🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ba Tách Trà Ebooks Nhóm Zalo “Tại đây (Pakistan và Afghanistan), chúng tôi uống ba tách trà để kết thân: tách thứ nhất, anh là người lạ, tách thứ hai, anh trở thành bạn bè, và tách thứ ba, anh nhập vào gia đình chúng tôi. Và đối với gia đình, chúng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì - kể cả bỏ mạng”. – Haji Ali, trưởng làng Korphe, núi Karakoram, Pakistan. Câu chuyện đáng kinh ngạc, đầy sức tác động về một Indiana Jones đời thực và chiến dịch nhân đạo đặc biệt của anh tại miền hẻo lánh của Taliban. Năm 1993, nhà leo núi Greg Mortenson lang bạt vào một ngôi làng của người Pakistan cùng khổ nằm trong dãy Karakoram sau nỗ lực leo lên đỉnh K2 bất thành. Cảm động trước lòng tốt của người dân nơi đây đã chăm sóc và giúp anh khôi phục sức khỏe, anh hứa sẽ quay lại và xây trường học. Ba Tách Trà là câu chuyện về lời hứa ấy và tác động phi thường của nó. Suốt một thập kỷ tiếp theo, Mortenson dựng nên không chỉ một mà là năm mươi lăm mái trường, đặc biệt dành cho các bé gái, tại vùng địa hình hiểm trở sản sinh ra nhóm Taliban. Chuyện của anh lập tức trở thành cuộc phiêu lưu hấp dẫn và là bằng chứng về sức mạnh của tinh thần nhân đạo. Tác phẩm đã được nhận giải thưởng Kiriyama. GREG MORTENSON là giám đốc điều hành Tổ chức từ thiện Central Asia Institute (CAI). Sau chuyến leo lên đỉnh K2 không thành, ông đã dành cuộc đời mình thúc đẩy việc giáo dục cộng đồng và chương trình xóa mù chữ, nhất là giáo dục cho các bé gái ở vùng xa xôi của Pakistan và Afghanistan. Anh hiện sống tại Mantana cùng vợ và hai con. DAVID OLIVER RELIN là nhà báo đã giành được nhiều giải thưởng quốc gia trong sự nghiệp cầm bút của mình. Ngoài Pakistan, anh đã đi và viết phóng sự về Việt Nam cùng nhiều quốc gia ở Đông Á. Anh quan tâm đến các vấn đề xã hội và tác động của chúng đối với trẻ em. Anh hiện sống tại Portland, Oregon. “Hấp dẫn và hồi hộp, với những đoạn mô tả cuốn hút về thái độ thù địch lẫn tình bạn không tưởng, cuốn sách này sẽ chiếm được cảm tình của vô số độc giả.” – Publishers Weekly “Ba Tách Trà là một trong những chuyến phiêu lưu đặc biệt nhất trong thời đại chúng ta. Hành trình gian nan hiểm nghèo đi xây trường học tại các vùng hoang vu nhất Pakistan và Afghanistan của Greg Mortenson không chỉ là câu chuyện li kì mà còn là bằng chứng cho thấy một người bình thường, chỉ cần kết hợp đầy đủ nghị lực và quyết tâm, thật sự có thể thay đổi thế giới”. – Tom Brokaw Hãng truyền hình NBC “Greg Mortenson đại diện cho những điều tốt đẹp của nước Mỹ. Anh ấy là người hùng của chúng tôi. Và sau khi bạn đọc xong Ba Tách Trà, anh ấy cũng sẽ trở thành người hùng của bạn.” - Mary Bono Nghị viên Đảng Cộng hòa Mỹ “Greg Mortenson là người giao thiệp xuất chúng… Một anh chàng có ý tưởng tuyệt vời, chịu bắt tay vào công việc nhỏ nhặt nhất rồi theo đuổi, chỉ cần nó mang lại tác động lớn, và cống hiến cả đời cho công việc ấy. Anh thành công tại một vùng đất không hoan nghênh người Mỹ bởi lẽ anh gắn kết người khác bằng tấm chân tình.” - Bill Clinton Cựu Tổng thống Mỹ rb Three Cups of Tea Copyright © 2006 by Greg Martenson & David Oliver Relin. All rights reserved. Ba Tách Trà © 2010 by Youbooks. Thực hiện ebook © Romance Book, 2013. LỜI GIỚI THIỆU Trong quỹ đạo của Ngài Mortenson Bóng đèn nhỏ màu đỏ nhấp nháy năm phút trước khi Bhangoo chú ý đến nó. “Mấy cái đồng hồ báo nhiên liệu ở máy bay cũ rõ ràng không đáng tin cậy.” Trung tướng Bhangoo, một trong những phi công lái trực thăng bay cao nhiều kinh nghiệm nhất của Pakistan vừa nói vừa vỗ vào đồng hồ. Tôi không rõ liệu việc làm đó có nhằm giúp tôi thấy yên tâm hơn không. Tôi nhích đến gần Bhangoo, nhìn xuống phía dưới hai chân mình qua tấm kính chắn gió nổi bọt của chiếc Alouette cũ từ thời chiến tranh Việt Nam. Sáu trăm mét bên dưới chúng tôi là một dòng sông uốn khúc bao quanh bởi những vách đá nhô lên từ cả hai bên thung lũng Hunza. Trong tầm mắt, chúng tôi lướt qua những sông băng treo còn mới đang vỡ ra từng mảnh dưới ánh mặt trời nhiệt đới. Bhangoo vẫn bay một cách bình thản, gạt tàn thuốc qua lỗ thông hơi gần một nhãn dán ghi dòng chữ “Không hút thuốc”. Từ phía sau máy bay, Greg Mortenson vươn cánh tay dài vỗ vào vai áo của Bhangoo. “Tướng quân,” Mortenson hét lớn. “Tôi nghĩ chúng ta đang đi sai đường”. Trung tướng Bhangoo từng là phi công riêng của Tổng thống Musharraf trước khi rời khỏi quân đội chuyển sang làm cho một công ty hàng không dân sự. Ông đã xế lục tuần với mái tóc muối tiêu và bộ ria mép được cắt tỉa và chăm sóc cẩn thận như những nguyên âm mà ông đã thừa hưởng từ một trường tư thục Anh nơi ông theo học khi còn là một cậu bé, cùng với Musharraf và nhiều nhà lãnh đạo tương lai khác của Pakistan. Vị tướng ném điếu thuốc qua lỗ thông hơi và thở mạnh. Rồi ông cúi người đối chiếu bộ định vị GPS mua ở cửa hàng, được đặt cân bằng trên đầu gối với tấm bản đồ quân sự mà Mortenson đã gấp lại để làm nổi bật nơi anh cho là vị trí của chúng tôi. “Tôi đã bay ở phía bắc Pakistan bốn mươi năm.” ông nói đầu lắc lư với bộ điệu theo phong cách tiểu lục địa điển hình nhất. “Anh làm sao rành địa hình bằng tôi?” Bhangoo nghiêng chiếc Alouette sang mạn cửa, bay ngược lại hướng mà chúng tôi vừa bay tới. Cái bóng đèn đỏ làm tôi lo ngại trước đó bắt đầu nhấp nháy nhanh hơn. Kim đồng hồ lắc lư cho thấy chúng tôi còn không đến một trăm lít nhiên liệu. Vùng đất này ở bắc Pakistan quá xa xôi và hẻo lánh nên chúng tôi đã phải nhờ mấy người bạn đặt trước những thùng nhiên liệu tại những điểm chiến lược bằng xe jeep. Nếu không đến được khu vực hạ cánh thì chúng tôi sẽ rơi vào tình thế gay go, thật vậy, vì hẻm núi hiểm trở mà chúng tôi đã bay qua không có những khu vực bằng phẳng thích hợp cho việc hạ cánh. Bhangoo cho máy bay lên cao để có thể chọn lựa chế độ quay tự động hướng về khu vực hạ cánh xa hơn nếu hết nhiên liệu, và đẩy mọi cần điều khiển về phía trước, tăng tốc máy bay lên đến chín mươi dặm. Ngay khi kim đồng hồ chạm vạch E và bóng đèn cảnh báo màu đỏ bắt đầu kêu bíp bíp, Bhangoo hạ càng đáp ngay giữa một chữ H lớn, sân bay dành cho máy bay lên thẳng, được kẻ trên đá trắng, kề bên những thùng nhiên liệu bay của chúng tôi. “Thật là một chuyến bay tốt đẹp.” Bhangoo nói, đốt điếu thuốc khác. “Nhưng nếu không có ông Mortenson thì đã không được như vậy.” Sau khi nạp nhiên liệu bằng cách chèn cái bơm tay vào một thùng nhiên liệu gỉ sét, chúng tôi bay trên thung lũng Braldu đến làng Korphe, nơi có người ở cuối cùng trước khi sông băng Baltoro bắt đầu cuộc hành quân của nó lên đến K2, và là khu vực tập trung lớn nhất của những đỉnh núi cao hơn sáu nghìn mét trên thế giới. Sau lần leo núi K2 thất bại vào năm 1993, Mortenson đã đến Korphe, đói khát và kiệt sức. Trong cộng đồng nghèo với những căn nhà lụp xụp bằng đá và bùn này, cuộc đời của cả Mortenson và những đứa trẻ miền bắc Pakistan đã thay đổi. Một buổi tối, anh đi ngủ bên ngọn lửa phân bò như một nhà leo núi lạc đường và một buổi sáng, lúc chia sẻ ấm trà bơ với những vị chủ nhà và buộc dây đôi ủng của mình, anh đã trở thành một nhà nhân đạo, người vừa tìm ra một con đường ý nghĩa để theo đuổi trong phần đời còn lại của mình. Đến Korphe cùng với bác sĩ Greg Bhangoo và tôi được chào đón trong những vòng tay rộng mở, đầu của một con dê núi vừa mới giết và vô số chén trà. Và khi nghe những trẻ em Shia ở Korphe, một trong những cộng đồng nghèo nhất thế giới nói về những hi vọng và ước mơ tương lai của chúng đã lớn lên nhiều như thế nào từ khi một người Mỹ to lớn đến đây mười năm trước để xây ngôi trường đầu tiên mà làng của chúng từng biết đến, vị tướng và tôi bị thuyết phục. “Anh biết không,” Bhangoo nói trong khi 120 học sinh vây quanh, lôi kéo chúng tôi đến thăm trường của chúng, “Khi bay cùng Tổng thống Musharraf, tôi đã gặp nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới, nhiều quý ông và quý bà cao cả. Nhưng tôi nghĩ Greg Mortenson là nhân vật đặc biệt nhất mà tôi từng được gặp.” Bất cứ ai có hân hạnh được theo dõi các hoạt động của Mortenson ở Pakistan đều ngạc nhiên bởi kiến thức uyên bác mà anh có được về một trong những vùng xa xôi nhất. Và nhiều người trong số đó phần lớn là trái với chủ định, tự nhận thấy mình bị kéo vào quỹ đạo của anh. Trong thập niên trước, từ một loạt những thất bại và tai nạn biến đổi anh từ một nhà leo núi thành một nhà nhân đạo, Mortenson đã lôi kéo được đội ngũ nhân viên không có đủ điều kiện và đã đạt được kết quả nhiều hơn bất cứ một tổ chức từ thiện nào trên thế giới. Những phu khuân vác vùng cao mù chữ ở Karakoram, Pakistan đã từ giã việc khuân vác hàng hóa với khoản thù lao ít ỏi để cùng anh mang đến cho con em họ sự giáo dục mà họ không có được. Một tài xế taxi có dịp chở Mortenson từ sân bay Islamabad, đã bán xe của mình để trở thành một “người dàn xếp” tận tình cống hiến. Những cựu chiến binh Taliban đã từ bỏ bạo lực và áp bức phụ nữ sau khi gặp Mortenson, và đến làm việc một cách hòa bình với anh để xây dựng những ngôi trường cho các bé gái. Mortenson đã thu hút những người tình nguyện và người ngưỡng mộ từ mọi tầng lớp của xã hội Pakistan và từ các giáo phái Hồi giáo đang có xung đột. Những kí giả được cho là khách quan cũng có nguy cơ bị hút vào quỹ đạo của anh. Đã ba lần tôi cùng Mortenson đến miền bắc Pakistan, bay đến những thung lũng xa xôi nhất của Karakoram Himalaya và Hindu Kush trên những chiếc trực thăng đáng lẽ nên được đưa vào viện bảo tàng. Càng có nhiều cơ hội quan sát Mortenson làm việc, tôi càng tin chắc mình đã được gặp một con người phi thường. Trước khi đi, những giai thoại mà tôi được nghe về những chuyến phiêu lưu của Mortenson để xây dựng trường học cho các bé gái ở những vùng núi xa xôi của Pakistan có vẻ như quá kịch tính để có thể tin được. Câu chuyện mà tôi khám phá với những thợ săn dê ở những thung lũng cao vùng Karakoram ở những khu du mục bên rìa Afghanistan hoang vu, quanh bàn hội nghị với những đại biểu ưu tú của quân đội Pakistan, và qua vô số chén trà paiyu cha(1) trong những phòng uống trà ám khói mà tôi phải nheo mắt để nhìn thấy được cuốn sổ ghi chép, quả là khác thường hơn tôi đã tưởng tượng. Với tư cách một kí giả làm cái nghề kì quặc là điều tra cuộc sống của con người trong hai thập niên, tôi đã gặp quá nhiều nhân vật của công chúng không xứng với những gì báo chí nói về họ. Nhưng ở Korphe và bất cứ ngôi làng Pakistan nào khác, nơi tôi được chào đón như một thành viên trong gia đình đã thất lạc từ lâu vì có một người Mỹ khác đã dành thời gian xây dựng những mối quan hệ gắn bó ở đây, tôi được biết câu chuyện trong mười năm qua về sự hiện diện của Greg Mortenson đâm chồi nảy nhánh với sự phong phú và phức tạp vượt xa điều mà phần lớn chúng ta có thể đạt được trong cả cuộc đời. Nói một cách hình tượng, đây là câu chuyện mà tôi không thể chỉ quan sát. Bất cứ ai đặt chân đến năm mươi ba ngôi trường của CAI(2) mà Mortenson đã và đang đưa vào hoạt động đều trở thành người ủng hộ anh. Và sau khi tham dự các jirga(3) suốt đêm với các bô lão và cân nhắc những đề nghị cho những dự án mới, hoặc được thấy lớp học đầy những bé gái tám tuổi háo hức tìm hiểu cách sử dụng cái gọt bút chì đầu tiên mà ai đó đã quan tâm tặng chúng, hoặc ứng khẩu giảng dạy một bài về tiếng lóng của tiếng Anh trong căn phòng đầy những học sinh lễ phép, thật không thể vẫn cứ mãi là một phóng viên được. Cũng như anh chàng kí giả u buồn Thomas Fowler của tác giả Graham Greene đã nhận ra vào cuối cuốn tiểu thuyết The Quiet American, đôi khi, là con người bạn phải chọn lựa giữa các bên. Tôi chọn đứng cùng Greg Mortenson. Không phải vì anh không có những thiếu sót, ý thức về thời gian linh động của anh đã khiến sự nối tiếp chính xác của nhiều sự kiện trong cuốn sách này gần như không dễ dàng như việc phỏng vấn người dân Balti mà anh cùng làm việc - ngôn ngữ của họ không có các thì và ít gắn với thời gian tuyến tính như ngôn ngữ của người mà họ gọi là bác sĩ Greg. Trong hai năm cùng nhau làm việc cho quyển sách này, Mortenson thường trễ hẹn đến phát bực khiến tôi đã cân nhắc đến việc từ bỏ kế hoạch. Nhiều người, đặc biệt là ở Mỹ đã quay lưng với anh sau những sự việc tương tự; họ coi anh là người “không đáng tin cậy” hay còn tệ hơn nữa. Nhưng tôi đã nhận ra, như vợ anh, Tara Bishop, thường nói, “Greg không phải là một người trong chúng ta.” Anh hoạt động theo Thời gian Mortenson, một sản phẩm có lẽ xuất phát từ sự trưởng thành ở Phi châu và làm việc phần lớn thời gian trong năm ở Pakistan. Và phương pháp hoạt động của anh, thuê mướn người có ít kinh nghiệm dựa trên những cảm xúc tự nhiên, củng cố khối liên minh làm việc với những nhân vật khó chịu tất yếu và trên hết là chắp cánh cho nó trong khi còn do dự và trái với lẽ thường, đã chuyển dời những ngọn núi. Đối với người đã thành đạt nhiều như vậy, Mortenson đặc biệt ít nghĩ đến cái tôi. Sau khi tôi đồng ý viết cuốn sách này, anh đã đưa cho tôi một trang giấy có hàng chục cái tên và con số được ghi dày đặc bên lề bằng chữ nhỏ. Đó là danh sách những kẻ thù của anh. “Hãy nói chuyện với tất cả bọn họ,” anh nói. “Hãy để họ nói. Chúng tôi đã có được kết quả. Đó là những gì tôi quan tâm.” Tôi đã nghe hàng trăm kẻ thù và người ủng hộ Mortenson nói. Và do sự an toàn hoặc riêng tư, tôi đã thay đổi một vài cái tên và địa điểm. Việc viết cuốn sách này đúng thật là một sự cộng tác. Tôi viết. Song, Mortenson là người làm sống động câu chuyện. Và cùng nhau, lựa chọn hàng nghìn hình ảnh slide, xem lại tư liệu và phim ảnh của cả một thập niên, ghi âm hàng trăm giờ phỏng vấn và qua lại viếng thăm những người là trung tâm của những chuyện kể lạ lùng nhất này, chúng tôi đã cho ra đời cuốn sách. Và như tôi trông thấy ở Pakistan, Viện Trung Á của Mortenson có được những kết quả không thế chối cãi. Ở một vùng của thế giới, nơi những người Mỹ, nhiều nhất là bị hiểu lầm và thường hơn là bị e ngại và căm ghét, nhà cựu leo núi ăn nói mềm mỏng, cao gần hai mét đến từ Montana đã thu được một chuỗi những thành công không tưởng. Mặc dù bản thân không bao giờ nói ra, nhưng anh đã một tay làm thay đổi cuộc sống của hàng nghìn trẻ em, và một ách độc lập, đã chiếm được cảm tình cũng như sự chú ý nhiều hơn hết thảy sự tuyên truyền chính thức của người Mỹ đang tràn ngập vùng này. Do đó, đây là một lời thú nhận: Thay vì chỉ tường thuật tiến bộ của anh, tôi muốn thấy Greg Mortenson thành công. Tôi mong anh thành công vì anh đang chiến đấu cho cuộc chiến chống khủng bố theo cách mà tôi nghĩ là cuộc chiến đó cần phải được tiến hành. Băng mình trên cái gọi là “xa lộ” Karakoram trên chiếc Land Cruiser cũ, tự nhận vào mình những rủi ro lớn để gieo cho vùng đất đã sản sinh ra phiến quân Taliban những ngôi trường, Mortenson tham gia cuộc chiến với những căn nguyên của khủng bố mỗi khi anh tạo cơ hội cho một học sinh được nhận nền giáo dục cân bằng thay vì theo học ở một madrassa(4) cực đoan. Nếu người Mỹ học được nhiều hơn từ những sai lầm của mình, từ cái cách mà chúng ta, như một quốc gia, đã tiến hành cuộc chiến tranh chống khủng bố không hiệu quả sau vụ tấn công 11/9, và từ cái cách mà chúng ta đã thất bại để làm cho đa số những người ôn hòa, yêu hòa bình ngay trong lòng thế giới Hồi giáo ủng hộ mình, chúng ta cần lắng nghe Greg Mortenson. Tôi đã lắng nghe và đó là một trong những trải nghiệm hữu ích nhất trong cuộc đời tôi. David Oliver Relin Portland, Oregon. CHƯƠNG 1 Thất bại Khi trời đủ tối bạn có thể nhìn thấy các vì sao. - Ngạn ngữ Ba Tư Ở Karakoram, Pakistan, nhô lên lởm chởm ngang qua vùng đất trơ trụi rộng một trăm dặm, hơn sáu mươi ngọn núi cao nhất thế giới ngự trị với vẻ uy nghiêm trên độ cao hoang vu không người biết đến. Ngoài báo tuyết và dê rừng núi Anpơ rất ít sinh vật đi qua mỏm tuyết trơ trụi này, nơi mà sự hiện diện của ngọn núi cao thứ hai trên thế giới, K2, chỉ là lời đồn đại với thế giới bên ngoài cho đến tận đầu thế kỉ 20. Xuôi xuống từ K2 đến những vùng cao có người ở thung lũng Indus, giữa bốn chóp đá hoa cương của những ngọn Gasherbrum và mũi nhọn như dao găm giết người của những ngọn Great Trango Tower, chỉ có dòng sông băng Baltoro dài sáu mươi hai kilômét làm xáo động cái giáo đường lặng lẽ của đá và băng này. Ngay cả chuyển động của dòng sông băng, trôi dạt với vận tốc mười centimet một ngày, hầu như không thể nhận ra. Chiều ngày 2 tháng 9 năm 1993, Greg Mortenson cảm thấy mình khó mà di chuyển được nhanh hơn nữa. Mặc bộ shalwar kamiz(5) màu bùn giống những người khuân vác Pakistan của mình, anh có cảm giác đôi ủng da leo núi màu đen nặng trịch đang tự động đưa anh xuôi dòng Baltoro theo tốc độ băng hà của nó, bởi một hạm đội những tảng băng trôi dàn ra như những cánh buồm của hàng nghìn con tàu bị băng giữ chặt. Bất cứ lúc nào Mortenson cũng hi vọng tìm thấy Scott Darsney, một thành viên trong đoàn, người sẽ cùng anh trở lại với thế giới văn minh, đang ngồi trên một tảng đá, cười nhạo vì anh đi quá chậm. Nhưng vùng thượng Baltoro là một mê lộ chứ không phải là con đường mòn. Mortenson vẫn chưa nhận ra mình đã lạc đường và đơn độc. Anh đã đi trệch khỏi dòng chính của sông băng theo hướng không dẫn về phín tây, phía ngôi làng Askole ở cách năm mươi dặm nơi anh hi vọng tìm được một người lái xe jeep sẵn lòng chở anh ra khỏi những ngọn núi này, mà dẫn về phía nam, vào một mê cung không thể vượt qua của những thác băng vỡ và xa hơn, là vùng cao chết người, nơi quân lính Ấn Độ và Pakistan rót đạn pháo vào nhau qua bầu không khí loãng. Thường thì Mortenson phải chú ý hơn. Anh phải tập trung vào thông tin mang tính sống còn, như việc Mouzafer, người khuân vác đã xuất hiện như một phép lạ và tình nguyện vận chuyển chiếc túi đựng đồ leo núi nặng trình trịch cùng chiếc lều và gần như hết thảy số thực phẩm của anh và phải giữ ông ta trong tầm mắt. Anh còn phải lưu ý hơn nữa sự đáng sợ của môi truờng xung quanh. Năm 1909, công tước Abruzzi, một trong những nhà leo núi vĩ đại nhất và có lẽ là người am hiểu nhất thời đại mình về những cảnh quan vách đá, đã dẫn đoàn thám hiểm người Ý lên đến Baltoro trong một nỗ lực không thành để lên đỉnh K2. Ông kinh ngạc trước vẻ đẹp trần trụi của những đỉnh núi bao quanh. “Nói về vẻ đẹp vùng núi cao thì không gì có thể so sánh được,” ông ghi lại trong nhật kí. “Đó là thế giới băng hà và núi đá lởm chởm, một quang cảnh lạ thường có thật làm hài lòng người nghệ sĩ cũng như nhà leo núi.” Nhưng khi mặt trời lặn về phía tây sau những đường răng cưa hoa cương lớn của ngọn Muztagh Tower và bóng tối quét lên các vách thung lũng phía đông về phía núi đá liền khối như lưỡi dao găm Casherbrum, Mortenson hầu như không nhận thấy. Buổi chiều hôm đó, anh đang nhìn vào chính bản thân mình sững sờ và bị thu hút bởi một điều gì đó khá xa lạ trong cuộc đời mình cho đến thời điểm đó - sự thất bại. Thọc tay vào túi quần shalwar, anh chạm đầu ngón tay vào chuỗi hạt hổ phách mà cô em gái Christa thường đeo. Khi còn là đứa bé ba tuổi ở Tanzania, nơi cha mẹ Mortenson vốn sinh ra ở Minnesota làm giáo viên và nhà truyền giáo của giáo phái Luther, Christa bị viêm màng não cấp tính và không bao giờ hồi phục. Greg lớn hơn cô em gái mười hai tuổi, đã tự phân công mình làm người bảo trợ cho em. Mặc dù Christa đã nỗ lực để thực hiện những việc đơn giản - mặc quần áo vào mỗi buổi sáng cũng mất đến cả giờ - và phải chịu những cơn động kinh nghiêm trọng, Greg đã thúc ép mẹ mình, Jerene, cho phép em gái được tự lập phần nào. Anh giúp Christa tìm một công việc lao động chân tay, chỉ dạy cho cô những tuyến xe buýt công cộng ở Twin Cities để cô có thể đi đây đó một cách tự do và do sự ngại ngùng của mẹ, anh trao đổi chi tiết với em gái về việc kiểm soát sinh sản khi biết cô đang hẹn hò. Hằng năm, không kể là đang phục vụ trong quân y Mỹ và là trung đội trưởng ở Đức chăm sóc bệnh nhân ở South Dakota, đang nghiên cứu về sinh lí thần kinh tại một trường cao học ở Ấn Độ với hi vọng tìm ra cách chữa trị cho Christa, hay đang sống như một người leo núi rời xa chiếc xe hơi của mình ở Berkeley, California, Mortenson đều nài nỉ cô em gái bé nhỏ đến thăm mình một tháng. Cùng nhau, hai anh em đã khám phá được những cảnh quang làm cho Christa rất thích thú. Họ đã tham dự cuộc đua Indy 500, cuộc đua ngựa Kentucky Derby, rong ruổi đến Disneyland, và anh đã hướng dẫn em gái tham quan thánh đường kiến trúc của riêng mình vào thời điểm đó, những vách đá hoa cương nhiều tầng ở Yosemite. Chuẩn bị cho sinh nhật lần thứ hai mươi ba, Christa và mẹ dự định thực hiện chuyến hành hương từ Minnesota đến cánh đồng ngô ở Deyersville, Iowa, nơi bộ phim Field of Dreams - bộ phim mà Christa đã xem đi xem lại nhiều lần, đã được quay. Nhưng vào hôm sinh nhật, lúc một hai giờ sáng trước khi họ khởi hành, Christa đã chết sau một cơn động kinh dữ dội. Sau cái chết của Christa, Mortenson giữ lại chuỗi hạt trong số những đồ vật ít ỏi của em gái. Chuỗi hạt vẫn vương mùi lửa trại mà họ đã đốt trong lần cuối cô em đến thăm anh ở California. Anh đã mang theo chuỗi hạt đến Pakistan, buộc vào một lá bùa của người Tây Tạng cùng với một kế hoạch tưởng nhớ cô em gái bé nhỏ của mình. Là một nhà leo núi, Mortenson đã quyết định, với sự thành tâm nhất trong lòng mình, sẽ leo lên đỉnh K2, đỉnh núi mà hầu hết những nhà leo núi xem là khó đến nhất trên trái đất và đặt chuỗi hạt của Christa ở đó, tại độ cao 8.615 mét. Anh đã được nuôi dạy trong một gia đình ưa thích những nhiệm vụ khó khăn, như xây dựng một trường học và bệnh viện trên sườn núi Kilimanjaro ở Tanzania. Nhưng bất chấp những bề mặt phẳng lặng trong niềm tin không nghi ngờ của cha mẹ, tâm trí của Mortenson chưa được chuẩn bị cho bản chất thần linh. Anh sẽ dâng tặng lễ vật cho bất cứ vị thần nào sống trên tầng khí cao. Ba tháng trước đó, Mortenson đã băng qua dòng sông băng này một cách tích cực trong đôi sandan Teva không vớ, với chiếc balô nặng bốn mươi kí dành cho chuyến mạo hiểm vẫy gọi anh đến Baltoro. Anh đã bắt đầu chuyến đi sáu mươi dặm từ Askole với một đội gồm mười nhà leo núi người Anh, Ireland, Pháp và Mỹ, một đội không dồi dào về tài chính nhưng gan dạ một cách điên rồ, leo lên ngọn núi cao thứ hai trên thế giới. So với Everest, một nghìn dặm về phía nam dọc theo sống lưng của dãy Himalaya, cả đội đều biết K2 là ngọn núi giết người. Với những người leo núi, vốn gọi nó là “Đỉnh núi Hoang dã,” thì nó vẫn còn là thử thách tuyệt đối, một kim tự tháp như dao cạo bằng đá hoa cương dốc đến mức tuyết không thể bám vào những chỏm đá có mép sắc như dao. Và Mortenson, khi đó là chàng trai ba mươi lăm tuổi, khỏe như bò mộng, từng lên đỉnh Kilimanjaro năm mười một tuổi và theo học trên những vách đá hoa cương dốc đứng ở Yosemite, rồi tốt nghiệp với nhiều lần thành công trong việc chinh phục các đỉnh núi ở Himalaya, khi đến nơi vào tháng năm, đã tin tưởng rằng sẽ sớm được đứng ở cái nơi mà anh gọi là “đỉnh cao lớn nhất và trơ trụi nhất trên trái đất.” Anh đã đến rất gần trong vòng sáu trăm mét tính từ đỉnh. Nhưng K2 đã chìm trong làn sương mù phía sau anh và chuỗi hạt vẫn nằm trong túi. Tại sao điều đó lại xảy ra? Anh dụi mắt vào tay áo, mất phương hướng bởi những giọt nước mắt xa lạ và đổ lỗi chúng do độ cao gây ra. Anh chắc chắn không còn là chính mình. Sau sáu mươi tám ngày chiến đấu theo bản năng ở độ cao của K2, anh cảm thấy mình như một vết sẹo mờ nhăn nheo của chính mình. Đơn giản là anh không biết có còn đủ đồ dự trữ để đi thêm năm mươi dặm qua vùng đất nguy hiểm để đến Askole hay không. Tiếng kêu răng rắc, chói tai như tiếng súng của một tảng đá rơi đưa anh về với quang cảnh xung quanh. Anh nhìn tảng đá có kích thước bằng tòa nhà ba tầng đang rơi nhanh dần, nảy lên và xoay tròn xuống một dốc đá li ti rồi nghiền vụn một núi băng trên đường đi của nó. Mortenson cố tự lay tỉnh mình trở lại trạng thái cảnh giác. Anh tìm lại chính mình, nhận thấy bóng tối đã lên cao như thế nào trên những đỉnh núi phía đông, và cố nhớ xem đã bao lâu rồi kể từ khi anh nhìn thấy dấu vết của những người khác. Đã nhiều giờ trôi qua kể từ khi Scott Darsney biến mất dưới lối mòn ở phía trước. Một giờ trước đó, hoặc có thể lâu hơn, anh đã nghe thấy những tiếng chuông của một đoàn la thồ của quân đội đang tải đạn về phía sông băng Siachen, bãi chiến trường cao sáu nghìn mét cách đó mười hai dặm về phía nam, nơi quân đội Pakistan đã đóng băng trong thế cầm cự chết chóc vĩnh viễn với quân đội Ấn Độ. Anh lùng sục con đường mòn tìm kiếm dấu vết. Ở một nơi nào đó trên con đường mòn trở về Askole, phải có rác rưởi mà quân đội để lại đằng sau. Nhưng không thấy phân la. Không có những mẩu thuốc lá. Không có những vỏ lon thực phẩm. Không có cỏ khô mà những người cưỡi la mang theo cho con vật của mình. Anh nhận ra chỗ đó không hề giống lối mòn, mà chỉ là một đường nứt trong cái mê cung không ổn định của đá và băng, và tự hỏi vì sao mình lại lang thang đến điểm này. Anh cố giữ đầu óc sáng suốt để tập trung. Nhưng tác động của việc dãi gió dầm mưa kéo dài ở độ cao đã làm Mortenson mất khả năng suy nghĩ và hành động một cách dứt khoát. Anh mất một giờ để leo lên dốc đá vụn, hi vọng đến một điểm thuận lợi trên những tảng đá và núi băng, một nơi mà anh có thể nhận ra điểm mốc mình đang tìm kiếm, mỏm đá lớn Urdukas, nhô ra khỏi dòng Baltoro như một nắm đấm lớn và kéo anh quay về hướng đường mòn. Nhưng ở trên đỉnh, anh không nhận được gì nhiều ngoài sự kiệt sức hơn nữa. Anh đã đi lạc tám dặm đến tận một thung lũng hoang vắng, và trong ánh nắng đang tắt dần, ngay cả đường viền của những đỉnh núi mà anh biết rất rõ cũng trông như xa lạ trong phối cảnh mới này. Cảm thấy có sự hoang mang đang ẩn chứa bên dưới sự sững sờ do độ cao gây ra, Mortenson ngồi xuống lấy lại bình tĩnh. Trong chiếc túi nhỏ màu đỏ tía bạc phếch vì nắng của anh có một tấm chăn nhẹ của quân đội Pakistan, một chai nước rỗng không và một thanh protein duy nhất. Túi ngủ, toàn bộ quần áo ấm, chiếc lều, bếp lò, thực phẩm, thậm chí cả đèn pin và mọi que diêm của anh đều nằm trong chiếc balô mà người khuân vác mang theo. Anh phải ở đây qua đêm và tìm ra con đường mòn lúc bình minh. Mặc dù nhiệt độ đã xuống dưới không độ khá nhiều, anh sẽ không chết, anh nghĩ như vậy. Ngoài ra, anh còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng đi trượt chân trong đêm, trên dòng sông băng đang chuyển động, nơi có những khe nứt há ra hàng chục mét bên dưới, qua những mảnh vỡ vụn của băng xanh vào trong những vũng nước ngầm còn nguy hiểm hơn nhiều. Quay trở xuống từ gò đá vụn, Mortenson tìm một chỗ cách các vách núi khá xa để không bị nghiền nát bởi một tảng đá lăn khi đang ngủ, và đủ chắc chắn để không nứt ra và dìm anh vào sâu trong dòng sông băng. Anh tìm thấy một phiến đá phẳng có vẻ khá chắc chắn, nạo lấy tuyết cho vào chai nước bằng hai bàn tay không mang găng, và quấn mình trong chăn, mong rằng sẽ không chú tâm vào việc mình cô độc và đang ở trong tình trạng nguy hiểm như thế nào. Cánh tay anh bị dây thừng quật bỏng trong đợt cứu hộ và anh biết cần phải xé bỏ những lớp băng gạt và nặn mủ từ vết thương không chịu lành ở cao độ này, nhưng anh không thể nhanh chóng định vị cử động của mình. Khi nằm run rẩy trên tảng đá ghồ ghề, Mortenson nhìn ánh sáng cuối cùng của mặt trời cháy âm ỉ như máu đỏ trên những đỉnh núi nhọn như dao ở phía đông; rồi lóe sáng để lại những dư ảnh cháy bừng trên nền màu xanh đen. Gần một thế kỉ truớc, Filippo De Filippi, bác sĩ và là người viết sử biên niên trong đoàn thám hiểm của công tước Abruzzi đến Karakoram đã ghi chép về sự cô độc mà ông cảm nhận được khi ở giữa những ngọn núi này. Mặc dù đi cùng một đoàn hai chục người châu Âu và hai trăm sáu mươi phu khuân vác địa phương và họ mang theo những chiếc ghế xếp, những bộ ấm trà bằng bạc và có một đội những người chạy bộ giao báo châu Âu đều đặn, ông vẫn cảm thấy bị nghiền nát thành vô nghĩa bởi đặc điểm của cảnh quan này. Ông viết, “Sự thinh lặng bao phủ toàn thung lũng, thậm chí đè xuống tâm trí chúng tôi với sự nặng nề mơ hồ. Không có nơi nào khác trên thế giới mà người ta lại cảm thấy mình cô đơn biệt lập, bị bỏ rơi hoàn toàn bởi thiên nhiên, bất lực trong việc đối thoại với thiên nhiên như ở đây.” Có lẽ do bản thân đã từng cảm nhận được sự cô độc, là đứa trẻ người Mỹ đơn độc giữa hàng trăm người Phi châu hoặc do những đêm ở ngoài trời giữa độ cao gần một nghìn mét của đỉnh Half Dome thuộc vườn quốc gia Yosemite trong chuyến leo núi dài ngày mà Mortenson cảm thấy thanh thản. Nếu hỏi tại sao, anh sẽ quy cho trạng thái phân liệt tâm thần do độ cao gây ra. Nhưng bất cứ ai đã sống cùng Mortenson trong một thời gian những người đã theo dõi cách anh thuyết phục một đại biểu quốc hội, một nhà từ thiện miễn cưỡng, hay một viên tư lệnh người Afghanistan lì lợm, cho đến khi anh có được những khoản tiền viện trợ trễ nải, hoặc một khoản hiến tặng, hoặc giấy phép mà anh đang tìm kiếm để đi vào các lãnh thổ của bộ lạc, cũng đều công nhận rằng đêm hôm đó là một ví dụ nữa về tinh thần thép của Mortenson. Gió đã nổi lên và đêm tối trở nên buốt giá. Anh cố phân biệt những đỉnh núi mà anh cảm thấy đang lượn lờ một cách ác ý xung quanh nhưng không thể phân biệt chúng khi xung quanh là bóng tối bao trùm. Sau một giờ nằm dưới chăn, anh có thể làm tan chảy thanh protein đang áp sát vào cơ thể và làm tan nước băng bùn vừa đủ để nuốt nó xuống, nước băng làm anh run bắn lên. Ngủ trong cái lạnh này dường như là điều bất khả kháng. Vì thế, Mortenson nằm dưới những vì sao như rắc muối trên bầu trời và quyết định xem xét bản chất sự thất bại của mình. Những người chỉ huy đoàn thám hiểm của anh, Dan Mazur và Jonathan Pratt cùng nhà leo núi người Pháp Etienne Fine, là những người dũng cảm. Họ nhanh nhẹn và phong nhã, thừa hưởng gen cần thiết để đi nhanh ở độ dốc kĩ thuật ở độ cao lớn. Mortenson đi chậm và khỏe như gấu. Với chiều cao gần hai mét và nặng chín mươi lăm kí, Mortenson từng theo học tại trường Cao đẳng Concordia ở Minnesota với học bổng của môn bóng bầu dục. Mặc dù không ai chỉ đạo nên làm gì, nhưng phần việc chậm và nặng nhọc khi leo núi tự nhiên rơi vào anh và Darsney. Tám lần khác nhau, Mortenson đã phục vụ như la thồ, kéo thực phẩm, nhiên liệu và những bình oxy đến vài nơi cất giữ trên đường đến Hành lang Nhật Bản - cái hang mong manh mà đoàn thám hiểm đã tạo ra cách đỉnh K2 trong vòng một trăm tám mươi mét, tích trữ hàng cho những trại trên cao của đoàn thám hiểm, để những nhà leo núi đi đầu có thể có tiếp liệu tại chỗ khi họ quyết định leo lên tới đỉnh. Tất cả các đoàn thám hiểm khác trên núi vào mùa này đều đã chọn thách thức đỉnh cao bằng con đường truyền thống đi lên theo con đường đã được khai phá gần một thế kỉ trước, chóp núi Abruzzi phía đông nam của K2. Chỉ riêng họ chọn chóp núi phía tây, một lộ trình khúc khuỷu cực kì khó khăn, tiếp nối chướng ngại này đến chướng ngại khác của các sườn dốc, độ dốc kĩ thuật, mà chỉ có duy nhất một thành công vào mười hai năm trước bởi nhà leo núi người Nhật Eiho Otani và người đồng sự Pakistan Nazir Sabir. Mortenson hồi tưởng lại thách thức và thấy tự hào về con đường gian khổ mà họ đã chọn. Và mỗi khi đến được một trong những cái hang mà họ đã đào cao trên chóp phía tây và chất những hộp nhiên liệu, những cuộn dây thừng, anh nhận ra mình cảm thấy mạnh mẽ hơn. Anh có thể chậm nhưng việc chính anh lên được đến đỉnh, dường như là một điều chắc chắn. Rồi vào một buổi tối sau hơn bảy mươi ngày trên núi, Mortenson và Darsney trở về trại căn cứ, sắp chìm vào giấc ngủ xứng đáng sau chín mươi sáu giờ leo núi cho một chuyến tiếp liệu khác. Nhưng khi nhìn lần cuối về phía đỉnh núi qua ống nhòm ngay sau khi trời tối, Mortenson và Darsney chú ý đến ánh đèn nhấp nháy cao trên chóp tây của K2. Họ nhận ra đó là các thành viên trong đoàn, đang gửi tín hiệu bằng những ngọn đèn đeo trên trán, và họ đoán rằng đồng đội người Pháp đang gặp rắc rối. “Etienne là dân miền núi.” Mortenson giải thích, nhấn mạnh bằng cách phát âm tiếng Pháp cường điệu với sự tôn trọng và kiêu hãnh mà thuật ngữ đó có thể chuyển tải giữa những người leo núi. “Anh ấy di chuyển nhanh và nhẹ với đồ dùng tối thiểu tuyệt đối. Và chúng tôi đã ngăn cản trước khi anh ấy đi quá nhanh mà chưa thích nghi với khí hậu.” Mortenson và Darsney, đang do dự không biết liệu họ có đủ sức để leo lên chỗ Fine sau lần xuống núi kiệt sức vừa rồi, đã gọi những người tình nguyện từ năm đoàn thám hiểm khác ở trại căn cứ. Không ai đứng ra giúp đỡ. Họ nằm nghỉ và duy trì độ ẩm trong hai tiếng, sau đó thu dọn đồ đạc và quay trở lại. Leo xuống từ Trại IV ở độ cao bảy nghìn sáu trăm mét, Pratt và Mazur nhận thấy họ phải đấu tranh cho sự sống của chính mình. “Etienne đã leo lên gia nhập với chúng tôi trong nỗ lực cuối cùng để lên đỉnh.” Mazur nói. “Nhưng khi đến được chỗ chúng tôi, anh ấy đã suy sụp. Trong khi cố giữ hơi thở, anh ấy nói với chúng tôi là anh nghe thấy tiếng lộp bộp trong phổi.” Fine đã bị phù phổi, tràn dịch phổi do độ cao gây ra, có thể gây chết người nếu không được đưa ngay xuống nơi thấp hơn. Mazur nói, “Thật đáng sợ. Bọt đỏ hồng không ngừng tuôn ra từ miệng Etienne. Chúng tôi cố gọi giúp đỡ nhưng đã để rơi vô tuyến vào trong tuyết và nó không hoạt động được nữa. Do vậy chúng tôi bắt đầu đi xuống.” Pratt và Mazur thay nhau kẹp Fine vào người mình, và tuột theo dây cùng với anh xuống những dốc cao nhất ở sườn phía tây. “Trông giống như treo một túi khoai tây lớn vào sợi dây thừng.” Manzur nói. “Và chúng tôi phải tranh thủ thời gian để không tự giết chết mình.” Với tính cách ít nói đặc trưng, Mortenson không nói gì nhiều về hai mươi bốn giờ mà anh phải tự kéo mình lên để đến với Fine trừ lời nhận xét “thật gian khổ”. “Dan và John thật sự là những người hùng,” anh nói. “Họ đã từ bỏ nỗ lực leo lên đỉnh núi để đưa Etienne xuống.” Lúc Mortenson và Darsney gặp đồng đội của mình, trên một tảng đá gần Trại I, Fine lúc tỉnh lúc mê và còn bị phù não, chứng sưng viêm não do độ cao gây ra. “Anh ấy không thể nuốt và đang cố tháo dây đôi ủng.” Mortenson nói. Mortenson, từng làm y tá trong phòng cấp cứu chấn thương, để được tự do về giờ giấc giúp anh theo đuổi sự nghiệp leo núi, đã tiêm cho Fine những mũi Decadron để làm dịu chứng phù, và bốn nhà leo núi kiệt sức bắt đầu một hành trình gian khổ bốn mươi tám giờ để kéo và hạ Fine xuống những mặt đá lởm chởm. Đôi khi Fine, bình thường nói tiếng Anh lưu loát, tỉnh táo đủ để bập bẹ bằng tiếng Pháp, Mortenson nói. Ở những độ dốc kĩ thuật nhất, với bản năng sinh tồn của một người leo núi lâu năm, Fine tự gượng dậy để móc thiết bị bảo hộ của mình vào dây thừng, trước khi trở lại thành một khối bất động. Mortenson nhớ lại. Bảy mươi hai giờ sau khi Mortenson và Darsney khởi hành, cả nhóm đã thành công trong việc hạ Fine xuống khu đất bằng ở trại căn cứ tiền trạm của họ. Darsney gọi vô tuyến cho đội người Canada phía dưới; họ chuyển yêu cầu của anh cho quân đội Pakistan xin một chiếc trực thăng cấp cứu đến cao độ Lama. Vào thời điểm đó, đấy là một trong những chuyến cấp cứu bằng trực thăng ở nơi cao nhất được thực hiện. Nhưng ban chỉ huy của quân đội đã trả lời rằng thời tiết quá xấu và gió quá mạnh, và ra lệnh đưa Fine xuống vùng đất thấp hơn. Ra lệnh là một chuyện. Nhưng đối với bốn con người đang ở trong tình trạng kiệt sức sâu nhất của động vật thì việc thi hành mệnh lệnh lại là chuyện khác. Trong sáu giờ, sau khi buộc Fine bằng dây đai vào chiếc túi ngủ, họ chỉ trao đổi với nhau bằng những tiếng lầm bầm và rên rỉ, họ đã kéo bạn mình xuống núi theo một lộ trình kĩ thuật nguy hiểm qua thác băng của sông băng Savoia. “Chúng tôi không còn chút sức lực và đã vượt quá giới hạn của mình, nhiều khi chúng tôi chỉ có thể bò để cố đưa anh ấy xuống.” Darsney nhớ lại. Sau cùng, cả nhóm đến trại căn cứ K2, kéo theo Fine trong chiếc túi ngủ phía sau. Darsney nói, “Tất cả các đoàn khác đều đi dọc theo một phần tư dặm phía trên sông băng để chào đón chúng tôi và hoan nghênh chúng tôi như người hùng. Sau khi trực thăng của quân đội Pakistan đến và đưa Etienne đi, những thành viên trong đoàn Canada đã nấu một bữa ăn lớn và mọi người có một buổi liên hoan. Nhưng Greg và tôi không dừng lại để ăn, uống, thậm chí để đi tiểu, chúng tôi chỉ ngã ngay vào túi ngủ giống như bị bắn hạ.” Trong hai ngày, Mortenson và Darsney bị cuốn vào giấc ngủ do độ cao gây ra cả với những người kiệt sức nhất. Gió lùa vào căn lều của họ mang theo âm thanh của những chiếc đĩa ăn kim loại khắc tên bốn mươi tám nhà leo núi đã bỏ mạng trên Savage Mountain, kêu leng keng ma quái ở khu tưởng niệm Art Gilkey, được đặt theo tên một nhà leo núi của đoàn thám hiểm người Mỹ đã chết vào năm 1953. Khi thức dậy, họ chỉ thấy lời nhắn của Pratt và Mazur; cả hai đã quay lại trại trên cao. Họ mời gọi đồng đội cùng tham gia vào một nỗ lực lên đỉnh sau khi đã hồi phục. Nhưng hồi phục là một điều nằm ngoài tầm của họ. Vụ cứu hộ đến quá nhanh ngay sau chuyến leo bổ sung hàng tiếp tế, đã lấy đi hết sức lực của họ. Sau cùng, khi đã rời được căn lều, cả hai đều thấy phải phấn đấu để bước đi. Fine đã được cứu sống với giá đắt, thử thách đó sau cùng phải trả giá bằng tất cả các ngón chân của anh. Và vụ cứu hộ đã lấy của Mortenson và Darsney mọi nỗ lực họ có thể tự họp tại đỉnh núi mà họ đã làm việc vất vả để đạt tới. Một tuần sau, Mazur và Pratt sẽ thông báo với thế giới rằng họ đã đứng trên đỉnh núi và trở về nhà với thành tích đáng tự hào của mình. Nhưng số đĩa kim loại đong đưa trong gió sẽ nhiều thêm lên khi bốn trong số mười sáu nhà leo núi lên được đến đỉnh trong mùa đó đã chết trong chuyến đi xuống của họ. Mortenson lo ngại tên của mình sẽ được thêm vào khu tưởng niệm. Darsney cũng vậy. Họ quyết định thực hiện chuyến đi xuống hướng về thế giới văn minh, nếu họ có thể. Lạc lối, hồi tưởng lại vụ cứu hộ, một mình trong chiếc chăn len mỏng trong những giờ trước lúc bình minh, Greg Mortenson cố gắng tìm một tư thế thoải mái. Với chiều cao của mình, anh không thể nằm thẳng mà không thò đầu ra ngoài không khí không khoan dung này. Anh đã sụt mất mười ba kí trong những ngày ở K2, và không kể dù anh xoay người kiểu nào, những khúc xương không được lót đệm dường như ép vào đá lạnh bên dưới. Trôi dạt giữa ý thức và vô thức trong tiếng rền rĩ bên trong dòng sông băng bí ẩn, anh cảm thấy thanh thản dù không vinh danh được cho Christa. Cơ thể anh chứ không phải tinh thần đã thất bại, anh quyết định như vậy, và cơ thể nào cũng có những giới hạn của nó. Anh, lần đầu tiên trong đời, đã thấy giới hạn tuyệt đối của cơ thể mình. CHƯƠNG 2 Bên bờ lạc lối của dòng sông. Vì sao mi phải trầm tư để đoán trước tương lai, và mệt óc vì sự phức tạp hão huyền? Hãy vứt đi sự thận trọng, chừa lại những kế hoạch mà Allah đã sắp đặt - Ngài đã sắp đặt mọi chuyện không cần hỏi ý mi. - Omar Khayyam, The Rubaiyat Mortenson mở mắt ra. Bình minh quá êm ả khiến anh quên đi ham muốn mãnh liệt để thở. Anh lọng cọng rút hai tay ra khỏi chiếc chăn quấn chặt như trong cơn ác mộng rồi đưa về phía đầu, hiện đang phơi ra trên tảng đá trần trụi. Miệng và mũi anh bị bịt kín dưới lớp băng nhẵn. Anh gỡ lớp băng mỏng ra và thở hơi thở sâu đầu tiên một cách hài lòng rồi anh ngồi dậy, tự cười với mình. Anh ngủ vừa đủ để mất phương hướng hoàn toàn. Khi duỗi người và cố xoa bóp những cơn đau sau lưng do những tảng đá gây ra, anh chú ý đến cảnh vật xung quanh. Những đỉnh núi được tô vẽ sắc màu rực rỡ - tất cả đều màu hồng, màu tím và xanh mơn mởn - và bầu trời ngay trước lúc mặt trời mọc, lặng gió và trong sáng. Cùng với sự tuần hoàn máu ở các chi, những chi tiết về tình thế khó khăn của anh từ từ quay trở lại - vẫn mất phương hướng, vẫn cô độc – nhưng Mortenson không lo lắng. Buổi sáng đã tạo ra mọi khác biệt. Cao cao trên ngọn Baltoro, một con chim gorak lượn vòng hi vọng, đôi cánh lớn màu đen lướt qua cảnh nhìn của những đỉnh núi tẩm đường. Với hai bàn tay khum lại vì lạnh, Mortenson nhét tấm chăn vào chiếc túi nhỏ màu đỏ tía và cố gắng mở nắp chai nước còn một nửa. Anh cẩn thận cất nó và tự nhủ sẽ uống ngay khi hai bàn tay hết cóng. Con chim gorak nhìn thấy Mortenson cử động, vỗ cánh bay về phía dưới của dòng sông băng, tìm kiếm một nguồn cung cấp bữa sáng khác. Mặc dù đã ngủ nhiều, nhưng Mortenson vẫn cảm thấy mình đang suy nghĩ một cách sáng suốt hơn. Nhìn ngược lại con đường đã đi đến đây từ phía trên thung lũng, anh nhận ra rằng nếu quay trở lại đường cũ trong vài giờ, chắc chắn anh sẽ đi vào lối mòn. Anh khởi hành về hướng bắc hơi vấp váp trên những tảng đá, căng người nhảy qua chỗ hẹp nhất của những khe nứt với đôi chân vẫn còn tê cóng nhưng anh thực hiện được điều mà anh xem như là một tiến bộ đáng kể. Như thường lệ, một bài ca từ thời thơ ấu tuôn trào cùng nhịp bước của anh. “Yesu ni refiki Yangu, Ah kayee Mbinguni” (“Chúng ta có người bạn tốt là Jesus, Ngài hiện sống trên thiên đường”), anh hát bằng tiếng Swahili, ngôn ngữ mà anh và mọi người dùng trong những buỗi lễ vào mỗi chủ nhật ở ngôi nhà thờ bình dị, với cảnh núi Kalimanjaro ở phía xa. Âm điệu đã quá quen thuộc đối với Mortenson để anh nhận ra được sự lạ lùng trong giây phút này - một người Mỹ lạc lối ở Pakistan, đang hát một bài thánh ca Đức bằng tiếng Swahili. Thay vào đó, ở giữa bãi đất hoang đầy đá cuội và băng xanh, nơi những viên sỏi anh đá vào sẽ biến mất dưới khe nứt trong vài giây trước khi làm tung tóe nước trong những con sông ngầm, làm cháy lên nỗi nhớ quê hương nồng nàn, một ngọn đèn biển từ xứ sở mà anh từng gọi là quê hương. Đã một giờ trôi qua trên con đường này. Rồi một giờ nữa. Mortenson đã tự đi lên một con đường dốc dẫn ra khỏi khe sâu mà anh vừa đi vào, cúi khom người trên cả đôi tay và đầu gối để bò qua một khối tuyết cứng trên miệng vực, và đứng trên mép vực ngay lúc mặt trời vừa lên khỏi các vách thung lũng. Cứ như là anh vừa bị bắn thủng mắt. Quang cảnh hùng vĩ làm anh lóa mắt. Gasherbrum, đỉnh Broad, đỉnh Mitre, tháp Muztagh - những ngọn núi khổng lồ phủ đầy băng đó, trần trụi trong vòng tay của ánh mặt trời, cháy rực lên như những đốm lửa trại. Mortenson ngồi trên một tảng đá và uống nước trong chai cho đến cạn. Nhưng anh không tận hưởng được hết cảnh trí này. Trước khi qua đời vào năm 2002 trong một vụ rơi máy bay, nhiếp ảnh gia chuyên chụp phong cảnh hoang dã, Galen Rowell, đã dành nhiều năm cố nắm bắt vẻ đẹp siêu việt của những ngọn núi đi kèm theo ngọn Baltoro xuống đến vùng đất thấp hơn. Những bức ảnh đã làm mọi người kinh ngạc nhưng Rowell luôn cảm thấy chúng không thể sánh với trải nghiệm của việc được đứng ở đây, trở nên nhỏ bé trước cảnh quan mà ông xem là nơi đẹp nhất trên trái đất, nơi ông gọi là “chốn đặt ngai vàng của những vị thần núi.” Mặc dù đã ở đây nhiều tháng, nhưng Mortenson vẫn say sưa ngắm nhìn những đỉnh núi này như chưa bao giờ được nhìn thấy. “Theo một cách mà tôi chưa từng có,” anh giải thích. “Cả mùa hè tôi đã nhìn những ngọn núi này như những mục tiêu, hoàn toàn tập trung vào ngọn K2 cao nhất. Tôi đã nghĩ về độ cao của chúng và những thách thức kĩ thuật mà chúng đặt ra cho một người leo núi như tôi. Nhưng buổi sáng đó, lần đầu tiên, tôi đơn giản chỉ nhìn chúng. Thật là choáng ngợp.” Anh đi tiếp. Đây có thể là kiến trúc tuyệt hảo của những ngọn núi - những hốc lõm lớn và núi đá hoa cương màu nâu sẫm và màu hoàng thổ được dựng nên với sự hài hòa cao độ hướng về phần cuối cao ngất, cô độc của những đỉnh núi - nhưng bất chấp tình trạng yếu đuối của mình, sự thiếu thốn lương thực và quần áo ấm, cơ may sống sót sẽ xấu đi nếu không sớm tìm được một trong hai thứ đó. Mortenson cảm thấy hài lòng một cách kì lạ. Anh lấy đầy chai nước từ một khe nước sông băng tan chảy và nhăn mặt vì lạnh khi uống. Thực phẩm không phải là vấn đề trong một vài ngày, anh tự nhủ, nhưng bạn phải nhớ uống nước. Khoảng gần trưa, anh nghe có tiếng chuông leng keng rất mơ hồ và hướng theo đó về hướng tây. Một đoàn lừa thồ. Anh tìm kiếm những ụ đá đánh dấu con đường chính từ Baltoro đi xuống nhưng chỉ thấy đá vương vãi theo sự sắp xếp ngẫu nhiên nhất. Trên mép dốc đứng bên hông lớp băng tích, những dải băng vụn tạo thành mép của một dòng sông băng, anh đột nhiên đối mặt với một bức tường cao một nghìn năm trăm mét, chắn ngang bất cứ hi vọng nào để đi xa hơn. Anh nhận ra mình hẳn đã đi qua con đường mòn này mà không nhận ra, do vậy anh quay trở lại theo lối đã đi qua, tự buộc mình phải nhìn xuống để tìm các dấu vết chứ không nhìn lên những đỉnh núi mê hoặc. Sau ba mươi phút, anh nhìn thấy một mẩu thuốc lá, rồi một ụ đá đánh dấu đường. Anh đi xuống con đường mòn tĩnh mịch lờ mờ hướng theo những tiếng chuông mà lúc này đã có thể nghe rõ hơn. Anh không thể nhìn thấy đoàn lữ hành. Nhưng sau cùng, cách xa khoảng một dặm hay hơn, anh nhìn thấy hình dáng một người đàn ông, đứng trên tảng đá nhô ra trên dòng sông băng in bóng trên nền trời. Mortenson hét lên nhưng tiếng của anh không đi được xa. Sau giây lát, người đàn ông biến mất rồi lại xuất hiện trên một tảng đá ở gần hơn chín mươi mét. Mortenson gào thét lên với tất cả sức lực của mình, và lần này người đàn ông quay ngoắt về phía anh rồi trèo nhanh xuống từ tảng đá và biến mất khỏi tầm nhìn. Ở bên dưới, giữa dòng sông băng, giữa những tảng đá như hầm mộ, trong bộ áo quần màu đá đầy bụi bặm, Mortenson không ở trong tầm nhìn, nhưng anh có thể làm cho giọng mình vọng lên từ những tảng đá. Anh không thể chạy, do đó hổn hển bước vội từng bước ngắn hướng về điểm cuối cùng mà anh đã nhìn thấy người đàn ông và cứ vài phút lại hét lên mà mỗi khi nghe, chính anh cũng ngạc nhiên là mình đã phát ra nó. Rồi có một người đàn ông ở đó đang đứng phía bên sườn xa xa của một khe nứt rộng, với nụ cười thậm chí còn rộng hơn nữa. Có vẻ như nhỏ bé bởi chiếc balô North Face chất đầy hàng của Mortenson, Mouzafer, người khuân vác anh thuê để dẫn đường và mang hành lí của mình đến những vùng có người ở, đã tìm chỗ hẹp nhất của khe nứt, rồi nhẹ nhàng nhảy qua với hơn bốn mươi kí trên lưng. “Ông Gireg, ông Gireg.” ông ta la lên, đặt chiếc balô xuống và quàng quanh người Mortenson bằng một cái ôm như của loài gấu. “Allah, Akbhar! Tạ ơn Allah, ông vẫn còn sống!” Mortenson co người lại một cách vụng về, gần như ngộp thở bởi sức mạnh và sinh lực của người đàn ông thấp hơn mình ba tấc và lớn hơn mình hai mươi tuổi. Rồi Mouzafer buông tay và bắt đầu vỗ vào lưng Mortenson một cách sung sướng. Không biết là do đám bụi bốc ra từ chiếc áo shawar dơ bẩn hay từ những cú thụi của Mouzafer mà Mortenson bắt đầu ho, rồi gập người lại không sao ngừng ho. “Cha(6), ông Gireg.” Mouzafer kê toa, ái ngại xem xét tình trạng suy yếu của Mortenson. “Cha sẽ mang lại sức mạnh cho ông!” Mouzafer dẫn Mortenson đến một hang đá nhỏ khuất gió. Ông ta xé hai nắm từ bó ngải đắng giắt ở balô, lục trong các túi của chiếc áo khoác GoreTex màu đỏ tía rộng quá khổ, vật bị bỏ đi từ một trong vô số chuyến thám hiểm mà ông đã hướng dẫn qua Baltoro, tìm ra một viên đá lửa và cái ấm bằng kim loại, rồi ngồi xuống pha trà. Mortenson đã gặp Mouzafer Ali đầu tiên sau bốn giờ rời K2 cùng với Darsney. Chuyến đi bộ ba dặm đến trại căn cứ ở đỉnh Broad, vốn chỉ mất bốn mươi lăm phút khi họ đi dạo vào mùa hè trước đó đến thăm một thành viên nữ của đoàn thám hiểm Mexico mà Darsney đã cố ve vãn trong suốt mùa hè, đã trở thành một thử thách bốn giờ vấp ngã trên những đôi chân khẳng khiu vì độ cao dưới trọng lượng mà họ không thể tưởng tượng là sẽ phải mang theo trong hơn sáu mươi dặm. Mouzafer và người bạn của ông, Yakub, đã hoàn thành nhiệm vụ cho đoàn thám hiểm Mexico và đang trở về từ Baltoro mà không mang vác thứ gì. Họ đề nghị mang những chiếc balô nặng trịch cho Mortenson và Darsney trong suốt chặng đường đến Askole với giá bốn đôla một ngày. Hai người Mỹ vui vẻ đồng ý và mặc dù gần hết sạch tiền, họ đã dự định trả cho hai người đàn ông này nhiều hơn nữa khi ra khỏi núi. Mouzafer là người Balti, một dân tộc miền núi sống ở những thung lũng cao hẻo ánh nhất miền bắc Pakistan. Người Balti có nguồn gốc từ Tây Tạng, đã di trú về phương nam, qua Ladakh hơn sáu trăm năm trước và Phật giáo đã phai nhạt đi khi họ di chuyển trên những đèo đá và được thay thế bằng một tôn giáo phù hợp hơn với sự khắc nghiệt của miền đất mới: đạo Hồi Shiite. Nhưng họ đã giữ lại ngôn ngữ, một dạng tiếng Tây Tạng cổ. Với thân hình nhỏ gọn, dẻo dai và khả năng tột bực để sống sót ở những cao độ mà thậm chí chỉ có rất ít người đã chọn để đến, khiến nhiều nhà leo núi nhớ đến những người anh em họ hàng xa của mình ở phía đông, người Sherpa ở Nepal. Nhưng những phẩm chất khác của người Balti, sự ầm lì nghi ngại người ngoài cùng với đức tin không khoan nhượng, đã ngăn cản những người phương Tây tôn vinh họ như đã từng làm với người Sherpa Phật giáo. Fosco Maraini, một thành viên của đoàn thám hiểm Ý năm 1958 tìm được cách lần đầu tiên đến Gasherbrum IV, một vùng lởm chởm gần K2, đã rất kinh ngạc và bị mê hoặc bởi người Balti, nên trong quyển sách uyên bác của mình về chuyến thám hiểm, Karakoram: The Ascent of Gasherbrum IV, ông đã viết như một chuyên luận về lối sống của người Balti hơn là một kí sự về thắng lợi của đoàn leo núi. Maraini viết: “Họ làm ngơ, than phiền và làm ta thất vọng đến cực độ. Và ngoài mùi hôi của mình, họ có cái vẻ không nhầm lẫn được của một băng cướp. Nhưng nếu bạn có thể nhìn xuyên qua vẻ cộc cằn của họ, bạn sẽ được biết họ phục vụ bạn một cách trung thành và họ rất dũng cảm. Về thể chất, họ mạnh khỏe; nhất là trong cái cách mà họ chịu đựng sự gian khổ và mệt mỏi. Bạn có thể thấy những người đàn ông nhỏ bé với đôi chân như chân cò vác trên vai bốn mươi kí từ ngày này sang ngày khác trên những con đường mòn mà người lạ phải đắn đo suy nghĩ trước khi mạo hiểm đi vào dù không phải mang vác gì cả.” Mouzafer cúi người trong hang đá, thổi mạnh vào đám ngải đắng mà ông đã đốt với viên đá lửa cho đến khi nó bùng lên thành ngọn lửa. Ông đẹp một cách thô thiển, dù hàm răng sún và làn da đen sạm vì nắng gió khiến ông trông già hơn nhiều so với độ tuổi giữa ngũ tuần của mình. Ông chuẩn bị pha chế paiyu cha, một loại trà bơ vốn là món cơ bản trong thực đơn hằng ngày của người Balti. Sau khi nấu trà xanh trong cái nồi thiếc sạm đen, ông thêm muối bột nổi và sữa dê trước khi cạo nhẹ một miếng mar, thứ bơ chua lâu ngày làm từ sữa bò Tây Tạng mà người Balti tự hào hơn bất cứ món ngon nào khác, và khuấy vào trà bằng ngón tay trỏ không mấy sạch sẽ của mình. Mortenson lo lắng nhìn. Anh đã ngửi mùi paiyu cha ngay từ khi đến Baltistan và mùi của nó, như anh mô tả là “hôi hơn thứ phomai đáng sợ nhất mà người Pháp từng nghĩ ra,” đã khiến anh phải bịa ra bất cứ lí do nào để tránh phải uống nó. Mouzafer đưa cho anh ca trà bốc khói. Thoạt đầu, Mortenson nôn ra hết, nhưng cơ thể anh cần muối và hơi ấm, và anh đã uống hết ca trà. Mouzafer lại rót đầy ca. Rồi lại một ca đầy nữa. “Zindabad! Thật tốt! Ông Gireg.” Mouzafer nói sau chén trà thứ ba, hoan hỉ đấm nhẹ lên vai Mortenson làm cho cái hang đá mù mịt hơn nữa do bụi từ người Mortenson bay ra. Darsney đã đi trước hướng về Askole cùng với Yakub, và trong ba ngày tiếp theo cho đến khi họ rời khỏi Baltoro, Mouzafer không bao giờ rời mắt khỏi Mortenson. Trên lối mòn mà Mortenson vẫn phải đánh vật để đi theo, còn Mouzafer lại thấy rõ như đi trên đường cao tốc New Jersey, người khuân vác nắm tay Mortenson khi di chuyển hoặc nhấn mạnh rằng anh phải đi ngay theo dấu đôi giày cao cổ Trung Quốc bằng nhựa rẻ tiền mà ông đang mang không có vớ. Ngay cả trong những phiên cầu nguyện năm lần mỗi ngày, Mouzafer, người đàn ông sùng đạo khó tính vẫn trộm liếc khỏi hướng Thánh địa Mecca để biết chắc Mortenson vẫn ở kế bên. Mortenson đã tận dụng sự gần gũi và hỏi Mouzafer những từ tiếng Balti về tất cả mọi thứ họ nhìn thấy. Sông băng là gangs-zhing, tuyết lở là rdo-rut. Và người Balti có nhiều tên gọi cho đá cũng giống như người Inuit gọi tuyết. Brak-lep là tảng đá phẳng để ngủ hay nấu ăn trên đó. Khrok là đá hình nêm, lí tưởng để bít kín lỗ những căn nhà bằng đá. Và những viên đá tròn nhỏ gọi là khodos, mà người ta nung trong lửa, rồi quấn vào bột nhào để làm bánh mỳ không lên menkurba hình sọ người, nướng mỗi sáng trước khi bắt đầu lên đường. Với đôi tai ngôn ngữ của mình, Mortenson sớm học được những từ vựng Balti cơ bản. Chọn lối đi xuống một hẻm núi hẹp, Mortenson bước qua lớp băng và lần đầu tiên đặt chân lên mặt đất vững chắc sau hơn ba tháng. Mõm sông băng Baltoro nằm ở đáy một hẻm núi, màu đen với những mảnh vỡ và được chạm khắc thành mũi nhọn giống như mũi của chiếc 747. Từ cửa khẩu này, những dòng sông ngầm di chuyển bên dưới sáu mươi hai kilômét băng, bắn vào chỗ hở với luồng không khí giống như ống khói của một động cơ phản lực. Chỗ nước xoáy sủi bọt nhô lên này là nơi sinh ra dòng sông Braldu. Năm năm sau, một vận động viên thuyền kayak người Thụy Điển đã đến với nhóm quay phim tài liệu và khởi hành từ ngay điểm này, dự định đi theo sông Braldu để vào sông Indus, một nghìn tám trăm dặm đến biển Ả Rập. Chẳng bao lâu sau khi xuống nước, vận động viên này đã chết do va mạnh vào những tảng đá bởi sức mạnh nguyên sơ của Braldu. Mortenson nhìn thấy bông hoa đầu tiên sau nhiều tháng, hoa tầm xuân năm cánh hồng, và anh quỳ xuống xem xét nó, ghi nhận cứ như đó là sự trở về của anh từ mùa đông vĩnh cửu. Lau sậy và ngải đắng mọc rải rác bên bờ sông khi họ đi xuống và sự sống đơn sơ, vì đó là vùng cửa sông đầy đá, dường như mê hoặc Mortenson. Không khí mùa thu ở độ cao ba nghìn ba trăm năm mươi mét có một sức nặng và sự xa xỉ mà anh đã lãng quên. Giờ đây sau khi đã bỏ lại những hiểm nguy của Baltoro ở phía sau, Mouzafer đi trước, dựng trại và chuẩn bị bữa tối mỗi buổi chiều trước khi Mortenson đến. Dù đôi lúc lạc lối khi con đường mòn rẽ nhánh về một bãi cỏ mùa hè của những người chăn cừu, nhưng Mortenson nhanh chóng tìm lại được lối đi và nó khá đơn giản khi anh chỉ việc đi dọc theo dòng sông cho đến khi nhìn thấy khói lửa trại của Mouzafer mỗi buổi chiều. Bước đi trên đôi chân đau và yếu ớt của mình không phải là điều đơn giản nhưng từ khi không có chọn lựa nào khác, anh đã kiên nhẫn bước tiếp, dừng lại nghỉ càng lúc càng thường xuyên hơn. Vào ngày thứ bảy sau khi rời khỏi K2, trên một rìa đá ở bờ nam hẻm núi sông Braldu, Mortenson nhìn thấy những cái cây đầu tiên. Đó là năm cây dương, uốn cong bởi gió mạnh, và vung vẩy như những ngón tay của một bàn tay đang chào đón. Họ đã trồng chúng ở đây, để chỉ ra ảnh hưởng của con người, thay cho sức mạnh nguyên sơ của Karakoram, một sức mạnh đã gửi những thềm băng và phiến đá đua nhau chạy xuống sườn núi, nơi chúng xóa đi những sinh vật vô nghĩa như một con người đơn độc. Những cái cây nói cho Mortenson biết anh đã sống sót xuống núi. Chìm trong suy tưởng về cây cỏ, anh đã không nhìn thấy nhánh đường mòn hướng xuống dòng sông, nơi dẫn đến một zamba, “cây cầu” dây thừng dây bện bằng lông bò Tây Tạng bắc qua dòng nước chảy xiết giữa hai tảng đá. Lần thứ hai, Mortenson lạc lối. Cây cầu dẫn đến đích của anh, Askole, xa hơn tám dặm trên bờ bắc của dòng sông. Thay vào đó, anh ở lại trên rìa đá cao dọc theo bờ nam của dòng sông, đi về phía những cái cây. Những cây dương tan biến dần vào trong những vườn mơ. Tại đây, ở độ cao trên ba nghìn mét, mùa thu hoạch đã kết thúc vào giữa tháng chín. Những đống quả chín được xếp chồng trên hàng trăm chiếc rổ đan phẳng. Chúng làm tràn ngập vùng bên dưới tán mơ bằng ánh màu nảy lửa của chúng. Những người phụ nữ đang quỳ bên những chiếc rổ, tách quả mơ và đặt hạt mơ sang một bên để cạy lấy phần nhân. Trông thấy anh, họ kéo khăn choàng che mặt và chạy ra sau những cây mơ để tránh Angrezi - người đàn ông da trắng xa lạ. Trẻ con không dè dặt như vậy. Mortenson lôi cuốn một đám đông theo đuôi khi anh đi qua những cánh đồng vàng nâu, nơi những người phụ nữ khác săm soi nhìn anh qua những đám lúa kiều mạch và đại mạch mà họ đang gặt bằng liềm. Trẻ con sờ mó chiếc áo shalwar của anh, tìm kiếm nơi cổ tay chiếc đồng hồ mà anh không đeo và xoay sang nắm tay anh. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, Mortenson nhận thức được bộ dạng của mình. Tóc anh dài và rối bù. Anh cảm thấy mình to lớn và bẩn thỉu. “Đã hơn ba tháng tôi chưa tắm,” anh nói. Anh khom người cố không để cao hơn lũ trẻ. Nhưng chúng không thấy anh có vẻ gì là đe dọa. Chiếc áo shalwar kamiz của chúng ố bẩn và rách rưới như áo anh, và hầu hết chúng đều đi chân trần dù trời lạnh. Mortenson phát hiện ra làng Korphe từ xa một dặm trước khi anh đến gần. Sau sự cằn cỗi của độ cao, mùi củi cây bách xù và mùi con người không tắm giặt thật nồng. Nghĩ là vẫn đúng đường, anh cho rằng mình đang đến gần Askole, nơi anh đã đi qua trước đó ba tháng trên đường đến K2, nhưng không có gì quen thuộc cả. Lúc anh đến cổng chào của ngôi làng, một vòm cuốn đơn giản bằng gỗ dương đứng đơn độc bên rìa cánh đồng khoai tây, anh đang dẫn đầu một đám nhóc khoảng năm mươi đứa trẻ. Nhìn về phía trước, anh hi vọng sẽ thấy Mouzafer đang đợi mình ở bên ngoài thị trấn. Nhưng thay vào đó, ngồi ở phía bên kia cổng làng, là một ông lão da nhăn nheo, mặc bộ áo topi, đội chiếc nón lông cừu hình hộp thuốc cũng có màu bạc đặc biệt như bộ râu của ông, với những đường nét mạnh mẽ như được tạc ra từ vách núi đang chờ anh. Tên ông ấy là Haji Ali và ông là nurmadhar, già làng của Korphe. “As-salaam Alaaikum. ”(7) Haji Ali nói, bắt tay Mortenson. Ông đi cùng anh qua cổng làng, với sự hiếu khách không thể không có của người Balti, dẫn anh đến một con suối nhỏ, hướng dẫn anh rửa tay và mặt, sau đó đưa anh về nhà mình. Làng Korphe nằm cheo leo trên rìa đá cao gần hai trăm năm mươi mét bên trên sông Braldu bám vào vách núi theo cách thức lạ lùng như một tảng đá phẳng làm chỗ ngủ cho những người leo núi được bắt vào sườn của một vách đá dựng đứng. Vùng đất chật cứng những ngôi nhà đá ba tầng vuông vức, được xây dựng không trang trí, hầu như không phân biệt được với những vách hẻm núi, ngoại trừ sự náo loạn của mơ, hành và lúa mì chất đống đầy màu sắc trên mái nhà. Haji Ali dẫn Mortenson vào một căn chòi trông chẳng nguy nga gì hơn những căn chòi khác. Ông đập vào đống chăn nệm trải giường cho đến khi bụi bay đều khắp balti - căn phòng rộng giữa nhà, đặt những chiếc gối tại vị trí trân trọng gần một miệng lò sưởi và bố trí cho Mortenson ở đó. Họ không nói gì khi trà được chuẩn bị, chỉ có tiếng bước chân và tiếng xếp đặt những chiếc gối khi hai mươi thành viên nam trong đại gia đình của Haji Ali xếp hàng đi vào và ngồi xuống chỗ của mình quanh lò sưởi. Phần lớn thứ khói cay từ ngọn lửa phân bò Tây Tạng bên dưới ấm trà thoát ra một cách khoan dung, qua một lỗ lớn hình vuông trên trần nhà. Khi nhìn lên, Mortenson thấy những đôi mắt của năm mươi đứa trẻ đã đi theo anh, xếp vòng tròn trên mái quanh cái lỗ vuông. Chưa từng có một người nước ngoài nào ở Korphe. Bàn tay của Haji Ali sục mạnh trong túi chiếc áo khoác thêu, chà xát những miếng khô dê núi bốc mùi vào lá thuốc nhai màu xanh sậm được gọi là naswar. Ông mời Mortenson một miếng sau khi nó đã được tẩm hương liệu đầy đủ và Mortenson cố nuốt miếng ăn thách thức nhất trong đời mình khi các khán giả trong gian phòng lặng lẽ cười tán thưởng. Khi Haji Ali đưa cho anh tách trà bơ, anh uống với một chút gì đó giống như là hài lòng. Người già làng nghiêng người tới trước, lúc này, ngưỡng cần thiết của sự hiếu khách đã được vượt qua, và đẩy bộ mặt râu ria của ông đến trước mặt Mortenson. “Cheezaley?” ông gầm gừ, một từ ngữ Balti không thể thiếu có nghĩa là “Điều quái quỷ nào đã đưa anh đến đây?” Với những đoạn ngắn bằng tiếng Balti và phần lớn là ra điệu bộ, Mortenson nói với đám đông đang chăm chú nhìn mình, rằng anh là người Mỹ, rằng anh đến để leo núi K2 (điều này gây ra những tiếng xì xầm trong đám đàn ông), rằng anh mất sức và ốm, phải đi bộ đến Askole để tìm một chiếc xe jeep sẵn lòng chở anh trong tám giờ để đến Skardu, thủ phủ vùng Baltistan. Mortenson ngồi xuống những chiếc gối, dốc cạn hết sức lực dự trữ cuối cùng của mình giữa những ngày đi bộ bất tận và những nỗ lực đã bỏ ra để chuyển tải nhiều thông tin như vậy. Ở đây, ấm áp bên lò sưởi, trên những chiếc gối mềm ấm cúng trong quá nhiều tình người, anh cảm thấy sự kiệt sức mà mình giữ trong tầm tay, dâng trào lên tràn ngập. “Met Askole” (“Không phải Askole”) Haji Ali cười nói, ông chỉ vào mặt đất dưới chân mình. “Korphe.” ông nói. Adrenaline làm Mortenson bật thẳng người dậy. Anh chưa bao giờ nghe nói đến Korphe. Anh chắc là nó chưa hề xuất hiện trên bất cứ tấm bản đồ nào mà anh đã nghiên cứu về Karakoram và anh đã nghiên cứu hàng chục tấm. Trấn tĩnh lại, anh giải thích rằng mình phải đến Askole để gặp một người đàn ông tên là Mouzafer, người đã mang theo toàn bộ đồ dùng cá nhân của anh. Haji Ali nắm chặt vai người khách bằng đôi tay mạnh mẽ của mình và đẩy anh ngồi trở lại trên gối. Ông gọi người con trai Twaha của mình, người thường xuyên đi đến Skardu đủ để học được một mớ từ vựng phương Tây lõm bõm và chỉ thị cho anh ta phiên dịch. “Hôm nay không đi Askole được. Rắc rối lớn. Nửa ngày đi xe bò.” người đàn ông hóa thân không thể nhầm lẫn của cha mình, ngoại trừ bộ râu, nói, “Inshallah”(8), ngày mai Haji gửi người đi tìm Mouzafer, bây giờ anh ngủ đi.” Haji Ali đứng dậy vẫy tay ra hiệu cho bọn trẻ rời xa vuông trời đang tối sầm. Những người đàn ông tản khỏi lò sưởi trở về nhà. Bất chấp sự lo lắng gợn lên trong suy nghĩ, tự giận bản thân một lần nữa đi lạc khỏi con đường mòn, cảm giác trọn vẹn và dứt khoát về sự dịch chuyển, Greg Mortenson thiếp đi và cảm thấy buồn ngủ không sao cưỡng lại được. CHƯƠNG 3 “Tiến bộ và hoàn thiện” “Hãy nói cho chúng tôi biết, nếu chúng tôi có thể làm một việc cho làng của các bạn, thì đó là việc gì?” “Với tất cả sự kính trọng, Sahib, ông không có gì nhiều để dạy chúng tôi về sức mạnh và sự dẻo dai. Và chúng tôi không thèm muốn tinh thần thao thức của ông. Có lẽ chúng tôi hạnh phúc hơn ông? Nhưng chúng tôi muốn con cái mình được đến truờng. Trong mọi thứ ông có, sự học là thứ chúng tôi mong muốn cho con cái của mình nhất.” - Cuộc đối thoại giữa Sir Edmund Hillary và Urkien Sherpa, trích từ Schoolhouse in the Clouds Có ai đó đã đắp một tấm chăn dày cho anh. Rúc mình dưới tấm chăn, Mortenson đắm mình trong sự ấm áp. Đây là đêm đầu tiên anh được ngủ trong nhà, kể từ cuối mùa xuân. Trong ánh sáng mờ mờ của than trong lò sưởi, anh có thể thấy đường nét của nhiều khuôn mặt đang ngủ. Tiếng ngáy đến từ mọi góc phòng, với những độ lớn khác nhau. Anh cuộn người lại và góp thêm tiếng ngáy của mình. Lần tiếp theo khi anh thức dậy, chỉ có một mình anh và bầu trời trong xanh hiện ra qua ô vuông trên trần nhà. Sakina, vợ của Haji Ali nhìn thấy anh cử động và mang đến cho anh sữa chua lassi, bánh chapatti mới nướng và một tách trà đường. Bà là người phụ nữ Balti đầu tiên đến gần anh. Mortenson nghĩ rằng Sakina chắc hẳn có khuôn mặt ân cần nhất mà anh đã từng gặp. Khuôn mặt đó nhăn lại theo cách gợi ra những nét của một nụ cười nơi khóe miệng và khóe mắt của bà rồi di chuyển từ mắt đến miệng và từ miệng đến mắt cho đến khi chúng hoàn tất cuộc chinh phục. Bà có mái tóc dài được bện cẩn thận theo kiểu của người Tây Tạng, bên dưới urdwa - cái nón len được trang điểm bằng những hạt cườm, vỏ sò và đồng tiền xưa. Bà đứng đó chờ Mortenson nếm thử bữa sáng. Anh cắn một miếng bánh chapatti còn ấm sau khi đã nhúng nó trong lassi, ăn ngấu nghiến hết những gì được dọn cho mình, và nuốt trôi chúng bằng trà đường. Sakina cười khích lệ và đem thêm trà cho anh. Nếu như Mortenson biết được sự khan hiếm và quý báu của đường ở Balti, chính họ hiếm khi dùng đến đường, chắc chắn anh sẽ từ chối ly trà đường thứ hai. Sakina để anh lại một mình, và anh nhìn kĩ căn phòng. Nó thanh đạm đến mức nghèo khổ. Một bức tranh quảng cáo du lịch đã phai màu in hình một căn nhà gỗ Thụy Sĩ trên cánh đồng cỏ tươi tốt sống động với những bông hoa dại được đóng đinh trên một bức tường. Mọi đồ vật khác, từ những vật dụng nấu ăn sạm đen cho đến những chiếc đèn dầu đã được sửa chữa nhiều lần, đều có vẻ còn dùng được. Chiếc chăn dày anh đã đắp khi ngủ được làm bằng lụa nhung lông màu hạt dẻ và được trang trí bằng những tấm gương nhỏ. Chăn mà những người khác sử dụng làm bằng len mỏng đã sờn được vá bằng bất cứ mảnh vải nào kiếm được. Rõ ràng, họ đã đắp cho anh vật sở hữu đẹp nhất trong nhà Haji Ali. Lúc xế chiều, Mortenson nghe vang vang những tiếng nói và bước đi, với hầu hết cư dân còn lại, đến vách đá trông ra sông Braldu. Anh thấy một người đàn ông đang đẩy thân mình trong chiếc hộp treo trên một sợi cáp thép dài sáu mươi mét bên trên dòng sông. Băng qua sông theo cách này tiết kiệm được nửa ngày cho một người phải đi lên thượng nguồn sông và đi qua cây cầu bên trên làng Korphe, nhưng nếu rơi xuống chắc chắn sẽ chết. Khi người đàn ông đã qua được nửa hẻm núi, Mortenson nhận ra đó là Mouzafer, và thấy ông nhét người trong thùng cáp nhỏ xíu được ghép từ ván vụn, đang ngồi trên chiếc balô bốn mươi kí quen thuộc. Lần này cái vỗ lưng chào của Mouzafer không làm cho Mortenson bất ngờ, và anh đã cố để không ho. Mouzafer bước xuống, nhìn anh từ đầu đến chân, mắt ông ươn ướt, rồi giơ hai tay lên trời và la lên “Allah, Akbhar!” và lắc tay cứ như là ân huệ của Thượng đế đã chất đầy quanh chân ông. Ở nhà Haji Ali, qua bữa ăn với biango, món gà nướng chắc và dai như những người Balti đã nuôi chúng, Mortenson được biết Mouzafer nổi tiếng khắp vùng Karakoram. Đó là bởi ông đã phục vụ như một trong những người khuân vác giỏi nhất vùng núi cao ở Himalaya trong ba thập niên. Thành tích của ông nhiều và đa dạng, gồm cả việc tháp tùng nhà leo núi nổi tiếng Nick Clinch trong chuyến lên núi Masherbrum lần đầu tiên của người Mỹ vào năm 1960. Nhưng điều mà Mortenson thấy ấn tượng nhất về Mouzafer là ông chưa bao giờ kể ra những thành tích của mình trong suốt thời gian họ cùng đi và trò chuyện với nhau. Mortenson kín đáo đưa cho Mouzafer ba nghìn rupi, khá nhiều hơn số tiền công mà họ đã thỏa thuận và hứa sẽ đến thăm ông tại ngôi làng của chính ông khi anh hoàn toàn bình phục. Mortenson không có cách nào để biết rằng Mouzafer sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời anh suốt thập kỉ sắp tới, hướng dẫn anh vượt qua những trở ngại trên đường đời ở phía bắc Pakistan cùng với bàn tay chắc chắn mà ông đã đưa ra để giúp anh tránh những vụ tuyết lở và men theo những khe nứt. Cùng với Mouzafer, Mortenson gặp lại Darsney và thực hiện chuyến đi dài bằng xe jeep để đến Skardu. Nhưng sau khi nếm trải những thú vị của người khách bộ hành với bữa ăn được chuẩn bị cẩn thận và chiếc giường tiện nghi ở khu lưu trú nổi tiếng dành cho những người leo núi, gọi là Motel K2, Mortenson cảm thấy có điều gì đó níu giữ anh quay lại vùng Karakoram. Anh cảm giác mình đã phát hiện một điều hiếm có ở Korphe và đã quay lại ngay khi anh có thể sắp xếp được một chuyến đi. Từ chỗ trú tại nhà Haji Ali, Mortenson đã tạo một thói quen. Mỗi buổi sáng và buổi chiều, anh đi bộ một quãng ngắn quanh Korphe, luôn luôn có những đứa trẻ níu tay anh cùng đi. Anh đã thấy ốc đảo nhỏ bé xanh tươi trong sa mạc đá bụi bặm này có được sự hiện hữu của nó nhờ vào sức lao động đáng kinh ngạc và đã chiêm ngưỡng hàng trăm dòng kênh tưới mà làng đã bảo dưỡng bằng tay, để dẫn nước băng tan về những cánh đồng và vườn cây của họ. Rời khỏi Baltoro, ngoài những hiểm nguy, anh nhận thức được sự sống sót của mình mới mong manh làm sao và anh đã trở nên suy yếu đến như thế nào. Anh chỉ có thể có được sự sống khi đi theo lối rẽ dẫn đến dòng sông và ở đó, trong dòng nước đang đóng băng, khi cởi áo ra giặt, anh giật mình bởi hình dạng của bản thân. “Cánh tay tôi trông như những que tăm, gầy gò cứ như tay của một người nào khác.” Mortenson nói. Hổn hển thở trên đường quay lên ngôi làng, anh cảm thấy mình ốm yếu như những ông lão ngồi hàng giờ dưới những cây mơ ở Korphe, hút thuốc ống điếu và ăn hạt mơ. Sau một hay hai giờ đi loanh quanh mỗi ngày, anh không chịu nổi sự kiệt sức và quay trở lại để ngắm bầu trời từ cái tổ bằng những chiếc gối bên lò sưởi của Haji Ali. Già làng cẩn thận quan sát tình trạng của Mortenson, và ra lệnh làm thịt một trong những con chogo rabak(9) quý giá của làng. Bốn mươi người dân xâu xé từng miếng thịt nướng từ những khúc xương của con vật gầy nhom, rồi đập vỡ xương bằng những viên đá, tước hết tủy bằng răng của họ. Mortenson nhận thức được một bữa ăn như vậy đối với người dân Korphe mới hiếm hoi làm sao và họ sống gần với cái đói như thế nào. Khi sức khỏe đã trở lại, năng lực nhận thức của anh nhạy bén hơn. Lúc đầu, ở Korphe, anh nghĩ mình đã sẩy chân vào một xứ sở hạnh phúc. Nhiều người phương Tây đi qua vùng Karakoram có cảm tưởng rằng người Balti sống một cuộc sống đơn giản tốt hơn so với cuộc sống của họ khi quay trở lại quê hương ở những nước phát triển. Những du khách buổi ban đầu tìm cách đưa ra những cái tên lãng mạn, đã gán cho nó cái tên “Tây Tạng của những vườn mơ.” Người Balti “dường như thật sự có thiên khiếu để vui hưởng cuộc sống.” Maraini đã viết vào năm 1958, sau khi viếng thăm Askole và chiêm ngưỡng “những cơ thể già nua của những người đàn ông ngồi trong nắng, hút thuốc bằng cái tẩu độc đáo của họ, những người này không quá già để làm việc trên những khung cửi đơn sơ trong bóng râm của những cây dâu tằm với kĩ năng chắc chăn mà họ có được từ kinh nghiệm của cả đời và hai bé trai, ngồi bên họ tỉ mỉ bắt chấy cho họ với sự dịu dàng và cẩn thận.” Ông viết tiếp, “Chúng ta thở trong một bầu không khí hài lòng, một sự thanh bình vĩnh cửu. Tất cả điều đó gợi ra một câu hỏi. Có phải là tốt hơn khi sống trong sự thiếu hiểu biết về mọi chuyện - nhựa đường và đường nhựa, xe cộ, điện thoại truyền hình - để sống trong hạnh phúc mà không biết đến nó?” Ba mươi lăm năm sau, người Balti vẫn sống với sự thiếu thốn những tiện nghi hiện đại như vậy, nhưng chỉ sau một vài ngày ở làng, Mortenson bắt đầu thấy rằng làng Korphe khác xa với thiên đường trước khi sa ngã của con người theo tưởng tượng của người phương Tây. Trong mỗi gia đình, có ít nhất một thành viên bị bướu cổ hoặc đục thủy tinh thể. Những đứa trẻ thì có mái tóc màu gừng, mà anh lấy làm ngạc nhiên, do một dạng suy dinh dưỡng gọi là kwashiorkor gây nên. Và từ những cuộc trò chuyện với Twaha, khi con trai của nurmadhar trở về sau các buổi cầu nguyện tối ở thánh đường Hồi giáo của làng, anh được biết vị bác sĩ gần nhất ở Skardu, cách xa một tuần đi bộ và cứ ba đứa trẻ ở Korphe, có một đứa chết trước khi đến ngày thôi nôi. Twaha kể cho Mortenson nghe rằng chính vợ anh, Rhokia, đã chết khi sinh đứa con gái duy nhất, Jahan, bảy năm về trước. Cái chăn màu hạt dẻ có gắn gương mà Mortenson cảm thấy hân hạnh được đắp là của hồi môn quan trọng nhất của Rhokia. Mortenson không thể tưởng tượng liệu có bao giờ trả được món nợ mà anh cảm thấy cho những vị chủ nhân ở Korphe. Nhưng anh xác định mình phải cố gắng. Anh bắt đầu phân phát tất cả những gì mình có. Những món nhỏ bé hữu ích như chai nước Nalgene và đèn pin rất quý đối với người Balti phải đi những quãng đường dài để cho gia súc ăn cỏ vào mùa hè và anh đưa hết cho những thành viên trong đại gia đình của Haji Ali. Với Sakina, anh tặng bà chiếc bếp du lịch có thể nấu bằng xăng, là thứ có thể kiếm được ở mọi ngôi làng của người Balti. Anh khoác chiếc áo khoác lông cừu màu rượu chát hiệu L.L.Bean lên vai Twaha, ép phải nhận, dù chiếc áo rộng hơn Twaha đến vài số. Anh tặng Haji Ali chiếc áo giữ nhiệt Helly Hansen đã giữ ấm cho anh trên ngọn K2. Nhưng những thứ anh mang theo trong túi thuốc của đoàn thám hiểm cùng với quá trình được huấn luyện làm y tá cứu thương của anh tỏ ra có giá trị nhất. Mỗi ngày, khi khỏe dần lên, anh đã dành nhiều giờ trèo lên những con đường dốc giữa những căn nhà ở Korphe, làm điều nhỏ nhặt mà mình có thể làm để đáp lại những nhu cầu dồn dập. Với những ống thuốc mỡ kháng sinh, anh đã điều trị những vết thương hở, vết mổ và dẫn lưu những vết thương nhiễm trùng. Bất cứ nơi nào anh đến, có những đôi mắt van nài anh từ sâu trong nhà, nơi những người Balti lớn tuổi đã chịu đựng trong yên lặng nhiều năm. Anh xếp lại xương gãy và làm điều nhỏ nhặt mà mình có thể làm với thuốc giảm đau và kháng sinh. Lời đồn về công việc của anh đã lan ra và người ốm từ bên ngoài Korphe bắt đầu gửi người thân đến mời “bác sĩ Greg”, như anh sẽ được gọi từ đây về sau ở miền bắc Pakistan, bất chấp không biết bao nhiêu lần anh đã nói với họ rằng mình chỉ là một y tá. Trong thời gian ở Korphe, Mortenson thường cảm thấy sự hiện diện của Christa, em gái mình, đặc biệt là khi anh ở cùng bọn trẻ Korphe. “Mọi thứ trong cuộc sống của chúng đều là một cuộc đấu tranh.” Mortenson nói. “Chúng nhắc tôi nhớ đến cách Christa đã chiến đấu cho những điều đơn giản nhất và cũng nhắc tôi cách mà em đã có chỉ để giữ gìn những gì cuộc sống đã ném vào em.” Anh đã quyết định phải làm một điều gì đó cho bọn trẻ. Có thể là khi đến Islamabad, anh sẽ dùng số tiền cuối cùng của mình mua sách giáo khoa gửi đến trường của chúng, hay những thứ cần thiết khác. Nằm bên lò sưởi trước khi đi ngủ, Mortenson nói với Haji Ali là anh muốn đi thăm trường học của làng Korphe. Mortenson thấy vẻ buồn bã hiện lên trên nét mặt góc cạnh của người đàn ông lớn tuổi, nhưng anh cứ khăng khăng. Sau cùng người già làng đồng ý cho Mortenson đi theo lần đầu tiên vào buổi sang hôm sau. Sau bữa sáng quen thuộc gồm chapatti và cha, Haji Ali dẫn Mortenson lên con đường dốc đến một rìa đất mở rộng gần hai trăm năm mươi mét bên trên dòng sông Braldu. Cảnh nhìn thật đẹp, với những tảng băng khổng lồ của vùng Baltoro thượng như dao cạo cắt vào bầu trời xanh cao bên trên những vách đá xám của làng Korphe. Nhưng Mortenson không ngắm nhìn phong cảnh. Anh kinh ngạc nhìn tám mươi hai đứa trẻ, bảy mươi tám em trai và bốn em gái đã can đảm gia nhập với những em trai đang quỳ trên mặt đất băng giá ngoài trời. Haji Ali tránh né cái nhìn của Mortenson, nói rằng làng không có trường, và chính quyền Pakistan không gửi đến giáo viên. “Một người thầy có chi phí tương đương một đôla mỗi ngày,” ông giải thích, “nhiều hơn số tiền mà làng có thể đài thọ.” Do vậy, họ chia sẻ chung thầy giáo với làng Munjung kế bên và thầy giáo dạy ở Korphe ba ngày mỗi tuần. Những ngày còn lại, bọn trẻ tự thực hành những bài học mà thầy để lại. Mortenson chăm chú nhìn, tim anh như muốn nhảy ra ngoài khi các học sinh đứng nghiêm chăm chú và bắt đầu “ngày học” của chúng bằng bài quốc ca Pakistan. “Thượng đế ban ơn cho vùng đất thánh. Hạnh phúc dồi dào cho xứ sở là biểu tượng của lòng quyết tâm cao độ, là đất Pakistan.” Bọn chúng hát với sự du dương rời rạc, hơi thở của chúng sôi sục trong không khí vốn đã xúc động của mùa đông. Mortenson nhận ra cô con gái bảy tuổi của Twaha, Jahan, đứng thẳng và cao dưới tấm khăn choàng khi hát “Dân tộc, quê hương và đất nước sẽ ngời sáng trong vinh quang mãi mãi. Lá cờ trăng lưỡi liềm và sao dẫn đường đến tiến bộ và hoàn thiện.” Trong thời gian dưỡng sức ở Korphe, Mortenson thường nghe dân làng than phiền về chính quyền Pakistan do người Punjabi thống trị, mà họ xem như một quyền lực nước ngoài ở vùng đồng bằng. Điệp khúc thường nghe là sự kết hợp giữa tham nhũng và bỏ lơ đã bòn rút hết số tiền ít ỏi dành cho người dân Baltistan trên con đường dài từ thủ đô Pakistan đến những thung lũng miền núi xa xôi này. Họ cho rằng thật nực cười khi chính quyền Islamabad sẵn sàng chiến đấu thật kiên cường để giành lấy mảnh đất từng là xứ Kashmir này từ Ấn Độ, trong khi không làm gì nhiều cho dân chúng ở đó. Và rõ ràng là phần lớn số tiền đến được độ cao này đã được dành riêng cho quân đội, để cung cấp tài chính cho sự đối đầu tốn kém với những lực lượng Ấn Độ dọc theo sông băng Siachen. Nhưng một đôla mỗi ngày cho một thầy giáo, Mortenson nực cười, tại sao một chính phủ ngay cả một chính phủ nghèo như Pakistan lại không thể cung cấp số tiền đó? Vì sao lá cờ hình sao và trăng lưỡi liềm lại không thể dẫn dắt những đứa trẻ ở một khoảng cách không xa này hướng đến “tiến bộ và hoàn thiện”? Sau khi nốt nhạc cuối cùng của bài quốc ca tan biến, những đứa trẻ ngồi xuống thành một vòng tròn ngay ngắn và bắt đầu chép lại bảng nhân của chúng. Phần lớn bọn chúng vạch xuống đất bằng những thanh que mà chúng đã mang theo cho mục đích đó. Những đứa may mắn hơn, như Jahan, có tấm bảng đá mà chúng viết lên bằng thanh que nhúng vào hỗn hợp bùn và nước. “Bạn có thể tưởng tượng một lớp bốn ở Mỹ chỉ riêng bọn trẻ, không có thầy ngồi yên lặng ở đó và học bài của chúng hay không?” Mortenson hỏi. “Tôi cảm thấy tim mình như rách toạc, có một ham muốn mãnh liệt trong việc học của chúng, bất chấp mọi điều mạnh mẽ chống lại chúng như thế nào, điều này làm tôi nhớ đến Christa. Tôi biết mình cần phải làm một điều gì đó.” Nhưng phải làm gì? Anh chỉ có đủ tiền nếu ăn uống đạm bạc và trọ trong những nhà nghỉ rẻ tiền nhất, đi bằng xe jeep và xe buýt trở về Islamabad, rồi đáp máy bay về nhà. Ở California, anh có thể tìm được công việc y tá không thường xuyên, và phần lớn tài sản của anh chứa vừa trong thân chiếc “La Bamba” - chiếc xe Buick màu đỏ tía, uống xăng mà anh gần gũi như là nhà mình. Tuy vậy vẫn phải làm điều gì đó. Đứng bên Haji Ali, trên rìa đá trông xuống thung lũng, với cảnh nhìn như pha lê của những ngọn núi mà anh đã đến từ nửa vòng trái đất để thử sức chính mình việc leo lên ngọn K2 để đặt một chuỗi hạt trên đỉnh núi, đột nhiên có vẻ như không thích hợp. Có một hành động mang nhiều ý nghĩa hơn mà anh có thể làm để tưởng nhớ em gái mình. Anh đặt tay mình lên vai Haji Ali, như người đàn ông lớn tuổi này đã làm với anh hàng chục lần khi họ chia sẻ cùng nhau tách trà buổi sáng. “Tôi sẽ xây cho ông một ngôi trường,” anh nói, chưa nhận thức được là với những lời này, con đường đời của anh vừa rẽ sang một lối mòn khác, một con đường còn ngoằn ngoèo và gian khổ hơn những khúc quanh lạc lối mà anh đã đi theo khi rút lui khỏi K2. “Tôi sẽ xây một ngôi truờng.” Mortenson nói. “Tôi hứa.” CHƯƠNG 4 Tự cất giữ Sự vĩ đại luôn luôn được xây dựng trên nền móng này: khả năng xuất hiện, nói và hành động như một người đàn ông bình thường nhất. - Shams-ud-din Muhammed Hafiz Khu vực nhà kho này có mùi như mùi Phi châu. Đứng gần căn phòng hơn bốn mét vuông này, thực ra là tủ đựng đồ, với giao thông đang trong giờ cao điểm sôi sục qua lại trên đại lộ San Pablo nhộn nhịp, Mortenson cảm nhận sự trật khớp mà chỉ một chuyến đi bốn mươi tám giờ bằng đường hàng không có thể gây ra. Trên chuyến bay khỏi Islamabab anh đã cảm thấy ngập tràn mục đích, hình dung ra hàng chục phương cách quyên góp tiền cho ngôi trường. Nhưng về đến Berkeley, California, Greg Mortenson không thể tự mình định hướng. Anh cảm thấy bị che kín dưới bầu trời nắng không gay gắt, giữa những sinh viên đại học khá giả đang đi dạo một cách hạnh phúc, và lời hứa của anh với Haji Ali giống như bộ phim chỉ còn nhớ được một nửa, mà anh vừa xem vừa lơ mơ ngủ trên một trong ba chuyến bay dài vô tận của mình. Mệt mỏi sau chuyến bay dài. Sốc văn hóa. Bất cứ cái tên nào bạn gán cho những khó chịu của sự trật khớp đã tấn công anh khá thường xuyên trong quá khứ. Đó là lí do anh đến đây như anh vẫn luôn luôn làm sau khi quay trở về từ một chuyến leo núi - đến Berkeley Seft-Storage, ngăn số 114. Khoảng không gian ẩm mốc này là cái neo cho chính bản thân Mortenson. Anh bước vào bóng tối thơm ngát, mò mẫm sợi dây, bật sáng ngọn đèn treo trên đầu, rồi khi tìm ra và kéo sợi dây, anh thấy những quyển sách về leo núi đầy bụi xếp chồng dựa tường, một đoàn lữ hành gồm những con voi xinh đẹp được tạc bằng ngà voi Phi châu của cha anh, và ngồi trên cuốn album quăn góc, GiGi, một chú khỉ nhồi bông màu cà phê từng là bạn đồng hành thân thiết nhất của anh trở lại nơi mà kí ức giao thoa thành hồi tưởng của giác quan. Anh nhặt thứ đồ chơi trẻ con và thấy con thú Phi châu nhồi bông đã bị bung đường khâu ở ngực. Anh ép nó vào mũi mình, hít vào và quay về ngôi nhà bằng gạch xỉ than ngổn ngang, trong sân, bên dưới những nhánh cây hồ tiêu của họ ở Tanzania. Cũng như cha mình, Mortenson sinh ra ở Minnesota. Nhưng vào năm 1958, khi anh chỉ mới ba tháng tuổi, cha mẹ đã mang anh theo cùng trong chuyến phiêu lưu lớn của đời họ. Một vị trí được bổ nhiệm để làm việc như những nhà truyền giáo ở Tanzania, trong bóng râm của đỉnh núi cao nhất lục địa này, núi Kalimanjaro. Irvin Mortenson, cha của Greg sinh ra trong một dòng họ sùng đạo thuộc giáo phái Luther mà Garrison Keillor đã khai thác rất nhiều tư liệu từ đó. Cũng như những người đàn ông ít nói vùng hồ Wobegon, ngôn ngữ là thứ ông bị buộc phải sử dụng cẩn thận. Cao một mét tám với vóc người lực lưỡng như con trai của mình, Irvin Mortenson có biệt danh “Dempsey”, như một cậu bé hướng đạo sinh không bình thường, và tên của võ sĩ quyền anh này sẽ thay thế cho tên thật của ông trong suốt quãng đời còn lại. Là đứa con thứ bảy và con út trong một gia đình bị khánh kiệt về kinh tế bởi cuộc đại suy thoái, tài năng về điền kinh của Dempsey - ông là trung vệ trong đội bóng bầu dục của trường trung học liên bang và hậu vệ trong đội bóng rổ liên bang - đã đưa ông ra khỏi vùng hồ Pequot, một thị trấn đánh cá nhỏ ở phía bắc Minnesota và đưa ông vào một con đường đến với thế giới rộng lớn hơn. Ông tham gia khóa học về bóng bầu dục ở đại học Minnesota, có được bằng cấp về giáo dục thể chất trong khi nuôi dưỡng những vết bầm tím do hàng Phòng ngự của đối phương gây ra. Vợ ông, Jerene, phải lòng ông ngay sau khi gia đình bà từ Iowa chuyển đến Minnesota. Bà cũng thích thể thao và là đội trưởng đội bóng rổ nữ của trường trung học. Họ nhanh chóng kết hôn trong thời gian Dempsey, khi đó đang phục vụ trong quân đội, được nghỉ phép ba ngày, trở về từ Fort Riley, Kansas. Jerene kể lại rằng, “Dempsey mang chiếc túi du lịch. Anh đóng quân ở Nhật Bản và thích quan sát thế giới bên ngoài nhiều hơn là chỉ ở Minnoseta. Một ngày kia anh trở về nhà khi tôi đang mang thai Greg và nói, ‘Ở Tanganyika đang cần giáo viên. Chúng mình hãy đi Phi châu.’ Tôi không thể nói không. Khi còn trẻ bạn không biết mình không biết điều gì. Chúng tôi cũng vậy.” Họ được bổ nhiệm đến một đất nước mà không ai biết gì nhiều hơn là diện tích của nó trên bản đồ Đông Phi giữa Kenya và Rwanda. Sau bốn năm làm việc ở vùng núi Usambara xa xôi, họ chuyển đến Moshi, tiếng Swahili có nghĩa là “khói”, nơi gia đình họ được hội đồng truyền giáo Luther cho trú ngụ trong căn nhà ngổn ngang xây bằng gạch xỉ của một tay buôn súng người Hy Lạp, đã bị chính quyền tịch thu. Và rồi thần may mắn thường ưu đãi kẻ khù khờ, cả gia đình cảm thấy hết sức yêu thương đất nước sẽ được đổi tên thành Tanzania sau ngày độc lập vào năm 1961. “Càng lớn hơn, tôi càng yêu quý tuổi thơ của mình. Tuổi thơ đó là một thiên đường.” Mortenson nói. Ngoài căn nhà, được bao quanh một cách tiện nghi bởi khoảng sân vườn tươi tốt, Mortenson còn xem cây hồ tiêu khổng lổ như là nhà mình. “Cái cây đó là hình ảnh của sự bền vững.” Mortenson nói. “Vào lúc hoàng hôn, hàng trăm con dơi sống trong cây bay ra từng đàn để đi săn mồi. Và sau lúc mưa, cả khoảnh sân có mùi như mùi hồ tiêu. Cái mùi thật tuyệt vời.” Vì cả Dempsey và Jerene đều không quá câu nệ về tín ngưỡng nên gia đình Mortenson đã trở thành một trung tâm cộng đồng hơn là trung tâm tôn giáo. Dempsey dạy giáo lí vào chủ nhật. Nhưng ông cũng bố trí một sân bóng softball với gốc cây hồ tiêu làm đường biên cuối sân và đã thành lập đội bóng bầu dục trường trung học đầu tiên của Tanzania. Đó chỉ mới là hai dự án tốn nhiều công sức, chi phối cuộc đời của Dempsey và Jerene. Dempsey đã dành trọn mọi công sức của mình cho thành tích lớn của đời ông - quyên góp tiền và thành lập bệnh viện đào tạo đầu tiên của Tanzania, Trung tâm Y tế Cơ đốc giáo Kalimanjaro. Jerene làm việc cho một mục tiêu tương tự duy nhất là thành lập Trường Quốc tế Moshi, dạy dỗ những trẻ em xa quê hương thuộc đủ mọi quốc tịch. Greg học ở trường đó, bơi lội một cách hạnh phúc trong đại dương của các nền văn hóa và ngôn ngữ. Sự phân chia giữa các quốc tịch khác nhau mong manh đến mức khiến anh cảm thấy bối rối khi các học sinh đánh nhau. Trong một thời gian, khi đang có xung đột gay gắt giữa Ấn Độ và Pakistan, Greg thấy bối rối bởi cái cách mà những học sinh Ấn Độ và Pakistan chơi trò chiến tranh trong giờ ra chơi, giả vờ như đang bắn súng máy và hành quyết lẫn nhau. “Ngoài những điều ấy, đó là một ngôi trường tuyệt vời để theo học,” anh nói. “Cứ như là một Liên Hiệp Quốc thu nhỏ. Có hai mươi tám quốc tịch khác nhau và chúng tôi đón mừng tất cả những ngày lễ: Hanukkah, Giáng sinh, Diwali và Lễ Id.” “Greg ghét đến nhà thờ với chúng tôi,” Jerene nhớ lại. “Vì tất cả quý bà Phi châu luôn muốn chơi đùa với mái tóc vàng của nó.” Ngoài ra, Mortenson lớn lên một cách hạnh phúc mà không biết đến chủng tộc. Anh sớm làm chủ được tiếng Swahili với giọng nói không trọng âm tuyệt hảo khiến mọi người lầm tưởng anh là người Tanzania, khi nghe qua điện thoại. Anh hát những bài thánh ca xưa trong đội đồng ca của nhà thờ, và tham gia một nhóm múa toàn là người Phi châu, dự cuộc thi vũ điệu bộ lạc được truyền hình toàn quốc trong ngày Saba Saba - ngày độc lập của Tanzania. Năm mười một tuổi, Greg Mortenson leo lên ngọn núi đáng gờm đầu tiên “Kể từ năm lên sáu, tôi đã ngắm nhìn lên đỉnh núi và van nài cha đưa tôi lên đó.” Sau cùng khi Dempsey thấy rằng anh đã đủ lớn để leo núi thay vì vui hưởng chuyến đi lên đỉnh châu Phi, Greg nói, “Tôi đã phải bụm miệng và nôn ói trên đường lên Kalimanjaro. Tôi ghét lần leo núi đó. Nhưng việc đứng trên đỉnh vào lúc bình minh, nhìn thấy thảo nguyên Phi châu trải ra bên dưới, đã gắn bó tôi mãi mãi với việc leo núi.” Jerene sinh được ba người con gái: Kari, Sonja Joy và sau cùng, khi Greg được mười hai tuổi, là Christa. Dempsey thường xa nhà mỗi tháng một lần, tìm kiếm ở châu Âu và châu Mỹ nguồn tiền và nhân viên có chuyên môn cho bệnh viện. Và Greg, lúc đó đã cao trên một mét tám, dễ dàng vào vai người đàn ông trong gia đình khi cha vắng mặt. Sau khi sinh Christa, cha mẹ đưa em đi rửa tội và Greg tình nguyện làm cha đỡ đầu. Không như ba anh em lớn tuổi hơn trong nhà, Mortenson nhanh chóng cao lớn bằng cỡ cha mẹ mình, Christa cứ mãi nhỏ bé và mảnh dẻ, và khi bắt đầu đến trường, người ta thấy rõ là cô rất khác với những người còn lại trong gia đình. Khi chập chững biết đi, Christa đã bị một phản ứng khủng khiếp với việc tiêm chủng đậu mùa. “Tay con bé trở nên đen hẳn.” Jerene nói. Và bà tin rằng mũi tiêm độc tố đó đã đánh dấu sự bắt đầu của chứng thiểu năng não của Christa. Lúc ba tuổi, cô bị viêm não co giật rất nặng, và trong đôi mắt thất thần của mẹ mình, cô đã không bao giờ hồi phục hoàn toàn sau cơn bệnh. Lúc tám tuổi, cô bắt đầu bị nhiều cơn co giật và được chẩn đoán là động kinh. Giữa những cơn bệnh đó, Christa cũng ốm đau “Nó học đọc được ngay.” Jerene nói. “Nhưng với nó, đó chỉ là những âm thanh. Nó không có ý niệm về ý nghĩa của câu.” Chàng trai Greg đang lớn trở thành sự hiện diện đáng ngại đối với bất cứ ai có ý định trêu ghẹo em gái út của mình. “Christa là đứa dễ thương nhất trong anh em chúng tôi,” anh nói. “Em đối mặt với những hạn chế của mình một cách dịu dàng. Việc tự thay quần áo vào buổi sáng làm em mất nhiều thời gian, do đó em đã xếp sẵn áo quần của mình từ tối hôm trước, cố không để chúng tôi mất quá nhiều thời gian trước khi đến trường. Em rất nhạy cảm đối với người khác.” “Xét theo khía cạnh nào đó, em giống cha tôi.” Mortenson nói. “Cả hai đều là những người biết lắng nghe.” Dempsey lắng nghe, đặc biệt là những thanh niên Phi châu nhiều tham vọng ở Moshi. Họ nôn nóng có những cơ hội, nhưng xứ Tanzania hậu thuộc địa - khi đó, và bây giờ là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới - không có gì nhiều mời gọi họ ngoài công việc nông nghiệp nặng nhọc. Khi bệnh viện đào tạo hoàn tất và đi vào hoạt động một phần, ông kiên trì ý kiến của mình, trái với nhiều thành viên người nước ngoài khác trong ban giám đốc rằng họ phải tập trung vào việc cấp nhiều học bổng y khoa cho các sinh viên địa phương có triển vọng thay vì chỉ phục vụ con em của người nước ngoài và của thành phần ưu tú giàu có ở Đông Phi. Ngay sau sinh nhật thứ mười bốn của Greg, bệnh viện 640 giường đã được hoàn thành và Tổng thống Tanzania, Julius Nyerere, đã phát biểu trong buổi lễ cắt băng khánh thành. Cha của Greg mua rất nhiều pombe, một loại bia chuối địa phương, và cắt hết những bụi cây trong sân nhà mình để có đủ chỗ cho hơn năm trăm khách địa phương và nước ngoài đến dự buổi tiệc món nướng ngoài trời chào mừng thành công của bệnh viện. Đứng trên sân khấu dành cho nhạc công được dựng lên dưới cây hồ tiêu, Dempsey trong bộ áo đen truyền thống của Tanzania, đã phát biểu với cộng đồng mà ông hằng yêu thương. Sau mười bốn năm ở châu Phi, ông đã tăng cân nhưng vẫn đứng thẳng người khi nói và, theo con trai ông, nếu trông không giống như vận động viên trước đây thì vẫn còn rất đáng nể. Ông bắt đầu cảm ơn những cộng sự người Tanzania ở bệnh viện, John Moshi, người mà Dempsey nói rằng cũng đóng góp cho thành công của bệnh viện nhiều như ông. “Tôi có một lời tiên đoán,” ông nói bằng tiếng Swahili. “Trong mười năm nữa, lãnh đạo của mọi bộ phận trong Trung tâm Y tế Cơ đốc giáo Kalimanjaro sẽ là người Tanzania. Đây là đất nước củacác bạn, đây là bệnh viện của các bạn.” “Tôi có thể cảm thấy niềm kiêu hãnh dâng đầy từ những người châu Phi.” Mortenson nói. “Những vị khách nước ngoài muốn ông nói, Hãy nhìn điều mà chúng tôi đã làm cho các bạn. Nhưng ông đã nói, Hãy nhìn điều mà các bạn đã làm cho chính mình và các bạn có thể làm nhiều hơn thế nữa.” “Những vị khách nước ngoài rất giận cha tôi vì chuyện đó.” Mortenson nói. “Nhưng bạn biết gì không? Điều đó đã xảy ra? Bệnh viện mà ông xây dựng ngày nay vẫn còn đó, là bệnh viện đào tạo hàng đầu ở Tanzania, một thập niên sau khi ông hoàn thành, tất cả các trưởng bộ phận đều là người châu Phi. Nhìn lại ông, tôi thấy tự hào rằng người đàn ông to lớn ngực nở đó là cha mình. Ông đã dạy cho tôi, ông đã dạy tất cả chúng ta rằng nếu bạn tin vào chính mình, bạn có thể hoàn thành bất cứ việc gì.” Với việc cả trường học và bệnh viện đều đã được đưa vào hoạt động ổn định, công việc của nhà Mortenson ở Tanzania đã hoàn tất. Dempsey được chào mời một công việc hấp dẫn - thành lập bệnh viện cho người tị nạn Palestine trên núi Olives ở Jerusalem - nhưng gia đình Mortenson đã quyết định đây là lúc để các con của họ trải nghiệm về nước Mỹ. Greg và các em của anh vừa phấn khởi vừa lo lắng với việc trở về nơi mà họ vẫn xem như quê hương của mình, bất chấp thực tế là chúng chỉ ở đó trong những chuyến viếng thăm ngắn ngủi khoảng năm sáu lần. Greg đã đọc từng đề mục về năm mươi tiểu bang trong bộ tự điển bách khoa của gia đình, cố để hình dung và chuẩn bị cho việc trở về nước Mỹ. Từ mười bốn năm nay, những người thân ở Minnesota đã viết thư kể về hoạt động của gia đình mà nhà Mortenson ở châu Phi không tham dự, và gửi những bài báo về thành phố sinh đôi Minnesota Twins mà Greg cất giữ trong phòng mình và đọc lại vào ban đêm những sản phẩm từ một nền văn hóa xa lạ mà anh hi vọng mình có thể hiểu được. Nhà Mortenson đóng gói sách vở, những món đồ vải dệt, gỗ chạm khắc và chuyển đến ngôi nhà bốn tầng kiểu xưa của cha mẹ Jerene ở St.Paul, trước khi mua một căn nhà màu xanh nhạt không quá đắt trong khu ngoại ô trung lưu, gọi là Roseville. Trong ngày đầu đến trường trung học ở Mỹ, Greg nhận được sự an ủi khi thấy có rất nhiều học sinh da đen đi lại trong những hành lang của trường St.Paul Central. Anh không cảm thấy cách xa Moshi. Tin đồn nhanh chóng lan khắp trường rằng anh chàng mười lăm tuổi to lớn, ngượng nghịu đó đến từ châu Phi. Giữa các buổi học, một cầu thủ bóng rổ cao lớn, vạm vỡ đội mũ trùm đầu Cadillac, đeo sợi dây chuyền vàng quanh cổ đã chặn Mortenson lại trước vòi nước uống của học sinh, trong khi các bạn hắn vây quanh với vẻ đe dọa. “Mày không phải là người châu Phi,” hắn gầm lên rồi đám học sinh bắt đầu đấm Mortenson như mưa trong khi anh cố dùng tay che đầu, tự hỏi không biết mình đã làm gì. Sau cùng, khi bọn chúng dừng ại, Mortenson hạ thấp hai cánh tay, đôi môi run rẩy. Thằng cầm đầu nhảy xổ vào và đấm mạnh vào mắt Mortenson. Một thằng khác chộp lấy thùng rác và chụp lên đầu anh. Mortenson đứng bên vòi nước với cái thùng hôi hám trên đầu nghe tiếng cười xa dần về phía hành lang. Về hầu hết các mặt, Mortenson tỏ ra thích nghi được với văn hóa Mỹ. Anh học rất giỏi, đặc biệt là toán, âm nhạc và các môn khoa học, và dĩ nhiên là anh có tố chất di truyền để thành công trong các môn thể thao. Sau khi nhà Mortenson chuyển đến vùng ngoại ô, sự hiện diện hiển nhiên của Greg trong đội bóng bầu dục trường trung học Ramsey với vai trò hậu vệ đã mở ra con đường, nếu không phải của tình bạn thì cũng là của tình đồng đội, với những học sinh khác. Nhưng mặt khác, anh mãi không thuộc về lối sống Mỹ. Mẹ anh nói “Greg không bao giờ ở cùng thời trong cuộc sống của mình. Từ bé Greg đã luôn hành động như lúc còn ở châu Phi.” Công việc của gia đình ở châu Phi đã được đền đáp về mọi mặt, trừ tiền bạc. Việc trả học phí cho một trường tư tốn kém không được bàn đến, do đó Mortenson hỏi ý kiến cha xem anh nên làm gì. Dempsy nói, “Ta đã theo học đại học bằng hối phiếu cho lính Mỹ. Con có thể làm tốt hơn ta nhiều.” Vào tháng tư trong năm học cuối, Greg đến phòng tuyển quân ở St.Paul và đăng kí thi hành nghĩa vụ quân sự trong hai năm. Grey nói, “Việc gia nhập quân đội ngay sau cuộc chiến tranh Việt Nam là một chuyện rất lạ lùng. Và đám bạn trong trường kinh ngạc vì tôi đã tính đến việc gia nhập quân đội. Nhưng chúng tôi đã khánh kiệt.” Bốn ngày sau khi tốt nglhiệp trung học, Mortenson đến căn cứ huấn luyện ở Fort Leonard Wood, Missouri. Trong khi phần lớn bạn bè cùng lớp còn đang ngủ vùi trong mùa hè trước khi vào đại học, anh bị viên trung sĩ huấn luyện đánh thức vào buổi sáng đầu tiên lúc năm giờ bằng cú đá và lay lay chiếc giường cùng tiếng quát “Xuống giường và xỏ giày vớ vào!” “Tôi quyết định không để cho anh chàng này làm mình hoảng sợ.” Mortenson nói. Do đó anh đã chào trung sĩ huấn luyện Parks vào năm giờ sang hôm sau với quần áo chỉnh tề trong bóng tối trên chiếc giường nhỏ đã chật khít của mình. “Anh ta mắng tôi vì đã không ngủ đủ tám giờ trong khi tôi phải tuân thủ giờ giấc theo quy định, phạt tôi hít đất bốn mươi lần rồi dẫn tôi lên ban chỉ huy, gắn cho tôi một sọc và dẫn về lại khu giường ngủ. “Đây là Mortenson, anh ta sẽ là trung đội trưởng mới của các anh,” viên trung sĩ nói. “Anh ta có cấp bậc cao hơn tất cả các tân binh như các anh, do vậy hãy làm những gì anh ta nói.” Mortenson khá trầm lặng để có thể ra lệnh cho đồng đội một cách có hiệu quả. Nhưng anh rất xuất sắc trong quân đội. Xuất thân từ đội bóng bầu dục và đội chạy đua của trường học, anh vẫn rất sung sức nên những gian khổ của việc huấn luyện cơ bản đối với anh là không đáng kể so với tinh thần suy sụp mà anh thấy như một bệnh dịch trong quân đội thời kì hậu Việt Nam. Anh được dạy các kĩ năng bộ binh và chiến thuật nâng cao, rồi dấn thân vào sự quan tâm trọn đời mình về y khoa khi anh được huấn luyện như một người lính quân y, trước khi được phân công sang Đức cùng Sư đoàn Thiết giáp 33. “Tôi thực sự rất khờ khạo khi đăng kí nhập ngũ, nhưng quân đội đã có cách giúp tôi hết khờ khạo.” Mortenson nói. “Nhiều chàng trai sau chiến tranh Việt Nam đã dính vào heroin, họ chết trong trại và chúng tôi phải đi thu nhặt xác của họ.” Anh cũng nhớ đến một sáng mùa đông lúc thu nhặt xác của một trung sĩ bị đánh đập và bỏ lại trong hào tuyết cho đến chết, vì đồng đội của anh ta phát hiện anh ta là kẻ đồng tính luyến ái. Đóng quân ở Bamberg, Đức, gần biên giới Tây Đức, nhờ vào giờ giấc linh hoạt trong quân đội, Mortenson đã hoàn thiện khả năng mà anh có trong suốt phần đời còn lại của mình, có thể ngủ ở bất cứ nơi nào, ngay lập tức. Anh là người lính gương mẫu, “Tôi chưa từng bắn một phát súng vào bất cứ ai.” Mortenson nói. “Nhưng đó là trước khi bức tường Berlin sụp đổ và chúng tôi đã dành nhiều giờ nhắm qua ống ngắm khẩu súng M-16 của mình vào những người lính canh Đông Đức.” Trong phiên gác, Mortenson được phép bắn những tay súng cộng sản nếu họ bắn những thường dân Đông Đức đang cố đào thoát. “Điều đó thỉnh thoảng xảy ra nhưng chưa từng xảy ra trong khi tôi đứng gác.” Mortenson nói. “Ơn Chúa!” Phần lớn những người lính da trắng anh quen biết ở Đức đều trải qua những ngày nghỉ cuối tuần “chơi bời, nhậu nhẹt hay bắn súng.” Mortenson nói, do đó anh đón những chuyến bay quân sự miễn phí chở lính da đen - đến Rome, London hoặc Amsterdam. Đó là lần đầu tiên Mortenson du lịch một mình và anh cảm thấy chuyến đi cùng các bạn đồng hành đều rất vui vẻ. “Trong quân đội, những người bạn thân nhất của tôi là người da đen.” Mortenson nói. “Ở Minnesota điều này có vẻ bất tiện nhưng vấn đề chủng tộc trong quân đội là vấn đề mà bạn ít lo ngại nhất. Ở Đức, tôi thấy được chấp nhận hoàn toàn và lần đầu tiên kể từ ngày ở Tanzania, tôi không cảm thấy cô độc.” Mortenson đã được trao Huy chương Tưởng thưởng Bộ binh cho việc di tản những người lính bị thương trong một cuộc tập trận bắn đạn thật. Anh đã giải ngũ trong danh dự sau hai năm, vui vì những gì mình đã làm và giờ đây gắn bó với thói quen thứ hai không thể thay đổi của mình, đến muộn sau đó: không thể lái xe hơi vào nơi đậu xe. Rất lâu sau khi giải ngũ, anh vẫn lái số lùi mọi chiếc xe - chiếc xe jeep ở Baltistan, chiếc Toyota của gia đình trong chuyến dạo mát - vào đúng chỗ, như quân đội đã dạy cho xe quay đầu ra và chuẩn bị sẵn súng để thoát nhanh dưới hỏa lực. Anh đến học tại trường cao đẳng Concordia nhỏ bé ở Moorhead, Minnesota với một học bổng về bóng bầu dục, nơi đội bóng của anh đã giành chiến thắng trong giải Vô địch Quốc gia NAIA II năm 1978. Nhưng anh sớm chán môi trường đơn điệu của ngôi trường nhỏ không có tiếng tăm và đã chuyển đến ngôi trường đa dạng hơn là trường Đại học Nam Dakota ở Vermillion với học bổng dành cho quân nhân. Jerene đang theo học để lấy bằng Tiến sĩ Giáo dục và Dempsey tìm được một công việc không hứng thú, lương thấp, làm việc nhiều giờ cho một quỹ vay vốn của nhà nước, công việc đăng kí chủ nợ, con nợ, do đó chuyện tiền bạc đối với nhà Mortenson càng trở nên eo hẹp hơn bao giờ hết. Greg phải vừa làm vừa học trong suốt cả năm đại học, rửa chén bát trong căntin của trường và làm hộ lí trực ca đêm ở bệnh viện Dakota. Mỗi tháng, anh bí mật gửi về cho cha một phần tiền mà mình kiếm được. Vào tháng 4 năm 1981, năm thứ hai của Greg ở Vermillion, Dempsey được chẩn đoán mắc bệnh ung thư, ông mới bốn mươi tám tuổi. Greg khi đó là sinh viên khoa hóa và khoa điều dưỡng và khi biết căn bệnh ung thư của cha mình đã di căn lan đến gan và các hạch bạch huyết, anh biết rõ có thể mất cha nhanh như thế nào. Trong khi đang phải gạo bài cho các kì thi và duy trì việc làm ngoài giờ, cứ hai tuần một lần, Mortenson lái xe sáu giờ về nhà ở Minnesota để ở cùng cha một ngày cuối tuần. Và cứ khoảng hai tuần, anh lại thấy sốc vì tình trạng của cha mình suy sụp một cách nhanh chóng. Mortenson, đã khá thành thạo trong nghề y, thuyết phục các bác sĩ của Dempsey cho ngưng việc xạ trị, biết rằng tình trạng của cha đã vào giai đoạn cuối và quyết định rằng ông phải có cơ hội vui hưởng khoảng thời gỉan ít ỏi còn lại của mình. Greg muốn nghỉ học và dành hết thời gian chăm sóc cha mình nhưng Dempsey đã nói với con trai, “Con đừng làm vậy.” Vì vậy, những chuyến về thăm hai tuần một lần vẫn tiếp tục. Khi thời tiết tốt, anh đưa cha ra ngoài, xúc động vì thấy cha đã gầy đi như thế nào, đến bên chiếc ghế ngoài sân cỏ để ông ngồi trong ánh mặt trời. Dempsey, có lẽ vẫn còn gắn bó với đất đai vườn tược tươi tốt bao quanh nhà như lúc ở Moshi, rất chú ý chăm sóc vườn thảo mộc của mình, và dặn anh không được để cỏ dại mọc. Đêm khuya, khi trăn trở trong giấc ngủ, Greg nghe tiếng Dempsey đánh máy một cách khó nhọc, thảo ra những nghi thức cho lễ tang của chính mình, Jerene ngủ thiếp trên ghế dài, chờ cho đến khi chiếc máy chữ im bặt để đưa chồng về giường. Vào tháng chín, Greg về thăm cha lần cuối. Dempsey khi đó đã nhập viện ở bệnh viện Midway, St.Paul. “Có một kì thi vào sáng hôm sau và tôi không muốn về nhà vào lúc nửa đêm nhưng tôi không thể bỏ cha.” Greg nhớ lại. “Ông không được dễ chịu với tình trạng bệnh tật của mình, nhưng ông vẫn đặt tay trên vai tôi suốt thời gian tôi ở đó. Sau cùng tôi đứng lên từ biệt và ông nói, ‘Mọi chuyện đã xong, mọi chuyện đều tốt cả, tất cả đều đã được lo liệu.’ Ông hoàn toàn không sợ cái chết.” Cũng như ở Moshi, khi tổ chức buổi tiệc lớn đánh dấu sự kết thúc thành công khoảng thời gian của họ ở châu Phi, Dempsey đã sắp đặt chi tiết nghi lễ đánh dấu sự kết thúc thời khắc của ông trên trần gian cho đến bài thánh ca cuối cùng, chết một cách thanh thản vào sáng hôm sau. Tại nhà thờ giáo phái Luther ở Roseville, những người dự tang lễ được nhận một tờ chương trình do Dempsey thiết kế, gọi là “Niềm vui trở về nhà.” Greg tiễn biệt cha mình bằng tiếng Swahili, gọi ông là Baba, kaka, ndugu, “người cha, người anh, người bạn.” Được ưu đãi do phục vụ trong quân ngũ, Dempsey đã yên nghỉ trong nghĩa trang quốc gia Ft.Snelling, Twin Cities. Với cái chết của Dempsey và hai tấm bằng hạng ưu về điều dưỡng và hóa học trong tay, Mortenson cảm thấy như được cởi trói rất nhiều. Anh cân nhắc và được chấp nhận vào học tại trường Đại học Y khoa Case Western, nhưng anh không tưởng tượng là mình phải chờ đến năm năm nữa trước khi có thể kiếm được tiền. Sau cái chết của người cha, anh bắt đầu bị ám ảnh bởi việc sẽ mất Christa, khi những cơn động kinh của cô đã trở nên thường xuyên hơn. Do đó, anh quyết định trở về nhà trong một năm để sống cùng cô em út của mình. Anh đã giúp cô tìm được công việc lắp ráp túi thuốc nước IV Solution trong một nhà máy và đi xe buýt St.Paul cùng em mình hàng chục lần cho đến khi cô có thể thuộc lộ trình. Christa rất quan tâm đến các bạn gái của anh mình và hỏi anh những câu hỏi chi tiết về giới tính mà cô e thẹn không dám trao đổi với mẹ. Và khi Greg biết Christa hẹn hò với bạn trai, anh đã nhờ một nữ y tá nói cho em nghe về giáo dục giới tính. Năm 1986, Mortenson bắt đầu một chương trình học về sinh lí thần kinh ở Đại học Indiana; anh suy nghĩ một cách lí tưởng rằng với việc chăm chỉ nghiên cứu, anh có thể tìm ra cách chữa trị cho em gái mình. Nhưng việc nghiên cứu y học tiến triển quá chậm đối với một chàng trai hai mươi tám tuổi đang nôn nóng, và khi Mortenson càng hiểu biết thêm về bệnh động kinh, thì bất cứ cách chữa trị khả dĩ nào dường như cũng càng lùi xa hơn. Đọc qua những quyển sách giáo khoa dày cộm và ngồi trong phòng thí nghiệm, anh thấy tâm trí mình trôi dạt trở lại với những đường vân thạch anh rối rắm lẫn trong đá hoa cương ở đỉnh núi The Needles, khối núi đá nhọn vùng Black Hill, Nam Dakota, nơi anh đã học những điều cơ bản về leo núi đá cùng với hai bạn học vào năm trước. Anh cảm thấy sự lôi kéo ngày càng mạnh hơn. Anh có chiếc xe Buick cũ màu ruợu chát của bà ngoại, anh đặt cho nó cái tên La Bamba. Anh dành dụm được vài nghìn đôla, và anh có những cách nhìn khác nhau về cuộc sống, hướng ra bên ngoài nhiều hơn, như cuộc sống mà anh đã yêu thích ở Tanzania. California dường như là một nơi quá rõ ràng, do đó anh chất hành lí lên chiếc La Bamba và đi về miền Tây. Cũng như phần lớn những cuộc theo đuổi mà anh đã chú tâm đến, đường cong học leo núi của Greg Mortenson cũng dốc đứng như những vách đá mà anh đã sớm trèo lên. Nghe anh kể về những năm đầu tiên đó ở California, gần như không có khoảng nghỉ nào giữa khóa học kéo dài một tuần mà anh tham dự ở Southern California Suicide Rocks và việc dẫn đầu những cuộc leo lên các đỉnh núi cao hơn sáu nghìn mét ở Nepal. Sau thời thơ ấu sống khuôn phép trong căn nhà hết sức nề nếp của mẹ mình, rồi quân đội, trường cao đẳng và cao học, sự tự do trong leo núi và làm việc chỉ đủ để leo núi nhiều hơn nữa, là một điều mới mẻ đáng say mê. Mortenson bắt đầu theo nghề y tá chấn thương, làm việc suốt đêm và cả những ngày lễ tại các phòng cấp cứu ở Bay Area, chọn những ca mà không ai muốn chọn để đổi lấy sự tự do biến mất khi những ngọn núi vẫy gọi. Bối cảnh leo núi ở Bay Area có thể chiếm hết thời gian và Mortenson để bản thân bị cuốn vào đó. Anh gia nhập câu lạc bộ leo núil City Rock, trong một nhà kho cũ ở Emeryville, nơi anh bỏ ra hết giờ này sang giờ khác để cải thiện những động tác của mình. Anh bắt đầu chạy marathon và luôn vạch ra các kế hoạch giữa những chuyến thám hiểm để leo lên mặt bắc của Mount Baker, Annapurna IV, Baruntse và nhiều đỉnh núi khác trong dãy Himalaya. “Từ năm 1989 đến 1992, cuộc đời tôi hoàn toàn dành cho việc leo núi.” Mortenson nói. Và kiến thức về leo núi đối với anh có sức lôi kéo mạnh gần như quá trình đánh giá chính mình trước những vách đá không khoan nhượng. Anh tích lũy kiến thức bách khoa về lịch sử của việc leo núi và lùng sục khắp các hiệu sách cũ ở Bay Area tìm kiếm những hành động táo bạo trong việc leo núi có từ thế kỉ mười chín. Mortenson nói, “Những năm đó, cuốn sách gối đầu giường của tôi là Freedom from Hills - một cuốn kinh thánh về môn leo núi.” Christa đến thăm anh mỗi năm, và anh cố giải thích cho em gái về tình yêu của mình đối với những ngọn núi, lái xe đưa em đến Yosemite và lần ngón tay của anh dọc theo nửa chục lộ trình mà anh đã thực hiện để lên đến phiến đá hoa cương liền khối Haft-Dome. Ngày 23 tháng 6 năm 1992, Mortenson ở trên núi Sill nằm ở phía đông Sierra, cùng với người bạn gái vào thời điểm đó, Anna Lopez, một nữ hướng đạo sinh đã trải qua nhiều tháng đơn độc ở vùng đồng quê miền núi. Vào lúc bốn giờ ba mươi sáng, họ đi xuống một sông băng, nơi họ đã cắm trại qua đêm sau khi lên đỉnh núi, Mortenson sẩy chân, ngã hẳn người tới trước, rồi bắt đầu trượt xuống sườn dốc. Quán tính khiến cho anh ngã nhào xuống dòng song băng, hất anh lên cao một mét rưỡi mỗi lần nảy bật và ném mạnh anh xuống lớp băng giá và tuyết dày đặc. Chiếc balô nặng xoắn lại, xé trật khớp vai phải và làm gãy xương cánh tay của anh. Anh rơi thẳng đứng gần hai trăm năm mươi mét, cho đến khi cắm được mũi chiếc rìu vào trong tuyết và giữ mình dừng lại với cánh tay không bị đau. Sau khi Mortenson trải qua hai mươi bốn giờ ảo giác, loạng choạng trong đau đớn để đi xuống núi và ra khỏi con đường mòn, Anna lái xe đưa anh đến phòng cấp cứu gần nhất, ở Bishop, California. Từ bệnh viện, Mortenson đã gọi cho mẹ để báo tin mình còn sống sót. Nhưng điều anh nghe được khiến anh đau đớn còn hơn cú ngã của mình. Cùng thời điểm Greg trượt chân ở núi Sill, mẹ anh mở cửa phòng Christa để đánh thức cô dậy cho chuyến đi đến “Cánh đồng mơ ước”, ở Dyersville, bang Iowa, nơi bộ phim cùng tên đã được quay, mà họ đã lên kế hoạch nhân sinh nhật thứ hai mươi ba của cô. “Khi tôi vào đánh thức Christa, con bé đang quỳ trên hai tay và hai chân, như đang cố trở lại giường sau khi đi vệ sinh.” Jerene nói. “Da con bé tái xanh. Tôi chỉ có thể nghĩ con bé chết là do cơn đột quỵ xảy ra đột ngột khiến nó chết cứng ngay tại chỗ.” Mortenson đến dự đám tang em gái ở Minnesota với cánh tay còn phải quàng dây. Em trai của Jerene, mục sư Lane Doerring, đã đọc bài điếu văn, trong đó ông thêm một ý thích hợp vào lời thoại nổi tiếng nhất trong bộ phim mà Christa ưa thích. “Christa của chúng ta sẽ thức dậy và nói, ‘Đây có phải là Iowa?’ Và họ sẽ đáp, ‘Không, đây là thiên đường’.” ông nói với đám đông người dự tang lễ ở trong cùng ngôi nhà thờ mà họ đã vĩnh biệt ông Dempsey trước đây. Ở California, Mortenson cảm thấy cuộc sống trở nên vô nghĩa hơn bao giờ hết. Cuộc điện thoại của Dan Mazur, một nhà leo núi tài năng mà Mortenson biết tiếng là rất quyết tâm, như một cứu cánh. Anh ấy đang lập kế hoạch cho chuyến thám hiểm đến K2, thử thách cao nhất của các nhà leo núi, và cần một y tá cho đoàn. Liệu Mortenson có tham gia không? Đây là một con đường, một phương tiện mà Mortenson có thể quay trở lại, và đồng thời cũng để tưởng nhớ đến em gái mình. Anh đã leo lên đỉnh núi đáng kính nể nhất, và anh dành riêng chuyến leo núi của mình để tưởng nhớ Christa. Anh đã tìm thấy cách để vứt bỏ sự mất mát vô nghĩa này. Một cách thận trọng, Mortenson hạ thấp GiGi xuống khỏi mặt mình, và để chú khỉ lên trên cuốn album. Một chiếc xe tải mười tám bánh đang gầm gừ phóng khỏi San Pablo làm lay động căn phòng nhỏ khi nó đi qua. Anh bước ra ngoài phòng kho và lấy những vật dụng leo núi của mình từ thùng xe La Bamba. Anh treo đai bảo hiểm, dây leo, các móc sắt, móc nối kim loại, bulông lục giác và bộ thiết bị leo Junar một cách gọn gàng trên những cái móc, nơi chúng chỉ nghỉ ngơi một thời gian ngắn giữa những chuyến leo núi trong năm năm qua. Đây là những thứ đã đưa anh qua các lục địa và lên những đỉnh núi cao mà con người yếu đuối cho là không thể đến được. Làm cách nào để quyên góp được tiền? Làm thế nào để thuyết phục người Mỹ quan tâm đến một nhóm trẻ em đang ngồi ngoài trời lạnh, ở bên kia trái dất, viết những bài học của chúng lên đất bằng những thanh que? Anh kéo sợi dây đèn, những nét đặc thù của đồ vật trong phòng kho dần biến mất. Một mảng nắng Callifornia chiếu lập lòe trên đôi mắt bằng nhựa của chú khỉ nhồi bông trước khi Mortenson cài khóa móc cánh cửa. CHƯƠNG 5 580 bức thư, một tấm ngân phiếu Hãy để nỗi khát khao phiền muộn ở trong trái tim bạn. Đừng bao giờ từ bỏ, đừng bao giờ mất hi vọng. Thánh Allah nói, “Những người đau khổ là những người mà ta yêu quý.” Hãy nghiền nát trái tim bạn. Hãy đau khổ. - Shaikh Abu Saeed Abil Kheir, aka Nobody, Son of Nobody Chiếc máy đánh chữ quá nhỏ so với đôi bàn tay của Mortenson. Anh gõ trúng hai phím một lần, xé vụn bức thư rồi bắt đầu gõ lại, điều đó làm tăng thêm chi phí. Một đôla mỗi giờ để thuê chiếc máy chữ IBM Selectric cũ nghe có vẻ hợp lí, nhưng sau năm giờ tại Trung tâm Sao chép Krishna ở phu phố chính của Berkeley, anh chỉ hoàn thành được bốn bức thư. Vấn đề là, ngoài sự bất tiện về cách bố trí các phím quá gần nhau của chiếc máy chữ IBM, còn do Mortenson không biết chắc mình phải nói gì. “Bà Winfrey thân mến,” anh gõ bằng các đầu ngón tay, bắt đầu bức thư thứ năm. “Tôi là một người hâm mộ chương trình của bà. Nó khiến tôi nghĩ rằng bà là người thực sự quan tâm đến điều tốt đẹp nhất cho mọi người. Tôi đang viết để kể cho bà nghe về một ngôi làng nhỏ có tên Korphe ở Pakistan và về ngôi trường mà tôi đang cố gắng xây dựng ở đó. Bà có biết rằng nhiều trẻ em ở vùng Himalaya xinh đẹp đó chưa hề có trường học?” Đến đây, anh không biết phải viết gì nữa. Anh không biết nên đề cập ngayđến tiền bạc hay chỉ yêu cầu giúp đỡ. Và nếu anh đề cập đến tiền, thì có nên đề nghị một con số cụ thể hay không? “Tôi dự định xây một ngôi trường với năm phòng học để dạy dỗ 100 học sinh cho đến lớp năm.” Mortenson gõ. “Lúc ở Pakistan để leo lên K2, ngọn núi cao thứ nhì trên thế giới, tôi đã không lên được đến đỉnh, tôi đã hỏi ý kiến các chuyên gia địa phương. Nếu sử dụng vật liệu và lao động tại chỗ, tôi tin chắc mình có thể hoàn thành ngôi trường với 12.000 đôla.” Và đến phần khó khăn nhất. Anh có nên hỏi xin toàn bộ hay không? “Bất cứ khoản tiền nào mà bà có thể đóng góp vào số tiền đó cũng là điều tốt đẹp.” Mortenson quyết định viết. Nhưng những đầu ngón tay của anh đã không tuân theo ý chủ nhân và chữ cuối cùng được gõ thành “chảy máu”. Anh lôi tờ giấy ra và bắt đầu lại. Vào thời điểm phải đi đến San Francisco để trực ca đêm tại phòng cấp cứu ở Trung tâm Y tế UCSF, anh đã hoàn tất, dán kín và dán tem sáu bức thư. Một gửi cho Oprah Winfrey. Một cho mỗi hãng tin có uy tín, bao gồm Bernard Shaw của CNN, vì anh hình dung rằng CNN đang trở thành một hãng tin lớn như các hãng lớn khác. Và một bức thư anh viết một cách tự phát gửi cho diễn viên Susan Sarandon, vì bà dường như quá tốt và tận tâm đối với việc nghĩa. Anh lái chiếc La Bamba xuyên qua luồng giao thông trong giờ cao điểm, lái chiếc Buick với chỉ một ngón tay trỏ. Đó là cỗ máy phù hợp hoàn hảo với đôi tay của Mortenson. Anh đỗ xe, nghiêng người ra ngoài cửa và nhét những lá thư vào khe hòm thư bên lề đường ở bưu điện Berkeley. Đó không phải là thành tích lớn lao để khoe khoang cho trọn một ngày làm việc. Nhưng ít nhất anh cũng đã bắt đầu ở nơi nào đó. Mình sẽ nhanh hơn, anh tự nhủ. Anh phải nhanh hơn vì đã tự đặt cho mình một mục tiêu phải đạt được 500 bức thư. Nhẹ nhàng lái chiếc La Bamba vào luồng giao thông ở bờ tây cầu Bay, anh cảm thấy lâng lâng như thể vừa châm một ngòi nổ và những tin tức tốt lành sẽ sớm bùng cháy. Ở phòng cấp cứu, cả ca trực có thể biến mất trong sự mờ ảo của những vết thương do dao và những vết áp xe chảy máu. Hoặc, trong khoảng thời gian ngắn ngủi, khi không có những ca nguy hiểm đến tính mạng nhập viện, thời gian có thể trôi dần sang buổi sáng mà không thể nhận ra. Những lúc ấy, Mortenson chợp mắt một chút trên chiếc giường nhỏ, hoặc nói chuyện với mấy vị bác sĩ như Tom Vaughan. Cao, gầy và đeo kính, Vaughan là bác sĩ chuyên về bệnh phổi và là nhà leo núi. Ông đã leo lên núi Aconcagua trong dãy Andes, là ngọn núi cao nhất bên ngoài châu Á. Nhưng chính kinh nghiệm của ông với tư cách một bác sĩ trong đoàn leo núi người Mỹ năm 1982, nỗ lực lên đến Gasherbrum II ở Pakistan, đã tạo nên sự gắn bó giữa y-bác sĩ. “Anh có thể thấy K2 từ Gasherbrum II.” Vaughan nói. “Nó đẹp không thể tả và rất đáng sợ. Và tôi đã đặt nhiều câu hỏi với Greg về cảm giác của cậu ấy khi leo lên đó.” Vaughan đã tham gia trong một nỗ lực leo lên ngọn núi thường được xem là dễ dàng nhất trong những đỉnh núi tám nghìn mét. Nhưng trong thời gian đó, không thành viên nào trong đoàn lên được đến đỉnh, và một thành viên trong đoàn, Glen Brendeiro, đã bị quét khỏi vách đá bởi một đợt tuyết lở và không bao giờ được tìm thấy. Vaughan ý thức được thành tích lên gần đến đỉnh một ngọn núi giết người như K2 là như thế nào. Giữa những ca cấp cứu, họ nói về sự vĩ đại và cô độc của Baltoro, mà cả hai đều tin là nơi hùng vĩ nhất trên trái đất. Và Mortenson đã hỏi Vaughan rất chi tiết về nghiên cứu mà ông đã thực hiện về chứng phù phổi, sự sưng viêm phổi do độ cao, vốn đã gây ra quá nhiều cái chết và thương tích cho các nhà leo núi. “Greg hết sức nhanh nhẹn, điềm tĩnh và tháo vát trong phòng cấp cứu.” Vaughan nhớ lại. “Nhưng khi bạn nói với anh ấy về y học, dường như anh ấy không thực sự quan tâm. Ấn tượng của tôi lần đầu tiên gặp anh ấy là dường như anh ấy chỉ làm qua ngày cho đến khi có thể trở lại Pakistan.” Tâm trí của Mortenson có thể đã tập trung vào một ngôi làng miền núi cách xa mười hai nghìn dặm. Nhưng anh không hề rời mắt khỏi một nữ bác sĩ gây mê nội trú, bác sĩ Marina Villard, người đã làm anh mất cân bằng khi gặp cô. “Marina mang vẻ đẹp tự nhiên.” Mortenson nói. “Cô là một nhà leo núi. Cô không trang điểm. Cô có mái tóc đen nhánh và đôi môi đầy đặn làm tôi không dám nhìn vào. Tôi hết sức đau khổ mỗi khi làm việc cùng cô ấy. Tôi không biết mình nên mời cô đi chơi hay tránh gặp cô để có thể suy nghĩ đúng đắn.” Để tiết kiệm tiền trong khi đang cố gây dựng ngân quỹ cho trường học, Mortenson quyết định không thuê một căn hộ. Anh có khoảng không gian kho. Và băng ghế sau của chiếc La Bamba có kích thước của một chiếc ghế nằm. So với chiếc lều đơn sơ ở Baltoro, thì đó có vẻ là một nơi tiện nghi để ngủ. Anh tiếp tục là thành viên của City Rock để có thể tắm vòi sen cũng như để trèo lên vách, vì trong hầu hết mọi ngày anh đều leo trèo để giữ được vóc dáng. Mỗi đêm, anh đi quanh khu Berkeley, khu nhà kho ở bên vịnh, tìm một tòa nhà tối và yên tĩnh để có thể ngủ mà không bị quấy rầy. Quấn mình trong túi ngủ, hai chân duỗi thẳng ra trên băng ghế sau của chiếc La Bamba, anh thấy Marina lượn quanh trong những suy nghĩ của mình trước khi chìm vào giấc ngủ. Những ngày không làm việc, Mortenson viết dần dần hàng trăm bức thư. Anh viết cho từng thượng nghị sĩ Mỹ. Anh thường xuyên đến thư viện công cộng, lướt qua những tạp chí văn hóa pop mà anh sẽ không bao giờ đọc nếu không phải là để tìm tên các ngôi sao điện ảnh, các ca sĩ nhạc pop, và thêm vào bản danh sách cất trong chiếc túi dây kéo Ziploc. Anh chép lại các địa chỉ từ cuốn sách liệt kê một trăm người Mỹ giàu nhất. “Tôi không biết mình đang làm gì.” Mortenson nhớ lại. “Tôi chỉ giữ một danh sách bất cứ ai có vẻ như có quyền lực, hay nổi tiếng, hay quan trọng, và đánh máy thư gửi cho họ. Tôi đã ba mươi sáu tuổi và vẫn chưa biết cách sử dụng máy vi tính. Tôi vô dụng như vậy đó.” Một ngày kia, Mortenson đến cửa hàng sao chép Krishna và cửa hàng này bất ngờ đóng cửa. Anh đi sang cửa hàng khác gần nhất, Lazer Image trên đại lộ Shattuck, và hỏi thuê một máy đánh chữ. “Tôi nói với anh ấy, chúng tôi không có máy đánh chữ.” chủ cửa hàng Lazer Image, Kishwar Syed, nhớ lại. “Giờ là năm 1993, sao anh không thuê máy vi tính?” Và anh ấy nói với tôi rằng anh không biết sử dụng máy tính. Mortenson nhanh chóng biết rằng Syed là người Pakistan, đến từ Bahawal Puy, một làng nhỏ miền trung Punjab. Và khi Syed biết vì sao Mortenson muốn đánh máy những bức thư, anh ấy đã bảo Mortenson ngồi xuống trước một máy Apple Macintosh và dạy miễn phí cho đến khi người bạn mới của mình dùng được máy tính. “Ngôi làng ở Pakistan của tôi không có trường học, do đó tầm quan trọng của công việc mà Greg đang nỗ lực thực hiện là rất đáng quý đối với tôi.” Syed nói. “Động cơ của anh quá lớn lao khiến tôi có nhiệm vụ phải tận tình giúp đỡ.” Mortenson sửng sốt với những chức năng cắt dán và sao chép của máy tính. Anh nhận ra rằng mình có thể tạo ra ba trăm bức thư, vốn đã chiếm mất của anh nhiều tháng đánh máy, trong một ngày. Chỉ một ngày cuối tuần có cà phê trợ lực, với sự chỉ dẫn của Syed, anh đã cắt và dán lời kêu gọi gây quỹ của mình một cách say sưa cho đến khi đạt được mục tiêu năm trăm bức thư. Rồi anh sôi nổi hẳn lên, khi cùng Syed động não nghĩ ra một danh sách hàng chục người nổi tiếng, cho đến khi có được 580 lời kêu gọi. “Thật đáng ngạc nhiên.” Mortenson nói. “Một người đến từ Pakistan đã giúp tôi sử dụng máy tính để tôi có thể giúp những đứa trẻ ở Pakistan biết chữ.” Sau khi gửi những bức thư, Mortenson quay trở lại tiệm của Syed vào những ngày nghỉ và thực hành những kĩ năng máy tính mới học của mình, viết ra sáu mươi đơn xin trợ cấp để tìm kiếm ngân quỹ cho ngôi trường ở Korphe. Khi cùng nhau cúi người trên bàn phím, Mortenson và Syed đã bàn luận về phụ nữ. “Đó là khoảng thời gian đẹp và rất buồn trong cuộc đời chúng tôi.” Syed nói. “Chúng tôi thường nói về sự cô đơn và tình yêu.” Syed đã đính hôn với người phụ nữ mà mẹ anh chọn cho anh ở Karachi. Và anh đang dành dụm tiền tổ chức đám cưới trước khi đưa vợ sang Mỹ. Mortenson thú nhận mình phải lòng Marina và Syed đã vạch ra những chiến lược bất tận, nghĩ ra những cách mà bạn mình có thể mời cô ấy đi chơi. “Hãy nghe Kish.” anh ấy khuyên. “Anh đang già đi và anh cần có một gia đình. Anh còn chần chờ gì nữa?” Mortenson thấy như bị cóng lưỡi mỗi khi anh muốn mời Marina đi chơi. Nhưng những lúc rảnh rỗi ở trung tâm y tế USCF, anh bắt đầu kể cho Marina nghe những câu chuyện về Karakoram và những kế hoạch xây dựng trường học của mình. Cố không để bị lạc trong đôi mắt của người phụ nữ này, Mortensơn đã rút mình vào những kí ức khi nói chuyện. Nhưng khi anh nhìn lên, sau khi kể lại cuộc cứu hộ Etienne, những ngày lạc lối ở Baltoro, hay khoảng thời gian ở Korphe dưới sự chăm sóc của Haji Ali, đôi mắt của Marina bừng sáng lên. Và sau hai tháng với những cuộc trò chuyện như vậy, nàng đã kết thúc tình thế thê thảm của Mortenson bằng cách mời anh đi chơi. Sau khi trở về từ Pakistan, Mortenson sống khắc khổ như một thầy tu. Hầu như mọi ngày anh ăn sáng với suất ăn 99 cent - cà phê và bánh quai vạt - ở một tiệm bánh Campuchia trên đại lộ MacArthur. Thông thường anh không ăn gì cho đến bữa tối, khi đó anh lấp đầy cái bụng đói meo bằng món burrito với giá ba đôla ở một trong các quầy taquerias(10) ở khu thương mại Berkeley. Trong ngày hẹn hò đầu tiên của họ, Mortenson đã chở Marina đến nhà hàng hải sản bên bờ Sausalito và gọi một chai rượu vang trắng, nghiến răng vì cái giá của nó. Anh tự ném mình vào cuộc đời của Marina một cách chóng mặt, nhảy bằng cả hai chân. Marina đã có hai con gái trong cuộc hôn nhân trước, Blaise năm tuổi và Dana ba tuổi. Và Mortenson sớm cảm thấy gắn bó với chúng như đã gắn bó với mẹ chúng. Vào những ngày cuối tuần khi hai cô con gái ở lại cùng cha ruột, anh và Marina lái xe đến Yosemite, ngủ đêm trong chiếc La Bamba và leo lên những đỉnh núi như Cathedral Sprire suốt ngày cuối tuần. Khi hai con gái ở nhà, Mortenson đưa mọi người đến Indian Rock, một phong cảnh lộ thiên ngoạn mục ở Berkeley Hills, ở đó anh dạy chúng những điều cơ bản về việc leo vách đá. “Cảm giác như mình đột nhiên có một gia đình riêng.” Mortenson nói. “Gia đình mà tôi biết mình thực sự cần. Và nếu việc gây quỹ cho trường học diễn biến tốt hơn, tôi đã có thể hạnh phúc hoàn toàn.” Từ căn nhà mới của mình ở River Falls, Wisconsin, Jerene Mortenson đã lo âu theo dõi cuộc phiêu lưu của con trai. Sau khi hoàn tất chương trình tiến sĩ, bà được thuê làm hiệu trưởng trường tiểu học Westside. Jerene thuyết phục con trai đến thăm mình, trình chiếu hình ảnh và nói chuyện với sáu trăm học sinh ở trường của bà. “Tôi đang trong thời kì thực sự khó khăn với việc giải thích cho người lớn lí do tôi muốn giúp đỡ những học sinh ở Pakistan.” Mortenson nói. “Nhưng những đứa trẻ lại hiểu ngay. Khi nhìn thấy những bức hình, chúng không thể tin rằng có một nơi mà trẻ em ngồi ngoài trời trong thời tiết lạnh và cố gắng duy trì lớp học mà không có thầy giáo. Chúng quyết định phải làm gì đó cho chuyện này.” Một sáng sau khi trở lại Berkeley, Mortenson nhận được một bức thư của mẹ anh. Bà giải thích rằng học sinh của bà đã tự phát động phong trào “Những đồng xu cho Pakistan”. Gom đầy hai thùng một trăm năm mươi lít, chúng đã có được 62.345 xu. Khi gửi ngân hàng tấm ngân phiếu 623,45 đôla mà mẹ gửi kèm, Mortenson cảm thấy như vận may cuối cùng đã đổi chiều. “Những đứa trẻ đã thực hiện bước đầu tiên hướng về việc xây dựng ngôi trường.” Mortenson nói. “Và chúng thực hiện điều đó với một thứ gần như không có giá trị gì trong xã hội của chúng ta - những đồng xu. Nhưng ở nước ngoài, những đồng xu có thể dời núi.” Những bước đi khác đến quá chậm, sáu tháng đã trôi qua từ khi Mortenson gửi đi 580 bức thư đầu tiên và cuối cùng anh chỉ nhận được một thư trả lời. Tom Brokaw, như Mortenson, là một cựu sinh viên đại học Nam Dakota. Khi còn là những cầu thủ bóng bầu dục, họ đều được huấn luyện bởi Lars Overskei, điều này đã được anh viết rõ trong bức thư ngắn của mình. Brokaw gửi tấm ngân phiếu một trăm đôla và một bức thư ngắn chúc anh may mắn. Và dần dần từng lá thư một từ những quỹ tài trợ như những nhát búa đập vào niềm hi vọng của anh, báo với anh rằng mười sáu lá thư xin tài trợ của anh đều đã bị từ chối. Mortenson đưa bức thư ngắn của Broklaw cho Tom Vaughan xem và thú nhận những nỗ lực gây quỹ của anh đang tiến triển tồi tệ như thế nào. Vaughan là người ủng hộ cho Quỹ Himalaya Mỹ và quyết định thử xem tổ chức này có thể giúp gì không. Ông đã viết một bài ngắn về chuyến leo núi K2 của Mortenson và những nỗ lực của anh để xây dựng một ngôi trường cho Korphe, được in trên bản tin của AHF. Và ông nhắc nhở các thành viên AHF, nhiều người là những nhà leo núi xuất sắc của Mỹ, về di sản của Sir Edmund Hillary ở Nepal. Sau khi chinh phục đỉnh Everest với Tenzing Norgay vào năm 1954, Hillary thường xuyên quay lại thung lũng Khumbu. Và ông đã tự đặt cho mình một nhiệm vụ mà ông mô tả là còn khó hơn leo lên đỉnh ngọn núi cao nhất thế giới - xây dựng trường học cho các cộng đồng nghèo người Sherpa, những người khuân vác đã làm cho chuyến leo núi của ông có thể xảy ra. Trong quyển sách về những nỗ lực nhân đạo của mình năm 1964, Schoolhouse in the Clouds, Hillary đã nói với cái nhìn tiên tri về những nhu cầu của các dự án hỗ trợ ở những nơi nghèo nhất và xa xôi nhất trên thế giới. Những nơi như Khumbu và Korphe. “Chậm chạp và đau đớn, chúng tôi đang nhìn thấy sự chấp nhận của thế giới trước sự thật rằng các quốc gia giàu có hơn và tiến bộ hơn về kĩ thuật phải có trách nhiệm giúp đỡ các quốc gia chưa phát trriến.” ông viết. “Không chỉ bởi ý nghĩa từ thiện mà còn bởi chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể hi vọng nhìn thấy hòa bình vĩnh viễn và an ninh cho chính chúng ta.” Nhưng theo một ý nghĩa, con đường của Hillary dễ dàng hơn hẳn cuộc tìm kiếm viển vông của Mortenson. Chinh phục được đỉnh núi cao nhất hành tinh, Hillary đã trở thành một trong những người nổi tiếng nhất trên thế giới. Khi ông tiếp xúc những nhóm người giúp lập quỹ cho nỗ lực xây dựng trường học, họ đều tranh nhau hỗ trợ cho “Đội xây dựng trường học Himalaya” của ông. Sách Bách khoa Thế giới đăng kí làm nhà tài trợ chính, cung cấp cho Hillary 52.000 đôla vào năm 1963. Và Sears Roebuck, gần đây đã bắt đầu bán những chiếc lều và túi ngủ mang thương hiệu Sir Edmund Hillary, đã trang bị cho đoàn và gửi một đội quay phim để ghi lại công việc của Hillary. Nhiều nguồn tài trợ khác được tích lũy khi những đại diện của Hillary bán bản quyền phim và báo chí châu Âu, và thu được khoản tạm ứng cho một quyển sách về chuyến thám hiểm trước khi Hillary lên đường đi Nepal. Mortenson không chỉ thất bại trong việc lên đỉnh K2, anh đã trở về nhà trong túng quẫn. Và vì lo ngại sẽ làm hỏng mọi chuyện nếu dựa quá nhiều vào Marina, anh vẫn tiếp tục trải qua hầu hết những đêm trên chiếc La Bamba. Anh bắt đầu bị cảnh sát chú ý. Và họ dựng anh dậy giữa đêm bằng đèn pin, khiến anh phải chạy vòng vòng kiếm chỗ ngủ quanh Berkeley Flats, nửa thức nửa tỉnh trên tay lái tìm những điểm đậu xe để cảnh sát không tìm thấy trước khi trời sáng. Gần đây, Mortenson cảm thấy có một sự rạn nứt đang phát triển với Marina về chuyện tiền bạc. Việc ngủ trên chiếc La Bamba trong những chuyến leo núi cuối tuần rõ ràng đã mất đi sức hấp dẫn đối với cô. Anh đã xử lí một cách kém cỏi khi, vào một buổi tối lạnh mùa xuân, trên đường họ đến Yosemite, cô gợi ý xài sang và nghỉ tại khách sạn Ahwahnee nổi tiếng, một viên ngọc kiến trúc kiểu đồng quê miền tây thời nội chiến. Chỉ một ngày cuối tuần tại Ahwahnee sẽ tốn một khoản xấp xỉ bằng tất cả số tiền mà anh đã gom góp được đến lúc đó cho ngôi trường. Sau khi Mortenson từ chối thẳng thừng, ngày nghỉ cuối tuần của họ trong chiếc xe hơi ẩm ướt đã sục sôi với sự căng thẳng ngấm ngầm. Vào một ngày lạnh, đầy sương mù đặc trưng vào mùa hè ở San Francisco, Mortenson đến cho một ca làm việc và Tom Vaughan đưa cho anh một trang giấy xé ra từ quyển sổ ghi toa thuốc của mình. “Người này đọc về anh trên bản tin và gọi cho tôi.” Vaughan nói. “Ông ta là một nhà leo núi và một kiểu khoa học gia gì đó. Ông ta cũng khỏe mạnh, thẳng thắn như một công nhân. Ông ta hỏi tôi liệu anh có phải là một anh chàng chơi ma túy sẽ tiêu phí hết tiền của ông không. Nhưng tôi nghĩ ông ta giàu có. Anh nên gọi cho ông ta.” Mortenson nhìn tờ giấy. Trên đó ghi “Tiến sĩ Jean Hoerni” kế bên là một số điện thoại ở Seattle. Anh cảm ơn Vaughan và nhét mẩu giấy vào túi trên đường đến phòng cấp cứu. Ngày hôm sau, ở thư viện công cộng Berkeley, Mortenson tìm tên tiến sĩ Jean Hoerni. Anh ngạc nghiên vì tìm thấy hàng trăm mục từ, chủ yếu là trong những tờ báo về công nghệ bán dẫn. Hoerni là một nhà vật lí gốc Thụy Sĩ có học vị ở Cambridge. Cùng một nhóm nhà khoa học California, tự gọi mình là “Tám kẻ Phản bội” sau khi rời bỏ phòng thí nghiệm của nhà khoa học được giải Nobel nhiều tai tiếng William Shockley, ông đã phát minh ra một loại mạch tích hợp mở đường cho con chip silicon. Một ngày kia, trong khi đang tắm vòi sen, Hoerni giải được bài toán làm thế nào để chứa thông tin vào một mạch. Quan sát nước chảy thành từng dòng nhỏ trên hai bàn tay mình, ông nêu giả thuyết rằng silicon có thể được ghép lớp theo cách tương tự vào một mạch dẫn, làm tăng rất nhiều diện tích bề mặt và công suất của mạch. Ông gọi đó là “quy trình mặt phẳng” và đã đăng kí phát minh đó. Hoerni, người mà vinh quang cũng bằng với tính tình kì quái, cứ sau vài năm lại nhảy từ chỗ làm này sang chỗ làm khác, luôn luôn đối đầu với những đối tác kinh doanh. Nhưng trên con đường sự nghiệp đáng nể của mình, ông đã thành lập hơn nửa chục công ty mà sau cùng, khi ông ra đi đều lớn mạnh thành những công ty khổng lồ như Fairchild Semiconductors, Teledyne và Intel. Lúc Hoerni gọi cho Vaughan để thăm dò về Mortenson, ông đã bảy mươi tuổi và tài sản cá nhân của ông đã phát triển đến hàng trăm triệu đôla. Hoerni cũng là một nhà leo núi. Khi còn trẻ, ông đã nỗ lực leo lên Everest và những đỉnh núi khắp năm châu. Với cơ thể dẻo dai như đầu óc của mình, ông đã từng sống sót qua một đêm lạnh trên núi cao, bằng cách nhồi giấy báo chiếc túi ngủ của mình. Sau đó ông viết một bức thư cho ban biên tập của tờ Wall Street Journal, ca ngợi “đây là tờ báo ấm nhất từng được phát hành.” Hoerni đặc biệt yêu thích Karakoram, nơi ông đã trải qua một chuyến đi vất vả, và nói với bạn bè rằng ông bị sốc bởi sự khác biệt giữa khung cảnh núi non tuyệt đẹp và cuộc sống thô thiển của những phu khuân vác người Balti. Mortenson đổi mười đôla thành những đồng hai mươi lăm xu và gọi cho Hoerni ở nhà ông tại Seattle từ máy điện thoại trả tiền của thư viện. “Xin chào,” anh nói, sau vài phút tốn kém trôi qua và sau cùng Hoerni đến bên điện thoại. “Tôi là Greg Mortenson, Tom Vaughan đã cho tôi số điện thoại của ông và tôi gọi vì…” “Tôi biết anh muốn nói gì.” một giọng nói sắc bén với giọng Pháp ngắt lời. “Hãy cho tôi biết, nếu tôi đưa tiền cho anh xây trường, anh sẽ không tiêu hoang ở một bãi biển nào đó tại Mexico, hút ma túy và làm tình với bạn gái chứ?” “Tôi...” Mortenson nói. “Anh nói sao?” “Không thưa ông, dĩ nhiên là không. Tôi chỉ muốn giáo dục bọn trẻ.” Anh phát âm chữ “giáo dục” với giọng điệu chất phác miền trung tây mà anh luôn sử dụng cho từ ưa chuộng của mình. “Giáo... dục”. Ở Karakoram, chúng thật sự cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ở đó chúng khá gian khổ.” “Tôi biết.” Hoerni nói. “Tôi đã ở đó năm 74, trên đường đến Baltoro.” “Ông đến đó cho một chuyến leo núi hay với...” “Vậy nói chính xác, ngôi trường của anh tốn hết bao nhiêu?” Hoerni vặn lại. Mortenson cho thêm những đồng hai mươi lăm xu vào điện thoại.