập trung vào món bánh moussaka hâm nóng đã. Chuyện ngày mai để ngày mai hãy xử lí vậy.”
Chiếc xe dừng lại ở một cột đèn giao thông ngay bên ngoài Nhà Trắng, nơi một thanh niên râu rậm, tóc dài, trông bẩn thỉu, chọn ngay chỗ đứng là nhà của Tổng thống, với một tấm áp phích lớn để tuyên bố với toàn thế giới: HÃY COI CHỪNG, SẮP KẾT THÚC RỒI.
Stames liếc nhìn tấm áp phích và gật đầu với Barry. “Đó là tất cả những gì chúng ta cần đêm nay đấy.” Họ đi qua Đại lộ Virginia trên đường cao tốc và tăng tốc
băng qua cầu Tưởng Niệm. Một chiếc xe Lincoln 3.5 màu đen vượt lên, ở tốc độ ước chừng khoảng 112 cây số một giờ.
“Tôi dám cá là Cảnh sát Thủ đô sắp sửa đón đầu anh ta.” Stames nói.
“Có lẽ họ đang trên đường ra sân bay Dulles và bị muộn giờ bay.” Barry trả lời.
Mật độ giao thông thưa thớt và giờ cao điểm cũng đã trôi qua. Khi họ rẽ vào Đại lộ George Washington, họ cố gắng đẩy cần số cao nhất và giữ tốc độ ổn định. Con đường đại lộ chạy xuôi theo dòng sông Potomac, dọc bờ biển Virgina, giữa hai hàng cây rậm rạp, tối đen và quanh co. Barry phản xạ nhanh chóng như bất kỳ nhân viên đặc vụ nào và Stames mặc dù lớn tuổi hơn, vẫn nhìn thấy chính xác gần như ngay tức khắc chuyện gì đã xảy ra. Một chiếc xe Buick lớn, màu đen, sang trọng, bắt kịp xe anh và bắt đầu vượt lên từ bên trái. Calvert liếc nhìn chiếc xe và vừa nhìn lên phía trước được vài giây thì ngay lập tức, một chiếc xe khác, một chiếc Lincoln màu đen vung lên ngay trước mũi xe của họ từ bên
kia đường cao tốc. Calvert nghĩ anh đã nghe thấy tiếng một phát súng trường. Barry giật mạnh tay lái hướng bánh xe về tâm đường cao tốc nhưng chiếc xe không suy chuyển. Cả hai chiếc xe kia đều đâm vào xe anh cùng một lúc, tuy nhiên Barry vẫn cố gắng để kéo theo một trong hai chiếc lao xuống dốc đá cùng với xe mình. Họ cố gắng hãm tốc cho đến khi chiếc xe chạm mặt sông sau tiếng uỵch. Nick đã nghĩ, trong khi anh cố gắng vật lộn để mở cánh cửa xe ô tô một cách vô vọng, rằng tốc độ chìm xuống của chiếc xe dường như chậm chạp một cách lố bịch, nhưng không thể tránh khỏi.
Chiếc Buick đen tiếp tục băng xuống đường cao tốc như không có chuyện gì xảy ra; không để ý đến một chiếc xe mang theo đôi vợ chồng trẻ đã chạy đến và từ từ dừng lại – hai nhân chứng của vụ tai nạn kinh hoàng. Họ nhảy ra khỏi xe và chạy đến bờ rìa của con dốc đá. Họ chẳng thể làm gì khác ngoài việc chứng kiến chiếc xe Ford màu xanh lục và chiếc xe Lincoln đen chìm dần đến khuất tầm mắt.
“Ôi lạy Chúa, em có nhìn thấy chuyện gì xảy ra phía trước không?” người đàn ông trẻ tuổi hỏi.
“Không rõ lắm. Em chỉ thấy hai chiếc xe lao xuống từ đỉnh dốc. Chúng ta làm gì bây giờ đây, Jim?”
“Nhanh chóng thông báo cho cảnh sát thôi.”
Người đàn ông và vợ anh ta chạy lại xe của họ.
16* Don’t be Fuelish: cách chơi chữ giữa hai từ Fuel (năng lượng) và Foolish (kẻ ngốc).
17* Moussaka là món ăn truyền thống của đất nước Hy Lạp, được làm từ cà tím thái lát, thịt cừu bằm nhuyễn, hành, bơ, trứng, sữa, phô mai và gia vị đem bỏ lò ăn cùng
nước sốt cay thơm lừng. Món Moussaka này cũng tương tự như món Lasagna của Ý. Người ta dùng nhiều loại phô mai và thịt bò xay trộn chung với thịt heo xay cho đỡ xơ.
18* the nut box, nut (tiếng lóng) nghĩa là điên rồ. 19* Trường đại học Saint. Martin, Lacey, Washington, Mỹ. 20*Ivy League là Liên minh tám trường đại học danh
tiếng bậc nhất Hoa Kỳ cũng như thế giới (bao gồm Viện Đại học Brown, Viện Đại học Columbia, Viện Đại học Cornell, trường Đại học Dartmouth, Viện Đại học Harvard, Viện Đại học Princeton, Viện Đại học Pennsylvania và Viện Đại học Yale)
21* Kinh Kong: nhân vật chú khỉ đột khổng lồ có sức mạnh phi thương trong một bộ phim giả tưởng thuộc hạng bom tấn nổi tiếng.
22* Một trong Tam vị Tổng lãnh thiên thần của Chúa. Thánh Gabriel luôn là người được Chúa Trời chọn để thay mặt ông truyền tải những tin quan trọng bậc nhất của Thiên Đường có thiên chức là đưa tin. Ngày phán xét là một sự kiện quan trọng bậc nhất theo Kinh thánh, qua đó một số người được chấp nhận và một số người bị trừng phạt.
23*Pháo đài Knox: một đồn của Quân đội Hoa Kỳ tại Kentucky liền kề với Kho lưu trữ vàng thỏi của Hoa Kỳ. Nơi này hiện là vị trí của Trung tâm Nhân sự Tối cao của Quân đội, bao gồm Bộ Tư lệnh Quân đội. Pháo đài đặt theo tên của Henry Knox – Bộ trưởng Chiến tranh đầu tiên của Hoa Kỳ.
24* G-man: Tiếng lóng chỉ các đặc vụ FBI, xuất phát từ vụ bắt giữ tên tội phạm khét tiếng George Kelly Barnes. Khi bị
bắt, Barnes kêu lên: “Đừng bắn, G-men. Đừng bắn” và đầu hàng FBI.
25*Giám đốc đầu tiên của FBI: John Edgar Hoover.
C
hào cô, Liz.”
CHƯƠNG 3
Tối thứ Năm ngày 3 tháng Ba 8 giờ 15 phút
Đầu bên kia của điện thoại ngập ngừng trong giây lát.
“Xin chào, G-man. Không phải là anh đang háo hức muốn đến sớm hơn một chút sao?”
“Tôi đang ao ước như vậy đấy. Tôi có chuyện này muốn nói, Elizabeth, tôi phải quay lại bệnh viện và để mắt đến gã Casefikis đó cho đến khi cảnh sát đến. Anh ta có khả năng gặp nguy hiểm, vì vậy chúng tôi phải bảo vệ anh ta, điều đó có nghĩa là tôi chắc chắn sẽ bị trễ hẹn. Cô không phiền khi phải đợi tôi chứ?”
“Không đâu, tôi sẽ không chết đói đâu. Thứ Năm nào tôi cũng ăn trưa với cha tôi và ông ấy vốn là người ăn rất khỏe.” “Thật tốt quá. Bởi vì cô nên ăn nhiều vào. Cô mảnh dẻ như một làn gió vô hình trong bóng đêm ấy. Tôi vẫn đang cố gắng để thật tình cờ bị dính cúm đây.”
Elizabeth mỉm cười ấm áp. “Hẹn gặp lại anh sau.” Mark đặt điện thoại trở lại giá đỡ và sải bước đến thang máy, nhấn mũi tên chỉ hướng đi lên.
Hi vọng duy nhất của anh lúc này là Cảnh sát Thủ đô đã đến và đang làm nhiệm vụ rồi. Ôi lạy Đấng Cứu Thế. Cái thang máy này cần bao lâu để đưa mình đi lên và rồi lại đưa
mình trở lại tầng trệt đây? Bệnh nhân ở đây không chừng sẽ chết khi đợi thang máy mất. Cuối cùng, cánh cửa thang máy cũng mở ra và một linh mục dòng chính thống người Hy Lạp vội vã vượt qua anh ấy. Anh ấy có thể thề rằng đó là một vị linh mục dòng chính thống người Hy Lạp bởi vì người đó đội một chiếc mũ cao, tối màu, áo choàng linh mục vạt dài quét đất với chiếc vòng có cây Thánh giá dòng chính đeo trên cổ anh ta. Mặc dù có điều gì đó lạ lùng ở vị linh mục khiến Mark chú ý nhưng anh không thể nghĩ ra đó là điểm gì. Anh ấy đứng đó, bối rối một thoáng, nhìn chằm chằm vào cái lưng của người vừa đi khuất kia và chỉ vừa kịp nhảy vào thang máy trước khi nó đóng cửa lại. Anh nhấn nút chọn tầng bốn đến vài lần. Thôi nào, nhanh lên, nhanh lên. Chạy đi, đồ khốn khiếp. Nhưng cái thang máy không có tai để lắng nghe Mark hối thúc và vẫn chạy lên phía trên một cách ì ạch, nhởn nhơ đúng như cái tốc độ ốc sên hồi chiều. Nó chẳng thèm đếm xỉa gì đến cuộc hẹn với bác sĩ Elizabeth Dexter của Mark. Cửa thang máy từ từ mở ra, Mark bước ra và băng qua khoảng trống sang phía bên kia hành lang bệnh viện. Anh đi dọc theo hành lang tới phòng 4308 nhưng chẳng thấy có bóng dáng của bất kỳ viên cảnh sát nào. Trên thực tế, hành lang thậm chí còn chẳng có ai. Có vẻ như anh ấy sẽ bị mắc kẹt ở đây một lúc rồi. Anh ấy nhìn chằm chằm qua cửa sổ nhỏ, đưa mắt tìm kiếm hai người đàn ông trong đó, họ đang ngủ trên giường, chiếc TV vô thanh vẫn bật nhưng màn hình chỉ là một ô vuông phát sáng thôi. Mark bỏ đi để tìm một y tá và cuối cùng cũng tìm thấy cô ấy đang rúc vào trong phòng y tá trưởng để nhấm nháp một tách cà phê. Cô ấy có vẻ vui khi thấy anh chàng ưa nhìn hơn trong số hai đặc vụ FBI đã quay lại.
“Có viên cảnh sát nào từ Sở Cảnh sát Thủ đô đến phụ trách bảo vệ cho phòng 4308 chưa?”
“Không có, chẳng thấy ai đến gần nơi này trong tối nay cả. Nơi này im lặng như nhà mồ vậy. Anh đang mong đợi ai đó hay sao?”
“Vâng, chết tiệt thật. Đoán xem, tôi sẽ phải chờ họ. Tôi dùng một chiếc ghế được không? Tôi sẽ phải bám sát xung quanh đây cho đến khi có một sĩ quan đến từ Cảnh sát Thủ đô thế chỗ. Hi vọng tôi không làm phiền cô.”
“Anh không phiền gì tôi đâu. Anh cứ ở đây bao lâu tùy anh. Để tôi xem liệu tôi có thể tìm giúp anh một chiếc ghế ngồi thoải mái hay không.” Cô y tá đặt cốc cà phê xuống và hỏi: “Anh muốn uống cà phê không?”
“Chắc chắn rồi.” Mark quan sát cô y tá kỹ hơn. Anh có thể sẽ phải trải qua tối nay cùng với một cô y tá chứ không phải một cô bác sĩ. Mark quyết định anh nên quay lại và kiểm tra căn phòng trước để trấn an Casefikis nếu anh ta vẫn còn thức và sau đó gọi điện cho Cảnh sát Thủ đô để hỏi xem nhân viên của họ đi đến đâu rồi. Anh bước chầm chậm ra cửa lần thứ hai. Bây giờ anh cảm thấy không cần phải vội nữa. Anh khẽ mở cửa. Căn phòng tối đen như mực, trừ ánh sáng hắt ra từ chiếc TV. Mắt anh chưa quen lắm với bóng tối và không thể nhìn rõ. Anh liếc nhìn hai người bọn họ đang nằm trên giường. Họ nằm im lặng. Mark sẽ không bận tâm tìm kiếm thêm nữa nếu không phải là những tiếng như tiếng nước nhỏ giọt khiến anh chú ý.
Tóc… tóc… tóc…
Nghe như thể tiếng rỉ ra từ vòi nước máy, nhưng anh không thể nhớ nổi nếu như có vòi nước máy thì nó sẽ ở chỗ nào trong căn phòng này.
Tóc… tóc…
Anh đi thật khẽ, lặng lẽ đến bên giường của Angelo Casefikis và liếc nhìn xuống.
Tóc… tóc…
Máu tươi còn ấm đang trào ra trên tấm ga giường. Máu rỉ thành dòng từ miệng của Casefikis. Đôi mắt màu đen thẫm của anh ta lồi ra trên hốc mắt. Lưỡi anh ta rời ra và sưng to. Cổ họng anh ta bị cắt tới tận mang tai, ngay bên dưới viền cằm. Máu đã đọng thành vũng trên sàn nhà và Mark đang đứng trên vũng máu. Anh cảm thấy như hai chân mình muốn khuỵu xuống. Anh chỉ có thể bám vào thành giường để tránh ngã khuỵu xuống sàn nhà. Mark lảo đảo quay sang phía người đàn ông điếc. Đôi mắt anh giờ đây đã quen với bóng tối. Mark ọe lớn tiếng. Đầu của người đưa thư bị cắt rời khỏi phần còn lại của cơ thể; chỉ có màu da của anh ta cho thấy chúng là hai phần đã từng gắn liền với nhau. Mark loạng choạng cố lao ra cửa, tới thẳng chỗ gắn máy điện thoại tính phí, tai nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch điên cuồng trong lồng ngực. Mark có thể cảm nhận làn áo sơ mi dính sát vào da thịt mình. Hai bàn tay anh ấy dính đầy máu. Anh ấy hốt hoảng, lóng ngóng đưa tay lần tìm mấy lần mới thấy mấy đồng 25 xu. Mark quay số đường dây báo tin cho Đội Trọng án26* và tóm tắt lại sự việc đã xảy ra. Thời nay, các cơ quan an ninh sẽ không cử người đi nếu thấy không cần thiết và không chính đáng. Cô y tá trực ca quay trở lại với một cốc cà phê.
“Anh ổn không? Nhìn anh tái nhợt rồi.” Cô ấy hỏi và rồi hét lên kinh hãi khi nhìn thấy hai bàn tay dính đầy máu của Mark.
“Đừng vào phòng 4308 bất kể lí do gì. Đừng để ai đi vào
căn phòng đó trừ khi tôi đồng ý. Tìm giúp tôi một bác sĩ ngay lập tức.”
Cô y tá nhét tách cà phê vào tay Mark, buộc anh ấy phải đón lấy nó và chạy xuống hành lang. Mark quay trở lại Phòng 4308, mặc dù sự có mặt của anh ấy ở trong đó giờ đã không thích hợp. Anh ấy không thể làm gì khác ngoài chờ đợi. Anh bật đèn lên và đi tới phòng vệ sinh. Anh ấy cố gột bỏ những vết bẩn từ hỗn hợp máu me lẫn tạp chất do nôn ọe dính trên da cũng như trên quần áo. Mark nghe tiếng cửa ra vào chuyển động, anh vội vã quay trở lại căn phòng. Một nữ bác sĩ trẻ khoác áo choàng trắng khác. “Bác sĩ Alicia Delgado.” Mark đọc thẻ tên bằng nhựa mà cô ấy cài trên áo. “Đừng chạm vào bất cứ thứ gì.” Mark nói.
Bác sĩ Delgado nhìn đăm đăm vào anh ta rồi tới các thi thể và khẽ kêu lên.
“Đừng chạm vào bất cứ thứ gì,” Mark lặp lại, “cho đến khi người của Đội Trọng án đến. Họ sẽ có mặt ngay thôi.” “Anh là ai?” Cô ấy hỏi.
“Đặc vụ Mark Andrews của FBI.” Anh lấy ví và giơ phù hiệu ra theo bản năng cho cô bác sĩ xem.
“Chúng ta chỉ đứng đây nhìn nhau thôi sao, hay anh có thể cho phép tôi làm gì đó với khung cảnh hỗn độn này không?”
“Không, đừng làm gì cả, cho đến khi Đội Trọng án đến để hoàn tất các thủ tục điều tra của họ và dọn dẹp sạch sẽ để trả lại căn phòng cho bệnh viện. Chúng ta ra khỏi đây thôi.” Anh vượt lên trước cô bác sĩ và đẩy cửa bằng vai, tuyệt đối không chạm vào bất cứ thứ gì.
Họ trở lại và tiếp tục chờ đợi trong hành lang.
Mark yêu cầu bác sĩ Delgado chỉ đợi bên ngoài cửa và
không cho phép ai khác vào phòng trong khi anh gọi điện lại cho Cảnh sát Thủ đô lần nữa.
Cô bác sĩ miễn cưỡng gật đầu.
Anh ấy đi về phía chiếc điện thoại tính phí, bỏ vào đó hai đồng 25 xu nữa; anh quay số gọi tới cảnh sát Thủ đô và yêu cầu gặp Trung úy Blake.
“Trung úy Blake đã về nhà khoảng một giờ trước. Tôi có thể giúp gì cho anh không?”
“Các anh dự định khi nào mới cử người đến gác và bảo vệ Phòng 4308 tại Trung tâm Y tế Woodrow Wilson đây?” “Xin hỏi, ai đang nói vậy?”
“Đặc vụ Andrews, FBI, Văn phòng Khu vực của FBI thành phố Washington.” Mark kể lại các chi tiết của vụ giết người kép qua điện thoại.
“Chà, người của chúng tôi lẽ ra hiện giờ nên ở đó với anh rồi. Anh ta đã rời văn phòng hơn nửa tiếng trước. Tôi sẽ thông báo cho Đội Trọng án ngay lập tức.”
“Tôi đã báo rồi.” Mark ngắt lời.
Anh đặt điện thoại xuống và ngồi sụp xuống một chiếc ghế gần đó. Hành lang bây giờ đông nghịt những người mặc áo choàng trắng của bệnh viện. Hai chiếc băng ca đang được đẩy lên phòng 4308. Tất cả bọn họ đều đang đợi. Làm gì bây giờ mới là đúng đắn đây?
Hai đồng 25 xu nữa, anh quay số gọi đến nhà của Nick Stames. Điện thoại dường như reo rất lâu. Tại sao anh ấy không trả lời điện thoại vậy? Cuối cùng, cũng có một giọng nữ trả lời điện thoại.
Không được tỏ ra hoảng loạn, Mark tự nhủ trong đầu, tay vẫn cầm ống nghe điện thoại. “Chào buổi tối, cô Stames. Tôi là Mark Andrews. Làm ơn cho tôi nói chuyện với anh Stames
được không?” Giọng điệu của Mark rất đều đặn, bình tĩnh và không để lộ bất kỳ dấu hiệu căng thẳng nào.
“Tiếc quá, Nick không có nhà, anh Mark ạ. Anh ấy quay lại văn phòng khoảng hai giờ trước rồi. Chuyện này thật buồn cười, anh ấy nói anh ấy sẽ gặp anh và Barry Calvert ở văn phòng mà.”
“Vâng, chúng tôi đã gặp nhau rồi, nhưng anh ấy rời khỏi văn phòng để trở về nhà khoảng bốn mươi phút trước cơ mà.”
“Ồ, vậy có lẽ anh ấy chưa về đến nhà thôi. Anh ấy nói sẽ chỉ ngồi một lát rồi về ngay. Nhưng đến giờ vẫn chưa thấy anh ấy về. Biết đâu, anh ấy quay lại văn phòng luôn rồi thì sao. Anh thử gọi về văn phòng của anh ấy xem sao?”
“Vâng, tất nhiên rồi. Xin lỗi vì đã làm phiền cô.” Mark cúp máy, nhìn qua để yên tâm rằng không có bất kỳ ai đi vào phòng số 4308. Không ai vào phòng. Anh bỏ thêm hai đồng 25 xu vào máy điện thoại và gọi điện về văn phòng. Polly vẫn đang trực tổng đài.
“Mark Andrews đây. Làm ơn nối máy cho tôi gặp sếp Stames, ngay và luôn nhé.”
“Sếp Stames và đặc vụ Calvert rời khỏi văn phòng khoảng bốn mươi lăm phút trước – để về nhà, tôi nghĩ vậy, anh Andrews ạ.”
“Không thể nào. Không thể như thế được.”
“Đúng là như vậy đấy, tôi tận mắt thấy họ ra khỏi văn phòng, anh Andrews ạ.”
“Polly, cô có thể thử nối máy lại lần nữa được không?” “Được chứ, nếu anh đã đề nghị như vậy.”
Mark chờ đợi, với anh ấy lúc này, thời gian chờ dường như là vô tận. Anh ấy nên làm gì? Chỉ có một mình anh ấy ở đây,
còn những người khác đâu rồi? Mọi người thường làm gì khi họ ở vị trí của anh ấy? Chúa ơi, không có bài học nào trong khóa đào tạo của anh ấy nói về trường hợp này – nhân viên FBI nên có mặt sau hai mươi bốn giờ khi phát hiện một vụ án hình sự, chứ không phải như thế này.
“Không ai bắt máy, anh Andrews ạ.”
“Cảm ơn, Polly.”
Mark nhìn lên trần nhà một cách tuyệt vọng và không biết mình nên làm gì tiếp theo. Anh đã nghe mệnh lệnh ngắn gọn của sếp Stames là không được nói cho ai biết về những chuyện đã phát hiện trong tối nay, không được hé răng một lời với bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào cho đến sau khi Stames nói chuyện với Giám đốc Cục FBI. Phải tìm Stames và Calvert thôi. Anh ta phải tìm ai đó mà anh ta có thể nói chuyện. Thêm hai đồng 25 xu nữa. Mark thử gọi cho Barry Calvert. Chỉ có tiếng chuông điện thoại reo và cứ reo liên hồi. Không có ai bắt máy ở căn hộ của chàng cử nhân đó. Hai đồng 25 xu như thế nữa. Anh lại gọi cho Norma Stames. “Cô Stames, tôi là Mark Andrews đây. Xin lỗi đã làm phiền cô thêm một lần nữa. Phiền cô báo sếp Stames và đặc vụ Calvert gọi cho tôi theo số của Trung tâm Y Tế Wood Wilson ngay khi hai người họ về đến nhà nhé.”
“Vâng, tôi sẽ nói với Nick ngay khi anh ấy về đến. Có lẽ họ đã dừng lại đâu đó trên đường đi chăng.”
“Vâng, tất nhiên rồi, tôi đã không nghĩ đến chuyện đó. Có lẽ tốt nhất là tôi nên quay trở lại trung tâm thành phố ngay sau khi có người chi viện nhiệm vụ. Vì vậy, họ có thể gọi về đó cho tôi. Cảm ơn, cô Stames.” Anh cúp máy.
Khi vừa đặt ống nghe điện thoại xuống, Mark nhìn thấy một viên cảnh sát từ Sở Cảnh sát Thủ đô đang thong dong
đi xuyên qua hành lang giờ đã trở nên đông đúc và tiến về phía anh. Trong tay anh ta là một cuốn tiểu thuyết của Ed McBain. Mark đã nghĩ về việc phê bình anh ta vì tội đến muộn, nhưng làm thế để làm gì nhỉ. Kêu khóc trong một vụ đổ máu chả có tác dụng gì cả, anh ấy nghĩ, thậm chí còn bệnh hoạn nữa và anh lại cảm thấy buồn nôn… Mark kéo anh chàng cảnh sát sang một bên và tóm tắt cho anh ta về vụ giết người kép vừa rồi, nhưng không đề cập đến lí do tại sao hai nạn nhân đó lại quan trọng mà chỉ mô tả những gì đã xảy ra. Anh yêu cầu anh ta báo cáo cho Thủ trưởng của mình và bổ sung thêm là Đội Trọng án đang trên đường tới hiện trường. Tất nhiên, cũng không hé lộ thêm chút thông tin nào khác. Viên cảnh sát gọi điện về trụ sở cho sĩ quan trực ca đơn vị của mình và báo cáo lại chính xác tất cả những gì anh ấy vừa được nghe. Sở Cảnh sát Thủ đô thành phố Washington xử lí tới 600 vụ giết người mỗi năm.
Tất cả các nhân viên y tế đều nóng ruột chờ đợi - chắc hẳn họ còn phải chờ lâu. Nhịp độ hối hả trong công việc của họ đã thay thế nỗi hoảng sợ ban đầu. Mark vẫn hoang mang không biết phải làm gì tiếp theo. Sếp Stames đi đâu mới được? Lại thêm cả Calvert nữa? Họ đang ở chỗ chết tiệt nào không biết.
Anh đi lại chỗ viên cảnh sát một lần nữa. Anh chàng cảnh sát đang giải thích chi tiết lí do tại sao không ai được vào trong căn phòng đó... Mặc dù những lời giải thích đó không được thuyết phục cho lắm nhưng họ vẫn tiếp tục chờ đợi. Mark nói với viên cảnh sát đó rằng anh sẽ trở về Văn phòng Khu vực FBI thành phố Washington và không quên giữ bí mật về việc tại sao nạn nhân mang họ Casefikis đó lại quan trọng như vậy. Viên cảnh sát Thủ đô cảm thấy anh ta vẫn
kiểm soát được tình hình. Đội Trọng án sẽ đến đó bất cứ lúc nào, nên viên cảnh sát nhắc nhở Mark rằng họ có thể sẽ muốn nói chuyện với anh ấy ngay trong đêm nay. Mark gật đầu và chia tay anh ta để về văn phòng.
Khi đi tới xe hơi của mình, Mark lấy đèn hiệu màu đỏ nhấp nháy từ bên hông xe rồi gắn lên nóc xe, gạt công tắc vào vị trí đặc biệt. Anh sẽ lái xe về nhanh nhất có thể, để tìm những người anh biết, những người hiểu rõ tình huống câu chuyện và cũng là những người có thể giải mã phần nào cơn ác mộng của anh đêm nay.
Mark bật điện đàm trên xe hơi. “Đặc vụ số 180 WFO27* đang thi hành nhiệm vụ. Vui lòng tìm và xác định vị trí của ông Stames và ông Calvert. Tình huống khẩn cấp. Tôi đang quay trở lại Văn phòng Khu vực ngay lập tức.”
“Rõ, đặc vụ Andrews.”
“Đặc vụ số 180 WFO, báo cáo hết.”
Mười hai phút sau, Mark đã về đến Văn phòng Khu vực và đậu xe xong. Anh lao ngay tới chỗ thang máy. Người điều phối đưa anh ta lên tầng trên. Anh vội vàng chạy ra khỏi thang máy khi vừa đến nơi.
“Aspirin, Aspirin. Gã quái nào trực ca đêm nay vậy?” “Ta là người trực ca duy nhất đêm nay, con trai.” Ông nói, “Ta ở đây một mình.” Aspirin nhìn Mark qua cặp
kính của mình, trông khá buồn chán, ông trả lời. “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
“Sếp Stames đang ở đâu? Calvert nữa, anh ta đâu rồi?” Mark khẩn khoản.
“Họ vừa về nhà cách đây gần một giờ đồng hồ rồi.” Ôi trời đất ơi, chuyện quái quỷ gì thế nhỉ. Mình nên làm gì bây giờ đây. Aspirin không phải là người để anh trút bầu tâm
sự, nhưng ông ấy lại là người duy nhất mà Mark có thể hỏi xin một lời khuyên. Và mặc dù Stames đã cẩn thận dặn dò anh ấy không được kể chi tiết câu chuyện kia với bất kỳ ai cho đến khi họ đã họp xong với Giám đốc Cục, thì đây vẫn là một tình huống khẩn cấp. Anh ấy sẽ không để lộ bất kỳ chi tiết nào cho ai nhưng anh ấy muốn biết một nhân viên đặc vụ FBI - một người đứng trong hàng ngũ của Hoover - phải làm những gì trong trường hợp này.
“Cháu phải tìm Stames và Calvert, bất kể họ đi đâu. Bác có gợi ý nào không?”
“Chà, trước hết, cậu đã thử dò tìm qua tín hiệu các đài phát thanh xe hơi chưa?” Aspirin hỏi Mark.
“Cháu đã yêu cầu Polly kiểm tra. Cháu sẽ nói cô ấy thử dò tìm lại lần nữa.”
Mark nhấc chiếc điện thoại gần nhất. “Polly, cô đã tìm được vị trí của sếp Stames hay đặc vụ Calvert bằng cách dò sóng của đài phát thanh xe hơi chưa?”
“Tôi vẫn đang cố gắng dò tìm đây, anh Andrews.” Mark cảm thấy thời gian dường như ngừng trôi, sự chờ đợi của anh ấy dường như vô tận, nhưng vẫn không phát hiện ra điều gì. “Thế nào rồi, Polly, có tìm thấy gì không?”
“Tôi đang cố gắng hết sức có thể, anh Andrews. Nhưng tín hiệu thu được chỉ là một âm thanh ù ù… khó hình dung.” “Hãy thử dò tìm trên kênh Một, Hai, Ba hoặc Bốn. Hãy áp dụng bất kể cách gì có thể cho dù phải thử lại bao nhiêu lần. Hãy dò tìm từng trạm bắt sóng một xem sao.” “Rõ, đặc vụ Andrews. Tôi chỉ có thể dò từng trạm một. Có tất cả bốn trạm nhưng tôi chỉ có thể dò từng trạm trong một thời điểm cụ thể.”
Mark nhận ra anh đang hoảng loạn. Lúc này anh cần ngồi
xuống và suy nghĩ thấu đáo mọi điều. Vẫn chưa phải là ngày tận thế mà - hay chính là ngày đó đã đến?
“Họ không có trên kênh Một, anh Andrews ạ. Không có trên trạm Hai. Tại sao họ lại ở trên kênh Ba hoặc Bốn vào giờ này trong đêm nhỉ? Họ chỉ đang trên đường về nhà thôi mà.”
“Tôi không quan tâm họ sẽ đi đâu. Tôi chỉ cần tìm thấy họ. Cô thử dò tìm lại được không.”
“Được thôi. Không sao cả.” Polly lại thử dò tìm trên kênh Ba. Cô lại lần nữa thử dò tìm trên kênh Bốn. Phải có quyền truy cập bằng mật khẩu thì cô mới dò tìm trên kênh Năm hoặc kênh Sáu được. Mark nhìn Aspirin. Chỉ nhân viên phụ trách ca trực mới được ủy quyền truy cập mật khẩu.
“Đây là một tình huống khẩn cấp. Cháu xin thề với bác, đó là một tình huống khẩn cấp.”
Aspirin bảo Polly thử dò tìm trên kênh Năm và kênh Sáu - hai kênh kết nối qua tần số radio của Ủy ban Truyền thông Liên bang28* với FBI. Chúng thường được biết đến với tên viết tắt là KGB29*: Thật buồn cười là các nhân viên FBI lại lấy KGB làm mã gọi điện đàm trong mạng lưới của họ. Nhưng tại thời điểm đó chuyện này chẳng có vẻ gì là đặc biệt buồn cười. Tín hiệu dò tìm mong muốn không xuất hiện trên Trạm KGB 5. Sau đó, trạm KGB 6 đã được dò tìm nhưng cũng chỉ có kết quả tương tự, không dò được tín hiệu mong muốn. Giờ thì biết làm sao đây? Chúa ơi, con biết làm gì bây giờ? Anh ấy đã rẽ vào đâu vậy trời? Aspirin nhìn Mark với rất nhiều câu hỏi trong đầu, nhưng không thực sự muốn tham gia sâu vào việc này.
“Cả những cái mã truy cập thổ tả của bác cũng không giúp cháu tìm ra sếp Stames đang ở đâu.” Mark nói, cố nén
lòng để nói một cách bình tĩnh. “Thôi kệ, Aspirin, bác chơi tiếp trò giải ô chữ của mình đi.”
Mark bỏ lại Aspirin ở đó và đi vào phòng vệ sinh nam. Anh khum bàn tay hứng dưới vòi nước và vốc nước súc miệng - anh vẫn còn ám ảnh bởi mùi nôn mửa và mùi máu. Anh cố gắng loại bớt mùi khó chịu càng nhiều càng tốt. Anh trở lại Phòng Hình sự, ngồi xuống và từ từ đếm đến mười một cách chậm rãi. Anh phải quyết định mình sẽ làm gì tiếp và sau đó phải thực hiện những việc đó, cho dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. Chắc hẳn sếp Stames và Calvert đã gặp phải chuyện gì đó rồi. Anh biết điều đã xảy ra với người đưa thư da đen và anh chàng người Hy Lạp. Có lẽ anh nên thử liên lạc với Giám đốc Cục, mặc dù đó là trường hợp bất đắc dĩ. Một người ở cấp bậc của Mark, một đặc vụ tập sự mới được hai năm, sẽ không thể chỉ cần nhấc điện thoại lên và gọi thẳng tới để xin được nói chuyện với Giám đốc Cục. Dù sao đi nữa thì anh ấy vẫn có thể giữ cuộc hẹn của Stames với Giám đốc vào lúc 10 giờ 30 phút sáng mai. Còn khoảng nửa ngày nữa mới đến lúc đó. Những hơn mười hai giờ đồng hồ ngồi chờ đợi trong khi không biết mình phải làm gì tiếp theo. Mười hai giờ đồng hồ chỉ ngồi ôm và giữ kín một một bí mật mà anh ấy không thể thảo luận với bất cứ ai. Mười hai giờ đồng hồ chỉ ngồi không với những thông tin mà anh không thể để cho bất cứ người nào khác biết.
Chuông điện thoại reo và anh nghe thấy giọng nói của Polly. Anh cầu nguyện rằng cô ấy gọi để báo tin đã tìm thấy Stames, nhưng Chúa đã không đáp lại lời cầu nguyện của anh ấy.
“Này, đặc vụ Andrews, anh còn ở đó không? Đội Trọng án đang gọi đến trên đường dây. Đại úy Hogan muốn nói
chuyện với anh.”
“Anh Andrews phải không?”
“Vâng! Tôi đây, ngài Đại úy.”
“Anh có muốn nói với tôi điều gì không?”
Mark đã báo cáo một cách trung thực rằng Casefikis là một người nhập cư bất hợp pháp, anh ta đã trì hoãn việc điều trị cho vết thương ở chân của mình và cũng nói dối rằng Casefikis đã khẳng định anh ta đã bị một kẻ lừa gạt bắn, một gã tống tiền đe dọa sẽ khai ra anh ta là người nhập cư trái phép vào Hoa Kỳ. Một báo cáo đầy đủ bằng văn bản sẽ được gửi đến văn phòng của anh trong vòng buổi sáng ngày mai.
Vị thám tử có vẻ không tin vào câu chuyện của Mark cho lắm.
“Cậu đang giấu giếm tôi chuyện gì đó phải không anh chàng đặc vụ? Thế lúc đầu FBI làm gì ở đó? Sẽ có một cảnh tượng địa ngục trần gian nếu tôi phát hiện ra cậu đang ém thông tin. Tôi có thể không ngần ngại bắt cậu nếm trải lò than kinh khủng nhất ở Washington đấy.”
Mark nghĩ về việc Stames đã nhắc đi nhắc lại chỉ thị về việc phải giữ thông tin bí mật.
“Không đâu, tôi không giữ lại bất kỳ thông tin nào cả.” anh lên giọng tuyên bố. Anh biết mình đang run và giọng nói hầu như khá kém thuyết phục. Vị thám tử đến từ tổ Trọng án lầm bầm gì đó không nghe rõ lắm và hỏi thêm vài câu nữa rồi cúp máy. Mark đặt điện thoại xuống. Người anh đã rịn mồ hôi lấm tấm, quần áo vẫn dính sát vào da thịt anh. Anh đã thử gọi cho Norma Stames một lần nữa. Sếp Stames vẫn chưa về tới nhà. Anh lại gọi cho Polly và yêu cầu cô rà soát lại toàn bộ các kênh điện đàm theo tần số radio thêm
một lần nữa nhưng vẫn không có thêm thông tin gì ngoại trừ một âm thanh kêu ù ù trên kênh Một. Cuối cùng, Mark từ bỏ chiếc điện thoại và nói với Aspirin rằng anh sẽ rời văn phòng. Aspirin dường như không bận tâm lắm đến anh.
Mark đi phăm phăm về phía thang máy rồi bước nhanh đến xe hơi riêng của anh ta. Phải về nhà đã, sau đó mới gọi điện cho Giám đốc Cục. Một lần nữa anh lại nhấn ga, chạy tốc độ nhanh qua những con đường hướng về nhà mình.
Nơi Mark ở không phải là khu phố xa xỉ nhất, nhưng góc phía Tây Nam của thành phố Washington sau khi được cải tạo đã trở thành nơi ở của nhiều người lao động có trình độ, trẻ tuổi và độc thân. Nó nằm trên khu bến tàu trên bờ sông, gần Sân khấu Arena, chiếm giữ một vị trí thuận tiện ngay cạnh ga tàu điện ngầm Metro. Một không gian sống dễ chịu, sôi nổi và không quá đắt đỏ - một chỗ phù hợp hoàn hảo với Mark.
Ngay khi vừa về đến căn hộ của mình, Mark chạy lên cầu thang, xông qua cửa và nhấc điện thoại lên. Sau vài hồi chuông reo, người thuộc văn phòng Cục FBI đã nhấc máy điện thoại và trả lời: “Văn phòng Giám đốc cục FBI. Sĩ quan trực ca đang nghe máy.”
Mark hít một hơi thật sâu.
“Tôi là đặc vụ Andrews, Văn phòng FBI khu vực Washington.” Mark bắt đầu một cách chậm rãi. “Tôi cần nói chuyện với Giám đốc, trường hợp ưu tiên và ngay lập tức.”
Giám đốc hình như đang ăn tối với bà Bộ trưởng Tư pháp tại nhà bà ấy. Mark xin số điện thoại tư gia bà Bộ trưởng. Liệu anh có thẩm quyền đặc biệt để liên lạc được với Giám đốc vào thời điểm này trong đêm không? Anh ấy có thẩm quyền đặc biệt, anh ấy có một cuộc hẹn với ông ấy vào lúc
10 giờ rưỡi sáng mai và vì thế, ơn Chúa, anh ấy có thẩm quyền đặc biệt đó.
Người đàn ông chắc chắn đã cảm nhận được Andrews đang tuyệt vọng đến mức nào.
“Tôi sẽ gọi lại cho anh ngay nếu anh để lại cho tôi số điện thoại của anh.”
Andrews biết rất rõ rằng việc đó chỉ đơn giản là để kiểm tra xem Mark có thực sự là đặc vụ FBI hay không và có đúng là anh đã có lịch hẹn gặp Giám đốc Cục vào buổi sáng mai hay không. Sau một phút, điện thoại của anh ấy reo lên, viên sĩ quan trực ca đã gọi lại.
“Giám đốc vẫn đang ở nhà bà Bộ trưởng Tư pháp. Số nhà riêng của bà ấy là 761-4386.”
Mark đã quay số đó.
“Tư gia bà Edelman xin nghe.” Một giọng nói nghiêm túc trả lời điện thoại.
“Tôi là đặc vụ Mark Andrews.” Anh bắt đầu. “Tôi cần nói chuyện với Giám đốc Cục Điều tra Liên bang.” Mark nói một cách từ tốn và rõ ràng, mặc dù anh vẫn còn run. Câu trả lời mà một người đàn ông đang mang trong mình nỗi lo lắng lớn chưa từng có đêm hôm đó nhận lại được có vẻ trớ trêu: Bữa ăn tối kéo dài hơn dự kiến.
“Xin vui lòng giữ máy trong giây lát, thưa anh?” Anh đợi, tiếp tục đợi và lại tiếp tục đợi máy nữa.
Một giọng nói khác trả lời điện thoại: “Tôi, Tyson đang nghe đây.”
Mark hít lấy một hơi thật sâu và đi thẳng vào câu chuyện. “Tôi là đặc vụ FBI Mark Andrews. Tôi có hẹn để gặp Sếp cùng với Giám đốc Văn phòng FBI khu vực Washington Stames và đặc vụ FBI Calvert vào lúc 10 giờ 30 sáng mai. Có
lẽ ông không rõ chi tiết, thưa sếp, bởi vì lịch hẹn được xác nhận thông qua bà McGregor sau khi ông đã rời khỏi văn phòng. Tôi phải nói chuyện với ông ngay lập tức. Sếp có lẽ sẽ muốn gọi lại cho tôi sau. Tôi đang ở nhà riêng.”
“Được rồi, Andrews.” Ông Tyson nói. “Tôi sẽ gọi lại cho cậu, đọc số điện thoại nhà cậu cho tôi đi.”
Mark đọc số điện thoại cho ông Giám đốc FBI.
“Chàng trai trẻ,” Tyson nói, “việc này chắc chắn nên được ưu tiên phải không.”
“Chính xác là như thế, thưa sếp.”
Mark lại đợi. Một phút trôi qua, rồi lại một phút nữa. Liệu rằng có phải ông Giám đốc Cục FBI - Tyson - đã gạt bỏ anh ta như một gã ngốc không? Chuyện gì đang xảy ra vậy? Ba phút. Bốn phút. Rõ ràng ông ấy đang kiểm tra kỹ lưỡng hơn cả viên sĩ quan trực ca của mình lúc trước.
Điện thoại reo. Mark chồm lên chụp lấy ống nghe. “Xin chào, Mark. Roger đây. Anh muốn ra ngoài uống bia không?” “Không phải bây giờ, Roger, không phải bây giờ.” Anh dập điện thoại xuống.
Điện thoại lại reo lên, ngay lập tức.
“Phải rồi, Andrews, anh có điều gì phải nói với tôi đúng không? Anh nói ngay đi và tập trung vào điểm mấu chốt của câu chuyện.”
“Tôi muốn gặp sếp bây giờ, thưa sếp. Tôi xin ông 15 phút thôi và tôi cần sếp nói cho tôi biết tôi phải làm cái quái gì ngay bây giờ.”
Mark hối hận ngay lúc anh bật ra cụm từ cái quái gì. “Được chứ, nếu đó là trường hợp khẩn cấp. Cậu có biết địa chỉ tư gia của bà Bộ trưởng Tư pháp không?” “Không, thưa ông.”