🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bà chúa thuốc độc Ebooks Nhóm Zalo Người Thứ 8 Bà Chúa Thuốc Độc Đánh máy: kimbao13 Nguồn: Thiên Thai Ebook: hitman2330 Lời Giới Thiệu: Người Thứ Tám tên thật là Bùi anh Tuấn (1925-?) sinh trưởng ở đất Bắc (tỉnh Thanh Hóa – vùng địa đầu xứ Trung Kỳ). Thời ở tuổi vừa ngoài 20, Nhật hạ Pháp qua cuộc đảo chính 9/3/1945, Phong trào Việt Minh nổi lên, và cướp chính quyền trong tay Thủ Tướng chính phủ Trần Trọng Kim đặt dưới quyền lãnh đạo tối cao của nhà Vua Bảo Đại, thì Bùi anh Tuấn đã là một đảng viên VNQDĐ. Ông lao mình tham gia các hoạt động chống lại VM. Kịp đến lúc tiếng súng mở đầu cuộc chiến tranh Việt – Pháp ngày 19/12/1946, Bùi anh Tuấn bị Ban Trinh Sát (tức Công An-Mật Vụ CS theo tên gọi bây giờ) nhận diện, bắt, và đưa đi an trí tại trại giam Đầm Đùn thuộc tỉnh Thanh Hoá (Liên khu IV), nổi tiếng là địa ngục trần gian, đã vào đây khó có ngày về. Chốn ngục tù hãi hùng này là nơi giam hầu hết các anh em đảng phái QG chống lại CS Việt Minh. Cũng như vài năm sau số mệnh lại cho ông có cơ hội thoát ngục trong đường tơ kẽ tóc. Bùi anh Tuấn lần mò về Hà nội, rồi vào Nam . Trong những năm, tháng bị an trí ở Đầm Đùn, ông có duyên may gặp một bạn tù đã ở vào tuổi trung niên. Thời Pháp thuộc, ông này dạy Anh văn ở Lycée Louis Pasteur Hà nội. Nay trong thân phận tù đầy, để cố quên mà tồn tại, mà sống, ông dạy Anh ngữ cho Bùi anh Tuấn. Học cho qua ngày. Nhưng sau này, nhờ vậy, Bùi anh Tuấn có sẵn số vốn cần thiết về ngôn ngữ Hoa Kỳ khi người Mỹ thoạt đặt bước vào Miền Nam (Trước kia đại đa số người Việt 3 miền Trung Nam Bắc chỉ biết có tiếng Pháp). Năm 1957 "Điệp viên Miền Nam trên đất Bắc" ra mắt lần đầu tiên trên tờ nhật báo Dân Chúng. Và trong 3 năm liên tục, nhiều cốt truyện Gián điệp Z. 28 đã được đăng tiếp (sau đó mới in thành sách), đem lại biết bao sôi nổi, hào hứng cho nhiều từng lớp độc giả thân mến. Với hàng triệu độc giả, sau hơn 50 cuốn truyện đã xuất bản, với địa vị mỗi ngày một củng cố sau gần 20 năm tung hoành trên trường văn gián điệp, Người Thứ Tám đã phá kỷ lục về số lượng người đọc và về số lượng tác phẩm xuất bản được ưa chuộng. Chương 1 Quyển Thượng CHIẾC PHI CƠ TỐI MẬT Đèn vũ trường vụt tắt. Một ngọn đèn pha lớn chiếu lên cái bục gỗ hình vuông kê sát tường, mọi cặp mắt đều đổ dồn vào cô gái da trắng vừa hiện ra, mỉm miệng cười một cách đĩ thõa. Nàng mặc bộ xiêm y bằng nhung đỏ, may bó lấy mình, làm nổi bật cái mông tròn và bộ ngực nhọn hoắt. Giàn nhạc Phi luật tân bắt đầu bản tăng gô nhẹ nhàng, và trên sân khấu người đẹp ưỡn ngực, múa nhảy theo điệu nhạc. Trung úy Thao La vồ ly sâm banh trên bàn nốc cạn một hơi hết sạch. Từ nãy đến giờ, mới có ba mươi phút, y đã cạn hai chai sâm banh thượng hạng, loại Mum xọc đỏ. Mọi người đều nín thở khi thấy cô gái cởi áo ngoài, để lộ thân hình đều đặn, trắng như sữa, như Thao La ngồi quay lưng lại, không thèm để ý tới trò thoát y đang diễn tới hồi gay cấn nhất. Không phải y ghét đàn bà, vì trong số sĩ quan Lào trẻ tuổi ở thủ đô Vạn Tượng, y nổi tiếng là vua họp đêm, song đêm nay y còn nhiều việc quan trọng phải làm. Thao La nhìn qua bản bẻn. Đại úy Kham Sen đã gục đầu trên đống vỏ chai hỗn độn, rượu húyt ky ướt mẻm cổ áo, một cô gái mặc bikini màu đỏ_màu đỏ máu rợn người quen thuộc của tiệm nhảy Yêu Đương – ôm ghì lấy y, như sợ tình nhân tan thành nước. Thượng sĩ Kông cũng say bí tỉ, càng say y càng uống nhiều đến nỗi y đổ cả ly rượu đầy ấp vào túi áo mà không biết. Kham Sen, Kông và Thao La là nhân viên phi hành chiếc máy bay AN 2 của sở Mật Vụ Lào quốc. Từ bốn ngày nay, bộ ba được lệnh ở lại trong phi trường Vạt chai, để chờ công tác. Những đêm nào cả bọn cũng kéo xuống phố, rủ nhau vào khu thanh lâu gần Chợ Mới để uống rượu và chơi bời thỏa thích. Máy bay AN-2 thường đảm nhiệm công tác mật như thả gián điệp xuống vùng biên giới nên nhân viên phi hành đều là những tay chuyên nghiệp, giầu kinh nghiệm, và được tin cậy. Mọi lần, cả bọn chỉ được nửa giờ sửa soạn trước khi nổ máy. Nhưng lần này, bộ ba lại được báo tin trước một ngày. Đại úy chỉ huy Kham Sen không biết đi đâu, song Thao La lại biết. Cho nên y uống rượu rất nhiều mà vẫn tỉnh. Y phải tỉnh để giữ vai trò chủ động. Cô gái tròn trịa và khêu gợi trên bục gỗ Lúc tiếng vỗ tay vang lên như sấm, không át nổi tiếng ly chén bị đập vỡ loảng xoảng và tiếng kêu la bít bít của bọn đàn ông bị kích thích cực độ, nhất là tiếng hít hà thèm muốn của những ông nhà giầu bụng phệ trốn vợ đi xem thoát y, ngồi thu mình trong góc. Thao La móc túi lấy xì-gà. Y chắt lưỡi ra vẻ bực bội vì quẹt máy hết ga. Nếu là quẹt máy thường y đã nhún vai ném qua cửa sổ vào vũng bùn ngoài sản, nhưng đây lại là quẹt máy bằng vàng thật, 24 ca-ra, mua giá rẻ ở Hồng Kông cũng phải gần năm chục đô la. Một chiếc xe díp thắng gấp ngoài đường. Thao La xô ghế đứng dậy. Hai người mặc thường phục, áo chim cò bỏ ngòai quần che khẩu súng giắt ở thắt lưng, mở cửa bước vào. Thao La vỗ vai đại úy Kham Sen. Viên đại úy phi công đứng dậy như lò xo. Thượng sĩ Kông cũng đứng lên theo. Chẳng nói chẳng rằng, họ bước ra ngòai. Gió mát quạt vào mặt làm họ tỉnh rượu. Một người mặc thường phục nói nhỏ với Kham Sen: - Mời đại úy về gấp. Kham Sen ưỡn ngực: - Đi ngay bây giờ hả? Người kia đáp: - Vâng, đi ngay bây giờ. Đúng 1 giờ, cất cánh. Kham Sen cúi nhìn đồng hồ. - 12 giờ 35. Còn 25 phút nữa. Đã trèo lên xe, chợt nhớ chuyện gì, Thao La vội nhảy xuống, giọng hối hả: - Chết chửa. Quên cái ví. Đợi hai phút, tôi ra liền. Thật ra, cái ví cá sấu của y vẫn còn nguyên trong túi quần sau. Vốn cẩn thận, y ít khi quên đồ, nhất là quên đồ trong những nơi ăn chơi. Y giả vờ quên ví để có thời giờ làm tròn một chỉ thị quan trọng. Viên chủ tiệm nhảy đã chở Thao La dưới bức tranh thiếu nữ khỏa thân, gần quầy rượu. Đó là một người đứng tuổi, trán hói, lẫn râu mép mỏng dính không che nổi hàm răng thưa nham hiểm, cặp mắt dài, và nhọn như phát ra tia lửa sau lần kiếng cận thị dày cộm. Y nheo mắt nhìn Thao La một cách ý nhị. Bỗng một vũ nữ người Việt bá cổ Thao La, nũng nịu: - Anh Thao La, đồng hồ Omêga của em đâu? Nói xong, nàng hôn lấy hôn để vào má Thao La. Gã chủ trán hói xô ra, giọng tức tối: - Cút đi. Người ta đang bận. Cô gái bị đẩy mạnh, ngã chùi vào chai rượu vừa mở nút. Nàng rú lên như con heo bị chọc tiết. Thao La đặt bàn tay lên vai gã chủ, nói nhỏ nhưng rõ ràng: - Một giờ đêm. Đúng một giờ đêm. Không đợi gã chủ trả lời, Thao La quay ngoắt ra xe. Chiếc díp mở pha sáng quắc, phóng vun vút trên con đường ngoằn ngoèo, lầy lội, dẫn ra phi trường. Dáng điệu khinh bỉ, gã chủ nhổ bãi nước bọt vào ngực cô gái đang lồm cồm bò dậy. Bồi bưng tới một ly huýt ky lớn, y nốc một hơi, rồi chùi mép, khập khiễng vào nhà trong. Y có một chân gỗ nên mỗi khi trở trời thường đau buốt ở đùi và đi khập khiễng. Y mất một chân không phải ở mặt trận, vì trong đời y chưa từng đánh giặc, mà vì bị trúng đạn trong một chuyến buôn lậu ghê gớm ở miền Bắc. Hồi ấy, Ai Lao còn là thuộc địa của Pháp, y chuyên buôn thuốc phiện từ Luang Prabang xuống Sài Gòn, cầm đầu một toán hộ tống gồm mười tay súng cừ khôi. Lần nào gặp lính đoan y cũng thoát, nhiều khi dùng tiền, song cũng nhiều khi dùng súng. Một số tuần viên biên giới đã bỏ mạng trước khẩu súng « mút » ba phát, bà trúng của y. Nhưng một đêm tối trời vào năm 1944, trời mưa như xối nước, đoàn công voa đang vượt rừng Saravane thì bị lọt ổ phục kích của quan thuế. Y bị thương ở chân, hàng hóa mất sạch, và trong nhiều ngày một mình với khẩu súng hết đạn y trốn trong thạch động giữa đoàn dơi khổng lồ khát máu người và bọn rắn lục kinh hồn. Một lần nữa, y thoát chết, nhưng phải cưa chân. Y bị xử tử khiếm diện. Chính phủ bảo hộ ra đi, y trở về Lào, đổi họ đổi tên, đóng vai trò chủ tiệm nhảy, tiếp tục cuộc đời buôn lậu, cho đến ngày y được QTĐV để ý tới. QTĐV là tên tắt của Quốc tế Đặc vụ, một tổ chức tư nhân gồm những tay trùm sát nhân và buôn lậu chuyên nghiệp từng làm mưa làm gió khắp năm châu. QTĐV đặt y làm đại diện liên lạc tại Vạn tượng. Đèn điện tắt ngủm. Vũ nữ thoát y lại lên sân khấu. Gã chủ kéo riềm, mở cánh cửa khóa chặt ăn thong với phòng làm việc riêng của y. Đó là một căn phòng nhỏ hình chữ nhật, không cửa gỗ, suốt ngày đêm máy lạnh chạy rè rè. Kê sát góc là cái tủ két lớn sơn xanh, bên cạnh cái bàn bầu dục để đầy sổ sách. Y mở két, lấy ra một cái hộp nhỏ. Bên trong là cái máy truyền tin tí hon, nhưng rất mạnh, có thể đánh xa ba trăm cây số, không phương pháp điện tử nào khám phá ra được. Y cắm điện vào tường, chờ ngọn đèn trong máy phựt màu xanh rồi nhìn đồng hồ. Y lẩm bẩm một mình: - Hừ, hai triệu đô la… Y ngồi xuống bàn, hí hoáy đích bức mật điện. Xong xuôi, y ấn cái nút «thâu băng» trên điện đài, rồi ngón tay thoăn thoắt lướt trên đĩa quay số. Một phút sau, bức điện được chuyển đi. Nội dung của nó như sau: QT 06 gởi Trung ương, chiến dịch Hoa Phong Lan. AN-2 cất cánh đúng một giờ đêm stop. Mọi việc đã xảy ra đúng với dự tính stop. Yêu cầu cho chỉ thị để thực hiện kế hoạch Hoa Hồng. Y mỉm cười khoái trá. Trong vòng nửa giờ, Trung ương sẽ trả lời. Y tắt đèn, ngả mình vào ghế bành, mắt lim dim. Bên ngoài, trời lạnh đổ mưa. Như con diều giấy, chiếc phi cơ hai cánh AN-2P do Nga sơ chế tạo cất cánh nhẹ nhàng khỏi phi trường Vạt Chai. Bề ngoài nó hao hao như chiếc « bà già » cũ kỹ của Pháp, sự thật nó là một trong những khinh cơ tối tân ra đời năm 1947, sau thế chiến thứ hai, dưới tên SKh-1 tại Mạc tư khoa. Phi cơ rướn mình vào không gian mù tịt. Theo đúng chỉ thị, đại úy Kham Sen lên tới độ cao 7 ngàn thước thì bay ngang. Lúc ấy, y đã hoàn toàn tỉnh rượu. Y phá lên cười vì sực nhớ tới lời của đại tá tư lệnh tại phi trường. Xe díp vừa đậu lại thì bộ ba được đưa ngay tới phòng hành quân, bên ngoài linh gác trùng điệp. Trong văn phòng sáng trưng, Kham Sen gặp đại tá tư lệnh, một sĩ quan không bao giờ cười. Lần thứ nhất, đại tá cười: - Chào Kham Sen. Tôi nghe người ta nói tới đại úy từ lâu. Nghe nói đại úy là vua rượu. Và càng uống rượu, càng lái giỏi phải không? Cả bọn đứng nghiêm không đáp. Đại tá tư lệnh tiếp: - Tôi thân hành tới đây để giao cho các anh một công tác quan trọng, vô cùng quan trọng. Có thể nói là quan trọng nhất từ xưa tới nay. Ba anh có nhiệm vụ chở một thùng chứa dụng cụ quốc phòng tới Đà Nẵng, dưới đó nhân viên sứ quán ta đang chờ đợi. Tôi đã cho sơn lại phi cơ không ghi quốc tịch cũng như số hiệu. Các anh cới bỏ quân phục lại đây và mặc đồ bay thường. Mọi đồ đạc tùy thân, từ căn cước, tiền bạc, thuốc lá, tới cuống vé xi-nê cũng phải bỏ lại. Tóm lại, các anh chỉ đi người không, để nếu gặp tai nạn, người ta không thể biết các anh ta là ai. Bàng bất cứ sự hy sinh nào, các anh phải mang các thùng tới Đà Nẵng. Chẳng may vì lẽ gì các anh phải hạ cánh dọc đường – điều tôi tin là không thể xảy ra – đại úy Kham Sen phải cho nổ tung phi cơ. Một hộp sắt được gắn sẵn vào nắp thùng, bên trong chứa chất nổ cực mạnh, chỉ cần đặt ngòi và vặn đồng hồ. Về cách thức, các anh đã biết. Tôi cần báo các anh biết là chất nổ này sẽ làm phi cơ tan như cám, và phá hủy mọi vật trong đường kính hai trăm thước. Không quân ta sẽ theo dõi các anh trên màn radar và bố trí sẵn kế hoạch tiếp cứu. Sang tới biên giới, một đội khu trục sẽ hộ tống các anh tới địa điểm. Các anh cần hỏi điều gì nữa không? Không ai hỏi gì. Bộ ba lẳng lặng nhìn nhân viên mật vụ dùng cần chuyển lên phi cơ một cái thùng bọc thép khá nặng, hình vuông, mỗi bề một thước rưỡi. Phi cơ đã rời Vạn Tượng được nửa giờ, châm thuốc hút, Kham Sen nói với hai bạn: - Rõ buồn cười. Tại sao không kiếm cái Mig bay nhanh gấp ba con rùa này lại có cả đại liên phòng thân? Loại AN-2P bay được 250 cây số một giờ, người ta nhắm mắt cũng có thể bắn rớt. Thao La cười: - Anh lầm rồi. Trên thực tế, bọn mình bay trên một trăm chuyến trong vùng cộng sản, thả xuống biết bao biệt kích và võ khí mà Pathét không bắn rơi nổi. Vì sao? Vì phi cơ AN-2 nhẹ, để lẩn tránh, anh lại là hoa tiêu đại tài. Còn một điều nữa, khá quan trọng: đó là sự tin cậy. Trong không quân, đang có người của hoàng thân Suphanuvong. Chở dụng cụ tối mật trên phi cơ Mig để rồi các ông ấy đáp xuống Khang Khay thì khốn! Cả bọn cười vang. Kham Sen ngáp dài: - Thèm rượu quá! Nếu biết giấu một chai trong người thì thú biết mấy? Thao La vỗ đùi đánh đét: - Ồ, cái đó khỏi lo. Tôi có một chai bacađi, thứ rom Cu-ba mà bọn mình vẫn thích nhậu ấy mà! Đợi một phút để tối khui. Kham Sen vặn mấy « hoa tiêu tự động » cho phi cơ bay một mình. Dáng điệu trịnh trọng, Thao La rót rượu vào ba cái ly giấy. Vội vã, Kham Sen và Kông cướp lấy nốc cạn. Thao La không uống, và lại tiếp them cho bạn. Nhưng cả hai không kịp uống ly thứ hai nữa. Bủn rủn tay chân, Kham Sen nhìn Thao La bằng cặp mắt mất thần. Trong nháy mắt, hắn gục xuống cầm lái. Khỏe hơn, Kông vịn tay vào ghế, định đứng dậy, trên mặt hiện rõ vẻ tức giận kinh khủng. Mắt hoa lên, màu đen, màu đỏ hóa thành muôn ngàn con đom đóm bay lượn, mạch máu đập rần rần bên thái dương, Kông thu tàn lực vào cánh tay gân guốc, định quật cho Thao La một cái. Kông là đai nâu nhu đạo, đủ tài giết người như lấy đồ trong túi, song cánh tay bỗng nặng chĩu như đeo quả tạ ngàn cân. Tuy vậy, hắn cũng thét lên được: - Thao … La, mày giết chúng tao. Mày là … Thao La rú lên cười, cái cười rùng rợn của kẻ giết người không sợ máu: - A, a, mày còn tỉnh ư? Để tao nói cho mày rõ, tao là nhân viên QTĐV, kẻ thù của chúng mày. Kông thều thào: - QTĐV? Cái thi thế, tao không biết. -Đó là một tổ chức quốc tế, chuyên giết người thuê, làm gián điệp thuê, buôn lậu thuê. - À ra thế! Mày không giết nổi tao đâu. Tao sẽ liều một trận sống mái với mày. Phi cơ mất thăng bằng, cả mày lẫn tao đều chết. Biết đâu, tao sẽ sống sót. - Con ơi, đừng mơ mộng nữa. Loại thuốc độc mà con vừa uống được lấy từ con Latrodes-tus mactans mà ra. Chắc con không hiểu được danh từ khoa học bí hiểm ấy, nên cha giải thích cho con nghe. Đó là một con nhện ở miền tây mỹ châu, tục gọi là Góa phu Nhện đen, vì nó màu đen, thích ở góa, giao cấu xong là ăn thịt luôn con nhện đực. Góa phụ Nhện đên chỉ lớn bằng nửa đốt tay, có tám chân và đầy thuốc độc. Bị chích vào thì khỏe như trâu cũng chết. Đặc biệt là thuốc độc này làm tê liệt thần kinh. Kông ơi, tao thành thật khen ngợi mày… Kông quắc mắt như muốn ăn tươi nuốt sống kẻ thù. Nhưng độc dược đã ngấm sâu vào máu. Hắn khựng mình, rồi ngã vật sang bên. Thao La nhìn đồng hồ. Hắn nói một mình: - Đang còn sớm chán. Đoạn ngồi xuống ghế hoa tiêu của đại úy Kham Sen. Đột nhiên, hắn cảm thấy khỏe hẳn lên. Hồi còn đi học, hắn đã được thầy giáo đặt tên là quỷ sứ. Quỷ sứ, không phải vì hắn nghịch ngợm quá trớn mà chính vì tâm địa lạ lùng của hắn. Lớn lên, không giật được mảnh bằng nào nhưng vẫn sinh sống phè phỡn, vẫn có đủ tiền thay gái như thay áo lót, đủ tiền uống sâm banh Mum như người ta uống nước lã. Nhiều tiền đã là cái lợi đối với đàn ông chơi gái, Thao La còn cái lợi khác: thân hình và dáng dấp quyến rũ. Hắn cao thước bảy, bề cao khác thường đối với người Lào, nước da lại không bánh mật như người Lào mà là phơn phớt trắng, cái trắng gợi cảm của phương tây, thân hình lực lưỡng cân đối, sức khỏe luôn luôn thừa thãi để làm vừa ý những cô gái dài hơi và tham lam nhất thế giới. Khó tính đến mấy cũng phải trầm trồ khen ngợi cặp mắt đa tình biêng biếc, mờ tóc quăn nhẹ nhàng của một nhà thơ hiền lành, cái miệng vừa vặn, ươn ướt, dường như được nặn ra để hôn hít đàn bà, nhất là giọng nói duyên dáng, mặn mà, ai đã nghe nói một lần là phải đòi nghe nữa. Thời Pháp thuộc, Thao La làm chỉ điểm cho Phòng Nhi để bắt các nhà ái quốc. Phong trào kháng chiến nổi dậy, hắn chạy theo hoàng thân Suphanuvông để rồi theo phe hữu của tướng Phumi trước khi trung thành với thủ tướng trung lập Phuma. Không hiểu hắn có bùa phép nào mà làm biến được hồ sơ quá khứ bẩn thỉu trong các cơ quan an ninh, và tài tình hơn nữa là được sở mật vụ kết nạp và tin dùng. Mặc dầu kiếm tiền như nước, Thao La vẫn chưa đủ để bao gái vì ả nào cũng đòi xe Mét xê đét 220 S gắn máy lanh, đồng hồ Omega nạm hột soàn và những căn nhà lộng lẫy lót thảm nhung, phòng tắm cẩm thạch có gắn vòi nước bằng vàng, khi cần người đẹp có thể tắm sữa tươi hoặc nước Vit-ten pha nước hoa đắt tiền Đi-o. Túng thì phải tính, Thao La gia nhập tổ chức của gã chủ tiệm nhảy Yêu Đương. Tuy nhiên, lý do chính khiến Thao La giết bạn lấy tiền bắt nguồn từ một mối tình vụng trộm trong máu. Hắn lọt vào mắt xanh bà vợ trẻ một viên đại tá có quyền thế. Tuần trước, hắn hẹn nàng tới nhà riêng ân ái. Sau cuộc truy hoan, nàng tỏ ý trách hắn không chung thủy. Hắn nặng lời lại, cơn ghen của nàng nổi lên, nàng vớ lấy con dao xỉa vào ngực bắn. Trong phút tức giận, Thao La giằng lấy dao và đâm trúng tim nàng. Gần sáng, hắn đào lỗ, chôn nàng trong nhà xe. Sớm muộn, người ta sẽ phăng ra nên hắn quyết định trốn khỏi Vạn Tượng. Và hắn nhận lời hạ thủy đại úy Kham Sen, thượng sĩ Kông và lái máy bay, về một địa điểm bí mật gần Paksé, theo chỉ thị của QTĐV. Năm trăm ngàn đô-la! Đó là tiền thưởng hậu hĩ mà QTĐV giành cho hắn. Với nửa triệu mỹ kim, một thong hành giả, hắn sẽ vượt sang Thái và từ đó ung dung đi Thụy Sĩ, sống cuộc đời vương giả bên hồ Lê-man. Nghĩ tới đó, Thao La sướng run. Mấy ngày nữa, hắn sẽ tiếp tục uống rượu thả cửa, chơi gái thả cửa và đánh bạc thả cửa. Lâu lắm, hắn chưa được tham dự những canh bạc lớn. Hắn bỗng thấy nhớ nhung bầu không khí sặc mùi thuốc lá thơm và hoa hồng của các sòng bạc thượng lưu dọc bờ biển Pháp và vương quốc thần tiên Muan-co. Bất giác, Thao La cười to một cách khoái trá. Máy bay là là thấp xuống. Nền trời mượt như nhung, lấp lánh những ngôi sao kim cương. Phi cơ thấp cuống nữa. Bên dưới, khu rừng Paksé chạy dài trong bóng đêm trùng điệp, xa xỉ giống song Cửu Long uốn khúc như con rắn bạc. Thao La cho thấy phi cơ lượn vòng tròn. Hắn thoáng nhìn thấy ánh sáng. Hắn cúp ga xăng. Ba chấp đen hợp thành hình tam giác phía dưới làm dấu hiệu cho phi cơ đáp xuống. Bánh xe phi cơ hạ trên nền đất phẳng H. Trước kia, không quân hoàng gia sửa sang cánh đồng này để làm trường bay, song không rõ vì La đã thấy một bóng đen chạy lại, lập lòe đèn bấm. Hai dài, ba ngắn, Thao La lên tiếng: - Trăng thượng tuần phải không? Bóng đen dừng trước mặt Thao La: - Phải. Tôi đến để nhận hoa thược dược. Mật hiệu được trao xong. Thao La giục: - Nhanh lên, để tôi còn cất cánh. Độ mấy phút thì xong? Bóng đen đáp: - Năm phút. Thành thật ngợi khen anh. Bốn bóng đen khác vụt chạy tới. Cả bọn hì hục khiêng cái thùng thép trên phi cơ xuống, đặt lên xe díp, rồi lái đi, tiếng động cơ nổ ròn trong đêm vắng, át cả tiếng côn trùng rỉ rả. Xa xa, vọng lại tiếng đại bác ầm ầm. Chắc hẳn quân đội hoàng gia đang nã mọt chê vào chiến khu Pathét-Lào, Thao La ưỡn ngực, hít một hơi dài, như muốn thu hết khí trời trong sạch của cảnh rừng núi bao la vào lồng phổi chứa đầy chất nicôtia. Một bàn tay đeo găng chìa ra, Thao La hỏi, giọng băn khoăn: - Tiền và thòng bành của tôi đâu? Bóng đen đáp: - Anh quên rồi. Tôi chỉ có nhiệm vụ nhận đồ, còn tiền và thông hành thì anh phải bay sang bên kia sông. Thao La bàng hoàng như tỉnh mộng. Gã chủ tiệm nhảy đã dặn hắn kỹ càng giao hàng xong, hắn còn phải thủ tiêu phi cơ bằng cách bay dọc bờ đáp xuống sông. Một chiếc canô đã chờ sẵn và đưa sang đất Thái. Chỗ ấy xa làng mạc, nước lại sâu, nên rất thuận tiện để đánh chìm phi cơ, dổi tên, ngất ngưởng uống rượu trên một chiếc phản lực cơ thương mãi đi Thụy sĩ. Hắn không hiểu sao lại mất tinh thần và hỏi một câu ngớ ngẩn như thế. Hắn lắp bắp như cậu học trò không thuộc bài: - Ừ nhỉ, xin lỗi anh, tôi quên. Bóng đen gằn giọng: - Anh không nên quên thì hơn Thao La định xin lỗi lần nữa – hắn vẫn còn thói quen xin lỗi nhiều lần về những chuyện không đâu – thì bóng đen đã rú lên cười sằng sặc, rồi đi khuất vào bụi rậm sương mù dầy đặc. Tiếng cười dài lê thê và nhọn hoắt như mũi dao của y sĩ giải phẫu đang xoáy sau vào óc hắn. Thao La rùng mình. Trong đời, hắn không sợ ai, không sợ gì hết, kể cả thần Chết, song lại sợ nhất phải lên bàn mổ. Hồi làm chỉ điểm cho Phòng Nhì Pháp, bắn rơi vào ở phục kích của phe ái quốc và lãnh một nắm đạn ghém vào lưng. Cuộc giãi phẫu diễn ra trong lều vải thắp đèn măng-sông. Nửa chừng, thuốc mê bị thiếu. Hắn phải nghiến răng chịu đau suốt một giờ. Một giờ đồng hồ dài giằng dặc, đầy nguy hiểm như con đường từ Vạn Tượng lên miền thượng Lào. Phi cơ từ từ rời khỏi cánh đồng trống. Để xua đuổi những kỷ niệm tê buốt ra khỏi tâm trí, hắn cao giọng hát một bài giật gân. Đó là bài ca ruột của cô ả người Hy lạp chuyên cởi quần áo mỗi đêm tại tiệm nhảy Vieng Ratry. Hơn một lần, hắn lẻn vào phòng cô ả tán tỉnh, và hơn một lần hắn thất bại nặng nề. Nàng không hất hủi hắn mà chỉ nói một câu ngắn ngủi, giản dị mà chủ màn jạc xuống đô thị cũng hiểu: - Anh muốn yêu tôi ư? Không được đâu. Đêm nay, tôi trót hẹn với người khác rồi. Tôi chỉ có thể tiếp anh với một điều kiện: trả nhiều tiền hơn người ta. Nghe nàng nói, hắn lắp bắp: - Bao nhiêu? Nàng ung dung lắp điếu thuốc là Philip vào cái tẩu dài 25 phần bằng vàng 18 cara, đầu nạm hột xoàn, rồi nói: - Anh thấy không? Tẩu thuốc của tôi cũng nạm hột xoàn. Trong người tôi, cái gì cũng nạm hột xoàn như vậy. Đắt lắm anh ạ. Giá biểu thông thường là một ngàn đô-la. Muốn tôi bỏ hẹn, anh phải trả gấp ba. Ba ngàn đô-la. Không được thiếu một xăng-tim. Thao La thở dài. Không đào ra ba ngàn đô-la, hắn đành thui thủi ra về. Giờ đây. Hắn sẽ có tiền. Hắn có thể độc chiếm cô ả thoát y vũ hàng tháng giòng dã. Nhưng hắn không về Vạn Tượng, để tới Vieng Ratry được nữa. Chậc! Bên kia trời Tây có nhiều tiệm thoát y vũ, có nhiều vũ nữ thoát y hơn cái xô rừng mốc meo và hôi hám này. Máy bay lên cao. Thao La châm thuốc lá hút. Đột nhiên bàn tay hắn run run. Trong phòng hoa tiêu, hai người bạn đồng đội co quắp như sợ lạnh, mắt mở rộng trừng trừng nhìn hắn, hàm răng nhe ra ghê rợn, kẹp chặt cái lưỡi tím ngắt và cứng đét. Toàn thân hắn bắt đầu run như bị động kinh. Tuy nhiên, Thao La run run không phải vì sợ. Trong đời, hắn đã giết người nhiều lần rồi. Đã có lần, hắn thản nhiên ném một hài nhi vào đống lửa đỏ để khỏi nghe tiếng khóc oa oa bực mình. Giết đứa bé xong, hắn thản nhiên khui thịt hộp ra ăn một cách ngon lành, và sau đó hắn kéo giấc ngủ đến sáng. Tại sao đêm nay Thao La lại run run? Toàn thân đang ớn lạnh bỗng nóng hẳn lên, bờ hôi toát ra đầm đìa. Linh tính vừa báo hắn một việc chẳng lành. Hắn loạng choạng đứng dậy. Như von thú trong rừng, đánh hơi thấy nguy hiểm, Thao La nghếch mũi về phía sau phi cơ. Hắn vừa thoáng ngửi một mùi lạ. Mùi khét. Óc hắn nghĩ nhanh như máy. Hắn chỉ kịp kêu lên một tiếng « trời ơi », rồi một tiếng nổ kinh hồn phát ra. Thao La bị tan thành mảnh vụn. Tội nghiệp cho gã hám tiền! Mua một trái bom, gài trên chiếc AN-2P cho phi cơ nổ tung, còn rẻ hơn số tiền năm trăm đô-la và giấy thông hành mà QTĐV phải giao cho trung úy Thao La khi hoàn thành công tác. Bên dưới, dòng sông Cửu Long cuộn sóng ào ào. Chương 2 HUNG THỦ CỤT TAY Hai giờ sáng. Nếu là thành phố khác thì ngủ lâu rồi, song Vạn Tường lại là thủ đô sống về đêm nên toàn thể xóm ăn chơi đều thức, dường như không thèm đếm xỉa tới tiếng đại bác và liên thanh nổ liên hồi. Ngoài đường – những con đường đất đỏ lầy lội hoặc trải đá dăm khắp khểnh, chạy ngoằn ngoèo giữa khu nhà tranh lụp xụp hoặc bãi trống hun hút – ánh đèn tối bao nhiêu, thì trong tiệm nhảy, nhà chứa và sòng bạc, lại sáng bấy nhiêu. Và giờ đây, sòng bạc đường Ernest Outrey đã tới lúc sát phạt nhất. Căn gác rộng ngập đầy khói thuốc lá, năm cái máy lạnh Admiral được mở tới mức tối đa mà khí trời vẫn nóng hừng hực. Dưới nhà là quán ăn, uống rượu say sưa và thưởng thức xong những món ăn đắt tiền được chở từ Sài Gòn lên bằng phi cơ, khách có thể lên lầu, thức trắng đêm bên bàn tài xỉu, hoặc vén riềm vào buồng – một dãy buồng nhỏ xíu, xinh xắn, bên trong kê cái giường rủ màn tuyn, một tấm gương, một cái bàn trên để thau nước, hai khăn mặt và miếng xà bông thơm – để hú í với mấy cô gái bán tình người Thái, da ngăm ngăm, dai như đĩa đói. Khách chơi gồm đủ hạng người, nhưng phần đông đều là viên chức cao cấp và ngoại kiều. Đúng hai giờ năm phút, một người đàn ông, dáng điệu ngang tàng trèo lên lầu, sau khi uống ba ly vốt ka, pha mạc ti ni. Hắn mặc sơ mi ngắn bỏ ngòai quần, khuy áo trước ngực không gài, để lộ con rồng xanh xâm trên làn da nâu bóng. Hắn không gài nút ngực, phần nào để tỏ khí phách anh chị, song phần khác để dễ luồn tay vào trong rút con dao bấm, lưỡi sắc như nước, đeo lủng lẳng dưới nách trái, và khẩu súng lục dưới nách phải. Đó là khẩu Iver Johnson 55-3, nòng 22, báng mỏng tanh, trong như đồ chơi trẻ con mà bắn được tám phát, và dễ trúng đích. Hắn nhún vai khi một cô gái ưỡn ẹo tới bên, chìa thuốc lá ra cho hắn châm lửa. Nhiều mỹ nhân thích làm quen với hắn, song hắn không bao giờ để ý. Hắn giựt điếu thuốc ra khỏi miệng cô gái, ném xuống đất, dí giày lên trên rồi nói giọng hách dịch: - Không có lửa Cô gái há miệng ra định phản đối, nhưng đến khi nhận rõ ra hắn thì nín thing. Hắn thọc một tay vào túi quần, còn tay kia bị cưa đứt, khuất tòn ten trong áo sơ-mi. Cô gái rú lên một tiếng sợ hãi nho nhỏ: - Trời, Tư cụt. Gã Cụt nhe hàm răng cải mả ra cười. Phải, hắn là Tư Cụt, một tay dao bùa khét tiếng. Khệnh khạng, hắn tiến lại bàn tài xỉu. Chủ sòng, một người đứng tuổi, để râu mép theo kiểu Hít le, chào ồm ồm: - Anh Tư, tối nay đánh chứ? Gã Cụt nhìn đồng hồ tay: - Cám ơn, hôm nay bận. Biết tính Tư Cụt, chủ sòng lảng ra chỗ khác. Gã Cụt nghênh ngang vào phòng trong, nơi khách đổ bác ngồi uống rượu và tán gẫu với gái. Hắn kiếm ghế ngồi phịch xuống, ngoắt ta gọi bồi: - Mạc ti ni, vắt ít chanh, nghe không? Hắn lại nhìn đồng hồ lần nữa. Quái, đã tới giờ sao chưa thấy ai? Nhìn chung quanh, hắn chỉ thấy mấy đôi trai gái ngồi khít nhau, kẻ cấu véo, người hôn chùn chụt. Sát vào tường, một người đàn ông hói trán ngồi trầm ngâm bên chai buốc-bông đã cạn hơn nửa. Không, hắn không có hẹn với người này. Vì khẩu lệnh cho hắn rất rõ: đúng 2 giờ 10 phút, hắn sẽ gặp một người cầm mù soa tím. Người ấy sẽ giao việc cho hắn. Nghề chuyên môn của hắn là giết người, là trẻ lớn bé không cần, miễn có nhiều tiền, thật nhiều tiền là được. Lần này, hắn được trả công 15 lượng vàng. Vì đồng kíp lên xuống thất thường nên hắn chỉ nhận vàng. Vàng rất dễ bán, nhất là bán cho người từ Sài Gòn lên. Hắn nốc một hơi hết cốc rượu, cất tiếng rủa tục tĩu vì bị lỡ hẹn. Song vừa lúc đó, hắn thấy hai cái mù soa. Hắn giựt mình đánh thót. Rõ phải gió! Kẻ gặp hắn không phải đực rựa, mà là đàn bà. Đúng hơn, là nàng hôn lấy hôn để vào má gã đàn ông béo phì miệng nũng nịu: - Thương anh quá, bao giờ thì anh mua xe hơi cho em? Trong đêm tối, Thát Luông đứng sừng sững ánh sáng tỏa ra tứ phía, nổi bật nước vôi màu vàng, một màu vàng uy nghi và diễm lệ. Thát Luông là một ngôi đền gồm nhiều ngọn tháp nhọn hoắc ở ngoại ô Vạn Tường. Cách đó một trăm thước là bóng tối dày đặc. Trên con đường lối mòn gần Thát Luông, một bóng đen gò lưng trên xe môtô. Đó là một chiếc Hạc lầy tối tân, có thể ngốn đường trên hai trăm cây số một giờ. Chạy đượng một quãng, bóng đen tắt đèn pha và giảm ga xăng. Qua một biệt thự, hắn chạy chậm hẳn lại, nhìn vào bên trong. Dường như tòa nhà lớn không có người vì không có ánh điện. Bóng đen lái thêm một quãng nữa rồi tắt máy, dựng xe vào bờ rào dâm bụt. Đoạn hắn đánh diêm châm thuốc lá. Dưới ánh lửa bị gió thổi lập lòe, người ta nhận thấy bóng đen chỉ có một cánh tay. Hắn là Gã Cụt. Gã Cụt ném điếu thuốc vừa rít được một hơi xuống vệ cỏ ướt sương rồi bách bộ vòng ra phía hông biệt thự. Tòa nhà được bao bằng tường cao gần ba thước, bên trên cắm chông sắt và miễng chai nhọn. Gã Cụt đã biết rõ điều này, hắn lại biết chủ nhân tòa nhà là một viên thiếu tá trong quân đội hoàng gia và chủ nhân bận đi chơi đêm, thường đến bốn giờ sáng mới về. Sau khi rời sòng bạc, hắn tìm một tiệm cà phê để mở bao thuốc lấy tờ giấy đánh máy gập tâm bên trong ra đọc. Hắn bật ra tiếng rủa « con khỉ » khi đọc tới dòng chữ đỏ, gach đít như sau : « Lệnh này phải được tuân thủ theo triệt để. Con dao bấm nút và khẩu súng Iver Johnson, anh phải để ở nhà, không đuợc mang theo. Không được phép hạ thủ gia nhân và chó bẹt – giê ». Thiếu khí giới dưới nách, Gã Cụt có cảm tưởng như cởi truồng trước một nữ y sĩ. Từ bao năm nay, hắn đã quen với cách giết người bằng phương pháp riêng. Hắn dừng chân trước một cánh của gỗ khóa chặt. Thò tay vào túi, hắn rút ra chùm chìa khóa và loáy hoáy mở. Cánh cửa bị khóa lâu, nghiến răng kèn kẹt trên bản lề hoen rỉ. Vừa mở cửa xong, hắn nghe tiếng chó sủa. Gã Cụt mỉm cười, nham hiểm. Trong vườn, có hai con bẹt-giê cả thảy. Hai con kuvasz dữ tợn. Loại cho này được mua từ Hung gia lợi, và gởi sang bằng phi cơ. Chúng chỉ sủa một lần rồi nằm phục trong bóng tối, chờ kẻ lạ đến để ngoạm cổ. Gã Cụt không biết trên thế giới có 365 loại chó khác nhau, song hắn lại biết cách giết chó, cách làm chó trở nên hiền lành. Chờ cho ánh đèn pha một chiếc quân xa đi tuần biến vào đêm tối, Gã Cụt mới xô cánh cửa hé ra. Tuy không nhìn thấy, hắn thừa biết hai con chó kuvasx khôn ngoan đang nằm phục xuống cỏ ướt, mõm nghếch lên để đánh hơi, đuôi cuộn tròn, chân co lại, sẵn sàng chồm lên phía trước, phóng ra những răng nanh nhọn hoắt. Gã Cụt mỉm cười, cái cười đầy ngạo mạn và ươn ngạnh. Hắn lục trong cái bị bằng vải mà hắn đem theo, lấy ra một gói tròn bọc kín bằng giấy báo. Mùi thơm bay thoang thoảng. Hai miếng dồi thơm. Loại dồi đắt tiền này đã được chiên bằng mỡ béo ngậy. Sành ăn như Gã Cụt mà cũng chảy nước bọt huống hồ bọn chó kuvasz. Gã Cụt đằng hắng một tiếng rồi ném hai khúc dồi vào trong vườn. Im lặng một phút. Rồi có tiếng huỳnh huỵch. Chó bẹt-giê giữ nhà rất giỏi song lại có cái xấu là tham ăn. Gã Cụt đã nêm vào khúc dồi một thứ thuốc mê cực mạnh, tuy nhiên chỉ một giờ sau là tỉnh lại. Đợi đúng năm phút, Gã Cụt ung dung bước vào. Hắn dẫm chân nhẹ nhàng trên nền cỏ ướt sương, dáng điệu khoan thai như thể chủ nhân. Hắn đi qua một ngôi nhà lợp son uốn, nằm cạnh rặng dâm bụt. Đó là chuồng ngựa quí. Trong khoảnh khắc, Gã Cụt bỗng thè, con ngựa đua màu nâu, chấm trắng, cảng dài và thon, cái ức nở tròn, đôi mắt long lanh, được giới anư chơi Vạn Tường coi là thần mã. Gã Cụt cũng có cái thú mê ngựa đua như thiếu ta Sim Leng. Gã Cụt nhắm mắt lại cũng thấy được cạnh con tuẫn mã nâu trắng, hai con ngựa đua khác, một con đen tuyền, đuôi dài lê thê, bộ vó trắng toát, hệt như cô gái mặc đồ trắng, trong vận cọt xê đen, còn con thứ hai là ngựa bạch tuyết, thứ ngựa đài các, kênh kiệu mà Sim Leng thường cưỡi mỗi sáng chủ nhật, đèo phía sau một ả mỹ miều, mặc đồ ngắn cũn cỡn, bó sát ngực, hở tay, hở nách, hở đùi, trong ngon đến nỗi ai cũng muốn ngoạm một miếng. Sực nghĩ đến lời dặn, Gã Cụt đành bước rảo qua chuồng ngựa. Người ta đã dặn kỹ: không được rờ mó đến các vật trong nhà thiếu tá Sim Leng. Hắn có thể lừa nổi thiên hạ, chứ không thể lừa « người ta ». Vì đó là một tổ chức hùng mạnh, đủ sức nghiền nát hắn dưới đế giày bằng sắt. Cách chuồng ngựa hai chục thước là một giàn hoa thiên lý thật đẹp. Dưới giàn hoa là hai chiếc ghế đá – một loại cẩm thạch quí có những vân trắng và vàng – và cái bể cạn bằng kính dày, bên trong nuôi cá vàng. Bầy cá vàng của Sim Leng được coi là kỳ quan ở Ai Lao: có những con quẫy đuôi óng ánh như dát vàng y, những con đen nhánh và bóng loáng, những con trắng tinh, con nào cũng có đôi mắt tròn sáng, lạ lùng. Gã Cụt cũng thích nuôi cá vàng song hắn kiếm được bao nhiêu thì tiêu xài bấy nhiêu, rốt cuộc bồn cá của hắn chẳng có con nào nên hồn. Nuốt nước miếng lần nữa, cố dẫn sự thèm muốn xuống bao tử, Gã Cụt bước nhanh về phía nhà xe. Ngựa đua thượng thặng, cá vàng quí phái, giờ đây tới lượt xe hơi đắt tiền, chiếc nào cũng ngốn đường trên hai trăm cây số một giờ. Thiếu tá Sim còn mua thuốc thơm phảng phất mùi hoa hồng bỏ vào « pô », khiến cho khói xe xì ra thơm phảng phất mùi hoa hồng, ai ngửi cũng khoái. Gã Cụt thường mơ ước có được một chiếc 300SL sơn trắng, lùn tịt và dài ngoằng, loại đắt tiền nhất của hãng Metxedet. Gã Cụt sướng run lên khi nghĩ đến lúc ngả lưng vào nệm xe bằng da cá sấu Nam – Mỹ, đặt chân lên thảm len Pháp, vặn ra đi ô nghe nhạc nổi, ấn nút thì chai huýt ky và phích đá bật ra. Bây giờ, hắn chưa có tiền, hắn phải tiếp tục giết người lấy tiền để mai kia giàu như Sim Leng. Sim Leng? Gã Cụt chỉ biết mang máng thiếu tá Sim là sĩ quan phụ trách an ninh và phản gián trong bộ tổng tham mưu Lào. Sim có rất nhiều tiền, cũng như rất nhiều nhân tình đẹp. Gã Cụt đâm ra ghen tị với Sim. Mắt hắn tóe ra ánh lửa. Hắn đã tới cửa bếp. Giờ đây, đầy tớ của thiếu ta đa tình đã ngủ say. Sim đi chơi khuya về, thường mở cửa một mình. Gã Cụt nhìn trước nhìn sau, không thấy ai, bèn tiến lại phía cửa sổ. Hắn dùng dao nhọn nậy của lá sách bên ngoài ra. Tiếng máy lạnh chạy rào rào. Đaọan hắn rút trong mình ra một cái dùi nhỏ, đầu gắn một hạt kim cương. Hắn vạch lên ô cửa kính một vòng trò to bằng quả cam, vừa đủ lọt bàn tay. Hắn đặt lên trên một cái ống giác bằng cao su, ghé miệng hút lên miếng kính, còn tay phải nắm lại, đập nhè nhẹ vào chung quanh chỗ cắt. Trong nháy mắt, miếng kính trò bị hút vào trong ống giác. Kêu bập một tiếng. Gã Cụt thò tay vào trong, vặn kê-môn. Cửa sổ mở toang, hắn nhảy vào. Rồi hắn đóng lại, kéo riềm che, chiếu ngọn đèn bấm nhỏ xíu, xanh lè. Dưới ánh sáng cực mạnh, hắn nhận ra phòng ngủ của thiếu tá Sim, bày biện sang trọng, toàn bằng đồ gỗ đóng tai Vọng các, đánh si bóng loáng có thể soi gương được. Gã Cụt chắt lưỡi khi thấy cái giường rộng khai thước, rủ màn tuyn ni – lông màu hồng, cây đèn đêm màu hồng, trên có vẽ người đàn bà trần truồng trong một cử chỉ mời mọc, đĩ thỏa. Hắn chiếu đèn lên tường, từ phía đều trền treo ảnh, ảnh nào cũng là đàn bà khỏa thân, cắt trong các tập chí khiêu dâm của Pháp. Gã Cụt tiến sang phòng khách. Sau khi kéo riềm, hắn vặn đèn lên, quan sát chung quanh. Đối diện bộ sa-lông bằng gỗ trắc, lót da hổ, hắn thấy cái tủ rượu, và mê nhất là Vat. Gã Cụt đếm được ba chai Vat chưa khui. Hắn từ từ lấy rượu, mang lại bàn. Hắn lấy trong túi ra một cái hộp dài, bên trong có một ống tiêm, chứa đầy chất thuốc màu trắng. Hắn chích mũi kim qua nút chai, bơm thuốc vào trong. Chai nào hắn cũng bơm thuốc. Xong xuôi, hắn cất chai rượu vào chỗ cũ. Xoa tay khoan khoái, hắn bật lửa, tự thưởng một điếu thuốc. Đột nhiên, hắn khựng người. Nhanh như cắt, hắn nhảy lùi lại, thủ thế. Từ góc phòng đưa lại một tiếng nói rùng rợn: - Chào ông. Gã Cụt quay lại. Hắn không thấy ai hết. Bồ hôi vã đầm ra áo. Hắn hối hận quên không mang khí giới tùy thân theo. Tiếng nói lúc nãy lại tiếp: - Ông có việc gì cần không? Bây giờ Gã Cụt mới biết và bắt đầu hoàn hồn. Thoạt nhiên, hắn tưởng bị sa vào ổ phục kích. Mặc dầu giỏi võ, hắn vẫn không thể chọi lai những cây súng thiện xạ. May cho hắn, giọng nói này không phải của người, mà là của một con vẹt đứng vắt vẻo trên cành cây, treo lủng lẳng bên cửa sổ. Hắn quắc mắt nhìn con vật. Con vẹt thản nhiên nhìn hắn, đôi mắt xanh lè. - Thiếu tá đi vắng rồi. Chào ông. Gã Cụt không chịu được nữa. Hắn không thể tha chết cho con vẹt, vì biết đâu nhờ nó người ta có thể phăng ra hắn. Vừa khi ấy, hắn nghe tiếng động cơ xe hơi và tiếng thẳng kêu ken két ngoài đường. Hắn lẩm bẩm: - Hừ, sao nó về sớm thế? Mấy phút sau, thiếu tá Sim sẽ vào đến phòng. Gã Cụt không được phép ngần ngại nữa. Hắn tiến lại cửa sổ, thò tay bắt con vẹt. Nó co cẳng nhảy vọt lên, song Gã Cụt nhanh hơn đã tóm được đuôi nó, và thuận tay quật con vật xuống đất. Gã Cụt vội nhặt xác lên, gói vào một tờ báo, lau sạch nền nhà, rồi nhanh chân thoát vào phòng ngủ. Hắn vọt xuống sân nhẹ như chiếc lá rụng. Thiếu tá Sim Leng phóng xe vun vút trên con đường trải đá cuội vào nhà. Cũng như mọi đêm, Sim chở theo một người đàn bà đẹp. Đầu xe lại – một chiếc Caravelle màu trắng mới tinh – Sim mở cửa cho thiếu phụ bước xuống. Dưới ánh đèn vừa bật, nàng lộ ra một vẻ đẹp khác thường. Thân hình nàng như được nặn trong tay nhà điêu khắc nổi danh nhất hoàn vũ: cái eo thót lại đúng chỗ làm nhô bộ ngực nhọn và cứng, đôi chân dài, thon, uyển chuyển sau chiếc sường sám Thượng hải may bó lấy người. Trên đôi giày cao tấc mốt, nàng bước oằn oại như con rắn thần. Sim ôm lấy eo người yêu: - Mila, em đẹp lắm. Mila tủm tỉm cười, lộ hàm răng đều và trắng như ngà voi: - Cám ơn anh. Thiếu tá Sim mở cửa phòng khách. Hắn mở máy điều hòa không khí và nói: - Em nghe nhạc nhé? Mila gật đầu: - Từ tối đến giờ, nghe trống mãi, mệt quá rồi, anh vặn nhạc dương cầm cho em nghe đi. Tiếng nhạc êm ái trỗi lên. Mila ngồi thu hình trong ghế bành, mắt lim dim như vừa hít xong một điếu bạch phiến. Sim mở tủ lấy rượu. Khui xong, hắn hỏi tình nhân: - Vat nhé? Mila định « vâng » vì nàng vốn mê Vat song nàng lại lắc đầu. Nàng đã uống tới nửa chai huýt ky và một chai sâm banh hảo hạng, cổ họng nàng trở nên đắng chát. Nàng muốn một ly nước lạnh thật mát. Mila nói, giọng ngọt như mật ong: - Em chịu thôi. Xin anh cái gì ngòn ngọt vậy. Sim Leng nhún vai ra vẻ ngạc nhiên, đoạn rót nước bạc hà cho nàng. Hắn bưng hai ly lại chỗ Mila ngồi, trân trân nhìn nàng như muốn bóc trần thân thể nàng ra để ngắm cho thỏa thích. Vẻ thèm muốn hiện rõ trong cặp mắt bốc cháy của Sim Leng. Nàng làm hắn điên cuồn thêm bằng cách cúi xuống lượm cái khăn tay đỏ nàng cố tình đánh rơi cốt tạo cơ hội cho hắn nhìn vào cổ áo – tuy là áo tàu mà lại hở ngực – thấy rõ đôi gò bồng đảo phập phồng như muốn đẩy tung làn vải mỏng thoát ra ngòai. Sim Leng đê mê hôn môi nàng. Mila run người trước cái hôn nồng nàn của gã trai si tình. Nàng ngước nhìn hắn: Sim Leng là một thanh niên cao lớn, trán rông, càm vuông, vai tròn, trong hùng dũng và quả cảm. Nếu không có cái miệng hay cười lớn, và tia mắt ươn ướt, đố ai dám bảo Sim Leng là thiêu thân tình ái. Sim Leng uống một hơi hết ly huýt-ky thơm phức. Đoạn hắn giang tay ra: - Nào, em nhảy với anh một bài. Hắn ôm cứng lấy nàng, râu cằm cọ vào má nàng làm nàng nhột nhạt và cười rú lên. Bình thường, Sim Leng nhảy rất giỏi. Dân ăn chơi đã mệnh danh hắn là « vua vũ trường ». Đôi chân hắn dẻo đến nỗi người ta tưởng không có xương nữa. Sim lại có lối nhảy bay bướm, biến hóa và lịch sự. Người đàn bà nào đã ôm hắn là dính chặt lấy, không dám nhả ra nữa. Song đêm nay, Sim Leng có cảm tưởng như một tảng đá lớn vừa được đeo vào lưng, khiến thân thể hắn mất vẻ nhanh nhẹn thường lệ. Hai chân hắn luýnh quýnh một phút rồi dẫm bừa lên mũi giày nhung cườm đắt tiền của Mila. Nàng nhịn đau không dám kêu lên vì tưởng hắn say. Song hắn lại dẫm lần nữa. Và lần này hắn ngã chúi vào người nàng. Nhìn mắt hắn, Mila ngạc nhiên vô tận. Mắt hắn không phải là mắt người say. Mỗi lần sang Nhật, Sim Leng thường tới Câu lạc bộ 48 ở khu Shinjuku, Đông Kinh,để tìm « bò lạc » - câu lạc bộ này nổi tiếng là nơi hẹn hò của giới thanh lâu tài tử và tập sự – và lần nào hắn cũng chinh phục được, nhờ tài biểu diễn lưu linh. Hắn uống bao nhiêu rượu cũng không say, trong khi những người khác đã khôn ngoan khử con say trước bằng 2 viên thuốc át pi-rin hoặc ly sữa lớn mà vẫn say bí tỉ. Sim Leng húc vào ngực nàng. Vội vàng, nàng tránh sang bên. Như cây gỗ bị đốn ngã, hắn loạng choạng một giây rồi xụi xuống. Mila hoảng hốt đỡ lấy hắn, song hắn đã vịn được ghế sa-lông, gượng ngồi dậy, trên mặt hiện ra vẻ lo sợ vô biên. Hắn chưa kịp ngồi vững thì toàn thân run lên như tên bắn, rồi ngã nằm sóng soài trên đất, nước bọt xùi ra hai bên mép. Nàng thét lên thất thanh: - Sim, Sim, anh làm gì thế? Sim Leng chưa chịu chết. Trong phút cuối cùng của sự sống và cái chết đen ngòm, hắn đột nhiên nhớ tới con vẹt thân yêu. Hắn mua con vẹt này hơn một trăm đô-la của một nhà chuyên dạy súc vật ở Hồng Kông. Nó nói được nhiều câu, và câu nói thích nó thích nói nhất là « chào ông, ông làm gì thế? ». Mila vừa nói một câu quen thuộc của con vẹt. Sim Leng ngoẹo đầu nhìn về phía cửa sổ, vẻ kinh hoàng lộ trên khuôn mặt trắng bệch như tờ giấy: Hắn thều thào: - Mila, em. Con vẹt của anh đâu rồi. Căn phòng im lặng một cách dị thường. Từ ngoài vườn vọng lại tiếng cú vọ. Mila rùng mình. Sim Leng thở dài, đau đớn: - Vĩnh biệt em. Mila lay đầu tình nhân: - Anh, anh uống quá nhiều rượu phải không? Để em gọi dây nói cho bác sĩ. Trên môi thiếu tá điệp báo Sim Leng nở một nụ cười chua xót: - Em lầm rồi, anh không say rượu hoặc ngộ gió đâu. Anh bị người ta ám sát. Mila quỳ xuống một bên Sim Leng: - Nói bậy nào. Tại anh ăn đồ ngọt. Dọc đường, gió lộng, em bảo anh kéo mui xe lên, anh nằng nặc không nghe. Anh chịu khó nằm yên, em lấy khăn ướt đắp cho anh. Nụ cười phút lâm chung của Sim Leng chan hòa vẻ trách móc: - Trời ơi, không phải say rượu, không phải ăn đồ ngọt, cũng không phải ngộ gió độc. Mila ơi, anh khờ dại quá… Anh đã tin vào lời hứa viễn vong… Anh không thể sống được nữa đâu. Vì đây là một thứ thuốc độc cực mạnh. Này, em lắng tai nghe… kẻo lát nữa, thuốc độc sẽ làm anh cấm khẩu. Sim Leng nghiêng mặt sang bên, cố nói ý nghĩ của mình, song tiếng nói bị chặn nghẹn ở cuống họng. Hắn có cảm giác như khí quản đã bị khóa chặt. Dáng điệu tuyệt vọng, hắn nằm sóng sượt, một giọt nước mắt trào xuống gò má. Mila run run nắm lấy bàn tay bắt đầu giá lạnh. Nàng đã hà hơi ấm vào mặt Sim Leng, giọng thúc giục: - Nói đi, nói đi anh. Ai ám sát anh? Tại sao người ta lại ám sát anh? Sim Leng trợn tròn mắt, tưởng như kẻ mắt nứt toạc, và máu mắt tràn ra. Hắn cố thu tàn lực vào giây đồng hồ cuối cùng của cuộc đời ngang dọc. Hắn chết đã đành, hắn không thể kéo luôn Mila xuống mồ. Vì dầu sao nàng vô tội… Vả lại, nàng cần sống, nàng cần sống để báo thù cho hắn… Đột nhiên, Sim Leng vụt thành tiếng. Tiếng hắn cắt quãng song vẫn rõ mồn một: - Mila yêu quý của anh… Em trốn đi. - Không, em quyết ở lại với anh. - Mila, đừng bướng bỉnh. Hãy nghe lời anh trối trăn. Em phải trốn đi. Trốn đi nội trong đêm nay. Nếu không người ta sẽ giết em. Ráng nhớ lấy, Mila… Nhớ lấy 3…8… Sim Leng không nói thêm được nữa. Mila hỏi gặng: - Ba, tám…, ba, tám là gì hả anh? Sim Leng trút ra một tiếng nấc nhẹ. Hắn nằm im, không thở nữa. Mila khóc thét lên. Sim Leng là người yêu của nàng. Tuy lang chạ với nhiều người, hắn vẫn yêu nàng nhiều hơn hết. Sim Leng bị đầu độc chết. Ai đầu độc? Ai bỏ thuốc độc vào rượu của Sim Leng? Nàng đứng dậy, mắt hoa lên. Sim Leng dặn nàng bỏ trốn. Nàng đảo mắt nhìn chung quanh. Nàng chợt nhìn vết máu trên nền nhà. Mùi hôi dễ thương của con vẹt biết nói phảng phất trong phòng. Như người điên, nàng cầm cái ly của Sim Leng ném mạnh vào tường, vỡ ra từng mạnh vụn. Rồi nàng mềm người, ngã gục trên sa-lông, ngất đi. Bên ngoài, trời vẫn tối om. Ngoại ô Vạn Tường ngủ vùi trong màn đêm bí mật. Cách chỗ Sim Leng chết một cây số là bãi đất trống rộng mênh mông. Một biệt thự nguy nga vừa được dựng lên, nhìn ngạo nghễ ra con đường ra con đường nhựa quanh co trước mặt. Biệt thự nằm gọn giữa một vườn cây um tùm, và những bức tường vôi sơn trắng cao ngất. Khi ấy, trời đã sáng rõ. Bức tường cao đúng 5 thước, bên trên chông sắt nhọn tua tủa, truyền điện 220 vôn. Cổng cũng bọ tôn dầy, sơn đen gớm ghiếc, ngày đêm đóng im lìm ngăn người ngoài tò mò muốn nhìn vào bên trong. Người Lào là một dân tộc không thích tò mò. Dầu tò mò cũng vô ích, vì biệt thự ở xa đường lớn, lại ngự trên khu đất cao, ngất ngưởng như ở đỉnh đồi. Không ai biết bên trong có gì. Theo lời một số người ở gần thì đó là biệt thự của một tỉ phú Trung Hoa. Sáng hôm ấy, tòa nhà bí mật biến thành hội trường của một phiên nhóm quan trọng. Chủ nhân dậy sớm hơn thường lệ, tự tay đóng hết cửa sổ và kéo riềm che kín, ai nhìn thấy sẽ phải kinh ngạc, vì biệt thự rộng lớn như vậy mà không có đầy tớ. Thật ra, chủ nhân có rất nhiều nhân viên dưới quyền, song hôm nay muốn làm việc một mình. Gót giày đế cờ-rép của chủ nhân kéo lột xệt trên nền nhà trơn bóng. Y trạc 50, râu mép lún phún, cặp kiếng gọng đồi mồi đen sì che nửa mặt, mặc dầu trời chưa sáng hẳn. Đúng 7 giờ, chủ nhân xuống nhà, vào phòng làm việc. Đó là một căn phòng không có cửa sổ, hoàn toàn trống trơn, ngoại trừ cái máy hình vuông sừng sững ở góc, bên trên có những cái nút xanh, đỏ, trắng lạ lùng. Máy này là đạo quân vô hình canh phòng biệt thự. Một con chim bay lạc vào phòng khách cũng bị chụp hình, và đưa lên màn ảnh vô tuyến truyền hình. Kẻ nào lọt qua phòng khách cũng bị chụp hình, và đưa lên màn ảnh vô tuyến truyền hình. Kẻ nào lọt qua phòng khách, trèo cầu thang lên lầu, sẽ bị những họng súng kỳ quặc chặn lại, phun hơi độc, hoặc bắn đạn độc dược. Chủ nhân nhìn đồng hồ tay. Đồng hồ của chủ nhân cũng khác đồng hồ của người thường. Đồng hồ này sẽ được ghi cả giờ quốc tế vì lễ chủ nhân liên lạc hàng ngày với khắp nơi trên thế giới. Mặt sau của đồng đồ có một cái nút tí hon, bấm vào tức thời một viên thuốc màu xanh tuột ra. Uống vào sẽ ngủ luôn, không bao giờ dậy nữa. Chủ nhân đề phòng cẩn thận vì không muốn sa vào tay đối phương. Tiếng chuông ngoài cổng kêu nhè nhẹ. Chủ nhân bấm nút đỏ trên máy. Nút điện này ăn thông với cửa sắt ngoài đường. Bên ngoài, một chiếc DS 19 sơn đen thấp lè tè, đeo số Ba lê, vừa đậu xịch lại. Trong xe chỉ có một người duy nhất. Tài xế bấm núp trên táp-lô. Nút đặc biệt này làm chuông điện trong văn phòng chủ nhân reo lên. Người lạ bấm chuông ngàoi cổng hoàn toàn vô ích, vì chuông này chỉ có tính cách trang trí. Sau khi chủ nhân bấm nút đỏ, cách cửa sắt nặng gần một tấn mở rộng ra, nhẹ như bấc. Tài xế rồ ga chạy vào trước khi ngoảnh nhìn tứ phía. Quang cảnh vẫn vắng lặng như thường lệ. Trên trời, một chiếc phi cơ thương mại nặng nề bay qua. Xe hơi chạy vào, cửa sắt đóng lại, êm như ru. Xe hơi vòng ra ga-ra phía sau, đậu lại. Tài xế là một người vạm vỡ, y phục chỉnh tề, cổ cồm, cà vạt, nửa mặt trên cũng khuất sau cặp kính đen vĩ đại. Nghiễm nhiên như chủ nhân, tài xế xô cửa phòng khách bước vào. Trước đó 30 giây, cửa phòng khách đã được chủ nhân ngồi trong văn phòng mở ra bằng điện. Khách thản nhiên tiến lại cái tủ gỗ lúp bóng loáng kê sát tường, dùng chìa khóa riêng mở ra. Bên trong, một dãy áo choàng đủ màu được treo sẵn trên giá. Khách lấy cái áo choàng màu lục, và cái mặt nạ cũng màu lục. Nửa phút sau, y mặc áo và đeo mặt nạ vào. Dưới lốt cải trang, y trong có vẻ đạo mạo như viên thẩm phán trong phòng xử án. Người mặc áo choàng màu lục vừa lên khỏi cầu thang thì người khách thứ hai lái xe hơi tới trước cổng. Khác người thứ nhất, y đi xe Peugeot, mang bảng số Vạn Tường. Lần lượt cứ 5 phút lại có một người khách tới. Họ tới đúng giờ không sai một phần mười giây. Trước sau cả thảy 5 người. Người khách thứ ba đến sớm một phút đã phải quay xe, chạy một vòng ngoài đường trước khi phóng xe lên cổng sắt… Sau khi người thứ năm tới, chủ nhân lặng lẽ đứng lên, choàng áo thun đen, và đeo mặt nạ đen vào, rồi cũng y như khách, y trèo lên lầu. Thang gác ngoằn ngoèo theo hình con ốc, bằng đá rửa tô màu đen, tương phản với bức tường trắng toát. Lên tới đầu thang, chủ nhân kéo cửa sắt đóng lại, đoạn rảo bước dọc hành lang. Đến cửa gỗ lim ghi số 10, y xô vào nhè nhẹ. Bên trong, năm người khách đã chờ sẵn, quanh cái bàn bầu dục, lợp phót mi ca đen, chỉ còn cái ghế bọc da hổ rằn ri để trống. Mọi người lặng lẽ đứng dậy. Không nói một lời, chủ nhân ngồi xuống. Căn phòng im lặng đến nỗi người ta có thể nghe được tiếng đập của sáu trái tim. Người nào cũng mặc áo choàng và đeo mặt nạ kín. Ngoài màu đen của chủ nhân còn có màu lục, đỏ, xanh, trắng và vàng. Toàn thể đều ngồi ngay ngắn trên ghế, mặt hướng về phía chủ nhân. Chủ nhân đứng lên, trịnh trọng tuyên bố: - Tôi thành thật cám ơn các bạn đã về dự hội đông đủ mặc dầu tình hình khó khăn. Đại hội hôm nay có mục đích kiểm điểm hoạt động trong ba tháng qua, và tường trình về kế hoạch Hoa Phong Lan. Trước khi vào việc tôi trân trọng nhắc lại lời huyết thệ của chúng ta cách đây 3 năm. Chúng ta thành lập phân bộ Viễn Đông của Quốc tế Đặc vụ, đặt màng lưới khắp Đông Nam Á, giao dịch với các cơ quan điệp báo đông tây, và các tổ chức buôn lậu tư nhân với một phương châm rõ rệt: phương châm kiếm tiền. Chúng ta chỉ phụng sự kẻ trả nhiều tiền nhất. Trong ba năm qua, chúng ta đã thu hoạch được nhiều thành tích cụ thể. Số tiền kiếm được chia đều, sau khi trích phần để đài thọ công cuộc điều hành phân bộ. Giờ đây, tôi xin nhường lời cho các đại diện báo cáo. Chủ nhân dứt lời, đảo mắt nhìn quanh bàn. Người mặc áo lục từ từ đứng dậy. Thân hình cao lêu nghêu như cột cờ, cặp mắt tóe lửa sau mặt nạ lục, mũi cà chua bẹp dí, cái mũi của võ sĩ quyền anh thượng đài nhiều lần. Hắn đằng hắng để lấy giọng, rồi nói, giọng sang sảng: - Nhân danh đại diện tiểu khu Ấn-Thái-Mã, tôi xin báo cáo. Tình hình trong 3 tháng nay vẫn bình thường. Mọi chỉ thị do trung ương đưa xuống đều được thực hiện không sai một li. Riêng chúng tôi lo ngại điều này: bỏ máy phản gián của ML6 hoạt động rất mạnh. Và đáng sợ nhất là bon nhân viên của lão Hoàng. Chủ nhân nghiến răng ken két: - Hừ lão Hoàng. Suốt 3 tháng nay, không tuần nào tôi không nhận được báo cáo về sự phá phách của lão Hoàng. Tiểu khu Ấn-Thái-Mã của bạn mất bao nhiêu nhân viên? - 4 nhân viên quan trọng trong vòng một tháng. Trước ngày tôi lên máy bay phó hội, các anh em yêu cầu tôi trình với Trung ương để xin tiếp cứu. Nếu không, chỉ trong một thời gian ngắn nữa là chúng tôi bị kiệt quệ. Hắn ngồi xuống. Người mặc áo đỏ nối lời: - Về những hoạt động của tiều khu Nhật – Hàn, chúng tôi đã báo cáo đầy đủ tháng trước, nhân dịp một đại diện về tiếp xúc với trung ương. Lần này, cũng như bạn áo lục, tôi chỉ xin nhấn mạnh tới sự bành trướng của phản gián Nam Việt trên toàn cõi Đông Nam Á. Riêng tại Nhật bản, họ hoạt động ráo riết. Trong vòng 5 tuần nay hệ thống chuyên chở võ khí lậu của tiểu khu gần như bị tê liệt. Chủ nhân khoát tay ra lệnh cho người áo đỏ im lặng. Rồi dõng dạc: - Bạn nào cần nói gì thêm nữa không? Toàn thể nín thinh. Không khí trong phòng đột nhiên khó thở. Chủ nhân lừ mắt nhìn người áo vàng ở cuối bàn rồi nói: - Như các bạn đã đồng thanh chấp thuận trong phiên nhóm tháng trước, tôi xúc tiến buôn vàng lậu, thuốc phiện lậu và võ khí lậu tại Viễn Đông, với sự đồng ý của Trung ương. Về vàng, chúng ta đã chở được một chuyến từ Macao về Lào quốc, phân phối qua Việt Nam và Thái Lan. Về á phiện, chúng ta bắt đầu mua từ Lào quốc, gửi sang Âu châu và Mỹ châu. Còn về võ khí, chiến tranh du kích bành trướng trên giải đất Đông dương đã tạo cho chúng ta khá nhiều thuận lợi. Nói chung, tình hình hoạt động của Quốc tế Đặc vụ rất khả quan. Ngoại trừ… Chủ nhân đột nhiên ngừng bặt. Sau mặt nạ nhung đen, mắt chủ nhân như tóe máu. Trong bầu không khí ngột ngạt, một vài tiếng đằng hắng vụng về cất lên. Chủ nhân dằn từng tiếng: - Ngoại trừ tinh thần vô trách nhiệm của một số nhân viên. Thật vậy, tinh thần vô trách nhiệm của một số nhân viên đã làm kế hoạch kinh tài của chúng ta bị cản trở. Một trong các điểm trong nghị trình hôm nay là sửa chữa khuyết điểm. Dầu chúng ta đồng sinh, đồng tử, vấn đề kỷ luật nội bộ vẫn không được xao lãng. Với một tổ chức đại quy mô, hàng ngàn nhân viên rải rác khắp năm châu như Quốc tế Đặc vụ thì một sơ sót nhỏ nhặt cũng đủ gây ra đổ vỡ trầm trọng. Người mặc áo vàng vụt đứng dậy, giọng gay gắt: - Tôi xin phép ngắt lời bạn chủ tịch. Nếu tôi không lầm, bạn đã ám chỉ tôi. Nhân danh tiểu khu Trung hoa, tôi cực lực phản đối. Các bạn thay mặt cho các tiểu khu khác nghĩ sao? Người áo đỏ cất tiếng oang oang: - Tôi được tin chuyển chở vàng cuối cùng từ Macao về bị chặn bắt ở Hồng kông. Yêu cầu bạn cho biết nguyên nhân. Bạn thừa hiểu chúng ta bị mất gần nửa triệu đô là trong vụ này. Người áo vàng quay lai, tức tối: - Tôi thi hành đúng chỉ thị của Trung ương. Việc chặn bắt của công an Anh quốc tại Hồng kông hoàn toàn nằm ngoài quyền hạn tôi. Chủ nhân cười gằn: - Bạn không che giấu sự thật được đâu. Mật báo viên của tôi ở Hồng Kông cho biết bạn thông lưng với quan thuế. Bạn bố trí cho các thùng vàng rơi vào tay họ hầu ăn bốn chục phần trăm tiền thưởng. Đáng lẽ phản đối quyết liệt, người áo vàng lại nhún vai: - Các đại biểu có mặt, và riêng tôi không thể tin vào mật báo viên của bạn. Vả lại, theo nội quy của Tổ chức, bạn chỉ được phép tố cáo một nhân viên trong ban quản trị với bằng chứng cụ thể. Tố cáo không bằng chứng cũng như phạm tội phá hoại. Nhân danh tiểu khu Trung hoa, tôi yêu cầu các đại biểu xét lại vấn đề, và truất phế bạn chủ tịch. Giọng cười của Chủ nhân trở nên the thé như xé lụa: - Được, bạn muốn bằng chứng, tôi xin thỏa mãn. Mời bạn áo đỏ… Người áo vàng lắc đầu lia lịa: - Tôi phản đối sự sắp xếp đen tối này. Từ lâu, ai cũng biết bạn áo đỏ là đàn em của bạn chủ tịch. Chủ nhân quắc mắt: - Hừ, bạn ngụy biện làm tôi không tha thứ được nữa. Giá bạn nhận lỗi, và thành thật cam kết đái công chuộc tội, thì có lẽ hội nghị còn có thể nhân nhượng… Đây này, mở mắt ra xem… Biên lai nhận tiền do bạn ký trong sở quan thuế Hồng Kông. Người áo vàng đấm nắm tay xuống bàn thình thịch, giọng nói đã mất vẻ tự chủ cố hữu: - Bạn chủ tịch đã kết tội một cách hồ đồ… Bạn đã tạo ra biên lai giả để loại trừ ra khỏi tổ chức những người cứng đầu, không chịu tuân theo mệnh lệnh một chiều… Trước khi gia nhập, tôi đã long trọng cảnh cáo những ai lợi dụng Quốc tế Đặc vụ để phụng sự chính trị. Về phần bạn chủ tịch, không những bạn phụng sự chính trị, bạn còn là tay sai cho một chính phủ ngoại quốc nữa. Bạn đã tự quyền liên lạc mật thiết với điệp báo Trung hoa cộng sản. Bạn muốn đưa Quốc tế Đặc vụ vào vòng kiểm soát của Bắc Kinh. Vì vậy, CIA, IS, và nhất là tổ chức của ông Hoàng mới đua nhau tấn công các cơ sở của Quốc tế Đặc vụ trên toàn cõi Đông Nam Á… Người áo vàng xo ghế, tay chống nạnh, giọng nói mỗi lúc càng thêm chát chúa: - Tôi xin các bạn nghĩ lại. Chúng ta làm tay sai cho đồng tiền, chúng ta không làm tay sai cho chính phủ nào, chúng ta lại càng không thể làm tay sai cho một cá nhân, dầu cá nhân này là chủ tịch phân bộ Viễn Đông của Quốc tế Đặc vụ. Tổ chức của chúng ta còn hay mất sẽ được quyết định nội hôm nay. Chủ nhân cười nửa miệng: - Bạn áo vàng đừng phân trần nữa vô ích, không ai thèm nghe đâu. Người áo vàng vẫn không hạ thấp giọng: - Mọi người nín lặng, vì khiếp sợ. Riêng tôi, tôi không bao giờ khiếp sợ. Chủ nhân nhún vai: - Bạn đã diễn thuyết xong chưa? Người áo vàng hét lớn: - Té ra bạn cố tình phỉnh gạt. Nhưng bạn ơi, bạn đừng kiêu hãnh vội. Từ thuở dọc ngang đến giờ, tôi chưa từng sa vào cạm bẫy của ai. Lúc nhận được điện mời tới Vạn Tường phó hội, tôi đã biết trước bạn định hại tôi. Thoạt đầu, tôi định ở nhà, song lại sợ các bạn khác hiểu lầm và nhất là sợ bạn cho tôi là đứa thiếu can đảm. Vì vậy, tôi quyết định lên đường. Chủ nhân ngẩng đầu lên: - Ha, ha, bạn áo vàng đã lén mang khí giới vào phòng họp… Bạn đã vi phạm nội quy của tổ chức. Người áo vàng nghiến răng: - Miễn cưỡng tôi phải vi phạm nội quy, - Nghĩa là bạn sẽ bị xử tử. - Đừng hòng. Bạn vểnh tai lớn mà nghe, mặc dầu bạn đã gắn ở cầu thang một cái in-pếch-tốt scốp, tôi vẫn được võ trang đầy đủ. Nếu bạn biết đều, tôi sẽ bỏ qua, bằng không… Vừa nói, hắn vừa rút ra khẩu súng côn, nòng trắng xanh, bá nạm vàng lấp lánh. Ngón tay để sẵn lên cò, hắn chĩa họng súng về phía Chủ nhân tay kia giật phăng mặt nạ vàng đeo bằng giây vào vành tai, ném mạnh xuống đất. Mọi người ồ lên một tiếng. Người áo vàng là một thanh niên vạm vỡ trạc 30 tuổi, trên mặt có hai vết thẹo, vết thứ nhất chạy từ cằm sang mũi, vết thứ hai nằm ngang trên trán, phất phơ một dùm tóc quăn, trải bi-ăn-tin bóng loáng. Cặp mắt hắn đỏ ngầu tưởng như phun màu, miệng hắn nghiến lại kêu ken két. Chủ nhân nhún vai: - Một lần nữa, bạn lại phạm một cấm căn bản. Theo nội quy, chỉ có tôi được biết tên họ và diện mạo các đại diện. Các bạn đều không biết nhau, vì thế phải đeo mặt nạ. Để khỏi lầm, chúng ta đặt ra năm màu áo, lục, đỏ, xanh, trắng, vàng tượng trung cho 5 tiểu khu, và màu đen của chủ tịch phân bộ Viễn Đông. Tội mang vũ khí vào phòng họp đã không tha thứ được, đến tội gỡ mặt nạ thì dầu nể bạn đến đâu, tôi cũng phải tuyên án tử hình. Gã tóc quăn cười ha hả: - Bạn đùa đấy chứ! Hoặc giả bạn lẩm cẩm nên quên hết rồi. Bạn không giết nổi tôi đâu. 4 đại biểu ở đây không biết rõ tôi, song bạn chẳng là gì. Trước kia, hồi còn lang thang tại các bến tàu, bạn đã lắc đầu le lưỡi khi thấy tôi rút súng. Hơn ai hết, bạn đã biết tôi là một trong những tay súng cừ khôi nhất châu Á. Khẩu sung hôm nay của tôi vẫn là khẩu súng tôi dùng ngày xưa, và đã giết hàng chục người. Bạn đã nhớ lại chưa? Giúp bạn khỏi quên, tôi xin biểu diễn một vài phút. Hắn tung khẩu côn lên trời, rồi bắt gọn. Toàn thể hội nghị đều im phăng phắc. Riêng chủ nhân vẫn tủm tỉm cười, nụ cười đầy vẻ ngạo nghễ. Gã tóc quăn quát: - Coi này… Đoàng… Chiếc quẹt máy Ronsori bằng vàng 18 ca-ra của chủ nhân đặt trên mép bàn bị viên đạn 9 li đẩy văng vào tường. Tuy vây, mặt bàn không hề bị xây xát. Người ta có cảm tưởng một cơn gió mạnh vừa thổi chiếc quẹt máy bay đi. Với tài thiện xạ phi thường này, gã tóc quăn biến thành đối thủ đáng sợ của Chủ nhân. Vì dẫu sao chủ nhân chỉ có hai bàn tay không… Song chủ nhân vẫn ngồi thẳng, không động đậy. Hắn không lạ về tài bách bộ xuyên tâm của gã tóc quăn. Trước đây, gã tóc quăn là tay giết người thuê của Smerch, tổ chức phản gián kinh khủng của Nga sò. Hắn thường có lối giết người mã thượng và kỳ quặc: hắn đến tận nhà nạn nhân, gõ cửa, thản nhiên bước vào phòng khách, ngồi xuống ghế sa lông trò chuyện với chủ. Trong câu chuyện, hắn báo cho nạn nhân biết hắn lãnh tiền của Smerch tới để hạ sát. Nạn nhân sợ toát mồ hôi, thì hắn mỉm cười nói là hắn cho phép nạn nhân được dùng súng tự vệ, và thường nạn nhân rút súng trước. Lần nào, hắn cũng thành công, bằng một viên đạn trúng tim. Chỉ cần một viên là đủ. Hắn chờ nạn nhân lấy súng khỏi vỏ, sửa soạn lấy cò mới chuyển người, nhoài tay ra, súng nổ nhanh như chớp nhoáng. Gã tóc quăn xô ghế ngã lỏng chỏng, giọng kiêu căng: - Lẽ ra tôi giết bạn, song tôi không giết người thiếu khí giới phòng thân. Giờ đây, bạn rúng súng ra đi, và dĩ nhiên tôi bằng lòng cho bạn bắn trước. Chủ nhân nhún vai bình thản: - Tôi khuyên bạn lần nữa, lần sau cùng. Bạn nên quay mũi súng vào ngực, tự xử thì hơn. Bạn không có hy vọng thoát khỏi chốn này đâu. Gã tóc quăn liếc nhìn quanh bàn, toàn thể ngồi như pho tượng đá: - Tôi không muốn hại ai, ngoài bạn chủ tich. Nhưng nếu bạn nào muốn chung số phận với chủ tịch thì cứ ra mặt. Tôi còn đủ đạn để tặng cho mỗi vị một viên, và tôi xin trịnh trọng đảm bảo là đạn của tôi được chế riêng, không ai có thời giờ kêu lên một tiếng. Chủ nhân bĩu môi: - Câm đi, đồ hèn. Gã tóc quăn rít lên: - À, bạn lăng mạ tôi, vậy bạn phải chết, phải chết. Tôi không thể tha thứ được nữa. Hắn bóp cò. Một tiếng đoàng dữ dội, khói bay xanh um căn phòng, một mùi khét lẹt. Chủ nhân không nhúc nhích, hai bàn tay vẫn để tréo trên bàn, trên miệng nở nụ cười khinh miệt. Gã tóc quăn trố mắt kinh ngạc khi thấy đối phương không chết, nhưng trong một phần mười tích tắc đồng hồ, hắn sực nhớ ra. Có lẽ chủ nhân mặc áo giáp ni-lông, loại áo nặng ba kilô gồm nhiều lớp sợi ni-lông chồng chặt lên nhau, đủ sức chặn đứng làn đạn. Cảm thấy mình dại dột, gã tóc quăn bặm miệng bắn phát thứ hai, phát này bay vèo vào giữa mặt chủ nhân. Sát nhân đinh ninh bộ mặt đối phương bị tan ra từng mảnh đẫm máu lầy lụa, và sửa soạn cười rú lên trong toại nguyện. Nhưng một lần nữa, chủ nhân vẫn ngồi nhăn răng cười, cái cười khinh bỉ pha lẫn đểu cáng và bịp bợm. Giọng chủ nhân rít lên, xoáy sâu vào tim gã tóc quăn: - Lại hụt nữa à? Bắn thêm phát thứ ba chứ! Lần đầu tiên trong đời, gã tóc quăn bắn trật. Và bắn trật hai lần mặc dầu chỉ cách mục tiêu không đầy ba thước. Đột nhiên, hắn phăng ra sự thật. Hắn run lẩy bẩy, mồ hôi toát đẫm cổ áo. Tiếng chủ nhân vang lên: - Bạn không bắn hụt phát nào. Bạn vẫn xứng đáng là thiện xạ của Smerch. Tôi xin có lời khen ngợi. Nhưng dầu sao, tôi phải chia buồn cùng bạn, vì bạn dùng lầm đạn mã tử. Gã tóc quăn buột miệng trong tuyệt vọng: - Thảo nào… Mày là kẻ xảo quyệt không có tinh thần thượng võ. - Làm nghề này, có tinh thần thượng võ chóng chết lắm… Vả lại, chính bạn đã tỏ thái độ xảo quyệt trước. Bạn đã lén mang súng vào phòng họp để hạ tôi. Gã tóc quăn lẩm bẩm một mình như người điên: - Lạ thật… Mình đã coi lại cẩn thận, không lẽ… Chủ nhân xòe bàn tay ra, phân bua: - Chung quy lại bạn thèm rượu. Bạn có thói quen khác mọi người là mỗi khi mở mắt phải xúc miệng bằng một phần ba chai sâm-banh thượng hạng. Sáng sớm, bạn ra lệnh cho tên vệ sĩ thân tín của bạn sửa soạn một chai rượu dầm đá vụn thận ngon… Hắn đã tuân lệnh răm rắp… Song hắn lại tuân lệnh tôi nữa. - Trời ơi, mày đã sai lầm hắn thay đạn cại-lông trong súng. - Đúng. Trong lúc bạn say sưa với ly rượu sủi bọt, và điếu xì gà Ha-van thơm phức thì tên vệ sĩ thi hành kế hoạch của tôi. - Đồ khốn. Mày đã lợi đồng tiền để mua chuộc… - Ồ, bạn lầm rồi… Dầu bạn dùng lời nói lỗ mãng, tôi cũng tha thứ… Tên vệ sĩ ruột thịt của bạn không phản bội vì đồng tiền đâu. Trước khi bạn sang thế giới bên kia, tôi xin nói nhỏ vào tai bạn biết hắn là đàn em của tôi từ lâu. Từ lâu, hắn có nhiệm vụ theo sát bạn để kiểm soát. Giờ đây bạn đã hiểu tại sao máy in-pếch-tốts scốp ở cầu thang không thèm quan tâm đến khẩu côn bá phát bá trúng của bạn. Bạn đừng khinh cái máy vô tri vô giác ấy. Nó không lầm đâu, bạn ơi. Tôi đã phải mua tới ba ngàn đô-la… Ha, ha… Giờ tận số của bạn đã tới, bạn hãy nhắm mắt lại cầu kinh đi… Tôi sẵn sàng thi ân cho bạn lần chót… Gã tóc quăn hoảng hốt đâm sầm vào cánh cửa mở ra ngoài hành lang. Bàn tay gân guốc cảu hắn đặt lên quả nắm bằng đồng. Hắn chưa kịp mở thì toàn thân co rúm lại, chủ nhân đã ấn vào cái nút nhỏ dưới bàn. Nút này ăn thông với một hệ thống giết người ghê gớm: trong chớp mắt, một luồng điện cao thế được truyền vào quả nắm. Gã tóc quăn khựng người, rồi lảo đảo, như thể bị một nhát búa tạ nện vào đầu. Đó là tác dụng đầu tiên của luồng điện 1.900 vôn. Hệ thống giết người bằng điện của chủ tịch Quốc tế Đặc vụ giống hệt với ghế điện trong khám đường Sing Sang bên Mỹ. Sau 1.900 vôn đầu tiên, là một luồng điện 900 vôn thứ ba, tất cả trong vòng một phút rưỡi. Toàn thân gã tóc quăn đã ngã nhào bỗng vùng dậy, như được hồi sinh, miệng hắn bà lớn đến nỗi xương quai hàm bị trẹo hắn. Rồi nạn nhân run như chiếc lá trước gió. Cổ hắn bạnh ra, mạch máu phồng lên gấp ba, máu téo ra ở cườm tay và hai bên màng tang, nhiệt độ trong người từ 37- mực độ bình thường – vọt lên 150 trong khoảng khắc… Con người hào hoa và lì lợm của Smerch biến thành cái xác không hồn, sặc mùi cháy khét lẹt. Thế là xong. Mọi người đều quay lại, bàng hoàng trước khuôn mặt méo mó và xám xịt của gã tóc quăn, đại diện tiểu khu Trung Hoa của Quốc tế Đặc vụ khét tiếng xạ thủ trên hoàn vũ. Chủ nhân gõ nhẹ xuống bàn, giọng đều đều như cha kể truyện cổ tích cho con: - Trứng không thể nào khôn hơn con được, phải không các bạn. Việc vừa xảy ra là bài học cho bất cứ ai muốn phỉnh gạt Tổ chức, và coi thường mạng lệnh của tôi. Tôi sẽ không tha thứ bất cứ một mưu toan dối trá nào. Hệ thống điện đặc biệt này được truyền khắp biệt thự. Ngoài ra, tôi còn đặt nhiều võ khí bí mật khác nữa. Các bạn cần hỏi thêm gì về gã tóc quăn phản bội nữa không? Người áo đỏ trả lời thay cho toàn thể: - Thưa không. Xin mời bạn chủ tịch tiếp tục. Chủ nhân nhún vai ra vẻ bất bình vì không ai phản đối: - Giờ đây, tôi xin phép bước vào vấn đề quan trọng, đó là kế hoạch Hoa Phong Lan mà các bạn đã biết. Đúng 1 giờ đêm qua, chiếc phi cơ AN-2P của sở mật vụ Lào quốc cất cánh khỏi trường bay Vạt Chai, bay sang Việt Nam chở theo chiếc thùng thép đầy hóa chất và độc dược cực mạnh. Kế hoạch của ta được thi hành không sai một li, tôi đã mua chuộc được hoa tiêu, và hạ cánh xuống địa điểm đã định. Để bảo vệ bí mật, tôi đã ra lệnh phá hủy phi cơ và hạ sát hoa tiêu sau khi chiếm được thùng thép. Hiện giờ thùng này được cất nơi an toàn. Các bạn có đoán được tổ chức sẽ kiếm được bao nhiêu tiền không? Mọi người im phăng phắc. Chủ nhân bật lửa châm thuốc lá. Mùi thơm của điếu Áp-đuy-la đầu dẹt bay thoang thoảng trong phòng. Chủ nhân nhấn mạnh từng tiếng như muốn cử toạn khắc sau vào tâm khảm: - Hai triệu đô-la. Phải, hai triệu đô-la. Quỹ của tổ chức đang thiếu hiụt sau sự phản bội đê hèn ở Hồng Kông. Với hai triệu mỹ kim này, chúng ta có thể kinh doanh lớn. Tôi tin chắc các bạn hoàn toàn đồng ý. Không đợi cử tọa trả lời, chủ nhân rút trong tui ra một bức thư gập tư, hắn ném lên bàn, nói: - Vào giờ này, bức thư, đúng hơn là bức tối hậu thư của tôi đã được chuyển tới văn phòng thủ tướng. Cũng từ giờ này, chúng ta bước vào giai đoạn hoạt động khẩn trương. Địch sẽ huy động mọi biện pháp để tiêu diệt ta, và trước hết là đoạt lại thùng thép đựng độc dược. Các bạn hãy yên tâm, tôi quyết hướng dẫn Tổ chức tới thành công hoàn toàn. Người áo lục giơ nắm tay lên khỏi đầu, bộ điệu trịnh trọng: - Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào tài lãnh đạo của bạn chủ tịch. Chủ nhân búng điếu thuốc Áp-đuy-la lên trần nhà: - Biết mình, biết người, trăm trận đánh, trăm trận thắng. Bởi vậy, tôi thành thật khen các bạn đề cao cảnh giác. Chúng ta thành hay bại là do kế hoạch Hoa Phong Lan này. Vì lần này, chúng ta đương đầu với tổ chức điệp báo ghê gớm của lão Hoàng. Đúng ra, chúng ta cố tình khiêu khích lão Hoàng. Sớm muộn, lão Hoàng sẽ nhảy vào vòng chiến. Chúng ta đã bố trí đầy đủ, và nhất định toàn thắng. 2 triệu đô-la sẽ nằm gọn trong túi chúng ta. Bây giờ xin moiừ các bạn giải tán. Lần lượt, cách nhau 10 phút, các bạn sẽ lái xe ra đường. Mỗi bạn sẽ có một bức thư niêm kín, ghi rõ chỉ thị. Yêu cầu các bạn thi hành đúng. Tháng sau, nếu cần chúng ta sẽ họp lại. Người áo đỏ nhanh nhảu: - Thưa bạn chủ tịch, lần sau có nên họp lại ở đây không? Chủ nhân gật đầu: - Nên. Đối phương đã phòng vệ ráo riết lại các thủ phủ lớn. Riêng Vạn Tường, chúng ta được an ninh tuyệt đối. Nhân viên của Quốc tế Đặc vụ đã trà trộn vào các cơ quan an ninh nòng cốt. Tuy nhiên… Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là chúng ta được quyền cẩu thả. Tai mắt của địch rình rập đêm ngày, xảy tay là mất mạng như chơi. Có lẽ nhân viên phản gián Sài Gòn đã túc trực trong khách sạn Constellat oa rồi. Trung thành với truyền thống an ninh của Tổ chức, tôi đã trù liệu đầy đủ. Các bạn sẽ rời Vạn Tường theo kế hoạch sau đây: Bạn áo lục sẽ tới lại khách sạn Constellation, tôi đã thuê phòng từ trước. Hai giờ trưa nay, bạn đáp máy bay Lào đi Vọng Các. Về phi cơ, tôi đã để sẵn tại khách sạn cho bạn. Bạn áo xanh, bạn ra phi trường, đáp máy bay của hãng hàng không Việt Nam đi Pakse, ở lại một ngày, rồi xuống thẳng Sài Gòn, đi Manille. Bạn áo trắng, chiếc ca nô đang chờ bạn ngoài bờ sông. Người của tôi sẽ chở bạn sang bên kia sông, đi Nồng khai, từ đó bạn lên xe hỏa về Vọng Các. Còn bạn áo đỏ, tôi cần báo cho bạn biết là đêm qua bạn đã phạm một lỗi lầm đáng trách. Bạn đã ngủ mê mệt trong tiệm đấm bóp gần Chợ Mời. Tôi hy vọng lần sau bạn không bê tha như thế nữa. Người áo đỏ lắp bắp: - Xin lỗi bạn chủ tịch. Chủ nhân cười khà: - Tôi chỉ sợ lần sau bạn không còn sống nữa để mà xin lỗi. Hầu hết các tiệm đấm bóp ở đây đều có mật báo viên của lão Hoàng. Riêng tại tiệm Sen Trắng mà bạn ngủ lại, tôi đã nhân diện được một nữ nhân viên nguy hiểm. - Thưa, từ nay tôi không dám léo hánh đến tiệm đấm bóp nữa. - Vũ trường cũng nguy hiểm không kém. Vieng Ratry là trạm nghe ngông bí mật của CIA và Phòng Nhì Pháp. Nhân viên đặc vụ Sài Gòn thường lảng vảng trong xóm thanh lâu Ernest Outrey. Lần sau đến đất Lào, bạn nên khóa cửa ở trong phòng là hơn. - Vâng. - Đặc biệt lần này, tôi cho phép bạn la cà đôi chút. Đêm nay, bạn còn ở lại Vạn Tường. Nếu cần giải sầu, bạn nên thuê tắc-xi lên Chợ Chiều. Tôi biết bạn còn trẻ, đang cần an ủi. Địa chỉ tôi đưa cho bạn lần trước rất tốt. Sáng mai, đúng 5 giờ, bạn phải đi Thái Lan, không được trì hoãn. Ngoảnh về phía toàn thể, chủ nhân hất hàm: - Cảm ơn các bạn, và thân chúc thượng lộ bình an. Chủ nhân lạnh lùng nhìn từng người một cáo từ. Cái cười phóng túng hồi nãy đã biến mất, cặp mắt trầm ngâm sau mặt nạ đen vụt trở nên nghiêm nghị. Một cảm giác nghẹt thở đè nặng xuống cổ những người phó hội. Người áo đỏ ra sau cùng. Hắn cúi chào chủ nhân lần nữa, một cách trịnh trọng: - Xin lỗi bạn chủ tịch. Chủ nhân nắm tay áo hắn, giọng hách dịch: - Tôi có tai mắt khắp nơi, nhất cử động của bạn đều được báo cáo cho tôi. Lần này, tôi làm ngơ cho bạn, nhưng từ lần sau. Người khách cuối cùng đã từ giã từ biệt thự trên chiếc xe hơi màu đen. Chủ nhân lặng lẽ cởi áo choàng đen, giật mặt nạ ra, ngồi suy nghĩ hồi lâu trên ghế bành nhung. Dưới làn râu mép lún phún, cái miệng trễ ra, lộ hàm răng vàng ệch chất nicôtin và cái nướu thâm si, chứng tỏ một tâm địa nham hiểm và độc ác. Một vết thẹo nằm ngang má bên trái, kỷ niệm của những ngày ăn cắp, mua bán tài liệu tối mật ở Âu châu. Trong một cuộc thanh toán, hắn bị đối phương chém trộm, nhờ giỏi võ, hắn thoát chết, nhưng phải mang thương tích suốt đời trên mặt. Cởi bỏ quần áo, hắn còn trên mười vết thẹo nữa, vết nào cũng thập tử nhất sinh. Có lần bị bắn vào bụng, ruột đổ lòng thòng, cái chết gần kề, hắn vẫn ráng bò dậy, trèo lên xe, tìm đến phòng mạch và thoát chết. Lần khác, rút súng chậm một phần trăm tích tắc đồng hồ, hắn lãnh một viên kẹo đồng ghê gớm vào tim. May phước cho hắn, viên đạn trệch ra ngoài một phân tây, chạm vào cái đồng hồ quả quít. Hắn thoát chết, và kẻ thù bị hắn bắn ngã trong nháy mắt. Ngẫu nhiên, luồng mắt hắn bắt gặp gương mặt đen thui của gã tóc quăn nằm co quắp trên nền nhà. Bình sinh hắn coi thường cái chết, song hôm nay hắn lại cảm thấy tâm hồn xáo động. Hắn cảm thấy sợ chết. Chết như con heo thui dưới sức điện 1.900 vôn… Bàn tay hơi run, hắn châm điếu Áp-đuy-la mới. Phen này, hắn phải đương đầu với một đối thủ thần sầu quỷ khóc. Ông Hoàng… Vì danh dự, vì lẽ sống, hắn phải thắng. Hắn phải đoạt cho kỳ được hai triệu đô-la. Trừ phi… Vô tình, hắn cho tay vào túi áo. Trong người hắn, luôn luôn có một cỗ bài xì. Từ nhiều năm nay, hắn là đệ tử si mê của thần đổ bác. Vì máu cờ bạc mà hắn hút chết nhiều lần. Vì máu cờ bạc mà hắn lao đầu vào nghề đi khuya về tắt. Hắn lại là người mê tín dị thường. Mỗi khi làm việc gì, hắn đều mang bài ra bói. Trên môi thâm xịt, nở nụ cười kiêu hãnh. Hắn nhún vai, móc cổ xì, quăng xuống bàn. Hắn lâm râm khẩn một hồi rồi xóc bài. Xong xuôi, hắn chia 32 con bài thành 8 xấp, mỗi xấp úp 4 con, úp mặt xuống. Tần ngần một phút, hắn lẩm bẩm một mình: - Đỏ thì ăn. Nín thở, hắn lật con bài đầu tiên. Mặt hắn hơi tái, vì trong 8 con, chỉ có 4 con bài đỏ. Nghĩa là hòa. Hắn càu nhàu: - Vô lý. Không thể nào hòa được. Lão Hoàng phải thua không còn manh giáp. Dáng điệu trịnh trọng, hắn lật con bài thứ hai, đỏ…đỏ…đỏ… 3 xấp rồi, còn 5 xấp nữa. Chắc chắn hắn sẽ toàn thắng. Mặt hắn vừa hồng hào được một phút đã trở lại xanh như tàu lá. Vì 5 lá bài màu đen cũng đi với nhau một lượt. Hắn chỉ được 3 đỏ. Nghĩa là thua. Hắn trợn mắt vứt đống bài xì xuống. Những con gài, đầm, và con bồi lộng lãy đè lên những con xì xinh xắn, 32 lá bài bay lả tả trên nền nhà rồi phủ đầy mặt xác chết xám xịt. Nước bài vừa báo cho hắn biết là hắn thất bại. Song hắn vẫn tin tưởng sắt đá. Hắn quát lơn, như muốn trùm lấp sự lo ngại đang dâng lên cuồn cuộn trong lòng: - Hừ, bói bài sai bét… Chương 3 Hai triệu đô-la Bói bài để tìm hiểu tương lai không phải là thói quen của người vô công rỗi nghề. Kẻ sống nguy hiểm nhất lại cũng là kẻ thích bói bài nhất. Cách Vạn Tường 3 giờ máy bay, những nhân viên thân tín của ông Hoàng đang cặm cụi trước cỗ ích-xì nhiều màu rực rỡ. Tâm tri họ không nghĩ đến cùng việc chồng chất nữa. Mà là nghĩ đến 32 con bài xinh xắn, những con rô, bích, cơ, chuồn, xì, đầm, già và bồi. Nhìn những con bài phủ đầy bàn. Nguyên Hương cảm thấy rạo rực, như vừa được Văn Bình hôn. Giờ này, chàng đang yên vị trong cái ghế bành màu đỏ, trong văn phòng ông tổng giám đốc. 15 phút trước, chàng tạt qua bàn nàng như ngọn gió. Chàng đứng lại, nâng cằm nàng lên, và cười một cách ý nhị. Không nói gì hết, nàng cúi gằm xuống, những sợi tóc mềm mại phất phơ trước mặt. Mặc dầu thức đêm nhiều, và làm việc quên ăn quên ngủ, nàng vẫn đẹp, sắc đẹp luôn luôn tươi mát như trái lê cất trong tủ lạnh. Lê Diệp chống nạnh nhìn nàng, và tủm tỉm cười: - Thế nào? Lê Diệp thường hỏi bang quơ như vậy. Mỗi lần Văn Bình ghé Sở để nhận công tác, Lê Diệp thường dùng hai tiếng « thế nào » ri rỏm và nghịch ngợm để hỏi mát nàng. Trong quá khứ, nàng đáp lại bằng cái nhún vai. Đôi khi nàng rưng rưng nước mắt, rồi cúi xuống cái máy chữ điện IBM đồ sộ. Lần này, nàng ngửng phắt đầu, nói giọng chắc nịch: - Bói bài. Lê Diệp chắt lưỡi: - Hừ, bói bài làm gì vô ích. Mãi hắn vẫn không chừa. Tôi sợ lần này lên Lào hắn lại rước thêm một bà nữa. Giọng nàng vẫn đầy vẻ tin tưởng: - Không đâu. Tôi thấy tốt lắm. Lê Diệp lắc đầu: - Bói bài lấy cho mình không linh ứng. Để tôi bói dùm cho cô. Vừa rồi, cô được những con nào? Lối bói của Nguyên Hương rất giản dị: lấy một bộ 32 con bài, bỏ bớt 1 con, xóc đều rồi cúp nhiều lần, sau đó lấy 11 con bên trên cất một bên trải 20 con còn lại thành hình móng ngựa. Nếu trong 20 con này, còn 4 con 9 nút, là sắp sửa có sự ly biệt. Nhưng nếu là 4 con đầm thì vạn sự như ý. Nàng dề môi: - 4 đầm. Lê Diệp cười ha hả: - Phải bói 3 lần mới đúng. Nào cô đưa cỗ bài cho tôi. Chàng sếu vườn của sở Mật vụ xóc bài thoăn thoắt như tay chơi thực thụ. Trên thực tế, Lê Diệp không phải là con thiêu thân đổ bác, song nếu cần – cũng như Văn Bình Z.2S – chàng có thể đương đầu với phường đại bịp quốc tế. Chàng chia xấp bài cho Nguyên Hương: - Mời cô cúp. Thấy nàng giơ tay phải, chàng gạt đi: - Không được. Theo phong tục bói bài, phải cúp bằng tay trái, nghĩa là tay gần trái tim. Cúp bằng tay phải là hỏng. - Ồ, hồi nãy tôi cúp bằng tay phải. - Nghĩa là hỏng rồi. 20 con bài nằm ngoan ngoãn trên bàn. Đột nhiên, mặt Nguyên Hương đỏ ửng. Nàng cảm thấy xấu hổ. Nếu việc này đến tai Văn Bình, chàng sẽ cười nàng hàng tháng. Giọng Lê Diệp đều đều: - Cô lật bài lên. Nàng suýt thét lên. Trời ơi, 4 con bài 9 nát phơi mặt chềnh ềnh dưới ánh đèn nê – ông. Nghĩa là Văn Bình sẽ bỏ nàng… Rồi nàng bưng mặt khóc… Nhưng chỉ một phút sau, nàng vùng đứng dậy. Vội vàng, Lê Diệp lùi lại, song không kịp nữa. Bình mực đỏ đã rót vào ngực chàng. Cái áo sơ mi trắng tinh mới lấy ở tiệm giặt về trở thành đỏ ối. Nguyên Hương túm lấy cánh tay Lê Diệp: - Hừ, anh thông đồng với Văn Bình để lừa tôi. Anh cố tình xóc gian. Bài của anh đâu đưa hết cho tôi. Lê Diệp biểu diễn đã nhanh, song vì quá nhanh nên sơ xuất. Chàng thay 4 con bài bằng 4 con khác 9 nút giấu sẵn trong túi nhưng lại để một con tòn ten ở mép túi. Nàng đấm thùm thụp vào lưng chàng. Cửa ra vào được mở đúng lúc để cứu Lê Diệp. Quỳnh Loan, nữ nhân viên ưu tú ban Biệt vụ, một ban gồm toàn nữ điệp viên, đứng sững trên ngưỡng cửa. Thấy cái áo sơ mi nhuộm đỏ và bộ mặt nhăn nhó một cách hài hước của Lê Diệp nàng phá lên cười. Sự có mặt của bạn gái trong phòng làm Nguyên Hương tăng thêm tức giận. Nàng vờ lấy bình mực xanh toàn ném thì Lê Diệp đã chạy vụt ra ngoài. Nàng không dám rượt theo vì ngọn đèn đỏ trên bàn buya-rô phựt cháy. Ông tổng giám đốc vừa mở đèn đỏ ngụ ý: tối hệ, cấm vào. Ngọn đèn màu lục kế bên cũng nhấp nháy. Chết rồi, ông Hoàng đã biết rõ sự việc vừa xảy ra trên màn ảnh vô tuyến truyền hình đặc biệt. Đèn màu lục có nghĩa là « yêu cầu văn phòng bí thư trưởng giữ im lặng ». Tấn kịch trong phòng Nguyên Hương kết thúc, kịch nghiêm chỉnh và trọn đại bắt đầu. Văn Bình, Z.28 vẫn giữ vai trò chính. ««« Văn Bình buôn mình xuống chiếc ghế bành đồ sộ, đặt trước buya-rô hình bán nguyệt của ông Hoàng. Vừa cắt xong điếu xì gà Ha van to tướng, ông tổng giám đốc Gián điệp đưa lên mũi hít hà một cách trịnh trọng trước khi châm lửa. Nhìn cái quẹt máy, Văn Bình tỏ vẻ sung sướng: chiếc bật lửa Trung cộng này, chàng mua ở Hà Nội tháng trước. Nó không đáng là bao, song ông Hoàng đã vứt quẹt máy chạy ga đắt tiền, và dùng chiếc bật lửa tầm thường do Văn Bình tặng. Rít hơi thuốc Salem, chàng chăm chú nhìn ông Hoàng. Mái tóc của ông đã bạc hết, bộ âu phục màu đen đã chuyển sang màu nước dưa, cánh tay bị rách một miếng. Cái cà vạt đen, cũng tự tay chàng mua sáu năm trước tại Vọng các, bây giờ đã sờn chỉ. Bùi ngùi, nhìn xuống chân Văn Bình thấy đôi giày của ông Hoàng bắt đầu há mõm, tất cả vá chằng chịt mà không giấu được lỗ hổng. Trông cách phục sức cổ xưa và nghèo nàn của ông Hoàng, không ai dám ngờ ông là một trong những người tiêu xài nhiều tiền nhất nhì thế giới. Dĩ nhiên là không tiêu xài cho bản thân, vì ông không có vợ con, ông cũng không thèm cao lương mỹ vị. Ông sống tầm thường như hàng ngàn, hàng vạn công chức tầm thường khác. Có lẽ đời sống của ông còn tầm thường hơn nữa. Bữa cơm của ông luôn luôn đạm bạc, gần như chay trường. Ông chỉ phạm hai điều xa xỉ: ấy là uống cà phê đặc xịt suốt ngày thay nước trà, và hút xì gà Ha van loại đặc biệt không bao giờ nghỉ. Nhiều đêm bận công việc, ông hút thuốc đến khi môi miệng cháy bỏng mà vẫn không chịu ngừng. Trong số nhân viên dưới quyền, Văn Bình – cũng như Nguyên Hương và Lê Diệp – được biết số tiền chi tiêu khổng lồ của ông Hoàng. Có tháng, ông vung ra mấy trăm triệu bạc. Người ngoài không thể tìm ra ông lấy tiền ở đâu vì lẽ ngân sách quốc gia không dành mục nào cho sở Mật vụ. Trên thực tế, phần lớn chi tiêu của Sở đều do ông tổng giám đốc và các cộng sự viên ruột thịt tự lực làm ra. Có lẽ cũng vì lý do này mà ông Hoàng ngồi hết tháng này qua năm khác trong ghế tổng giám đốc Mật vụ. Vả lại, nếu các chi phí khoản đều được ngân sách quốc gia cung cấp thì cũng không thể tìm được ai thay nổi ông Hoàng, con người được giới điệp báo quốc tế coi là siêu nhân. Gõ tàn xì gà vào cái đĩa sứ trắng, ông Hoàng hỏi giọng thân mật: - Z.28. Đã lấy lại phong độ rồi chứ? Lời nói của ông Hoàng nhắc chàng nhớ lại những ngày gian nan tại Hà Nội, đi theo vết chân của tử tội Bôrin. Công tác thành công nhưng chàng bị thương nặng, phải nghỉ dưỡng sức một thời gian ở Đà Lạt. Cũng như mọi lần, chàng lo ngay ngáy đang đêm trong khi chàng hú hí với giai nhân, Lê Diệp sẽ lù lù dẫn xác vào, lôi chàng về. Nhưng lần này, chàng được hưởng ngoại lệ. Ông Hoàng mặc cho chàng bù khú trên đất cao nguyên mát lạnh. Tưởng ông giám đốc mắc bệnh hay quên. Văn Bình đã mừng rơn. Song chàng mừng không được lâu. Hạn nghỉ vừa hết, một chiếc phi cơ hạng nhẹ đã chờ chàng ở Liêng Khàng. Chàng đành thở dài từ giả người đẹp – đúng hơn, một trong một tá người đẹp mà chàng gặp trong những ngày được mệnh danh một cách văn vẻ là dưỡng sức – vội vã đóng va li, trèo lên máy bay. Lê Diệp cũng như Nguyên Hương đều không có mặt ở phi trường và « hộ tống » chàng về Sài Gòn như thường lệ. Đó là lần đầu chàng được hưởng đặc ân. Đến Tân Sơn Nhất, một chiếc xe hôm đen đã nằm lù lù ở phi dạo, với một khối thịt hơn trăm kilo sau vô-lăng. Tài xế không phải chàng sếu vườn lầm lì quen thuộc mà là gã vệ sĩ to xác, sợ chàng như sợ cọp. Thấy chàng, hắn nhanh nhảu: - Gớm, lâu quá! Chàng cười khì khì: - Lâu quá, chưa bắt tay phải không? Cách đây không lâu, chàng lợi dụng cơ hội bắt tay đã vận nội công bóp hắn suýt nát xương. Chàng trừng phạt hắn về lội xen vào chuyện riêng : giữa chàng với cô bí thư trưởng trẻ đẹp và hay ghen tuông. Từ lần bị trẹo tay, hắn không dám sàm sỡ với chàng nữa. Dọc đường về đại lộ Nguyễn Huệ, hắn ngăm tăm, không nói nửa lời. Đến trụ sở Công ty Điện tử, tổng hành doanh của sở Gián điệp mới xây cất, Văn Bình được đưa thẳng vào phòng ông tổng giám đốc. Chàng trả lời ông Hoàng bằng cái nhún vai cố hữu: - Thưa tôi đã bình phục hoàn toàn. Thật vậy, vết thương ở vai chàng đã khỏi hẳn. Khỏi hẳn, mặc dầu chàng không theo đúng chỉ thị của y sĩ riêng của Sở. Y sĩ bắt bó bột thì chàng gạt phắt. Chàng chỉ dán thuốc cao của một viên đông y gia truyền, rồi bỏ một mạch lên cao nguyên. Thời gian ở Đà Lạt, chàng không hề thay thuốc cao. Vậy mà vết thương lành lặn như được điều trị bằng thuốc của Hoa Đà. Mà quả thật là chàng được Hoa Đà điều trị. Hoa Đà đối với chàng là hàng chục chai huýt-ky hạng tốt, uống sếch không pha nước, là hàng chục đêm không ngủ bên bàn mạt chược, hoặc nếu ngủ thì không bao giờ ngủ một mình. Hoa Đà đối với chàng là đàn bà… Văn Bình đinh ninh ông Hoàng sẽ trễ giọng ra để mắng yêu chàng vài câu lấy lệ. Nhưng không, ông tổng giám đốc đón tiếp câu nói của chàng một cách chăm chú. Có lẽ ông bắt đầu tin chàng nói thật. Hoặc giả ông đã quá quen với lối thề cá trê chui ống của chàng. Hoặc giả ông đang bận giải quyết một công tác thập phần quan trọng mà lời nói bưng bít của chàng không đủ sức mạnh để đánh thức bản chất hài hước trong lòng ông nữa. Ông Hoàng nghiêm trọng: - May quá. Tôi chỉ lo không có ai thực hiện được công tác này. Một công tác khá nguy hiểm, trừ anh ra vị tất nhân viên nào làm nổi. À anh nghe nói tới Quốc tế Đặc vụ chưa? - Thưa rồi. Tôi được tin dạo này Quốc tế Đặc vụ hoạt động ráo riết ở khu vực châu Á. Bọn họ công khái buôn vàng, á phiện và khí giới. Gần đây, tôi nghe họ mất nửa triệu đô la vang lậu ở Hồng Kông. - Anh nói đúng, song đối với Quốc tế Đặc vụ, thì nửa triệu đô la bị mất chỉ là muối bỏ biển. Chắc anh đã biêté Quốc tế Đặc vụ có nhiều tiền, rất nhiều tiền. Tuy mới được thành lập, họ đã đặt xong hệ thống đại diện trên khắp ngũ đại châu. Tổ chức Á châu của họ tương đối hoạt động đắc lực nhất. Điều này rất phiền cho ta, vì sớm muộn quyền lợi của ta sẽ va chạm với quyền lợi của họ. - Thì ta sẽ cho họ một bài học. - Nói như vậy không được. Nghề điệp báo không phải là nghề của sức mạnh, giống như võ sĩ thượng đài, ai cân nặng, ai giỏi võ thuật thì thắng. Người yếu thắng người khỏe là thường. Yếu tố quyết định là mưu trí. Chính vì thế nên tôi không muốn đụng tới Quốc tế Đặc vụ. Vì tôi hy vọng sẽ dùng được họ. Hoặc ít ra dùng họ để lấy tin tức và làm những việc mà ta không tiện làm hoặc không làm được. Nhưng bây giờ thì hết rồi. Thái độ trịch thượng của Quốc tế Đặc vụ bắt tôi phải can thiệp. Từ lâu, họ không dám « ăn hàng » ở Ai Lao, vì hơn ai hết, họ biết Ai Lao nằm trong địa bàn hoạt động của ta, léo hánh tới Ai Lao thì ta phải hành động. Hiện nay, họ bắt đầu gây sự ở Vạn Tượng. - Theo tôi, có lẽ bàn tay của Bắc Kinh đã nhúng vào. - Có lẽ. Ít nhất, họ phải có kẻ nào giựt giây mới dám vuốt râu hùm. Một chiếc phi cơ ủa chính phủ hoàng gia Lào vừa bị Quốc tế Đặc vụ chặn bắt trên đường từ Vạn Tường tới Đà Nẵng. - Họ buộc phi công đáp xuống vùng cộng sản kiểm soát, phải không ông? - Không. Phi hành đoàn gồm ba người, đại úy chỉ huy Kham Sen là sĩ quan giàu kinh nghiệm, và rất được tin cậy về phương diện chính trị. Phi cơ rời Vạt chai được một giờ thì Thao La, một nhân viên phi hành, dùng rượu pha thuốc độc, cho hai bạn uống. Họ chết gục trên phi cơ. Thao La bèn lái về phía nam, dọc đường đáp xuống cho Quốc tế Đặc vụ lấy hàng hóa. Thao La bay dọc sông Cửu Long, không biết định đi đâu, song chỉ mấy phút sau phi cơ nổ tung. - Thôi, tôi hiểu rồi. Thao La bị Quốc tế Đặc vụ giết. - Đúng, Quốc tế Đặc vụ hà tiện được một món tiền thù lao lớn, lại bảo vệ được bí mật. Tuy nhiền, cái chết của Thao La làm cuộc điều tra bị sa lầy. Nhân viên phản gián Lào tới tận nơi phi cơ làm nạn chỉ thấy một đống kim khí méo mó, trầy trụa và ba cái xác bị cháy ra than. - Phi cơ của Kham Sen chở hàng gì, thưa ông? Ông Hoàng bâng khuâng nhìn hơi khói xì gà cuộn thành vòng tròn trong khoảng không: - Điều này đang làm tôi băn khoăn nhiều nhất. Vì đây là thuốc độc. Phi cơ AN-2P chở toàn thuốc độc có thể giết hàng triệu con người trong chớp mắt. Trong dĩ vãng, Văn Bình đã điều tra về nhiều vụ phi cơ bị chặn bắt dọc đường. Song nhân viên gián điệp quốc tế hoặc quân gian chỉ chân bắt bằng hoa đắt tiền như vàng, hột xoàn, hoặc các yêu nhân khoa học, chưa bao giờ xảy ra vụ chặn bắt thuốc độc. Và có lẽ đây là lần đầu tiên chàng nghe nói tới phi cơ chở thuốc độc giết người. Tưởng lãng tai, sau nhiều đêm hoan lạc, và uống quá nhiều huýt-ky nguyên chất, chàng vội hỏi lại: - Thưa, phi cơ chở thuốc độc à? Chở thuốc độc xuống Đà Nẵng làm gì thưa ông? Ông Hoàng bấm chuông điện: - Tôi cho mời bác sĩ Trần Ngọc tới ngay bây giờ. Bác sĩ Ngọc sẽ giải thích tường tận cho anh hiểu. Tôi chỉ biết đại cương phi cơ chở thuốc độc xuống Đà Nẵng. Phi cơ ta bay dọc biên giới nhờ chiếc AN-2P suốt đêm để hộ tống mà không thấy, đành phải quay về căn cứ. Thùng độc dược này không phải của ta mà là của chính phủ Hoa Kỳ. Cửa phòng kẹt mở, Bác sĩ Trần Ngọc bước vào. Trần Ngọc là một thanh niên trạc bốn mươi. Mắt sáng như điện, thân hình lực lưỡng trông hao hao như võ sĩ quyền Anh hạng nhẹ tên tuổi. Ông Hoàng ra hiệu cho Trần Ngọc ngồi xuống: - Đây là Văn Bình, tức là Z.28, chắc bác sĩ đã biết. Trần Ngọc nghiêng mình: - Mới nghe danh, giờ được gặp mặt. Hân hạnh lắm. Ông Hoàng nói: - Bác sĩ Trần Ngọc vừa tốt nghiệp khóa bổ cúc dài hạn của CIA về hóa chất đặc biệt. Phiền bác sĩ giải thích rành mạch cho Z. 28, chắc bác sĩ đã biết. Bác sĩ Ngọc đằng hắng một tiếng, rồi nói một mạch:: - Hễ nói tới thuốc độc, ai cũng kinh sợ vì uống vào thường mất mạng, song nhà khoa học lại coi như trăm ngàn thuốc khác. Chẳng hạn như xi-a nuya, thử thuốc độc ghê gớm nhất mà cơ quan điệp báo nào cũng dùng, mùi the the như hạnh nhân, uống vào trong năm giây thì chết, lại là một vật liệu kỹ nghệ. Người ta dùng xi-a-nuya, để bón cây chanh cho khỏi sâu, hoặc nhuộm vải, thuộc da và chế thuốc. Hầu hết các độc dược đều được dùng trong y khoa và kỹ nghệ. Gần đây, y học thái tây phát minh ra phương pháp chữa bệnh bằng độc dược. Đối với người châu Á, đó không phải là chuyện lạ vì tuy ngàn năm nay ta đã biết dĩ độc trị độc. Tại Âu-Mỹ, một số thuốc độc cực mạnh đã được dùng trị bệnh thần kinh. Người ta ra nhiều phương pháp để nghiên cứu và sản xuất độc dược. Cơ sở sản xuất ở Lào được coi là quan trọng nhất châu Á. Văn Bình ngắt lời: - Tại sao lại sản xuất thuốc độc ở Lào? Phải chăng Lào là nơi có nhiều á phiện? Bác sĩ Ngọc đáp: - Ông nói đúng, cách thủ đô Vạn Tường một cây số có một nhà máy riêng do người Mỹ dựng lên để chế độc dược. Phần lớn độc dược được sản xuất tại đó là á phiện. Thật ra, á phiện chứa cả thảy 25 chất độc khác nhau, và chất được nhiều người biết đến là mọt-phin. Theo thần thoại Hy Lạp, mọt-phin là tên của vị Thần Ngủ. Chất này được tìm ra vào năm 1803, có tác dụng làm bệnh nhân ngủ say, quên đau, nên được đặt tên là mọt-phin. Ngoài mọt-phin, còn có nhiều chất khác, như cô-đê-in, thê-ba-in và papavêrin. Nhà máy độc dược gần Vạn Tường, bề ngoài đội lốt hãng chế tạo tân dược, mang cái tên rất thơ mộng là Công ty Dược phẩm Thần tiên. Công ty Thần tiên còn chế nhiều độc dược vô cùng nguy hiểm, chỉ một chút đủ giết một mạng người trong chớp mắt. Cây mã tiền được trồng ở Ấn độ, sau đó được mang qua Lào và trồng trên những ngọn đồi gần vương đô Luang Prabang. Trái mã tiền trong giống như cam, hai nhà bác học Pháp tìm ra chất mã tiền, và dùng để kích thích thần kinh hệ. Việc sản xuất mã tiền thường đi đôi với sản xuất mọt-phin vì nó kỵ á phiện. Người bị đầu độc á phiện thường được cứu chữa bằng mã tiền. Mã tiền còn cứu sống được những người bị đầu độc bằng thuốc mê, rượu mạnh và thuốc ngủ nữa. Văn Bình lại ngắt lời: - Thưa, nhiệm vụ của tôi là hoạt động điệp báo. Tôi muốn anh biết rõ trước khi đảm nhận công tác. Vì ngoài á phiện, mã tiền và acônít ra, thùng độc dược chở trên phi cơ AN-2P còn chứa nhiều hóa chất nguy hiểm khác nữa. Dường như không quan tâm tới sự sốt ruột của Văn Bình, bác sĩ Ngọc nói tiếp, giọng đều đều như giáo sư giảng bài: - Theo thống kê, chết vì đầu độc đứng hàng thứ ba trong các tai nạn. Mỗi năm, 34.000 người Mỹ chết vì thuốc độc, vô tình hay hữu ý. Có thể phân loại thuốc độc làm 3; thứ nhất, tàn phá mọi cơ thể, thứ hai, làm cháy thịt da, thứ ba, chỉ nguy hại đối với một số bộ phận trong người. Sự nguy hại của độc dược đã được nhiều chính phủ lợi dụng triệt để, đặc biệt từ đầu thế kỷ này. Trong thế chiến thứ nhất, nước Đức đã dùng hơi độc tại mặt trận. Trong thế chiến thứ hai, lãnh tụ quốc xã Hít le đã cho sản xuất nhiều loại hơi độc kinh khủng, song không dám đem dùng. Hít le bại trận, Nga sô chiếm đoạt các nhà máy chế hơi độc của Đức, mang về nước, và mặt vụ Sô viêté đã tiếp tục công việc của Hít-le, trên một qui mô rộng lớn và khoa học hơn. Buộc lòng Hoa kỳ cũng phải lao đầu vào công cuộc nghiên cứu, phát minh và sáu xuất hơi độc. Công ty Dược phẩm Thần Tiên là một bộ phận của côn cuộc này. Khỏi nói, ông cũng biết nó rất quan trọng. Thứ thuốc độc hoặc hơi độc hiện được các cường quốc Nga-Mỹ thí nghiệm ráo riết không phải là thứ làm chết người tức khắc mà là thay đổi tính tình, năng lực con người. Hoa Kỳ đã chế ra một loại hơi, ngửi vào thì thông minh biến ra điên khùng, kẻ lương thiện có thể trở thành sát nhân. Người ta gọi là hơi ngạt thần kinh. Ngoài ra, còn sản xuất một thứ độc dược khả dĩ thay đổi được tâm địa con người. Một trong các dược liệu được dùng là chất acônít. Từ lâu, người Âu châu đã biết acônít. Tưởng Mác ăn toan mang quân đi đánh, bị vây khốn, lương thực thiếu hụt, binh sĩ phải đào rễ cây mà ăn. Một số ăn lầm acônít đã mất trí nhớ, và thành điên khùng. Acônít gây ra nhiều nguy hiểm đến nỗi người ta gọi nó là (Bà Chúa thuốc độc). Thời Chiến quốc bên Tàu, các bộ lạc ở dọc Hy mã lạp sơn cũng dùng acônít để giết kẻ thù. Năm 1762, acônít được ghi vào danh sách dược liệu Áo quốc. Người ta thường thấy cây acônít mọc ở Thụy Sĩ, Pháp, Đức và Tây Ban Nha. Trên núi ở Hoa Kỳ cũng ó cây acônít. Loại cây này thường mọc dọc dòng suối. Gần đây, nó mọc lên thật nhiều ở Lào. Hoa nó rất đẹp, trông như bim bim, màu tím hay vàng, trắng tùy theo loại. Thứ acônít ở Nêpan được coi là độc nhất. Acônít trồng ở Lào là loại cây từ Nêpan tới. Khoa học Tây phương hiện dùng acônít để chữa bệnh thần kinh. Theo chỗ lộc biết, các cơ quan điệp báo đang biến acônít thành một thứ thuốc đặc biệt, có thể chinh phục một quốc gia, đánh ngã một dân tộc không cần bắn phát súng. Uống acônít vào, nạn nhân cảm thấy nong nóng để chịu bao tử, đói khi ói mửa, nhưng thường là mạch máu và nhịp thở chậm lại, da dẻ lạnh ngắt, rồi thân thể trở nên bất động, miệng không nói được, tay chân không giơ lên được, tóm lại con người thành tượng đài. Lời tiết lộ của Trần Ngọc và Văn Bình bàng hoàng. Chàng đã hiểu tại sao ông tổng giám đốc muốn chàng chăm chú theo dõi cuộc giải thích trường giang đại hải của Trần Ngọc. Cách đây không lâu, trong một cuộc họp bí mật với CIA ở Hoa Kỳ, vấn đề xử dụng acônít vào mục đích gián điệp đã được cứu xét với ông Hoàng. Vạn nhất đối phương hoàn thành được võ khí acônít, cán cân thăng bằng trong cuộc vật lộn bí mật sẽ không còn nữa. Văn Bình chăm chú nghe bác sĩ Trần Ngọc nói khiến tan thuốc S đem rớt đầy ống quần mà chang kỳ ông biết. Ngẫm nghĩ một giây, chàng hỏi: - Có phương thuốc nào giải độc acônits không? Bác sĩ Ngọc đáp: - Có. Mời uống thì có thể pha mù-tạt với nước âm ấm cho bệnh nhân, để giải độc, trước khi chở vào bệnh viện. Nhưng đó là uống ít. Nếu uống nhiều thì vô phương. Văn Bình châm điếu Salem mới: - Ở Việt Nam có acônít không, bác sĩ? Ông Hoàng xen vào: - Nếu bac sĩ Ngọc trình bày một cách bình dân hơn, có lẽ anh không đặt ra câu hỏi vừa rồi. Xứ ta có rất nhiều acônít. Ai cũng biết nó. Vì nó là Phụ tử. Văn Bình giật mình: -Thưa, phụ tử trong thuốc Bắc ấy à? Ông Hoàng gật đầu: - Phải. Thầy lang nào của ta cũng từng cắt phụ tử mặc dầu không dám cho uống nhiều sợ công phạt. Ta chỉ nghe nói phụ tử rất nóng, còn nóng hơn quế chi nhiều, chứ chưa biết nó là thuốc độc nguy hiểm. Từ hai năm nay, cơ quan gián điệp Hoa lục đã bắt đầu nghiên cứu phụ tử. Văn Bình buột miệng: - Thảo nào! Ông Hoàng gật gù: - Bây giờ anh đã hiểu tại sao tôi lưu tâm đặc biệt tới vụ mất trộm thuốc độc ở Ai Lao. Văn Bình hỏi: - Thưa, Quốc tế Đặc vụ chặn bắt thùng độc dược để bán lại cho Trung cộng, phải không? Ông Hoàng thở dài: - Tôi chưa rõ. Nếu vậy thì thật là bất hạnh. Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng là một vụ chứa đựng rất nhiều bí ẩn. Ngay sau khi chiếc AN-2P mất tích, trung ương CIA đã liên lạc với tôi, nhớ tôi tiến hành cuộc điều tra. CIA nắm được một số đầu mối. Sau khi máy điện tử Intellofax sắp xếp xong tài liệu, tôi sẽ chuyển đến tay anh. Tiếp theo CIA là văn phòng đặc biệt của phủ Thủ tướng Lào quốc yêu cầu ta giúp đỡ một tay. Dĩ nhiên là ta nhận lời. Nếu họ không yêu cầu, ta cũng lãnh trách nhiệm. Bác sĩ Trần Ngọc đã ra ngoài không biết từ khi nào. Ông Hoàng lấy trong tủ nhỏ gắn vào tường ra một cái khay bạc, trên để chai rượu buo bông đầy ắp và hai cái ly pha lê. Biết tính điệp viên thượng thặng Z.28, mỗi khi chẳng tới văn phòng, ông thường để giành riêng cho chàng. Nốc một hơi bal y huýt-ky thơm phức, Văn Bình hỏi ông tổng giám đốc: - Tôi sẽ phải làm gì, thưa ông? Mắt ông Hoàng trở nên mơ màng sau làn khói xì-ga Havan: - Chính phủ Lào chuyển cho ta một bức thư quan trọng do Quốc tế Đặc vụ gửi tới. Họ vừa nhận được trưa qua. Một chuyến máy bay quân sự đặc biệt vừa mang thư này tại đây. Bức thư được gửi bằng đường bưu điện ở Vạn Tường: Ông Hoàng đẩy lại trước mặt chàng một hồ sơ đánh máy màu vàng, bên trên có hai chữ « tối mật » bằng mực đỏ tươi. Bức thư được đánh máy trên giấy láng, trình bày rất sáng sủa và lịch sự. Ở góc trái, trên cùng, Văn Bình thấy bốn chữ « Quốc tế Đặc vụ » in mực xanh. Nội dung bức thư như sau: Vạn Tường, ngày… tháng… năm 19… Kính gửi Hoàng thân Thủ tướng Chính phủ Ai Lao, Thưa Ngài, Ngài đã nghe nói nhiều tới chúng tôi, song đây là lần thứ nhát chúng tôi được hân hạnh giao dịch với qui chính phủ, nên tôi mạn phép được tự giới thiệu. Tôi là chủ tịch Quốc tế Đặc vụ, viết tắt QTĐV. Tổ chức do tôi có vinh dự điều khiển được thành lập sau trần đại chiến thứ hai, đặt chi nhánh khắp năm châu, và chuyên về địa hạt điệp báo và thương mãi đặc biệt. Chúng tôi không giống như Quốc tế Tin tức của đại tá Mỹ A-mết. Chúng tôi cũng không giết người thuê như Mafia, hoặc có khuynh hướng chính trị rõ rệt như đảng Hắc Long ở Nhật Bản và đảng Thanh Long ở Trung Quốc. Phương châm hoạt động của chúng tôi là kiếm ra thật nhiều tiền. Cơ hội kiếm tiền của chúng tôi đã tới khi qui chính phủ cao chở một thùng thuốc từ Vạt chai đi Đà Nẵng. Năm giờ sau khi chiếc AN-2P của sở Mật vụ Lào bị thất lạc, một số thông tấn xã quốc tế đã hay tin. Ngoài các hãng Tây phương như Pháp tấn xã, Mỹ liên xã và Hợp chúng xã, phải viên Tất của Liên sô và Tân hoa xã của Trung Quốc cũng đã điện cùng khắp thế giới về vụ phi cơ mất tích. Phủ Thủ tướng của quí chính phủ ra một thông cáo đặc biệt nói rằng chiếc AN-2P ngộ nạn trong vùng rừng rú gần Paksé vì hỏng máy, và phi cơ này bị rơi trong một công tác liên lạc thông thường, không dính líu tới bí mật quốc phòng. Tôi rất buồn khi phải thông báo với Ngài rằng chiếc AN-đã chở một món hàng trọng hệ. Ba nhân viên phi hành đều tử nạn, và thùng thép trên phi cơ đã được mang tới một nơi an toàn. Chiếc thùng này đang nằm trong tay tôi, nếu Ngài chưa tin, tôi xin liệt kê một số đặc điểm, để ngài tưởng lầm: Thùng hình vuông, mỗi bề một thước rưỡi, gồm ba vỏ thép, bề dày mỗi vỏ là 15 ly, trên nắp gắn một cái hộp riêng, chứa ba kilo bột G. và ngòi nổ. Hiện hộp nổ này đã được tháo ra và tiêu hủy. Trong thùng có cả thảy 115 kilô dược liệu quốc phòng, chia ra như sau: - 60 kilô phụ tử, tức là acônít, độc dược mà Trung Quốc đang thí nghiệm để chế tạo một võ khí mới cho cuộc chiến tranh lạnh. - 10 kilô mã tiền tính. - 5 kilô xi-Văn Bình-nuya. - 5 kilô nọc nhện đên Latrodeclus mactans. - 5 kilô thạch tín và hơi độc ac-xin. Hai chục kilo còn lại gồm những dược liệu sau đây - Cà độc dược: dược liệu này dùng để chế atơrophin, một thứ thuốc chữa bệnh hen suyễn và chữa mắt. Cuy-ra: thứ này, dân da đỏ thưởng tẩm vào đầu mũi tên để giết kẻ thù. Trúng độc cuy-ra, nạn nhân sẽ mở mắt, cấm khẩu, cuống họng thở và buồn phổi cứng đờ, và từ 10 đến 15 phút sau sẽ ngạt thở mà chết. Ngoài ra, còn ba hộp thép nhỏ nữa, mỗi hộp nặng một kilo. - Hộp thứ nhất đựng nọc độc côn trùng: Hẳn ngài đã biết trên trái đất bẩn thỉu mà ta đang sống này có chừng 800 000 thứ côn trùng, một số hiền, một số độc, riêng giống muỗi cũng có 2.000 loại khác nhau. Ruồi thì có ruồi đồng, ruồi xe xê chích vào nạn nhân bị bệnh ngủ, như ở Phi châu còn có cháy rận thì có thể truyền bá bệnh. - Hộp thứ nhì đựng độc thảo: Về độc thảo thì nơi nào cũng có, riêng nước Mỹ có tới 525 loại cây cỏ độc khac nhau. Trong hộp này có những loại cỏ đặc biệt như cỏ nhung, cỏ Dônsơn, cỏ Xuđăng, nghĩa là những thứ cỏ ăn chết người. Mặt khác còn một số nắm độc nữa. Trên thế giới có 4.600 thứ nấm thì non nửa là nấm độc, công ty Thần Tiên ở Vạn Tường đã bỏ vào trong hộp một loại nắm độc nhất vô nhị, pha vào rượu uống thơm ngon song giết người rất nhanh. - Hộp thứ ba đựng nọc rắn: hàng năm chừng 40.000 thiệt mạng trên thế giới vì nọc rắn, mà hai phần ba xảy ra ở Á châu. Diến điện có nhiều nạn nhân nhất, cho nên chúng tôi không lấy làm lạ khi thấy công ty Thần Tiên nghiên cứu nọc rắn. Phải chăng vì Ai Lao ở sát nách Diến điện? Phải chăng vì Trung Quốc có phòng thí nghiệm về nọc rắn? Thưa Ngài, Chúng tôi không hề tơ hào tới một li độc dược đựng trong thùng thép. Xin quí chính phủ tin vào sự làm ăn đúng đắng của chúng tôi vì lần này còn lần khác, chúng tôi không muốn mất tín nhiệm đối với khách hàng, nhất là khách hàng nhiều tiền như quí chính phủ và đồng minh Hoa Kỳ. Tôi xin mạn phép hỏi Ngài một câu: nhân loại sẽ đi tới đâu nếu 115 kilô độc dược này được hòa với nước, trộn với rau cá? Theo chỗ chúng tôi tính, nó đủ sức giết chết 500 triệu người. Bao trận đại chiến xảy ra, nhưng chưa bao giờ có tới mấy chục triệu người chết. Song nếu quí chính phủ qúa hà tiện, hà tiện một cách ngây ngô thì 500 triệu người sẽ chết oan và quí Ngài sẽ phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề trước nhân loại và lịch sử. Cơn ác mộng sẽ tiêu tan nếu Ngại chịu điều đình với chúng tôi. Vâng, nhân danh Quốc tế Đặc vụ, tôi sẵn sàng điều đình với quí chính phủ. Tôi sẽ giao hoàn 115 kilô dược tiêu lại cho Ngài nếu Ngài bằng lòng trả cho Quốc tế Đặc vụ một số tiền vỏ nghĩa là hai triệu đô la Mỹ. Số tiền vàng này sẽ được chuyển vào một trương mục tại Thụy Sĩ (sau đây, xin đính kèm những chi tiết về vụ chuyển ngân). Nếu quí Ngài thỏa thuận, xin liên lạc với chúng tôi trên làn sóng điện 9 kilôxich mỗi đêm vào lúc 10 giờ đúng. Tần số này hiện được cơ quan mật vụ Lào xử dụng, vậy xin Ngài ra lệnh cho tướng Sulivông giành riêng cho chúng tôi trong một thời gian. Tôi tin quí chính phủ sẽ hoàn toàn đồng ý. Vì nếu Ngài không đồng ý, chúng tôi bắt buộc phải thi hành những biện pháp cứng rắn. Chúng tôi sẽ bỏ thuốc độc chứa trong thùng thép vào các hồ chứa nước. Chúng tôi có nhân viên ở khắp nơi trên thế giới, Vạn Tường, Vọng Các, Ngưỡng Quang, Sài Gòn, Tân Gia Ba, Hồng Kông, Đông Kinh, Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn, và hàng trăm thị trấn đông dân cư khác có thể được chúng tôi chọn làm mục phiêu. Quí ngài sẽ phải khoanh tay không biết chúng tôi hành động ở đâu. Vả lại, nếu chúng tôi báo cho quí Ngài biết trước nơi sẽ bị đầu độc, cảnh sát và quân đội được huy động rầm rộ để bảo vệ an ninh sẽ gây ra những chi phí lớn lao, có thể gấp mười, hoặc gấp trăm lần số tiền hai triệu đô la chúng tôi đòi hỏi. Một lần nữa, chúng tôi tha thiết kêu gọi quí Ngài, sáng suốt, đừng để chuyện đáng tiếc xảy ra. Bức thư này được gửi đi từ rạng sáng 1-6. Ngày 1-6, nó sẽ được tới tay Ngài. Chúng tôi sẵn sàng chờ quí chính phủ cho đến 12 giờ đêm 8-6. quá thời hạn này, không một sức mạnh nào cản trở chúng tôi được nữa. Lúc Ngài nhận được thư này cũng là lúc Ngài được tin thiếu ta Sim Leng từ trần. Cái chết của thiếu tá Sim Leng là một thiệt hại lớn lao cho chính phủ Lào vì ông ta là một sĩ quan ưu tú về điệp báo. Sim Leng chết vì uống lầm rượu pha thuốc độc. Sim Leng chết vì uống lầm rượu pha thuốc độc, thứ thuốc độc do xí nghiệp Thần Tiên chế tạo. Tôi xin trình với Ngài rằng thuốc độc dùng để giết Sim Leng đã được lấy tại phòng thí nghiệm Công ty Thần Tiên, chúng tôi không hề Sự kiện này chứng tỏ chúng tôi có tai mắt khắp nơi, ngay cả ở một nơi được coi là cán cứ quốc phòng tối mật ở Ai-Lao. Chúng tôi giết thiếu tá Sim để báo cho quí Ngài biết rằng thuốc độc của hàng Thần Tiên rất bén nhạy. Mặt khác, cũng để cảnh cáo quí Ngài rằng Quốc tế Đặc vụ sẽ không lùi bước trước khó khăn. Từ nay cho đến khi tôi hậu thư hết hạn, quí Ngài phải ra lệnh cho các cơ quan an ninh trong nước án binh bất động. Nghĩa là sở mật vụ, sở cảnh sát và an ninh quân đội không được áp dụng một biện pháp nào, dầu là tiêu cực hay tích cực, đối với Quốc tế Đặc vụ. Nếu các điều kiện này không được quí chính phủ triệt để tôn trọng, buộc lòng chúng tôi phải dằn mặt bằng một hay nhiều vụ ám sát chính trị khác nữa. Khi đó nạn nhân sẽ là những nhân vật quan trọng hơn cố thiếu tá Sim Leng của sở Mật vụ. Trong khi chờ đợi sự xử trí sáng suốt và thông mình của quí Ngài, nhân danh Quốc tế Đặc vụ, tôi long trọng chuyển tới quí Ngài và chính phủ hoàng gia Lào lời chào quí mến. Tổng hành doanh Quốc tế Đặc vụ Viễn Đông. Chủ tịch: Sam Phoun ấn ký. ««« Văn Bình bâng khuâng buôn lá thư xuống bàn. Mùi xì-gà Ha-van quyện với mùi Salem bạc hà thành một mùi thơm lạ lùng. Văn Bình ngẩn nhìn ông tổng giám đốc: - Thưa Sam Phoun là ai? Ông Hoàng chậm rãi đáp: - Hiện phản gián Mỹ đang truy nguyên căn cước của Sam Phoun. Chỉ biết hắn là chủ tịch phân bộ Viễn Đông. - Như vậy Quốc tế Đặc vụ phải là một tổ chức hùng hậu. Nếu không họ không dám hoạt động ngang nhiên ở Lào, nhất là chọc tức chúng ta và tình báo CIA. - Dĩ nhiên. Tôi biết họ có người ở khắp châu Á. Họ liên lạc với nhau bằng làn sóng ngắn, CIA đã khám phá ra tần số, và thu âm được một số mật điện, song chưa tìm ra nghĩa. Hẳn anh không lạ gì cơ quan NASA của Mỹ. Hầu hết mật mã trên thế giới đều bị các chuyên viên toán học cao cấp của NASA chọc thủng. Song NASA phải bó tay trước mật mã của Quốc tế Đặc vụ. - Thưa, chính phủ Lào nắm được đầu mối nào chưa? - Có lẽ anh cần hiểu rõ nội tình Lào quốc hơn nữa. Lào chia làm 3 phe, trung lập, hữu hái và tả phái. Tam dầu chế này làm chánh quyền vương quốc bị tê liệt. Vì thế, cơ quan an ninh Lào bị tê liệt do sự tranh chấp giữa 3 khuynh hướng điều khiển. Hoàng thân Thủ tướng đã tiên liệu được sự sa lầy này nên bí mật thành lập tại phủ Thủ tướng một cơ quan đặc biệt, đảm trách công tác mật. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà anh đoán biết, anh chỉ có thể liên lạc công khai với cơ quan an ninh chánh thức mà thôi. Khi nào phanh ra manh mối, sắp đánh ván bài quyết định, anh mới được phép tiếp xúc với phủ Thủ tướng. - Thưa còn CIA? Người Mỹ cho biết sẵn sàng nộp hai triệu đô la tiền chuộc. Đối với họ, thì hai triệu chứ hai chục triệu cũng không thành vấn đề. Họ sẽ trả tiền một cách vui vẻ, nếu Quốc tế Đặc vụ bi đánh gục. Tôi đang thường thuyết với họ về một vài chương trình quan trọng. Sự thành công của anh ở Lào sẽ giúp cuộc điều đình của tôi chóng đạt kết quả. - Thưa, tôi sợ Quốc tế Đặc vụ đánh cắp bớt thuốc độc, trộn bột khác vào thay thế. - Không sợ. Thuốc độc được niêm phong cẩn thận trong hộp sắt. Muốn lấy ra, phải tháo gỡ các dấu xi, và bẻ 4 cái khóa. Khóa này được chế tạo riêng trong ban Kỹ thuật CIA, nếu không có chìa thì không tài nào mở được. Riêng gỡ ác dấu xi đã khó rồi, vi xi được trộn hóa chất đặc biệt, khiến mọi phương pháp mở tân tiến đều bất lực thuê ở ngân hàng, gồm hai nấc, nấc mở bằng chìa, và nấc mở bằng chữ số. - Thưa, Quốc tế Đặc vụ có thể khoan dung thùng thép cho ổ khóa bật ra. - Trong trường hợp này, chất nổ giấu sau ổ khóa sẽ phát ra, độc dược sẽ biến chất. Tóm lại, họ chỉ có thể phá hủy thùng độc dược mà không thể lấy độc dược được. - Thưa, bao giờ lên đường? - Trong nửa giờ, phi cơ sẽ cất cánh. Máy bay riêng của ông tùy viên quân sự tòa đại sứ Lào tại Sài Gòn. Gia đình ông tùy viên về Vạn Tường nghỉ phép, anh sẽ đi nhờ. Họ không biết anh là ai. Và anh cũng không cần quen họ. À, còn điều này nữa… Ông Hoàng mở tập hồ sơ trên bàn, nói tiếp: - Anh biết cô Quỳnh Loan trong ban Biệt vụ không? Văn Bình đau nhó như bị đâm kim vào thịt. Dĩ nhiên, chàng phải biết Quỳnh Loan, vì nàng là người đẹp nghiêng nước, nghiêng thành của Sở. Nhan sắc của nàng đã làm chàng mê mẩn đến mất ăn, mất ngủ. Hơn ai hết, chàng phải biết Quỳnh Loan, nữ điệp viên ưu tú và đa mưu. Cách đây không lâu, tưởng nàng dễ bảo, Văn Bình lựa lời tán tỉnh. Như chàng tiên liệu, nàng đã đầu hàng nhanh chóng. Chàng đinh ninh nàng rung động trước những thớ thịt rắn chắc, thân hình vạm vỡ, cân đối, khuôn mặt khôi ngô, cặp mắt đa tình, giọng nói quyến rũ, cử chỉ lịch thiệp và… bùa phép ghê gớm của chàng. Ngờ đâu nàng cho chàng vào xiếc. Đồng lõa với Nguyên Hương, nàng giả vờ xiêu lòng, rủ chàng đi chơi, rồi lừa chàng bị bắt, khiến Z.28, điệp viên số một của ông Hoàng, tinh hoa của làng điệp báo từng được năm châu kính nể, phải nằm khám một đêm, đánh bạn với rệp và muỗi đói. Từ bấy đến nay, chàng vẫn chưa hết bực mình. Chàng rình cơ hội trả đũa. Ông tổng giám đốc vừa mạng lại cho chàng một dịp báo thù bằng vàng. Chàng bèn gật đầu: - Thưa biết. Ông tổng giám đốc nheo cặp mắt cận thị: - Ừ nhỉ, tôi suýt quên. Cô Quỳnh Loan đi lừa anh ngủ bót cách đây ba tháng. Đúng ba tháng. Thôi, chuyện cũ xí xóa. Đàn bà nguy hiểm lắm không hiền lành như anh tưởng đâu. Công việc Lào rất tế nhị, anh cần người đủ tài, đủ thủ đoạn phụ tá. Tôi cử Quỳnh Loan làm phụ tá cho anh. Hiện tòa đại sứ khuyết chân tùy viên văn hóa… Chuông điện thoại reo. Ông Hoàng đưa bàn tay nhăn nheo lên chào Văn Bình. Biết cuộc nói chuyện đã xong, Văn Bình trở ra phòng ngoài. Quỳnh Loan đón chàng bằng tràng cười ròn rã: - Chào anh. Thấy nàng, chàng vừa giận, vừa mừng. Những vết muỗi rẹp đêm: y trong bót cảnh sát rủ nhau đau nhói lại một lượt. Chàng định quắc mắt, mắng nàng một trận cho hả cơn tức, song lại nín thing. Miệng cười hoa nở và luồng nhỡn tuyến quyến rũ của Quỳnh Loan như trận gió nằm mắt rơi thổi vào căn phòng nóng nực. Chàng đành nghiếng đầu cười lại. Lẽ ra, chàng nói « chào em, em đẹp như tiên nữ giáng trần », chàng chỉ lúng túng: - Không dám. Chàng chỉ có quyền nói « không dám » vì có Nguyên Hương ngồi bên. Nguyên Hương đã nghĩ và da mưu như Tào Tháo. Nếu chàng đụng tới cô gái hơ hớ Quỳnh Loan, nàng còn làm thái điên bát đảo. Coi bằng đóng kịch « ngoan ngoãn như con cừu non dại» của Thụy Sĩ Lau trọng Lư. Nguyên Hương đứng dậy, đưa cho chàng cái phong bì màu vàng: - Đây là giấy tờ cần thiết. Xe hơi đang chờ anh ngoài cửa. Anh đi một mình. Quỳnh Loan sẽ đáp máy bay Air-Vietnam. Nguyên Hương nhấn mạnh bốn tiếng « anh đi một mình ». Nàng muốn bảo ngầm chàng rằng trong thời gian ở Vạn Tường, léo hánh đến Quỳnh Loan thì ăn đòn. Quỳnh Loan nhanh nhẩu: - Nội đêm nay, em sẽ có mặt tại sứ quán. Em mang theo một diện đài cực mạnh. Khi cần liên lạc với Sở anh hãy gọi em. Văn Bình « vâng » một tiếng cụt ngủn, rồi cất phong bì giấy tờ vào túi. Nguyên Hương nhấc cái va li dưới đất, đặt lên bàn, rồi nói: - Va li của anh đây. Ban kỹ thuật vừa làm xong, em dặn mạng tới cho anh đúng. Văn Bình đỡ lấy vái va-li da màu xanh nhạt. Bề ngoài, nó không khác va-li thường, nhưng bên trong lại là kho chứa dụng cụ hành nghề gián điệp. Mở ra, chàng bấm nút, dây thứ nhất bật lên, lộ ra một cái ngăn đựng khẩu súng ngắn tự động Olempích, hai bì đạn mỗi bì mười viên, một chùm chìa khóa đặc biệt, ba cái bút máy Pạc ke giả, chứa thuốc nổ và thuốc mê. Văn Bình thảo bao da trừu bóng loáng đeo dưới vai, lấy ra một khẩu SM9 ly. Chàng tháo đạn xem xét từng viên, bỏ lại vào bì tung khẩu súng trên lòng bàn tay để ước lượng sức nặng. Ra vẻ bằng lòng, chàng giấu súng vào chỗ cũ, gài nút vét-tông, người tinh mắt cũng không thể nhận ra. Nguyên Hương lẳng lặng theo dõi cử chỉ của Văn Bình. Khi chàng sửa soạn cáo từ nàng mới mở ô kéo rút ra một cái hộp hình chữ nhật, bên trong có đôi giày màu vàng bằng da lợn. Nàng đưa đôi giày cho chàng. - Em thấy anh dùng giày mũi nhọn, giày này dạo chơi ở Sài Gòn thì totó, không hợp với đất đỏ lầy lội Vạn Tường đâu. Em nhờ ban Kỹ thuật đóng riêng đôi này cho anh. Văn Bình bàng hoàng sau khi nhìn kỹ đôi giày. Đế giày được gắn một lớp chì cứng, không káhc giày của giám thị trong khám tử hình Sing Sing bên Mỹ. Còn đặc điểm nữa, mỗi khi ấn mũi giày xuống, lưỡi dao nhỏ xíu, nhọn hoắt nhô ra. Văn Bình xử dụng bàn chân rất tài tình, nhiều lần chàng đã hạ thủ đối phương bằng ngọn cước xuất quỉ nhập thần. Nguyên Hương gãi đúng chỗ ngứa của chàng. Chàng ngước mắt nhìn nàng, tỏ sự biết ơn. Chàng muốn ôm nàng hôn nhưng lại sợ Quỳnh Loan cười. Chắt lưỡi, chàng xách va-li ra thang máy. Chương 4 HỒNG NHAN BẠC MỆNH Chờ người bồi đặt va li lên bàn ngủ, ra ngoài đóng cửa lại, Văn Bình mới nép sau cửa sổ nhìn ra đường. Trời nhá nhem tối. Con đường vắng vẻ trước khách sạn Settha Palace nằm tênh hênh trong ánh hoàng hôn màu tím, trơ trẽn như cô gái Lào đang đợi khách, mặt bự phấn, trong xóm thanh lâu gần Thát Luông. Từ lúc xuống phi cơ, chàng có cảm giác bị theo, song không tìm ra kẻ đi theo là ai. Chiếc Đakôta vừa đáp xuống trường bay Vạt chai, cái thang mảnh khảnh bằng nhom đã được đẩy lại, ghé satứ cửa, cho chàng xuống, với chiếc va li nhẹ bỗng. Trong bộ com lê màu xám nhạt, may tréo, nổi bật màu xanh của chiếc cà vạt lụa Thái Lan, Văn Bình trông như nhà doanh nghiệp giàu sụ vừa đi du lịch về. Từ lâu chàng vẫn có thiện cảm với đất Lào. Một phần vì chàng lên Lào họat động nhiều lần, quen phố sá, dân chúng và phong tục như người nhà, chàng lại giữ nhiều kỷ niệm da diết. Nhiều người đàn bà núi lửa đã thiệt mạng vì chàng. Trong một phút điên cuồng, chàng đã bỏ hết sự nghiệp, cạo đầu đi tu ở ngôi chùa hoang phế gần Thát Luông. Chàng tưởng quên được ông Hoàng, song chỉ một thời gian sau, chàng phải quay lại cuộc sống vào sinh ra tử trút y vàng, lên phi cơ để cứu Thu Thu lâm nạn ở biên giới Lào – Việt. Phần khác, chàng có thiện cảm với đất Lào vì phụ nữ Lào không khó khăn, không biển lận về tình ái. Lào là xứ đất đỏ, người đen với những cô gái khô cứng như thân cây cố thủ, cổ chân nhão nhoét, kẻ thù của thẩm mỹ. Nhưng Lão cũng là xứ của thần Vệ nữ, thân thể tròn, nhỏ, cứng, vừa trét tay đàn ông, cặp giò mảnh mai không một phân mỡ thừa, đòi tuyết lê kỳ lạ không thèm liên minh với xảo thuật cao su… Phụ nữ Lào yêu chóng vánh, yêu dễ dàng, yêu không mặc cả… Đặt chân xuống phi trường quen thuộc, Văn Bình cảm thấy tâm hồn rạo rực… Một chiếc Mercédes dài ngoằng sơn màu mát tích đậu xịch dưới cánh phi cơ, Văn Bình trèo lên, tài xế tống ga chạy ra cửa hông. Nhờ sự bố trí chu đáo của mật vụ Lào, chàng không phải trình giấy tờ và hành lý với công an và quan thuế. Vạn Tường không khác xưa là mấy. Xe hơi tòan Mercédes. Nếu khác, là lần trước toàn loại 200, hoặc 220 sang trọng, thì lần này dân Lào ru, ngồi trong như thể được đằng vân với người đẹp hở hang lên chín từng mây. Chàng giật mình nhìn phía trước. Tài xế, một gã đàn ông cục cằn, mặt rỗ chằng chịt, lại mặc sơ mi loại thượng hạng dệt tại Ý, thứ sơ mi không cần ủi, tài tử màn ánh mới dám may sắm, rẻ ra cũng 20 đô la một chiếc. Mùi nước hoa Forvil của đàn bà hắt vào mũi chàng… Mỉm cười, chàng hỏi hắn bằng tiếng Pháp: - Dạo này, Vieng Ratry vui không? Vieng Ratry là vũ trường bậc nhất của thủ dô vương quốc. Gã tài xế nhún vai đáp: - Vui lắm. Thoát Vieng Ratry vũ suốt đêm. Toàn gái hạng sang từ Nhật và Hồng Kông sang. - Tối nay, anh dẫn tôi đi nhé? Chàng giả vờ lạ lẫm để dò xét. Thật ra, chàng đã được liệt vào hàng thổ công Vạn Tường, không xó xỉnh nào chàng không mò tới. Gã tài xế lắc đầu lia lịa: - Chịu thôi. Thiếu tướng đã dặn kỹ. - Thiếu tướng nào? - Suvivông. Sulivông là người mà Văn Bình có bổn phạn tiếp xúc để tiến hành công tác. - Thiếu tướng dặn anh ra sao? - Thưa, dặn không được trò chuyện với đại tá trên xe, sợ địch gắn máy vi âm nghe trộm thì hỏng hết. Văn Bình cười rộ: - Ồ, anh lầm rồi. Tôi thường dân không phải đại tá. Gã tài xế vẫn lắc đầu lia lịa: - Em biết lắm. Nghe nói đại tá bắn súng rất giỏi, đánh võ cũng rất giỏi, hàng trăm người đại tá cũng quật ngã trong nháy mắt. Ở Sở, nghe nói đại tá lên đây, ai cũng kính nể. Nếu đại tá là người Lào ít nhất cũng đeo lon đại tướng. - Thiếu tướng Sulivông nói phải không? - Phải. Thiếu tướng ra lệnh cho em phải lái thật nhanh. Đại tá bị ám sát dọc đường thì cứ mất chỗ đội nón. Văn Bình chắt lưỡi không đáp. Mời đến Vạn Tường, chàng đã khám phá ra một đức tính đặc biệt của người Lào: đức tính bật mí. Chàng đã hiểu tại sao hoàng thân Thủ tướng muốn nhờ cơ quan điệp báo của ông Hoàng đảm nhiệm cuộc điều tra. Chàng dự định ra mặt công khai để bắt đối phương xuất đầu lộ diện. Sự cẩu thả của thiếu tướng Sulivông đã gián tiếp giúp chàng thực hiện kế hoạch. Chàng chép miệng: - Càng hay. Gã tài xế quay đầu lại: - Thưa, phóng nhanh nữa à? Chàng gật bừa: - Ừ, phóng nhanh hơn nữa. Dọc đường, Văn Bình gặp toàn xe nhà binh, chở đầy nhóc lính Lào đội mũ sắt, súng cắm lưỡi lê bóng loáng. Không khí chiến tranh bao trùm Vạn Tường. Nhưng đến khi vào trung tâm thành phố, chàng chỉ thấy những người ung dung, chắp tay sau lưng dạo mát buổi chiều, những cô gái Lào vô tư lự lái xe Đức đắt tiền phóng như điên trên đường đầy bụi đỏ hoe. Ngồi nghiêng trên băng sau, Văn Bình nhìn kiếng hậu, thấy một chiếc xe biến dạng, chàng lại thấy motọ cái vét-pa, người lái là một thanh niên mặc áo cụt, xâm đầy cánh tay và ngực. Chàng dặn tài xế chạy vòng quanh hồi lâu, rồi đậu trước khách sạng Settha Patace. Lên Lào công tác nhiều lần, chàng đã quen với Settha Palace, khách sạn sang trọng nhất nhì ở Vạn Tường, với bồi phòng mặc đồng phục, chén đĩa mua bên Pháp in chữ SP bằng vàng, đặc biệt là thực đơn quí phái và ngon lành. Nhân viên của ông Hoàng từ Vọng các đã đánh điện trước thuê phòng nên Văn Bình được dành sẵn một căn phòng rộng rãi, đủ tiện nghi nhìn ra sân trước. Chàng mỉm cười khi nhớ tới nét mặt cung kính của nhân viên tiếp tân. Chàng chìa sổ thông hành ghi tên hoàng thân Thái Sariket, nhân viên tiếp tân gặp mình làm đôi. Cái lưng khom thêm tiếp tân gặp mình làm đôi. Cái lưng khom thêm nữa khi chàng ném lên quầy 500 kíp thưởng. Bồi phòng vừa bưng lên chai rượu sâm Cao Ly. Văn Bình nhét vào túi gã bồi trẻ măng một tờ 500 mới toanh. Trong vòng 10 phút, chàng đã mất tới một ngàn. Vạn Tường là một trong những thủ đô nghiên buộc boa nhất nhì thế giới. Tuy là đệ tử của thần huýt-ky, Văn Bình đã ngẩn ngơ khi thấy rượu sâm bây la liệt dưới nhà. Lâu lắm, chàng chưa thưởng thức lại sản phẩm bổ dưỡng nổi tiếng của Đại Hàn. Lên Lào lần này, chàng rất cần tâm bổ… Chàng nâng chai rượu xinh xắn lên ngang mặt ngẫm nghía. Con nhân sâm hệt như hình người màu trắng ngà nằm gọn trong một cái ống tròn ở giữa chai rượu. Rượu sâm óng ánh một màu vàng gợi cảm. Văn Bình có cảm tưởng đang chiêm ngưỡng một người đẹp khỏa thân trong hồ tắm hổ phách ở Đông Kinh. Chàng mở nút, đưa cổ chai lên miệng. Rượu sâm chảy xuống cổ họng làm ruột gan chàng rạo rực. Đột nhiên, chàng nhớ Vạn Tường ban đêm. Chợt có tiếng gõ cửa, hai dài, ba ngắn. Chàng nói to: - Cứ vào. Khách là một người Lào độ 45, tầm thước, tóc hớt ngắn, dáng điệu cứng nhắc chứng tỏ là quân nhân chuyên nghiệp, làn râu mép gọt tỉa diêm dúa tương phản với cái miệng nhỏ mím lại, như không bao giờ biết cười. Y mặc sơ mi dài chim cò rộng thùng thình phủ trên quần đen ống chân voi. Ngực bên phải cồm cộm, báo cho Văn Bình biết Vieng Ratry mang súng dưới nách. Khách tự ý ngồi xuống ghế sau khi cất tiếng chào: - Hân hạnh được gặp hoàng thân Sarikét. Văn Bình chìa bàn tay ra bắt: Không dám, hân hạnh chào ông. Ông là ai? Khách nhìn vào giữa mắt Văn Bình: - Ông bạn già ở Sài Gòn nói là ông cần mua gỗ bạch đàn. Tôi có sẵn ba tấn. Ông bằng lòng xem gỗ không? Mắt Văn Bình sáng lên: - Vâng, tôi cần mua gỗ bạch đàn. Song tôi đã mua được hai tấn rồi, chỉ thiếu nửa tấn nữa thôi. Sáng mai đúng 8 giờ, tôi đi coi gỗ được không? Khách nắm bàn tay gân guốc của Văn Bình lắc mạnh: - Hân hạnh được gặp đại tá Z.28. Tôi là Sulivông, thiếu tướng Sulivông, chỉ huy điệp báo ở đây. Văn Bình cười nụ: - Nghe danh thiếu tướng từ lâu, nay mới được diễm phúc diện kiến. Xin mời thiếu tướng ly rượu. Sulivông xua tay: - Cảm ơn đại tá. Tôi vừa uống xong, dang còn say. Trên này có rượu cẩm, ngon hơn nhiều. Tôi sẽ gửi biếu đại tá một vò lớn, do người Mèo nấu trên núi cao, pha với rễ cây, uống vào thấy lâng lâng như hít bạch phiến. Tớp hết ly rượu đầy ấp, Văn Bình nhìn ra cửa: - Họ biết tôi lên đây không? Sulivông nheo mắt: - Tôi chưa rõ. Tuy nhiên, tôi đã đề phòng chu đáo. Sự có mặt của đại tá ở Vạn Tường được hoàn toàn giữ kín. Tài xế đưa đại tá từ phi trường về khách sạn là nhân viên tin cậy của tôi. - Dọc đường, tôi bị theo. Sulivông cười khà: - Ồ, đó cũng là nhân viên đặc biệt của tôi. Dầu sao những biện pháp an ninh cần mật cũng đã được áp dụng. Tôi lấy cớ tới khách sạn Settha thăm một nhân viên trong Ủy hội Quốc tế, để tới thẳng phòng đại tá. Tôi đến gặp phái đoàn Gian nã đại ở đây là thường. Hơn nữa, tôi lại mặc thường phục. Theo qui ước, tôi chỉ gặp đại tá một lần để nhận diện mà thôi. Từ nay trở đi, chúng ta sẽ liên lạc với nhau bằng điện thoại. Nhìn đồng hồ tay, Sulivông nói tiếp: - Tôi ngồi với ông đúng 5 phút. Ông cần gì, xin cho biết. - Tôi muốn hồ sơ đầy đủ về thiếu tá Sim Leng, nhất là bản báo cáo về vụ đầu độc. - Vâng. - Ông đã liên lạc với họ chưa? - Chưa. 10 giờ đêm nay, tôi sẽ gọi họ trên tần số 9 kilôxích. - Nếu có thể, xin ông kéo dài cuộc thương thuyết độ ba, bốn ngày. - Tôi xin cố gắng. Song ông đừng hòng khám phá trụ sở của họ. Quân đội hoàng gia chưa có máy trắc gác. Vả lại, họ đã đòi hỏi chúng tôi án binh bất động. Nếu biết tôi liên lạc với ông Hoàng, mời ông, lên đây, họ sẽ làm dữ. Khi ấy, tôi sợ quốc vương và hoàng thân thủ tướng bắt tôi cắt đứt liên lạc với ông. Tuy nhiên, vì những lý do ông đã hiểu, tôi xin báo ông biết chính phủ và quân đội hoàng gia không thể công khai giúp ông, và nếu ông hớ hênh, nếu địch tìm ra ông, chúng tôi bắt buộc phải bỏ rơi ông. Một lần nữa, xin ông thông cảm và tha lỗi. Lối nói qua sống sượng của Sulivông không thích hợp với Văn Bình. Từ trước đến nay có lẽ Sulivông chỉ hành nghề điệp báo trong phòng giấy, với cái máy điện thoại, và bút chỉ nguyên tử để ký sự vụ lệnh. Chàng muốn cười vào mũi Sulivông, nhưng vì lịch sự tối thiểu – và nhất là vì lời dặn của ông Hoàng – chàng chỉ có thể biểu lộ sự bất bình bằng cái nhún vai - Ông đừng ngại. Nhân viên điệp báo không phải là cô gái dậy thì hơ hớ, ngày đêm có mẹ đi kèm. Trước khi lên đây, tôi đã biết phải hoạt động một mình… Sulivông đứng dậy, giọng thân mật: - Biết nói thẳng làm ông phật ý nên tôi đã xin ông thông cảm và tha lỗi. Một lần nữa, ông hiểu giùm cho chúng tôi chỉ nghĩ đến an ninh của bản thân ông, vì… dầu sao… ông lên trên này để giúp chúng tôi… Văn Bình nhìn giữa mắt Sulivông: - Làm nghề này, giết người là thường. Hẳn ông đã biết dịch giết người không ngần ngại. Tôi cũng vậy: tôi sẽ không bao giờ cho tòa án nước ông một tên thủ lãnh Quốc tế Đặc vụ nào đâu. Xin ông thông báo với hoàng thân thủ tướng. Sulivông gật gù: - Vâng, giết người ở đây cũng như chơi gái và đánh bạc, dư luận không quan tâm tới. Tôi chỉ yêu cầu ông, giết ai xong, xin ông ném xác xuống sông Cửu Long cho mất tích. Bao nhiêu người chết cũng được, miễn công việc hoàn thành, miễn là… ông không chết. - Ồ, tôi sống dai lắm, thiếu tướng ạ. Ít nhất 20 năm nữa tôi mới chết, theo sổ tử vi. - Đại tá cũng tin tử vi ư? - Vâng. Sulivông suýt soa: - Thảo nào… Người ta nói với tôi rằng đại tá giỏi tử vi, bói dịch là giỏi nhất bói bài. - Thưa… Đó là nghề mọn học lỏm được trong những năm luân lạc. - Vậy… hôm nào ông bói giùm tôi. - Sẵn sàng. Tôi bói không lấy tiền. Chỉ đòi… - Tôi hiểu ý ông rồi. Dạo này, Vạn Tường rất nhiều gái đẹp. Đủ loại người, hợp với đủ sở thích. Ông thích loại nào? Tây phương, cao lớn, trắng trẻo hay Á đông nhỏ nhắn, mũm mĩm? Chúng tôi có một ban đặc biệt để khoản đãi thượng khách. - Cám ơn thiếu tướng. Tôi tham ăn lắm, ai tôi cũng thích. Song tôi lại có tật xấu là không muốn thiên hạ làm cỗ sẵn… - Đại tá cũng giống tính tôi… Nước Lào rất hiếu khách. Từ xưa đến nay, chưa người ngoại quốc nào tới đây mà trở về không thỏa mãn. Tôi sẽ giới thiệu với đại tá những người đẹp lạ lùng… Vả lại, đẹp trai như đại tá thì thiếu gì người mê. Thôi, chào đại tá, tôi đi đây. Sulivông vặn quả nắm cửa, ló đầu ra ngoài. Một phút sau, Văn Bình nghe tiếng giày của Sulivông dẫm nhè nhẹ lên tấm thảm đỏ cầu thang. Văn Bình nhìn đồng hồ tay. 7 giờ. Nhún vai, chàng lững thững xuống đường. Một cái xảm lồ đậu xịch trước khách sạn. Chàng đạp chân vào sân xe, nói tiếng Lào với xa phu: - Vieng Ratry. Xa phu ở Vạn Tường đều biết vũ trường Vieng Ratry, cũng như đại lộ Tự Do đối với người Sài Gòn. Chẳng nói, chẳng rằng, xa phu hạ càng cho Văn Bình trèo lên, rồi cắm cúi đạp. Tuy dặn xa phu tới Vieng Ratry, Văn Bình lại muốn về phía nam thành phố. Chàng muốn đến khu Chợ Mới. Xe rẽ ra đường lớn. Ban đêm ở Vạn Tường ánh đèn leo lét như người ngủ gật, không đủ sức xuyên thủng màn tối. Tình hình này thuận tiện cho kẻ đi theo nên Văn Bình không cần ngoảnh mặt lại quan sát. Nếu địch biết lợi dụng trời tối để đi theo thì chàng cũng biết, lợi dụng trời tối để thoát khỏi vòng vây. Chàng ra lệnh cho xa phụ quẹo tay phải rồi đậu trước một hộp đêm, gần lữ quán Constellation. Hộp đêm này gồm 2 căn nhà, nhìn ra hai mặt đường. Văn Bình thót xuống, ném cho xa phu một trăm kíp rồi rẽ bức màn nhung dầy, bước vào. Một phúc sau, chàng đã thoat ra bằng cửa hông. Chàng đi men trong lề, vượt qua lữ khách Constellation, rồi vẫy tắc xi. Lần này, chàng đến chợ Mới thật sự. Mọi lần đến Vạn Tường, chàng đều tới thăm chợ Mới. Đúng hơn, chàng thường tới tiệm đấm bóp của một phụ nữ Thái, gần trụ sở Thông tin Hoa kì. Như các tiệm đấm bóp khác, đó là ổ mãi dâm trá hình, một đạo nữ binh máy trắng, áo quần cũn cỡn, phô đùi, phô ngực không cần giấu diếm, chào hỏi Văn Bình tíu tít. Chàng kéo ghê ngồi, một ả non choẹt, tóc đuôi ngựa, môi đỏ toét, ưỡn ẹo bưng đến ly huýt-ky. Văn Bình không ngạc nhiên khi thấy cô bé mặc áo ni-lông mỏng như giấy bóng bên trong không đeo xú-chiêng. Tưởng chàng cận thị, cô bé đứng nghiêng bên Văn Bình, cốt cho ánh đèn nê-ông từ sau chiếu tới làm rõ bộ ngực vĩ đại. Bực mình, chàng hỏi đùa: - Bao nhiêu? Cô bé đưa 5 ngón tay lên. Năm trăm kíp. Cái lối yêu đương trả giá ấy đã làm chàng lộn mửa từ lâu. Thật vậy, từ khi làm người đến giờ chưa lần nào chàng coi ái tình như tôm cá ngoài chờ, có tiền thì bán, hoặc thực hiện ái tình một cách máy móc như anh phụ tài xế quay ma-ni-quên cho xe chạy. Ái tình đối với chàng là một sự thiêng liêng. Mặc dầu vì thiên bẩm, và cũng vì nghề nghiệp, chàng phải yêu vội vàng, không có thời giờ rào đón và sửa soạn, ái tình vẫn là một diễm phúc thượng lưu, đầy thi vị. Dĩ nhiên trong đời chàng đã bước chân vào nhà chứa nhiều lần và nhiều lần la cà trên tấm đệm bẩn thiểu, nhưng đó là một hoạt động chuyên nghiệp. Hoặc ít ra, đó là kho tàng đặc biệt… Chàng lắc đầu. Cô bé cọ vào tay chàng, giọng lẳng lơ: - Không đắt đâu. Không thèm đáp, chàng cầm ly rượu lên uống. Cô bé quấn chặt lấy chàng, không chịu buông tha: - Vậy anh trả bao nhiêu? Chàng muốn trả bằng cái tát in đầu năm ngón tay trên má. Chàng vào ổ nhện này không phải để hưởng lạc mà vì một nguyên nhân thầm kín và quan trọng khác. Chàng bèn hất hàm: - Không. Tôi chỉ cần đấm bóp. Cô bé phá lên cười như bị thọc lét: - Tẩm quất hả? Tôi không làm nghề ấy. Văn Bình nhăn mặt: - Bao nhiêu tiền cũng được. - 500. - Bằng lòng. Cô ả đòi 500. Nếu đòi 5000 chàng cũng gật đầu. Mụ dầu, một kỳ quan về mỡ, thịt, phấn, và nước hoa đàng điếm, đôi vú thỗn thện, lớn bằng trái đu đủ Xiêm, lẹp kẹp giép Nhật lại phía chàng. Mụ cúi đầu chào chàng, mặt đỏ gay. Mặt mụ đỏ gay vì trong khi cúi đầu phải dùng quá nhiều sức. Chàng suýt phì cười khi thấy ngực mụ, má mụ, và cổ mụ rung rinh, rung rinh… Mụ trạc 40, cái tuổi phát phì của con người. Tuổi 40 lại là tuổi dễ phát phì nhất đối với những thiếu phụ sống nghề bán thịt người. Đối với mụ, Văn Bình không phải khách quen, tuy hơn một lần chàng đã la cà vào ổ nhện của mụ. Song mụ vẫn toét miệng chào hỏi thân mật như gặp cố tri: - Chào anh. Lâu lắm… Chàng đáp lại: - Phải lâu lắm. - Anh cần dùng em nào? - Chị chọn cho tôi em nào tẩm quất thật giỏi. Mụ buông ra tiếng cộc lốc « thế à » rồi quay lại ra lệnh bằng ngón tay cho cô gái mặc áo ni-lông mỏng như giấy bóng. Tợp hết ngụm rượu cuối cùng. Văn Bình lẳng lặng trèo cầu thang gỗ trơn bóng lên lầu, cô gái ngoan ngoãn theo sau. Vào căn buồn nhỏ xíu, Văn Bình nằm thẳng trên giường, duỗi chân, mắt lim dim. Chàng cảm thấy mệt mỏi, phần vì máy bay gặp trời xấu, phần khác vì thời tiết ở Vạn Tường quá nóng, khác ban đêm man mát ở Sài Gòn hoa lệ. Cô gái kéo riềm màu hồng che cửa buồng lại, rồi điểm nhiên cởi áo. Song Văn Bình gạt đi: - Đấm bóp. Chàng nằm xấp cho cô gái tẩm quất, không thèm để ý tới sự trần truồng khêu gợi. Thái độ mời mọc trắng trợn của bọn gái bán dâm rẻ tiền làm chàng nhớ nhung những đêm thần tiên ở Âu châu, với những thân hình trắng trẻo, không vết thẹo, không một giọt mồ hôi khó ngửi. Bất giác chàng lẩm bẩm: - Mệt thế này, giá được tẩm bùn nóng nhỉ? Văn Bình nhắm nghiền mắt, nhớ lại những nhà tắm bùn nóng ở Saratoga, bên Mỹ. Trong một gian nhà lớn bằng bê tong màu xám, hàng chục cái rương nhỏ, trông như quan tài mở nắp, xếp dài, cái nào cũng đầy bùn nóng. Một gã da đen lực lưỡng bảo chàng cởi quần áo rồi trèo vào cái hòm đầy bùn. Y đắp bùn lên khắp người chàng, chỉ chừa lại hai khoanh tròn ở tim và mặt. Hai mươi phút sau, ra khỏi quan tài bùn nóng hổi, chàng thấy tâm thần sảng khoái, như vừa trút được gánh nặng trăm cân trên vai. Tắm bùn nóng làm cho con người khỏe khoắn thế nào, thì tắm nước nóng sau khi đấm bóp ở Vạn Tường làm mất sức thế ấy. Hơn một lần, chàng chứng kiến cái cảnh một cô gái trần truồng, cầm máy đấm bóp, cắm điện xoa xoa trên người khách, rồi tìm cách khích động tình dục bằng những cử chỉ mơn trớn sống sượng. Cô gái lải nhải, giọng khê nặc: - Năm trăm. Văn Bình nín thinh. Tưởng chàng ưng thuận, cô gái cười khoái trá. Dáng điệu thành thạo, cô gái trải khăn lông lên bụng chàng, rồi cái máy tẩm quất bắt đầu vuốt ve da thịt chàng. Chàng vùng dậy, lắc đầu. Cô gái tỏ vẻ kinh ngạc lạ lùng. Phần đông thanh niên vào tiệm đấm bóp đều tìm cảm giác khích động. Có lẽ cô gái chưa gặp người khách nào gàn dở như Văn Bình. Nàng chỉ tay vào bồn tắm. Văn Bình lại lắc đầu. Chàng ra hiệu cho cô gái mặc quần áo lại, rồi dúi vào tay 600 kíp. Không cần cám ơn, cô gái khoác áo giấy bóng khiêu dâm vào mình, để nguyên nút bấm không cài, nhảy cà tâng xuống cầu thang Văn Bình gọi giựt lại. Cô gái nhét bạc vào túi quần sau thật kỹ, sợ chàng đòi lại. Chàng hất hàm: - Tin Cố đâu? Tin Cố là tên một cô gái đấm bóp. Văn Bình quen nàng đã lâu. Là người Việt, nàng phiêu dạt lên đất Lào, làm đủ mọi nghề, kể cả nghề bán dâm đưa mối cho khách. Nàng còn một nghề nữa, duy Văn Bình biết: nghề mật báo viên. Cô gái nhìn chàng bằng cặp mắt sửng sốt: - Anh gặp Tin Cố làm gì? Chàng buông thõng: - Quen, Cô gái ưỡn ngực cười khiêu khích: - Cha mẹ ơi, bảnh trai và nhiều tiền như anh mà quen Tin Cố. Em hỏi thật anh: anh gặp Tin Cố làm gì? Xấu lắm, xấu và già kinh khủng. Em trẻ và đẹp hơn Tin Cố nhiều. Nếu anh bằng lòng, bao nhiêu cũng được, hoặc nếu anh không trả tiền tùy ý. Văn Bình búng ngón tay, dáng điệu bình thản: - Cảm ơn. Khất em lần khác. - Vậy thì thôi. Anh tìm Tin Cố một mình nhé. Văn Bình nắm bàn tay cô gái: - Hừ, chỉ thích vòi tiền. Bao nhiêu? - 500 kíp. Chàng thở dài, ném tờ bạc 500 cho cô gái. Miệng cười rộng hoét, cô gái rung rung mớ tóc đuôi ngựa: - Đang ngủ. Phòng 18. Văn Bình xô cánh cửa cạt-tông của phòng 18 sang bên. Trên cái bàn trải khăn trắng đã ngả màu nước dưa bẩn thỉu, một thiếu phụ trần truồng đang nằm tênh hênh, mặt ngoảnh vào tường. Chàng phát vào mông một cái thật đau - Tin Cố. Thiếu phụ ú ớ, cựa mình quay lại, nằm ngửa ra, song mắt vẫn nhắm tít. Thương hại, Văn Bình nhìn tấm thân đều đặn duỗi dài trên nệm. Bụng và đùi đã có vết nhăn, sau nhiều đêm trác táng, bị khách lạ dày vò, bộ ngực nổi tiếng cân đối và căng cứng trước kia đã xệ xuống, che lắp gần nửa bụng trên. Phấn son trên mặt đã được rửa sạch nên Văn Bình thấy rõ những lỗ chân lông khá lớn, sau hun hút. Một miếng rỉ xanh động lại ở khóe mắt thâm quầng. Miệng thiếu phụ há ra, hộ hàm răng đều, trắng – báu vật của thời xa xưa, dập dìu vương tới công tử – song bị nòn gần hết men. Văn Bình từng ngủ đêm với nàng, hồi nàng có cái tên thật đẹp là Thiên Cơ, và nàng còn là vũ nữ hái ra tiền ở đường Trần Hưng Đạo. Nghịch cảnh như lưỡi tầm sét giáng vào cuộc sống đầy hoa gấm của nàng. Đứa con gái duy nhất của nàng bị chết về bệnh đầu mùa. Mê mải dưới ánh đèn màu, Thiên Cơ quên chích thuốc phòng ngừa cho con. Đến khi con nhuốm bệnh, nàng lại giao phó cho người u già quê mùa, dốt nát, chuyên chữa bệnh truyền nhiễm nguy hiểm bằng cao dán và thuốc lá ngoài chợ. Đứa con 3 tuổi mũm mĩm có đôi mắt, miệng cười và nước da quyến rũ như mẹ nằm liệt giường. Thiên Cơ mới biết. Nàng hốt hoảng chở con vào bệnh viện. Nhưng nàng chỉ đưa con vào đấy để nhìn con chết trong sự bất lực đau đớn. Cái chết đột ngột ấy làm Thiên Cơ ngơ ngẩn trong gần một năm. Gần một năm dòng dã, nàng sống cô đơn, nhớ nhung, sầu muộn. Văn Bình không thể an ủi nàng vì chàng bận công tác ở phía bắc vĩ tuyến 17. Và Thiếu Cơ phải tìm an ủi trong một người đàn ông hứa hẹn ngọt ngào, một nhân vật có quyền thế. Nàng quên bẵng rằng người đàn ông ấy đã có vợ con đàng hoàng. Kết quả là nàng sa vào trận đòn ghen thừa sống, thiếu chết. Nhờ được bè bạn can thiệp kịp, nàng thoát khỏi tay Tử thần. Tuy nhiên, nàng phải điều trị đúng 6 tháng. Bình phục, nàng trở lại vũ trường thì bị từ chối một cách nhã nhặn. Chủ nhân mời nàng vào văn phòng, rồi than thở: - Cô là hoa khôi của tiệm tôi. Từ ngày cô gặp nạn, khách chơi đã giảm rất nhiều. Tôi rất mong cô về, nhưng khổ quá… tôi không dám thu nhận cô nữa. Vì sao, cô đã biết… Vì tôi không muốn cơ sở kinh doanh của tôi sụp đổ. Người ta đã nói thẳng vào mặt tôi. Cô bằng lòng vậy. Cô nên tìm vào Chợ Lớn làm ăn một thời gian… khi nào yên, sẽ trở lại… Thiếu Cơ vào Chợ lớn đầu quân. Và cũng bị thoái thác. Vụ đánh ghen vô tiền khoáng hậu đã giết chết đời nàng. Nàng không còn lối thoát nào khác, ngoài việc bỏ xứ lên Lào lập nghiệp. Gạt nước mắt, Thiếu Cơ sửa soạn va li, đáp máy bay lên Paksé, rồi từ Paksé đi Savannakhét. Cuối cùng nàng lập tổng hành doanh tại Vạn Tường. Trong những năm đầu tiên, còn tiền, còn sắc, nàng mở tiệm nhảy. Hồng nhan đã truan, Thiếu Cơ ngã vào tay một gã sở khanh, mất cả tình lẫn tiền, nàng đành trở lại nghề vũ nữ, cuộc đời dần dần xuống dốc. Thiếu Cơ đã lưu lại lòng chàng những kỷ niệm không thể quên được. Mỗi khi đưa chàng về căn phòng xinh xắn, treo toàn tranh tập thể đắt tiền của danh họa Picatso, nàng thường dốc chai Sanen số 5 nguyên chất lơn bằng ly huýt ky vào bồn tấm, rồi nàng hụp lặn trong nửa giờ cho sạch sẽ. Nàng thường ôm chàng, tình tự: - Em làm cái nghề bẩn lắm, phải tắm gội thanh khiết để xứng với anh. Định mạng trớ true khiến chàng gặp lại Thiên Cơ trong một nhà chứa ở Vạn Tường. Chàng suýt chết đứng khi thấy nàng trong khung cảnh bẩn thỉu của căn phòng trọ, ám khói và mạng nhện. Nhớ lại những bức tranh Picatso và thú tắm bằng nước hoa Sanen số 5 nguyên chất, chàng ôm nàng vào lòng: - Trời ơi, em đến thế này ư? Nàng khóc vùi như đứa trẻ. Từ ngày sa đọa đêm nào nàng cũng khóc, nhưng chưa đêm nào được khóc thỏa thích với người tri kỷ. Sáng hôm sau, nàng cương quyết từ chối cuộn giấy bạc dày cộm mà chàng lén bỏ vào ví. Nàng nức nở bảo chàng: - Anh làm tủi thân em lắm. Anh cất tiền đi. Chàng vuốt tóc nàng: - Em cứ cầm lấy. Hai đứa mình là chỗ thân tình… Nàng vẫn nằng nặc từ chối. Tấn thảm kịch ấy diễn ra cách đây một năm. Văn Bình véo thật mạnh vào ngực nàng: - Đồ phải gió. Nàng ngồi nhỏm dậy, cái khăn lông duy nhất che ngang bụng bị hất xuống đất, trên mình không một mảnh vải. Nàng tưởng bạn bè nô đùa. Hoặc một gã tìm hoa hỗn xược. Nhưng đến khi nhận ra Văn Bình – con người hòa hoa mã thượng bằng xương bằng thịt đứng bên – nàng run bắn, miệng há hổc trong niềm kinh ngạc lạ lùng. Một phút sau, nàng mới lắp bắp: - Anh… Văn Bình. Mặt nàng dần dần đỏ ửng, sự tự trọng thức dậy trong nàng. Dầu nàng là điếm, và là điếm tuột dốc, nàng vẫn còn cái chất danh giá phía sau tấm thân nhão nát. Văn Bình lấy đồ lót treo trên mắc, đưa cho nàng, giọng thân mật: - Phải, anh đây. Rồi chàng đánh trống lảng: - Trời nóng ghê. Thiếu Cơ nói theo: - Vâng, nóng phát điên lên. Nàng mặc quần áo qua quít rồi nhảy xuống: - Anh lên bao giờ? - Mới xuống phi cơ thì đến tìm em ngay. - Anh vào phòng này lâu chưa? Văn Bình chối: - Cũng mới vào. Bỗng nhiên nàng méo lại rồi hu hu khóc. Văn Bình đạp nhẹ vào lưng nàng: - Tại sao em tủi thân? Nàng sụt sùi: - Em đã tân tàn ma dại rồi, phải không anh? Không đợi chàng trả lời, nàng tiếp: - Anh đừng an ủi em nữa. Em biết nhan sắc em đã về chiều rồi. Tuần trước, em định tự tử song không có can đảm uống dấm thanh với thuốc phiện. - Sao không xin về Sài Gòn? - Bọn em là đĩ, đã bỏ nước mà đi, xin về sao được. - Anh sẽ bảo đảm cho em về. Mắt Thiếu Cơ vụt sáng. Nàng ôm chầm lấy chàng: - Nếu được thế, anh bảo em nhảy vào lửa em cũng nhảy liền. Chàng đưa ngón tay lên miệng, ra hiệu bảo im. Nàng lắc đầu: - Anh cứ nói tha hồ. Chung quanh, không ai nghe tiếgn Việt được đâu. - Anh không tin. Nhân viên Bắc Việt trà trộn khá đông trong các ổ nhện. Nàng nhe răng cười vui vẻ: - Lâu rồi, anh vẫn chưa hết bệnh trông gà hóa cáo. Em là thổ công Vạn Tường, anh không biết ư? Bắc Việt có bao nhiêu nhân viên trong xóm bình khang, em đều biết hết. Văn Bình đổi đề tài: - Ừ nhỉ, anh quên mất. Gặp em, anh mừng qúa. Dạo này làm ăn khấm khá không, cưng? Mặt nàng sa sầm. Nhưng nàng vội cười để che giấu: - Cũng không đến nỗi. Văn Bình móc túi cho nàng 5 tờ giấy một trăm đô la. Nàng xua tay: - Không giấu gì anh, em túng lắm, song thà chết, em không thể cầm tiền của anh. Em là đĩ, tâm hồn em lại là người. Chàng nắm lấy tay Thiếu Cơ: - Em gàn lắm. Tiền này của Sở, đâu phải của anh. Em giữ lấy mà tiêu. Nàng nhìn vào giữa mặt chàng: - Anh vẫn làm với ông Hoàng chứ? - Vẫn. Anh muốn nhờ em một việc. Mặt cô gái trở nên nghiêm trọng. Nàng ngồi xuống ghế đẩu, kéo váy xuống dưới đầu gối, dường như sợ quá lõa lồ. Văn Bình hạ giọng: - Trước khi lên đường, anh đã trình bày hoàn cảnh của em với ông tổng giám đốc. Vấn đề hồi hương rất dễ giải quyết. Với sự chấp thuận của ông Hoàng, anh còn có thể giúp em làm lại cuộc đời ở Sài Gòn nữa. Anh hy vọng em sẽ dẫn anh tới đầu mối. Nàng thở dài: - Em biết rồi. Anh lên Lào về vụ thùng thuốc độc. Văn Bình suýt giật mình. Cũng may Thiếu Cơ không phải là nhân viên của địch… Nàng là con ma xó, cái gì cũng biết vanh vách. Nàng nheo mắt nhìn chàng: - Chịu chưa? Chịu thì thầy mới nói. Văn Bình gật đầu: - Chịu. À, tại sao em biết? - Bí mật. - Chuyện này được giữ kín hoàn toàn. Ngay ở Sở cũng chỉ ông Hoàng, anh và cô thư ký riêng được biết… - Hừ, anh quên rằng đàn ông Lào thích tâm sự với đàn bà… Họ đã vô tình thổ lộ với em. Mục đích của anh là gì? Tìm ra người giết thiếu tá Sim Leng phải không? - Đó mới là một việc. Song chưa phải là việc chính. Theo lệnh ông Hoàng, anh phải hành động cấp tốc. Thiếu Cơ cười rộ, trên má còn nguyên giọt nước mắt. Chàng vỗ nhẹ vai nàng: - Điều anh cần biết rõ là Mila. Mila, người yêu của thiếu tá Sim Leng. Nàng nhìn vào khoảng không, như cố đào trong ký ức: - Mila ấy à? Trước kia nàng làm ở vũ trường Vieng Ratry. Đẹp lắm, anh ạ, anh gặp lần nào chưa? - Chưa. - Ồ, nếu gặp, anh phải say như điếu đổ. Cả Vạn Tường đều chết mê chết mệt vì Mila. Mặt trái soan, mũi dọc dừa, môi như vẽ, răng đều, trắng, vai tròn, ngực nở, bụng thot, mông tròn, chân thon, cởi ra không một vết thẹo. - Sao em biết rõ thế? - Chẳng riêng gì em, hầu hết đàn ông có tiền đều biết. Có lẽ họ còn biết rõ hơn em nữa. Vì Mila chuyên nghề thoát y vũ. Anh đừng quên nhé, thoát y ở đây không phải là thoát y vớ vẩn, mấp mớ đánh lận con den như mấy cô ở Sài Gòn đâu? Dưới ấy, kiểm duyệt chỉ cho thoát y một nửa, còn nửa trên kia, nửa cần thiết, lại che kín như bưng. Lợi dụng tình trạng này, các cô thoát Vieng Ratry tha hồ đeo đồ giả. - Em lý luận về nghệ thuật thoát y làm gì, anh chỉ muốn biết về Mila thôi. - Ôi nào, không ngờ dạo này anh tiến bộ đến thế. Bị sư tử hà đông bỏ tù rồi phải không? Chàng đáp cộc lốc để tỏ vẻ sốt ruột: - Không. Thiếu Cơ vẫn nhai nhải: - Con nào cải hoa được anh thật tốt phước. Văn Bình đành chịu thua: - Khờ quá, anh vẫn sống độc thân như ngày trước mà em không tin. Thiếu Cơ reo lên: - Thật ư? Chàng thở dài: - Lẽ nào anh nói dối. Em làm mất thời giờ quá. Tại sao Mila thôi làm ở Vieng Ratry? - Uổng thật anh ạ. Mila bỏ Vieng Ratry, ai cũng tiếc. Là đàn bà, em còn tiếc ngẩn ngơ huốn hồ mấy cậu đàn ông đa tình. À quên, em nói bướm, nói vượn mãi về nghệ thuật cởi quần áo của Mila. Bây giờ, em xin nói tiếp. Mila nhảy thoát y đúng ba tháng tại Vieng Ratry thì gặp thiếu tá Sim Leng. - Ai giới thiệu? - Không biết. Những người đẹp mã và tốt đôi như Mila và Sim Leng thì chẳng cần ai giới thiệu. Em nói thật đấy, Sim Leng là tay ăn chơi thượng lưu. Em đã lăn lộn trong nghề, thông thạo đủ mánh khóe, đi mòn hàng trăm đôi giày muyn mà chưa gặp khách chơi nào xộp như Sim Leng. - Hắn nhiều tiền đến thế kia ư? - Nhiều. Nhiều lắm. Không biết hắn in được giấy bạc hay sao mà nhiều thế. Sim Leng vung tiền, bắt Mila bỏ nghề thoát y. Mila bằng lòng, với điều kiện làm chủ một cái « ba » để uống rựơu hút thuốc cho đỡ buồn. Cái gì chứ một quán rượu thì Sim Leng chỉ búng ngón tay là có. - Như vậy nghĩa là Mila thật tình yêu Sim Leng. - Hắn đẹp trai như tài tử xi nê thì đứa con gái nào không mê. Anh chẳng hạn… lát nữa mời anh xuống xóm, em cá mười ăn một với anh là chúng nó sẽ biếu không chẳng cần trả xu nào. Trông thân hình lực sĩ, cặp mắt điển hình và cái miệng… trời ơi, có duyên nhất thế giới, trừ phi là tượng đá mới làm thinh được. - Cám ơn em quá khen. Để công việc xông xuôi, chúng mình sẽ thí nghiệm. Nhưng thôi, lò dò vào đất của em để mất gân chân ấy à… Thiếu Cơ khoái chí cười vang. Văn Bình nhìn nàng thương hại. Nếu không gặp chàng, ả vũ nữ về chiều sẽ thành con điên trong một thời gian nữa. Chàng châm thuốc lá mời nàng hút chung. Hít xong một hơi, nàng thở dài não nuột: - Nhớ ngày nào ở Sài Gòn, hai đứa mình hút chung điếu Salem. - Và uống chung ly Vat. Sực nhớ ra. Thiếu Cơ nói: - À, Mila nghiện Vat. Uống huýt ky như hũ chìm, không bao giờ say. - Tại sao đêm ấy Mila không uống Vat với Sim Leng? - Em không hiểu. Thằng quan tư cảnh sát nhân tình của em nói là Sim Leng chết vì uống rượu Vat pha thuốc độc. Còn Mila uống nước… bạc hà. - Nước bạc hà. - Phải, uống nước bạc hà như con gái nhà lành vậy. - Lạ nhỉ. Dân nghiện rượu không thể nào thích uống nước ngọt… - Theo em, nàng có thể… - Không. Một ngàn lần không. Là đàn bà, em hiểu tâm trạng của Mila hơn đàn ông các anh nhiều. Mila chẳng dại gì giết nhân tình. Phàm người ta sát hại vì tình, vì tiền, vì chính trị… Mila không liên quan đến chính trị. Nàng bàng quan đến nỗi không biết tên hoàng thân Thủ tướng nước Lào là gì… - Vậy em nghĩ ai? - Em không phải là nhân viên Công an. - Công an nghi ai? - Ồ, họ chẳng nghi ai hết. Chết rồi thì thôi, người Lào không để ý tới nữa. Vả lại, công an ở đây còn thiếu hụt phương tiện và nhân viên chuyên môn… - Nghía là họ không truy tầm Mila. - Không. Họ muốn truy tầm cũng vô ích. Họ biết nàng trốn ở đâu mà tìm. - Anh cần gặp Mila. - Bao giờ? - Càng sớm, càng tốt. Vì nàng là đầu mối của nội vụ. - Em không biết nơi nàng ẩn náu. - Thiếu Cơ, em ráng nhớ lại xem. Mila có thuê nhà hoặc thuê phòng ở đâu không? Lông mày Thiếu Cơ nhíu lại. Đột nhiên, nàng reo lên: - Em nhớ ra rồi… Sim Leng tậu cho nàng một căn phố kín đáo gần lữ quán Constellation. Có thể nàng đang ở đó. - Lẽ nào Mila trốn ở một nơi mà thiên hạ biết là nhà của Sim Leng. - Không. Không ai biết cả. Một lần, nhảy đến sáng say rượu quá, em được Mila đưa về đó. Thường ngày, nàng ngụ nơi khác. Văn Bình ném mẩu thuốc lá vào bồn tắm. - Mặc quần áo đi ngay với anh được không? Thiếu Cơ nhún vai: - Anh ngồi đây, chờ em. Ba phút thôi. Không chờ chàng trả lời, nàng thoăn thoắt đi ra ngoài. Trông phía sau, nàng chưa đến nỗi tệ. Cái mông đã nhão, vết răng in đầy lưng, song dáng đi còn uyển chuyển, di vật của một thời thanh sắc xa xưa. Tiếng nói léo nhéo của bọn gái đấm bóp ngoài hành lang lọt vào buồng. Chàng nghe tiếng càu nhàu của một khách chơi không bằng lòng về số tiền trả quá nhiều, không tương xứng với món hàng xác thịt. Chàng mỉm cười một mình: Thiếu Cơ đã đứng ở khung cửa lúc nào không biết. - Anh cười em phải không? - Không. Anh cười thằng cha dại gái, vừa mất một ngàn kíp vô ích. Nàng bĩu môi: - Bọn gái ở đây chỉ đáng một trăm là nhiều nhất. Nói dứt lời, nàng xịu mặt xuống. Rồi thở dài: - Em cũng thế. Em chỉ đáng trăm kíp thôi, phải không anh? Chàng khoác vai Thiếu Cơ: - Sao em lại chán đời như vậy? - Không những chán đời, em còn lo sợ nữa, anh ạ. Lúc nãy, ngủ thiếp đi, em nằm mơ dễ sợ lắm. Em thấy một mũi dao nhọn hoắt đam vào tim, máu tuôn ra như suối. Em ngất đi, và tắt thở trong tay một người đào hoa phong nhã. Giờ đây, em mới nhớ người ấy có khuôn mặt giống anh như đúc: - Hừ, anh không tin dị đoan. - Anh đón phép với ai chứ không qua mặt được con Thiếu Cơ lọc lõi này đâu. Hồi còn ở Sài Gòn, anh đã lái xe đưa em xuống Khánh Hôi, vào nhà ông thầy bói xế cửa bót Cảnh sát quận IV. Anh còn đích thân dẫn em tới đường Nguyễn Phi Khanh coi tử vi. Nếu anh không nhớ thì em xin nhắc thêm nữa: anh ơi, anh còn nhớ chuyến đi Châu Đốc của bọn mình không? Xuống núi Sam thăm ông thầy ngãi ấy mà… Dạo ấy, anh có nói là tướng số dị đoan đâu. Trái lại anh thích tướng số. Anh cho rằng con người sống chết có số. À phải rồi, dạo này anh… - Xin em. Em đừng giễu anh nữa. - Em đâu dám. Em chỉ gợi lại kỷ niệm qúa khứ. Thật vậy, con người sống chết có số… Mà thôi, nếu em chết vì anh nữa, em cũng sẵn sàng. Con người ai chả chết một lần, hả anh? Chết trước thì khỏi phải chết sau. Chết trong tay anh chẳng hơn nằm còng queo trên sân xi măng nhà xác Vạn Tường, không người thân thích, sáng sớm được tống vào quan tài, vứt xuống huyệt sâu thăm thẩm đầy nước và sâu bọ gần Thát Luông, phải không anh? - Nào, chúng mình xuống nhà. Đêm nay, chúng mình đi ăn, rồi đi nhảy, cấm em nói chuyện gở. Thiếu Cơ nín lặng. Khi đi qua cái ghế bành to tướng, mụ dầu ngồi chễm chệ dưới nhà, trên miệng tồng ngồng điếu xì gà cháy đỏ, Văn Bình ném cho mụ hai tờ năm trăm mới tinh. Mụ lắc lư đôi vú quả mướp: - Cám ơn anh. Anh đi chơi với Tin Cố hả? Chàng đáp: - Ừ. Đêm nay Tin Cố ngủ với tôi. Mai sáng đưa về, không mất mát gì đâu mà sợ. Mụ dầu cười hô hố: - Con Tin Cố tốt phước quá. Mai về nhớ mua cho chị thỏi súc cù là Nhật bản nghe. Thiếu Cơ véo vào ngực mụ dầu. Thiếu phụ reo lên, lê giép lệt kệp chạy vào góc. Cô ả tóc đuôi ngựa, mặc áo ni lông giấy bóng, đấm bóp cho chàng hồi nãy, xán lại, nắm vạt áo nũng nịu: - Còn em nữa. Sao anh không cho em tiền? Thiếu Cơ quay lại, mặt dữ như hung thần: - Con quỷ muốn gì? Cô gái nhăn răng cười: - Tiền. Thiếu Cơ gằn giọng: - Mày muốn true tức bà phải không? Cô gái nhìn Thiếu Cơ, vẻ mặt kinh ngạc. Có lẽ thường ngày Thiếu Cơ nổi tiếng hiền khô, không tra gây sự. Song cô gái kinh ngạc không được lâu. Bàn tay Thiếu Cơ đã vung ra, túm áo cô gái, xé mạnh. Trong chớp mắt, mảnh voan vô ích bị lôi tuột ra khỏi người, cô gái trần như nhộng. Vẫn chưa hả giận, Thiếu Cơ còn xấn đến, hất cô gái ngã chúi vào đống bàn ghế kê sát tường nữa. Mụ dầu vắt chân chữ ngũ thở khói không nói nửa lời. Văn Bình kéo Thiếu Cơ ra ngoài. Khi hai người đi qua mụ vụt đứng dậy: - Tin Cố làm hư hỏng đồ đạc trong nhà hàng. Anh đền tiền cho tôi. Thiếu Cơ chống nạnh định tặng mụ chủ một bài học, song Văn Bình gạt phắt, giọng ôn tồn: - Được, tôi sẵn sàng bồi thường cho chị. Chàng ném cho mụ một ngàn kíp. Mụ nhận tiền, miệng cười toe toét. Gió mát buổi tối làm Văn Bình thoải mái. Khoác tay Thiếu Cơ, chàng mắng yêu: - Em dữ quá. Thiếu Cơ cau mặt: - Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Lơ mơ với con ranh ấy, có ngày mất xác. Nó muốn chửi em tha hồ song không được léo hánh tới lông chân anh. Em trọng anh, em bắt tụi nó phải trọng anh như thế. Trước rạp chiếu bóng Saleum Vieng, người đứng đông nghẹt. Tuy trời tối, xe hơi vẫn bóp kèn pin pin điếc tai. Một đoàn vét-pa lũ lượt phóng qua, bụi bay mù trời, kèm theo tiếng cười khoái trá của những cô gái trát đầy phấn ngồi sau. Văn Bình vẫy tắc xi. Một chiếc Mercedes sơn đen đậu nghênh ngang giữa lộ. Như thường lệ, Văn Bình nhìn tứ phía một lượt, và không thấy bóng ai khả nghi. Tuy nhiên, khi mở cửa cho Thiếu Cơ lên xe chàng có linh tính bị theo. Bao tử chàng bóp lại, phồng ra nhiều lần, và tim chàng đau nhói như bị chích kim. Chàng trù trừ một giây rồi ra lệnh cho tài xế lái xuống Thát Luông. Chàng thấy Thiếu Cơ nhổm người trên băng, dường như muốn hỏi chàng điều gì. Song nàng lại thu hình vào góc, lặng lẽ rút thuốc lá trong ví ra hút một mình. Biết chàng cũng mê Salem, mỗi khi hút thuốc nàng thường mời chàng. Có lẽ nàng đang bối rối… Chạy được một quãng, qua Quốc hội, nàng hỏi giọng nho nhỏ: - Tại sao anh không đi thẳng lên khách sạn Constellation? Mình bị theo phải không? Chàng giật mình trước sự thông minh của Thiếu Cơ. Tiếc thay, nàng theo nghề làm đĩ, nếu gia nhập tổ chức điệp báo, nàng sẽ trở thành nhân viên thượng thặng. Chàng không đáp, Thiếu Cơ ngồi yên trong góc, không hỏi thêm nữa. Xe đến Thát Luông, chàng khoát tay dặn tài xế ngoẹo đầu, trở lại trung tâm thành phố. Người tài xế Lào rú ga, xả tốc lực trong khi quay xe. Bốn bánh cao su rít lên. Đến gần Chợ Mới, chàng nắm tay Thiếu Cơ: - Anh đậu cho em xuống nhé. Tay nàng bỗng lạnh đi: - Ồ, anh nói gì thế. Anh khinh em quá! Văn Bình nói, giọng ôn tồn: - Anh đâu dám khinh em. Anh chỉ sợ… Lúc nãy, em nói đúng. Có người theo sau chúng ta. - Anh sợ người ta hại em nên thả em xuống phải không? Anh lầm rồi. Được chết vì anh, em không oán thán. Em không bằng lòng xuống. Nàng lớn tiếng ra lệnh cho tài xế bằng tiếng Lào: - Khách sạn Constellation. Văn Bình ngồi yên, nhìn vào tận mắt nàng. Chàng thấy rõ một giọt nước long lanh. Bỗng chàng kéo nàng ngả vào lòng, đặt lên môi một cái hôn thành thật. Chàng hôn nàng không phải vì yêu – thật vậy, một kẻ khó khăn về đàn bà không thể xúc động trước một vũ nữ về chiều, phấn son ê chề, thân thể rũ nát – mà vì cảm phục. Chàng bỗng ghét cay, ghét đắng xã hội. Cái xã hồi đầy lường gạt và đều giả. Cái xã hội xấu xa, bẩn thỉu đã được nước hoa đắt tiền Văng-ve, phấn son thượng lưu Át-đen, quần áo Ban-manh che đậy… Nàng ôm cứng lấy chàng, hôn mạnh đến nỗi môi chàng bị đè bẹp, chàng gần nghẹt thở. Nàng rít lên trong khoái cảm: - Văn Bình ơi, đến chết em cũng không quên được cái hôn trên xe đêm nay. Chàng nắm bàn tay nàng, đặt vào dưới nách, đeo chỗ súng, giọng an ủi: - Chết sao được. Đứa nào đụng em, anh bắn tan xác. Cho tới khi tắc xi dừng lại, nàng vẫn nắm chặt tay chàng. Xuống xe, nàng rút tiền trong ví ra trả. Văn Bình nói đùa: - Ái chà, Tin Cố của anh giàu quá. Nàng đáp, giọng buồn rầu: - Gia tài điền sản của em chỉ còn một ngàn, ngàn bạc cuối cùng. Hôm qua, em phải mang chuỗi hạt trai đi bán, để trả tiền cơm, tiền nhà. Anh còn nhớ chuỗi hạt của em không? Cái chuõi màu xanh, em thường đeo mỗi khi mặc áo hở cổ ở Sài Gòn ấy mà. Thế là hết. - Anh sắm chuỗi khác cho em. - Em chán nữ trang rồi. Giờ đây, em chỉ thích sống tầm thường, ẩn dật và quê mùa. Em sẵn sàng ăn ngày một bữa, làm việc quần quật như nô lệ miễn hồ tinh thần được thanh thản. Hơn bao giờ hết, em thấy chồng con là cần thiết… Mặt Thiếu Cơ bỗng xịu xuống. chàng vội vàng an ủi: - Yên tâm. Về Sài Gòn chúng mình sẽ gặp nhau tha hồ. Chàng không dám nói « về Sài Gòn, chúng mình sẽ sống chung », vì biết nàng không tin. Vả lại, trước nhiều thái độ chân thành của người đàn bà về chiều, chàng không có can đảm nói dối. Vì nói dối là hèn hạ. Câu nói của Văn Bình làm nàng vui lại. Nàng nhoẻn miệng cười: - Anh nói nghe được lắm. Ít ra anh đã thành thật và tử tế với em. Thật ra, em không cầu mong nhiều, vì ăn nhiều dễ bội thực, anh ạ. Tình yêu cũng như thức ăn, phải lửng dạ mời ngon. Anh đẹp trai, nhàn tình cả đống, một vài tháng anh tạt vào thăm em là đủ rồi, quá đủ rồi… Văn Bình gạt ngang: - Em lôi thôi lắm. VNàng định phản đối song lại ngậm miệng, mắt liếc ngang dọc. Rồi nàng bóp mạnh tay chàng, nói vào tai: - Có người theo. - Anh biết rồi. Anh biết từ nãy. Hình như nó đi xe Opel. Nó dừng xe gần khách sạn Constellation. Chàng kéo nàng lại trước một tiệm bán giày, giả vờ chỉ trỏ bàn tán: - Vào đây, anh đóng cho em đôi giày. Hai người lững thững vào tiệm. Trong khi Thiếu Cơ thử giày, chàng liếc nhìn ra ngoài. Không thấy ai khả nghi. Năm phút sau, hai người rẽ vào con đường tối bên trai. Nàng bảo chàng: - Anh thấy cái cửa sắt màu đỏ không? Cạnh nhà bán sách ấy. - Thấy rồi. - Cửa bao giờ cũng khép hờ, không khóa. Phải qua hẻm vài ba chục thước rồi lên lầu. Trên lầu có bốn phòng, đều là của Mila. Nàng ở phòng trong cùng. Anh nhìn phía sau chưa? - Rồi. Không có ai hết. - Hồi nãy, trong khi thử giày em thấy hai đứa mặc sơ mi cụt tay đi qua, rồi quẹo sang bên phải. - Anh cũng thấy như em. Đến ngã tư, chúng đột nhiên mất hút. - Trời tối lắm, có lẽ chúng núp dưới bóng cây. - Mặc kệ. Em vào trước, anh đi sau bảo vệ. Từ bóng cây sau ngã tư đến hẻm tối gần 50 thước, chúng khó hy vọng bắn trúng. Anh có cảm tưởng là chúng đi theo, rồi hành động trong hẻm. Thiếu Cơ dừng lại, mùi thuốc lá thơm quyện trong không khí. - Em vào được chưa? Văn Bình đáp nhỏ: - Được rồi. Anh đoán không sai. Một đứa vừa chạy qua ngã tư, núp sau tiệm vàng. Em để nó cho anh. Lâu ngày, không được bắn súng, tay anh ngứa ngáy quá sức. Nàng cười nhẹ: - Hừ anh bắn phải em thì khốn! Chàng cũng cười: - Em không thích ư? Thiếu Cơ phát mạnh vào vai chàng, giọng đùa bỡn: - Ông nỡm. Quên bẵng nguy hiểm đang rình rập, nàng cười to. Văn Bình hích cùi chỏ vào ngực nàng: - Đêm nay hãy cười. Vào đi. Thiếu Cơ đẩy nhẹ cửa sắt. Con đường vào trong tối như hũ nút. Đi được một quãng, chàng nắm áo nàng lôi lại: - Bây giờ, để anh đi trước. Em cầm lấy khẩu súng của anh. Cẩn thận, đạn đã lên nòng, chỉ đẩy cò an ninh là nổ. Hễ động dụng, em cứ bắn. Có gì, anh chịu cho. Hai người đến cầu thang: Thiếu Cơ nói, giọng ngạc nhiên: - Lạ nhỉ. Mila vẫn thắp đền sáng đêm mà. Hay là… Nàng ngậm miệng, không nói thêm nữa. Có lẽ mùi chuột chết từ gầm cầu thang xông ra làm nàng lợm giọng. Cũng có lẽ một cảm giác kinh sợ chặn lấy cổ họng nàng. Văn Bình hỏi: - Em sợ Mila không ở đây ư? Thiếu Cơ vẫn lặng thinh. Nàng đứng sát người chàng, bàn tay cầm súng giơ lên. Chàng vội ngăn lại: - Làm gì có ai! - Em sợ lắm, anh ạ. Sợ là cảm giác chung của nhiều người khi bị bóng tối bao phủ. Là phụ nữ, Thiếu Cơ sợ là thường. Tuy nhiên, quen Thiếu Cơ đã lâu, chàng biết rõ tâm tính nàng. Nàng không bao giờ biết sợ. Nàng là người đủ bình tĩnh đánh nhau với ma ngoài nghĩa địa. Hồi nhỏ, Thiếu Cơ ở cạnh nghĩa trang, đường Chi Lăng. Thời ấy, đường Chi Lăng còn nhỏhẹp, hai bên bụi rậm um tùm, nhà gạch chưa xay san sát như bây giờ. Ngôi nhà của cha mẹ nàng nằm gọn lỏn giữa một bãi vắng heo hút, cửa sổ nhìn thẳng ra những nắm mộ trắng xóa, mỗi đêm tối trời thường leo lét lửa xanh ma trơi. Đứa nào không học bài nghịch bậy thường bị anh nàng đuổi ra bãi tha ma ban đêm. Thiếu Cơ bị phạt nhiều nhất nên đã quen tên người chết khắc trong bia đá. Nàng nhớ không khí rùng rợn của nghĩa trang đến nỗi những đêm mưa to, gió lơn, nàng khoác áo tơi sùm sụp đi đi lại lai một mình… Lớn lên, nàng không biết sợ là gì nữa. Thế mà đêm nay nàng sợ. Văn Bình kéo nàng sát người chàng thêm nữa. Chàng muốn truyền hơi ấm vào da thịt lạnh ngắt của nàng. Chàng đặt chân lên cầu thang gỗ. Bậc thang ọp ẹp rít lên, tưởng như lún gẫy dưới sức nặng lực sĩ của Văn Bình. Tiếng chin chít vang lên. Thiếu Cơ run như cầy sấy nép vào ngực chàng. Một con chuột cống kếch xù từ trong tối chạy vụt ra, dẫm vào chân Thiếu Cơ làm nàng rú lên: Rồi một đoàn dơi khổng lồ dậpc ánh phạch phạch bay qua, mùi hôi thối xông vào mũi chàng. Thiếu Cơ rú lên lần nữa. Bình tĩnh và gan lì như Văn Bình mà cũng rợn gáy. Chàng thò tay vào túi lấy bật lửa. Mắt chàng sáng quắc chọc sâu vào màn tối u uất. Đột nhiên, chàng khám phá ra sự thật. Sự thật kinh hồn. Trong một phần trăm tích tắc đồng hồ, chàng tìm được nguyên nhân làm Thiếu Cơ mất hết can đảm. Nhanh chư chớp xẹt, chàng xô nàng ngã xuống. Hai giờ sáng. Như mọi đêm, dúng hai giờ Gã Cụt khệnh khạng trèo lên lầu sòng bạc thượng lưu ở đường Ernest Outrey. 5 cái máy lanh Admiral chạy hết tốc lực không làm Gã Cụt bớt nóng. Hắn kéo ghế, ngồi phịch xuống. Như mọi đêm, hắn ngoắt tay giọng anh chị: - Vốtka, mactini, vắt thêm một giọt chanh. Vốtka trộng với mactini là món uống quen thuộc của hắn. Phải là kẻ ăn chơi tứ tiếng mới biết được cách pha với chanh. Thật ra, bợm rượu thường chê mạctini, coi đó là tri kỷ của đàn bà. Kẻ giang hồ lại tìm thấy trong ly mạctini, pha giọt chanh, bỏ thêm viên ô-liu mằn mặn một thú vị lạ lùng. Gã Cụt lại có một lối uống rượu lạ lùng. Hắn dùng trước một ly mạctini vĩ đại, đúng phép lịch sự thái tây, rồi mời quay ra huýt-ky. Không phải huýt-ky Nhật uống nóng cổ, huýt ky Mỹ làm chảy nước mắt, nước mũi, mà là huýt-ky chính cống si-cốt, thứ thượng hảo hạng cất dưới hầm mấy chục năm… Uống huýt-ky, Gã Cụt cũng không pha sô-đa, hoặc nước đá như mọi người. Theo hắn, như vậy không phải là sành rượu. Uống huýt-ky hạng nhất phải dầm cả chai vào đá lạnh, như thể sâm banh của Pháp, rồi gác chân lên bàn, đập vỡ cổ chai, ghé miệng tu ừng ực, rồi lấy tay áo quẹt mép… Gã Cụt nhìn chung quanh… Sòng bạc vẫn gồm khách chơi quen mặt. Vẫn những cô gái mặc y phục mỏng dính, hà tiện đồ lót, thích ưỡn ẹo cho khách ngắm nghía. Vẫn những gã đàn ông bảnh bao, túi quần sau đầy ứ tiền kíp và đô-la, xài bạc không bao giờ đếm, thua cả năm cũng không hết của… Gã Cụt nhún vai ra vẻ khinh bỉ… Bồi mang khay lại, Gã Cụt cau mặt. Ly rượu nhỏ xíu, không đúng dung lượng thường lệ. Mỗi khi hắn vào sòng bạc, phổ ky đều kính cẩn bưng tới một cốc mạctini to tướng. Tên bồi này mới vào làm, hoặc không dám xỉa tới oai danh của Gã Cụt, trùm đao búa ban đêm của Vạn Tượng. Gã Cụt giựt phăng cúc áo trước ngực để lộ con rồng màu xanh xâm trên làn da lông lá. Phổ ky rảo bước ra quầy rượu. Gã Cụt quát lớn: - Thằng khốn kiếp. Người bồi dừng lại, vẻ mặt sửng sốt: - Thưa ông, gì ạ? Gã Cụt quắc mắt giận dữ: - Ai bảo mi rót rượu vào ly muỗi tép? - Thưa, ông gọi vốtka mactini pha chanh. - Đúng rồi. Nhưng tao không uống như người khác. - Ông uống sao ạ? Gã Cụt hắt luôn ly rượu vào mặt người bồi. Đồng thời, hắn tống vào bụng một cái đá như trời giáng. Phổ ky ngã lộn xuống bàn uống rượu kế cận, ly chén vỡ loảng xoảng. Liếc thấy dáng điệu đâm thuê, chém mướn của Tư Cụt, ai nấy đều lặng thinh. Hắn ra lệnh: - Kêu lão chủ ông Tư bảo. Người bồi lóp ngóp bò dậy, lấy mù xoa lau rượu trên mặt « dạ » một tiếng rồi vào phòng trong. Chủ nhân – một người đứng tuổi để râu mép theo kiểu Hit-le – nghiêng mình chào Gã Cụt: - Kìa, tưởng ai, té ra là anh Tư. Chúng nó hỗn với anh phải không? Gã Cụt nhe hàm răng cải mả: - Thằng bồi chó chết của anh không biết cái thú nhấp mactini nên tôi cho nó một bài học nho nhỏ. Anh giận tôi không? Chủ nhân gập mình làm đôi: - Đâu dám. Anh Tư muốn gì cũng được. Để tôi đuổi thằng bồi láo xược ấy ngay. Rồi cất tiếng oang oang: - Bay đâu. Bưng lại đây một chai sâm banh hảo hạng. Gã Cụt nheo mắt ra vẻ khoái chí. Chủ nhân nói, giọng lễ phép: - Đêm nay, sòng bạc đãi anh. Xin mời anh tự tiện. Tư Cụt nhún vai. Chủ nhân sòng bạc sợ là phải, nếu không một viên đạn từ khẩu Iver Johnson nòng 22 đeo dưới nách Gã Cụt làm mất chỗ đội mũ. Chai sâm banh sọc đỏ nằm ngoan ngoãn trong thùng đã vụn trắng muốt. Bồi bàn xun xoe lấy khăn trắng kẹp cổ chai, sửa soạn mở nút. Gã Cụt bỗng xua tay: - Rượu gì vậy, anh chủ? Chủ nhân giật nảy người: - Thưa anh, sâm banh Mum. Ngon nhất là Mum. Gã Cụt chắc lưỡi: - Chậc, nghe anh giảng bài, tôi có cảm tưởng từ khi làm người đến giờ chưa được nếm mùi sâm banh. Mum là thứ ngon nhất phải không anh? Mặt chủ nhân tái nhợt: - Thưa anh Tư… Tư Cụt đấm tay xuống bàn, giọng gắt gỏng: - Đồ biển lận… Thứ sâm banh nhạt phèo như nước ốc này, anh dọn cho người khác uống. - Vậy, thưa… anh dùng gì? - Ngu như con bò… Rượu Mum sọc đỏ của anh để năm 1944… Dân nhà quê sẽ vồ lấy, dinh ninh rượu càng cũ càng ngon, nhưng anh ơi, tôi là thần rượu… Trong vòng hai mươi năm nay, sâm banh chỉ tuyệt ngon một năm ma thôi, năm 1953, anh biết chưa? Sâm banh 1953 đắt gấp 5 gấp 10 lần sâm banh những năm khác… Cũng như rượu vang bốt-đô ấy… trong 20 năm nay chỉ có 1945 và 1947 là bất hủ. Chủ nhân run run đứng dậy: - Thưa anh, còn một chai 1953. Một chai độc nhất, dành riêng cho ông… Nhưng không sao, tôi xin biếu anh. Gã Cụt sẵn giọng: - Ừ, để dành riêng cho ông nội của anh đi. Thằng Cụt chỉ nên uống nước trà đường thôi. - Tôi lỡ lời, xin anh tha lỗi. - Lần này, chỗ quen biết, tôi không giận, nhưng anh coi chừng…. Tư Cụt ít khi nhịn ai hai lần… Mắt Gã Cụt rực sáng khi nhắp ly rượu màu hổ phách. Sâm banh 1953 là báu vật trong làng Lưu linh quốc tế. Mạt ra, lão chủ phải mua tới 10 ngàn kíp một chai… Gã Cụt vắt vẻo uống rượu, không thèm quan tâm tới bọn gái chơi mặt trát đầy phấn và son đỏ, miệng sặc sụa thuốc lá, nách dọm mùi nước hoa rẻ tiền, ưỡn ẹo lại gần, cố tình sát bộ ngực to lớn vào vai hắn, lúc lắc một cái, trong cử chỉ mời mọc vô cùng dâm dật. Hắn đã quen với thủ đoạn « câu » khách của xã hội thanh lâu Vạn Tượng. Hắn muốn cô gái nào là được thỏa mãn ngay. Kẻ nào cưỡng lại tức khắc sẽ bị xin huyết. Tuy lả lơi trước mặt Gã Cụt, bọn gái chơi vẫn sợ như ngoáo ộp. Vì tính tình hắn thất thường. Có thể hắn ôm lưng kéo ngả vào lòng, hôn đôi ba cái, rồi xỉa cho một đống giấy bạc, hoặc có thể hắn nhổ toẹt nước bọt vào mặt, tiện tay tát một cái nổ đom đóm mắt: Toàn thể đều sợ Gã Cụt. Trừ một người. Một người đàn bà tuyệt đẹp.