🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Áo Lính
Ebooks
Nhóm Zalo
TRÁI BÀNG
VUÔNG
M
ùa đông năm ấy tôi vào Sài Gòn chơi thăm ông anh nhân thể làm chuyến du lịch và tránh rét. Lần đầu tiên đến đất Sài Gòn lạ nước lạ cái nên muốn đi nhiều nơi. Chỗ nào cũng thấy hay thấy thích. Đận đà mãi, đến khi định hồi hương thì đã hai mươi tháng Chạp. Do không đăng ký trước, lại vào giáp tết khách về Bắc đông, nên đành ngậm ngùi mua vé ghế cứng mà ngồi trên tàu chợ. Biết rằng mất hai ngày đẫy mới về đến nhà nhưng cũng cầm lòng vậy tự an ủi dù sao đi tàu cũng an toàn hơn ô tô dẫu lúc vào đã biết cái sự rệu rã của đường sắt xứ ta… kình kịch cành cạch lùi lũi mà trườn như thể rắn bò.
Từ Sài Gòn lên thì toa ghế cứng trống hơ trống hoác dễ cũng chỉ quá nửa số người, ai ngờ đến vài ga sau đã chật kín. Nhưng số mình vẫn còn may vì bên cạnh vẫn còn ba chỗ trống. Ngả người duỗi chân dang rộng tay mà nằm ngủ thấy thoải mái vô cùng và tự bảo rằng ngồi ghế cứng cũng có cái sướng riêng của nó.
Đã vào ga Nha Trang. Kệ. Đang thiu thiu tận hưởng cảm giác khoan khoái thì thấy một người đàn ông nhỏ thó, mặt mũi nhăn nheo nhưng có vẻ còn khỏe vai đeo ba lô, hai tay xách hai cái túi du lịch, vặn người để tránh va vào thành ghế xăm xăm bước tới. Vừa đi lão vừa ngoái lại phía sau nói bằng giọng Bắc khàn khàn: “Nhanh nhanh lên một tý. Gớm cứ như là sắp chết đến nơi. Con đỡ mẹ mày… chứ tàu mà chạy thì phải khiêng bà ấy đấy. Đã bảo ở nhà mà cứ đòi đi bằng được”.
Lão dừng ngay trước mặt tôi, ném cái nhìn dò xét và ngạc nhiên như thể người từ hành tinh khác đến:
- Ghế ông đây à?
Dớ dẩn. Một câu hỏi vô lý hết sức. Kể cũng bực, nhưng phương châm của tôi là không gây gổ với người lạ… nên đành nuốt nỗi bực vào bụng để gật đầu một cái.
Lão không để ý đến cái gật đầu của tôi mà vươn người qua tôi để nhìn số ghế. Bị cả người lão phủ lên, mặt tôi úp vào ngực lão lại bị mùi mồ hôi chua chua xông vào mũi nên như một phản xạ hai tay đẩy lão ra. Bàn tay gặp phải cái ngực khô khốc đầy những xương xẩu. Lão lùi lại như không có việc gì xảy ra phán luôn một câu: “Đúng rồi. Vậy đây là ghế của nhà mình”. Lão bảo hai người phụ nữ, một mặt mũi nhợt nhạt chắc là do say xe và người kia khá trẻ nhưng trên mặt cũng hằn lên sự mệt mỏi:
- Nhà ta ngồi ở đây!
Lão nghiêng người thả những túi, ba lô xuống sàn tàu rồi rướn người quẳng những thứ ấy lên gác như thể phu khuân vác thực thụ. Phải nói lão trông người nho nhỏ vậy mà khỏe phết… Nhưng tôi ngồi dưới vẫn phải né mỗi khi lão vươn người cùng vật thể bay trên tay trong khi chân thì loạng choạng vì tàu đang tăng tốc. Nhỡ ra lão tuột tay hoặc yếu sức… thì cái đầu mình khó mà nguyên vẹn.
Tự nhiên thấy bực. Vài phút từ lúc lão già này đến đã gây ra toàn thứ khó chịu. Không biết mình phải chịu đựng lão quỷ già này đến tận ga nào.
Xong việc lão ngồi cạnh tôi sau khi chỉ tay vào hai cái ghế trống dãy bên bảo người đàn bà mặt mũi nhợt nhạt với giọng nói nhẹ nhàng: “Mình ngồi đây”, và dịu dàng bảo cô gái vẫn còn đang lúng túng đứng bên: “Con ngồi bên mẹ”. À thì ra là vợ và con gái của lão. Nghe giọng nói với cô con gái thì biết lão quý con gái lắm, mặc dù trông đứa con gái chả có nét gì giống cha và cũng chẳng mảy nào giống người vợ.
Lão móc túi ngực lấy ra bao Bát-tô rút một điếu đưa lên miệng và
nghiêng người moi ra cái bật lửa. Tôi vội can: “Ấy, đừng hút thuốc trong toa. Ra cửa cuối toa mà hút”. Ông bạn đường nghệt mặt một tý rồi đứng dậy loạng choạng đi về cuối toa.
Như phản ứng dây chuyền, thấy lão hút thuốc thì tôi thèm. Tôi cũng đi về cuối toa để thỏa mãn cơn nghiện thuốc lá vốn đã bị kìm hãm từ lúc lên tàu ở Sài Gòn.
Lão đứng dựa vào tường buồng vệ sinh nhắm mắt nhả khói vẻ mãn nguyện. Tôi đến gần châm lửa hút thuốc. Thấy tôi, lão không nói gì… phút sau thì bâng quơ:
- Cái anh Bát-tô bây giờ nặng và khét chả giống cái thời đánh nhau.
- Chắc ông trước cũng đi bộ đội đánh nhau trong này? Tôi hỏi. Lão lơ đãng gật đầu một cái để thay câu trả lời rồi hỏi lại: - Ông cũng bộ đội trước Bảy lăm à? Đánh nhau ở đâu? - Ở Quảng Đà!
Lão tròn mắt nhìn tôi:
- Thế ở đơn vị nào, có phải Sư Hai không?
Tôi gật đầu. Vậy là lão vồ lấy tay:
- Sư Hai à, công trường mấy?
Tôi bảo Ba mốt.
- Thế à! Tớ ở Ba tám. Nhưng sau đấy tôi đi đánh Trường Sa… rồi thành hải quân.
Cánh lính già từng chiến đấu ở chiến trường hình như có linh tính để nhận ra nhau. Đến giờ tôi cũng không hiểu cái linh tính ấy ở đâu ra, nhưng có lẽ khuôn mặt khắc khổ và những thói quen tạo ra dấu hiệu đặc trưng mà cánh lính trơn cả đời không bỏ được.
Thì ra chúng tôi là đồng đội. Sự e ngại biến mất. Nhìn khuôn mặt người đối diện thấy có những nét thân thân với vầng trán rộng, hai mắt ánh lên tia tinh nghịch, đuôi mắt nheo nheo và khóe miệng cong lên tươi tắn dưới bộ râu quai nón đen trắng lẫn lộn mọc vô tổ chức
chắc lâu ngày không cạo. Bộ râu đã phản bội khuôn mặt vì thực ra lão cũng chỉ tầm tuổi tôi…chưa già lắm.
Lính cũ bao giờ gặp nhau cũng thích nói chuyện chiến đấu ngày xưa. Hình như là một thứ bệnh. Tôi biết có ông ở xóm cứ gặp tôi là kể chuyện… những câu chuyện được kể vòng đi vòng lại không bao giờ kết thúc. Hình như tôi cũng vậy mỗi lần gặp ông, tôi cũng kể chuyện chiến đấu, cũng đưa đà phụ họa với ông. Nhưng do còn đang công tác bận nên nhiều khi tôi phải tìm cách tránh mặt. Ông biết điều ấy nên bảo: “Tao thích nói chuyện với mày vì cùng là lính đánh nhau. Những thằng không đánh nhau thì biết đếch gì, đã vậy nhiều khi chúng tin vào những chuyện bốc phét đâu đâu. Tin đến mức khi mình nói chuyện thật thì chúng bảo mình bốc phét”.
- Mả bố “chúng nó” cũng vì cái sự rình rập khiêu khích mà con tôi bị thương. - Lão đột nhiên cất tiếng chửi, mắt long lên hai bàn tay nắm chặt như chuẩn bị đấm nhau sau khi vứt cái tóp thuốc ra ngoài qua ô cửa chớp.
Đang tự nhiên câu chuyện lại sang cái hướng bạo lực. Tôi không hiểu sao tự dưng lão chửi như vậy. Tốt nhất là chấm dứt cuộc chuyện trò để vào trong toa. Tạng người như lão thì chắc sẽ nói ra ngay thôi. Nghe giọng thì biết lão người quê Ninh Bình hoặc Nam Định. Nếu vậy thì vẫn còn cơ hội được nghe lão chia sẻ.
Vào trong toa tàu, khi thấy hai người nhà đang ngoẹo đầu dựa vào nhau mà ngủ, lão lẳng lặng ngồi xuống bên cạnh tôi. Quả nhiên được khoảng hơn phút đã thấy lão ghé sang thì thào: - Đây là bà xã và con dâu tôi đấy ông ạ.
À ra thế. Thảo nào không giống nhau. Nhưng sao cô này có vẻ ngượng ngượng trước vợ chồng lão. Như đoán được thắc mắc của tôi lão giải thích thêm: “Con dâu chưa cưới!”.
- Chúng tôi vào thăm con giai út ông ạ. “Ông ấy” cũng bộ đội hải quân. Nhà tôi thành ra cha truyền con nối là hải quân. Chả biết bận
bịu công việc hay ham mê chỗ nào mà vài năm nay chả thấy “ông ấy” nghỉ phép về nhà...
Tôi bật cười vì lão gọi con là ông bằng giọng điệu vừa tôn trọng xen lẫn tự hào.
- Năm nay “ông ấy” ba mươi rồi đấy ông ạ. Vài năm trước khi về nghỉ phép ở nhà vợ chồng tôi bảo với “ông ấy” rằng cứng tuổi rồi đấy. Lấy vợ đi chứ không thì thành ông lão, thành thằng hâm. Hâm thật ấy chứ lỵ. Cái thằng đàn ông mà muộn vợ dễ bị hâm lắm, tôi chả lạ. “Ông ấy” giả nhời tôi rằng: Lấy vợ làm gì, rồi suốt ngày biền biệt, để vợ một mình khổ sở lắm. Như mẹ ngày xưa ý… Tôi mới bảo rằng ngày ấy chiến tranh nó khác, với lại tao cũng bù đắp cho mẹ ông đâu ra đấy. Bù cái gì? “Ông í” hỏi tôi như thế. Đúng là hâm thật, chả biết cái gì sất. Bù cái… đẻ ra ông đấy. “Ông ấy” cười rồi bảo nhưng mà con có tiếp xúc với con gái đâu mà yêu. Tôi mới nói rằng việc gì phải yêu, cứ vừa mắt là lấy. Eo ơi vậy ra gà à. Tôi cáu: Tao vả vào mặt bây giờ. Sao lại là gà, các cụ ngày xưa là gà à. Ai dám yêu đương hò hẹn gì. Cứ thử đầu mày cuối mắt xem… có mà gọt đầu bôi vôi. Bố mẹ hai bên thỏa thuận với nhau xong, hẹn ngày đến đón về, làm mấy mâm cơm… xong nhốt hai người vào trong buồng một đêm là yêu nhau đến lúc chết.
Tôi bật cười về cách nghĩ hay hay và sự hoạt ngôn của lão. Lão này kể chuyện duyên ra phết. Thấy tôi gật gù hưởng ứng, lão càng hăng:
- Tôi lại nói với “ông ấy” rằng trông tấm gương của tôi với mẹ ông đấy… những năm sáu sáu, sáu bảy ở bộ đội về phép thấy mẹ ông xinh xinh… Đấy là tôi nói ngày xưa chứ bây giờ có ma nó thèm! Thế là tôi đến nhà. Mẹ ông ra rót chén nước đẩy đến trước mặt lí nhí mời anh xơi nước rồi ngoảy đít đi thẳng, thì biết gì đâu mà tiếp. Rồi ông ngoại ông ra mắt gườm gườm miệng lục vấn như hỏi cung rằng tên gì, ở đâu, con nhà ai… Gớm hỏi đến cô dì tỷ muội thúc bá đệ
huynh… Nguyên giả nhời ông cụ cũng mất đứt vài tiếng đồng hồ. Ba hôm sau tôi lại sang thì mẹ ông đi vắng, chả biết đi vắng hay nấp trong buồng? Ông ngoại ông bảo rằng anh thích con tôi à, muốn xây dựng gia đình với nó à. Tôi vâng. Nhưng phải nói chuyện người nhớn với nhau chứ không kiểu tán tỉnh trẻ con. Tôi mới về nói với ông bà nội ông. Ông bà nội sang ngay tắp lự. Lúc ấy ông ngoại mới bảo rằng để tôi hỏi cháu đã. Nếu có gì thì bên này sẽ báo sang. Sáng hôm sau ông ngoại bắn tin với ông bà nội rằng cháu nó đồng ý. Thì chả đồng ý… vốn tôi đẹp giai lồng lộng lại là bộ đội, đẹp giai hơn ông bây giờ í chứ. Không tin cứ hỏi mẹ ông mà xem. Vậy là ba hôm sau thì cưới. Ối giời lúc họ hàng về hết có mỗi hai đứa với nhau trong buồng… ngượng ơi là ngượng, mẹ ông cứ ngồi ở góc giường mân mê cái góc chiếu. Vậy là tôi đánh liều từ từ tiến đến bất ngờ đẩy cho một phát ngã ngửa ra giường…
- Điêu! Chỉ điêu… Cái lão này không biết xấu hổ! Cứ nói chuyện dớ dẩn mà không sợ bác ấy cười cho à? Con nó đang cười kia kìa. Tôi giật mình ngẩng lên, thì ra mải nghe mà tôi không để ý lúc này bà vợ ông bạn đã thức nhìn sang trách yêu ông chồng. Dựa vào vai mẹ chồng, cô con dâu miệng cười rinh rích tròn mắt chăm chú nghe bố chồng kể chuyện.
Lão sờ lên mặt xoa xoa đám râu ria ra vẻ ngượng, nhưng vẫn cố vớt vát.
- Thật đấy! Điêu đâu mà điêu. Mà là chuyện tốt chứ xấu xa gì mà phải xấu hổ.
Tôi cũng vui lây vì câu chuyện của lão. Và có lẽ cũng chẳng cần lão phải kể thêm thì tôi vẫn hình dung một tình yêu trong trẻo và đơn giản nhưng cũng đầy vất vả vì ông chồng sau đó lại tiếp tục đời lính hải quân khi ngoài biển xa đã xảy ra bao nhiêu biến cố dữ dội, còn người vợ thì vất vả trong cái thời cả nước còn bao cấp khó khăn. Nhìn ông bà và cô con dâu tôi cũng thấy vui lây cái niềm vui gia
đình giản dị.
Con tàu tiếp tục gõ bánh kình kịch, kình kịch trên nền đường sắt, ngoài khuôn cửa thấy ánh đèn lấp loáng. Về đêm tiếng bánh xe như chát chúa hơn. Tôi nhắm mắt cố tìm một giấc ngủ. Câu chuyện mà ông bạn lính kể một cách thật thà, mọi khó khăn vượt qua tưởng chừng như rất đơn giản nhưng để lại dấu ấn chắc chắn trong cuộc đời mỗi con người. Bây giờ tôi đã biết nguyên nhân căn bệnh nhớ chiến tranh của những người lính cũ. Thế hệ chúng tôi sống đơn giản thật thà như thế và hạnh phúc cũng giản đơn như thế. Phải chăng đó là nguyên nhân của sự bền vững nhưng cũng là gốc gác của cái bảo thủ hôm nay.
Không biết đây là nơi nào. Tự dưng cơn thèm thuốc lại trỗi dậy nhưng nhìn thấy ông bạn ngồi ngoài đã lim dim mắt ngủ thì không nỡ làm kinh động đến giấc ngủ say của người khác.
Có lẽ tôi cũng ngủ được một chút vì tiếng bánh xe nhỏ dần rồi có lúc tắt hẳn. Giấc ngủ làm cho các giác quan đã được giải phóng khỏi những âm thanh chẳng lấy gì làm dễ chịu.
Tôi choàng tỉnh khi ông bạn đồng hành khẽ lay lay vào vai. Lão thì thào: “Mình ra ngoài hút thuốc đi”.
Tôi đi theo ngay mà không băn khoăn gì cả. Ra ngoài cửa toa lão cởi dép đặt làm hai chỗ ngồi rồi kéo tôi ngồi bệt dựa thành toa tàu. Hai thằng lính già giờ đã thành thân thiết kề vai nhau hút thuốc. Ông bạn đồng hành hình như còn chuyện muốn kể bởi tự dưng lão hỏi: “Ông có muốn nghe chuyện ông con giai tôi lấy vợ như thế nào không?”.
Giời ạ. Thế giới này gần trăm phần trăm đàn ông đều lấy vợ, có gì mà phải kể. Nghĩ vậy nhưng không nói ra. Cứ để lão kể cho vui, đằng nào cũng đã thức dậy rồi thì khó ngủ trở lại. Tôi gật đầu.
- Nói thật với ông ra thăm con giai mà thương lắm ông ạ. Người thì đen nhẻm như cục than, da thì khô khốc. Lần trước ông ý về có
vậy đâu.Vợ tôi thì ôm lấy con mà khóc rưng rức rằng sao gầy thế con, sao đen đúa vậy con. Nhìn con tôi cũng xót xa, nhưng phải trấn an mụ ấy ngay. Thế là tôi nạt: Cái bà này dớ dẩn. Đàn ông là phải như thế mới ra dáng đàn ông. Mấy cái thằng béo phệ bụng, đi đứng lặc lè, nước da bấy bớt thì chỉ là cái đồ ăn hại chứ báu gì. Thế là mụ ấy im tịt. Đợi khi có hai bố con với nhau tôi mới hỏi rằng các ông thiếu ăn à? Ông ấy cười bảo ăn thì đâu có thiếu, ăn chả hết ấy chứ. Có điều thiếu rau xanh. Nằm viện mấy hôm là đã khá đấy bố ạ. Mà dạo này “chúng nó” quấy phá dữ lắm. Mình phải vừa sẵn sàng vừa phải kiềm chế. Lắm bận tức không chịu được nhưng vẫn phải cắn răng. Họ chỉ cần cái cớ nên mình phải giữ cái đầu tỉnh táo kẻo mắc phải kế hiểm.
Lại nói về cái chuyện lấy vợ của thằng con tôi. “Ông ấy” bảo rằng mênh mông tít mù khơi vậy có gặp người con gái nào đâu mà yêu mà lấy. Nếu về phép được mươi mười lăm ngày thì làm quen cũng chửa xong, nói gì đến chuyện yêu. Thế rồi giá có thư đi thư về thì phải năm sau mới tính chuyện cưới xin. Mà người tử tế nghe chừng cũng hơi hiếm. Tỷ dụ thế này người ta nói yêu mình nhưng mình có ở nhà đâu… người ta phải quan hệ chỗ này chỗ khác bạn bè… rồi sinh ra cái sự quá đà. Mà quá đà thì sinh ra lừa dối. Anh ở xa về đâu có biết, thế là bập vào. Rồi cưới. Xong rồi mình lại biền biệt. Cái quá đà nó quay giở lại vì tình cũ không rủ cũng đến… nhẽ đời nó thế. Lại tiếp tục dối lừa. Người lính ở xa thiệt thòi vô kể.
Nghe “ông ấy” nói vậy tôi cũng hoảng. Sao “ông ấy” lại nghĩ cái sự yêu đương nó u ám đến thế. Kể cũng phải. Có khi do cuộc sống căng thẳng nên sinh ra mọi suy nghĩ cũng thận trọng. Nhưng chả nhẽ cả đời ở vậy à. Tôi mới bảo rằng: Khó khăn vậy thì để tôi hỏi vợ cho ông. “Ông ấy” cười bảo rằng bố cứ làm như ngày xưa cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Tôi quả quyết: ông yên tâm tôi chẳng bắt ép ông, tôi đi hỏi, tôi tìm hiểu… hễ ông ưng thì cưới, nếu không thì thôi.
“Ông ấy” bảo nhưng mà con mắt thẩm mỹ của mỗi người mỗi khác. Tiên sư nhà ông! Về cái khoản thẩm mỹ thì ông không phải lo, tôi còn tinh bằng mấy ông ấy chứ. Tôi hỏi thật nhá: Mẹ ông có đẹp không, có xinh không? Có. Mẹ con bao giờ cũng đẹp. Vậy thì ông yên tâm. Tôi còn cưa đổ cả mẹ ông cơ mà. Tôi bảo vậy. “Ông ấy” nhăn răng cười: Bố chỉ được cái tinh tướng. Con đố bố đấy! Được. Nhớ nhá! Có cả mẹ ông làm chứng đấy nhá…
- Vậy ông đã nhắm trước cho con giai một đám rồi nên mới nói cứng?
Lão cười, tay dụi cái mẩu thuốc xuống sàn tàu:
- Làm gì có. Nếu nhắm được rồi thì dẫn nó đi cho gặp mặt chứ việc gì phải ngồi đấu khẩu. “Ông ấy” cũng biết vậy nên mới thách. Nhưng quả tình tôi cũng thấy lo. Mà ông có tin là con người ta có duyên số không. “Ông ấy” trả phép tuần trước thì sang tuần sau có thầy hiệu trưởng trường cấp hai đến nhà bảo nhà hai bác rộng rãi, gia đình nền nếp lại chỉ có hai người, chả là đứa con gái nhớn đi dạy học đã lấy chồng trên thành phố nhà cửa ổn định rồi, nên nhà trường nói với bác cho một giáo viên trẻ vừa ra trường đến ở trọ. Vợ chồng tôi đồng ý. Nhìn thấy cô ấy đến vợ tôi đã quý ngay. Được vài hôm bà mới bảo với tôi: Xem ra con bé ăn ở gọn gàng thùy mị nết na mọi nhẽ. Giá thằng cu nhà mình lấy được nó thì tốt biết mấy! Tôi quả tình cũng thấy vậy nhưng nghĩ cứ phải tìm hiểu kỹ càng nhỡ nó có người yêu rồi thì sao. Úi giời... nghe con bé ở đây, bọn giai xóm tuyền con nhà giàu lấp ló suốt ngày kiếm cớ vào nhà tôi uống nước, chó là cứ sủa khàn cả tiếng. Tôi thấy thế cũng sốt ruột mới bảo với con bé rằng: Đấy cháu xem ưng đám nào thì nhận lời hay là đã có người yêu rồi thì bảo cho mọi người biết để khỏi đến rách việc. Con bé bảo không cháu chưa yêu ai đâu ạ. Thế là tốt rồi, vợ chồng tôi lên kế hoạch rất chi tỉ mỉ ông ạ. Vợ tôi cứ bữa ăn hay lúc rỗi rãi lại ngồi kể chuyện con giai. Con bé nghe chăm chú lắm. Vài hôm sau tôi
phóng to tấm ảnh thằng con giai treo ở ngay cửa phòng con bé. Rồi tôi để ý quan sát thấy nó đi về ngỡ ngàng đứng ngắm ảnh rồi quay ra hỏi anh nhà ta đây à bác. Vậy là được cái cảm tình ban đầu đã. Yên tâm. Thế rồi tôi nói với con bé cho tôi gọi nhờ điện thoại. Rồi lưu số của con tôi vào máy… mà cái mạng In-tơ-nét bây giờ cũng hay. Con bé dạy học nên có nối mạng, ông cu nhà tôi gọi có hình về. Mà gọi có hình thì bao giờ chúng chả gặp nhau trước… rồi thấy gọi cho nhau suốt ngày. Hì hì tài thế. Rồi một hôm con bé bảo anh nhà bác vui tính nhỉ. Tôi mới vênh mặt bảo rằng: Đã đành, nó giống tính bác mà. Vợ tôi nguýt một phát suýt cháy lông mày. Khi thấy anh chị bén nhau rồi thì tôi với bà xã thẽ thọt hay là con làm con dâu nhà bác. Con bé ngượng ngùng bảo rằng con với anh ấy nói chuyện với nhau trên điện thoại chứ chưa gặp bao giờ. Nhỡ anh ấy chê con xấu. Tôi mới bảo con xinh như bác gái hồi còn trẻ ấy, mà anh cu nhà bác bảo rằng phải lấy được người như mẹ hồi trẻ… yên tâm chưa. Mà chúng mày nhìn nhau suốt cả ngày trên điện thoại rồi chứ còn gì. Nó tủm tỉm cười rồi bảo tuỳ anh ấy… Ối giời. Vợ chồng tôi mừng ơi là mừng. Tôi lên gặp bố mẹ của con bé, gọi là danh nghĩa lên chơi cho biết nhà biết cửa. Chẳng gì con ông bà ấy cũng đang ở nhà mình, họ đã xuống chơi nhà mình thì mình cũng phải lên chơi cho phải phép. Nhà ông bà ấy cũng chả giàu có gì. Thì giàu có đã chả để con phải đi dạy xa đến mấy chục cây số. Ông bà ấy băn khoăn bảo muốn chuyển cho con bé về gần nhà nhưng mà tốn kém quá. Dễ phải mất mấy trăm mà nhà nông dân thì kiếm đâu ra. Nghĩ cũng khổ. Tôi mới bảo rằng cháu nó đang dạy ở đâu thì cho nó ở đấy luôn, chuyển đổi làm gì cho tốn kém. Ông ấy bảo nhưng ở xa vậy rồi ai người ta lấy. Tôi chộp ngay thời cơ, vậy thì ông gả cho con giai tôi. Ông ấy vỗ đùi vậy thì tốt quá. Xong cái phần gia đình. Ông thấy tôi tài chưa?
Tôi gật đầu:
- Đúng là ông tài thật. Nhưng mà gặp nhau chỉ qua mạng thì làm
sao thành tình yêu…
Lão đồng đội nói luôn:
- Đấy vấn đề là ở chỗ ấy. Thế là tôi mới bảo với “ông ý” rằng: Ông xin nghỉ phép về nhà ngay. Về để gặp người ta. Nếu ưng thì cưới luôn. Nói vậy chứ gì mà chả ưng. Đấy ông trông con bé đấy, không ưng thì hoá thằng không có mắt ông nhỉ. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Như cái thời đánh nhau vậy… vội một tý thì thiệt hại nặng nề, chậm một tý thì mất trắng. “Ông ý” cũng nhất trí. Rồi “ông ý” điện về bảo con sẽ về nhà ngày này đến ngày này. Ối giời ơi mừng ơi là mừng. Tôi chuẩn bị hết mọi thứ cho đám cưới ông ạ…
- Thế rồi cưới?
Ông bạn đồng hành xịu mặt, lại châm tiếp điếu thuốc. Xem ra lão này còn nghiện hơn cả mình. Rít một hơi thuốc dài, đầu điếu thuốc đỏ rực chiếu lên ánh mắt cũng vằn đỏ:
- Nào đã cưới được. Đợi mãi, đợi mãi qua cái ngày đã ấn định mà không thấy “ông ý” về. Tôi điên cả ruột, biết chắc có chuyện xảy ra rồi. Bà nhà tôi mếu máo, con bé cũng như người mất hồn. Phải đến tháng sau ông ý mới điện về bảo rằng đang nằm viện. Hỏi sao nằm viện thì “ông ý” nói rằng trước ngày định về thì có chuyện. Cả đơn vị phải lên đường… Rồi bị thương. Chỉ nói vậy thôi chứ không nói rõ. Mà ai còn lạ gì cái lũ khốn kiếp nham hiểm ấy, nó có từ thủ đoạn nào để khiêu khích. Tôi mà là các “ông ý” thì tôi chơi liền. Càng nhẫn nhịn để êm đẹp mọi bề thì chúng nó càng mất dạy lấn tới. Nghĩ xót con ông ạ. Mình ngày xưa là lính đã khổ… Ừ ngày xưa chiến tranh nên mình khổ thì đành một nhẽ. Còn bây giờ… người lính vẫn khổ. Rồi nghĩ con mình giờ bị thương tật... mà con bé nó xinh xắn thế kia, liệu nó có chịu lấy con mình không? Thế là tôi gọi con bé: Con ngồi đây hai bác nói chuyện. Nó ra ngồi mép giường ngượng ngùng cúi mặt. Tôi nghĩ vậy là hỏng rồi. Không còn tự nhiên như mọi ngày vậy là hỏng rồi, nó bỏ con mình rồi. Nhưng đã trót
gọi nó ra thì cũng một nhời cho ra nhẽ. Vậy là tôi bảo: Bác đã có nhời với bố mẹ con trên ấy, lại thấy chúng mày qua lại có vẻ quý hoá nhau. Chẳng may con giai bác nó bị thương lúc làm nhiệm vụ, chả biết nặng nhẹ thế nào. Bác hỏi thật, giờ con nghĩ thế nào?...
Tôi cũng thấy ái ngại mặc dù đã biết cái kết câu chuyện của nhà ông đồng đội già.
- Nó bảo với vợ chồng tôi rằng: Thưa hai bác. Dù chưa gặp mặt nhưng con đã thấy quý thấy thương anh nhà ta. Con chỉ mong anh về để chúng con… Bây giờ anh ấy bị thương thì con càng yêu quý anh hơn. Dù có thế nào con vẫn một lòng với anh ấy. Còn nếu sau này anh ấy về mà không thích con thì hai bác cho con được làm con gái trong nhà. Ôi chao… nghe nó nói mà thương quá ông ạ. Y như các bà nhà chúng mình ngày xưa ông nhỉ. Bọn mình đi đánh nhau thì các bà ấy cũng hứa như vậy. Và mừng không để đâu cho hết. Vậy là tôi quyết cả nhà vào thăm “ông ý”, cho chúng nó có điều kiện gần nhau. Điều trị xong là về nhà tổ chức cưới. Hỏi ý kiến con bé nó cũng đồng ý. Thế là lên đường. May mà “ông ý”, thằng con nhà tôi ấy… chỉ bị nhẹ. Gớm là mừng. Càng mừng hơn nữa khi trông thấy nhau cô cậu chỉ còn thiếu nước… vồ lấy nhau. Rồi ngày ngày quấn quýt chả rời nhau lấy một bước. Bà nhà tôi nháy nhó bảo tôi rằng… khéo chúng mình sắp có cháu nội. Vui thế chứ lỵ.
- Sao không ở thêm ít ngày nữa cho chắc?
Ông bạn già cười cười, nét mặt giãn ra:
- Tôi cũng định vậy nhưng mà con bé đang cho học sinh chuẩn bị thi học kỳ, nó đi được vậy cũng là cấp trên và nhà trường thông cảm lắm. Họ bảo vì chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc mà linh động giải quyết… chứ đã đăng ký kết hôn đâu. Đấy… cả nước người ta cùng hướng về Trường Sa. Ấm lòng ông ạ. Thế thì mình cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành chứ. Ngay anh em mình ngày xưa cũng vậy ông nhỉ, vui duyên mới không quên nhiệm vụ, cưới vợ xong dăm ngày lại vào
chiến trường ngay.
Với lại “ông ý” nhà tôi đã khỏi rồi. Đang làm thủ tục để về phép cưới vợ. Vậy là cánh tôi về trước để còn chuẩn bị. Mấy hôm nữa “ông ấy” về là tổ chức ngay lập tức. Cưới xong là ăn tết. Ông nghĩ tôi tính vậy có phải không!
Tôi cười cười gật đầu. Lão cũng cười rồi bỏ bao thuốc với cái bật lửa vào túi áo:
- Thôi chúng mình vào trong làm một giấc. À mà ông cho tôi cái số điện thoại. Hôm nào tôi tổ chức cho chúng nó mời ông đến chơi. Trong toa hai người phụ nữ vẫn dựa vào nhau ngủ ngon lành. Chúng tôi cũng ngồi xuống ghế chờ giấc ngủ đến. Đột nhiên ông bạn nhổm dậy:
- Ông ngồi ra ghế ngoài, để tôi cho xem cái này...
Tôi làm theo và chờ đợi. Ông bạn đứng thẳng người lôi xuống cái ba lô bộ đội đã cũ, mở ba lô lấy ra một chùm quả xanh. Quả gì mà giống một vật quen quen nhưng lúc này nhớ không ra. Ông bạn nói nhỏ:
- Nghe tin chúng tôi vào, anh em đồng đội ông ý đến đông nườm nượp. Ông chỉ huy đơn vị đưa tôi một chùm quả này gọi là quà Trường Sa. Bàng vuông đấy ông ạ. Ông xem… giống y gói mứt sen trong lễ ăn hỏi đặt trầu. Quý thế. Tôi sẽ về biếu ông thông gia và nhà trường nơi cháu nó đang công tác. Vừa là sản vật đảo xa vừa là sính lễ đặc biệt cho chúng nên duyên chồng vợ. Ông nghĩ có phải không?
Tôi mân mê trái bàng vuông. Và nghĩ ông bạn đường quả là sâu sắc mặc dù cách nói chuyện tếu táo đến vui. Ờ nhỉ. Chỉ có ai gắn bó với nơi xa ấy, gửi gắm hồn vía hạnh phúc tương lai của mình ở nơi ấy mới có được cái ý nghĩ đơn giản nhưng hết sức lớn lao như vậy.
Ngoài kia tiếng kình kịch tắt hẳn, tàu đang dừng ở một ga xép. Gió lạnh len vào toa tàu theo cửa mở. Tết đang đến thật gần. Ánh đèn từ sân ga chiếu vào toa làm quả bàng vuông trong tay tôi sáng
hồng lên… nhìn hệt như gói mứt sen trong mâm sính lễ. Ông bạn ghé sát tai tôi thì thào:
- Lạy giời! Sang năm mới mà vợ chồng “ông ấy” cho tòi ra một thằng hải quân tý hon thì nhà tôi ba đời lính Trường Sa. Ông thấy có oai không!
CÁ NƯỚNG ÚP
VUNG
T
iết tiểu hàn lạnh dưới mười độ, trời rét thấu xương. Nước ao lạnh trong văn vắt nhìn thấu đáy bùn. Cá tôm lờ đờ ngắc ngoải trong nước lạnh. Ông Soái mặc áo bông to sụ đi xe máy trên móc treo đồ lủng lẳng con trắm cỏ đến gần bốn cân. Cái đuôi cá quét xuống lớp bụi mỏng trên mặt đường bê tông thành vệt dài ngoằn ngoèo như rắn lượn.
Tay Thấn cắt tóc đứng ở đầu làng chặn xe lại:
- Ông đi đâu đấy? Con trắm to nhể. Mà giời rét thế này cũng dám xuống ao bắt cá cơ à? Không khéo ốm thì khổ.
Ông Soái vẫn ngồi trên yên xe, một chân chống đất, trả lời ấp úng răng miệng va nhau lập cập:
- À tớ… tớ…
Thấn nói ngay:
- Hiểu rồi hiểu rồi. Đem cá cho mụ Na nướng úp trấu chứ gì. Khéo nịnh thế. - Rồi Thấn nháy nháy mắt: Này có cưới thì cưới mau đi. Dùi dắng mãi, chúng nó phá dữ lắm đấy.
Ông Soái tái mặt: “Đứa nào phá?”. Thấn ghé tai ông Soái thì thào. Chả biết hắn nói gì mà ông già đổ phịch người xuống đất, cái xe máy đè lên chân. Thấn vội tri hô: “Ối giời ôi…”, rồi kéo cái xe lên, mọi người xúm lại… Thấn quát: “Không ai được động vào… để im một lát. Động vào bây giờ là toi…”. Tất cả mọi người nín thở chờ đợi.
Vừa lúc ấy người ta thấy vợ chồng thằng Sỹ con giai ông Soái hớt hải chạy tới. Từ xa đã nghe đứa con dâu tên là Thơm lạch bạch vừa chạy vừa bù lu bù loa: “Ôi bố ơi là bố ơi. Làm sao mà phải khổ thế này. Vì đâu nên nỗi giời rét căm căm còn lội xuống ao đánh cá? Ối
giời ơi vì đâu âm dương cách trở...”. Thằng con giai huỳnh huỵch chạy trước ngoái cổ lại quát: “Im cái mồm. Tao vả cho rơi răng bây giờ. Bố tao đã chết đâu mà phải khóc”.
Không biết có phải vì tiếng khóc của con dâu hay vì tiếng quát của con trai mà ông Soái mở mắt ngơ ngác… rồi lồm cồm chống tay ngồi dậy.
Thấn nhìn ông Soái mở mắt thì hoàn hồn. “Lạy giời. Lão mà chết thì mình có tội. Mà người đâu lại nhạy cảm thế cơ chứ. Vừa mới kể cho lão chuyện quan trọng mà đã đổ đùng. May mà lão đội mũ bông áo bông nên không việc gì. Hú vía!”.
***
Ông Soái năm nay tuổi ngót sáu mươi. Vốn là sĩ quan quân đội nghỉ hưu… nghe chừng làm gì to to, tiền lương hưu những hơn tám triệu một tháng. Ấy vậy mà khổ, về hưu năm trước thì năm sau vợ bị ung thư rồi mất. Đứa con giai độc nhất là thằng Sỹ đã có vợ có con. Hai vợ chồng nhà Sỹ Thơm suốt ngày tay áo gió đưa nhưng mà được cái nết hễ ông bảo gì thì nghe răm rắp. Chắc sự ngoan ngoãn ấy là do số tiền lương hưu của ông phải chi chế cho cả nhà năm miệng ăn bởi như trên đã nói, vợ chồng chúng nó vốn lười.
Cái sự lười lại nảy ra từ sự có học. Ngày còn ở trong quân ngũ ông bảo bà bằng giá nào cũng phải cho thằng con giai độc nhất ăn học cho tử tế. Vậy nên nó học được hết cấp ba. Nhưng cả ông bà đều không ngờ rằng cái sự yêu nó lại đến sớm hơn cả ước mơ vào đại học. Thằng Sỹ đầu mày cuối mắt với con bé Thơm ở xã bên từ năm lớp mười. Tốt nghiệp cấp ba chúng dắt nhau đi thi đại học. Giống đời đang đi học mà đã yêu thì chữ chẳng chịu chui vào đầu thành thử cả hai đứa đều trượt vỏ chuối.
Bà vợ ông Soái thì chiều con hết mực, muốn gì được nấy nên xảy chuyện:
Bố con Thơm làm cán bộ trên tỉnh rắp tâm con gái phải vào được
đại học nên lôi con bé về nhà ôn tập để tiếp tục năm sau thi lại. Nhưng cơ mà kỳ vọng ấy không thành vì thằng Sỹ ngày ngày lượn vè vè xe máy đến trước ngõ huýt sáo rủ rê. Ông bố Thơm vác gậy đuổi vòng quanh xóm. Nhưng không thể ngày nào cũng chỉ ngồi canh con gái vì ông vẫn còn tại vị. Lợi dụng lúc bố Thơm phải lên cơ quan cuối tuần mới về, hai đứa rủ nhau ra ủy ban đăng ký kết hôn. Trai gái đến tuổi thì phải chấp nhận cho đăng ký, hơn nữa nhà con Thơm lại còn có ông chú đi cùng. Thực ra ông chú này thuộc thành phần nát rượu túi thủng mà lại kèm bệnh sĩ nên thằng Sỹ biếu dăm chục nghìn là gật đầu khệnh khạng đại diện gia đình ngay lập tức… Dĩ nhiên ông cán bộ tra sổ hộ khẩu hai nhà thấy mọi thứ hợp lệ nên đăng ký ngay tắp lự.
Hôm sau ông bố cái Thơm về không hề biết gì về việc con gái rượu đã yên bề gia thất. Lại thấy thằng Sỹ lại đứng đầu ngõ huýt sáo… Ông bố cảnh giác giơ gậy, Sỹ biến luôn. Ông yên tâm quay về thì con Thơm đã biến tự lúc nào. Hai đứa dắt nhau đi chơi qua đêm, sáng hôm sau nữa mới thò mặt về. Ông bố điên tiết vác gậy đuổi… thằng Sỹ chạy biến. May mà bắt được con Thơm, ông lôi con gái về vụt cho một trận và nhốt vào trong buồng.
Lát sau thì công an xã đến yêu cầu ông thả con bé Thơm ra. Bố nó bảo: “Con tôi tôi có quyền dạy. Tôi nhốt nó vào để nó học hành không cho đi với thằng mất dạy”. Công an bảo rằng: “Con ông nhưng là vợ thằng Sỹ, ông không có quyền đánh đập vợ nó”. Ông bố cứng hàm mãi mới ấp úng: “Trẻ con như chúng nó thì vợ chồng cái gì”. Công an bảo: “Chúng nó là vợ chồng có đăng ký kết hôn hẳn hoi. Chồng nó có đơn kiện ông đấy. Thả ngay vợ nó ra!”. Ông bố ớ người rồi hậm hực chấp hành pháp luật và lại còn bị phạt mấy trăm… Điên lắm. Ông từ mặt con gái. Vậy là hai đứa về ở với nhau mà chả cưới xin gì.
Mấy năm sau khi ông Soái nghỉ hưu về nhà thì chúng đã kịp tòi
ra cho ông hai đứa cháu.
Vậy mà giờ ông Soái về hưu cũng đã được dăm năm. Và ông đã bốn năm ở vậy nuôi con nuôi cháu.
Nhưng mà cũng cực. Con cháu kề bên thì chỉ vui vẻ lúc ban ngày, còn đến đêm vợ chồng con cái nhà nó ríu rít với nhau, ông Soái thui thủi trong căn buồng lạnh lẽo với cái màn cá nhân, chăn đơn gối chiếc năm canh trằn trọc. Mọi người xúm vào khuyên nhủ mối mai. Rồi ông quen bà Na…
Bà Na vốn bộ đội thời chiến tranh biên giới. Phục viên về quê nhưng quá lứa lỡ thì thành ra không chồng không con, đành lấy việc chăm con người ta làm niềm vui. Na theo nghiệp nuôi dạy trẻ hơn hai chục năm… mới về hưu năm ngoái. Dáng người nhỏ nhắn lại ít phải dầu dãi nắng mưa nên ở bà mọi thứ còn gọn gàng căng mẩy trông như chỉ mới hơn bốn mươi. Giờ bà ở một mình chăm chút nhà cửa vườn tược nên cũng đang cô đơn. Càng cô đơn càng khao khát… cũng như ông Soái, vì vậy khi gặp nhau thì cả hai như bị sét đánh. Họ đã ưng nhau từ cái nhìn đầu tiên.
Ông Soái về tuyên bố với các con rằng mẹ mày thiệt phận đã hơn bốn năm rồi vậy bố sẽ đi lấy vợ. Hai vợ chồng Sỹ ngẩn người. Vậy ra ông già vẫn còn máu, còn khao khát… Mọi người trong họ hàng đều vun vào. Nào là ông ấy còn trẻ mới chưa đầy sáu mươi thì không thể ở vậy được, nào là con chăm cha không bằng bà chăm ông… Vốn sợ bố nên hai đứa không dám phản ứng gì.
Ông Soái thấy tất cả đều nhất trí thì phấn khởi lắm. Cách đây dăm hôm ông sắm lễ rồi kéo bầu đoàn họ hàng, con cháu sang nhà gái gọi là lễ ăn hỏi. Cũng năm mâm lễ trầu cau bánh trái như thể thanh niên. Ông bảo rằng bà là gái tân nên cũng cứ phải nghi lễ đàng hoàng để cho họ hàng bên ấy khỏi tủi thân. Bà Na mừng rỡ, họ hàng anh em nhà bà cũng mừng rỡ vì năm mươi mấy tuổi bà mới có hạnh phúc riêng mình.
Hai họ bàn nhau tuần sau thì tổ chức lễ cưới cho hai ông bà. Nhưng…
Mọi sự trớ trêu lại bắt đầu từ cái chữ “nhưng”. Thủ phạm là hai vợ chồng thằng Sỹ. Vốn dĩ từ trước vợ chồng con cái nhà nó hoàn toàn sống dựa vào đồng lương của ông bố già, bây giờ ông lấy vợ thì chúng đâm lo. Gì mà chả lo? Lo rằng từ nay không được dựa dẫm, nhỡ bà mẹ kế về nhà quản lý hết tiền lương thì nhà nó chết đói. Lo nhỡ hai ông bà ấy mà lại “sản xuất” ra em bé nữa thì cái cơ ngơi này bị chia đôi. Lo nhỡ ông bỏ nhà sang ở với bà Na thì ai trông con cho mà tung tẩy. Lo thì phải tính. Vậy là chúng bàn nhau tìm mọi cách để phá.
Buổi chiều còn hoan hỷ tươi cười như một đứa con ngoan ở nhà bà Na trong lễ ăn hỏi thì buổi tối con Thơm vợ thằng Sỹ sang nhà bà thẽ thọt:
- Thấy cô hiền lành phúc hậu nên con rất chi là quý hóa. Vì quý nên con cũng xin được nói thật: Cô đừng có xây dựng với bố chồng con…
Rồi nó kể lể nào là trông vậy đấy mà ông í nguyên tắc lắm, còn nhiễm cái kiểu chỉ huy trong quân đội nên giờ nào việc ấy, quát tháo ra lệnh suốt ngày. Nào là tính nóng như lửa, chửi bới mọi người như quân hầu đầy tớ. Nào là ki bo lắm, tháng tám chín triệu bạc mà chỉ đưa cho con chi tiêu có dăm sáu triệu còn là đi bia bọt tụ bạ với bạn bè… Nói chung là rất nhiều tật tội.
- Úi giời ơi cô không biết đấy… cháu khổ mà không thể kêu được với ai. Thằng chồng cháu giống tính bố, mẹ chồng cháu bảo vậy, hơi một tý thì thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Con vẫn bị ăn đòn thường xuyên… khổ lắm - Thơm sụt sịt quệt nước mắt và kết luận - Cô đang tự do tự tại một mình vậy thì việc gì phải đâm đầu vào chỗ khổ!
Bà Na ngồi nghe mà lùng bùng lỗ tai, mặt bà tái dần. Bà đủ tỉnh táo để rút ra kết luận: Tính xấu của ông Soái thì bà chưa biết nhưng
chắc chắn bà về đấy cũng khó sống với vợ chồng con bé này. Vậy là bà Na ngãng ra. Hôm sau ông Soái sang thì bà bảo có lẽ chúng mình không có duyên với nhau. Thôi anh về đi từ nay đừng sang đây nữa.
Ông Soái băn khoăn gặng hỏi bà kiên quyết không giải thích gì thêm. Nhìn bà mặt nặng như chì thì vị hôn phu đành thở dài buồn bã ra về.
Hôm trước còn vui vẻ, sao cô ấy ngãng ra. Hay là có đứa nào phá? Ông chắc chẳng có ai phá… vì mọi người trong gia đình họ hàng đều ra sức vun vào cơ mà. Hay là mình làm gì để Na phật ý? Có thể lắm. Làm cách nào để người ta không giận mình nữa. Nhưng chả nhẽ lại sang nhà nằn nì, vậy thì còn gì tư cách đàn ông. Cả đêm ông trằn trọc vì nhớ và vắt óc tìm cách lấy cớ sang gặp bà hỏi cho ra ngành ngọn.
Ông nhớ hôm đầu tiên được người bạn dẫn đến nhà Na. Lúc ấy bà đang hí húi nướng cá giúp ông anh cả chuẩn bị đám giỗ. Con cá trắm cỏ to đến dăm cân chứ không vừa mà bà xử lý ngon ơ. Nhìn bà thoăn thoắt tay dao tay thớt cắt thành từng khúc làm sạch sẽ lòng ruột rồi ướp gia vị ông đã thầm khen người khéo tay. Rồi cũng hai bàn tay ấy lấy nghệ tươi đã được giã nát xoa đều lên những khúc cá để nhuộm chúng thành màu vàng ươm. Rồi bà lấy lá ổi nhét căng vào bụng cá. Những khúc cá đều tăm tắp được bà xếp lên nền rơm mỏng thành một vòng tròn như thể người ta kết bông hoa, điểm giữa màu vàng của nghệ là màu xanh của lá ổi ngăn cách những khúc cá cho khỏi dính vào nhau. Chao ôi… đôi bàn tay khéo léo cứ thoăn thoắt như múa trước mặt làm ông thấy xôn xao trong lòng.
Bà mải làm không để ý vì tưởng ông là bạn của anh trai đến chơi. Có lẽ ông chăm chú theo dõi nên lúc ấy bà mới ngẩng lên gặp ánh mắt ông nên bà ngượng nghịu như thiếu nữ mới lớn: - Nhà anh chưa nướng cá úp trấu bao giờ à?
Ông cười:
- Tôi đi bộ đội từ bé, lần nào về cũng được ăn cá nướng úp trấu nhưng chưa biết làm bao giờ… bây giờ già rồi vẫn không biết cách làm. Hôm nào xuống ao bắt con cá… sang nhờ cô dạy… Bà bối rối rồi liếc sang ông:
- Già đâu mà già! Nhưng mà học khó lắm đấy. Bây giờ đến lúc nướng mới vất vả.
- Để tôi giúp - Không đợi bà có đồng ý hay không, ông xăng xái rút rơm trong khi bà hí húi rửa cái chậu nhôm to tướng. Sau khi lau khô cái chậu, bà chụp nó lên cái bông hoa được xếp bằng những khúc cá - Anh châm lửa giúp em.
Ông cầm nắm rơm châm lửa và để lên trôn chậu. Trời hanh, rơm khô gặp lửa cháy bừng bừng. Bà bốc từng nắm trấu rắc vào đám lửa rơm đang cháy. Cứ như vậy một người thả rơm một người rắc trấu… Ông nhìn sang thấy khuôn mặt bà đỏ ửng không biết vì lửa hay là đang thẹn thùng. Bà nhìn sang thấy mặt ông nhọ nhem những vệt đen đen bởi tro trấu quyện mồ hôi. Cả hai cùng cười và cảm thấy gần gũi như thể đã quen nhau từ kiếp trước. “Đến bao giờ mới chín cá, mới được ăn?” - Ông hỏi. Bà kéo dài giọng: “Còn lâu… phải sáu tiếng nữa”. Ông bật bưỡng: “Lâu thế cơ à, chờ được ăn cá nướng có lẽ già đi mấy tuổi”. Bà nguýt ông rồi nhẹ nhàng: “Phải chịu khó chờ thì cá mới đủ săn thịt và thơm”.
Lát sau mùi lá ổi nhuốm lửa nóng thơm lừng. Ông hít cái mùi thơm ấy mà tưởng tượng đến miếng thịt cá khô chắc đậm đà vị ngọt lừ chấm nước mắm gừng, thèm đến tứa nước chân răng. Ờ nhỉ! Sao mình không nghĩ ra…
Vậy là sáng sớm hôm nay kệ giời rét, ông húp nửa bát nước mắm rồi lội xuống ao. Ì ùm hàng tiếng đồng hồ, hai hàm răng khua lập cập… mới bắt được con trắm cỏ này. Tắm rửa xong, đóng vội quần áo, ông treo con cá lên xe sang nhà bà Na.
Ra đến đầu đường thì ông Soái gặp lão Thấn. Vốn là thợ cắt tóc hay hóng hớt chuyện thiên hạ để làm quà nên Thấn chặn xe lại thì thào với ông Soái cái việc đứa con dâu vào khủng bố tinh thần vợ tương lai của ông cựu sĩ quan.
Đang nhiễm lạnh run người do vừa ngâm nước dưới ao lại nghe cái chuyện chẳng hay ho gì nên ông Soái sốc nặng. Tim cật đập rộn lên, đầu óc chênh chao, trời đất quay cuồng. Ông ngã vật xuống đường.
***
- Nóng quá mình ạ…
Ông Soái ném nắm rơm vào đống than trấu đang ngún khói hừng hực, lửa bùng lên ngay lập tức. Ngọn lửa bốc cao đến hàng mét, hơi lửa tạt vào mặt rát rát.
Bà Soái cười cười, hàm răng trắng đều lấp lóa sau ánh lửa. Lạ, lửa khói vậy mà bà ấy chẳng hề chớp mắt. Ánh mắt nhìn ông đăm đắm chất chứa thương yêu. Mà mình kêu nóng vậy mà bà ấy vẫn cười.
Và cả thằng Sỹ với con Thơm nữa, chúng lấp ló sau lưng mẹ, chúng nhìn nhau với vẻ mặt mãn nguyện rồi thì thào điều gì ông không nghe rõ. Đột nhiên chúng toác miệng cười khi con vợ đập vào vai thằng chồng rồi hất hàm về phía bố mẹ. “Tiên sư nhà anh chị cười cái gì. Tôi kêu nóng với mẹ anh thì đã làm sao mà phải cười”. - Ông nghĩ thầm khi thấy hai đứa kéo nhau đi. Trước mặt ông bây giờ vẫn là khuôn mặt của người vợ. Mà hình như bà ấy nhìn ông đầy vẻ lo lắng. Gớm, người đâu mà cả nghĩ. Nóng một tý thì người ta kêu vậy chứ có làm sao mà phải lo. Ông mấp máy môi định nói nhưng thấy đắng nghét nơi cổ họng.
Nhưng bà ấy mất bốn năm nay rồi cơ mà… Ông Soái chợt nhớ ra. Thì ra mình đang nằm mơ. Ông cố gượng dậy mà không sao cất mình lên nổi. Ông vươn tay… cánh tay nặng nề như bị trói. Cố lên, mình phải cố lên. Ông hít một hơi dài vươn người ngồi dậy và ông
chợt thấy tay mình chạm vào tay phụ nữ mềm mại. Ai nhỉ? Ông mở mắt… Khuôn mặt quen quen, đôi mắt cũng quen quen… Trong đôi mắt ấy thấy ngân ngấn nước nhưng chứa chất niềm vui mừng.
- Na! Na đấy à - Ông kêu lên ngỡ ngàng và ngạc nhiên bởi giọng nói đùng đục nghe mơ hồ như không phải của chính mình. Đúng là Na thật rồi.
Và ông thấy khuôn mặt của Na gần sát mặt ông hơn. - Vâng em đây! Vậy là anh đã tỉnh lại rồi. Sỹ ơi, Thơm ơi… bố đã tỉnh rồi đây này - Bà quay lại gọi với ra nhà ngoài.
Ông cố đưa cả hai tay lên xòe năm ngón áp vào khuôn mặt của bà. Dù bàn tay còn ngường ngượng nhưng cuối cùng cũng gặp hai gò má nóng ấm mềm mại…
Và từ đôi mắt bà những giọt nước tràn qua mi chảy vào lòng bàn tay ông nóng bỏng.
Hai vợ chồng Sỹ Thơm chạy vào, nhìn cảnh ấy mắt chúng cũng rưng rưng. Bà Na ngẩng lên nhìn thấy chúng. Bà ngượng nghịu cười, hình như bà vẫn cảm thấy ngượng ngùng e thẹn.
Tự nhiên ông Soái thấy mình mạnh mẽ và khỏe khoắn hẳn lên. Ông ngồi dậy như không hề bị ốm đau gì. Chỉ có đầu vẫn còn hơi váng vất.
- Na sang đây lúc nào? - Ông Soái hỏi khi đã tỉnh hẳn. Bây giờ thì ông ngồi đối diện với bà, bàn tay ông nắm chặt lấy tay bà như thể đang sợ bà sẽ bỏ ông mà đi.
- Đau! Gớm… nắm tay người ta chặt thế - Bà đỏ mặt và trả lời ông: - Tôi sang tối qua - Bà hất hàm về phía vợ chồng Sỹ Thơm - Chúng nó đến nhà tìm sang. Gớm… mình cả đêm mê sảng. Làm người ta khiếp khiếp là...
Ông rưng rưng. Vậy ra cả đêm qua bà đã bên cạnh săn sóc lo lắng cho ông.
Thằng Sỹ bẹo vào mông vợ cười. Con Thơm cũng cười. Hai đứa
lủi ra ngoài nhanh như thỏ.
Bà Na thấy hai đứa vậy thì nói to ý chừng để chúng nghe thấy: - Thôi giờ ông khỏe là mừng rồi. Tôi về…
- Vậy bây giờ mình về à - Ông thở dài. Lát sau xẵng giọng - Về đi! - Ông ra vẻ giận dỗi.
Bà Na ngẩng lên không thấy vợ chồng Sỹ Thơm đâu thì ghé mặt ông thì thầm:
- Thì người ta phải về chứ. Tỉnh rồi, người ta về chứ ở đây ăn vạ à.
Ông rút tay khỏi tay bà làm như chưa nguôi cơn giận. Nhưng rồi đôi tay ông dang ra ôm bà kéo sát lại gần mình và vòng tay ấy siết chặt lấy như không muốn rời. Bà cũng đưa tay quàng lấy lưng ông. Hai khuôn mặt sát vào nhau, ánh mắt rạng ngời hạnh phúc.
***
Hăm tám tháng Chạp trên đường làng, xe cộ và người đi lại như trẩy hội. Râm ran tiếng người đi xa về chào hỏi nhau, tiếng người làng đi mua sắm tết. Lớp khói xanh mờ từ những đống rấm trấu nướng cá phủ lên cả làng làm không khí ấm sực thoang thoảng mùi hương lá ổi như báo hiệu một cái tết đã gần và mùa xuân đang thấp thoáng.
Lão Thấn cắt tóc bận túi bụi vì các ông già và bọn trẻ con cuối năm muốn chỉnh trang đầu tóc để đón xuân. Đang hí húi cắt được một bên mái tóc của khách thì lão nghe tiếng lanh lảnh:
- Con chào chú Thấn. Gớm đông khách quá, tết này thì chú nhọc tiêu.
Lão Thấn ngẩng lên thấy Thơm vợ Sỹ dừng xe máy trước cửa hàng đằng sau xe đèo cái bao không biết đựng cái gì mà thấy bên trong động đậy. Lão bỏ tông-đơ xuống, bước ra cửa, hai tay đập vào nhau bèn bẹt như phủi bụi.
- Con cái Thơm đấy hử - Rồi lão hỏi như súng liên thanh - Bố mày
khỏe hẳn rồi nhẩy? Nhà mày định chuối tao bữa cỗ đấy à? Giấu giếm không cho tao biết bố mày cưới xin à. Mà mày đi đâu về có cái gì giãy sùng sục trong cái bao thế kia?
Con bé nhăn răng cười rồi cũng nói một thôi:
- Cảm ơn chú. Bố cháu khỏe hẳn rồi. Bây giờ có mẹ Na nên cả nhà vui vẻ lắm. Chúng cháu cũng định làm to to một tý cho vui dưng mà mẹ cháu bảo bày vẽ tốn kém để tiền làm việc khác - Nó lè lưỡi lắc đầu - Ki bo thế đấy chú ạ. Bố cũng phụ họa với mẹ rằng chúng mày ngày xưa có cưới đâu mà vẫn ở với nhau và lòi ra hai đứa con đấy thôi. Vậy nên chỉ có mấy bố con mấy lỵ bên kia mươi người. Mấy mâm gọi là… làm hôm mùng Chín vừa rồi. Bố cháu bảo mời chú tết này sang uống rượu với cả nhà. Còn cái bao này cháu vừa mua được hơn yến trắm cỏ ở làng bên người ta đánh cá hồ. Để mẹ cháu nướng ăn tết, chả là bố cháu thích cá nướng úp trấu mà. Chú sang nhá!
Lão Thấn dài giọng:
- Gớm cái mồm… giờ thì một điều “bố mẹ cháu”, hai điều “bố mẹ cháu”. Tiên nhân chúng mày. Chả bù cho ngày nào đứng ra phá đám làm khổ ông bà í… - Lão quay lại nói với ông khách đang nghển cổ chờ với cái đầu nửa rậm nửa quang - Ông ngồi đợi tý nhá!
Con Thơm cũng chẳng vừa:
- Tại chú đấy, không nói thì bố cháu làm gì biết mà tăng xông. - Tiên nhân con này! Tao không nói thì người khác cũng nói, rồi ông ấy cũng biết. Mà không có tao thì chúng mày làm gì mà sáng mắt ra được.
Thơm ngẫm nghĩ. Đúng là ông Thấn không nói thì cũng không sáng mắt ra thật. Hôm ấy bố chồng đột quỵ thì cả hai vợ chồng cuống lên. Đưa bố về nhà chăm sóc mới thấy cái vất vả khi chăm sóc bố già ốm đau. Vợ chồng tất bật thuốc thang cháo lão hầu hạ. Nói dại bố có mệnh hệ nào thì cả nhà chỉ có đi ăn mày. Vậy nên chúng phải cố. Lại còn phải chăm hai đứa con nhỏ nữa. Trước đây bố còn
khỏe thì cứ giao con cho ông rồi thoải mái tung tẩy. Bây giờ bận rộn vất vả nên sinh chuyện vợ chồng cãi nhau. Điên cả đầu. Lão Thấn nghe chuyện vào chửi: “Chúng mày thấy ngu chưa. Ông ấy mà ốm lâu dài thì chúng mày khốn nạn đấy. Mà tao đồ chừng ốm vậy là lâu lắm đấy. Có những người mấy năm…”.
Nghe vậy thì hai vợ chồng nhà Sỹ hoảng tam tinh. Mới có mấy ngày mà đã khốn khổ thế này rồi thì nói chi mấy năm. Lão Thấn mới thủng thẳng bảo chúng mày phải… phải…
Chồng đẩy cho vợ, vợ đùn cho chồng. Đứa nào cũng ngại vì hôm trước dựng chuyện phá đám. Bàn mãi rồi cả hai đứa đèo nhau đến nhà bà Na xin lỗi.
Cũng may bà Na không chấp vặt. Mấy ngày nay bà đang nhớ ông và băn khoăn sao không thấy đến. Vả lại khi nghe ông Soái ốm thì bà lo lắng đến mức chả thèm để ý đến những chuyện vụn vặt làm gì. Bà tức tốc sang ngay. Có bà Na đến ông Soái cũng bình phục rất nhanh, nhanh đến nỗi vợ chồng Sỹ Thơm tưởng như bà là vị tiên đến cứu giúp bố, giúp gia đình mình.
Lão Thấn trước khi quay vào tiếp tục làm phận sự của mình còn hỏi vớt:
- Thằng chồng mày dạo này đi đâu mà ắng tiếng thế? Thơm nghênh mặt:
- Nhà cháu đi học lái xe chú ạ.
- Xe đâu mà cần học lái?
Thơm lại tuôn ra một tràng:
- Úi giời chú ơi. Mẹ cháu về tính toán đâu ra đấy. Bà bảo nhà này phải sắp xếp lại. Ông cứ như vậy thì sau này chúng nó làm sao mà tự chủ được. Chả nhẽ cứ lông rông mãi vậy à. Bà bảo chồng cháu phải đi học lái xe cho có cái nghề rồi bà cho vay mấy trăm để mua lấy cái xe để chạy chở nguyên vật liệu, giờ đang xây dựng nhiều. Mà mẹ cháu nhiều vốn phết chú ạ…
Lão Thấn gật đầu:
- Thì đã đành. Cả đời tích góp chứ ăn hoang phá hoại gì mà chả lắm vốn. Tiên nhân chúng mày. Liệu liệu đấy mà tính đường ăn quỵt.
- Quỵt thế nào được? Mẹ cháu bảo cho vay trả góp không tính lãi. Khi nào mua xe làm ăn được thì mỗi tháng phải giả bà đôi triệu… hạn trong mười năm. Úi giời rồi bà còn bắt cháu phải học nướng cá úp trấu. Bà bảo món ấy giờ đặc sản, tập làm đi ngày thường đổ cho các nhà hàng, ngày tết làm đặc sản quà biếu, ai bây giờ cũng thích ăn đồ sạch đồ lạ. Các cháu thì để bà trông cho. Mà bọn trẻ nhà con cứ như ăn phải bùa phải bả, suốt ngày léo nhéo bà ơi rồi bám lấy bà đến ông cũng phải phát… ghen. Thôi cháu về đây.
Đã gạt cái chân chống ngồi lên xe chuẩn bị nổ máy, Thơm như nhớ ra điều gì. Nó cười hì hì rồi đến gần lão Thấn nói nhỏ: - Này chú ơi… các cụ nhà cháu vậy mà máu lắm nhá… suốt ngày quấn lấy nhau, cười rúc ra rúc rích nói gì gọi gì cũng anh ơi, em ơi… tình củm lắm. Gớm cứ gọi là vui như tết.
Lão Thấn cũng cười rồi mắng yêu:
- Tiên nhân con bé này. Chứ lại không tình cảm để chúng mày tình cảm hết à. Chứ lại chả vui như tết… Tết thật rồi còn gì. Con bé ngẩn người rồi nó rũ ra cười:
- Ờ nhỉ. Vậy mà cháu chả để ý gì sất.
Lão Thấn nhìn thấy nó cười vậy thì nghĩ: Đúng là cái loại phổi bò. Nhưng được cái tốt tính. Rồi lão ngẩn mặt: Hay là lão Soái giả vờ? Có nhẽ thế thật. Chứ làm gì có ai vừa ốm dậy lại khỏe roi rói ngay như vậy được. Khôn thế cơ chứ.
Nhưng mà thôi kệ lão. Nhà lão vui vẻ vậy thì mình cũng vui. Có lẽ phải sang nhà lão kiếm chén rượu để xem mụ vợ mới của lão nướng cá ngon thế nào. Chả gì thì lão ấy đã có nhời mời. Người ta mời thì mình phải đến. Ngày tết cơ mà.
THẦY GIÁO
LÀNG
M
ồng Hai tết, mới năm giờ sáng, ông Nguyên đã thức dậy. Ngồi trên giường mươi phút cho cơ thể quen dần ngày mới. Xoa người, xoa chân tay rồi bước ra nhà ngoài mở cửa. Chỉ còn hôm nay nữa là hết tết. Làng quê vẫn vậy. Người ta tất bật lo toan làm ruộng phát bờ, gieo mạ… sớm muộn gì cũng phải xong trước ngày Hai chín. Rồi lúc ấy mới lo sắm tết. Đã thành tục lệ, Ba mươi gói bánh chưng, nướng cá cúng tất niên, mồng Một sắp lễ khấn vái trời đất, thắp hương kính cáo tổ tiên mừng tuổi cha mẹ, mồng Hai làm mâm cơm hoá vàng tiễn các cụ. Vậy là xong tết. Có muốn kéo dài cũng chả được vì ruộng đang gọi mạ… vụ chiêm đang chờ, cái ăn cái mặc, mọi sự buồn vui đều trông vào hạt lúa. Thành thử mọi người hối hả dồn sự vui vẻ trong ba ngày tết.
Nguyên mở cửa, gió lạnh ùa vào nhà. Không khí mang mùi đất ngai ngái, hương thơm từ mấy khóm hồng, từ vài cây nguyệt quế… đánh thức khứu giác để thấy vừa lạ lẫm vừa thân thuộc. Lên từ đường thắp một tuần nhang, tâm niệm cầu tiên tổ ông bà cho một năm gia đình thuận hoà hạnh phúc, mọi sự hanh thông. Tĩnh tâm bởi mùi khói trầm ngan ngát trong cái lạnh se se, thấy thoảng chút gió rung cánh đào phai rộ nở nơi góc vườn, nhận ra mọi thứ đang tinh khôi mang đến sự ấm áp thay thế đại hàn buốt giá. Lâng lâng trong lòng: Đúng là tết! Với ông giáo già thế là đã đủ khí xuân.
Thong thả lên nhà súc rửa ấm chén, châm một ấm trà. Ngồi ngẫm ngợi. Dăm năm bộ đội chiến trường, gần bốn chục năm ở quê dạy học, về hưu đã mươi năm. Giờ ngồi nhìn lại cuộc đời như một sát na. Chớp mắt tuổi đã ngoài bảy chục. Cũng nhờ sống chẳng tham
sân si, biết tiết chế sở dục nên lòng thanh thản. Ăn ở với người thân, với đồng đội, đồng nghiệp nghĩa tình, nên được mọi người thương quý. Con cái ngoan ngoãn thành đạt, bản thân tự biết thế nào là đủ nên chả như người ta phải cố bon chen. Vậy nên được tiếng là có hậu.
Nhâm nhi độc ẩm, hương trà quyện hương trầm ngan ngát, vị trà đậm mà thanh khiến lòng tĩnh tại như thể nhập thiền. Ờ nhỉ, với mình thế là hạnh phúc.
Tiếng chuông điện thoại reo cắt đứt dòng thiền đang chế ngự tâm tưởng. Ông giáo cầm máy nhã nhặn dù chưa biết ai là người đầu máy bên kia: “Chúc mừng năm mới. A lô. Ai gọi tôi đấy ạ?”.
- Năm mới kính chúc thầy mạnh khoẻ ạ. Thầy có nhà không ạ. Thầy ở nhà để chúng con đến chúc mừng năm mới!
Ông giáo bật cười. Cái cậu Mạnh này ngoài năm chục tuổi mà vẫn như ngày xưa. Vẫn cái tật nói như liên thanh, bỗ bã ra lệnh. Mấy chục năm đã qua, năm nào cũng vậy. Cứ mồng Hai tết thì anh ta cùng các bạn trong nhóm tứ quái của ngày xưa đến lại chúc tết thầy.
Lát sau nghe lao xao ngoài ngõ… rồi hai cái xe máy chở bốn tay đàn ông cỡ tuổi ngoài dăm chục, mặt mũi cũ kỹ mà sởn sơ, áo véc tông nghiêm chỉnh nhưng chân dép tổ ong. Chỉ có một ông đi giày. Ông này lúc nào cũng cười. Cả bọn đứng trước sân nghiêm ngắn cúi đầu như người Nhật:
- Chúng con chào thầy ạ. Chúc thầy và gia đình năm mới mạnh khoẻ.
Ông giáo vội bước xuống sân:
- Ôi giời… cảm ơn chú Tuân! - Ông bắt tay lần lượt từng người - Cảm ơn chú Mạnh, cảm ơn chú Luyện… còn đây là… Thầy giáo già dừng lại trước ông đi giày. Nét mặt quen quen, cái mồm nhìn quen quen… Chắc do hắn béo lên. Đúng rồi! - Tiến! Tiến vổ phải không. Sao lâu nay ắng thế? - Chợt nhận ra
mình đã hơi suồng sã, dù sao thì người ta cũng đã năm chục tuổi. Ông vỗ vai khách - Xin lỗi, mình xin lỗi!
Ông đi giày ngượng nghịu:
- Lâu rồi mà thầy. Chả là con đưa gia đình vào Nam lập nghiệp từ chín tám. Năm nay về ăn tết ở quê. Thầy khoẻ không ạ? Lúc Tiến ngẩng lên thì quả là vổ thật. Cái miệng lúc nào cũng như đang cười. Bây giờ thì ông ta đang cười thật. Nét mặt tươi tỉnh, cái đuôi mắt nheo nheo. Tiến đưa tay ôm ngang lưng thầy giáo: “Thầy hiệu trưởng còn nhớ tới cả tên tục của con là con vui quá”. Ông giáo tủm tỉm: “Quên sao được. Tứ quái các anh thì ai chả nhớ”.
Bốn người đàn ông đứng trước mặt ông giáo bây giờ là nhóm tứ quái của ngày xưa. Bọn các hắn nghịch ngội bày lắm trò đến nỗi giáo viên dạy ở lớp phát ớn. Ớn rồi sinh ra để ý. Cứ hễ có việc gì không hay thì lôi các hắn ra gán tội. Có hôm chúng tụ tập cả bọn cầm dao, vác một cành ổi to tướng le ve trước nhà tập thể giáo viên, mồm oang oang hát: “Khẩu đội ta nhắm chúng nó... bắn”. Cô giáo dạy vật lý hoảng tam tinh chạy lên mách hiệu trưởng Nguyên rằng chúng nó doạ đánh em. Ông giáo lấy làm lạ hỏi sao mà nó dám. Cô giáo bảo tại hôm trước em phạt thằng Tiến vì tội trong giờ của em lúc nào cũng thấy mặt nó như trâu nghênh cười cợt. Thế là chúng nó thù. Gọi các hắn lên hỏi, thì ra cả bọn vác dao đi xin cành ổi về đẽo quay để chọi nhau với bọn lớp bên. Xin được cành ổi vác về thì khoái chí hát vì phen này chắc thắng bọn lớp kia. À ra vậy. Sau đó ông hiệu trưởng mời cô giáo lên giải thích và bảo: “Cô dạy học cả năm mà không biết thằng Tiến nó vổ à, sao lại bảo nó lúc nào cũng cười. Nó nghênh mặt vì phải ngồi cuối lớp, phải nghển cổ lên mới nhìn thấy bảng. Chúng nó như con, như em mình. Sao cứ để ý vặt vậy”.
Bọn tứ quái sau đấy biết chuyện được thầy hiệu trưởng bênh vực thì cảm động và tỏ ra ngoan ngoãn hẳn. Nhớ cái tết năm ấy, lần đầu
tiên có học sinh đến chúc tết thầy hiệu trưởng. Đó là tứ quái. Vì ở nông thôn, bọn trẻ chỉ chúc tết những người trực tiếp dạy chúng, chả bao giờ chúc tết hiệu trưởng, hiệu phó. Bọn hắn xách nải chuối rụng đến quá nửa, chìa cuộng như thể răng bừa... đến nhà thầy. Đi đứng thế nào mà Mạnh ngã xe, bị cái trục bàn đạp nhọn như bút chì đâm vào háng. Báo hại thầy hiệu trưởng sớm mồng Hai tết phải kéo học trò xuống nhà dưới sơ cứu rồi đưa đi trạm y tế. Ra Giêng hắn đi học mà vẫn còn lo. Lo cho đến khi hắn lấy vợ sinh con trai đầu lòng. Lúc ấy ông mới thở phào nhẹ nhõm. Năm ngoái hắn khoe đã có cháu đích tôn.
Bây giờ cả bọn đang ngồi trước ông Nguyên. Họ tíu tít người pha trà người rót nước. Đỡ chén nước trò cũ vừa mời, nhìn những khuôn mặt râu ria đầy nếp nhăn mà ông giáo rưng rưng: Gần bốn chục năm rồi. Già hết cả rồi. Chỉ có Tiến là khá hơn - ông đoán vậy - còn ba chàng kia học xong đi bộ đội, rồi trở về cắm mặt vào ruộng vườn. Nghĩ cũng tội.
Mạnh rút từ túi quần bộ đội bạc màu một chai rượu nút lá chuối đưa cho Tiến. Rồi Tuân rút ra hai phong bánh khảo, Luyện thì một gói giấy báo chắc là chè và một gói cà phê của Tiến. Tất cả xếp gọn giữa bàn. Tiến trịnh trọng hai tay nâng chai rượu:
- Dạ thưa thầy… Nhân dịp năm mới chúng con có chai rượu mừng tuổi thầy.
- Rượu nếp cái nhà em nấu đấy. Ngâm cả tháng thầy ạ. Không nhức đầu đâu thầy ạ.
Người vừa nói là Mạnh. Có lẽ hắn hiền nhất trong tứ quái ngày xưa. Nhìn cái mặt teo tóp mà thương. Vốn dĩ từ bé đã gầy nên hay bị bọn lớp trên bắt nạt, hắn theo đuôi ba tay kia để được bảo vệ. Cũng may mà có hắn nên mọi hành động âm mưu của bọn này hiệu trưởng Nguyên nắm được hết để nhắc nhở ngăn chặn. Ba tay kia đều biết nhưng không tẩy chay hắn. Chúng bảo mày nói với thầy
Nguyên thì được chứ nói với người khác thì bọn tao tẩn bỏ mẹ. Thầy giáo làng đỡ chai rượu trong vắt mà lòng rưng rưng. Học trò đến tết mà không nhận thì cũng không phải nhẽ. Mà nhận vào thì băn khoăn…
- Các chú đến thăm tôi thế này là quý hoá lắm rồi. Nhưng bày vẽ quà cáp thế này thì phiền quá.
Thực ra đến tết thầy chỉ là mấy anh nhà nghèo không thành đạt, phải ở quê bám ruộng bám vườn. Những người thành đạt thì nhiều nhưng họ ở xa, về quê chớp chảo vài ngày, chả mấy khi kịp đến thăm thầy. Nên ông giáo già tự hào với trò thành đạt nhưng thương quý trò nghèo là cái nhẽ thường tình.
- Gần bốn chục năm rồi thầy nhỉ…
Mạnh nhìn thầy giáo, thầy cũng đã già đi nhiều. Thầy nhìn trò, mới trẻ con hôm nào, giờ râu ria cả bọn, Tuân, Luyện đầu đã có tóc bạc. Nhìn đám bánh kẹo trà rượu trên bàn lại nhớ nải chuối rụng trơ cuộng răng bừa ngày xưa...
Ông giáo thong thả đến bàn thờ vái ba vái rồi lấy xuống hộp bích quy đưa cho Mạnh:
- Tôi gửi hộp bánh mừng tuổi thằng đích tôn nhé. Hơn năm rồi nhỉ. Ăn được bích quy rồi. Chúc cháu hay ăn chóng nhớn nhá. Mạnh bị bất ngờ, hai tay đỡ hộp bánh, giọng rưng rưng: - Thầy! Cụ lại còn mừng tuổi cháu nữa. Con thay mặt cháu cảm ơn cụ ạ. Tết sang năm con sẽ cho cháu sang chúc tuổi cụ. Ông giáo cười hà hà. “Ừ cho nó sang chơi... Nhớ nhá. Có hoa mừng hoa có nụ mừng nụ...”. Chưa nói hết câu lại ào ào tiếng xe máy. Một đám bảy tám phụ nữ sồn sồn đổ bộ xuống sân. Ríu ran tiếng chào, tiếng chúc: “Năm mới chúng con chúc thầy mạnh khoẻ”. “Cảm ơn các em, năm mới chúc các em mạnh khoẻ hạnh phúc, làm ăn phát đạt. Nào... Vào nhà... vào nhà đi”.
Đám phụ nữ vào nhà rụt rè tìm chỗ ngồi. Ông giáo lễ mễ bê từ
phòng ăn ra mấy cái ghế nhựa. Vẫn không đủ chỗ. Không ai bảo ai họ ngồi chen chúc nhau trên giường. Lại tíu tít châm trà pha nước. Vài hộp bánh hộp kẹo được đặt lên bàn với lời chúc thật thà: “Năm mới chúng con đến chúc tuổi thầy. Chả có gì cao sang chỉ có hộp bánh chúc thầy mạnh khoẻ”. “Các chị chỉ vẽ... tôi già rồi có ăn uống gì nhiều mà tết. Đem về cho bọn trẻ ở nhà”. Đám đàn bà nhao lên: “Không ạ. Thầy phải nhận ạ”. “Thầy mà không nhận là chúng em xui cả năm”. “Thôi thì tôi nhận. Được chưa. Nhưng mà tôi gửi mừng tuổi lũ trẻ”. “Không ạ. Trẻ nhà chúng con có rồi. Với lại bây giờ chúng chả thích lớn đâu. Ngay chúng con giờ cũng vẫn thích được còn bé để được thầy dạy bảo như ngày xưa”.
Ông giáo già rưng rưng. Ôi dào... nhẽ già thật rồi. Cứ nói đến ngày xưa là cảm động. Đang cơn xúc động thì chợt nghe giọng nói như lệnh vỡ: “Năm mới con chúc tuổi thầy. Chúc tuổi các anh các chị...”.
Quay lại một ông vạm vỡ cao lớn đứng ngay trước mặt. Đám đang ngồi nhổm hẳn dậy bắt tay. Nhìn quen quen mà chẳng nhớ ra tên. Ông giáo giới thiệu: “Đây là Tùng. Học sau các anh các chị đến gần chục năm... - Ông hỏi Tùng: “Vẫn còn trong quân đội đấy chứ?”.
Tuấn và Mạnh ngồi chung một ghế để nhường chỗ cho Tùng. Anh chàng vừa ngồi xuống ghế đã hỏi:
- Nhà thầy mới chuyển cái ngõ ạ? Con vào ngõ cứ ngờ ngợ hay đi nhầm nhà.
Ông Nguyên cười cười:
- Cậu nhớ dai nhỉ. À mà phải thôi. Ngõ cũ thẳng ra cầu ao. Năm ấy cũng mồng Hai tết, Tùng phi xe thẳng xuống ao. Thầy trò được phen hú vía nhỉ.
- Có chuyện đâm xuống ao thật ạ.
Tùng cười: “Thật đấy ạ. Hồi ấy em đi bộ đội rồi, mượn được cái xe DD đỏ mới coóng đến thăm thầy vào buổi tối. Lúc về muộn phi
xuống ao. Đang đêm thầy phải lội xuống ao đưa xe lên. Hôm ấy rét thầy nhỉ. Rồi thầy phải mượn tiền mừng tuổi của các con để trả tiền sửa xe. Em xấu hổ quá”.
Ông giáo bóc gói bánh và hộp kẹo bày ra đĩa: “Mời các em. Uống nước ăn bánh tự nhiên nhé” - Ông cười cười quay sang Tùng: “Hôm ấy hắn đeo quân hàm để ngầm khoe với mình hắn bộ đội hai năm đã hạ sĩ. Phải không?”.
Tùng gãi gáy cười: “Thầy...”. Cả đám cùng cười. Chợt Luyện hỏi: - Thế chú Tùng giờ sĩ quan cấp bậc gì rồi?
Tùng cúi đầu ngượng nghịu:
- Em giờ mới trung tá. Ăn thua gì so với thầy.
- Ấy đừng nói thế. Mình ngày xưa chỉ trung sĩ...
Tùng ngồi thẳng, giọng nói chắc nịch như đã ngẫm nghĩ rất nhiều từ trước:
- Con có là tướng thì cũng vẫn học trò của thầy. Huống chi thầy đã từng là lính dăm năm trực tiếp cầm súng đánh nhau. Chúng con giờ được ưu đãi khá hơn. Thầy bao nhiêu năm cống hiến mà vẫn nhà cấp bốn, sống cuộc sống đạm bạc.
Ông giáo ngồi nhìn xa xăm. Nhiều lần tủi thân vì bạn bè người ta cứ tưởng là hiệu trưởng phải giàu. Nhưng người ta đâu biết thầy giáo trường làng lương ba cọc ba đồng tùng tiệm may ra đủ sống. Thu một đồng của học sinh cho việc không cần thiết là bóc lột, bởi học sinh nông thôn đa số đều nghèo...
Cô tóc xoăn trong đám phụ nữ lên tiếng:
- Tại thầy liêm khiết quá cơ. Ngày con xin chuyển trường về đây... bố con đến nhà biếu thầy mấy trăm, thầy dứt khoát không nhận tiền, lại còn bảo rằng nếu ông để tiền lại đây thì tôi không nhận con ông. Có đúng thế không thầy?
Thầy giáo già cười:
- Ừ có việc ấy. Nhưng được đi học là quyền lợi của trẻ em, mình
phải làm đúng lương tâm trách nhiệm. Nào có ban phát ơn huệ gì. Chưa kể ngày còn học, nếu biết chuyện thầy ăn tiền của phụ huynh thì lúc ấy các em coi thầy là người thế nào. Lúc ấy thầy nói thì có đứa nào thèm nghe. Phải không?
Cả căn nhà trầm hẳn xuống. Mỗi người đều theo đuổi ý riêng của mình. Những lời thầy trải lòng là điều rất thật khiến mọi người thấy lý lẽ ấy thật giản đơn mà sâu xa, nhẹ nhàng mà cao cả, dẫu bây giờ người ta chụp giật, ăn chặn, lợi dụng nhau là chuyện bình thường.
Tuân đứng lên phá vỡ không khí im lặng:
- Thưa thầy... nhân dịp năm mới chúng con đến chúc tuổi thầy. Chúc thầy một năm mới mạnh khoẻ vui vẻ, gia đình hạnh phúc. Ông giáo già đứng lên đáp lễ:
- Cảm ơn các em. Chúc các em mạnh khoẻ hạnh phúc và thành đạt - Rồi ông băn khoăn - Còn những thứ quà các em mang đến thầy xin mừng tuổi lại các cháu ở nhà.
“Không... không ạ. Thầy nhận cho ạ”, tất cả nhao nhao. Tiến vổ khoanh tay trịnh trọng:
- Con có ý kiến thế này: Con đọc trong sách rằng con biếu mẹ cha, trò biếu thầy dù nhỏ dù to cũng không nên chối từ. Đây là tấm lòng biết ơn của chúng con. Mong thầy nhận cho.
Cầm đầu nhóm tứ quái nghịch ngỗ có tiếng ngày xưa mà nói đạo lý rành rẽ đâu ra đấy. Ông giáo đành xuôi tay. Chợt nhớ ra điều gì ông bảo:
- Các em đợi thầy một tý.
Ông giáo vào buồng bê ra một cái hộp giấy, hình như là hộp mì ăn liền được bọc bằng giấy báo:
- Đây thầy có cái này mừng tuổi các anh các chị. Các chị không dùng thì đưa về cho chồng nhé. Coi như quà của thầy nhá. Ông Nguyên đặt cái hộp lên bàn mở ra. Tất cả xúm vào xem: Những cái cà vạt đủ màu sắc còn mới nguyên, xếp thẳng thớm... Dễ
đến dăm chục cái.
- Ôi sao nhiều thế ạ? Thầy mua làm gì nhiều thế ạ?
Thầy giáo cười:
- Không. Đấy là quà hai mươi tháng mười một thầy được tặng đấy. Của ngày xưa còn đi dạy đấy. Mỗi lần có đám cưới, các ông trong xóm thường sang nhà mượn cà vạt. Thầy tặng luôn. Đã cho bớt đến một nửa rồi. Giờ thầy mừng tuổi mỗi người một cái. Đây thầy tặng Tiến, đây tặng Mạnh... - Ông giáo lấy từng chiếc đưa cho từng người. Đám học trò cũ đưa hai tay đỡ lấy: “Thầy cho con xin”. Khi phát đủ cho mọi người số cà vạt vẫn còn đến vài chục chiếc. Cánh đàn ông hớn hở quàng vào cổ áo nhưng không biết thắt thế nào. “Đưa mình làm cho”. Ông giáo nắn nót thắt từng chiếc thành nút củ ấu, vừa làm ông vừa giảng giải:
- Học sinh quê mình còn nghèo, mỗi năm vào 20 tháng 11 thầy phải ra lệnh cấm lễ tết các thầy cô giáo. Nếu có lòng thì mỗi lớp một bó hoa tặng toàn thể hội đồng là được rồi. Để tránh cho các cháu đi lại vất vả rồi tai nạn giao thông, mà các thầy cô khỏi mang tiếng. Nhưng bọn các hắn không nghe. Năm nào cũng vậy, chúng góp mỗi đứa mươi ngàn. Cả lớp được khoảng hơn bốn trăm. Mua tặng mỗi thầy một cà vạt, mỗi cô một cái kẹp tóc con bướm. Tổ chức chung ở nhà trường xong, chúng đến dúi cho từng thầy từng cô rồi ù té chạy. Chối cũng chả được. Thầy là hiệu trưởng nên mỗi năm được đến hơn chục cái... trường chả có mười lăm lớp mà. Mấy năm liền như vậy cho đến lúc về hưu... Dễ có đến gần trăm cà vạt. Một gia tài đấy chứ...
Kể đến đây ông giáo ngẩng lên tưởng mọi người đang cười. Nhưng không. Tất cả lặng im. Mấy phụ nữ cúi mặt quay đi... hình như họ lén giấu những giọt nước đang ập oà nơi khoé mắt. Ông giáo ngơ ngác: “Ơ sao lại im hết vậy. Mình kể chuyện thật mà”.
...
Một đoàn người tuôn ra từ ngõ nhà ông giáo. Đàn ông ai cũng cà vạt nghiêm trang, đàn bà tay cầm cà vạt phấp phới như những lá cờ nhỏ đủ màu. Hàng xóm ngó nghiêng: Nhà ông giáo Nguyên hôm nay làm gì mà như có đám cưới...
Ông giáo đứng ở giữa sân nắng nheo mắt nhìn mọi người đi khuất ngõ. Nắng dát vàng nơi ông đứng. Từ nơi ấy nắng xuân đang tràn về khắp nẻo theo tiếng nói tiếng cười của đám học trò cũ. Khi đám trò khuất hẳn ông mới quay vào... Ô kìa cây đào phai đã bung lộc biếc... thấp thoáng đầu cành những chiếc lá nhọn tý xíu như những đốm lửa xanh lấp loá nhuộm nắng xuân.
ĐẤT LỞ
T
rời đất âm u, mưa vẫn rả rích. Dãy núi thấp quanh quận lỵ Phước Tân bị mưa giăng giăng phủ làm cho nó mờ ảo như lưỡi cưa cùn khổng lồ bị bẻ cong cứa lên bầu trời xám. Chiều muộn tạnh mưa. Một chút nắng loé lên nhuộm thẫm ngọn núi làm nó nhọn hơn trong ráng chiều đỏ ối.
Cách thị trấn khoảng vài cây số, một quả núi thấp như người nằm sóng soài, đầu hướng về phía tây. Nơi đầu của hình nhân khổng lồ, một vạt lở dựng đứng như vết chém của lưỡi mác bổ xuống từ trên trời. Vạt lở phơi màu đất bazan nhấp nhoá nước mưa nhìn như vết chém vẫn đang rỉ máu.
Hai bóng người ngồi bên nhau dưới những vòng dây thép gai tua tủa sắc nhọn như dao lam trong một cái hõm đất tối không nhuộm nắng chiều. Mọi sự đối với họ là hư không. Không thời gian, không cảm giác. Chỉ có hoang hoải và trống rỗng. Họ nép vào nhau để cố lấp đầy khoảng trống vô hình.
- Chúng ta là ai?
Một người nói bằng giọng xứ Quảng. Vô thanh. Môi không mấp máy mà người kia vẫn nghe rõ.
- Là những người lính! - Giọng Bắc trả lời.
- Đã đành. Nhưng tôi muốn hỏi chúng ta là cái gì trong cuộc đời này?
Người Bắc nhìn quanh.
Ngược lên trên những vòng dây thép gai hằn in trên nền trời. Mặt đất chi chít những hố bom pháo đỏ màu máu. Dế giun bắt đầu rên rỉ trong chiều muộn…
- Bây giờ chả là gì cả - Người Bắc ngoái nhìn lại phía sau. Ở đấy có hai thi thể nằm đè lên nhau quân phục xanh màu cỏ úa nhưng
chất liệu khác nhau. Một ka ki Mỹ, một ga ba đin Trung Quốc. - Tôi trung sĩ Nhất Huỳnh Đạt. Trước khi đi lính mần ruộng chạy xe lôi.
Người Bắc gật đầu:
- Còn tôi Trần Hữu Rư. Nông dân.
…
Cách đây chưa lâu họ còn là hai bên chiến tuyến...
***
Căn lều lợp tôn bé tin hỉn mỗi chiều hơn ba mét, tường thưng sơ sài bằng những vỏ bìa các tông và tôn phế thải. Bóng mọi vật dụng trong nhà in lên vách thành những hình thù quái dị trong ánh sáng leo lét cháy của chiếc đèn cầy. Cửa lều được che sơ sài bằng mảnh bao bố đã mục cũng bé tin hỉn chỉ đủ một người chui lọt. Một cái giường sắt cá nhân trong góc lều. Một con mèo lim dim ngủ cạnh rổ nhựa đựng mấy cái bát mẻ. Căn lều tạm bợ như xác nhận rằng chủ của nó mới đến đây sau một biến cố dữ dội của cuộc đời.
Một người phụ nữ bế đứa con gái nhỏ đang ngồi trên giường tạc bóng lên vách. Chắc đứa bé đã bú no nên ngửa mặt nằm ngủ trong khi người mẹ buồn bã im lặng như hoá đá. Dù buồn bã nhưng khuôn mặt vẫn không thể giấu được nét đẹp mặn mà. Trong khoảng sáng nhờ nhờ khuôn mặt nàng như trắng lên, bầu ngực trắng mịn mọng căng trễ nải do đứa con bú xong nhưng cái áo chưa kéo xuống, cái quần cộc để khoe cặp đùi rười rượi trắng. Hình như cái thứ ánh sáng nhờ nhờ ấy đã làm bật lên sự tương phản trắng đen dưới mái lều ọp ẹp.
Có tiếng chân bước khẽ, con mèo mở choàng mắt quay ngoắt, thủ thế nhìn ra. Một người đàn ông cao lớn xuất hiện. Gã vén cái mảnh bố che cửa rồi luồn vào trong lều nhanh như một con cáo. Người phụ nữ vẫn ngồi bất động như hoá đá:
- Lại đến à?
- Ừa. Nhớ cưng quá hà - Gã đàn ông vừa nói vừa ngoặc một cái túi ni lông lên vách rồi tập tễnh đến bên người đàn bà. “Nhớ quá nhớ quá” gã hít hà trong miệng và vươn tay mơn man bầu vú đang căng sữa.
Một đôi bướm một nâu, một xám đen chập choạng theo người đàn ông, hình như hắn di chuyển tạo thành luồng gió cuốn đôi bướm vào nhà. Đôi bướm đậu vào vì kèo ngay dưới ánh nến. Con mèo ngẩng lên nhìn chăm chăm, cong người rình rập…
Người đàn bà vẫn cúi đầu, nàng né người gạt cánh tay của thằng đàn ông đang rờ rẫm trên ngực:
- Chi mà vội rứa. Đợi tui đặt con nhỏ. Mà bữa rày trên giường hay dưới đất?
Gã đàn ông nhăn nhở:
- Lẹ lên cho anh còn đi họp ủy ban chớ. Thôi dưới đất cho chắc. Người đàn bà uể oải đặt đứa con xuống giường. Nàng dém cái chăn xung quanh để con bé khỏi giật mình. Một mảnh bao bố khác lấy từ cuối giường được trải xuống đất, xong nàng quay lưng lại thong thả cởi quần áo.
Khi người đàn bà quay lại… cả người nàng như toả sáng. Khuôn ngực đầy đặn, cái bụng phẳng, eo thon và vòng mông nở nang, cặp đùi dài mướt mát… phồn thực và quyến rũ đến ma mị.
Gã đàn ông vội vã giật nút áo quần của mình. Khi kéo quần tụt khỏi chân, gã phải vịn vào thành giường cho khỏi đổ vì một cẳng chân gày ngẳng và ngắn ngủn. Hắn bị thọt.
Gã thọt lao đến ôm lấy người đàn bà. Nàng lạnh lùng đẩy ra: - Gạo đâu?
- Đây - Gã nhăn nhở cười và chỉ tay vào cái dúm vừa treo lên vách.
Người đàn bà đến bên vách nhấc dúm ni lông: - Từng ni sao đủ? Miệng nhăn nhở cười, gã đàn ông thanh minh:
- Hôm ni mụ vợ canh dữ quá hà… với lại nhà cũng chỉ còn có ít… lấy thêm vợ con nó biết.
- Chỗ này chỉ được ba lon. Bảy lon mới xong. Về đi… - Mai mốt bù - Gã thọt lao đến ôm chặt cứng người đàn bà. Nàng vùng vằng đẩy hắn ra. Nhưng sự va chạm với các bộ phận trên cơ thể trần trụi của người đàn bà như càng kích thích con đực. Hình như người đàn ông tật nguyền nơi cẳng chân thì sức mạnh được dồn lên cánh tay. Hắn khoá cứng tay nàng.
“Không!”. Người đàn bà nằm ngửa co chân đạp lia lịa, nàng vươn tay lấy hết sức đẩy gã thọt ra khỏi người. Thằng này nghiến răng túm lấy hai tay nàng ghì xuống. Vật lộn một lúc… người đàn bà thở dốc. Sức vóc đàn bà làm sao có thể địch lại được thằng đàn ông đang hăng máu, nàng đành buông xuôi bất lực. Gã thả tay nàng ra và cúi rạp người trườn lên từ dưới chân nàng như một con rắn…
Con mèo không tập trung vào đôi bướm nữa, nó duỗi mình ngơ ngác nhìn hai con người vật lộn như thể tò mò xem chuyện gì sẽ xảy ra. Chợt từ trên xà nhà con bướm nâu liệng xuống ngay chót mũi chú mèo. Mèo vội quay lại. Bướm nâu chấp chới bay lên. Không thể để con mồi mình đang rình rập biến mất ngay trước mũi, chú mèo tung mình lao theo. Con bướm bay lên như trêu ngươi. Hụt! Chú mèo rơi xuống trúng cái rổ bát. “Xoảng”. Cái rổ lật nghiêng, bát đũa rơi tung toé.
Tiếng bát vỡ khiến gã thọt giật nảy mình. Hắn nhỏm người ngồi dậy. Người đàn bà thừa cơ co chân đạp trúng bụng gã thọt. Bị cái đạp bất ngờ, gã đổ vật ngửa trên nền đất. Người đàn bà quăng người đứng dậy chạy lại bếp vớ lấy con dao thủ thế. Miệng nàng thở hổn hển khi thằng đàn ông lại sấn đến:
- Mi cứ đến đây… tau sẽ cho mi một nhát.
Thằng đàn ông khựng lại. Hắn gầm gừ:
- Đồ điếm! Lại còn làm cao.
Người đàn bà mắt long lên, ưỡn ngực kiêu hãnh:
- Mi là cái thằng hèn… chích hiểm cho thọt chân để không phải đi quân dịch. Rồi bợ đỡ để làm cán bộ chứ mi là cái chi mà tau phải sợ? Chồng tau chết trận nên tau mới phải thế này. Nếu chồng tau còn sống thì ảnh cho mi một phát rồi đời. Đồ mắc dịch… tau có thừa đách… cũng không cho mi thiếu. Nghe chưa!
Gã thọt vừa mặc quần áo vừa cảnh giác nhìn con dao trên tay người đàn bà. “Rồi mi sẽ biết tay tau!”. Gã cười nhạt, giật vội túi gạo trên vách rồi tập tễnh luồn qua cửa biến vào bóng tối. ***
Rư nghiến răng:
- Khốn nạn! Chồng chết trận. Vợ làm đĩ. - Quay lại thấy Đạt đang ngồi gục mặt khóc rấm rứt. - Sao có loại hèn thế chứ? Rư quát:
- Còn ngồi mà khóc được à!
Đạt ngẩng lên khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Những giọt nước mắt đỏ như máu:
- Răng anh ác rứa?
- Ơ hay. Sao lại bảo tôi ác?
Đôi mắt đỏ như máu nhìn thẳng Rư:
- Tôi chết… vợ tôi buộc phải làm vậy để kiếm chút gạo nuôi con. Anh làm rứa mai con tôi lấy gì để sống?
Rư vỡ ra: “Ờ nhỉ. Nhưng người ta có thể làm việc khác lương thiện để sống cơ mà. Sao lại phải đi làm cái việc ô nhục ấy. Ngay tôi đây… cũng có vợ có con nhỏ nhưng vợ tôi sẽ không làm vậy”. Rư chợt nghĩ đến người vợ thân yêu và đứa con nhỏ ngoài Bắc. Không biết giờ mẹ con nó đang làm gì? Thằng bé lớn bằng nào rồi?
- Vợ con anh có trợ cấp. Vợ con tôi thì có chi?
Rư thấy ứ nghẹn. Nước mắt trào ra… nước mắt Rư cũng đỏ như máu.
***
Niên khom người chạy qua yên ngựa theo mọi người. Cách hàng rào độ bốn chục mét… mấy người đi đầu nhảy dựng lên rồi vật xuống. Đạn đại liên của địch veo véo mang tai. Niên đổ người xuống theo phản xạ. Phía trước mọi người cũng đã kịp nằm xuống. May quá, trước mặt là một mô đá thấp chỉ cách vài mét. Niên dán người xuống đất trườn đến đó. Thì ra Rư cùng mấy người cũng đã nằm ở đấy. Đạn địch viu víu ngay trên đầu, đạn toác toác cắm vào mô đá làm bay một miếng bên phải. Mảnh đá bay ràn rạt. Không ai dám ngẩng đầu lên, Niên tưởng tượng bây giờ chỉ cần đưa tay lên thì cả trăm viên đạn sẽ găm vào bàn tay ngay tức khắc.
Ùng oàng! Ùng oàng. Hai phát ĐKZ nổ liên tiếp. Đại liên địch im bặt. Khi Niên ngẩng đầu lên thì thấy cái hàng rào phía trước đã tung lên hất ra hai phía tạo thành một lối đi rộng. “Lên…”. Rư thét rồi ôm AK vọt lên, các chiến sĩ lao theo, họ vượt qua mấy hình hài bất động nằm bên cạnh cửa mở để tràn vào cứ điểm.
Lên cứ điểm mới biết nó khá rộng… Có dễ bằng một sân bóng đá, lô cốt hầm ngầm lô nhô. Bộ đội ta lên hàng đại đội mà khi tản ra thấy như chỉ mấy người.
Không thấy tên địch nào. Họ đã rút nhanh như có phép tàng hình.
Tiếng AK, tiếng lựu đạn nổ rền. Niên nép vào thành bê tông giật chốt lựu đạn ném vào trong lô cốt. Um… một tiếng nổ âm âm, khói khét lẹt. Phía sau là hai chiến sĩ phun lửa lật đật chạy đến: “Chỗ này chơi lựu đạn rồi à?”. Niên gật. Hai người tạt sang cửa hầm hai bên dí vòi phun lửa. Ục… lửa cuồn cuộn phụt ra ở lỗ châu mai
Phía tây cứ điểm có tiếng súng AR15 nổ rời rạc.
Thấy Rư đã chạy về hướng đó, Niên lao theo. Thoáng cái đã thấy bóng Rư mất hút sau đám công sự lều bạt ngổn ngang. Quanh quẩn mất đến mấy phút thì Niên chạy đến cuối cứ điểm.
Anh khựng lại vì đằng trước là khoảng không thăm thẳm. Một cái vực do đất lở. Nhìn xuống thấy thẳng đứng, sâu hun hút. Lưng chừng vạt đất lở, một thềm đất nhô ra cỏ mọc um tùm. Rư ngồi trước một người lính bên kia đang nằm duỗi dài, hai cẳng chân xơ tướp những gân xương thịt và vải ống quần ka ki… như chân gà bị gặm dở, máu ở đấy phun ra phè phè. Mặt anh ta cũng bết máu, ánh mắt đùng đục nhìn lên cầu khẩn: “Nước… nước. Cứu!”. Niên nhìn thấy tên Huỳnh Đạt in trên ngực áo.
Rư ngẩng lên: “Mày còn nước không… đưa tao”. Niên vội vàng cởi cái bi đông cho Rư. Rư cầm bi đông nước rồi nhìn Niên bằng ánh mắt rất lạ: “Xuống ngay! Nó sắp sửa ném bom đấy”.
Niên cùng mọi người chạy theo con đường ô tô từ trên cao điểm xuống thị trấn. Quả nhiên tiếng máy bay rít như xé vải ngay trên đầu. Niên lao vào vệ đường, quăng người nằm gọn trong cái rãnh thoát nước nhưng vẫn ngẩng đầu lên nhìn về chỗ Rư... Một ánh chớp loé lên, hai thân người tung lên không. Tiếng nổ đinh tai mảnh bom bay vù vù cắm phầm phập xuống mặt đường. Rồi liên tục thấy chớp loé và tiếng nổ inh tai.
Bom dứt, Niên cho người lên tìm thương binh, tử sĩ. Số bị thương đã được đưa về. Bảy tử sĩ đã được xác định. Chỉ có Rư không thấy đâu. Niên chạy đến chỗ Rư ngồi cùng người lính đối phương lúc trước: Một cái hố bom sâu đỏ tươi màu máu. Vậy là khi bị tung lên rơi xuống, Rư lại trúng quả bom thứ hai… nó đã phũ phàng xoá sạch những gì còn lại của hai con người.
Niên bặm môi cố ghìm nước mắt cứ trào ra: “Anh Rư ơi… Vừa đấy mà bây giờ đã chả còn gì. Mà tại sao anh phải làm vậy? Đằng nào người lính bên kia cũng sẽ chết mà”. Tự nhiên Niên lại ám ảnh lời cầu khẩn thều thào: “Nước… nước… Cứu!”.
***
- Sao anh không rút theo đồng đội? - Rư hỏi.
- Vì người ta buộc tôi ở lại cầm chân các anh để cả đơn vị rút lui an toàn.
Huỳnh Đạt buồn bã trả lời và hỏi lại:
- Có phải anh vì tôi mà không chạy ngay cùng với anh bạn? Rư gật đầu.
- Răng anh làm rứa? - Đạt lại hỏi.
- Vì anh lúc ấy cần sống, cần nước.
***
Hoàng hôn tím ngắt… Trong ánh sáng cuối ngày chấp chới một đôi bướm trước mặt Niên. Tự nhiên anh thấy rờn rợn. Đôi bướm nhịp cánh bay vòng qua trước mặt và đậu ngay trên xà nhà doanh trại. Lá thư nhà Niên vừa nhận để trên bàn động đậy mặc dù trời không có gió. Niên quay lại nhìn.
Và anh không tin ở mắt mình… lá thư chấp chới bay lên và rơi xuống đất. Tựa như có người cầm lên xem rồi buông tay thả rơi. Niên sững người. Toàn thân nổi gai ốc. “Anh Rư về đấy ư? Có phải vậy không? Vậy thì anh biết rồi đó. Khổ thân anh!”. ***
- Sao không khóc cho nhẹ lòng hả ông bạn - Đạt bảo. Rư vẫn mím môi, ánh mắt loé lên. Khốn nạn! Làm sao tôi có thể khóc được. Tôi chỉ đang lo. Đứa con tôi sẽ sống như thế nào khi mẹ nó đã bỏ đi với người khác để lại đứa con cho ông bà nội. Bố mẹ tôi đã già.
- Tôi cũng như anh mà… đứa con gái nhỏ của tôi…
- Không! Anh hạnh phúc hơn tôi. Con anh vẫn có mẹ dù mẹ nó phải làm điếm để nuôi con. Anh vẫn còn vợ, vợ anh vẫn yêu anh dù cô ấy phải bán thân. Còn tôi, vợ đã bỏ con để yêu người khác. ***
Đã hơn hai mươi năm trôi qua.
Những ngày trở trời trong đầu Niên vẫn hiển hiện chớp lửa bom
và hai cái xác tung lên trời. Trong giấc ngủ chập chờn ông vẫn mơ thấy Rư về với nét mặt buồn buồn, ánh mắt chứa chất điều trách móc. Bố mẹ Rư đã mất, thằng Dự con Rư đã học xong đại học và nó xung phong vào nơi chiến trường xưa tham gia làm đập nước phát triển kinh tế ở trong ấy.
Ngày bố mẹ Rư còn sống, mỗi lần sang nhà, Niên thấy như có lỗi khi thấy ánh mắt của các cụ đau đáu gửi về phía trời xa… nơi xương thịt đứa con của họ thân yêu tan loãng vào gió bụi. Nhìn thằng bé Dự côi cút ông quặn lòng nhớ ánh mắt giục giã của Rư lúc giục anh chạy ngay khỏi cứ điểm.
Ông đang nợ Rư.
Cũng vào một đêm như vậy… Rư lại “về”. Ánh mắt anh lần này như cầu khẩn. Niên ngơ ngác không hiểu. Rư hất hàm ra hiệu cho Niên đi theo. Ông cắm cúi bước theo bóng Rư lúc ẩn lúc hiện. Ngẩng mặt lên đã thấy mình đứng trên cao điểm ngày xưa. Lau lách giờ mọc um tùm. Lại thấy bóng Rư thấp thoáng đằng trước. Đến một cái hố bom… Niên nhớ ra: Chỗ này Rư đã ngồi xuống cho người lính đối phương uống nước. Trong đầu lại hiện lên cái dòng chữ Huỳnh Đạt trên ngực áo và khuôn mặt bê bết máu, hai chân xơ tướp như chân gà gặm dở…
Niên lặng người trước hố bom. Xương thịt hai người giờ đã lẫn vào đất đá. Ông thở dài rồi ngẩng lên. Lại thấy Rư vẫy vẫy. Lạ nhỉ! Còn đi đâu nữa? Thì đi! Đi dăm mét nữa thì gặp vạt đất lở dựng đứng. Niên khựng lại, lạnh dọc sống lưng, người rươn rướn như sốt rét: Ở lưng chừng vạt lở phía dưới cách chỗ Niên đứng khoảng bốn chục mét nhoài ra một nền đất tạo thành hõm. Ở đấy Rư đang đứng cùng với một người nữa lẫn trong đám cỏ tranh.
Tiếng chuông điện thoại reo vang. Niên giật mình choàng dậy thì ra mình nằm mơ. Ông cầm máy… điện thoại của thằng Dự con anh Rư.
Niên nghe máy xong thì lạnh người, ông có cảm tưởng tất cả lông tóc trên người dựng đứng. Sao lại có sự trùng hợp lạ lùng vậy. Sao giấc mơ của hai chú cháu giống nhau đến thế. Liệu có thể tin được không? Nhưng nhỡ ra là thật… mình không làm sẽ có tội với người còn sống và với cả những người đã khuất.
Niên nghiêm trang nói như ra mệnh lệnh:
- Vậy thì cháu chuẩn bị đi. Chú sẽ làm thủ tục giấy tờ… Tuần sau chú sẽ vào, chú cháu mình đưa bố cháu về.
Dự ngạc nhiên:
- Nhưng đã biết bố cháu ở đâu ạ. Sao chú bảo tan nát hết rồi mà. Niên kiên quyết:
- Cứ chuẩn bị đi. Chú sẽ giải thích sau.
***
Bốn tiếng đồng hồ quăng quật trên con đường gập ghềnh đèo dốc lổn nhổn đất đá và ổ gà, chiếc Honda 67 cà khổ cõng hai chú cháu đến Tân Phước thì trời đã tối. Niên đã thấm mệt, miệng khô khốc, lưng mỏi dừ, đôi chân tê cứng, nhìn sang thằng cháu mặt mũi nham nhở bụi đất lẫn mồ hôi thì ông biết Dự cũng đã oải. Niên nhìn lên ngọn núi đất nơi trận đánh ngày xưa. Hình như không thay đổi gì nhiều chỉ vạt đất lở giờ đã xám đen như vết thương đang khô miệng. Ờ nhỉ, hơn hai mươi năm, mọi vết thương đều đã thành sẹo. Chỉ có điều mỗi lần nhìn cái sẹo thì người ta lại nhớ tới cảm giác đau đớn ngày xưa.
Trong đầu Niên mơ hồ nỗi lo. Sao mình lại tin vào một giấc mơ? Dù giấc mơ ấy song trùng với giấc mơ của Dự thì cũng chỉ là sự ảo. Có lẽ ông bị ám ảnh bởi cái chết của Rư nên đầu óc tự giác phân tích phán đoán và thông báo lại. Nhưng hai người hai nơi mà mơ giống nhau đến từng chi tiết? Phải chăng còn có cõi khác mà ta chưa biết.
Thôi cứ phải từ từ, nóng vội dễ dẫn đến sự thất vọng cho đứa cháu mồ côi. Nó khao khát được gặp bố dù chỉ là nắm xương tàn là
tất cả những gì còn lại của người lính trận. Niên tự nhủ mình và ông đã tính đến phương án xấu nhất có thể xảy ra.
Dự đăm chiêu nhìn quả núi đất. Liệu có tìm thấy bố không? Tối nay ăn nghỉ ở đâu? Anh thở dài. Niên nhìn đứa cháu mà nao lòng xa xót.
Một đôi bướm nối đuôi bay vòng qua đầu hai chú cháu rồi chờn vờn trước mặt. Cánh bướm sát ngay trước mắt Niên, gần đến mức khoảng trời vàng rực hoàng hôn ẩn hiện nhập nhoà. Cánh bướm nhắp nhắp như thể môi người đang nói điều gì…
Niên sững sờ. Liếc nhìn sang Dự… hắn cũng đang đờ người kinh ngạc. Chợt Niên thấy người lạnh toát như thể đang tiếp xúc với thứ gì trong suốt nhưng lạnh giá. Đầu ông lâng châng như người không trọng lượng, mắt ông mờ mờ sương giăng, ở đó thấp thoáng bóng Rư và người lính đối phương Huỳnh Đạt.
Hai con bướm bay dọc con đường đất. Niên và Dự như người mất hồn thập thễnh bước theo.
Ba chấm hương đỏ đòng đọc trong nhập nhoạng trời chiều, mùi trầm ngan ngát quyện với mùi đất ngai ngái ma mị mà đơn côi như trong nghĩa địa. Đôi bướm lượn vòng quanh những chấm đỏ và đậu vào ngọn xuyến chi giờ đang khép cánh hoa rũ xuống lúc đêm về.
Một thùng xốp, trên đó là cái đĩa có mấy quả xoài, một cái cốc cắm ba nén hương. Một cô gái đang ngồi cúi mặt. Bên cạnh là sạp hàng đã được thu dọn, cây dù che đã cụp xuống chĩa thằng lên trời như mũi tên. Cô gái hướng về quả núi đất tay vái miệng lẩm nhẩm: “Lạy ba má… con về”.
Niên cất tiếng chào khi cô gái đã đứng lên. Mặc dù ăn mặc sơ sài nhưng ở cô vẫn toát lên sức sống khoẻ khoắn với dáng người cân đối gọn gàng. Ánh hoàng hôn soi rõ khuôn mặt thanh tú mịn màng, đôi mắt đen thông minh sáng lên dưới hàng mi cong rợp.
- Cho tôi hỏi ở đây có khách sạn, nhà nghỉ nào không? - Niên hỏi.
Đôi mắt đen nhìn hai người dò xét: “Dạ thưa không có chú à”. - Gay rồi! - Niên quay sang nói với Dự. - Chú cháu mình đêm nay chắc phải trải vải mưa nằm nuôi muỗi.
Đôi mắt đen cụp xuống như ái ngại. Một lát sau ánh mắt ngước nhìn hai người quả quyết:
- Dà… hay là chú về nhà trọ của cháu. Cháu sẽ thưa với chủ nhà xin cho hai người nghỉ nhờ. Nếu không được, cháu sẽ sang nhà con bạn nhường phòng cho chú và anh đây.
Niên và Dự gật đầu liền. Họ cùng cô gái sắp xếp đồ đạc hàng hoá của cô gái lên chiếc xe nhỏ và xúm vào đẩy về nhà trọ. Trên đường đi Niên gợi chuyện:
- Chắc quê cô không ở đây?
- Dà, quê cháu mãi trong Quảng Ngãi cơ. Ba cháu đưa má con cháu ra đây. Trước ở khu gia binh. Ba cháu tử trận, má con cháu kẹt ở đây. Rồi má cháu bị bắt đi cải tạo… Ngoại đem cháu về nuôi… Khi mẹ cháu hết thời gian cải tạo, mẹ lại đón cháu về đây thuê nhà ở để gần ba cháu. Năm ngoái má cháu bịnh nặng rồi mất cũng chôn ở ngay dưới chân núi kia - Cô gái ngoái lại chỉ lên cao điểm ngày xưa. Cháu bán hoa quả ở đây để hương khói cho ba mẹ.
Niên biết người ta không cho mang bát hương người lạ vào nhà trọ nên cô gái này đành phải cúng cha mẹ ngoài đường. Ông thấy sống mũi cay cay.
- Vậy ba em là lính bên nào? - Dự buột mồm hỏi.
Cô gái cúi mặt. Lát sau cô nói trống không:
- Sài Gòn.
- Trời… vậy ba cháu mất ở đâu?- Niên hỏi.
- Trên ngọn núi kia. Vậy nên má cháu mới dứt khoát đòi ở đây gần ba cháu mà không chịu về quê.
Niên ngạc nhiên. Đánh nhau tử trận trên ngọn núi kia. Niên biết trên ấy chỉ có một trận đánh duy nhất vào ngày giải phóng thị trấn
này. Và bên kia, họ đã khéo léo cầm cự chủ động rút lui… duy nhất một lính tử trận. Ông hồi hộp:
- Cha cháu tên gì? Tử trận ngày nào?
Cô gái ngạc nhiên nhìn hai người:
- Răng chú hỏi kỹ dữ vậy? Cha cháu mất ngày mười hai tháng ba năm bảy lăm. Má cháu nói thế. Còn tên ba cháu có nói chú cũng chả biết được mô.
Niên nói như vô thức:
- Cha cháu tên Huỳnh Đạt!
Cô gái dừng ngay xe lại tiến đến đối diện sát mặt Niên. Ông nghe thấy cô đang thở hào hển, giọng đứt quãng: “Răng... Răng ông biết?”.
Niên cũng sững người. Đây là con Huỳnh Đạt! Y như thể đã có sự sắp xếp của cao xanh vậy. Anh Rư ơi. Nhẽ nào mơ là thật. Niên thong thả kể lại câu chuyện trận đánh ngày hôm ấy.
Cô gái tròn mắt nghe, nước mắt cô ròng ròng trên má. Dự phải vỗ vỗ vào vai cô để an ủi. Khi nghe đến đoạn hai cái xác tung lên trời thì cô khóc oà lên và dụi vào vai Dự mà nức nở. Hai người cha chết bên nhau làm cho khoảng cách và sự e dè giữa hai đứa con không còn nữa. Dự để yên cho cô gái dựa vào, anh thấy nơi ngực trái thổn thức vừa xót xa thương cảm vừa thấy như trách nhiệm chở che. Niên nhìn họ dội lên cảm giác lạ lùng hình như số phận đã buộc họ vào với nhau như đã buộc hai người cha với nhau.
Đợi cô gái ngừng khóc Niên mới lựa lời hỏi:
- Sao mẹ cháu lại bị đưa đi cải tạo?
Cô gái cúi mặt ngượng ngùng… Một lát sau cô nói khẽ: - Người ta vu cho mẹ cháu ngày xưa là người của Phượng Hoàng… Mẹ cháu bảo họ ấy đặt điều vậy để trả thù vì đã không chịu nghe lời. Ôm con theo chồng đi suốt miền Trung trận mạc thì Phượng Hoàng nỗi gì? Sau này mẹ kể lại cháu mới biết.
Niên cúi đầu thở dài. Sau chiến tranh có bao nhiêu điều phức tạp, nhiều giá trị bị đảo lộn khi giao thời và còn đeo đuổi đến tận bây giờ. Chỉ có những người trong cuộc mới thấy sự vô lý. Vô lý nhưng cũng không thể làm gì được.
Sáng ngày hôm sau hai chú cháu Niên và Dự lên núi đất. Cô gái nằng nặc xin đi cùng. Và điều tưởng như không thể đã xảy ra… Chỗ dốc đứng do đất lở cách đỉnh núi khoảng bốn chục mét nhô ra một cái hõm đất. Ở đấy cỏ tranh mọc thưa thớt. Nhổ lớp cỏ là lớp mùn… hai bộ xương người lẫn với nhau nhưng còn khá đầy đủ. Niên nhìn cái đầu nhận ra ngay Rư. Nhìn thấy hai cái cẳng xương ống chân bị cắt cụt ông nhận ra đó là Huỳnh Đạt. Những bộ phận còn lại thì không thể phân biệt được là của ai. Mà cũng lạ… hơn hai chục năm đã qua mà các lóng xương vẫn khô trắng không hề bị mủn nát.
Hai thanh niên một nam một nữ nâng đầu của cha mình áp vào ngực. Nước mắt của họ ngấm vào hai cái sọ như ngay lập tức y như thể sa mạc khô hạn gặp những giọt mưa đầu tiên. Lát sau cả hai hộp sọ hồng lên trước mặt Niên.
Nhìn cảnh ấy mà lòng Niên thanh thản, ông chắp tay miệng lẩm nhẩm: “Các anh khôn thiêng phù hộ cho các cháu”.
***
Hai người lính bịn rịn.
- Anh à… mai anh được về ngoài ấy với các cụ. Còn tôi đã được gần người vợ thân yêu. Chắc chắn anh sẽ được đón tiếp như một anh hùng.
- Không phải thế đâu. Chúng mình chỉ phân biệt ở cái đầu và đôi chân, còn tất cả đã lẫn lộn… Giá như chúng mình còn cảm giác. Nhưng ta vẫn tồn tại và đã hoà trộn vào nhau. Mọi vinh quang và cay đắng, mọi hạnh phúc và bất hạnh chúng ta đã cùng gánh chịu. Chỉ mong sao những đứa con chúng mình được hạnh phúc.
Họ ôm lấy nhau. Hai thân thể vô hình nhập làm một. Khoảng
trống rỗng đã được lấp đầy.
Phía đông trời đã hửng… Những vạt mây đang ửng lên màu hồng và chỉ một lát sau chuyển thành màu trắng bạc hứa hẹn một ngày nắng đẹp.
Từ cành xuyến chi ven đường nhịp nhàng bay lên hai cánh bướm. Chúng quyến luyến vờn bên nhau… rồi khuất dạng. ***
Bây giờ… cách vạt đất lở không xa, một căn nhà nhỏ xinh xắn đang đầy ắp tiếng cười con trẻ. Từ giữa nhà khói trầm ngan ngát đưa hương.
Đ
êm đông.
ÁO LÍNH
Xóm nhỏ biệt lập giữa cánh đồng chơ vơ ba nóc nhà chìm nghỉm trong bóng tối. Gió bấc thổi rào rào. Mấy cây cau gặp gió lá rũ rượi vắt sang một bên nhìn xa như những cây sào phất phơ buộc túm lông gà quét ngược lên mái trời bàng bạc. Màu bàng bạc ấy là ánh điện hắt lên từ ngôi nhà cuối xóm.
Đứng trước ngôi nhà cuối xóm sáng ánh đèn ấy nhìn lên đầu xóm thấy rậm rạp cây cối đen đen. Trong đám đen đen rậm rạp những tre pheo cây cối le lói một ánh đèn dầu vương qua kẽ liếp thưa. Mùi hương trầm nhè nhẹ nương theo ánh đèn bay ra ngoài cùng tiếng mõ thấp thỏm. Cốc… cốc… cốc cốc… Nhịp mõ uể oải khô lạnh. Hình như người gõ đang cố kìm cơn buồn ngủ. Lọc kỹ qua tiếng gió là tiếng người đùng đục câu được câu chăng cũng uể oải như tiếng mõ: “Trời… ta… chỉ… một trên… đầu. Bắc Nam… liền một dải… Lòng ta… không giới tuyến”.
Có ánh đèn xe máy chọc màn đêm cùng tiếng động cơ gào át tiếng gió và tiếng mõ. Cái xe dừng trước sân nhà cuối xóm, nơi duy nhất có ánh điện. Từ trong nhà tiếng rít lên xoe xóe của đàn bà: - Rúc chỗ nào giờ mới vác mặt về?
Người đàn ông cao lớn khoác xà cột đẩy xe máy lên nhà giọng nhừa nhựa:
- Hay nhể. Người ta công tác chứ đi đâu mà rộn cả lên vậy. - Công tác gì mà tận mười giờ đêm? Ủy ban ai làm việc tối? Đi với con đĩ nào? Tưởng gái này không biết hử?
Tay đàn ông cáu:
- Khẽ cái mồm!
Người đàn bà xuất hiện đứng chắn cửa buồng, tay vấn mái tóc
trên đầu, rồi rút cái cặp trong mồm ra găm lại cho nó ngỏng lên. - Dưng mà không ngủ được. Đã thế lại còn công cốc công cốc… sốt hết cả ruột.
Tay đàn ông thì thào:
- Thì cũng bàn việc ấy. Tập thể cũng phải đồng ý với mình. Kết luận rồi. Đợt này thì cho thằng mất dạy chết kỹ. Tinh tướng tài giỏi à. Tài giỏi cũng chết. Thôi đi ngủ!
Cánh cửa sập lại. Đèn điện tắt phụp. Cả xóm chìm trong đêm đen. Tiếng mõ rơi mấy tiếng sau cùng rồi tắt lịm.
***
Ngoài sân ánh trăng dãi dề.
Trong nhà mùi hương trầm ngan ngát.
Dưới ánh đèn dầu vàng ệch, Mây bần thần giở từng vật dụng trong chiếc ba lô cũ của chồng từ chiến trường gửi về. Hơn chục năm đã qua, mỗi lần giỗ chồng, chị lại lấy chiếc ba lô ra lần giở từng thứ để tìm về ngày xưa…
Đây là chiếc mũ cối đã sờn mép. Cái mũ này anh đã đội trong suốt dọc đường lên biên giới. Đây là chiếc áo vẫn còn khen khét mùi mồ hôi của anh. Mùi mồ hôi mà chị vẫn hít hà mỗi lần chồng đi cày ruộng về. Những lúc ấy chị áp mặt vào vồng ngực rắn chắc của anh để cả hai cùng hạnh phúc tràn trề nhìn về thằng cu Hoà bốn tháng tuổi đang nhoẻn cười trong giấc ngủ. Và đây là chiếc quần anh mặc trong lần về phép. Chị nhớ đôi bàn tay anh lập cập hối hả mở từng khuy cúc…
Mây cầm chiếc áo bộ đội ấp vào mặt.
- Bây giờ anh ở đâu? Em nhớ anh lắm!
Người Mây râm ran, cơ thể chuyển từ râm ran sang hừng hực như lên cơn sốt. Chị thở dài cố nén cơn sốt đang kéo đến. Nhưng không thể ghìm được cơn sốt từng đêm từng đêm hành hạ người đàn bà một con mới ba mươi tuổi…
- Em thèm anh lắm… Anh ơi!
Người đàn bà bật khóc. Nhìn bên cạnh, thằng con tên là Hòa mười hai tuổi đang dang rộng chân tay nằm ngủ. Tư thế nằm quen thuộc mà mỗi lần nhìn con ngủ Mây lại nhớ tới chồng sau khi được thỏa mãn yêu đương. Những lúc ấy chị nhẹ nhàng hôn vào má chồng rồi gối đầu lên cánh tay rắn chắc của anh đang dang rộng để chìm vào giấc ngủ sâu viên mãn.
Sợ tiếng khóc to làm con trai mất ngủ. Mây ghìm tiếng nức nở. Sóng lòng cuồn cuộn sôi lên rồi ứ lại thành cơn nấc.
- Về… với em… mình ơi!
Trên bàn thờ, anh vẫn bình thản nhìn xuống qua nén hương đỏ đòng đọc đang ngún khói.
Không thể chịu được cơn bức bối, Mây thả cái áo bộ đội xuống giường. Chị bước ra sân như người mộng du. Bức bối đến không thể chịu nổi. Mây giật tung cúc áo…
Trăng rót ánh vàng xuống bộ ngực vun đầy. Gió mơn man trên da thịt. Người đàn bà nhìn trăng tưởng như chồng mình ở đó đang nhìn xuống.
- Xuống với em… Mình ơi!
Vẫn chỉ có ánh trăng lặng phắc và gió mơn man.
Tuyệt vọng. Chị thập thõm ra bờ ao. Thả người vào nước… Mặt ao vỡ tan, trăng vỡ lễnh loãng trong sóng nước. Như lòng đỏ quả trứng bị nhát dao chém vỡ rớt vào chảo nước lạnh. Cái lạnh của nước ao nửa đêm ngấm vào từng thớ thịt của người đàn bà góa bụa. Rùng mình. Mây đưa tay lên ngực, hai bầu nhũ giờ như hóa đá. Căng cứng và nóng hẩy. Đưa tay xuống dưới… sự khát khao bị dồn nén ứ lại.
Cơn khát vẫn không dừng.
Từ xó tối của bóng cây mít cuối vườn nhô ra một thằng đàn ông. Mây thụp người xuống nước như bản năng. Miệng há ra nhưng
không thể kêu thành tiếng.
Thằng đàn ông tiến đến gần. Một mắt hắn lóe lên dưới ánh trăng. Mây vùng đứng dậy. Dưới ánh trăng đôi bầu ngực người đàn bà căng lên. Mọng và tròn như tạc bằng cẩm thạch.
Cánh tay của thằng chột vươn ra. Bàn tay hắn mơn man bầu ngực, ngón tay hắn vê vê…
Mây rùng mình!
Mắt chị nhắm nghiền. Loang loáng trong đầu những âu yếm chồng vợ ngày xưa. Anh… anh…
Thằng một mắt đã kề cận. Thân hình vâm váp đàn ông áp sát thân hình nóng giãy và ướt sũng.
Hơi thở của hắn phả vào mặt Mây. Nồng nặc…
Bừng tỉnh. Không phải. Anh chết rồi cơ mà. Mai là ngày giỗ. Người đàn bà lấy hết sức đẩy thằng đàn ông ra khỏi người mình. Nhưng sức vóc đàn bà sao có thể làm được. “Yên nào! Ngoan nào! Chiều anh… chiều anh. Anh… đề bạt… làm… cán bộ phụ nữ…”, tiếng đàn ông run run xen tiếng thở gấp gáp. Không! Chợt như có người tiếp sức, chị choãi chân cúi người húc thẳng vào ngực kẻ vừa nói. Hắn ngã ngồi trên bậc cầu ao. Chị ôm ngực chạy qua sân vào nhà. Ba gian nhà trống trải không thể che chắn. Mây đứng dựa tường thủ thế hai tay vẫn ôm ngực. Giờ bỏ tay ra thì khác nào kích thích con quỷ.
Chợt Mây nhìn thấy cái áo của chồng trên giường. Chị vội vơ lấy khoác vào người. Tự nhiên mọi nỗi lo sợ tiêu tan. Mây trân trân đứng nhìn mắt long lên sẵn sàng đương đầu.
Tên chột thong thả bước vào nhà. Hắn hoàn toàn yên tâm. Đàn bà ai chả thế. Thích bỏ cha lại còn ra vẻ…
Chợt hắn khựng lại. Trước mặt hắn là một người lính. Chồng Mây đã trở về?
Người lính nắm tay, mắt lóe lửa quai hàm bạnh ra bởi hàm răng
nghiến chặt. Anh ta đang chuẩn bị tấn công.
Tên chột hoảng hốt bước lùi.
Và ngay lúc đó có tiếng người lanh lảnh nhưng đầy uy lực: - Thằng Chấn chột. Mày động vào mẹ ông thì ông chém chết! Thằng Hòa đã vào nhà tự lúc nào. Tay nó cầm con dao bầu. Tên một mắt run lên. Phải. Hắn là Chấn chột phó chủ tịch xã.
Không ngờ thằng con của Mây còn thức. Đã thế cu Hòa đã nhận ra và gọi đúng tên hắn.
Không kịp nghĩ gì hơn. Hắn quay đầu chạy. Thằng Hòa đuổi theo. Còn lại Mây đứng ở góc nhà người run bắn, hai tay khép vạt áo ôm ngực thở.
Nghe ùm một tiếng ngoài ao. Mây nhỏm dậy nhìn ra ngoài. Thằng Hòa cúi mặt đi vào. Nó ném con dao vào góc nhà rồi khẽ thở dài thả mình trên giường, mắt nhìn trân trân lên mái nhà nhập nhoạng ánh sáng đèn dầu.
Khoác cái áo của chồng, Mây chợt thấy hết khao khát. Bây giờ đã thấy vững tâm hơn. Chị thấy xấu hổ với con trai. Nhìn sang thằng bé đã nhắm mắt ngủ.
- Anh ơi. Hôm nay anh và con trai đã cứu em thoát khỏi nanh vuốt Chấn chột.
Mây đến bên bàn thờ thắp lên một tuần hương. Khói hương bay vấn vít quyện trên đầu người đàn bà. Chị cảm thấy một bàn tay đang vuốt ve mái tóc của mình.
- Hôm nay em thoát được hắn. Nhưng còn ngày mai, ngày kia. Làm sao bây giờ anh ơi?
Không có tiếng trả lời. Anh đi rồi sao. Chị nhao ra ngoài. Vấp phải cái bậu cửa. Mây ngồi thụp xuống nức nở. ***
- Cha tổ bố cái loại đàn bà… nứng quá thì lấy nắm dao mà tọng vào nhá. Đâu có cái thói quần phíp mấy lị áo phin trắng quyến rũ
đàn ông. Quyến rũ để làm cán bộ phụ nữ đấy. Tưởng bà không biết à. Có c… nhá. Đàn ông nhà này đứng đắn, tư tưởng lập trường vững vàng nhá. Không vậy mà làm được lãnh đạo à. Bà nói cho mà biết nhá… động vào chồng bà thì bà xé nát đời hoa xé tan ba kiếp bướm nhá... Nhá!
Mây đang làm cỏ ngoài vườn nghe vợ Chấn sa sả thì chạy vội về nhà. Nước mắt chị giàn giụa. Khốn nạn! Hôm ấy cu Hòa vác dao rượt đuổi. Lão Chấn chạy mất mật. Bí quá y phải nhảy xuống ao lóp ngóp lội về nhà. Vậy nên vợ lão biết chuyện. Nó phủ đầu để mình sợ khỏi tố cáo. Mà mình đâu có quyến rũ ai. Lão phó chủ tịch một mắt khốn nạn. Không làm gì được người ta thì lên giọng ra điều đạo đức đứng đắn. Để giữ chức vụ phó chủ tịch.
Nhưng thanh minh với ai bây giờ. Mình ơi! Sao mình lại chết. Để em khốn khổ thế này. Mây gục đầu ngồi khóc.
Thằng Hòa đi đâu về đến sân chợt nghe vợ Chấn vẫn sa sả. Vào nhà thấy mẹ ngồi khóc. Hòa điên lên. Nó chạy ra sân dậm chân rồi lại chạy vào. Tức mà không làm gì được. Hoà chạy vào bếp lấy ra cái thuổng. Miệng nó lẩm bẩm: “Cho mày chết. Cho mày chết”.
Bên kia vẫn ỉ eo: “Cha tổ bố cái loại đàn bà… nứng quá thì lấy nắm dao mà tọng. Đâu có cái thói quần phíp áo phin…”. Mây vùng dậy. Chị giật cái áo cánh phin trắng đang mặc ném xuống đất. Vội vàng lục ba lô của chồng lấy ra cái áo bộ đội khoác vào người. Mây bước ra sân ngẩng cao đầu đối diện với mụ đàn bà đang xoe xóe vóng sang từ bên kia hàng rào. Ánh mắt Mây long lên. Vợ Chấn tự dưng nín bặt. Lủi vội.
Mây mặc quần áo bộ đội từ ngày ấy mỗi khi ra khỏi nhà. Nhưng trong những câu chuyện của vợ Chấn với mọi người thì Mây trở thành một con đàn bà lăng loàn gớm ghê, giả vờ mặc quần áo bộ đội ra điều chung thủy nhưng sẵn sàng hút hồn bất cứ người đàn ông nào.
Không ai dám đến nhà Mây nữa. Nhất là cánh đàn ông. Họ sợ mang tiếng. Còn đám phụ nữ thì cảnh giác.
Nhà lạnh. Chỉ có hai mẹ con thui thủi.
***
Trống ngực đập phình phịch, mặt tái nhợt lo lắng, cu Hòa bước thập thõm lên văn phòng gặp hiệu trưởng. Nó đã nghe tiếng đồn về thầy hiệu trưởng Hùng vốn là bộ đội về nên nghiêm khắc có tiếng. Phen này chắc ông ấy đuổi học.
Trái lại thầy hiệu trưởng nhẹ nhàng bảo nó ngồi xuống ghế đối diện. Cu cậu khép nép ngồi xuống mắt vẫn lấm lét nhìn mặt thầy giáo để xem thái độ. Nhìn điệu bộ cu Hòa vậy thì thầy Hùng mỉm cười:
- Sao sợ lắm à anh bạn? Vậy chắc là có tội rồi. Tội gì vậy? Cậu học trò đứng im.
- À… người ta không biết mình có lỗi gì. Tôi gợi ý nhé: Không chịu học bài làm bài. Đúng không?
Thằng Hòa cúi mặt. Một lúc sau nó ngẩng lên mắt rơm rớm: - Thưa thầy nhà em không có điện.
Thầy giáo Hùng ớ người. Cả làng đều có điện sao nhà anh bạn không có? Vậy sao không thắp đèn dầu mà học?
- Nhưng cơ mà đèn dầu nóng lắm, muỗi cắn khiếp lắm! - Hòa nói. Chả nhẽ cu cậu nói dối? Thôi được. Sẽ kiểm tra sau. Thầy Hùng nghĩ vậy và nói tiếp:
- Còn gì nữa không? Tôi có nghe ông Chấn phó chủ tịch xã phản ánh anh bạn đào hố ngay trước ngõ nhà người ta khiến đêm về ông ấy ngã xe đạp suýt gẫy chân, vành xe cong số tám. Có đúng vậy không?
Hòa cắm mặt một lúc… rồi nó ngẩng đầu lên mặt đanh lại. - Nhưng em ghét lão ấy!
- Sao ghét người ta? Mình là trẻ con sao có thái độ ấy? Mà làm
như vậy là rất ác. Nhỡ người ta chết thì sao?
Hòa trả lời ngay bằng cái giọng rin rít. Hình như nó nói qua hàm răng đang nghiến chặt:
- Thầy không biết đâu? Lão í khốn nạn. Cho lão chết. Để nhà lão khổ bằng nhà em.
Thầy hiệu trưởng giật mình. “Để nhà lão khổ bằng nhà em”. Ôi trời. Con ơi. Sao lại đến nỗi này?
Thằng bé kể bập bõm... Thầy Hùng chắp nối sự việc và đã hiểu. Người anh run lên. Anh rưng rưng nhìn thằng bé đanh mặt. Tự nhiên muốn ôm nó vào lòng.
Sáng chủ nhật thầy Hùng tìm đến nhà Hòa.
Nhà của Hòa nằm đầu xóm nhỏ chỉ có ba hộ chơ vơ giữa cánh đồng. Thầy Hùng phải dắt xe đạp vì đoạn đường vào dài gần cây số là bờ kênh tiêu, một bên là ruộng lúa. Cỏ vẹt thành lối đi mấp mô chỉ đủ bàn chân. Chiếc xe đạp nhảy tâng tâng, bánh xe chồm lên như muốn nhảy xuống ruộng. Dắt bộ mà cũng còn tê cả cánh tay. Thầy Hùng vừa đi vừa nghĩ biết thế này thì gửi xe ở ngoài đầu xóm bên cho đỡ vướng víu. Chả trách thằng cu Hòa ngày mưa thường hay đi học muộn.
Có lẽ nhà này ít có người vãng lai nên việc thầy Hùng đến nhà là một điều bất thường. Mây nhìn thầy Hùng với ánh mắt vừa băn khoăn vừa sửng sốt chờ đợi. Người thầy giáo thấy có ngọn lửa trong mắt của vị phụ huynh. Ngọn lửa ấy hình như mỗi lúc lại ấm áp hơn trên khuôn mặt đỏ bừng ngượng ngập khiến mọi cử chỉ của Mây luống cuống. Thằng Hòa thì lo lắng. Nếu thầy giáo kể tội thì chắc chắn mẹ nó sẽ nổi cơn lôi đình. Cu cậu chỉ còn thiếu nước chui xuống đất chứ chả biết chạy đường nào. Hòa thộn mặt dựa góc nhà trong khi mẹ nó xăng xái rót nước mời thầy giáo.
Thầy Hùng nhìn Mây. Hôm nay chị búi tóc gọn gàng làm nổi bật gương mặt tròn thanh tú. Người phụ nữ được cho là “lăng loàn”
“gớm ghê” không đóng quần áo bộ đội. Chiếc áo đông xuân trắng cộc tay với cái quần phíp đen làm tôn lên nước da trắng và thân hình gọn gàng vừa độ óng ả của gái một con. Khi Mây cúi xuống rót nước, thấp thoáng khuôn ngực trắng mịn căng đầy…
Tự nhiên thầy Hùng thở dài.
Mình cũng từng có một gia đình. Vợ mình ngày xưa cũng đẹp như cô ấy. Có lẽ tại mình! Giữa lúc người ta bon chen thì mình dửng dưng, suốt ngày trường, lớp, học sinh. Làm lính phải tròn nhiệm vụ, làm thầy phải ra thầy, anh nghĩ vậy và tận lực vì chức phận thiêng liêng đó. Nhưng trong mắt người vợ thì thầy Hùng vô dụng toàn tập. Đồ vô dụng ăn bám hèn nhược! Đàn ông gì mà mua cái xe đạp cũ còn phải nợ tiền. Và nàng treo trước mặt chồng những tấm gương ông lương thực, ông thương nghiệp, ông cán bộ huyện… chăm sóc vợ như thế nào, tặng quà gì ngày lễ tết. Đến mức thầy Hùng phát cáu: Lương hơn năm chục bạc, ăn chả đủ lấy đâu ra quà cáp? Thế mới nói là đồ vô dụng! Vậy thì hãy đi với những thần tượng của cô. Đi chứ sợ à!
Thế là ly hôn. Sự chia tay diễn ra nhẹ nhàng vì cả hai chẳng có tài sản gì mà cò kè hơn thiệt và sự xúc phạm đủ để thầy Hùng không luyến tiếc gì. Người vợ cũ lập tức lấy một chàng thương nghiệp giàu có nhưng góa vợ. Thì ra họ đã dập dìu từ trước.
Thầy Hùng được nhận một cái án không tuyên. Anh phải chuyển trường. Vì dư luận chả hay ho gì cho tư cách một thầy giáo bỏ vợ. Thì ra đàn bà cũng dăm bảy loại. Người vợ cũ của thầy Hùng… chồng sờ sờ đấy mà chưa thỏa mãn. Còn người đàn bà này… khổ sở nuôi con thờ chồng mà chẳng được yên.
Bây giờ anh đang nhìn quanh ba gian nhà trống với hai chiếc giường hai gian bên và bộ bàn ghế kê gian giữa dưới bàn thờ. Ở trên đó là tấm ảnh một người đàn ông còn trẻ mặc quân phục thấp thoáng sau làn khói nhang. Hùng đoán đấy là bố Hòa.
Thầy Hùng đứng dậy xin phép thắp nhang cho liệt sĩ. Hai mẹ con Mây đứng sau kính cẩn xúc động trước cử chỉ của người thầy giáo. - Tôi xuống xem điện đóm thế nào mà em Hòa bảo là nhà mất điện nên không học bài? - Thầy Hùng nói lý do của buổi thăm nhà học sinh đột xuất.
Mây buồn rầu:
- Mất điện hơn tháng rồi thầy ạ. Em đàn bà chả biết tại đâu. Tìm người chữa thì không có. Chả có ai dám đến nhà…
Không khó khăn gì thầy Hùng nhận ra ngay dây bị chập cháy. Đúng là nhà mẹ góa con côi. Dám dùng dây điện thoại mắc cho điện thắp sáng…
Thầy Hùng lẳng lặng dắt xe ra ngõ. Hai mẹ con Mây ngẩn ngơ nhìn theo mà không hiểu vì sao. Gần tiếng sau anh quay lại với cuộn dây mới và dụng cụ sửa chữa. Gần hết một phần tư tháng lương. Thầy Hùng gửi xe ở xóm ngoài rồi đi bộ vào. Đường vào khấp khểnh chả dại gì mà dắt xe cho mệt.
Hì hục gần hai giờ đồng hồ, thầy Hùng thở phào bảo với cu Hòa đang đứng đực nhìn thầy giáo ngưỡng mộ như thần tượng: - Xong rồi. Thầy về nhé! Mẹ em đang làm bữa à. Chào mẹ hộ thầy.
Thằng bé ngẩn người, mồm lí nhí: “Vâng ạ!”.
Thầy Hùng rảo bước trên đường bờ đỗi. Khi ra gần tới đầu làng thì anh chợt nghe tiếng gọi gấp gáp: “Thầy… ơi! Thầy!”. Thầy Hùng ngoảnh lại. Mây đang hớt hải gò mình đạp xe đuổi theo. Cái xe nhảy tâng tâng trên lối mòn. Người đàn bà giơ tay vẫy vẫy như muốn nói điều gì quan trọng. Thầy Hùng dừng lại và kịp thấy cái xe nhảy chồm lên. Cả người và xe đổ tùm xuống kênh.
Thầy Hùng vội vàng chạy lại. Cả người và xe đã dưới nước. Mây chới với giơ tay. Không kịp nghĩ gì thầy Hùng nhảy vội xuống kênh. Ông giáo trẻ vội vàng túm lấy bàn tay vị phụ huynh kéo thốc vào
bờ. Lực kéo khá mạnh khiến cả người Mây đổ ập vào thầy Hùng. Cảm nhận sự mềm mại và mát rượi của cơ thể đàn bà khiến thầy Hùng run lên. Nó đánh thức bản năng đàn ông đã bị ghìm lại sau thời gian dài… Mây ngước nhìn thẳng vào mắt anh. Thầy Hùng nhìn trên khuôn mặt người đàn bà gò má ửng hồng và đôi mắt chất chứa thương yêu… Anh vội quay mặt đi.
Đưa được Mây lên bờ, thầy Hùng lại nhảy xuống kênh đưa cái xe đạp lên. Khi dựng cái xe đứng được trên mặt đường anh quay lại nhìn. Mây đang kéo quần lên lúi húi bắt đỉa bám trên bắp vế. Cặp đùi đầy đặn và trắng ngần khiến thầy Hùng không thể rời mắt. Khi Mây ngẩng lên thì quần áo mỏng dính sát vào người đẫm nước phô hết nét cong thân hình phụ nữ căng đầy mướt mát. Mây không tránh ánh mắt của người đàn ông. Chị cất tiếng: “Anh ở lại ăn cơm với mẹ con em…”.
Lòng thầy Hùng chùng xuống. Mây không gọi thầy giáo mà xưng hô anh em. Cái tiếng anh em thân thương tưởng đã vắng trong tiềm thức.
- Tôi không ở lại được! Mang tiếng.
Mây cúi mặt thất vọng. Vài giây sau chị ngẩng đầu. Hai mắt rơm rớm tủi hổ. Mây nhìn thẳng vào thầy Hùng xẵng giọng: - Thôi. Thầy về đi!
Thầy Hùng quay mặt rảo bước.
Trên bờ ruộng, người đàn bà ướt sũng đưa tay gạt nước mắt nhìn theo.
***
Từ khi thằng Hòa ra trường học lên, chả mấy ngày thầy trò không gặp nhau: “Thầy ạ, lên cấp ba các thầy cô không giục giã chăm sóc việc học hành như các thầy cấp hai”. “Ừ… học cấp ba là người lớn rồi. Người lớn thì phải tự giác phấn đấu”. “Con sẽ thi vào Đại học Nông nghiệp thầy ạ. Để sau này gần nhà chăm sóc mẹ”. “Ừ… nghĩ
thế cũng phải”. Ngày nhận giấy báo trúng tuyển đại học, người đầu tiên để Hòa khoe là thầy Hùng. Nó nói trong nước mắt: “Thầy ơi con đỗ rồi. Nhờ thầy con đỗ rồi”.
Thầy Hùng rưng rưng. Anh nhớ lại những ngày thằng Hòa học cấp ba. Tối nào cũng đến với thầy để được kèm cặp thêm về môn toán. Những hôm trời mưa, hai thầy trò ôm nhau trên chiếc giường cá nhân của thầy trong gian phòng nhỏ ở khu tập thể giáo viên. Thằng bé gác chân lên bụng thầy ngủ ngon lành. Người thầy giáo hít hà mái tóc khét nắng của học trò. Những lúc ấy thấy gắn bó như ruột thịt. Giá suôn sẻ thì mình cũng có con gần bằng tuổi nó. Mà thằng bé xưng con với thầy Hùng từ lúc nào anh cũng không nhớ. Có lẽ từ khi nó vào học cấp ba. Thầy Hùng chấp nhận như một lẽ tự nhiên khi cả hai đều cùng cảm nhận được sự bù đắp cho những thiếu vắng.
Thằng Hòa càng gần gũi bao nhiêu thì hình bóng Mây càng đậm nét bấy nhiêu trong thầy Hùng. Nhưng anh sợ. Ngay hôm sau khi đưa Mây từ dưới kênh lên đã có tiếng đồn ầm lên cả xã thầy giáo hiệu trưởng tằng tịu với cô Mây. Chấn hùng hổ đòi kiến nghị lên huyện chuyển thầy Hùng đi nơi khác. Nhưng nhiều người phản bác quyết liệt. Tay Hùng không có vợ. Cô Mây chồng hy sinh. Họ có đến với nhau cũng là hợp lý. Là tự do tìm hiểu. Pháp luật không cấm thì ai có quyền cấm! Chấn đành chịu. Rồi mọi lời đồn thổi cũng qua mau. Nhưng để giữ uy tín của mình cho công việc, thầy Hùng không bao giờ đến nhà mẹ con Mây nữa.
Thỉnh thoảng thầy Hùng bất chợt gặp Mây trong bộ quần áo lính, vung vẩy tay, đi mốt hai mốt ngoài đường. Mây chào thầy giáo với vẻ mặt lạnh lùng nghiêm nghị. Thầy Hùng cũng xã giao chào lại. Và anh tự hỏi đây có phải là người mà mình đã từng khát khao.
***
Lão bảo vệ ủy ban đang dọn dẹp cái bàn ngổn ngang ấm chén
giật nảy mình khi thầy Hùng xuất hiện. “Chủ tịch Chấn còn ở đây không?”. Khi nhận ra người vừa hỏi là ông hiệu trưởng thì lão đưa tay lên miệng suỵt một cái nháy nháy mắt và hất hàm sang phòng bên cạnh đang kín cửa. Thầy Hùng dợm chân bước sang thì lão bảo vệ kéo lại ấn anh ngồi xuống ghế.
Thầy Hùng đành phải ngồi đợi.
Lát sau có tiếng kẹt cửa. Thầy Hùng nhổm người ngó sang. Cô hội trưởng hội phụ nữ xã rón rén tay khép cửa phòng ngoái người lại tay kia vuốt vuốt mông. À ra thế. Thầy Hùng tiến đến. Cô này ngẩng lên. Mặt cô ta bỗng tái nhợt, chân như khuỵu xuống nhưng cố trấn tĩnh để miệng ú ớ: “Chào... chào thầy”. Thầy Hùng gật đầu: “Vâng chào chị”. Cô ta lùi lùi và vội vàng chạy biến ra khỏi cổng ủy ban.
Thầy Hùng cười nhạt. Thế đấy.
Phải đến một lúc lâu chủ tịch Chấn mới ra mở cửa. Có lẽ lão phải nghĩ cách đối phó trong trường hợp này. Cố giữ vẻ mặt bình thản, lão giơ tay... và rồi thõng tay xuống ngượng ngùng vì thầy Hùng không bắt tay đáp lễ. “Có việc gì vậy thầy giáo?”.
- Cho tôi hỏi vừa rồi có phải ông đã phê lý lịch đề nghị lên trường đại học là cháu Hòa con liệt sĩ không đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào cơ quan nhà nước?
Chủ tịch kéo ghế rồi từ tốn:
- Ấy đừng nóng. Ngồi xuống đã.
Thầy Hùng đành ngồi xuống cái ghế đối diện. Chấn vẫn đứng, song im lặng như đợi lão bảo vệ ra về nhưng lão này vẫn cố nán lại giả vờ làm việc khác nhưng vẫn để ý nghe cuộc nói chuyện giữa ông chủ tịch xã và thầy hiệu trưởng.
Không thể tránh né, Chấn xoáy con mắt lành nhìn vào thầy Hùng trịnh trọng:
- Thầy giáo hiệu trưởng Hùng vừa đặt câu hỏi chất vấn. Tôi xin
trả lời như thế này: Cách đây già nửa tháng chúng tôi có tiếp nhận một công văn của tỉnh gửi về xác minh lý lịch của Lê Văn Hòa. Mục đích là làm các thủ tục để tuyển dụng vào làm ở Sở Nông nghiệp. Tập thể đã họp lắng nghe ý kiến của nhiều người để đi đến kết luận Lê Văn Hòa không đủ điều kiện đi nước ngoài dù là con liệt sĩ. Lý do vì cô Mây mẹ Hòa đang thực hành mê tín dị đoan. Tự mình lập ra tà đạo ngày đêm chuông mõ đọc kinh bằng thơ “Ta đi tới” với lại “Bầm ơi”. Ngoài ra chị ta còn tỏ thái độ công thần mặc quần áo bộ đội “mốt hai mốt” ra điều chung thủy vợ liệt sĩ. Trái mắt trái tai lắm. Để mọi người xa lánh. Tất cả những điều này trái với chính sách của nhà nước. Làm ảnh hưởng xấu tới thuần phong mỹ tục.
Thầy giáo Hùng đứng dậy. Anh nhìn thẳng vào Chấn: - Rất cảm ơn ông chủ tịch đã thẳng thắn. Vậy tôi cũng xin nói thẳng. Các ông ác lắm. Các ông biết chị Mây gặp chồng lần cuối cùng năm bao nhiêu tuổi không? Rồi anh ấy ra chiến trường chiến đấu hy sinh khi cháu Hòa được mấy tháng tuổi. Đến nay cháu Hòa đã hai hai tuổi, hơn hai chục năm ấy chị ấy phải một mình nuôi con. Hai mấy năm trong độ tuổi xuân nhất của đời người… - Nhưng chị ta có thể đi bước nữa. Có ai cấm đâu...
Chấn ngắt lời.
- Vâng. Chị ấy có thể lấy chồng. Nhưng ai dám đến với chị ấy khi có người cố tình nói chị ta lăng loàn, quyến rũ đàn ông. Ngay như tôi đến thăm gia đình học sinh khó khăn cũng thành điều tiếng xấu. Vậy ai là người đã tung ra tin đồn ác ý này? Ông biết rõ chứ. - Thầy Hùng nhìn thẳng vào Chấn. Lão này cụp mắt nhìn xuống - Tôi hỏi ông, chị ấy đã quyến rũ ai? Nào ông trả lời đi!
Lão bảo vệ thò cổ vào hóng. Nghe chừng câu chuyện có vẻ căng đây. Thầy Hùng nói tiếp:
- Ông bảo người ta công thần. Lính đánh nhau cũng có nhiều người bị thương mất mát thiệt thòi. Nhưng những cái mất mát, cái
thiệt thòi ấy đã qua rồi. Và bây giờ họ đã có gia đình đầm ấm. Họ đã được an ủi để sống hạnh phúc. Nhưng chị ấy còn có thể hy vọng ở điều gì. Ngay ông chủ tịch đây không đi bộ đội ngày nào mà quần bộ đội mũ cối áo bay thì đã sao? Vậy chị ấy mặc quần áo bộ đội, quần áo của chồng chị ấy… thì sao lại bảo công thần với trái thuần phong mỹ tục? Tại sao chị Mây lại mặc quần áo bộ đội. Đã ai tìm hiểu chưa? Tôi đã hỏi và đã biết. Chắc ông cũng biết?
Chấn tái mặt. Thì ra tay này biết hết chuyện. Nghĩ vậy Chấn cúi mặt không dám nhìn vào người thầy giáo.
- Tôi không muốn nói cụ thể mà chỉ muốn nói rằng tấm áo lính ấy không chỉ là kỷ vật lưu giữ hơi hướm của người chồng liệt sĩ mà còn là tấm áo giáp che chở cho chị tránh mọi sự cám dỗ. Tránh cả điều tiếng thị phi để yên tâm nuôi con ăn học. Nếu ai nghe được câu cháu Hòa nói “để cho nhà họ khổ như nhà em” mới biết là mẹ con chị ấy khổ như thế nào. So với những kẻ chồng con sờ sờ mà vẫn còn này nọ bên ngoài như vừa nãy thì chị ấy là anh hùng.
Nói đến đây người thầy giáo như nghẹn lại. Anh ngừng một tý nhìn ông chủ tịch đang gục đầu như tội phạm, hít một hơi dài và nói tiếp:
- Còn nữa. Tôi nói điều này chắc mọi người sẽ bất ngờ. Mọi người bảo chị ta là tà đạo. Thắp hương thờ chồng là tà đạo ư? Đúng là chị ấy gõ mõ ê a đọc thơ Tố Hữu “Ta đi tới” với “Bầm ơi” thật. Đó là những bài thơ chị ấy đã học hồi lớp sáu lớp bảy. Đấy mà là kinh ư? Tôi nghĩ chắc là thuộc thì đọc cho đỡ nhớ, đỡ buồn ngủ… Ngủ thì cứ ngủ việc gì phải làm vậy? Ban ngày thì quần áo bộ đội, ban đêm thì gõ mõ đọc thơ. Để làm gì? Nếu ta quan sát cái xóm có mấy nhà ấy vào ban đêm thì sẽ hiểu. Tiếng mõ tiếng đọc ấy chỉ ngừng khi tất cả các nhà đều tắt đèn chồng nào vợ nấy... Tôi nói vậy chắc ông chủ tịch hiểu hơn ai hết. Để chả ai có cớ gì nghi kỵ ghen tuông. Đấy. Khổ như vậy đấy. Cho nên tôi nói các ông ác là không nói quá đâu. Tôi không
xin lỗi vì câu nói ấy đâu. Bởi vì một người phụ nữ phải khốn khổ che chắn như vậy để sống để nuôi con mong cho con thành đạt. Kẻ hèn không ăn được thì đạp đổ. Kẻ hèn thì thù dai. Thù đứa bé từ trẻ con đến khi nó là thanh niên. Vì cái chuyện cháu Hòa đào hố ở ngõ nên ông ngã xe. Thử hỏi nếu người lớn đàng hoàng thì liệu đứa trẻ con nó có làm vậy không. Sao nó lại đào hố ở ngõ đấy? Ông lợi dụng những kẻ hồ đồ, những kẻ chỉ nghe hiện tượng rồi quy chụp, không chịu tìm hiểu. Và các ông đã ném đi cơ hội của cháu Hòa. Đấy. Tôi đã nói hết.
Thầy Hùng ngồi xuống. Và anh chợt thấy miệng mình khô rát. Tay run run vì xúc động, anh rót chén nước thong thả nhấp từng ngụm nhỏ. Im lặng đến nghẹt thở. Nghe rõ tiếng vo ve của đám muỗi từ góc nhà đang bay ra. Ngoài sân đã nhập nhoạng còn trong phòng thì tối sẫm.
Đến vài phút sau thì Chấn thẫn thờ đứng lên bật đèn. Ánh điện không đủ sáng làm khuôn mặt Chấn loang lổ bóng tối. Thầy Hùng thấy ông bảo vệ nhìn vào với cặp mắt ướt ướt. - Tôi hồ đồ. Tôi khốn nạn. Thầy chửi đúng - Giọng Chấn trầm xuống như nói với chính mình. Rồi đột nhiên ông chủ tịch cao giọng - Giờ tôi sẽ làm lại xác minh lý lịch cho cháu Hòa.
Thầy Hùng mệt mỏi đứng dậy:
- Cảm ơn các vị. Muộn rồi! Hòa nó nói với tôi họ nhận người khác rồi. Không thay đổi được nữa. Chào ông!
Và anh bước nhanh ra khỏi phòng. Để giấu những giọt nước đang ập òa trong khóe mắt.
***
Vĩ thanh: Hòa tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp rồi về nhà làm ruộng. Cứ vài ngày cậu lại đến khu tập thể tâm sự với thầy Hùng. Sao đã tốt nghiệp đại học không cố xin việc nhà nước cho đỡ vất vả? Hòa hì hì: “Chẳng đâu người ta nhận thầy ạ”. “Sao vậy?”. Lại hì hì: “Thầy cứ như
người trên giời. Không có tiền thì ai người ta nhận”. “Dễ đến vài vài trăm nhỉ?”. “Úi… Thầy là người giời thật rồi. Gấp cả chục lần cũng chẳng được. Thôi con về nhà cho lành”. “Sao không đưa tiêu chuẩn con liệt sĩ ra mà xin?”. “Quên đi thầy ơi. Ấy, con xin lỗi. Bây giờ đưa tiêu chuẩn ấy ra họ sẽ nghĩ mình là thằng hâm. Họ nhận hồ sơ rồi để mục trong tủ”. Thầy chép miệng: “Phí! Học đại học mấy năm rồi xếp xó”. “Không! Sao lại xếp xó. Học để làm chứ thầy. Con áp dụng điều đã học để thâm canh cây cà chua trái vụ thầy ạ. Gần mẫu ruộng với toàn bộ rìa đường vào nhà ấy… trồng thoải mái. Mấy năm nay trúng lắm. Tại thầy chẳng chịu đến nhà con nên không biết. Chả giấu thầy con kiếm được mấy trăm triệu”. “Giàu nhỉ. Mai cho thầy vay ít mua tí đất làm cái nhà. Ba năm nữa là hưu. Chả nhẽ cứ ở tập thể!”. Trò nghe vậy thì xịu mặt bần thần. Thầy vội chữa: “Nói đùa vậy thôi. Để tiền ấy mà xin việc”. “Không!”. Trò trả lời dứt khoát: “Con sẽ tập trung vốn làm trang trại. Hay là… thầy về ở với mẹ con con”.
“Ôi cái thằng này. Già rồi! Chỉ vớ vẩn…”.
“TỨ ĐẠI ĐỒNG
ĐƯỜNG”
Đ
ại hàn rét độc. Bảy giờ sáng mà sương vẫn còn giăng. Khoảng sân trước nhà ngập sương mù. Sương đặc quánh màu sữa đục, người đứng cách dăm bước chỉ nhìn thấy bóng mờ mờ. Sương tràn vào nhà qua các khuôn cửa đang mở toang. Sương hòa quyện với ánh sáng đỏ của ngọn đèn trong nhà tạo thành một khoảng không gian vàng ệch nhập nhoạng. Dưới bếp lửa rạ bập bùng. Nơi nhà ngang tiếng thớt băm lếch kếch. Tiếng thớt băm hình như làm rung rinh ánh lửa đèn trong nhà, làm sương mù ngoài sân vón lại
thành từng hạt nhỏ li ti rắc nhẹ trên mặt sân ẩm ướt. Tiếng lếch kếch làm thằng bé trên giường tỉnh giấc. Nó tung chăn, vươn vai ngồi dậy há mồm uể oải ngáp trong khi mắt còn đang nhắm tịt.
Nghe tiếng động bên giường, cụ già nhỏ thó trong chiếc áo bông to sù đang lúi húi cuốn bức rèm che bàn thờ liền ngoảnh lại mắt hấp háy:
- Úi giời… Thằng cu Bờm giống của cụ đã dậy rồi đấy à. Gớm chắt tôi dậy muộn quá. Ừ nhỉ, hôm nay thứ bảy được nghỉ học. Dậy muộn tý cũng được.
Thằng bé xịu mặt. Cả nhà ai cũng gọi là thằng Bờm. Tức thế! Tên nó là Thắng cơ mà. Thắng con bố Chiến, đã lên năm đã học lớp mẫu giáo lớn rồi mà cứ gọi là thằng Bờm. Nó cãi: “Tên con là Thắng”.
Cụ nó dàn hòa: “Ừ phải rồi chắt cụ là Bờm Thắng. Cụ quên…”. Rồi cụ vịn bàn, men theo thành giường đến bên nó: “Nào nào… thằng giống ra đây nào. Ấy cẩn thận. Khéo đá vào cái bô. Ui giời. Đổ ra đất thì tội chết. Mà chúng mày đâu? Để thế này tội chết. Ai đời
khổ thế này. Chỗ thờ phượng với lại chỗ đái lẫn lộn với nhau. Giời sao chẳng cho tôi chết đi cho rồi…”.
Thắng Bờm ghét nhất cái câu: “Sao giời chẳng cho tôi chết” của cụ. Chết là cái gì mà người ta cứ thích nói đến, rồi còn rủa nhau chết. Người lớn thật chả ra làm sao. Nhưng nó chợt nhớ tới cái bô. Phải gọi mẹ bê đi đổ thôi. Nó chạy sang buồng đằng đông thấy chăn màn của bố mẹ đã gấp gọn ghẽ. Bố mẹ đi đâu rồi không biết? Nó chạy sang buồng đằng tây, cũng trống trơn. Vậy ông bà nội đi đâu nhỉ. Rồi thấy ông nội hiện ra sau màn sương, lập cập vào nhà với nét mặt nhăn nhúm, mí mắt đọng những hạt nước li ti trông như vừa khóc. Ông nội cúi người đưa tay run run định bê cái bô nước tiểu dưới gầm giường. Cụ nội xua tay:
- Tay ông nó lại đau à, giở giời vết thương nó hành à? Không được, rồi thì là đánh đổ… phải tội chết. Thế bà nó với bố mẹ nó đâu? - Nhà con với lại vợ chồng nó đang dưới bếp làm cỗ ạ. - Ờ nhỉ. Đọa chết ra hay sao í. Cứ quên quên nhớ nhớ. Hôm nay có chú em về cúng bố, rồi thêm khách khứa… Thằng Bờm xuống trông chó cho bố mày lên đem cái bô đi đổ. Nhanh!
Thắng Bờm chấp hành ngay. Nhà này to nhất là cụ nội, rồi đến ông bà nội, rồi đến bố mẹ, rồi đến nó to cuối cùng. Phải nghe thôi! Chạy qua sân đầy sương lạnh xuống tới nhà ngang, nó gọi: “Bố! Cụ bảo lên đổ bô”. Bố nó vội bỏ dao thớt dặn với: “Mày đứng đấy trông chó”, rồi chạy ngược lên nhà trên.
Bờm ta nhìn hai cái chậu, một đỏ lòm những máu còn chậu kia thì toàn thịt băm vụn. Bố làm gì thế nhỉ? Lúc sau bố nó xuống, vừa đi vừa chùi tay vào quần. Nó hỏi: “Bố làm gì đấy?”. “Đánh tiết canh!” - Bố trả lời gọn lỏn rồi lại ngồi xuống băm thịt kênh kếch. “Tiết canh là gì hở bố?”. Bố nó đưa mũi dao chỉ chậu máu rồi chỉ sang chậu thịt băm trả lời qua quýt: “Là trộn hai thứ này vào cho nó đông đặc”. “Để làm gì hở bố?”. Bố nó cáu: “Để ăn chứ còn làm gì. Toàn hỏi lớ!”.
Bờm lè lưỡi im thít không dám hỏi nữa nhưng bụng nghĩ: Khiếp bỏ xừ, ai lại ăn máu trộn với thịt. Không sợ đau bụng à. Ứ vào xem nữa. Chạy lại chỗ bà nội đang đun bếp để cho ấm. Vừa dợm chân định chạy thì nghe tiếng xe đạp lọc cọc, mẹ nó xuất hiện sau màn sương. Trên mí mắt cũng bám đầy những giọt nước. Bờm hét toáng lên: “Mẹ về, mẹ về”. Mẹ nó dựng xe cúi xuống thơm vào má con rồi nói với bố: “Khiếp… sương nhiều quá, nhìn sát mặt mới nhận ra người, chợ họp muộn. Mãi mới mua đủ thứ cụ dặn. À mà cụ dặn đánh nhiều tiết canh, mỗi người một bát. Vị chi hăm sáu bát không kể sáu người nhà mình… Khách lần này đông lắm. Năm nay cụ khao”. Bố nó lụng bụng: “Chả biết có đủ tiết không”. Mẹ nó bảo: “Cứ đánh đủ cho cụ trẻ, còn người nhà mình thì thôi cũng được…”. Bố nó không ngừng tay băm vẫn tiếp tục lụng bụng: “Băm mỏi cả tay. Khách đếch gì mà lắm thế, toàn các quan nhớn thích xực tiết canh. Ăn nhiều vào rồi thổ tả”. Mẹ lườm: “Cái mồm… hay nhỉ! Cụ trẻ mà nghe thấy thì…”. Bố nó im bặt. Bờm ngơ ngác đứng nhìn bố mẹ đấu khẩu mà chả hiểu gì. Cụ trẻ là gì nhỉ? Đã có cụ nội già rõ là già lại còn có cụ trẻ nữa. Hay thật!
Ngoài sân sương đang ngàn dần. Mặt trời đã chọc được những tia nắng đầu tiên qua màn sương… không khí như đang lạnh hơn. Chợt mùi khói trầm ngan ngát. Chắc cụ nội đã thắp hương trên bàn thờ. Bờm chạy ra hít hít mùi khói hương. Mùi khói nhang quyện với ánh nắng đã mang chút hơi ấm làm Bờm phấn chấn hơn. Nó chạy lên nhà hỏi cụ nội:
- Cụ ơi, cụ trẻ là ai?
Cụ nội vuốt vuốt râu cười khà khà:
- Thằng giống cụ vậy mà giỏi, biết tìm hiểu về gia tộc huyết thống. Để cụ nói con nghe nhá: Cụ trẻ là em ruột của cụ đấy. Cụ trẻ bằng tuổi ông nội cháu. Ngày xưa bố mẹ cụ mất sớm, cụ phải đi làm thuê để nuôi hai chú cháu. Rồi cụ bắt ông nội cháu phải đi bộ đội
đánh nhau để cụ trẻ ăn học thành tài. Cụ trẻ bây giờ làm to lắm, tận trên Thủ đô Hà Nội. Hôm nay cụ trẻ về để làm giỗ bố các cụ đấy, lại có nhiều khách to nữa. Bờm phải ngoan, đừng để cụ trẻ giận nghe chửa.
Bờm vâng mà chả hiểu gì. Đến là lằng nhằng. Cụ nội già vậy mà cũng có em, còn mình thì lại chưa có em. Nhưng như vậy thích hơn. Chả như mấy đứa cùng lớp, đứa nào cũng có em bé tí tị hay khóc nhè, bọn nó cứ phải coi em nên chả được đi chơi. Cứ như Bờm lại sướng, chỉ thỉnh thoảng phải coi con chó để nó khỏi ăn vụng. Nhưng có em để làm gì nhỉ. Tự dưng trong đầu thằng bé lớp một nảy ra thắc mắc. Lại còn thích việc có em làm to… làm to để làm gì nhỉ?
Nắng đã lên. Khoảng sân trước nhà loang lổ vệt nắng. Cái lạnh bớt đi nhường chỗ cho sự hanh hao. Thằng bé thấy môi se se, nó liếm môi một cái và chợt nhớ ra từ sáng đến giờ chưa được ăn gì. Mà sao ông bà với bố mẹ làm cỗ lâu thế. Trên nhà tiếng cụ nội giục giã mọi người sắp mâm khẩn trương để cụ trẻ về là bưng mâm cúng ngay. Cụ trẻ là ai mà mọi người sợ thế không biết. Chắc là giống ông râu rậm đeo kính đen đi bắt chó khắp làng lại hay dọa trẻ con chứ gì. Nó chả sợ!
“ Bim… bim”, tiếng còi xe hách dịch ngoài ngõ. Thắng Bờm nhìn ra… Úi giời! Cu cậu quên cả đói hét toáng: “Ô tô! Những hai chiếc ô tô đến nhà ta” rồi chạy vội ra ngõ mặc cho phía nhà dưới là tiếng bố nó hét: “Bờm… Bờm đâu! Vào coi chó!”.
Từ trên xe bước xuống là một ông mặc com lê kính trắng, trông trẻ như bố Chiến của Bờm và ở xe kia là một bà cũng trẻ tóc xoăn như mì tôm mặc váy lòe xòe, trước bụng đeo túi đỏ như cái bị. Bờm nhìn khuôn mặt đỏ lựng chắc vì lạnh và đôi môi đỏ choét của bà ta chợt nhớ đến màu đỏ của chậu tiết lợn, nó nghĩ bụng bà này y như vừa ăn tiết canh. Đi sau người đàn bà là hai thanh niên choai choai tóc nửa trắng nửa đỏ dựng ngược như mào gà đực. Nhớ lời dạy của
cụ nội, thằng bé lễ phép khoanh tay: “Cháu chào hai bác ạ!”. Người đàn ông cúi xuống: “Mày con ai?”. “Cháu con bố Chiến ạ - Bờm nhanh nhẩu - Mời bác vào nhà cháu chơi ạ!”. Người đàn ông chửi: “Thằng ông con bà, thằng bố con mẹ mày không biết dạy… Dám gọi cụ là bác hử”. Bờm ngẩn người: Đã chẳng khen lại còn chửi. Làm gì gặp người còn trẻ mà phải chào là cụ. Ứ chào nữa. Nó phóng về nhà ngang đứng nhìn.
Cụ nội lập cập từ nhà trên xuống, bố mẹ nó chạy từ nhà ngang ra, rồi ông bà nội cũng từ vườn sau chạy về… Tất cả đều cung kính đón bốn người mới đến. Cụ nội chào: “Chú thím và các cháu về đấy à?”. Ông nội nó đau tay vậy mà vẫn phải khoanh tay: “Con chào chú thím ạ”. Rồi bố nó mọi ngày rất hay cãi ông bà nội hôm nay cũng cun cún cúi gập người: “Con chào hai cụ, cháu chào hai ông!”.
Đợi cả đám vào nhà trên thì Thắng Bờm mới hỏi mẹ: “Ai đấy?”. Mẹ nó vẫn cúi đầu xếp các đĩa bát thức ăn vào mâm: “Cụ trẻ đấy! Cụ trẻ ông với cụ trẻ bà cùng với hai ông con cụ trẻ đấy”. Thắng Bờm ngạc nhiên: ra đây là em cụ nội. Trẻ vậy mà được gọi bằng cụ. Hay thật.
Hai vợ chồng cụ trẻ bước vào nhà bày mấy hộp bánh lên bàn thờ rồi xuống nhà ngang. Cụ trẻ ông nhìn chậu tiết hất hàm hỏi: “Liệu có đảm bảo đông không?”. Bố Chiến nó vội đáp: “Dạ đông chặt cụ ạ”. “Đánh bao nhiêu bát?”. “Dạ con định mười hai tô”.
Cụ lắc đầu:
- Không được. Phải đánh bằng bát con cho lịch sự. Mỗi người một bát. Hai sáu bát. Tao đã điện về nói rồi.
Cụ bà săm soi mở rổ thịt sống làm cỗ còn lại: “Mấy chục cân?”. Bố nó vội trả lời: “Dạ thưa bà bốn chục cân móc ạ”. Bàn tay có những cái móng sơn đỏ lật đi lật lại mấy miếng thịt để kiểm tra: “Thằng Chiến kiếm cái thùng xốp, cho hết chỗ thịt này vào rồi đưa lên xe cho cụ nhá. Cụ đem về Hà Nội cho tủ cấp đông ăn dần. Ở Hà Nội
khó mới kiếm được thịt lợn ngon mà sạch như thế này. Nhớ nhá”. Lại có tiếng còi ô tô ngoài ngõ. Cụ ông nháy mắt với cụ bà. Cụ bà vội chùi tay vào bó rạ rồi chạy ngược lên nhà trên.
Bờm cũng chạy theo, nó dừng ở cửa nhìn vào.
Khách ba người, đi đầu lại cũng một ông mặc com lê bụng to với hai ông nữa bụng bé hơn một tý nhưng cao hơn. Cả ba ông thấy cụ bà liền cung kính cúi đầu: “Em chào chị ạ. Anh chị chắc về từ hôm qua. Gớm dạo này trông chị trẻ ra như con gái…”. Cụ bà mặt rạng rỡ cười mắt tít lại: “Cảm ơn chú… Cũng định về hôm qua nhưng anh bận việc mãi nửa đêm mới xong… Đầu năm dương lịch bận phân bổ ngân sách của ngành. Anh cứ kêu đau đầu. Mà tối qua anh đã điện cho chú rồi nhỉ”. “Dạ vâng! Hôm nay em đến gọi là có lễ mọn cúng các cụ. Chị cho phép vào thắp hương”.
Khách kính cẩn đặt hộp bánh với một phong bì dày cộp lên cái đĩa, kính cẩn đón nén hương từ tay cụ bà, kính cẩn vái. Cụ trẻ bà cũng vái khách một vái. Gớm... tay dẻo cứ như là múa.
Khách quay ra. Cụ bà nhón cái phong bì bỏ tọt vào cái túi đỏ trước bụng. Đến là nhanh - Bờm thoáng nghĩ - Mà sao phong bì cúng các cụ trên bản thờ mà lại bỏ vào bụng. Nó nhìn sang cụ nội đang run rẩy đặt chén nước trước mặt khách: “Rước các ông xơi nước”, xong rồi nghệt mặt đứng đằng sau, lóng ngóng như vừa bị cô giáo phạt. Cụ to nhất nhà mà cũng sợ bị phạt. Kinh thật.
Dăm phút sau lại có tiếng còi xe, lại có vài ông đầu chải mượt khoan thai bước vào nhà. Cụ nội nó lại lập cập ra đón. Khách vào nhà kính cẩn thắp hương, dâng phong bì lên bàn thờ. Cụ bà trẻ đứng nghiêm ngắn cứ mỗi lần người mới đến vái bàn thờ một cái thì cụ trẻ cũng hướng về khách vái lại một cái tay dẻo như múa.
Rồi lại bim bim… có dễ hàng chục cái lần bim bim như vây. Nhà đông đặc những người. Trên bàn thờ những phong bì dày cộm được xếp lên trịnh trọng, khi người vái vừa quay ra thì nó lại chui tọt vào
bụng của cụ trẻ bà.
Cỗ được bưng lên… ríu rít chúc tụng…
Cụ nội nó xuống nhà ngang ngồi dựa tường phì phào thở. Ông nội hỏi: “Sao bố không ngồi tiếp khách cùng chú thím?”. Cụ gắt: “Ngồi sao được mà ngồi, người ta toàn là người sang trọng, nói toàn đại sự quốc gia. Mình già rồi ăn không nên bát, nói chẳng ra nhời. Ngồi đấy làm khó cho người ta à”.
Thắng Bờm chạy xuống nhà ngang hốt hoảng: “Bố mẹ ơi! Cái người trẻ trẻ ăn cắp hết phong bì của nhà ta rồi”. Cụ nội bảo: “Hỗn nào. Người ta cúng cụ trẻ thì cụ trẻ lấy chứ sao lại bảo là ăn cắp”. “Nhưng sao lại để ở bàn thờ của nhà ta?”. Bố nó vội quát để bịt mồm thằng con: “Im mồm! Chỉ được cái hay hỏi lớ”.
Cũng may là trên nhà chắc chẳng ai nghe thấy tiếng của thằng bé. Mà làm sao nghe thấy được khi ở đấy ồn ào tiếng cốc chạm leng keng, tiếng cười nói râm ran: Chúc anh chị mạnh khoẻ. Cảm ơn các chú. Xin cho em được mừng anh chị. Khoá tới anh lên thứ trưởng là chúng em xin được tổ chức mừng anh, mừng cho ngành ta, mừng khu vực ta có người tài giỏi. Ấy các chú đừng nói vậy… tai vách mạch dừng. Mình sẽ cố gắng đóng góp cho quê hương dù ở bất cứ cương vị nào. Vâng hiếm có người có tâm như anh lắm ạ. Dạ có vài cái dự án chúng em đang định trình lên anh…Cứ từ từ, từ từ nhá. Thôi anh em mình cạn nào. Vâng, bắc cạn anh nhé.
Ông nội với bố nó đứng thập thò ở cửa nhà ngang, cố lọc trong râm ran ồn ào tiếng cười nói để tìm tiếng gọi của hai cụ trẻ truyền xuống nhà dưới. Nghe “chúng mày đâu” thì ông nội với bố vội chạy ngược lên nhà trên. Mấy giây sau thấy huỳnh huỵch chạy xuống nhà dưới. Rồi lại khẽ khàng rón rén bưng bê lên nhà trên lúc thì mấy múi chanh, lúc thì chai nước mắm, lúc thì đôi đũa… Cứ như con thoi.
Cụ, ông bà, bố mẹ… năm người nghiêng tai nghiêng mắt hóng lên nhà trên mà chả ai quan tâm đến Bờm Thắng. Thằng bé nghe
ruột gan cồn cào. Nó níu vạt áo mẹ: “Mẹ”. “Gì?”. “Bờm đói”. Mẹ nó gỡ tay đứa con ra khỏi vạt áo: “Đói cố chịu. Đợi tý nữa xong đã…”, rồi lại tiếp tục vịn cửa nhà ngang nghênh mặt nhìn lên nhà trên.
Bờm ngồi dựa vào bó rạ mặt buồn thiu. Sao lâu thế. Chả biết bao giờ mới cho xong cái tý nữa. Bỗng nó thấy ghét cái ông người được gọi là cụ trẻ với cả đám người đang ăn uống cười nói trên kia. Tự dưng kéo nhau đến nhà nó, bắt mọi người phải phục dịch, bắt nó phải xuống nhà ngang này ngồi, bắt nó phải nhịn đói. Giá mà họ đừng đến thì tốt quá.
- Thu dọn… chúng mày! Nước đâu!
Ông nội và bố vội phóng lên nhà trên, bà nội và mẹ nó lập cập soạn ấm chén pha trà rót nước. Những cái mâm đầy những đĩa thức ăn dang dở, những cái bát loang lổ đỏ nước tiết canh được bê xuống để khắp nền nhà ngang. “Đứng đấy trông chó”. Bố nó dặn rồi vớ một nắm giẻ lau lên nhà trên. Đói bỏ cha… chả được ăn lại phải trông chó. Ghét thế.
Khách lục tục ra về. Cụ trẻ ghé xuống nhà ngang. Cụ nội đang ngồi thiu thiu ngủ khi thấy cụ trẻ thì choàng dậy đứng lên cung kính: “Chú cần gì đấy ạ?”. Cụ trẻ bảo: “Tôi đi đây! Lên huyện, qua tỉnh gặp gỡ các hắn tý rồi về Hà Nội. Mệt quá. Cần gì thì anh trao đổi với vợ tôi.” Cụ nội ngần ngừ định nói điều gì đó nhưng rồi lại bảo: “Chú đi nhá”. Cụ trẻ quay người bước ra ngõ ngoắc tay hai ông trẻ đi theo. Cụ nội nhìn cái lưng cụ trẻ mà mắt ướt ướt miệng thì mêu mếu như sắp khóc. Già mà cũng hay khóc. Lạ thế.
Rồi cũng thu dọn xong. Cái chiếu được trải giữa nhà ngay dưới bàn thờ. Cả nhà sáu người quây quanh mâm cơm được dồn từ những đĩa thức ăn thừa. Bố nó lúi húi rót rượu ra ba cái chén nhỏ trong khi mẹ nó thì đang lau những cái bát con đặt trước mặt mỗi người.
Cụ nội trịnh trọng cầm chén rượu nâng ngang mặt:
- Thưa cả nhà. Hôm nay không phải ngày giỗ của bố tôi. Nhưng em tôi vẫn tổ chức giỗ để gặp mặt bạn bè cấp dưới. Nâng chén này nhờ ơn các cụ sống khôn thác thiêng đã phù hộ cho em tôi thành đạt mở mặt với làng với nước, gia đình ta tứ đại đồng đường…
Cụ trẻ bà đang lúi húi xếp các gói bánh kẹo, những chai rượu ngoại trên bàn thờ cho vào cái bao ni lông to nghe vậy thì quay ra cười cười:
- Tứ đại đồng đường… Ba đời đóng khố, cởi truồng đời thứ tư. Khi nghe câu ấy mọi người cùng nhìn về phía thằng bé và cùng ồ lên cười vì quả thật cu cậu đang cởi truồng… đôi chân tím lại vì rét. Thì ra từ sáng đến giờ mải cỗ bàn phục vụ mà chẳng ai quan tâm đến nó. Rồi tiếng cười khựng lại như thể bị bịt mồm vì mỗi người thấy xót thằng bé và ngượng với chính mình. Ngượng với cái niềm tự hào ấy lại bị đùa cợt khinh khi do gia cảnh nghèo khó. Im lặng như mặc niệm... Cụ nội cúi mặt nhìn chén rượu rồi lấy tay dụi mắt. Bốn người còn lại gục đầu. Bờm chạy sang ôm lấy vai cụ nội. Cụ nó hít hà vào mái tóc thằng chắt đích tôn nhưng thực ra đang cố nuốt cục nghẹn đang dâng lên trong cổ.
- Bảy mươi đồng một cân móc. Tôi đã khảo giá thị trường rồi. Con lợn hôm nay thằng cu Chiến bảo bốn chục cân móc… Vị chi là hai triệu tám. Đây tôi giả - Cụ trẻ vừa nói vừa móc trong cái túi đỏ trước bụng lấy ra một cái phong bì. Cụ vảy nhẹ vài cái cho nội dung của nó chạy về một phía rồi cẩn trọng xé mép giấy. Ngón trỏ và ngón cái cụ luồn vào phong bì rút ra mấy tờ tiền cầm vào tay trái. Cái phong bì dày cộm lại được cho vào túi đóng khoá lại. Hai tay nhoay nhoáy móng đỏ: Một, hai… đây đủ ba triệu. Không phải giả lại nhé.
Cụ chìa nắm tiền về phía mâm cơm.
Cả nhà vẫn im lặng. Mãi đến mấy giây sau thì bố Chiến nhìn mẹ nó. Mẹ nó đứng lên đón lấy mấy tờ tiền: “Cụ cho con xin”. Khi đã đưa tiền cho đứa cháu dâu, cụ bà trẻ nhấc cái bao lên như
ướm xem nó khỏi nặng quá không trong khi miệng liến láu: - Tôi phải đi ngay giờ. Tiết canh hôm nay ngọt. Ai cũng khen. Nhưng phải học cách tiếp khách cho lịch sự. Ai lại ăn tiết canh ăn bằng thìa. Không mua được mấy chục cái cùi dìa à? Đã vậy lại… lại thiếu chanh. Mấy múi chanh mà cũng thiếu. Ngượng với người ta quá. Thật chả ra làm sao!
Cụ nội xám mặt lại vội đứng lên mắt rơm rớm:
- Anh xin lỗi hai em…
Rồi cụ khom lưng xuống, tay gãi gáy ngượng ngùng: - Hôm… hôm nào anh đã nói với hai em. Lúc nãy chú ấy bảo nói với em…
Cụ trẻ bà nói ngay một hơi như thể đã chuẩn bị từ trước: - Chưa có! Chắc không có đâu. Anh tưởng chúng tôi dư dả lắm à. Phải mua thêm mấy suất đất làm nhà cho hai thằng, phải lo tiền cho chúng nó đi du học ở Mỹ. Rồi còn lo cái tết cấp trên, lo chi phí cho việc đề bạt sắp tới của ông ấy. Người ngoài cứ tưởng sung sướng lắm. Thôi chào cả nhà tôi đi đây.
Bà ta lệch người kéo lê cái bao chứa những hộp bánh kẹo và rượu ngoại đi ra ngõ. Tiếng cửa xe đóng đánh rầm. Rồi cái ô tô từ từ khuất dạng bỏ lại tiếng máy thở hổn hển giật cục như người hen suyễn.
Mọi người bây giờ mới thở phào như trút được gánh nặng. Bố Bờm Thắng vừa rót rượu cho ông nội vừa càu nhàu: “Loại tham như mõ. Mà việc gì ông phải hạ mình vậy. Con lạ gì ý đồ của ông bà ấy. Cụ nhà ta giỗ vào tháng sáu âm. Còn lâu mới Tết mà đã bày ra giỗ để nhận quà tết, để tránh lệnh cấm của trên”.
Ông nội nó lừ mắt nhìn bố. Bố nó im bặt. Cụ nội cũng lặng im trầm ngâm. Lúc sau cụ nói giọng mệt mỏi:
- Chúng mày chả biết gì cả. Sở dĩ ông phải hạ mình vậy vì ông muốn xây cái gia từ be bé lấy chỗ thờ phụng các cụ. Chứ giờ ăn