"Áo Khoác Lông Chồn - John O.Hara PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Áo Khoác Lông Chồn - John O.Hara PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo John O’Hara ÁO KHOÁC LÔNG CHỒN Người dịch: Đinh Thị Thanh Vân Phát hành: Youbooks Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2010 Lời giới thiệu Fran Lebowitz Trên trang bìa cuốn sách này là một đoạn trích thông báo của Công ty Điện thoại New York, ngày 8 tháng 12 năm 1930, đóng khung hẳn hoi. Nó báo trước sắp thêm một con số vào tên cơ quan trung ương của tổng đài điện thoại. Ví dụ: “HAnover sẽ là HAnover 2”. Thông báo này như một đề từ, thường gồm một đoạn trích nguyên văn in trên giấy trắng. Là một tiểu thuyết gia hiện đại (tôi dùng từ hiện đại với ý khá lỗi thời, có nghĩa là mới) sẽ thay thế những đoạn thơ hoặc văn xuôi mẫu mực bằng dạng ngôn ngữ quảng cáo rời rạc chuẩn mực, rồi chuyển từ trang riêng thành trang có tên nhà xuất bản - bằng cách đó, biến thương mại thành nghệ thuật rồi đem bán cho độc giả - anh ta có thể dễ dàng bị gạt bỏ như những kẻ hậu hiện đại tầm thường, biến chi tiết thành kể lể, không hề biết sự khác biệt giữa một điểm thắt nút và một dòng. Song năm 1935, năm Áo khoác lông chồn ra mắt lần đầu và là tác phẩm nổi tiếng, nền văn hóa hoàn toàn khác, mọi ngành nghề kinh doanh đang hồi hỗn loạn. Bút pháp dùng trong bản thông báo này được dùng ở mọi loại, chứng tỏ ngay từ đầu rằng John O’Hara, người viết sử biên niên của Mỹ, không chỉ là một cây bút hết sức độc đáo, mà còn rất thực tế. Có thể nói (theo thông lệ) ông là người đi trước thời đại, nhưng (cũng theo thông lệ) dường như ông là người của chúng ta. Nhưng đây là một thời đại rành mạch, gay gắt, trong đó từng dòng từng chữ đều bị kiểm soát nghiêm ngặt. Đây không phải là hoàn cảnh năm 1935. Năm 1935, nhiều sự việc không nói ra thì tốt hơn. Nhiều đam mê ngấm ngầm, nhiều quy tắc bất thành văn. Có nhiều người giàu không kể xiết và có những anh hùng không được tôn vinh. Tư cách đạo đức có khi không thích hợp. Hành xử có thể không đúng đắn. Đạo đức có thể không được tha thứ. Đạo đức có thể không được khoan dung. Năm 1935, chỉ số Dow Jones đóng cửa ở mức 144.13, không những cho thấy tác động của nạn Đại Suy thoái, mà còn truyền đạt một ý nghĩa đặc biệt, đây là một giai đoạn có không ít việc buôn bán ngoài luồng. Năm 1935, Luật cấm buôn bán rượu mới hết hiệu lực được hai năm, sau khi kéo dài mười ba năm liền. Trong nhiều thành công khác, nó còn có tác dụng dân chủ hóa hoàn toàn và rất quái đản tính chất vụng trộm của nền đạo đức, chi phối các cuộc ngoại tình của tầng lớp thượng lưu Mỹ. Nếu mọi quán rượu đều lậu thì không có quán nào công khai. Một quán bán rượu lậu không phải là một câu lạc bộ tư nhân ít thành công; ngoài ra, không ai nhầm Tommy Guinan’s Chez Florence là Union League. Thời điểm đó chính xác là thế. Có nhiều lúc, người ta không thích chạm trán với những người có thể bị bắt gặp, và nói chung, họ thích theo cách khác hơn. Vì thế, những khu nhà lụp xụp được phép mở rộng và thêm thắt nhiều thứ theo nhiều kiểu cách, một số rất mới mẻ. Những cuộc tình nói trên không khác với ngày nay hoặc ngày hôm qua, hoặc thực ra không khác với bất cứ ngày nào. Ngoại tình, đồng tính luyến ái, vân vân và vân vân trong mọi dạng mọi kiểu hầu như không chịu ảnh hưởng của thời gian. Thèm muốn nhục dục là sự thôi thúc của xác thịt, còn sức mạnh của con người là nhận thức. Làm thế nào hiểu được một hành động hoặc sự thèm muốn cùng một lúc, để cảm nhận được đấy chính là thứ mang lại cho con người tác động của bản năng giới tính, là một khúc ngoặt đặc biệt. Tội lỗi, sự bí mật, lòng ngưỡng mộ, niềm vui và nỗi thất vọng, tất cả đều là phản ứng đề phòng phản ứng, tất cả có thể tồn tại, có thể trở thành mốt. Trong thực tế, tầng lớp thượng lưu Mỹ nhắc đến trên đây có phần khác biệt với ngày nay, tuy không khác nhiều đến mức bạn khó hình dung nổi. Năm 1935, nét độc đáo của giai cấp hiển hiện vừa nhiều hơn vừa ít hơn ngày nay, và không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là mối quan tâm đầu tiên của John O’Hara. Việc này không hề đơn giản do những tham vọng xã hội của ông (ông thường tự trách mình về điểm này), hơn nữa ông hiểu rõ hơn bất cứ nhà văn Mỹ nào khác rằng, giai tầng có thể vừa bộc lộ vừa nhào nặn nên tính cách, sự hời hợt có thể trọn vẹn đến vô cùng, và quần áo có thể thực sự làm nên con người ra sao. Fitzgerald hay khen ngợi việc này, nhưng Fitzgerald tán dương đồng tiền quá nhiều. Hai câu đầu của Áo khoác lông chồn như sau: “Một sáng Chủ nhật tháng Năm, cô gái mà sau này gây một sự náo động ở New York, thức giấc quá sớm vì đêm hôm trước. Một phút trước cô còn ngủ, ngay sau đó cô tỉnh giấc hoàn toàn và đâm thất vọng.” Tên cô gái là Gloria Wandrous. Cô nhận ra mình thức giấc trong “căn hộ của một người lạ”. Lạ có nghĩa là mới mẻ hơn là bất thường, theo nghĩa rộng của tình dục. Người đàn ông đặc biệt này là Weston Liggett, trong thực tế là hình ảnh đích thực của tính quy củ, chính thống và đúng mực. Hình ảnh này được O’Hara trực tiếp xây dựng khi miêu tả đồ đạc của chủ nhà, lúc Gloria Wandrous xem xét khắp căn hộ rộng rãi của Liggett. Những bức ảnh bầy ngựa, các buổi biểu diễn ngựa, các cuộc thi thuyền buồm tám mái chèo. Một bản miêu tả đầy đủ và trọn vẹn về quần áo, tư thế của tay chèo trẻ tuổi. Từ đồ đạc được nêu trước từ gia đình. Trong cuộc đời non trẻ của mình, Gloria Wandrous đã gặp ít nhất hai người đàn ông kỳ lạ, kỳ lạ với nghĩa không đúng lễ giáo, không đúng lễ giáo với nghĩa là kẻ lầm đường lạc lối. Năm 1935, lạm dụng tình dục trẻ em và những hậu quả của nó không phải là đề tài phổ biến (tôi dùng từ phổ biến theo cả hai nghĩa) trong văn chương như ngày nay; người ta gọi lạm dụng là thứ đã nhàm, có ở khắp mọi nơi. Nhưng giữa sự phô bày kích động với sự thực ghê tởm có sự khác biệt, và sự khác biệt không phải là hiểu biết tường tận mà là sự nhạy cảm, và tài năng là phần bị xem nhẹ từ lâu của thuộc tính bị lãng quên đã lâu. Bất cứ ai ở bất kỳ lứa tuổi nào, đọc hoặc đọc lại cuốn sách này sẽ thấy điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Đọc lại một cuốn tiểu thuyết, nhất là đọc lần đầu khi còn trẻ, không chỉ có nghĩa là đọc lần nữa. Nó cũng có nghĩa không chỉ đánh giá lại cuốn sách mà còn đánh giá lại ấn tượng ban đầu của người đọc về cuốn sách, lúc ấn tượng còn nguyên sơ nhất. Khi viết Áo khoác lông chồn (khoảng năm 1934), John O’Hara hai mươi chín tuổi. Tôi đọc cuốn sách này lần đầu vào năm 1964, khi mới mười ba tuổi. Có thể hiểu được rằng vào lúc ấy, tôi không ngờ đó là cuốn sách của một người trẻ tuổi. Than ôi, đến giờ tôi mới biết. Ở tuổi mười ba, tôi chưa hiểu thấm thía giọng điệu từng trải, thạo đời, thậm chí chán sống của cuốn sách; không bực mình vì sự thể hiện khá quả quyết của cách xử thế quá sành sỏi; sự hăng hái còn non nớt của nó xem ra gần gũi với từng khía cạnh của cuộc sống kém đạo đức của những người sinh trưởng ở chốn thượng lưu và cuộc sống cao thượng của những người sinh trưởng hèn kém. Nhưng dù chưa biết đến những điều ấy, ở tuổi mười ba, tôi cũng gần như đánh giá được đầy đủ sự tình tế thực sự của John O’Hara, tính bặt thiệp chân thật, tài năng bẩm sinh để nhận thức, hiểu biết và cảm thấu của ông. Ông tỉnh táo hiếm có với những thứ còn xa mới đáng ngưỡng mộ và tỏ thái độ miệt thị thay cho thán phục. Ông hiểu tường tận sự hung ác có thể tạo nên cách hành xử tàn bạo, cũng như những đường cắt cúp của một bộ trang phục cũng gần với những đường cắt của một con dao như thế nào. Ở tuổi mười ba, tôi còn chưa nhận thức được rằng những thứ bất thường như thế, đáng quý trọng như thế, đầy kích thích như thế không phải là thạo đời, mà là sự am hiểu của chàng thanh niên John O’Hara hai mươi chín tuổi. Cuối cùng thì giờ đây, tôi đã hiểu. Princeton, New Jersey, 2002 1 M ột sáng Chủ nhật tháng Năm, cô gái mà sau này gây một sự náo động ở New York, thức giấc quá sớm vì đêm hôm trước. Một phút trước cô còn ngủ, ngay sau đó cô tỉnh giấc hoàn toàn và đâm thất vọng. Nỗi thất vọng mà trước kia có lẽ cô đã có đến 2.000 lần, 365 buổi sáng trong một năm. Nói chung, nguyên nhân thất vọng là sự ân hận thuộc hai loại. Ân hận vì cô biết dù sắp tới, cô có làm gì đi nữa cũng sẽ chẳng có gì hay hớm. Lý do cụ thể của những giây phút kinh hoàng hoặc lẻ loi này thường không do lời lẽ hoặc hành động gây nên. Bởi chưng, năm nay cô đã đi khá xa. Đủ xa để nhận thức được việc cô làm hoặc nói đêm qua không chỉ có một mình. Cách đối xử của cô đêm trước có thể đổ cho nỗi thất vọng của bất cứ ngày nào, thường xuyên tồi tệ nhưng không đủ tệ để gây ra nỗi thất vọng sâu sắc đến thế. Lúc đầu còn mơ hồ, rồi sau khi thắng được thói quen không thành thật với chính mình, cô nhận ra mình đã chìm sâu vào trạng thái thất vọng. Cô đã vượt xa nỗi thất vọng ban đầu, vì cô chai lỳ đến mức quen phớt lờ lý do chính gây nên mọi nỗi thất vọng có thể đến trong đời. Thực ra thì có một nguyên nhân. Nhưng trong suốt nhiều năm cô đã cố không nghĩ đến nó, hy vọng đẩy nó ra xa và tách khỏi nó. Thế rồi sáng sáng, thỉnh thoảng là các buổi trưa, mỗi khi tỉnh dậy thất vọng tràn trề, cô lại tự hỏi trước khi đi ngủ mình đã làm gì mà hôm nay lại khiếp sợ đến thế. Cô cố nhớ lại từng tí một, rồi bất chợt “Ồ, mình nhớ ra rồi”, và dần dần giải thích được những hồi nhớ các sự việc tồi tệ cô đã làm. Sau đó là lúc âm thầm nguyền rủa và la hét, thì thầm tự lên án mình thật gay gắt. Cô chẳng hay biết trong những cơn thịnh nộ tự buộc tội, cô đã gọi mình là gì. Cô cứ thì thào, thì thào mãi những lời bọn đàn ông nói với nhau lúc muốn xúi giục giết người. Cuối cùng, cô mệt lử và buông xuôi trong tình trạng yếu ớt, nhưng không đến mức tỏ ra yếu đuối với tất cả mọi người. Với những người khác cô là kẻ bất chấp, nhưng cô biết rồi sự việc sẽ tiếp tục diễn ra như thế. Việc trước hết là phải dậy và mặc quần áo. Sáng Chủ nhật hôm ấy, cô làm những việc thường làm, mang lại cho cô niềm vui nho nhỏ. Dải rút bộ pyjama cô mặc đã tuột ra đêm qua, cô mở bộ pyjama và cười. Cô tự nhủ: “Không biết ông ta đâu nhỉ?” Ra khỏi giường, giữ bộ pyjama vào sát người, cô loạng choạng và khá say, nhưng đi khắp căn hộ cô vẫn không tìm thấy ông ta đâu. Đó là căn hộ lớn. Có một căn phòng rộng rãi, bên trong bày chiếc đại dương cầm, nhiều đồ gỗ nặng nề, góc phòng có một giá sách, nhiều bức ảnh phóng to những người đàn ông, đàn bà, các chàng trai và cô gái trên lưng ngựa hoặc đứng cạnh ngựa đã thắng yên cương. Một bức ảnh chụp một cô gái trên xe, ngựa đã thắng vào xe, nhưng nếu nhìn kỹ sẽ thấy một sợi dây chắc là của người giám mã không có trong ảnh. Vài dải rubăng xanh lơ - giải thưởng ở Hội chợ Connecticut - lồng trong khung ảnh. Có mấy bức ảnh thuyền buồm mà khi xem kỹ, cô phát hiện thuyền không nhiều nhưng có hai bức chụp cùng một chiếc thuyền buồm thuộc câu lạc bộ Sound Inter. Một bức chụp tám tay chèo, một bức chụp người bơi thuyền cầm mái chèo dài. Cô ngắm kỹ bức ảnh này. Anh ta cắt tóc ngắn, đi tất len ngắn cổ dày, sơmi vải bông có ba khuy nơi cổ, một chữ cái nhỏ trên chỗ trái tim, quần bơi buộc túm lại ở ngay chính giữa với cái bên trong. Cô ngạc nhiên thấy anh ta treo một bức ảnh như thế trong căn phòng này, nơi ắt phải có nhiều cô gái nhìn thấy. “Nhưng họ chẳng bao giờ nhận ra anh ta, trừ khi có người nói anh ta là ai.” Phòng ăn rộng gần bằng căn phòng đầu tiên. Căn phòng làm cô nghĩ đến những miếng thịt rưới đẫm nước sốt. Ngoài phòng ngủ cô đã nằm, còn bốn phòng ngủ khác. Hai phòng ngủ của con gái, phòng thứ ba của người hầu và phòng thứ tư của bà chủ. Cô nấn ná trong phòng này. Cô mở các tủ chứa đồ và ngắm nghía mọi thứ. Cô nhìn cái giường, gọn gàng và lạnh lẽo. Cô ngửi các lọ trên bàn trang điểm, rồi mở một cánh cửa tủ khác. Thứ đầu tiên cô nhìn thấy là chiếc áo choàng bằng lông chồn vizon và đó là thứ duy nhất cô thực sự thích. Cô quay ra và trở lại phòng ông ta, thu dọn đồ của mình: giày, tất, quần lót, áo dạ hội. “Hay quá, mình không thể mặc cái này nữa. Không thể ra ngoài giữa ban ngày ban mặt mà lại mặc áo dạ hội và áo choàng.” Chiếc áo dạ hội, đúng hơn là một chiếc áo dài không tay xếp cẩn thận trên ghế. Nhưng lúc nhìn lại lần thứ hai, cô nhớ lại đêm trước rõ ràng hơn. Chiếc áo dài dạ hội bị xé, rách toạc từ nửa tà trước đến tận eo. “Thằng chó đẻ.” Cô ném chiếc áo lên sàn của một trong các tủ đồ và cởi phăng bộ pyjama đang mặc - bộ pyjama của hắn ta. Cô đi tắm và chậm rãi lau khô người bằng rất nhiều khăn rồi vứt bừa bãi trên sàn buồng tắm, sau đó cô lấy bàn chải đánh răng của ông ta và đưa xuống dưới vòi nước nóng. Sờ tay vào thấy nước quá nóng, cô chắc đủ nóng để tiệt trùng. Ý nghĩ này làm cô bật cười: “Mình đã lên giường với hắn, đã tiếp nhận đủ thứ từ hắn, nhưng lại khử trùng bàn chải răng của hắn.” Cô đánh răng, dùng một loại nước súc miệng, tự pha nước quả muối và uống một cách thích thú. Cô cảm thấy tỉnh táo hơn nhiều và không biết sau này còn thấy khá hơn nữa không. Nỗi thất vọng đã tan. Giờ thì cô biết việc mình sắp làm là tồi tệ, cô đối mặt với nó và cảm thấy hài lòng. Cô khó mà đợi được nữa. Cô mặc quần lót, đi tất, giày và chải tóc, rồi trang điểm. Cô dùng ít phấn son. Cô mở cửa tủ và thọc tay vào các túi quần áo của ông chủ, nhưng không tìm thấy thứ cô muốn. Cô thấy thứ đó - thuốc lá - trong ngăn tủ trên cùng. Cô châm một điếu và vào bếp. Trên bàn bếp có một cái phong bì, lúc trước đi rảo quanh nhà cô đã không để ý. “Gloria”, chữ viết bằng bút chì, lối chữ tròn, ngả về bên trái. Cô bóc phong bì dính nhớp vì dán không chặt, lôi ra ba tờ hai chục đô la và một bức thư ngắn. “Gloria, tiền này đền cho chiếc áo của em. Anh phải về quê. Sẽ gọi em vào thứ Ba hoặc thứ Tư. W.” - Nhất trí cao! - cô nói thật to. Lúc này cô đi lại nhanh hơn. Cô tìm thấy hai cái mũ phớt màu đen gần giống nhau trong tủ của một cô gái. Cô đội một chiếc. “Cô ta sẽ tưởng đã mang chiếc kia về quê và đánh mất rồi”. Cô nhận ra cảnh tượng thật khôi hài khi cô, đi tất, đi giày, mặc quần lót và đội mũ phớt đen. “Nhưng chúng ta sẽ sớm hoàn tất thôi.” Quay lại tủ chứa đồ của bà chủ, cô lấy chiếc áo khoác lông chồn và mặc vào. Rồi cô vào phòng ngủ của ông chủ, nhét sáu chục đôla vào cái xắc nhỏ dát cườm của mình. Thế là đủ lệ bộ. Trước khi rời căn hộ, cô dừng lại và soi vào tấm gương to trong tiền sảnh. Cô rất thích thú. “Giá là mùa xuân, bộ này diện phải biết. Nhưng dù sao cũng không tồi.” Cô thích thú đi thang máy xuống. Người coi thang máy không đẹp trai, nhưng cao ráo và trẻ trung, rõ ràng là người Đức. Cô khoái chí khi nghĩ nếu mở phanh chiếc áo khoác lông chồn này ra trước mặt anh chàng, sẽ xảy ra chuyện gì nhỉ? - Tôi gọi taxi cho cô nhé? - anh ta hỏi, không hề ngoảnh lại suốt dọc đường. - Được. - cô nói. - Anh ta sẽ không nhớ ra cô nếu có người bảo tả lại cô. Anh ta sẽ chỉ nhớ cô là một người đẹp, hoặc có vẻ là đẹp, nhưng anh ta sẽ không thể miêu tả kỹ càng. Anh ta sẽ chỉ nhớ cô mặc chiếc áo khoác lông chồn vizon, và bất cứ ai được hỏi về cô cũng chỉ nhớ có thế. Đấy là điều duy nhất anh ta có thể miêu tả cô, dù người hỏi là ai đi nữa. Anh ta không phải là người trực thang máy khi cô vào căn nhà này đêm trước; người đó hơi già, không hề bỏ cái mũ đồng phục dù ở trong thang máy. Cô nhớ cái mũ đó. Vì thế, đương nhiên anh chàng này sẽ không căn vặn việc cô mặc áo khoác lông chồn, thay cho chiếc áo khoác nhung cô mặc lúc vào đây. Tất nhiên thôi! Thậm chí anh ta còn không biết cô từ căn hộ nào đi ra nữa kia. Cô đợi anh ta đi trước, đến tận cánh cửa lớn bằng nhôm-kính của tòa nhà, quan sát anh giơ một ngón tay lên gọi taxi. Cô quyết định thưởng cho anh ta vì khoản phục vụ nho nhỏ này - nó sẽ làm anh ta nhớ cô - rồi vào taxi, ngồi sát góc để anh ta không nhìn rõ cô. - Cô đến đâu? - tài xế hỏi. - Quảng trường Washington. Tôi sẽ chỉ chỗ đỗ. - cô chỉ hướng cho tài xe đến một trong những căn nhà ở quảng trường Washington và trả tiền, rồi bước vào và hỏi về một người tưởng tượng. Cô nấn ná đủ lâu để tài xế và chiếc taxi đi khuất. Sau đó, cô đi ra gọi chiếc taxi khác đến phố Horatio. Cô sẽ đột ngột ghé thăm Eddie. Eddie sẽ nổi khùng, vì chắc chắn anh ta có một cô gái khác ở đấy, sáng Chủ nhật mà. Cô phấn chấn và ngay sau khi ra khỏi chiếc taxi này, cô sẽ đến chỗ Eddie, sẽ mua một lít Scotch mang đến cho anh ta và cô nàng kia. Đến góc phố Madison, tài xế suýt đâm phải một người đàn ông và một cô gái; anh ta quát lên, người lái xe quát trả. - Cho qua, nhổ vào mắt bọn chúng. - Gloria bảo. ••• Cũng trong khu đó, một cô gái khác đang ngồi ở đầu một cái bàn ăn khá dài. Cô vừa hút thuốc vừa đọc báo, thỉnh thoảng lại đặt điếu thuốc xuống cái gạt tàn và đưa bàn tay rảnh lên vuốt mái tóc ngắn, ẩm ướt ra sau gáy. Phần tóc còn lại của cô khô, nhưng một đường hằn sâu trên da đầu và cổ chứng tỏ cô đã đội mũ tắm. Cô xoa xoa tóc, cố làm cho khô rồi xoa những ngón tay lên vai áo choàng, lướt xuống đằng trước và dừng lại ở ngực. Cô để tay che kín một phần ngực, những ngón tay tì lên hốc nách. Rồi khi giở trang báo, cô lại nhặt điếu thuốc lên và cầm trong giây lát cho đến lúc đầu điếu thuốc cháy đỏ nhắc cô hoặc dụi nó đi hoặc cháy ngón tay. Cô đặt xuống gạt tàn lần nữa và lại bắt đầu lau tóc đằng sau gáy. Ngay sau đó cô đứng dậy và ra khỏi phòng. Khi trở lại, cô trần truồng, mặc độc quần lót và nịt vú. Cô không trở lại bàn mà đứng trên một chân, khuỵu đầu gối kia lên ghế và nhìn ra bên ngoài dãy cửa sổ chạy suốt chiều dài căn phòng. Cô đang trong tư thế ấy thì chuông reo, và cô chạy vào bếp. - Xin chào… bảo anh ấy lên nhé. Cô chạy vội vào phòng ngủ, sau đó vừa đi ra vừa kéo chiếc áo len casơmia qua vai. Cô mặc váy bằng vải tuýt, đi tất len mỏng và giày leo núi, lưỡi giày Scotch hơi thò ra. Chuông lại reo, còn cô đã ra đến cửa. - Chúc mừng. Chúc mừng, chúc mừng, chúc mừng và chúc mừng. Tiểu thư Stannard khỏe không? Tiểu thư Stannard khỏe không? - Chào Jimmy. - cô nói. Cô đóng cửa, và ngay lập tức anh chàng kéo cô vào vòng tay và hôn cô. - Hừm. Không hưởng ứng. - anh ta nói rồi ném mũ lên một cái ghế và ngồi phịch xuống trước khi cô ngồi. Anh ra hiệu mời cô thuốc lá, nhưng cô lắc đầu từ chối. - Anh uống cà phê nhé? - cô nói. - Ừ, anh sẽ uống một chút nếu ngon. - Em sẽ pha ngay đây, còn em uống hai tách rồi. Ít ra thì uống cũng được. - Chà, em cứ pha đi. Anh ngờ rằng em sẽ quẳng ngay cà phê em pha cho mình. - Vậy anh có muốn uống hay không nào? - Một ít thôi. Một tách nóng hổi chỉ dành cho quý ông mặc complê xanh thôi. - Complê xanh thì sao? Anh không mua chiếc Tên-Nó-Là-Gì à? Em cứ tưởng bọn mình sắp về nông thôn. - cô nhìn bộ quần áo của mình rồi nhìn quần áo anh ta. Anh mặc complê vải séc màu xanh, cổ áo trắng tinh hồ cứng, đi giày đen. - Anh đã kiếm được việc làm ở phố Wall từ khi em gặp anh lần cuối sao? - Chưa. Chưa cho cả hai câu hỏi. Anh chưa mua xe của Norman Goodman, chứ không phải Tên-Nó-Là-Gì. Em gặp anh ta vào tối chúng ta đến nhà Michel, và em gọi anh ta là Norman. Còn câu hỏi anh đã kiếm được việc làm ở phố Wall chưa, thì anh không trả lời. Tối qua, Norman gọi điện cho anh nói anh ta phải lái xe đưa bố đi cắt bao quy đầu hoặc cái gì đó. - Ông ta là giáo sĩ Do Thái ư? - Ồ không, không phải thế đâu. Bố anh ta không phải giáo sĩ Do Thái, chuyện cắt bao quy đầu là anh bịa ra đấy. - Thế bây giờ chúng mình làm gì? Em hiểu là anh không mượn được xe của ai. Thật là một ngày đẹp trời để về nông thôn. - Anh đang sẵn tiền. Anh nghĩ chúng mình đến Plaza ăn sáng, nhưng xem chừng em đã ăn rồi. Anh định đi nghe một bài thuyết giảng, nhưng một ngày đẹp trời như hôm nay thì phải lẩn thôi. Những bài thuyết giảng ấy làm sao phù hộ được cho anh kia chứ. Họ đưa chúng đến văn phòng của anh, và anh chỉ việc sao lại rồi dán lên thôi. Anh chỉ viết lời nói đầu, đại loại như “Nạn suy thoái đã thức tỉnh lòng tin của dân Mỹ, theo lời Cha Makepeace John Meriwether là Đức linh mục nhà thờ Tân Giáo Free Patrick, đừng đánh vần nó với ký tự a nếu không muốn bị mất việc.” - Vân vân và vân vân. Cho anh chút kem được không? - Em e rằng em đã dùng hết kem rồi. Anh dùng sữa nhé? - Khỉ thật, em có thân hình đẹp quá, Isabel. Đi lại loanh quanh nữa xem nào. Đến bên cửa sổ. - Không đâu. - cô ngồi xuống. - Anh thực lòng muốn gì vậy? - Không đến Plaza à? Ngay lúc anh đang sẵn xu? - Sao anh giàu thế? - Anh bán một thứ cho New Yorker. - Thật thế ư? Gì vậy? - À, khoảng một tháng trước khi có việc gần Lăng mộ Grant, anh phát hiện cả khu nhà thuyền này vắt ngang con sông. Dân chúng sống trong nhà thuyền suốt mùa đông dài dằng dặc. Họ có cả bếp gas, điện, đèn, radio, và suốt mùa đông các nhà thuyền này ngự trên các cọc bằng gỗ. Xuân đến, họ kéo thuyền ra khỏi Rockaway hoặc nơi nào đó tương tự và sống ở đấy suốt mùa hè. Anh nghĩ nó sẽ là bài hay cho mục Chuyện của Hội đồng Thành phố, anh đã tìm hiểu kỹ càng và gửi bài đi, thế là hôm qua anh nhận được một tờ séc ba mươi sáu đôla, oách chưa? Họ muốn anh làm nhiều hơn nữa cho họ. - Anh sắp làm nữa chứ? - Anh nghĩ thế. Tất nhiên anh không thể viết bài dài, vì có tin hay không tùy em, nhưng anh còn công việc và một cuốn tiểu thuyết. - Cuốn tiểu thuyết đến đâu rồi? - Giống như Ông già Nôen vậy. Mà em thừa biết Ông già Nôen là thế nào rồi. - Em nghĩ là em sẽ bỏ anh. - Vĩnh viễn? - Nói cho khá dứt khoát thì vâng, vĩnh viễn. Một ngày đẹp trời như thế này để về nông thôn. - cô đứng dậy và đến bên cửa sổ. - Hãy nhìn những người đàn ông kia xem. Em quan sát họ không biết chán. - Những người đàn ông nào? Ngắm anh quá đủ rồi, chẳng cần phải đứng dậy mà ngắm bọn đàn ông. Em kể cho anh về họ đi. - Họ nuôi chim bồ câu. Chủ nhật nào họ cũng ở trên mái nhà suốt ngày, xua lũ chim bay đi. Cô hầu của chúng ta nói rằng, một người có đàn bồ câu mười tám con xua chúng đi với hy vọng khi chúng bay về sẽ là mười chín hoặc hai chục con. Một hoặc hai con ở đàn khác bị nhầm, sẽ nhập vào đàn đó và tăng số lượng đàn chim của ông ta lên. Như thế không gọi là ăn cắp. - Nhưng em không đi ăn sáng ở Plaza ư? - Em ăn rồi, và em cược là anh cũng thế. - Coi như là thế. Nước cam, bánh mì nướng phết mứt, cà phê. Anh muốn chúng mình ăn bầu dục và món nhồi, trứng ốp la, khoai tây rán. Giống người Anh. Nhưng nếu em không muốn thì thôi vậy. Anh chỉ muốn vui, hay ít ra là đổi khác. - Để lần khác. Nhưng để em mặc quần áo, rồi chúng ta tiêu tiền của anh theo kiểu khác, nếu anh vẫn muốn thế. - Anh quên mất là còn nợ em mười đôla. - Trước hết chúng ta hãy tiêu từng ấy. Giờ em đi mặc quần áo nhé. Jimmy cầm mấy tờ báo lên. - Times này! - anh kêu to. - Em chưa bao giờ đọc bài của anh trên Times. Đúng không? - Nhưng cô đã khép cửa phòng ngủ lại. Mươi phút sau cô xuất hiện. - Ái chà. Đẹp quá. Rất đẹp. Hừm. - Anh thích không? - Nó là bộ đẹp nhất anh được thấy. Cả cái mũ nữa. Một cái mũ rất xinh. Anh thấy năm nay mũ mãng của các cô gái đẹp hơn hẳn mọi năm. Đáng yêu kinh khủng. Anh đoán họ phải làm mũ theo kiểu gì đó. - Em cho là còn phải làm nhiều việc với mớ tóc của em. Tóc em vẫn còn ẩm, trông rối như tổ quạ, mà lỗi tại anh đấy. Nếu biết chúng ta không về nông thôn, em đã không tắm làm gì. Tắm kỹ quá làm em ướt hết cả tóc. Nhớ nhắc em tạt qua hiệu thuốc… - Em yêu, rất vui lòng! - …để mua một cái mũ tắm cho tử tế. Jimmy à, trước khi đi, em muốn nói với anh lần cuối, anh đừng nói những điều như thế với em nữa nhé. Em không phải nhân tình của anh, cũng không phải gái đứng đường, và em không quen trò chuyện kiểu ấy. Chẳng vui vẻ gì, và chưa có ai nói chuyện với em như thế. Anh thường trò chuyện với đám phụ nữ ở báo kiểu ấy à? Em chắc họ cũng chẳng thích đâu. Anh có thể khen ngợi bộ áo của em mà không cần đi sâu vào chi tiết thân hình em, và… - Vậy anh nên nhân danh Chúa nhé? Cả ý tưởng về bộ áo thể hiện thân hình em nữa? Tại sao nó đẹp thế trên người em? Vì em có bộ ngực và nhiều thứ khác nữa rất đẹp. Giờ thì Chúa nguyền rủa, tại sao anh không nên nói như thế? - Em nghĩ anh nên đi đi thôi. - cô bỏ mũ và ngồi xuống. - Thôi được, anh sẽ đi. - anh cầm mũ và nện bước xuống tiền sảnh hẹp ra cửa căn hộ. Nhưng anh không mở cửa. Đặt tay lên quả đấm, anh xoay người và quay lại. - Em không nói gì đâu đấy. - cô nói. - Anh biết. Em không nhúc nhích. Anh biết. Em biết anh có thể không ra khỏi cửa này hơn là ra ngoài các cửa sổ kia. Em có vui lòng tha thứ cho anh không? - Rồi sẽ lặp lại y như thế, lại vẫn cung cách ấy, sự việc ấy, lý do ấy. Rồi anh sẽ trở lại xin em tha thứ, và em sẽ bỏ qua cho anh. Mỗi lần em làm thế, Jimmy ạ, em lại căm ghét bản thân. Không phải vì việc bỏ qua cho anh, mà vì em ghét những lời lẽ ấy, ghét trò chuyện kiểu ấy, và em biết, em biết lý do duy nhất anh nói với em kiểu ấy vì em là loại con gái để anh nói kiểu ấy, chính vì thế mà em hận. Anh phải hiểu điều đó. - Em yêu, không phải thế đâu. Em không phải loại con gái nào hết. Em là em, Isabel ạ. Em không tin anh khi anh nói với em những lời vẫn thường nói ư? Chúng ta làm gì không quan trọng, song bất cứ khi nào nhìn thấy em như thế này, trong buổi sáng, giữa ban ngày có nhiều người khác, anh không thể tin nổi em là của anh. Hoặc đã từng là của anh. Em mặc bộ áo và đội cái mũ này xinh lắm. Anh tiếc là đã nói kiểu ấy. - Anh không nói với Lib kiểu ấy. Hoặc với Caroline. - Anh chẳng trò chuyện với họ theo bất cứ kiểu gì. Anh không muốn bị quấy rầy. Đi nào, kẻo anh lại nói cái gì sơ suất chăng. - Thôi được, hôn em đi. Đừng khó chịu nữa. - cô chìa tay và anh kéo cô đứng lên, cho đến lúc cô dựa sát vào anh. - Anh phải hôn em thật mãnh liệt. Anh mà không hôn em mãnh liệt sao? Không thể có chuyện đó. - anh cười. - Không hẳn thế. - cô nói. - Nhiều lần rồi đấy thôi. - cô cười. - Giờ anh không muốn đi nữa. - anh nói. - Chúng ta đi thôi. Để em tìm chìa khóa. - cô lục chiếc xắc tay. - Son môi này. Em thoa một chút. Đưa em khăn mùi soa của anh nào. Anh mở và giữ cửa cho cô, bàn tay rảnh làm như muốn vỗ mạnh vào lưng cô song không dám chạm vào. Cô bấm chuông gọi thang máy, sau khi rên rỉ và kêu vo vo một lúc, cánh cửa mở. - Chào cô Stannard. - người gác thang máy nói. - Xin chào. - cô nói. Họ bước vào và buồng thang máy bắt đầu hạ xuống, nhưng được một tầng thì dừng lại, một ông và một bà bước vào. Người đàn ông cao đúng bằng người đàn bà, vì thế trông có vẻ thấp hơn. - Chào ông Farley, chào bà Farley. - người gác thang máy nói. - Xin chào. - ông bà Farley nói. Không ai nói chuyện với ai. Họ nhìn vào vai người gác thang máy. Xuống đến tầng trệt, Isabel mỉm cười để bà Farley ra trước, cô theo sau, rồi ông Farley gật đầu ra hiệu bằng mắt cho Jimmy ra trước, và rõ ràng là ngạc nhiên khi Jimmy ra trước thật. Ông bà Farley đi ra cửa trước họ; người gác đứng đó, mở cửa ôtô cho họ. Chiếc ôtô Packard bốn chỗ bỏ mui, loại thể hiện quyền thế, chẳng hề giống loại xuồng cao tốc kêu ùng ục trong nước chút nào. - Ai mà tưởng được rằng chúng mình phải cuốc bộ trong khi cái lũ rác rưởi kia cưỡi ôtô như thế. Không sao, mọi sự rồi sẽ thay đổi, tất cả sẽ thay đổi. Anh đoán em biết là ai to mồm nhất ở quảng trường Union hôm kia. - Em nghĩ là em biết. - Isabel nói. - Anh không thích giọng điệu của em. Không hiểu sao anh không hẳn thích giọng của em. - anh ta bắt đầu huýt sáo còn cô hát: “Hãy đưa em trở lại Manhattan, thành phố cũ thân yêu, bẩn thỉu.” Ở đại lộ Madison, họ suýt bị chiếc taxi Paramount to tướng tông phải. Bị Jimmy chửi, người tài xế nói: “Xéo mẹ mày đi, tao nhổ vào mắt mày.” Cả Isabel và Jimmy nghe rõ ràng người khách duy nhất, một cô gái mặc áo lông thú, bảo người lái xe: - Cho qua, nhổ vào mắt bọn chúng. Chiếc ôtô bật đèn và lao nhanh về hướng nam Madison. - Một cô gái đẹp. - Isabel nói. - Anh quen cô ta không? - Làm sao anh quen? Rõ ràng cô ta là người vùng lân cận. Chúng ta không nói năng kiểu ấy ở thành phố cũng như ở làng quê. - Lẽ tất nhiên là không, trừ việc em thấy chiếc xe đó đang vội vã tiến vào khu thương mại. - Đúng thế. Rồi cái đôi vợ chồng cáu kỉnh trong thang máy nữa chứ. Một quý ngài đeo kính và vợ ông ta. Anh cuộc lúc này họ đang cãi vã nhau trong chiếc xe đẹp đẽ, to bự ấy. Thà anh quen cô gái hét từ taxi “Nhổ vào mắt bọn chúng”, còn hơn hai con người lịch sự không chịu lùi trước người khác lấy một giây. - Đấy chính là chỗ khác nhau giữa anh và em. Em thà sống trong khu vực này của thành phố, nơi con người ít ra cũng… - Anh không nói đến việc sống với họ, hay họ là hàng xóm. Anh chỉ nói thà anh quen loại con gái kia còn hơn những người này. Anh chỉ nói thế thôi. - Em vẫn giữ nguyên ý kiến. Đúng hơn là em biết người đàn ông ấy và vợ ông ta. Đơn giản là tình cờ em biết họ là ai. Ông ta là một kiến trúc sư. - Còn anh chẳng cần biết họ là ai, mặc kệ cả cô gái kia là ai. - Một cô gái mặc áo lông chồn vizon trong một ngày như thế này. Cô ta là loại rẻ tiền. - Phải, chiếc áo lông chồn cho thấy chắc hẳn cô ta đã có thời phong lưu. Jimmy im lặng vài giây rồi tiếp: - Em biết anh nghĩ gì không? Không, em không biết đâu. Nhưng anh sẵn sàng nói nếu em hứa sẽ không buồn chán?… Anh chỉ nghĩ giữa chúng ta có một sức hút mạnh về xác thịt, nếu không thì sao chúng ta cứ tiếp tục gặp gỡ nhau khi cãi vã nhiều đến thế? - Anh nghĩ lại mà xem, thực ra chúng ta chỉ cãi nhau vì một lý do duy nhất, là cách anh nói chuyện với em thôi. Jimmy nín lặng, và họ lặng lẽ đi tiếp qua vài khối nhà. ••• Mỗi sáng Chủ nhật, Paul Farley không bao giờ thích ở một mình với vợ, và Nancy Farley cũng không thích một mình với Paul. Gia đình Farley là dân Công giáo thứ thiệt, mặc dù khi họ cưới nhau vào mùa hè thứ tư sau chiến tranh, nếu chỉ đọc về họ trên báo mà không để ý đến tên, bạn sẽ không thể nghĩ rằng lễ thành hôn được tổ chức tại Nhà thờ St. Vincent Ferrer. Bài báo viết về Paul như sau: “Anh học trường Lawrenceville và Princeton, phục vụ ở nước ngoài với hàm thiếu úy trong đại đội pháo binh thuộc Sư đoàn 27. Anh là hội viên Hội Cựu chiến binh Trung đoàn A, thành viên Câu lạc bộ Princeton và Câu lạc bộ Vợt và Tennis.” Về Nancy: “Cô McBride là thành viên của Junior League, từng học ở trường Brearley và Westover, đã ra mắt công chúng vào mùa hè năm ngoái tại vũ hội của Câu lạc bộ Colony, sau đó tại vũ hội Cotillon của Những người độc thân trên xa lộ Baltimore.” Sau khi cưới, họ có ba đứa con liên tiếp, nhưng khi đứa thứ ba là con gái qua đời, Nancy, vốn rất mong có con gái, bèn đi đến một quyết định. Đó là một sự dàn xếp trọng đại trong đời. Thời còn con gái, Nancy thường làm mọi thứ theo lời bảo ban của một chuỗi người: mẹ - bằng cấp thấp hơn cha cô, cô bảo mẫu, gia sư, các giáo viên của cô và Nhà thờ. Trong gia tộc McBride, từ thiêng liêng tuy xa xôi nhưng dễ nhận thấy, vì ông bác đằng nội của Nancy là bạn thân của cố Giáo chủ Gibbons, và những người trong họ McBride vơ lấy điều đó để xác định vị trí cho mình. Gia đình đó mộ đạo, kể cả đám đầy tớ, và trong những lần xuất hiện đầu tiên của Nancy, ngôi nhà lớn ở đường East 70 vẫn là một phần những hình ảnh sùng đạo, một cái tủ không thể thiếu ngăn đựng những chuỗi tràng hạt đứt, những cây thánh giá có hình Chúa Cứu thế sứt sẹo, Kinh cầu nguyện, Sách lễ Misa của Cha Lasance và nhiều cuốn kinh khác dành cho những dịp đặc biệt. Một trong những chiến bại của Nancy chống lại ách áp chế của người lớn (bao giờ họ cũng thắng) là, đòi bỏ bình đựng nước thánh nhỏ bằng sứ trắng treo trên cửa phòng ngủ của cô. Cuối cùng cô đầu hàng vì một người bạn ở Westover đến thăm cô đã tò mò và rất hài lòng trước món đồ thiêng liêng này. Nancy là út trong bốn người con. Anh cả Thomton hơn Nancy mười tuổi. Anh đã tốt nghiệp trường Yale danh giá và trường Luật Fordham. Anh cùng làm việc với cha trong một công ty luật và chẳng quan tâm gì ngoài luật pháp và chơi gôn. Tiếp theo là Mollie, chị gái duy nhất của Nancy. Mollie hơn Nancy tám tuổi. Lúc Nancy kết hôn, Mollie đang ở Philippines, sống cuộc đời làm vợ một sĩ quan quân đội. Trẻ hơn Mollie hai tuổi là Jay-Joseph, nhưng luôn bị gọi là Jay. Cậu chưa học xong trung học, và từ khi bị lao phổi, cậu hầu như sống suốt đời ở New Mexico. Cậu có một tác phẩm lịch sử hoành tráng về Nhà thờ và dân Anh-điêng ở miền Tây nam. Giữa Jay và Nancy còn một người nữa nhưng là ca chửa ngoài dạ con làm mẹ Nancy suýt chết. Họ giấu Nancy chuyện này suốt thời con gái và sau khi cưới, rồi cả khi Nancy đã có hai con. Nancy không hề biết vụ chửa ngoài dạ con bất hạnh của mẹ, chỉ vì bà McBride không biết nên giải thích ra sao. Nó được giữ kín đến khi con gái của Nancy chết ngay lúc sơ sinh, lúc đó bà McBride mới kể với cô. Nancy tức điên lên vì được biết muộn đến thế trong đời. Nó có thể không tác động đến thái độ của Nancy với các con, nhưng làm cô cảm thấy bị xúc phạm vì sự xa cách, thiếu cởi mở của mẹ. Lẽ ra mọi người nên kể lại những chuyện như thế chứ. Mẹ nên kể cho mình những chuyện như thế,… rồi khi nhắc đến mẹ và những vấn đề liên quan đến tình dục, Nancy nhớ lại những gì được cho là nên làm và những gì đã thực xảy ra là hai chuyện khác nhau hoàn toàn. Bà McBride chấp nhận giáo lý của Nhà thờ, coi việc giáo dục giới tính cho các con sẽ gây nên nhiều phiền toái và không được phép. Vì vậy, khi Nancy mười bốn tuổi, bà chỉ bảo: “Việc này xảy ra với các cô gái”, tất cả vẻn vẹn có thế, cho đến khi Paul và Nancy kết hôn. Lúc đó bà McBride mới cung cấp cho con gái mẩu thông tin thứ hai: - Đừng bao giờ cho Paul chạm vào người khi con hành kinh. Những điều khác Nancy học được từ việc trao đổi với những người quen ở trường, từ việc lén đọc các cuốn sách mỏng phổ biến kiến thức trong Thế chiến, tường thuật tỉ mỉ những hành động hung bạo của bọn lính Đức với các cô gái Bỉ, các nữ tu sĩ, các bà già. Những cuốn sách mỏng này không khuyến khích Nancy đóng góp vào Liberty Bonds[1], nhưng giúp cô hiểu nhiều điều về giải phẫu cơ thể cô và cơ thể bọn thanh niên mà cô vẫn bơi cùng hết mùa hè này đến mùa hè khác ở bờ biển Nam Long Island. Với Nancy, sex là việc bình thường, sôi nổi và lành mạnh, chỉ hơi khó chịu khi con gái cô chết. Paul là người ý tứ, dịu dàng và hài hước. Mang thai, sự yên ổn vô song khi cho con bú, những điều chỉnh sau thời kỳ cho bú - tất cả thực hiện ít sợ hãi và đau đớn nhất, đôi khi còn thú vị - nhất là lúc cho con bú - một niềm vui siêu phàm, vì những lúc đó Nancy cảm thấy gần như sùng tín. Cô muốn có nhiều con, và vui mừng vì sự việc diễn ra như thế: được Nhà thờ chấp thuận và niềm vui tột độ khi làm mẹ. Rồi đứa con gái nhỏ chết, lần đầu tiên Nancy phát hiện ra rằng không thể đổ lỗi cho thân xác vì những điều đày đọa đôi khi đến với mình. Ngày đứa trẻ chết, Nancy đã cắt đứt với nhà thờ La Mã. Đó là sự tan vỡ âm thầm, nhưng không cuộc tan vỡ nào với nhà thờ La Mã là ngẫu nhiên. ••• Người đàn ông xách chiếc vali Gladstone màu đen từ chối những người khuân vác giúp đỡ. Ai muốn làm một việc tầm thường là xách hộ ông? Một việc nhỏ mọn như thế này. Họ nghĩ gì nhỉ? Chắc họ tưởng ông không đủ khỏe để xách nó sao? Trông ông không xách nổi chiếc vali nhỏ, một chiếc Gladstone như thế này ư? Họ không nghĩ là ông đã già đấy chứ? Hừm. Trời ơi, nếu thế thì họ buộc phải nghĩ lại đấy. Công cụ cách của thần Jupiter. Phần lớn các anh chàng khuân vác trẻ trung và trông khá cường tráng, nhưng ông ta hít một hơi sâu lúc nhanh nhẹn đi ngược lên con đường dốc thoai thoải rồi vào một nhà ga lớn. Ông đánh cược rằng mình khỏe như phần lớn bọn họ. Ông có thể bẻ họ gẫy làm đôi, vậy mà họ tưởng ông đã già và định xách hộ chiếc vali Gladstone! Ông hình dung cả đoàn mồ hôi ròng ròng trên lớp da bóng loáng như satanh. Bóng loáng như satanh. Hay thật. Eo ôi. Ông thấy buồn nôn, không muốn nghĩ đến những thân người; ông vỗ vào bụng và nắm chặt cái huy hiệu Phi Beta Kappa[2], rồi bắt đầu cuốn dây đeo đồng hồ quanh ngón tay, nhưng không hiểu sao ông lại nghĩ đến chuyện nhục dục, dù muốn nghĩ tránh đi. Ông muốn nghĩ đến công cụ cách, đến lối nói bị động vòng vo, đến dạng trung gian, đến tang và côtang, đến cuộc họp Ban Giám hiệu vào thứ Ba tuần sau… Ông ước giá đừng nghĩ đến cuộc họp vào thứ Ba tuần sau ấy hoặc bất cứ thứ Ba nào. Ông ước luôn nghĩ đến cuộc họp Ban Giám hiệu vào thứ Ba tuần sau. Ông lên một chiếc taxi và nói địa chỉ. Tài xế bật đồng hồ chậm đến mức ông phải nhắc lại địa chỉ. Người tài xế gật đầu và để lộ nửa khuôn mặt. Người đàn ông nhìn bộ mặt và ảnh của tài xế. Chẳng giống nhau mấy, nhưng họ bao giờ chẳng thế. Ông cho rằng một hãng taxi đáng tin cậy mới được hoạt động ở nhà ga. Ồ, điều đó chẳng có gì quan trọng. “Giá ta hay nghĩ đến những cuộc họp Ban Giám hiệu mà không phải ở đây lúc này, trong chiếc taxi dơ dáy của New York, tự lừa mình là đến thành phố này vì một lý do bịa đặt. Chúa nguyền rủa cô gái ấy! Ta là người đàn ông tốt. Ta là người đàn ông tồi, một người đàn ông tội lỗi, nhưng cô ta còn xấu xa hơn. Cô ta thực sự tồi tệ. Cô ta xấu xa, cô ta độc ác. Cô ta là quỷ dữ. Cô ta không chỉ ác hiểm, mà còn là quỷ dữ. Dù bây giờ mình có làm bất cứ việc gì cũng đều là lỗi của cô ta hết, vì cô gái ấy là xấu xa. Trước kia mình có tệ đến đâu cũng chưa là gì. Mình không phải kẻ đồi bại. Trước khi quen biết cô ta, mình không muốn đến New York. Cô ta làm mình phải đến New York. Cô ta buộc mình bịa ra những lý do đến New York, buộc mình nói dối vợ, lừa gạt vợ, một người đàn bà tốt và tội nghiệp. Cô gái ấy thật tai hại, lửa địa ngục không đủ cho cô ả. Ôi chao, không khí mát mẻ hơn nhiều! Không khí mát mẻ này thật tuyệt, dù ở trong taxi. Không khí taxi tươi mát! Chúa ơi! Amos ‘n’ Andy[3]. Mình ở đây, đang nghĩ đến Amos ‘n’ Andy, đến ý nghĩa của chúng. Gia đình. Bảy giờ. Mùi nấu nướng, bữa ăn đã sẵn sàng thì Amos ‘n’ Andy bắt đầu. Mình mà là người thích nghe Amos ‘n’ Andy ư?” Cửa mở, ông xuống xe và trả tiền tài xế. 2 C hàng trai ra khỏi giường và vào căn bếp nhỏ, bấm nút trên tường mở cửa trước. Anh mặc đồ lót liền mảnh, không được tươi tỉnh như hôm trước. Anh gãi đầu và ngáp trong lúc đứng cạnh cửa, đợi cho đến khi có ai đó bấm chuông. Chuông reo, anh hé cửa. - À. - anh nói và mở cửa hết cỡ. - Chào anh yêu, xem em mang gì đến cho anh này. - Gloria giơ một cái chai gói cẩn thận. - Ồ. - anh nói, lại ngáp. - Cảm ơn em. - anh trở lại giường và nằm sấp. - Anh chẳng muốn gì hết. - Dậy đi. Một sáng mùa xuân đẹp thế này. - Gloria nói. - Em không ngờ anh chỉ có một mình. - Hừm, anh đang một mình. Anh chẳng có sôđa đâu. Em phải uống rượu không pha, hoặc uống nước lã. Anh chẳng muốn gì hết. - Sao thế? - Anh say. - Vì cái gì? - Ồ, anh chẳng biết. Nghe này Gloria, anh như chết rồi. Em không phiền nếu anh đi ngủ một lúc chứ? - Chắc chắn là có. Pyjama của anh đâu? Anh mặc đồ lót đi ngủ à? - Anh chẳng còn bộ nào. Anh có hai bộ, cả hai đem giặt rồi. Mà anh cũng chẳng rõ giặt ở hiệu nào. - Hai chục đôla đây. Ngày mai anh mua vài bộ, hoặc tìm ra hiệu giặt và trả cho họ. - Anh còn ít tiền. - Bao nhiêu? - Anh không biết. - Thôi, cứ cầm lấy. Anh sẽ cần đấy. Mà em không tin anh còn tiền. - Sao bỗng nhiên em giàu thế? Chiếc áo choàng này mới ư? - Vâng. Mới toanh. Anh không bảo em cởi ra à? Hiếu khách thế! - Giời ạ, em cứ cởi ra nếu muốn. Cứ cởi ra nếu muốn. - Nhìn này. - cô nói, vì anh ta lại nhắm tịt mắt. Cô mở phanh áo choàng. Anh ta đột nhiên mang vẻ mặt của người bị đánh mà không thể đánh trả lại. - Ra thế. - anh ta nói. - Em đã ăn cắp chiếc áo. - Hắn xé rách áo em, chiếc áo dạ hội mới của em. Em phải có gì để mặc vào ban ngày chứ. Em chỉ mặc áo dạ hội, mà không thể ăn mặc như thế ra ngoài được. - Anh cho là anh sẽ uống một cốc. - Tốt. - Thằng cha ấy là ai? - Anh không biết hắn đâu. - Sao em biết anh không biết hắn? Của nợ, sao em không nói phắt ra hắn là ai có phải đỡ mất thời gian không? Em lúc nào cũng thế. Anh hỏi em, em nói anh không biết, hoặc em nói loanh quanh, vòng vo cả tiếng đồng hồ làm anh muốn phát rồ rồi mới kể cho anh nghe. Nếu em nói ngay từ đầu có phải hơn không. - Thôi được, em sẽ nói đây. - Nào, tiến lên và kể cho anh nghe! - Tên hắn là Weston Liggett. - Liggett? Liggett. Weston Liggett. Anh biết hắn. - Anh không biết. Sao anh lại biết hắn? - Anh không quen hắn, nhưng biết hắn là ai. Hắn là tay đua thuyền buồm và từng là một vận động viên Yale có hạng. Rất dễ gần. À, đã có vợ. Anh đã nhìn thấy tên vợ hắn. Chuyện ra sao? Em đã đến đâu? - Nhà hắn. - Nhà hắn? Thế vợ hắn, bà ta có thích các cô gái không? - lúc này anh ta tỉnh hẳn. - Bà ta cho em chiếc áo này? Em đến đó và có được nó? - Em nghĩ anh đang giả vờ. - Em tưởng anh giả vờ ư. Thì đúng là thế. Mọi chuyện lại bắt đầu, rồi lại chấm dứt. Vì thế em mới đến đây, vì em tưởng anh có ai đó. Em có biết em nên đến đâu không? Em nên đến nhà thương điên. Họ đưa những người chỉ làm một phần mười những việc em làm vào nhà thương điên. Này, cầm lấy những đồng tiền bẩn thỉu và chai whisky khốn kiếp của em rồi xéo ra khỏi đây. Cô không nhúc nhích. Cô ngồi đó, trông như một người đang mệt mỏi vì phải đợi tàu. Hầu như cô không nghe anh nói. Tâm trạng này trái ngược với sức sống tràn trề một phút trước đây của cô, chắc chắn là cô đã nghe thấy những lời anh nói và chúng làm tâm tính cô biến đổi hẳn. - Anh xin lỗi. - anh ta nói. - Anh rất xin lỗi, Gloria. Thà anh cắt cổ còn hơn nói thế. Em tin anh chứ? Hãy tin anh, nhé? Hãy tin rằng anh nói thế chỉ vì… - Vì anh tin thế. - cô nói. - Không. Bà Liggett không phải là dân đồng tính, nếu anh muốn biết. Em đến căn hộ của họ với chồng bà ta và ngủ với ông ấy. Em lấy cắp chiếc áo choàng vì hắn xé rách áo em. Hắn gần như cưỡng hiếp em. Hừ. Anh cho chuyện ấy là buồn cười, nhưng đấy là sự thực. Nhiều người không hiểu em như anh đâu, anh thừa biết thế. Giờ thì em đi đây. Eddie đứng dậy và chặn ở cửa. - Thôi đi. - cô nói. - Chúng ta đừng vật lộn nhau nữa. - Ngồi xuống, Gloria. Em cứ ngồi xuống đã. - Vô ích thôi Eddie, em quyết rồi. Em không thể coi anh là bạn vì anh mắng nhiếc em lúc em tin cậy kể chuyện cho anh nghe. Em tâm sự với anh nhiều hơn với bất cứ ai khác, kể cả bác sĩ tâm lý của em. Nhưng ít ra ông ta còn có đạo đức nghề nghiệp. Ít ra ông ta không nổi khùng và rủa sả em. Em tin anh như một người bạn, vậy mà… - Em có thể tin anh. Đừng đi. Vả lại, em không thể đi như thế này. Hãy nghe anh, ngồi xuống đã, em yêu. - anh cầm tay cô, và cô để anh dẫn đến ghế. - Anh sẽ gọi điện cho một cô gái anh quen, tối qua anh vừa đi ăn với cô ấy, bảo cô ấy mang ít quần áo lại đây. Cô ấy có tầm vóc như em. - Cô ta là ai? - Em không biết đâu. Tên cô ấy là Norma Day. Cô ấy học ở đại học New York. Rất xinh. Anh sẽ gọi và cô ấy đến ngay bây giờ. Đằng nào anh cũng có hẹn với cô ấy mà. Được không? - Được. - Gloria hài lòng và tươi tỉnh hẳn lên. -Em đi tắm một cái. Được chứ? - Nhất định rồi. - Thế nhé. - cô nói. - Anh ngủ đi. ••• Weston Liggett bước ra sân ga đến chỗ bắt đầu một dãy ôtô đỗ, và lúc đến đầu dãy, ông nghe thấy sáu, bảy tiếng còi. Một chiếc Ford - loại vừa chở khách vừa chở hàng - chạy tới. Cô gái lái xe trẻ măng, hai cô khác trạc tuổi cô cùng ngồi trong cabin. Liggett bỏ mũ ra vẫy. - Chào các cô gái xinh đẹp! - ông ta nói. Ông đứng cạnh cửa xe bên phải. Cô gái lái xe nói với ông: - Bố ơi, đây là Julie Rand. Đây là bố mình. - Chào cô. - ông nói với cô gái lạ mặt, rồi với cô ngồi giữa. - Chào Frances. - Chào Liggett yêu quý. - Frances nói. - Bar đâu? - ông nói. - Nó lái xe đưa mẹ đến câu lạc bộ. Chúng ta sẽ đến đấy ăn trưa. Bố lên xe đi kẻo muộn mất. - Không muộn đâu. Mẹ biết bố đi chuyến tàu này. - Đằng nào chúng ta cũng muộn. - Ruth Liggett nói. -Luôn luôn muộn. Y như quý ông Jimmy Walker[4] vậy. - Ô hô hô. - cô Rand cười phá. - Cửa kia đóng chưa, bố? - Ruth nói. - Bố nghĩ là rồi. Rồi. - ông nói. - Nó vẫn lách cách. Chúng ta nên xoay chuyển việc này trong lúc có thể vớ bẫm gì đó. - A ha ha. Chúng ta sẽ xoay chuyển và bán nhà. Thế có hợp ý con không? - ông nói. - Ồ. Lúc nào cũng nói đến chuyện chúng ta khánh kiệt ra sao. Mà lại ngay trước mặt người lạ. - Ai là người lạ? À, cô Rand. Cô ấy không hẳn là người lạ kia mà? Cô có phải là con gái ông Henry Rand không? - Không, cháu là cháu ông ấy. Bố cháu là David Rand. Song cháu đang đến thăm bác Henry và bác gái Bess. - Ờ, vậy cháu không phải là người lạ rồi. Cháu thích chiếc ôtô này không? - Không gọi là ôtô, bố ơi. - Ruth nói. - Cháu rất thích. - cô Rand nói. - Cháu thấy nó rất đẹp. - Chà, nói lảng cừ ghê! Cô ấy không thích đâu. Cô ấy không muốn đi xe này. Bố nên nhìn thấy Rand lúc đó. Ra khỏi nhà, cô ấy chỉ nhìn một cái và nói: “Đây là thứ bọn mình sắp đi ư?” Đúng không nào? Thú nhận đi.” - Ờ, trước kia mình chưa bao giờ đi xe tải. - Xe tải! - Ruth nói. - Ở chỗ cháu không có loại xe vừa chở khách vừa chở hàng sao? - Không. Bọn cháu chỉ đi các loại ôtô thông thường. - Cô ấy từ… nơi ấy tên là gì nhỉ, Randy? - Wilkes-Barre, PA[5]. - Một thành phố rất đẹp. - Liggett nói. - Tôi nhớ rất rõ. Ở gần Scranton. Tôi có những người bạn rất thân ở Scranton. - Bác có quen ai ở Wilkes-Barre không? - cô Rand hỏi. - Tôi cho là không, kìa… Ruth! - Lẽ ra hắn ta phải đi đúng đường của mình chứ. - Con đừng viện cớ thế. Bố nhắc con đừng liều khi có nhiều người khác trong xe. - Ôi chào, hắn không đâm được con đâu. - Đấy không phải việc con nghĩ. Chả trách chiếc xe này móp méo hết cả. - Bố đừng đổ tại con. Con không lái nó nhiều đến thế đâu. - Phải, bố công nhận con không phải chịu trách nhiệm về chiếc xe này, nhưng chiếc Chrysler thì có đấy. Khớp ly hợp không khỏe vì con chạy suôi. Chắn bùn thì cong queo. - Có người đã làm cong một cái. Cái đằng sau bên trái ấy. Việc này xảy ra khi ai đó lái xe chứ không phải con. - Thôi, không nói đến chuyện đó nữa. - Lẽ tất nhiên là không. Con đúng. Chính vì thế chúng ta mới không nói nữa. - Thế có công bằng không? Bố đổi đề tài khi bố sai ư, Ruth? - Không, bố yêu quý. Như thế không công bằng. - cô giơ bàn tay ra phía sau. Ông hôn tay cô. - Sao thế, bố! Những người khác không nhìn thấy. - Suỵt. - ông nói rồi im lặng cho đến lúc tới câu lạc bộ. - Đây rồi. Bố đi rửa mặt đã. Ba phút nữa gặp lại nhé. Trong phòng thay đồ, ông bấm chuông gọi người phục vụ và dàn xếp đổi hai cái séc lấy tiền mặt. Câu lạc bộ quy định mỗi ngày chỉ được đổi không quá một séc hai lăm đôla ra tiền mặt, nhưng ông ghi hai ngày và người phục vụ, trước kia đã làm việc này nhiều lần, đổi cho ông năm chục đô. Sáu chục đô la để lại cho Gloria và các khoản khác chi cho cô làm ông chỉ còn lại ít tiền, và ông biết Emily sẽ thấy lạ khi ông tiêu nhiều thế trong có một đêm. Ông gọi một cốc vại whisky pha sôđa và uống, thầm hỏi vì sao lại cảm thấy mềm lòng như thế với Emily, trong khi biết chắc mình chẳng sẵn sàng gặp bà chút nào. Lúc này ông càng chẳng muốn gặp bà. Ông phân vân vì đã hôn tay Ruth. Đã lâu rồi ông không hôn tay con, và chưa bao giờ ông làm nhiệt tình và tự nhiên đến thế. Trước kia, đây là một phần trò ông hay chơi với Ruth; cô đóng vai một cô gái được ve vãn, còn ông là một anh chàng nhà quê. Ông gặp cả nhóm trong quán thịt nướng. Ông đến thẳng chỗ Emily và hôn lên má bà. - Chà, có người cầm một cốc vại kìa. - bà nói. - Người đó cần một cốc vại. - ông đáp. - Người đó thấy nôn nao và rất cần uống một cốc. Mọi người uống gì nào? Cocktail nhé? - Không, cảm ơn. - Emily nói. - Em nghĩ bọn con gái không nên uống gì nếu chúng muốn chơi tennis. Chúng ta gọi món nhé? - Thịt nướng. - Ruth nói. - Cậu thế nào, Randy? Thịt nướng nhé? - Ừ. - Tất cả chúng con đều muốn ăn thịt nướng. - Ruth nói. - Em cũng thích, phải không Frannie? - Em thì không. - Barbara, con gái út nhà Liggett nói. - Chẳng đỏng đảnh gì đâu nhưng thịt nướng đúng là món em không muốn ăn. Julie, nếu chị không thích thì cứ nói. Chị cũng thế, Frannie. Mẹ có thích thịt nướng không? - Không con ạ, mẹ thích sườn hơn. Liêu có phải đợi lâu không, Harry? - Khoảng mươi phút, thưa bà Liggett. Các vị có thể dùng món súp khai vị, ăn hết súp sẽ có món sườn. - Bố ăn thịt nướng nhé? - Ruth nói. - Ừ. Cho bố cocktail cà chua trước, được không Ruth? - Được chứ ạ. Vậy quyết định thế nào đây? Mấy suất sườn nào? Mẹ ăn sườn. Barbara, sườn. Randy, sườn. Bố, thịt nướng. Frannie, thịt nướng và con, thịt nướng. Anh nhớ chưa, Harry? - Rồi, thưa cô Liggett. Còn món rau? - Mang nhiều rau. - Ruth nói. Suốt lúc Ruth chọn món, Liggett quan sát con và nghĩ đến Emily. Emily - lúc này ông không nhớ ra - vẫn còn nguyên khuôn miệng, cái mũi, cấu trúc xương và trong chừng mực nào đó, nước da đã từng tạo nên vẻ đẹp của bà. Nhưng hiện giờ Emily không còn đẹp nữa. Những gì Emily giữ lại được chỉ làm người ta tự hỏi chuyện gì đã khiến bà chỉ còn là một phụ nữ xoàng xĩnh có nét ưa nhìn. Lẽ đương nhiên cặp mắt có ảnh hưởng nhất. Giờ đây trông chúng giống mắt một người bị nhiều cơn đau đầu, dù việc đó chẳng xảy ra lần nào. Emily là người hết sức khỏe khoắn. Ông quan sát đôi bàn tay bận bịu của bà: hết mở khăn ăn, sờ sẫm mà không thay đổi vị trí bộ đồ ăn bằng bạc, rồi chắp hai tay lại. Bà có thói quen ngắm nghía đôi bàn tay khi sử dụng. Ông băn khoăn và lần đầu tiên chú ý đến điều đó. Ông không thể nhớ đã lần nào nhìn thấy bà ngắm đôi tay khi để yên chưa, chắc lúc ấy bà có ý thức là chúng vô dụng. Bà ngắm nghía như thể kiểm tra khả năng và sự khéo léo của chúng. Đó chỉ là một phần khác trong cách sống của bà. Cuộc đời bà cũng y như thế. Bà thường ngồi nhà, tay cầm quyển thơ và nhìn ra cửa sổ, mắt mơ màng. Ông nhìn lại bà lần nữa, rồi lần nữa, tự hỏi những ý nghĩ hay ho gì bắt nguồn từ những dòng thơ kia. Đột nhiên, bà nói một câu đại loại như: - Anh nghĩ xem tối thứ Năm tới em có nên mời anh chị Hobsons không? Anh ưa chị ta phải không? Liggett cho rằng có nhiều đức ông chồng giống như ông; ít nhất có hai hoặc ba người cùng trang lứa đã thổ lộ với ông rằng họ không hiểu vợ. Một vài người đã kết hôn chừng hai chục năm. Họ khá chung thủy nếu không nói là hoàn toàn chung thủy, chu cấp cho vợ con đầy đủ, là người cha tốt, làm việc chăm chỉ, cư xử chừng mực. Khoảng một năm sau cuộc suy thoái, khi thấy đó không phải là một sự kiện nho nhỏ sắp qua nữa, những người đàn ông này bắt đầu ngẫm nghĩ đến những thứ cuộc đời đem lại cho họ hoặc họ đã nhận được. Thường thì đàn ông loại này tính toán “Mình có vợ và hai đứa con…” rồi tiếp đến là các khoản “đầu tư” cho họ, tiền mặt, việc làm, nhà cửa, ôtô, du thuyền, ngựa, quần áo, đồ đạc, tài sản ủy thác, ống nhòm, quan hệ hội hè… Họ - những người đàn ông này - nhận ngay ra rằng, vào mùa xuân năm 1931, toàn bộ của nả sờ sờ chỉ còn một phần tư giá trị ban đầu, có khi còn ít hơn thế. Có nhiều trường hợp chẳng còn gì. Khi nạn suy thoái đạt tới đỉnh điểm, những người đàn ông ấy phải thừa nhận một thực tế là những thứ có thể mua bán trước kia từng rất giá trị thì nay chẳng đáng giá gì. Ít nhất là nó thể hiện ra như thế. Một số ít người còn phân vân liệu những thứ họ từng mua có giá trị đúng như số tiền đã bỏ ra không. Chà! Cũng bõ công suy nghĩ, đáng mua những cuốn sách đắt tiền, dày cộp để tìm hiểu xem ra sao. Một số anh chàng thích đùa, nhanh nhạy trên sàn chứng khoán đêm đêm về nhà lục tìm xem John Stuart Mill[6] viết gì, xem John Stuart Mill là thằng cha nào. Trong số bạn bè của Liggett, có những người đàn ông bắt đầu kiểm kê “mình có một vợ và hai con”, cùng bản danh sách những của cải vật chất dành cho họ, rồi trở lại mục đầu tiên: vợ. Lúc đó họ khám phá ra rằng, họ không thể chắc chắn là đã có vợ. Tỷ lệ “tử vong” các cuộc hôn nhân trong tầng lớp của Liggett gần đạt đến 100%, nhưng trước cuộc đại suy thoái chẳng có lý gì để phát hiện ra việc này; hầu hết đều tin rằng họ làm việc vì hạnh phúc của vợ con cũng như sự thăng tiến của mình, nhưng đàn bà nhàn rỗi thường lười biếng, dù ông chồng làm ăn buôn bán kiếm ra hàng triệu hay đang cố giữ những công việc chỉ mang lại bốn chục đôla mỗi tuần. Năm 1930, bạn nhìn thấy những người đàn ông như Liggett trên phố Long Island và Westchester, đội mũ, mặc áo gió, đi giày thể thao; Chủ nhật tản bộ với vợ, cố sức hiểu vợ vì tin rằng vợ là thứ họ có thể trông mong. Lẽ tất nhiên họ chẳng có chủ ý xúc phạm trong thái độ cư xử, và các bà vợ cũng chẳng nghĩ là bị xúc phạm nên mọi sự vẫn suôn sẻ. Vợ thì biết chồng hay đưa mình đi xem đá bóng, đến rạp hát; chồng thanh toán các hóa đơn chọ vợ, mua quà Giáng sinh cho vợ, rộng rãi với những mối quan hệ xấu của vợ, không can thiệp vào việc giáo dục và nuôi dưỡng các con. Đôi khi, người vợ còn chẳng để ý vì sao chồng mình lại khác thường hơn, cố gần gũi hơn. Chị ta biết có một cuộc suy thoái; chị đã đọc trên báo về những người vợ can đảm kề vai sát cánh với chồng; chị đọc các bài thuyết giảng trên báo số ra thứ Hai, trong đó các giáo sĩ dạy các con chiên (và đám đông, lúc nào cũng là đám đông) rằng cuộc suy thoái là một việc tốt đẹp vì nó đưa vợ và chồng xích lại gần nhau. Liggett không phải là một người chồng như thế; Emily càng không phải là người vợ như thế. Trước hết, Liggett là dân Pittsburgh, còn Emily là dân Boston. Chỉ riêng điều ấy cũng đủ quan trọng lắm rồi. Nếu không cưới được Emily, Liggett sẽ chỉ là người để Emily rẻ rúng. Hình như suốt đời, Emily đã dồn nén sự khinh rẻ, và chắc phải giãi bày với một người thuộc tầng lớp thượng lưu Mỹ, vì không một người nước ngoài hoặc người Mỹ thuộc tầng lớp dưới có thể hiểu được rằng, bà cảm thấy mình có quyền được biểu lộ sự khinh miệt. Những thứ Emily có là tính thống trị của thực dân, là sự gắn bó trọn vẹn với những anh chàng Harvard siêng năng và những người đàn bà của họ. Lẽ tất nhiên Câu lạc bộ Winsor-Vincent kết nối trực tiếp bà với những người xuất thân cùng giới. Bà có quan hệ với một vài gia đình ở New York và họ thành một quần thể bất khả xâm phạm; họ không bao giờ lỗi thời. Liggett sửng sốt vì phải mất một thời gian dài sau khi cưới Emily, ông mới hiểu rằng bà chưa bao giờ ghé vào khách sạn nào ở New York. Bà giải thích lý do duy nhất để đến New York là thăm họ hàng, và bà ở nhà họ chứ không đến khách sạn. Ông đồng ý, và đúng là như thế, ông chẳng bao giờ kể với bà những chuyện nghịch ngợm từ thuở còn bé tại các khách sạn New York: lần ông thả một cuộn giấy vệ sinh xuống đại lộ Năm, lần ông men theo gờ cửa sổ này đến cửa sổ khác. Ông cảm thấy sờ sợ bà. Nhưng Emily thà lấy Liggett còn hơn lấy một anh chàng Boston. Anh ta giàu có và điển trai, là một vận động viên đích thực của trường Yale. Những phẩm chất ấy đủ giải thích sự hấp dẫn của anh ta với cô. Nhưng Liggett còn hơn thế. Emily hào phóng, khỏe mạnh, sôi nổi, cô muốn có anh ngay từ lần gặp đầu tiên. Hồi mới giao du với Emily, Liggett sợ dáng vẻ và giọng nói của cô (anh không bao giờ khắc phục được giọng nói, chỉ quen dần với cung cách). Emily không xinh đẹp như nhiều cô gái khác anh quen, nhưng anh không quen và không gần gũi người nào khác ngoài cô. Họ gặp nhau trong bữa tiệc của cô tiểu thư giàu có bước vào giới thượng lưu, một trong những cuộc viếng thăm New York hiếm hoi của cô - lần cuối cùng của anh trước khi bắt đầu đợt tập huấn. Ngày hôm sau, Liggett hẹn Emily đi uống trà nhưng phải hủy và họ bắt đầu thư từ qua lại. Liggett thường xuyên viết thư vì anh phải tiếp tục học, đồng thời tập huấn chèo thuyền; còn Emily theo một lịch trình chặt chẽ: mỗi tuần không bao giờ trả lời quá một bức thư, và hai ngày sau khi nhận được thư mới trả lời. Vì Emily, Liggett quyết học trường Kinh doanh Harvard. Việc này làm bố anh rất hài lòng. Ông bèn thưởng cho anh một chiếc Ford bốn chỗ và bất cứ thứ gì anh đòi. Có một thứ anh không thể xin, đó là tấm thân trắng nõn nà của Emily. Một đêm đông ở Boston, Emily đã hiến thân cho anh không hề đòi hỏi. Sau khi chờ đợi ba tuần khốn khổ xem có xảy ra sự gì không, họ quyết định đính hôn. Emily thà lấy Liggett còn hơn lấy một anh chàng Boston, vì Liggett chẳng bao giờ coi sự đam mê của cô là chuyện đương nhiên. Một người đàn ông Boston có thể nghĩ như thế, hoặc nhìn ngó quanh quất để tìm người hơn hoặc tương tự. Liggett không hề coi là chuyện dĩ nhiên. Có nhiều cách nói tế nhị về việc ngủ với nhau. Khi nói bằng sắc thái của đại lộ Commonwealth, không một người đàn ông nào sinh trưởng ở tả ngạn sông Connecticut có thể không chủ ý. Khi một người đàn ông lắng nghe những lời ấy, khi anh ta truyền đạt cho người phụ nữ hoặc đề nghị cô ấy nói lên, anh ta không tiếp nhận tất cả ngay lập tức. Anh ta còn muốn nhiều hơn nữa. Sự thể là như thế, và đó là điều bí mật. Những khoảnh khắc gần gũi của họ là của riêng họ, đến mức Liggett chưa một lần nói đến việc Emily mang thai đứa con đầu lòng của họ với bất cứ ai, kể cả với em gái mình. Họ nhất trí đấy là chuyên vặt; đích thân Emily nói chuyện này với em gái Liggett. Nhưng đấy chỉ là một phần trong cách ông cảm nhận Emily. Trong suy nghĩ của Liggett, bất cứ việc gì liên quan đến cuộc sống tình dục của họ không phải chuyên đem ra bàn với người thứ ba. Ở mức độ nào đó, mọi việc khác trong quan hệ của họ là vừa phải. Trong lúc bốc đồng, Liggett luôn muốn nói về Emily, nhưng ông đã đi một bước quan trọng vượt lên trên sự thô thiển: ông thầm nhận ra sự cám dỗ của mình là thông tục. Một tài sản có giá trị đến đâu cũng có thể có một hiệu quả xấu. Khi cần, một người đàn ông có thể nói về vợ mình với người thứ ba, hoặc nam hoặc nữ. Vì không thể bàn về Emily với một người đàn ông, ông bèn đến nơi có thể nói với một người phụ nữ. Phải nói với một người biết Emily, một người gần gũi với bà. Ông nhìn quanh ngó quẩn và lần đầu tiên nhận ra rằng trong từng ấy năm sống ở New York - bảy năm, kể từ 1920 - Emily không có lấy một người bạn thân. Bạn thân nhất của bà là Martha Harvey, người Boston. Martha đã ly dị chồng. Bà lấy một triệu phú trẻ dốt nát, lúc nào cũng say khướt, thấp hơn bà gần chục centimét và chưa bao giờ nói nổi một từ bất lịch sự hoặc vô lễ với bất cứ ai trên đời. Martha lớn lên cùng Emily, họ gặp nhau thường xuyên, nhưng Liggett thấy không thể đến gặp bà để bàn luận về Emily. Martha cùng một giuộc với Emily mà thôi. Song, thời điểm thật cấp bách. Tiền của gia đình Emily đổ phần lớn vào nhà máy sợi. Cha Emily, một bác sĩ, là người vui tính, không giàu óc tưởng tượng cho lắm. Ông học y vào cái thời các nhà phẫu thuật còn nói là “mủ đáng ca ngợi”. (Ông chưa bao giờ hết ngạc nhiên khi biết rằng Walter Reed[7] đã đúng). Trên thực tế, sự hiện diện của ông trong ngành y được giải thích là do ông ham mổ cho mèo. Đây là hoạt động trí não duy nhất ông thích thú, vì thế cha mẹ ông hướng ông vào ngành y. Một hướng đạo sinh được khen ngợi như cha của Emily sẽ có ích trong lúc cấp cứu, nhưng rất ít bạn bè đến với ông vì cảm lạnh hoặc đau họng để ông có dịp rèn luyện tay nghề. Nghề nghiệp chỉ là cái cớ để ông bỏ bê trách nhiệm tài chính, nhưng cứ một, hai năm ông lại nảy ra một ý tưởng, và lần này là bán tống bán tháo cổ phiếu nhà máy sợi rồi ném tiền mặt vào một chỗ nào đấy rất mơ hồ. Lần này chỗ mơ hồ ấy là đồng mác Đức. Ông chỉ biết chúng là thứ có giá trị, vì từ thời thanh niên ông đã đến Đức du lịch. Ông thấy ý tưởng ấy thật thú vị, và tài sản của ông sẽ sớm tăng lên gấp đôi. Ông sẽ có một lâu đài bên bờ sông Rhine, nơi hồi ấy người ta bảo có thể thuê nó với đầy đủ người giúp việc và mọi trang thiết bị với giá 100 đôla một tháng. Liggett chẳng quan tâm đến việc ông già tiêu bao nhiêu tiền vào ý tưởng to lớn ấy, nhưng thấy ông đã dùng số tiền ấy rất dại dột. Làm bác sĩ chẳng kiếm đủ ăn, nhưng ông được thừa kế. Với Liggett, thừa kế là một loại lòng tin mà vị bác sĩ không có quyền vi phạm. Chí ít thì không có quyền lãng phí. Nếu vị bác sĩ hết năm này đến năm khác đừng ra vẻ có trách nhiệm thường xuyên trong việc tiền nong, thì ông lão cũng không liều lĩnh phung phí tất cả tiền của chỉ vì một linh cảm ngu xuẩn. Năm ấy bông được giá và trong lúc còn đang bàn thảo thì đau đớn thay, cổ phiếu trên thị trường sụt giảm, ít ra Liggett đã thấy có dịp cho thị trường mua cổ phiếu của vị bác sĩ mà không gặp phản ứng mạnh mẽ. Không, Liggett không thể chê bai nặng lời quyết định bán của ông già (thực ra, còn hơn là lúc giá chạm đáy mới bán). Nhưng đồng mác Đức, chao ôi! Liggett những mong Emily có một người anh trai, hoặc một người em gái như nhiều người khác. Nhưng em gái của Emily là người hoàn toàn xa lạ, còn anh trai thì bà không có. Tiếp sau là một người bạn - Martha. Ông bỏ dự định nói với Martha khi tên bà ta gợi lên hình ảnh của bà. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Liggett thấy cần phải nói về tình trạng này với ai đó. Hè năm ấy, Emily và hai đứa con gái ở Hyannisport, còn Liggett không muốn nói với Emily là ông không thể làm được gì. Bà nuôi dạy con cái rất nghiêm khắc và nói về người cha sẽ làm bà lo lắng. Khi ông gọi điện, Martha sắp sửa đi ăn tối một mình; bà không ngạc nhiên hay tò mò khi ông gọi điện mời cơm. Bà đồng ý. Ông hỏi bà có thích uống rượu không, bà đáp là có, rất thích, và ông nói sẽ mang theo một chai gin. Ông tạt vào một cửa hàng trên đại lộ Lexington, mua chai gin sáu đôla, uống một cốc với ông chủ Matt, rồi lên taxi - một trong những loại Yellow nhỏ, thấp do Philadelphia sản xuất vào thời ấy, trông chẳng Mỹ tí nào. Martha sống ở Murray Hill giữa Park và Madison, trong một căn hộ có thang máy. Họ uống cocktail hoa cam mà Liggett rất ưa. Martha hỏi thăm Emily một lần, chỉ một lần thôi. Bà nói: - Emily sao rồi? Chị ấy đang ở Hyannisport phải không? Ông nói Emily khỏe, và suýt tự trách mình đã nói thế, dù Martha biết hay không, thì Emily cũng không khỏe tí nào. Sau đó, khi thấy Martha không đả động gì đến Emily, ông nhận thấy mối nguy thực sự khi nói về Emily, người có tất cả những gì Martha có - sự tự tin, đĩnh dạc mà với nó Martha đã nhận lời ông mời ăn tối vì cô là chính cô, không chỉ đơn thuần là một người bạn đáng tin cậy của vợ ông - có thể tâm sự với cô ấy đấy. Nhưng đồng thời những điều ông muốn thổ lộ cứ tàn dần. Ông bắt đầu thấy vui vì được bầu bạn với Martha. - Cô đói không? - ông hỏi. - Không đói lắm. Chúng ta đợi thêm chút nữa. Khoảng chín giờ trời sẽ mát mẻ, nếu anh không có việc gì vội. - Ồ không, tôi không vội gì đâu. - Chúng ta uống cocktail nữa nhé? Anh biết không, tôi thích uống rượu. Kỳ thật, trước khi lấy Tommy tôi chưa bao giờ biết gì về chuyện rượu chè, còn anh ấy hay ép tôi uống kỳ say, nhưng thế là không tốt. Tôi không thích bị người khác chuốc say. Nếu muốn, tự tôi uống đến say. Tôi sẽ làm như thế. Ông cầm cái bình pha rượu xuống bếp, làm mấy ly cocktail rất nặng, không chủ tâm hoàn toàn nhưng cũng không hoàn toàn ngẫu nhiên, vì điều bà vừa nói nhắc ông đến một thực tế về cơ thể và sinh học, dù-ông-muốn gọi-nó-là-cái-quái-gì-đi-nữa, rằng: Martha đã từng có chồng, vì thế đã từng ngủ với một người đàn ông. Vào lúc này, điều đó không có nghĩa gì hơn với ông. Chỉ lạ là không hiểu vì sao ông không nghĩ bà như một phụ nữ có cuộc sống riêng tư. Hầu như ông luôn nghĩ Martha là người ông biết khá rõ, là một người bạn tốt, một người bạn không biết đến tình dục của Emily. - Hôm nay ở Paris là Ngày Bastille. - ông nói khi mang cocktail trở lại. (Đây cũng là ngày tuyên án Sacco và Vanzetti[8]). - Thế đấy. Tôi hy vọng sang năm sẽ có mặt ở đó trong Ngày Bastille. - Thực thế ư? - Tôi nghĩ thế. Hè này tôi không thể đến Cape được vì Tommy mà biết tôi ở đâu là réo điện thoại suốt ngày. - Không có cách nào ngăn chuyện đó ư? - ông hỏi. - À, tôi nghĩ là có. Con người hay nghĩ ra nhiều thứ giống y như cảnh sát vậy. Nhưng sao lại làm thế kia chứ? Hình như người ta không nhớ là tôi thích Tommy. - Thế ư? - Rất thích. Tôi không yêu anh ta, nhưng thích anh ta. - Chà, tôi không biết thế đấy. - Tất nhiên là anh không ngờ. - Thật đấy mà. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên cô và tôi thực sự trò chuyện với nhau. - Đúng thế. Martha vắt một cánh tay lên lưng ghế sofa. Bà bỏ điếu thuốc xuống và dụi vào cái gạt tàn, rồi cầm ly cocktail lên. Bà tránh mắt ông khi nâng ly: - Nói thực, tôi chưa bao giờ nghĩ cả hai chúng ta lại thích ngồi nói chuyện và uống cocktail với nhau như thế này. - Vì sao? - Anh có muốn biết sự thực không? - bà nói. - Tất nhiên là có. - Vậy thì được. Thực ra tôi chưa bao giờ ưa anh. - Cô không ưa? - Không. - bà nói. - Nhưng lúc này thì có. Tại sao? Tại sao? Tại sao? Ông muốn hỏi. Tại sao? Tại sao lúc này em lại ưa tôi? Tôi thích em. Sao tôi thích em đến thế! - Nhưng lúc này cô ưa tôi! - ông nhắc lại. - Phải. Anh không muốn biết vì sao bây giờ tôi lại thích anh, sau một thời gian dài không ưa anh à? - Lẽ tất nhiên là muốn chứ, nếu cô muốn nói và nếu không thấy tôi hỏi vô duyên. - Lại đây. - bà nói. Ông ngồi cạnh bà trên sofa và cầm lấy tay bà. - Em thích mùi của anh. - Vì thế mà bây giờ em thích tôi, còn trước kia thì không? - Mặc xác cái trước kia! - bà đặt tay lên má ông. - Đợi một chút. - bà nói. - Đừng đứng dậy. Để em làm cho. - bà bước đến một trong hai cửa sổ lớn và kéo mành xuống. - Trên phố có người đấy. Ông đã có bà, mặc nguyên quần áo. Từ lúc đó trở đi, ông không bao giờ yêu Emily được nữa. - Anh muốn ở lại đây đêm nay không? - bà nói. - Nếu chúng ta ở với nhau suốt đêm mà em có thai cũng chẳng hại gì. Anh muốn ở lại không? - Có, có chứ. - Tuyệt. Em sẽ gọi cho người hầu, bảo cô ta sáng mai đừng đến sớm. Anh sẽ ra khỏi đây trước mười giờ, em định nói là sáng mai, được không? Hè năm ấy, họ có một cuộc tình đắm say, dữ dội. Họ ăn tối tại các nhà hàng Pháp nho nhỏ, uống loại whisky dở tệ bằng tách cà phê nho nhỏ. Tháng Chín, Martha đi xa bằng thuyền buồm, và đêm trước khi ra khơi, bà bảo ông: - Bây giờ nếu chết em cũng chẳng cần, còn anh? - Không. Với lại, anh muốn sống. - ông đã tính toán suốt mùa hè trên giấy nháp, những thu xếp tài chính để ly dị Emily. - Anh nhắc lại nhé, lấy anh đi. - Không, anh yêu ạ. Chúng ta không phải một cặp hay ho gì đâu. Nhất là em. Nhưng em hiểu rằng trong phần đời còn lại của chúng ta, bất cứ khi nào gặp nhau, nếu em nhìn vào mắt anh và anh nhìn vào mắt em vẫn thấy thứ hiện giờ chúng ta nhìn thấy, vậy không gì có thể ngăn chúng ta được, phải không? - Không. Không gì hết. Hai năm sau, ông gặp lại bà ở Paris. Trong khoảng thời gian chờ đợi, ông đã gặp và ăn nằm với mươi người đàn bà khác, còn Martha hú hí với một tài xế taxi người Bạch Nga. Khi mắt họ gặp nhau, họ nhận ra một điều chắc chắn rằng họ chẳng nhớ nhung gì nhau, nói gì đến yêu đương. Những lúc ông ở lại thành phố, nếu có người bạn tốt bụng nào nói với Emily, bà chẳng bao giờ tỏ ra có gì khác thường. Ông làm việc này khá kín đáo, tránh né những kẻ dòm ngó. Trong số những người đàn bà ông dan díu, có một phụ nữ Anh thuộc tầng lớp quý tộc phá sản đổ bệnh lậu cho ông, hoặc như người ta gọi tránh đi là loét dạ dày. Ông giãi bày với Emily là ngoài loét dạ dày, ông còn bị thoát vị ruột; bà chấp nhận tuy chẳng hiểu rõ thoát vị ruột là gì, nhưng biết không phải là đề tài nhắc đến trong câu chuyện bên bàn ăn. Bà thờ ơ đến mức ông có thể để những đồ dùng chữa bệnh ngay ở nhà. Còn bác sĩ Winchester không mua đồng mác nữa. Một người môi giới chứng khoán thật thà đã can ngăn ông. ••• Liggett chăm chú nhìn vợ. - Tối nay hay sáng mai mình vào thành phố? - Đến sáng thứ Ba kia. Ngày mai các con nghỉ học. - Sao vậy? - Có một đứa bị bệnh bạch hầu, người ta đang phun thuốc khử trùng ở trường. - Ruth nói. - Bố muốn ra ngoài sao? - Đúng thế. Bố muốn đi chơi thuyền buồm một chuyến ra trò. Nhưng tối nay bố phải về thành phố, nên con, Bar, Frannie và cô Rand mang bút vẽ đi, ngày mai làm việc nhé? - Xin lỗi bố, con chết vì cười đây. - Ruth nói. - Con sẽ đi nếu những người khác đi. - Barbara nói. - Bố sẽ an toàn và bố thừa biết thế mà. - Ruth nói. - Này các con… - Emily nói. ••• - Chúng mình không đến Plaza à? - Isabel Stannard nói. - Không. Anh mất hứng rồi. - Jimmy nói. - Gì kia? - Thôi, em ạ. Chẳng bõ đâu. - Cái gì chẳng bõ kia? - cô hỏi. - Em nói lại bất cứ chỗ nào em nói lúc đầu ấy? Không đến Plaza nữa. Mà tiết kiệm làm gì nhỉ? Em có muốn đến nơi nào khác không? - Em nghĩ chúng ta sẽ đến đó khi nào thấy thích hơn. - Chà, anh không hiểu rõ ý em. Anh cảm thấy thích nó. Anh thích nó từ trước khi nhìn thấy em, thích như lúc lên nhà em, và em cũng… - Không, không hẳn thế đâu. Hãy nhớ em đã ăn mặc chỉnh tề để về nông thôn. Em tưởng chúng mình sắp lái xe đi. - Hừm. Nào thì đi, đi đâu? - anh ta nói. - Đi bộ xuống đại lộ Năm… - Cho đến phố Childs 48. - Được. - cô nói. - Với em thì chẳng sao. - Anh nghĩ là sẽ thế. - Chúng ta có thể đi bộ đến số 21. - Hôm nay là Chủ nhật. - Chủ nhật họ không mở cửa à? Em nhớ em đã ở đó vào một ngày Chủ nhật. - Ồ, anh biết em đã đến vào lúc nào đó. Nhưng không phải vào giờ này. Bây giờ quá sớm, cưng ạ. Sớm quá. Khoảng năm giờ rưỡi họ mới mở cửa. - Anh chắc đấy không phải là quy định mới chứ? - Cũng những người ấy khi ở số nhà 42 phố West 49 đã quy định ngày Chủ nhật như thế. Bây giờ ở số 21 phố West 52, họ cũng quy định y như thế. Cũng những người ấy, quy định ấy, chỉ khác địa điểm thôi. - Một cái nữa trong những cái mũ ấy. - cô nói. - Một cái nữa trong những cái mũ nào? - Anh không nhìn thấy à? Em thấy chúng khá đẹp đấy chứ, nhưng em không biết có nên mua một cái hay không. Những cái mũ ấy. Anh không để ý cô gái vừa đi qua với một gã ngoại quốc à? Cô nàng đang hút thuốc kia kìa. - Cô ta được trả tiền vì việc đó đấy. - Trả tiền gì? - Trả tiền để hút thuốc. Anh đọc trên mục của Winchell… - Cái kiểu suy nghĩ lan man hết chuyện này đến chuyện khác của anh giống hệt một con dê rừng nhảy từ vách đá cheo leo này sang vách khác… - Từ vách đá cheo leo này sang vách khác, rồi trở lại… - Em biết rồi, đừng nói nữa. Vì sao cô ta được trả tiền? - Vậy ai được trả tiền, hở bé của anh, cưng của anh? - Người đàn bà, chứ còn ai. Người đội mũ kia kìa. Người em vừa bình luận. Anh bảo Walter Winchell nói cô ta kiếm được tiền. - Chứ sao. Cô ta được trả tiền vì hút một điếu thuốc trên đại lộ Năm. Winchell viết thế trên mục của anh ta sau cuộc diễu hành lễ Phục sinh. Họ đang cố quảng bá việc phụ nữ hút thuốc trên đường phố… - Việc này sẽ không bao giờ xảy ra. - Nó sẽ không bao giờ xảy ra với ngọn đèn Welsbach[9] cổ lỗ, nếu… Xin chào. Xin chào. - anh nói với hai người, cô gái và người đàn ông. - Ai thế? Nhìn kìa, cô ta đội một trong những cái mũ kiểu Eugénie[10]. Khá hấp dẫn đấy chứ. Cô ấy là ai vậy? - Là người mẫu ở Bergdorf Goodman. - Cô ấy là người Pháp? - Sắp thành người Pháp như em vậy… - Còn Pháp hơn anh tưởng đấy. - Ừ, hơn anh. Cô ấy là… - em vẫn nghe đấy chứ? - … người Do Thái, còn anh ta là luật sư, chuyên về các vụ ly hôn ở Broadway. Anh ta là loại em nhìn thấy trên các báo khổ nhỏ sáng thứ Hai. Anh ta quà cáp cho các biên tập viên tờ News và Mirror, nên được quảng cáo miễn phí trên trang ba. Lẽ tất nhiên báo luôn viết về các thân chủ của anh ta, nhưng anh ta muốn tên mình được in ở đoạn thứ ba, kèm địa chỉ. Winthrop S. Saltonstall, số 14 Broadway. - Hừ. Winthrop S. Saltonstall không phải là một cái tên Do Thái. - Đấy là em nghĩ thế. - Em cho rằng cô ta đang tiến hành ly dị; tất nhiên có khi cô ta chỉ quen biết anh ta thôi. - Đúng thế. Em hiểu việc đấy. - Em luôn muốn đến xem lễ ở nhà thờ St. Patrick. Hôm nào anh đưa em đi nhé? - Em nói sao, một buổi lễ? Ý em là lễ Misa. - Vâng, em nghĩ thế. - Được thôi, hôm nào anh sẽ đưa em đi. Chúng ta sẽ cưới ở nhà thờ St. Pat. - Một lời dọa hay lời hứa đây? Anh sững người. - Nghe này Isabel, em hãy cho anh một ân huệ nhé? Một ân huệ lớn? - Gì vậy, em không biết. Nhưng là gì vậy? - Em hãy cư xử như một cô gái Bryn Mawr[11] xinh đẹp, quyến rũ, lo lắng về những điều Leuba dạy, lễ phép, có giáo dục… - Vâng, được, và gì nữa? - Với anh, hãy bỏ những thổ ngữ thông tục đi nhé? Lúc em muốn nói tiếng lóng, muốn nói những lời lém lỉnh, hãy cố kiềm chế sự thôi thúc lại. - Nhưng em không nói câu nào lém lỉnh. - Ô hô hô, em đang nói với anh kìa. - Em vẫn không hiểu ý anh, Jimmy. - Người ta nên dỡ bỏ các hàng rào này để dân chúng thấy họ đang làm gì. Anh là một người quan sát già dặn về xây dựng, anh nghĩ mình sẽ nói điều này với Ivy Lee[12]. - Anh đang nói cái gì thế? - Anh vừa nghĩ ra lúc chúng ta đi ngang qua nơi đang xây dựng Radio City, nếu người ta bỏ các hàng rào đi, anh sẽ có thể theo dõi tiến độ và báo cáo với Rockefeller. Ivy Lee là cố vấn các quan hệ công cộng của họ. - Ivy Lee. Nghe như tên một cô gái. - Em nên lắng nghe cả tên họ. - Là gì? - Ivy Ledbetter Lee. Anh ta kiếm 250.000 đôla một năm. Chúng ta đến rồi, chắc khó kiếm nổi một bàn. Họ kiếm được một bàn. Họ biết chính xác mình muốn gì, kể cả toàn bộ cà phê họ uống với giá cho một tách. Bữa tối, bạn có thể ăn mọi món mình thích với giá cố định. - Chiều nay chúng ta làm gì nào? - Ồ, bất cứ thứ gì anh muốn. - cô nói. - Anh muốn xem Kẻ thù của công chúng. - Tuyệt. James Cagney[13]. - Em thích Cagney? - Em ngưỡng mộ ông ta. - Vì sao? - anh hỏi. - Ờ, vì ông ta rất hấp dẫn. Một tay khó chơi. Vì sao thì… Em chỉ nghĩ đến một thứ. - Thứ gì? - Ông ấy… em mong anh đừng phiền lòng, nhưng ông ấy hơi giống anh. - Được rồi, anh sẽ gọi điện hỏi lúc nào thì chiếu phim chính. - Sao lại thế? - Vì anh xem rồi còn em thì chưa, và anh không muốn em xem đoạn cuối trước. - Ồ, em không hiểu. - Anh sẽ nhắc lại cho em sau khi em xem xong. Anh xuống nhà gọi điện đây. Nếu Quốc vương Prajadhipok[14] có vào định làm quen mà không ca ngợi em, nhớ đuổi ông ta đi nhé. - Ồ, ông ta tinh mắt đấy chứ. Chà, em hiểu rồi. ••• - Ông thử quay lại số đó lần nữa xem? - ông già nói. Ông ta cầm chiếc điện thoại với kiểu như phản đối loại điện thoại cầm tay, kiểu phản kháng thông thường với một thứ mới mẻ. Ông ta cầm bằng cả hai tay, một tay đặt ở chỗ cần thiết, tay kia khum lại dưới ống nói. - Đây là Stuyvesant, trực tổng đài. Ông đang quay S,T,U?… Vâng, tôi nghĩ có lẽ ông quay S,T,Y. Ông ta đợi, nhưng quá năm phút đành phải bỏ cuộc. Joab Ellery Reddington, Cử nhân Văn chương đại học Wesleyan, Thạc sĩ Văn chương đại học Harvard, Tiến sĩ Triết học đại học Wesleyan, đến New York vì một mục đích đặc biệt, nhưng thành công của chuyến đi tùy thuộc cú điện đàm đầu tiên này. Không nối được liên lạc, chuyến đi sẽ thành vô ích. Ông ta biết quá đủ, quá rõ mọi thứ, biết địa chỉ, biết quá nhiều taxi, mạng xe buýt, xe điện ngầm và đường sắt trên cao, các tuyến ôtô trên phố, giúp hủy diệt không gian và thời gian cho bất cứ ai muốn đích thân có mặt trước cửa nhà Gloria Wandrous. Nhưng một trong những điều cuối cùng Tiến sĩ Reddington muốn làm trên đời là bị phát hiện loanh quanh gần nhà Gloria Wandrous. Điều thiết tha nhất ông muốn làm là gặp được cô, từ đó nảy sinh một hành động cực đoan khác: Rốt cuộc, điều ông mong muốn nhất lại là thoát khỏi đám bạn bè của Gloria Wandrous, tách rời mọi liên hệ với cô mà có lần ông đã nghe ông Xương Xẩu nói với ông Đối Thoại rằng, chỉ cần mất hai chục đôla để gửi cho cô một bưu thiếp. Không, ông dứt khoát không muốn đến gần nhà cô nàng. Nhưng ông muốn tiếp xúc với cô, chỉ để bàn thảo với cô, thỏa thuận với cô. Nếu không thỏa thuận được với cô, ông… ông sẽ không hé môi, dù với chính mình. Nhưng không có ai trả lời điện thoại. Hay mẹ cô, bác cô đã gặp chuyện gì? Tiến sĩ Reddington không ngạc nhiên khi biết Gloria không có nhà. Cô rất ít khi ở nhà. Nhưng ông thường xuyên gọi về nhà cô và được cho một con số để gọi. Ông thừa biết dù mẹ hoặc bác cô có biết hay không, số họ cho thường là của một cửa hàng bán rượu lậu hoặc căn hộ một anh chàng độc thân; quán bia Harlem là nơi tiến sĩ Reddington có lần tạt đến (lúc này ông không muốn nghĩ đến cách những tên da đen chẳng ngạc nhiên hoặc sửng sốt khi một người như ông, mang huy hiệu Phi Beta Kappa, trang phục và mọi thứ quá ư bảo thủ lại xuất hiện ở quán bia vào giữa trưa thứ Bảy, tìm một cô gái say khướt chào hỏi ông bằng những lời rất chi thô thiển, chứng tỏ ông không phải là bậc phụ huynh nghiêm khắc đến tìm đứa con gái cứng đầu cứng cổ, nhưng… ông đúng là như thế). Tiến sĩ Reddington ngồi trên mép giường (theo cách ông diễn dạt) và tự rủa mình là một thằng ngốc, ngốc thảm ngốc hại vì không bao giờ ghi lại những số ông đã gọi. Lý do ông không ghi lại những con số này là không muốn bị tìm thấy chết cùng với chúng trên người. Ông ngồi trên giường, ngón tay lần tìm sợi lông thoát khỏi lưỡi dao cạo sáng nay trên làn da trắng, mềm, hơi ướt của chiếc cằm xị. Chẳng có cái nào. Chẳng bao giờ có. Toàn là người thợ cắt tóc cạo mặt cho ông. Ông ngồi đúng kiểu trầm ngâm cổ điển nhưng chẳng nghĩ được gì. Chúa ơi, sao không có lấy một cái tên nào nhỉ? Một cái tên trong những số ông đã gọi? Thật vô ích khi cố nghĩ ra tên của các cửa hàng bán rượu lậu. Ông không mấy hiểu biết về các cửa hàng này vì ông không bao giờ uống rượu; nhưng từ những lần đi cùng Gloria, ông biết đấy là nơi thân tình như quán của Jack hoặc Giuseppe, khi chủ cửa hàng đưa cho bạn tấm thẻ vào cửa (bạn phải ném đi ngay khi đã ra ngoài an toàn), nơi được gọi là Câu lạc bộ Aristocrat hoặc một thứ gì đại loại như thế. Vì thế thật vô ích khi cô nhớ ra tên những nơi đó, và gần như cố nhớ ra chúng là việc quá rắc rối. Không thể bảo một tài xế taxi lái ngược xuôi khắp các đường phố, từ Quảng trường Sheridan đến phố Mười bốn, với hy vọng nhận ra lối vào tầng hầm bạn đã qua cả đêm dài trước đó. Không, việc phải làm là cố nhớ ra một cái tên, một tên người mà Gloria biết. A. Ab, Ab, Ab, ante, con, de… không, không phải lúc nghĩ đến các giới từ Latinh. Bây giờ mà nghĩ đến chúng chỉ tổ làm ông hoang mang. Suy nghĩ một cách khắt khe, đó là điều thích đáng. A trong Abbott. A trong Abercrombie. A trong Abingdon. A trong Abrams. Ông đã ngạc nhiên khi tình cờ biết con gái của Abrams chơi dương cầm hay đến thế. Lúc này ông trìu mến nghĩ đến cô và nhớ ra cô chơi dương cầm cực kỳ điêu luyện. Cô là kẻ suy đồi đến tận xương tủy, thế nhưng, khi cha cô đến gặp ông để hỏi ý nghĩa việc cô con gái đã kể với ông, tiến sĩ Reddington suýt nói với cha cô gái về cách ông ta nuôi dạy con. Thay vào đó, ông nói: - Ông nghe đây Abrams, ông nói với tôi một việc kinh khủng, một bổn phận nghiêm túc. Tôi suy ra rằng ông tin vào lời của một đứa trẻ nhạy cảm để chống lại tôi? Người đàn ông bé nhỏ đã nói ông ta chỉ hỏi, chỉ muốn biết sự thực, cho dù ông có thể đi xa hơn sự thực. - Ồ, thế ư? Đi xa hơn? Tôi có thể hỏi ai đã đưa ra lời chống lại tôi vậy? Tôi sinh trưởng trong thành phố này, và ông biết đấy, ở thành phố này tổ tiên tôi đã nổi danh suốt năm thế hệ. Bản thân tôi đã hai mươi hai năm trong nghề sư phạm, còn ông ở đây bao lâu rồi? Hai năm? À, sáu năm. Sáu năm là gì so với hàng trăm năm? Ông có nghĩ người của ông sẽ nghe lời ông chống lại tôi không? Tiến sĩ Stein chẳng hạn. Ông cho là ông ta tin ông hơn tin tôi ư? Vớ vẩn. Ông tưởng ông ta tin ông, đem thí cả địa vị trong cái cộng đồng có rất ít người của ông, sát cánh với ông để tấn công tôi bằng câu chuyện chẳng có cơ sở thực tế nào? Ông Abrams, tôi có thể đánh ông nhừ tử vì việc đã đến buộc tội tôi. Điều duy nhất ngăn tôi lại vì tôi cũng là một người cha. Tôi nghĩ chúng ta nói thế là đủ lắm rồi. Con gái ông là việc của ông. Công việc của tôi là trông nom xem cô ấy được dạy những gì, nhưng việc của tôi chỉ bắt đầu từ chín giờ sáng và chấm dứt lúc ba giờ chiều. Vợ chồng Abrams chắc đang ở New York. Chí ít thì họ cũng đưa con gái ra khỏi trường, nhanh chóng bán ngay cửa hàng sau khi hai ông bố nói chuyện với nhau. Abrams. Ở New York có lắm Abrams. B. C. D. E. F. G. H. Nghĩ đến mọi người trong thành phố, đến số tiền hãng điện thoại kiếm được. Tất cả mọi người với những vướng mắc của họ. B. Buckley. Brown. Brown có một chữ e ở cuối. Bames. Barnard. Brace. Butterfield. Brunner! Gloria biết một người tên là Brunner. Tiến sĩ Reddington tìm ra số và nói cho người trực tổng đài. Ông ta nghe chuông reo, rồi một giọng nói chuyên nghiệp: - Quý khách gọi số nào ạ?… Rất tiếc thưa ông, số điện thoại đó đã bị cắt. Ông đổi cách. Đây là một linh cảm. Ông ngước nhìn địa chỉ và ghi nhớ, rồi xuống dưới nhà và gọi taxi đến nơi đó. Ông bảo tài xế đợi ở góc phố Hudson, người lái xe nhìn ông thiện cảm và nói sẽ đợi. Tiến sĩ Reddington xuống phố, theo sau một cô gái cắp cái gói to. Bất cứ lúc nào khác có lẽ cô đã chú ý đến ông, nhưng không phải hôm nay. Ông chỉ nhìn thấy lưng của một cô gái có thân hình đẹp, đang cắp một cái gói. Rồi ông nhụt hết chí khí khi cô rẽ vào số nhà ông đã tìm ra, và ông đi thẳng không dừng lại; ông nghĩ đến người tài xế, anh ta đang nhìn theo tự hỏi vì sao ông đi qua số nhà ấy. Bối rối, ông vòng trở lại taxi, họ rời khu vực lân cận và về khách sạn trong ánh nắng. ••• - Cô tốt bụng kinh khủng. - Gloria nói. - Ồ, có gì đâu. - cô Day đáp. - Rất cảm ơn Norma. - Eddie Brunner nói. - Ồ, tôi hơi sơ ý. Tôi hiểu vì sao rồi. - cô Day nói. - Hôm nay chắc cô bị nướng chín trong chiếc áo khoác lông chồn này. - Eddie, anh nhìn ra ngoài cửa sổ hộ em một phút. - Gloria nói. - Ồ! Cô thực sự cần những thứ này. - cô Day nói khi Gloria cởi áo choàng. - Tôi rất vui khi có chúng. Thông thường cứ đến Chủ nhật, tôi cho người quét dọn những thứ thừa. Tôi không định mang đến một chiếc váy lót. - Với chiếc váy này thì không cần. Bộ này đẹp quá. Cô mua ở đâu đấy? - Cửa hàng Russek. Cô có chơi bài pôke, người thua phải cởi quần áo không? - Thế này cũng gần như thế còn gì? Về mặt nào đó thì có. Thế đấy, chúng tôi quăng đủ thứ chuyện tào lao và tôi suýt bị tống ra đường khi vận may của tôi thay đổi, rồi khi tôi đề nghị đánh cược chiếc váy của mình, bọn đàn ông tóm lấy tôi và lẽ tất nhiên tôi nghĩ là bọn họ chẳng kiềm chế tôi làm việc đó đâu; không phải bọn đàn ông mà các cô gái trong bữa tiệc đã kìm tôi lại. Tôi có nhiều bạn tốt. Thế là tôi cáu điên lên và bỏ đi. - Cô đang học ở New York? - Không, tôi sống ở đây nhưng không thể về nhà với bộ dạng như thế này. Gia đình tôi không cho phép tôi hút thuốc lá. Ổn rồi, Eddie. - Cô mặc bộ này đẹp hơn tôi đấy. - Norma nói. - Tôi thì không nói thế. - Eddie nói. - Tôi cũng không. - Gloria nói. - Nhưng Eddie chẳng bao giờ nói điều gì làm tôi tự mãn hết. Chúng tôi quen nhau đã lâu rồi mà. - Eddie, em tưởng sau hôm thứ Sáu anh bỏ rượu. - Norma nói. - Anh đã bỏ rồi. - Đúng thế. Chai này là của tôi. - Gloria nói. - Tôi mua cho Eddie vì muốn làm anh ấy vui lòng. Tôi nghĩ sẽ ở đây cả ngày và định hối lộ Eddie để anh ấy đến một trong những cửa hàng Broadway, tôi nghĩ ở đấy có vài tiệm mở cửa tối Chủ nhật, hình như họ vẫn mở đấy. Nhưng anh ấy nghĩ ra gọi cô, và tôi thấy cô làm việc này thật tốt quá. Em sẽ treo bộ này ở một trong những ngăn để đồ của anh, Eddie nhé. Ngày mai em ghé qua. Em định cất vào kho, nhưng cứ lần lữa, cứ hoãn mãi… - Tôi hiểu. - cô Day nói. - … Thế là đêm hôm qua tôi mừng vì không cất đi, vì một người anh họ của tôi đến Yale; anh ấy và một người bạn đi xe mui trần đến và trời thì lạnh. Không mui. Họ rét cứng cả người, nhưng vẫn nhất định lái xe đến một nhà có tiệc gần Princeton. - Ồ. Thế gia đình cô không lo à? Thế là cô không về nhà? - Sáng nay xe bị hỏng trên đường về vào một giờ tồi tệ. Bob, người bạn của ông anh họ tôi, đưa chúng tôi đến dự một bữa tiệc khi chúng tôi quay lại thành phố, nơi tôi rơi vào cái trò chơi cứt đái ấy. - Thế anh họ cô thì sao? Tôi tưởng là… - Bất tỉnh vì lạnh, với lại anh ấy cũng chẳng giúp được gì nhiều. Không phải vì anh ấy để họ bắt tôi cởi quần áo, mà vì anh ấy không uống được rượu. Không người nào trong gia đình tôi uống rượu. Tôi uống hai cốc Scotch và choáng váng. Tôi nghĩ là cô đã thấy rồi. - Ồ không. Nhưng tôi không bao giờ có thể nói chuyện với người khác cho đến lúc họ bắt đầu làm những việc quá ư khủng khiếp. - cô Day nói. - Ờ, tôi cảm thấy rất tuyệt. Tôi thấy giống như được tặng cả bữa tiệc. Mà này, trước khi tôi quên, cô hãy cho địa chỉ, tôi sẽ giặt sạch chỗ đồ này và gửi trả cô. - Được thôi. - cô Day nói và cho địa chỉ. - Chúng ta đến Brevoort đi, nhưng tôi thết đấy. - Tôi tưởng cô mất hết tiền rồi. - cô Day nói. - Tôi mất, nhưng trên đường vào thành phố tôi sẽ đổi một cái séc lấy tiền mặt. Một người đàn ông làm việc cho bác tôi đã viết cho tôi một cái séc. Đi chứ? ••• Mũi chiếc Packard mui trần lúc lên lúc xuống. Chiếc xe chạy như thể nó là một chiếc xe tăng đang chạy trên con đường vốn chỉ toàn xe tải. Paul Farley vừa lái vừa cắn cắn môi dưới, còn người đàn ông ngồi cạnh trông hoàn toàn mãn nguyện với bản thân và thế gian, tay chống cằm và búng tàn thuốc xuống sàn xe của Farley. - Dừng lại. - người đó nói. - Liếc qua một cái. Xem từ đây trông nó ra sao. Farley dừng xe, chẳng vui lắm và nhìn quanh. Anh hài lòng khi nhìn ngôi nhà đã hoàn tất, vì đó là công trình của anh. - Tôi thấy trông khá đẹp đấy chứ. - Farley nói. - Tôi cho là thế. - Percy Kahan nói. Ông ta chỉ biết nói “Tôi cho là thế” khi định nói “Anh rất đúng”. Những người như Farley chẳng bao giờ hiểu khi người ta nói những lời đơn giản như “Anh rất đúng” hoặc một câu dè dặt, thận trọng kiểu “Tôi cho là thế”. Nhưng thế còn hay hơn là phạm lỗi vì dè dặt còn hơn là hăng hái. Ngoài ra, ông ta là người mua; Farley vẫn đang làm kiến trúc sư cho ông ta nên không thể để Farley tưởng mình làm việc quá tốt. - Một công trình đặc sắc. Tôi biết thế khi thực hiện một công trình hoàn hảo, và tôi đã hoàn thành một cái cho ông, thưa ông Kahan. Còn về phòng trò chơi, dự toán ban đầu của tôi không đủ. Tôi có thể làm xong sớm hơn, nhưng tôi cho rằng bây giờ ông sẽ không ngập ngừng với giá 1.200 đôla. Ông hiểu tôi muốn nói đến phòng trò chơi chứ. Tôi vẫn có thể thực hiện nó đỡ tốn kém hơn nhiều, nhưng nếu ông muốn nó hòa hợp với toàn cảnh ngôi nhà, lời khuyên hay nhất của tôi là đừng cố tiết kiệm những thứ lặt vặt. Tôi là một trong các kiến trúc sư đầu tiên làm phòng trò chơi, và nhận thấy chúng là nét đặc biệt quan trọng cho một ngôi nhà hiện đại. Vâng, cho đến lúc này, ông đã nhìn thấy các phòng chơi đủ để nhận biết phần lớn chúng giống cái gì. Không gian trong hầm quá rộng, nên người ta đặt vào một quầy rượu di động, một bàn bóng bàn, vài bức tranh khổ lớn của Pháp… - Ồ, tôi muốn có những thứ đó. Anh có thể kiếm được không? - Tôi nghĩ là có. Tôi chưa bao giờ yêu cầu họ làm bất cứ điều gì, vì tôi có quan niệm riêng về những thứ của Pháp, nhưng đấy chỉ là tiểu tiết. Vả lại, điều tôi muốn nói không ngoài việc tôi là một trong những người đầu tiên quan niệm phòng chơi là thứ bổ sung quan trọng cho một ngôi nhà. Tôi muốn chỉ cho ông thấy một số thứ trong khu vực Manhasset. Ông biết đấy là khu vực nhà Whitney. - Chà, anh cũng làm dinh cơ cho Jock Whitney? - Không, tôi không làm, nhưng hai năm trước tôi đã chi 11.000 đôla cho một phòng chơi kiểu đó. - Nhưng đấy là hai năm trước. - ông Kahan nói. - Phòng chơi của nhà ai vậy? - Ờ, theo đúng quy định, tôi không được tiết lộ tên và con số, ông Kahan ạ. Ông hiểu cho. Vả lại, ông cũng thấy tôi không cố lừa lấy vài đô vì nét đặc biệt quan trọng của ngôi nhà. Ví dụ, ông nói muốn có một lò sưởi rộng. Vậy ông phải chi tiền vào đó. Ông thấy đấy, không cần có chuyên môn ghê gớm về việc này; chúng tôi cứ làm mà không có sự chuẩn bị nào cho các lò sưởi ở phía đó của ngôi nhà, phía sẽ là phòng chơi nếu ông muốn. Ông có ý tưởng đúng về việc này. Vậy sẽ có lò sưởi ở đó. Ông Kahan, tôi muốn ngôi nhà này thật hợp lý. Tôi sẽ thẳng thắn với ông. Nhiều kiến trúc sư không dám mạnh dạn, nhiều người khác khá yếm thế khi nghĩ đến tương lai. Cố nhiên một số người trong chúng tôi va vấp khá nặng, nhưng cá nhân tôi không có điều gì phàn nàn. Tính đến năm nay, tôi kiếm được hơn nửa triệu đôla trong công việc… - Lãi ròng? - Ồ không. Không phải lãi ròng. Tôi là kiến trúc sư dân dụng, ông Kahan ạ. Nhưng so với những thứ tôi làm trong ba năm gần đây thì cái kia khá hoàn hảo. Năm ngoái là năm phát đạt nhất của tôi đấy, thưa ông Kahan. - Ông đừng đùa. - Ồ, vâng. Tôi đã có nhiều công trình ở Palm Beach. Còn năm nay là một năm tốt đẹp và đúng với ý tôi. Nhưng tôi hơi e ngại cho năm sau. Không phải vì dân chúng không còn tiền, mà vì họ sợ tiêu tiền. Họ sẽ tiếp tục cất trữ của nả. Tôi biết một người đàn ông đang đổi mọi thứ tài sản ra vàng. Khi không thể kiếm được vàng thoi thực sự, thì lấy giấy đảm bảo vàng. Vậy đấy, chẳng có gì hay. Tình hình chung là hoảng sợ và lo âu, sang năm là năm bầu cử tổng thống, nhưng có bầu cử tổng thống hay không, tôi cũng phải kiếm tiền bằng mồ hôi nước mắt của mình thôi. Cho đến nay, tôi chưa sa thải một nhân viên vẽ đồ án nào, nhưng trời ạ, nếu người ta rút tiền khỏi công việc kinh doanh và tích trữ trong những hòm phủ đầy bụi hoặc trong hầm bí mật ở nhà, hậu quả chung là khá xấu. Còn với ngôi nhà như nhà của ông đây, ông Kahan ạ, theo kinh nghiệm của tôi thì người ta sẽ ngắm nhìn và không thể không say mê, nếu có một hoặc hai bức ảnh trên tờ Town and Country, Country Life và Spur, biết đâu những người thèm tích trữ tiền sẽ… - Anh định đưa ảnh ngôi nhà này lên tờ Town and Country? - Tất nhiên rồi. - Farley nói. - Ông cho rằng tôi sẽ bán nhà này mà không… trừ khi ông không thích. Nếu ông thích thì đương nhiên là… - Ồ không. Không phải đâu. Tôi thích. Song, anh đừng kể với bà nhà tôi. Tôi muốn dành cho bà ấy một sự ngạc nhiên thú vị. - Nhất định rồi. Phụ nữ thích thế mà. Mà phụ nữ là cực kỳ quan trọng trong những việc như thế này. Như đã nói, tôi hy vọng dân chúng nhìn thấy ngôi nhà này và bạn bè, hàng xóm của ông sẽ kéo tới. Đấy là lý do tôi muốn ông có một phòng chơi dành cho những khi ông muốn chiêu đãi một cách thân tình. Mọi người sẽ thấy ông có một ngôi nhà thực sự tinh tế, rồi họ sẽ muốn biết ai làm ra nó. Ông Kahan ạ, tôi thấy bất cứ khi nào làm tốt công việc của mình cũng sẽ phát đạt, nhất là hiện nay. - Town and Country hả? Tôi hay anh sẽ gửi ảnh đây? - Ồ, họ sẽ cử người tới. Ông biết không, họ gọi điện và tìm ra đồ án của tôi. Tôi, hoặc chí ít là thư ký của tôi, kể với họ về những ngôi nhà tôi đang làm, đó là thông lệ mà. Tôi cho là trong vòng mươi năm nay, tôi có nhiều nhà được chọn chụp ảnh trên báo hơn bất cứ kiến trúc sư nào cùng trang lứa. Chúng ta quay lại câu lạc bộ chứ? Tôi hình dung các quý bà đang lo nhỡ xảy ra chuyện gì. - Thôi được, giờ thì anh nghe đây, Farley, tôi không muốn anh trả tiền bữa ăn lần nữa. Có nhớ lần cuối cùng chúng ta ăn ở đây, tôi nói lần sau tôi thết không? - Thế hở. - Farley cười khúc khích. - Tôi sợ bị lừa. Tôi phải có chữ ký. Lúc khác vào thành phố tôi sẽ câu ông một bữa ra trò, và tôi xin cảnh báo trước, bà Farley nhà tôi uống được vang đấy. Tôi thì chẳng biết rượu chè ra sao, nhưng bà ấy thì biết. Họ lái xe đến câu lạc bộ, nơi các bà vợ đang đợi. Bà Farley gõ ngón tay đeo nhẫn cưới và nhẫn đính hôn, đúng kiểu sốt ruột; bà Kahan véo thùy tai trái, một việc bà làm mỗi khi căng thẳng. - Tốt. - cả bốn người đồng thanh. Farley hỏi những người khác có thích cocktail không, và hết thảy đều nói có. Ông ta đưa Kahan vào phòng thay đồ rửa tay và giám sát việc pha cocktail. Lúc họ bước vào, một người đàn ông đi ra, vội đến mức đâm sầm vào ông Kahan. - Ồ, xin lỗi ông. - người đó nói. - Không sao, ông Liggett. - Kahan nói. - Ơ kìa, chào ông. - Liggett nói. - Rất vui được gặp ông. - Ông không biết tôi. - Kahan nói. - Nhưng chúng ta học cùng lớp ở New Haven. - À vâng, tất nhiên. - Tên tôi là Kahan. - Vâng, tôi nhớ rồi. Chào Farley. - Chào Liggett, ông ra uống cocktail với chúng tôi nhé? - Không, cảm ơn. Cả nhà đang đợi tôi trong ôtô. Rất vui được gặp ông, Kann. Tạm biệt Farley. Ông bắt tay và vội vàng đi ra. - Ông ta không biết tôi, nhưng tôi nhận ra ông ta ngay. - Tôi không biết ông học ở Yale đấy. - Farley nói. - Tôi hiểu. Tôi chẳng bao giờ nói đến chuyện ấy. - Kahan nói. - Thỉnh thoảng tôi gặp người giống Liggett, một trong những anh chàng to xác; có hôm tôi gặp tiến sĩ già Hadley trên phố và tự giới thiệu mình với ông ấy. Tôi không thể làm khác được. Tôi nghĩ bốn năm ở đó thật lãng phí thời gian, tôi, một Heeb bé nhỏ ở Hartford, nhưng tháng Mười một năm ngoái tôi phải đến Hollywood vì cuộc thi đấu Yale-Harvard, và Trời phạt nếu tôi không có một bức điện đặc biệt kèm bài bình luận thể thao phát tại chỗ. Radio không đủ cho tôi. Tôi phải có bài bình luận phát tại chỗ. Đúng, tôi học ở Yale. 3 C hà, em hiểu vì sao anh không muốn em xem đoạn cuối trước. Em không bao giờ ngồi lại nếu đã xem đoạn kết. Anh muốn em xem lần nữa không? Chúa ơi, em mong anh viết bất cứ điều gì không giống thế này. - Anh mong viết được bất cứ thứ gì tác động đến người khác như tác động đến em. - Jimmy nói. - Anh nghĩ thế thì hay quá. Em muốn nói là một bài viết hay. - Isabel nói. - Chúng ta đi đâu? - Em đói à? - Không, nhưng em muốn uống một cốc. Một cocktail. Anh hiểu không? - Luôn luôn hiểu. Lúc nào cũng một cocktail. Anh biết một nơi định đưa em đến, nhưng anh hơi sợ. - Sao thế, lộn xộn lắm à? - Không phải là lộn xộn. Ý anh là trông nó không lộn xộn, còn người thì… ờ, em không nghĩ em đang trong Câu lạc bộ Racquet, trừ khi em biết em là người ở đâu, ý anh là em xuất thân thế nào, mang tước hiệu gì, vì nó chỉ là một cửa hàng bán rượu lậu, và ngay bây giờ nếu anh bảo em những đặc điểm để phân biệt, em sẽ không muốn đến chỗ đó nữa. - Vậy chúng mình không đến đấy nữa. - cô nói. - Nơi ấy có gì đặc biệt? - New York là nơi bọn du thủ du thực Chicago hay lảng vảng. - Hay quá, thế thì nhất định tụi mình phải đến. Thế nhé, nếu ở đó an toàn. - Lẽ tất nhiên là an toàn. Hoặc an toàn hoặc không. Người ta kể bọn thanh niên địa phương mê nơi đó lắm, nghĩa là khuyến khích, cho phép nó tồn tại và kinh doanh, vì thấy cần phải có một nơi cho đám du đãng Chicago lui tới thường xuyên. Nhưng có một điều rất nguy hiểm. - Gì thế? - Là khi đám du đãng Chicago bắn nhau. Cho đến nay chưa xảy ra việc đó, và anh không hình dung nó ra làm sao. Em sẽ thấy vì sao. Họ xuôi xuống Broadway vài khu nhà, rồi rẽ về hướng đông. Khi đến một biển hiệu bằng dồng thau bóng loáng quảng cáo một người làm tóc giả, Jimmy dẫn Isabel qua một ngưỡng cửa hẹp, lùi về sau vài bước và bấm chuông gọi thang máy. Thang máy rít ken két trên đường xuống và một người da đen đội mũ đồng phục, có cái nhìn mệt mỏi mở cửa. Họ vào trong và Jimmy nói: - Câu lạc bộ Avenue Sáu. - Vâng. - người da đen nói. Thang máy lên hai tầng rồi dừng lại. Họ bước ra và đứng ngay trước cánh cửa bằng thép sơn đỏ, ở giữa khoét một ô cửa nhỏ. Jimmy bấm chuông, một khuôn mặt hiện ra ở ô cửa bé xíu. - Vâng, thưa ông. - khuôn mặt nói. - Tên lần này là gì? - Anh là người mới hoặc đã biết tôi. - Jimmy nói. - Vâng thưa ông, còn tên nữa là gì? - Malloy, vì Chúa. - Địa chỉ, thưa ông Malloy? - Chà, hắc thật. Bảo với Luke là ông Malloy đang ở đây. Có tiếng dây xích và khóa lách cách, rồi cửa mở. Người phục vụ đứng sau cửa. - Để ai vào cũng phải rất thận trọng, ông ạ. Ông biết thế rồi. Đó là một căn phòng trần cao, quầy rượu đàng hoàng ở một bên tường, góc phòng bên kia là quầy đồ ăn, đầy ắp những món ngon miễn phí, sau quầy là dụng cụ làm bếp rõ ràng là đắt tiền. Jimmy dẫn Isabel đến bên quầy. - Chào Luke. - anh nói. - Chào ông. - Luke, người đàn ông to lớn có bộ mặt tươi tỉnh dễ làm người ta mê muội, giống hệt mặt Babe Ruth[15], đáp lại. - Cho một whisky chua, ông bạn. Em sẽ thấy Luke pha whisky ngon nhất đấy. - Em nghĩ mình muốn uống một cốc punch Planter, thôi được, một whisky chua. - Còn ông? - Scotch pha sôđa. Isabel nhìn quanh. Một ông già nhìn vào cốc bia và giấy phép cho câu lạc bộ rởm này treo trên tấm gương của quầy. Nhiều chai, kể cả một chai Rock & Rye - một đặc sản khác của Luke, ở sau quầy. Ngoài số lượng và sự phong phú của các loại rượu, sự sạch sẽ của quán, nơi đây cũng giống bất kỳ quán rượu lậu nào quanh Quảng trường Thời đại (lên tới 20.000 quán). Lúc đó Isabel nhìn thấy một thứ làm cô lúng túng: một quyển lịch “tô màu rực rỡ” có cái túi đựng thư hoặc hóa đơn hoặc gì đó, in ảnh một người đàn bà khêu gợi, để trần đến tận eo. Quyển lịch không những còn nguyên các tháng, mà tờ ngoài cùng đề rõ “1931”. Vắt qua cái túi là lời chào mời “Khi bạn đến Chicago, xin mời đến quán thịt nướng kiểu Ý D’Agostino, có phòng ăn phục vụ riêng”, kèm địa chỉ và số điện thoại của ba người. Isabel ngắm kỹ quyển lịch và hiểu ra ý nghĩa những lời Jimmy miêu tả lúc trước về quán rượu lậu. Khi đồ uống mang đến, cô bắt đầu không còn cảm giác mọi người trong quán nhìn chằm chằm vào lưng mình. Cô nhìn quanh, không người nào nhìn cô chăm chú nữa. Khách đến chưa kín nửa quán. Một bàn có bảy người, bốn nam và ba nữ. Một trong những người phụ nữ hết sức xinh đẹp, không phải dạng gái điếm, cũng không phải những cô tóc vàng đóng vai gái điếm cho các tay găngxtơ trong phim, không là loại nào hết mà chỉ là một cô gái rất đẹp với nụ cười bẽn lẽn vô cùng duyên dáng. Isabel mường tượng có biết cô ta, và đột nhiên hiểu vì sao. - Jimmy. - cô nói. - Cô kia trông giống một Caroline[16] quá. Jimmy quay nhìn. - Ừ, giống thật. - Nhưng những người kia em thấy còn tệ hơn người ở đảo Coney nhiều, kể cả những nơi khá hơn. Anh không bịa ra một câu chuyện cốt làm cho cái nơi bé nhỏ, xoàng xĩnh này thành hấp dẫn đấy chứ? - Thứ nhất là không, và thứ hai, cũng không nốt. Trước hết, anh chẳng có gì phải lo. Còn thứ hai, anh không việc gì phải thế. Những người như em làm anh phát điên, ý anh là những người như em thuộc tầng lớp thượng lưu và hợp thời, gia đình có tiền gửi đến trường thật tốt, tham gia các câu lạc bộ thể thao ngoài trời và có ôtô đẹp. Em đến một nơi như thế này và muốn xem Warner Brothers[17], một trong những bộ phim găngxtơ đầy những diễn viên hài già nua, kiệt quệ và chán nản vì không có việc làm từ khi có những bộ phim hài của Charlie Chaplin. Em mong được chụp ảnh lúc em đến khu nhà ổ chuột… - Xin lỗi, nhưng vì sao anh nói đến người của các anh, loại người của anh, những người giống anh. Anh mới thuộc về câu lạc bộ thể thao ngoài trời, anh học ở các trường tốt và ít ra thì gia đình anh có tiền… - Anh muốn kể với em một chút về mình, nó sẽ giải thích nhiều điều về anh. Bây giờ em có thể nghe được rồi. Trước hết, anh là một Mick[18]. Anh mặc quần áo Brooks và không ăn salad bằng thìa, chắc chắn chỉ hai năm là chơi được gôn loại năm lỗ, nhưng vẫn là một Mick. Giờ đây anh chỉ mất chút ít thời gian để hiểu điều này, nhưng ít ra thì anh cũng phát hiện ra rằng dân Ailen không có hai loại. Chỉ có một loại duy nhất. Anh đã nghiên cứu nhiều người và hiểu biết người Ailen đủ để phát hiện ra điều đó. - Anh nói gì, nghiên cứu nhiều người? - Ý anh là đã xem xét hàng chục người trong những gia đình Alien danh giá nhất tại các cuộc đua ngựa ở Dublin và nhiều nơi tương tự, anh đã đặt ngón tay lên quần áo họ và giả vờ như đang mải nhìn một hiệp sĩ trong ngày Columbus[19], và ơn Chúa, em không thể nói được sự khác biệt. - Còn anh thì nói sao? Tất cả bọn họ đều là người Ailen kia mà. - Chà, chính đấy là ý kiến của anh. Hoặc ít ra chúng ta cũng nghĩ như nhau. Vậy mà một lúc trước em vừa bảo trông anh giống James Cagney. - Không phải là giống anh ta. Mà chỉ làm em nhớ đến anh ta thôi. - Ờ, thì cũng có gì đó phảng phất giống, anh tình cờ biết, vì anh có một người anh trai trông khá giống Cagney. Mà Cagney là một Mick, chẳng cần giả vờ giả vẫn gì hết, và anh ta là một tay găngxtơ Mỹ chính hiệu. Mỹ là đất nước chống Công giáo, không ưa người Ailen, có khái niệm riêng về một tay găngxtơ thực sự, cũng như về một Mick trẻ tuổi trông giống anh trai anh và đầy những tiền. Anh ta là một tay găngxtơ điển hình. - Kìa, em không hiểu anh đang chứng minh cái gì. Em nghĩ là… - Anh chẳng chứng minh gì hết. Đây là một ý kiến quan trọng. Em có biết Hội Cincinnati không? Em có nghe về họ không? - Có chứ. - Phải, nếu anh không nhầm thì anh có thể là thành viên của hội đó. Dẫu sao anh cũng có thể là đứa con của Cách mạng. Đôi khi thật thú vị khi biết điều đó, nhưng hiện tại nhắc đến nó anh chỉ muốn tỏ ra rằng anh khá nguyền rủa nước Mỹ, vì thế các anh chị em của anh vẫn chưa là người Mỹ. Chúng tôi là Mick, chúng tôi không bị đồng hóa, chúng tôi là Mick. Chúng tôi đang ở đây, chí ít cũng là một số gia đình kể từ cuộc Cách mạng, và chúng tôi sản sinh ra một loại găngxtơ hoàn hảo! Chí ít thì đây cũng là ý tưởng về một găngxtơ đích thực của người Mỹ, của nước Mỹ và tôi cho rằng các người đúng. Phải, tôi nghĩ thế. Những găngxtơ chính hiệu đầu tiên trên đất nước này là người Alien. Những hội viên Mollie Maguires[20]. Mà em có thấy thứ anh định nói, những thứ không bị đồng hóa này không? - Có. Em nghĩ là có. - Tốt. Để anh dẫn chứng thêm vài chuyện ngớ ngẩn nữa nhé. Anh sẽ chỉ ra một thực tế xã hội, sẽ chứng minh một thực tế xã hội ít nhất là ở một khía cạnh. Giả sử anh đi bộ xuyên ga Grand Central đúng lúc Tổng thống Hoover đi tàu đến, và các đặc vụ không bắt anh ngay lập tức như một kẻ thù công khai. Chỉ vì anh ăn mặc như thế này, ngẫu nhiên vì anh thích các loại quần áo này hơn quần áo Broadway hoặc Babbitt. Vả lại, cung cách của anh lịch thiệp vì mẹ anh là một quý bà rất coi trọng phong cách, còn cha anh thì hiếu kỳ. Khi anh rèn luyện cử chỉ, anh ở độ tuổi chịu ảnh hưởng của mẹ nhiều hơn của cha, vì thế bà đã luyện cho anh những cung cách đáng khen nhất. Rất tao nhã. Những người học ở Yale luôn coi anh là một Yale. Điều đó làm anh thích thú vì anh mê trường Yale hơn tất cả các trường khác. Thật không may, còn có một giải thích khác cho việc này. Năm 1922, ở Yale có một cầu thủ bóng đá thích anh và có tên giống anh. Song chuyện đó không quan trọng. - Không, trừ việc nó làm anh thoát khỏi quan niệm về việc sản sinh ra những kẻ thù công khai, về gia đình anh. Trông anh không hề giống một găngxtơ và một sinh viên Yale điển hình. - Đúng thế đấy. Anh có một câu trả lời đây. Để anh xem nào. Ờ, phải rồi. Những người tưởng anh là sinh viên Yale đều không có khả năng quan sát con người. Anh không bịa ra câu trả lời khôn khéo. Đấy là sự thực. Anh chỉ thấy buồn cười. - Gì kia? - Phần lớn những người tưởng anh là một Yale, bản thân họ đều học ở Princeton. - Ồ, tiếp đi. - cô nói. - Anh vừa nói là… - Anh hiểu. Điều đó không quan trọng và anh chỉ nhầm lẫn vấn đề. Điều anh muốn nói, anh bắt đầu giải thích vì sao anh nói “các người, các người là thành viên của tầng lớp thượng lưu”, vân vân, ngụ ý anh không ở trong số đó. Phải, anh không và sẽ không bao giờ là người của tầng lớp đó. Nếu có bất kỳ cơ hội nào thì nó đã biến mất - để anh xem nào - từ hai năm trước rồi. - Sao lại hai năm trước? Anh không thể nói thế. Có chuyện gì vậy? - Anh suýt chết đói. Hai năm trước, có lần hai ngày liền anh không có gì để ăn và uống ngoài nước lã, không có cả thuốc lá để hút. Anh sống giữa hai khối nhà, anh không có việc làm, không có tương lai, không thể viết thư cho gia đình vì trước đó ít lâu anh đã viết một tấm séc giả và vì anh là đứa con hư hỏng. Anh không thể vay mượn bất kỳ ai, vì anh nợ nần ngập cổ. Anh đã vay hết những người quen biết, dù chỉ chút xíu. Vay người này một đô, người kia mười đô. Anh ở lỳ trong nhà hai ngày liền vì không thể giáp mặt với mọi người trên phố. Rồi một phụ nữ da đen làm công việc quét dọn trong khu nhà anh sống biết việc xảy ra, và đến sáng ngày thứ ba, lúc đi làm bà ấy mang cho anh một cái bánh mì kẹp thịt gà. Anh sẽ không bao giờ quên cái bánh đó. Một cái bánh mì đen tự làm, không mịn và trắng mà chắc và mập, có màu nâu. Bánh gói trong giấy báo. Bà đến và nói: “Chào ông Malloy. Tôi mang đến cho ông cái bánh mì kẹp thịt gà, nếu ông không chê.” Thế thôi. Bà ấy không nói vì sao lại mang đến, rồi bà đi ra và mua cho anh một cốc cà phê kèm mấy điếu Camel, mà anh thì hút Lucky. Bà ấy thật tốt bụng. Bà ấy biết hết. - Em nghĩ bà ấy tốt thế, sao anh không gọi bà là người da màu thay cho da đen. - Vớ vẩn! - Em đi đây. - Đi đi. - Đúng là một Mick. - Thấy chưa? Điều đầu tiên em nghĩ ra là xúc phạm anh. Đi đi, xéo đi! Bồi, mở cửa cho cô đây. - Anh không về với em à? - Anh nghĩ thế. Bao nhiêu, Luke? - Một đôla hai mươi. - Luke nói, mặt không lộ vẻ gì khó chịu trước sự việc này. Isabel thấy đi ra đỡ khó khăn phần nào vì Lệnh cấm rượu đã hủy bỏ. Trong những ngày đó, bạn phải đợi người hầu ngó qua ô cửa nhỏ xíu xem mọi sự có an toàn không, rồi mở ít nhất là hai cái khóa và giữ cửa cho bạn. Hối hả đi thật nhanh qua cửa xoay là thuận tiện nhất. Jimmy bấm chuông gọi thang máy và lặng lẽ đợi, họ im lặng xuống cùng nhau và thấy một chiếc taxi có tài xế trong xe. Taxi thì có nhiều đấy, nhưng cánh tài xế còn mải tranh cãi về quyết định Tacna-Arica[21], và khách đi xe là thứ cuối cùng trên đời làm họ chú ý. Tuy vậy, một chiếc taxi tiết kiệm xăng xuất hiện, Isabel và Jimmy lên xe. - Về nhà chứ? - Jimmy hỏi. - Vâng. - Isabel nói. Jimmy bắt đầu hát: “… Bác em thế nào? Anh không có bác. Anh mong ông khỏe mạnh và diện bảnh bao.” Im lặng. - Anh có biết vào khoảng này bốn năm trước xảy ra chuyện gì không? - Không. - Vụ án Snyder-Gray. Im lặng. - Em nhớ không? - Tất nhiên. - Thế tên thánh của ông Snyder là gì? - Của ai? - Của ông Snyder. - Không phải ông Snyder. Mà là Ruth Snyder và Judd Gray. - Tuy nhiên có một ông Snyder. Ờ, phải rồi, có một ông Snyder. Chính ông ta bị sát hại, Isabel thân mến ạ. Mà tên thánh của ông ta là gì nhỉ? - Làm sao em biết được? Em quan tâm đến tên thánh của ông ta làm gì? - Sao em lại cáu với anh? - Vì anh xúc phạm em giữa nơi công cộng, gọi bồi bàn đưa em ra cửa, sủa vào mặt em những lời tởm lợm. - Xúc phạm em giữa nơi công cộng. - anh ta nói. - Xúc phạm em giữa nơi công cộng. Còn em không nhớ ra tên thánh của ông Snyder. - Nếu anh nói chuyện, thì nói cho có lý. Đấy mới là thứ em quan tâm, dù anh nói hay không. - Anh đang nói rất có lý đây. Em cáu vì anh xúc phạm em giữa nơi công cộng. Rốt cuộc thì nó là cái quái gì hả? Xúc phạm giữa nơi công cộng. Còn việc Ruth Snyder và Judd Gray bị xử vội thì sao? Anh nói ông ta mới bị xúc phạm công khai, bị nặng nữa. Báo chí trong nước bêu tên ông ta nhiều ngày, sỉ nhục hết mục này đến mục kia, đủ mọi loại lăng mạ. Còn em không thèm nhớ cả tên ông ta. Thế mới là xúc phạm. - Không phải thế. - Chính thế đấy. Nếu bây giờ anh ra khỏi taxi có phải là xúc phạm em công khai không? - Ồ không. Chỉ không cần thiết thôi. - Trả lời câu hỏi của anh đi. - Em không muốn anh hỏi thế. Trả lời thế được chưa? - Được. Tài xế! Tạt vào lề đường, đi chậm lại. Đây. - anh đưa một đôla cho người lái xe và bỏ mũ. -Tạm biệt, Isabel. - anh nói. - Anh là đồ ngốc. Anh có biết anh là thằng ngốc không hở? - Không một tí tẹo nào. Anh chỉ nhớ sáng nay đã được gợi ý đi nghe giảng đạo và cả ngày anh không đến cơ quan. - Trời ạ, Jimmy! Anh sẽ gọi cho em chứ? - Một giờ nữa. - Em sẽ đợi. ••• Liggett lên tàu muộn về nhà. Ông gần như thích chuyến đi. Đi cùng các con, ông thấy căng thẳng. Với Emily thì đỡ hơn, thời gian này bà không căng lắm, bà chỉ căng khi có điều gì lầm lỗi. Thế nên bà chẳng đáng ngại. Nhưng ông mong không có gì sai sót; nhỡ cô gái dại dột kia vẫn còn ngủ trong căn hộ hoặc để quên thứ gì đó, và ông muốn có nhiều thời gian xem xét kỹ càng trước khi Emily và các con về đến nhà. Cái gì đã làm ông dẫn đứa con gái ấy về nhà? Trước kia ông chưa bao giờ làm thế, ngay cả khi Emily và các con ông đi nghỉ hè hoặc đi châu Âu. Thế đấy… Châu Âu. Mùa đông năm nay thật khắc nghiệt. Nhiều thứ tưởng xảy ra trong mùa đông năm ngoái lại không xảy ra. Ông nghĩ đến bao nhiêu thứ được hứa hẹn song chưa chắc diễn ra. Ông không tự dối mình có tầm quan trọng riêng trong những mưu toan kinh tế; ông là giám đốc chi nhánh New York của nhà máy công cụ nặng do ông nội ông thành lập, sản xuất vòi nước, dao, đục… Lúc tập trung tư tưởng, Liggett có thể đọc kế hoạch chi tiết, ông có thể từ chối những đánh giá đủ thông minh để thấy sự khác biệt giữa giá thành và giá mua cuối cùng; đó là phần đáng kể trong công việc của ông, vì một trong các khách hàng sộp nhất của ông là thành phố New York. Ông cũng giao dịch với nhiều công ty dịch vụ lớn và ông phải biết những kiến thức tối thiểu về hệ thống tính toán và định giá của các công ty này, ví dụ một bộ máy khoan hơi giá 5.000 đôla là một khoản vốn đầu tư 5.000 đôla trong mười năm sau khi mua, không được giảm giá. Giữa đám khách hàng tương lai, ông phải nhận ra đúng người sẽ là khách hàng đầy tiềm năng. Ông không biết sử dụng thước lôga, nhưng đủ hiểu biết để gọi là thanh-trượt. Ông không biết dùng các dụng cụ trắc địa, nhưng giữa đám kỹ sư, ông có thể nói về “cách vận hành súng”. Thay vì dùng kiểu chữ viết tay, ông luôn viết theo cách Reinhard, dùng chữ in nghiêng là điều đầu tiên các kỹ sư phải học. Thẳng thắn và đôi khi hơi buồn bã, ông không tiếp nhận bất cứ sự hiểu biết thực sự nào về công nghệ, nhưng điều này lại làm các kỹ sư chính hiệu nguôi giận: họ cho rằng cái cách muốn thành kỹ sư và có thể làm một kỹ sư giỏi của ông giống một đứa trẻ. Những chi tiết bề ngoài ông thể hiện - cách viết thư, tiếng lóng, biết những chuyện ngồi lê đôi mách của đám kỹ sư địa phương như ai kiếm được 75 đôla mỗi tuần là người làm việc thực sự, giỏi giang - tất cả những điều ấy làm ông thành một gã rất “được” giữa đám kỹ sư, là những người chắc chắn không ít đa cảm hơn bất cứ nhóm đàn ông nào. Họ thích ông, họ làm nhiều việc nho nhỏ cho ông, những việc mà trước kia họ không làm cho bất cứ một kỹ sư nào, và ông trở thành một người anh em không có cạnh tranh. Là thủy thủ, ông hay kể chuyện về những người của M.I.T. Ông nói đến lòng can đảm của hải quân M.I.T, chiến đấu hết năm này đến năm khác. Cha ông đã đến Lehigh[22], nên ông hay nói về các kỹ sư Lehigh. Liggett nhận ra khóa Tau Beta Pi và Sigma Xi khác nhau rất xa. Thậm chí ông còn biết rằng, khi có mặt những người không học Yale, ông ao ước được đến Sheff và học một cái gì đó. Ông không bao giờ nhầm lẫn khi nói về những người thuộc hội Tau Beta Pi và Sigma Xi, và có lần ông nói với một người ông không ưa: “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một Phi Beta Kappa đeo đồng hồ”. “Điều khoản cá nhân” quy định những người học ở Yale phải ký bản tuyên bố là họ hy vọng khi cha mẹ họ đột ngột qua đời, vé xem bóng đá họ đã đặt sẽ cho người khác, và đó là món quà trời cho Liggett. Ông xin vé, thề được vé sẽ không bao giờ uống rượu, và khi một hội viên Tammany[23] đến với ông kiếm đôi vé xem trận Harvard, Liggett giải thích về lời thề nhưng vẫn chuyển giao vé. Liggett không nghĩ cần phải bào chữa cho hành động vi phạm lời thề danh dự, nhưng ông ta đã có sẵn hai lý lẽ: thứ nhất, ông không chấp nhận cam kết; thứ hai, ông đã mài mòn đũng quần ở Yale hết năm này sang năm khác, bốn năm chèo thuyền không bỏ lỡ cuộc đua nào, ông thấy mình xứng đáng được chút lợi là cựu sinh viên “Y” hơn là một thư ký nào đó ở văn phòng Hội Thể thao, ít ra những chiếc vé này cũng có dịp tạo nên sự khác biệt giữa việc tham gia một hợp đồng trang thiết bị và không bị khấu trừ. Thế là, về mặt nào đó, ông là người đáng giá với công ty. Nhà máy không còn thuộc về gia đình Liggett, nhưng ông vẫn là giám đốc, như trêu tức thiện chí còn rơi rớt mà cha và ông nội ông để lại. Ông bỏ phiếu cho cổ phần của mình và em gái, nhưng với cơ ngơi của người cha, cũng là một giám đốc, ông đã bỏ phiếu đúng cách luật sư đã dặn. Năm 1930 dạy ông rằng ông không biết cách lưu thông trong thị trường cổ phiếu. Kinh doanh là một việc đơn giản, ông tự nhủ: đó là mua và bán, cung và cầu. Ông nội ông, một thợ cơ khí bình thường người Anh đã từ Birmingham đến nơi đây, đáp ứng một nhu cầu. Cha ông tiếp tục vai trò cung và cầu, nhưng đã mở rộng việc mua bán hơn nhiều. Năm 1930, Liggett tự lập luận: với mình, mua và bán không còn theo kiểu của cha mình, và luật cung - cầu cũng không còn như thời ông nội mình nữa. Mình ở vị trí tham gia các hoạt động của cả ông và cha, nhưng vì mình không còn nhà máy trong tay nên phải có thứ mà cha ông mình không có. Mình phải có quan điểm độc lập. Liggett & Công ty vừa cung cấp vừa bán hàng. Hiện giờ đi đến đâu mình cũng thấy nhà cửa mọc lên, đào đắp khắp nơi. Một ít cổ phiếu thông thường - à, tất cả các cổ phiếu thông thường - sụt giảm, nhưng chắc chắn là chúng đã có thời lên giá hơn giá trị thực. Vậy thôi. Có chuyện gì đó xảy ra và toàn bộ thị trường chao đảo. Vì sao vậy? Ai có thể giải thích một việc như thế. Nhưng nó đã xảy ra và cuối cùng sắp thành hiện tượng tốt, vì khi cổ phiếu tăng trở lại, lần này chúng sẽ có giá trị đúng. Trên cơ sở đó, thu nhập của ông năm 1929 là 75.000 đôla đã giảm xuống 27.000 đôla năm 1930. Lương của ông là 25.000 đôla, không bị cắt giảm, vì những quan hệ của ông với Tammany trong năm 1930 vẫn tốt đẹp như trong năm 1929 và ông vẫn ăn khách. Năm 1929, thu nhập ngoài lương của ông ở Liggett & Công ty là 40.000 đôla, kể cả tiền hoa hồng. Ngoài ra ông còn thu khoảng 10.000 đôla từ tài sản của bà mẹ trong những khoản đầu tư không-Liggett ở Pittsburgh. Năm 1930, lợi nhuận ở Liggett & Công ty chỉ còn 15.000 đôla, chui hết vào túi những người môi giới chứng khoán, và ông chỉ thu được 5.000 đôla từ tài sản của mẹ mình. Nhưng ông và một người nữa đã kiếm được mỗi người 2.000 đô la từ một nguồn bất ngờ, và họ đã nghĩ một cách nghiêm túc sẽ làm việc đó hàng năm. Liggett định đến mùa xuân 1930 sẽ ra nước ngoài, và một người bạn không thân thiết mà ông quen biết ở trường đại học đã đến đưa cho ông một kế hoạch làm ông nghẹn thở. Họ bàn bạc kỹ lưỡng trong phòng hút thuốc, và một phần trong kế hoạch đó là mua trọn gói một vũng cạn trong khu vực tàu neo đậu. Hôm sau, ngay sau giữa trưa một con tàu mắc lại, và mắc vào một giờ may mắn. Kết quả của trở ngại này là, Liggett và người bạn nắm giữ phần vũng cạn đã thắng khoản lớn nhất trong cuộc hành trình, Liggett được khoảng 2.000 đôla. Tuy nhiên, đấy không phải là lãi ròng; họ phải hối lộ 500 đô cho người phục vụ ngã xuống biển đúng vào giữa trưa hôm ấy. Nói của đáng tội, ban đầu Liggett từ chối tham gia kế hoạch, và sẽ không chịu làm nếu không được cam đoan rằng ông không phải bỏ vốn mà chỉ đứng nhìn, như một hình mẫu ngay thẳng và lịch thiệp, hoàn toàn đứng ngoài vụ hối lộ, thắng đậm mà không phải chia bôi gì. Liggett cũng được bảo đảm rằng người bạn chủ mưu kia sẽ chọn một người phục vụ biết bơi… Xuống tàu, ông vội vàng đến một trạm điện thoại và gọi về nhà. Không có ai trả lời. Tuy vậy, như thế chẳng có nghĩa gì. Chỉ có nghĩa là Gloria không trả lời điện thoại. Ông đi xe điện ngầm đến Quảng trường Times, rồi thay vì lên xe buýt đến Grand Central, ông lên phố để thoát khỏi không khí kinh khủng dưới xe điện ngầm (có quá nhiều người, nhìn thấy những con người đáng ghét hầu như làm đầu óc cạn kiệt cả không khí) và đi taxi nốt quãng đường về nhà. Ông tìm kiếm trên gương mặt người giữ thang máy những dấu hiệu nghi ngờ nhưng chẳng thấy gì, từ sáu tháng sau Giáng sinh chỉ gọn lỏn câu “Chào ông”. Ông vội vã kiểm tra căn hộ, mở cả cửa bếp thông sang phòng người hầu. - May quá, cô ta không ở đây. - ông nói to và trở lại nhìn buồng tắm kỹ hơn. Chắc chắn cô nàng đã làm trò lộn xộn nho nhỏ gì đó. Rồi ông chú ý thấy cái bàn chải đánh răng của mình, lúc nào cũng cắm trong cốc, giờ nằm lăn lóc trong bồn rửa mặt. Ống kem đánh răng bị bóp ở giữa, nắp chưa đậy. Ông cầm cái bàn chải đưa lên mũi. Trời ạ, con chó cái ấy đã đánh răng bằng bàn chải của ông. Ông bẻ gẫy làm đôi và ném vào thùng rác. Trong phòng ngủ, ông nhìn thấy bộ áo dài và áo khoác mặc buổi tối của cô nàng. Ông nhặt chiếc áo dài lên, ngắm nghía. Ông lộn trái và nhìn vào điểm ước chừng bắt đầu đôi chân cô, mong tìm thấy nhưng chẳng thấy gì. Thật hay là ông đã xé rách chiếc áo và ông thấy lúng túng. Bằng vào cách cô hành xử khi ông đưa cô lên giường, chẳng có lý gì mà ngờ cô ta là một người hay trêu tức, nhưng tại sao lại trêu tức khi ông đưa được cô về nhà? Cả hai đều say khướt, và ông phải công nhận là cô còn tỉnh hơn ông, cô còn có thể uống thêm nữa. Cô đã về nhà với một người đàn ông vừa quen tối hôm ấy, đến căn hộ của ông sau khi ôm ấp nhau trong taxi và cho phép ông ta sờ vú. Cô đã vào buồng tắm của ông và khi trở ra, thấy ông đứng đó đợi, tay cầm cốc rượu. Cô nhận cốc nhưng đòi trở lại phòng khách. - Không, ở đây thoải mái hơn nhiều. - ông nhớ mình đã nói thế, và còn nhớ đã nghĩ giá đừng nói thì hay hơn, vì ông vừa nói xong, cô bèn đáp ngay rằng cô thấy ở phòng khách thú vị hơn. Ông lại nói thôi được, ở phòng khách thú vị hơn nhưng chúng ta chót vào đây rồi. - Ồ, nhưng anh lầm. - cô nói và nhìn vào mặt ông rồi từ từ nhìn xuống thân thể ông, cái nhìn thẳng thừng nhất hạng mà chưa một ai nhìn như thế, đấy là lần duy nhất ông hoàn toàn tin chắc mình nhìn thấu tâm tư người khác. Ông đứng dậy, để cốc lên bàn và tóm lấy cô trong vòng tay, thô bạo hết mức. Ông siết chặt người cô vào ông, cho đến khi cô cảm thấy thực sự bé nhỏ so với ông. Cô vẫn cầm cốc rượu và đưa tay lên cao trong lúc ngửa đầu ra sau, ngoảnh mặt tránh xa mặt ông. Cô ngưng nói, nhưng trông không có vẻ gì giận dữ. Còn khoan dung nữa kia. Trông cô có vẻ khoan dung như đang xử sự với một cậu học sinh trung học, dường như cô khó chịu nhưng biết lát nữa sự việc sẽ chấm dứt và cô ở đó, cốc rượu trong tay, thái độ vẫn đàng hoàng. Cuối cùng ông buông cô ra, nhưng không phải vì lý do cô tưởng. Cô tưởng ông sắp từ bỏ, nhưng với ông, thái độ nghiêm trang ấy là quá nhiều. Ông phải bẻ gẫy nó bằng cách nào đấy, vì thế ông buông cô ra, rồi vòng cánh tay quanh người cô. Ông vồ lấy phần trên tà áo dài đằng trước, và xé mạnh. Nó rách toạc đến giữa tà. Mọi sự thay đổi ngay lập tức. Ông làm cô sợ, còn cô thật đáng thương và xinh xắn. Thậm chí ông không để ý rằng vẻ nghiêm trang của cô ít ra cũng là thật, đủ cho cô cầm cốc, tiến hai bước đến bàn. Trong một, hai phút, ông đã sẵn sàng yêu thương cô bằng tất cả sự trìu mến và ân cần dường như bị kìm nén bấy lâu nay ở nơi nào đó trong ông. Ông theo gót cô đến bên bàn và đợi cô đặt cốc xuống. Bây giờ, sau một ngày mà không phải là đêm qua, ông mới nhận ra rằng trông cô hơi điệu bộ, một tư thế làm điệu hơi cũ mòn, cằm cô gần như đặt trên vai, mắt nhìn lảng đi, cánh tay phải gập thành hình chữ V chặn ngực ông lại, bàn tay trái khum lại dưới khuỷu tay phải. Ông đặt bàn tay lên bắp tay cô và ấn nhẹ. - Hôn anh đi. - ông nói. - Phần thưởng đấy nhé. - cô đáp. Cô quay mặt lại, lộ vẻ sắp hôn ông. Ông lại đặt tay sau lưng cô và dịu dàng hôn lên môi cô, lúc đó cô hạ cánh tay xuống và ôm lấy ông, rồi cô rướn lên ông mà không nhúc nhích đôi chân. Lúc này, nghĩ đến điều ấy, ông biết rằng nó còn vượt xa hơn cả tình yêu. Nó là thứ hoàn toàn mới mẻ, trọn vẹn và thành thạo đến nỗi lần đầu tiên trong đời, ông hiểu vì sao có những chàng trai, trẻ trung và đặc biệt rạng rỡ, lại phản bội nhà vua và đất nước vì một người đàn bà. Ông hiểu vì sao họ có thể làm điều đó trong khi biết người đàn bà ấy là một gián điệp, không trung thành với họ; ông chỉ muốn có cô ngay bây giờ, và không quan tâm từ lúc rời căn hộ này, cô đã ngủ với bao nhiêu đàn ông. Suốt buổi chiều bên Emily và các con, ông không nhớ đến chuyện này, nhưng bây giờ nếu có Gloria ở đây, ông sẽ chẳng cần để ý đến việc Emily và các con có thể vào và nhìn thấy. “Khốn kiếp!” ông gào lên. Cô không thể biết những gì ông biết. Ông bốn hai tuổi, còn cô kém ông ít nhất hai chục tuổi, và trời ạ, nó làm nên sự khác biệt ghê gớm. Dù tìm thấy cô ở bất cứ nơi đâu, ông sẽ đưa cô về căn hộ ngay đêm nay. Chuyện này thường xảy ra với đàn ông làm người ta hay nói đến lứa tuổi nguy hiểm và đủ thứ. Ừ thì lứa tuổi nguy hiểm, làm bạn trở thành ngu xuẩn, song dù có xảy ra bất cứ điều gì với ông, ông cũng nhận hết miễn là có cô gái ấy. Ông sẽ phải có cô ta lần nữa, hết lần này đến lần khác, có cô trong một năm. Chắc chắn ông sẽ đưa cô đến một căn hộ. Ngay đêm nay. Ngày mai, cô sẽ có tài khoản trả sau. Ông gọi về nhà cô, không hy vọng tìm thấy cô ở đấy, nhưng cứ gọi cầu may. Một giọng nam dè dặt trả lời. Chắc là cha cô, Liggett nghĩ. Cô không có nhà và đêm nay sẽ về muộn. Câu đó không làm Liggett nản lòng. Ông nghĩ mình biết về cô đủ để tìm ra cô ở đâu. Ông gói mớ quần áo của cô lại và mang xuống nhà, gọi taxi đến Grand Central. Ông ký gửi cái bọc ở đấy và định ném tờ biên nhận đi nhưng lại nghĩ nhỡ cô thích bộ áo đó, vì lý do tình cảm chẳng hạn, cô có thể vá lại. Phụ nữ hay giữ quần áo cũ vì những lý do như vậy, ông không có quyền ném bỏ tờ giấy đó. Hơn nữa, chiếc áo khoác trông còn tốt. Lúc đầu ông không nghĩ đến nó, mà chỉ nghĩ đến chiếc áo dài bị xé rách. Cứ nghĩ đến nó ông lại bực mình. Ông thích nghĩ đến việc xé và cởi tuột quần áo cô ra cùng với hồi ức diện mạo cô, thân hình cô và sự kinh hoàng của cô lúc ấy. Nhưng thực ra, xé áo của một cô gái là việc thật xấu hổ và ông không thích cứ nghĩ lẩn quẩn đến nó mãi. Ông đến cửa hàng bán rượu lậu trên phố East 53, nơi trong hai năm có hai người đàn ông tự tử trong phòng vệ sinh nam. Người ta đang dọn mấy cái ghế cuối cùng khỏi bàn, chuẩn bị mở cửa nhưng quầy rượu đã mở. Một người đàn ông mặc áo đuôi tôm và người bạn gái đang uống rượu. Người đàn ông trông dáng hào hoa trạc ngoài bốn mươi. Người phụ nữ khoảng ngoài ba mươi, cao và khêu gợi. Lúc Liggett bước vào, họ đã khá say và đang tranh cãi; người đàn ông nắm cánh tay người phụ nữ lôi khỏi quầy, ra cái bàn cũng trong phòng ấy nhưng cách xa Liggett. Hiển nhiên cô ta là tình nhân của ông ta và ông ta bất lực trong tình yêu với cô. - Từ ngày quen biết anh. - cô ta nói, rất to. - Anh chẳng đòi hỏi gì tôi ngoài những câu căn vặn. Liggett đổi mấy đồng năm xu và đến trạm điện thoại gọi cho một người bạn là kỹ sư. Không có tín hiệu trả lời. Ông thử gọi cho hai ông bạn kỹ sư khác, vì muốn đi một vòng quanh các quán rượu lậu mà ông tin có khả năng tìm ra Gloria. Ông muốn đi cùng với một người đàn ông nhưng không phải là bạn thực sự của ông. Họ đều đang ở nhà hoặc đi dự tiệc cùng vợ, còn ông muốn ra ngoài với người có vợ nhưng không quen biết Emily. Ông thử gọi cho những kỹ sư này nhưng không ăn thua. Không ai trả lời. Ông thử lần thứ ba, một người ông không thích lắm; người này rất thân ái và sốt sắng mời Liggett đến ngay, dự bữa cocktail đang rất đông người. Liggett từ chối. Vào lúc khác chắc ông sẽ đến chơi với người đàn ông mặc áo đuôi tôm, đang bị phê phán vì chuyện trăng gió giữa ông ta với người tình. Câu chuyện chuyển hướng không mấy tốt đẹp, người đàn bà sẽ bỏ về nhà bất cứ lúc nào và gửi trả mọi thứ ông ta cho, và ông ta chẳng biết phải làm gì với những thứ đó. Không muốn ở lại một mình với người đàn ông, Liggett uống cạn cốc whisky pha sôđa, trả tiền rồi sang quán rượu lậu khác, ngay bên cạnh. Người đầu tiên ông nhìn thấy là Gloria, tươm tất trong bộ áo rất đúng mốt. Cô nhìn ông, dửng dưng. Cô đi cùng một thanh niên và một cô gái trẻ đẹp. Ông tiến đến bắt tay, Gloria giới thiệu ông với mọi người và mời ông ngồi với họ một chút, vì họ sắp đi. - Ồ, tôi tưởng chúng ta đến đây ăn tối. - cô Day nói. - Tôi đói ngấu rồi. Sự im lặng có lợi cho cô Day, cô ngầm thông báo cho mọi người cùng bàn rằng cô nên nói ra câu ấy thì hơn. - Các vị đang đợi ai chắc? - Liggett hỏi. - Không hẳn. - Gloria nói. - Tôi cảm thấy ngớ ngẩn và thô lỗ kinh khủng nếu ông có lòng tốt mời chúng tôi ăn tối. - cô Day nói. - Cô Wandrous, lẽ ra tôi nên ở lại Brevoort và ăn ở đấy vì lúc đó tôi đã đói rồi. Tôi… - nói đến đó cô im bặt. - Tôi cho là chúng tôi nên đi thôi. - Brunner nói. - Gloria, chúng tôi sẽ ghi nợ bữa tối đó nhé. - anh ta không uống, có vẻ tỉnh táo và cáu kỉnh của người thường ngày uống say túy lúy, nay nhất thời tạm kiêng rượu. Liggett vội đứng dậy trước khi họ thay đổi ý kiến. Cô Day có vẻ hoãn cơn thèm ăn lại vì cũng phải đứng dậy. Khi họ đi rồi, Liggett nói: - Tôi đã cố tìm em. Tôi gọi điện đi khắp nơi và nhìn ngó khắp New York cho đến lúc tìm thấy em. Em uống gì? - Rye pha nước. - Rye pha nước và Scotch pha sôđa cho tôi. Em muốn ăn ở đây không? - Ăn tối với anh ư? - Phải, không được sao? - Tôi không biết. Như anh nói thì điều anh muốn là gọi điện cho tôi khắp nơi, dù tôi không biết anh có thể gọi đến đâu ngoài nhà tôi. - Và quán Manger. - Có gì buồn cười đâu. Tối qua tôi say khướt. Chuyện này sẽ không xảy ra lần nữa. - Thế ư. Nó phải xảy ra lần nữa. Nó sẽ xảy ra. Nghe này, anh không biết bắt đầu ra sao. - Thì đừng nói nữa, nếu đây là một lời gạ gẫm. Vì tôi không thích những lời gạ gẫm. - cô biết mình đang nói dối, vì hầu như cô thích mọi lời bóng gió; ít nhất cũng thích nghe. Nhưng cô không thể bảo ông cách tiến hành. Liggett không nói gì chứng tỏ ông phát hiện ra cô đã lấy cắp chiếc áo khoác, nhưng sự tránh né của ông có lẽ chỉ vì khôn khéo. Cô quyết không đả động gì đến chiếc áo trước ông, mà đợi cho đến lúc ông tỏ ý muốn đòi lại. Lúc này cô không muốn nói đến chuyện đó. Sau này thì có thể, nhưng không phải lúc này. Ông ta nhìn xuống đôi bàn tay tạo thành “đây là nhà thờ, đây là tháp chuông, mở cửa ra là có tất cả mọi người.” - Em có biết tôi muốn gì không? - ông nói. Nó đã ở đầu lưỡi cô, có, chiếc áo khoác lông chồn. Cô nói: - Tôi chẳng biết gì hết. Ông thò tay vào túi và lấy ra tờ biên nhận gửi gói đồ ở Grand Central. - Của em đây. - ông nói. - Cái gì thế? - cô cầm tờ biên nhận và hỏi. - Rye cho cô Wandrous. Scotch cho tôi. - Liggett nói với người hầu bàn đang lặng lẽ bưng đồ uống lại gần. Khi anh ta đi khỏi, Liggett tiếp. - Đấy là phiếu gửi áo dài và áo khoác của em. Em đã cầm số tiền tôi để lại. Có đủ không? - Có. Anh muốn gì tôi? - Ờ, tôi cho là thô thiển quá. Tôi muốn có em. Tôi muốn… kiếm một căn hộ cho em sống ở đó? - Ồ. - cô nói. - Tôi đang sống với gia đình tôi mà. - Em có thể nói với họ là em đã kiếm được việc làm và muốn sống ở khu phố trên. - Nhưng tôi không thể nói thế được. Anh muốn tôi thành nhân tình của anh? Tôi không biết anh có người tình, tôi biết đây chỉ là lời phỉnh phờ, vì thế anh đừng nói nữa. - Tôi không lừa phỉnh đâu. Vì tôi rất muốn có em. - Anh có muốn tôi nói ra với anh không? - Ờ… - Trước hết, anh muốn có tôi vì tôi giỏi giang trên giường còn vợ anh thì không. Hoặc nếu chị ta có thì cũng kiềm chế. Tôi đoán thế, căn cứ vào cách anh làm tình. Ngoài ra, anh đã chán chị ta và muốn có tôi vì tôi trẻ, chỉ bằng tuổi con gái anh. - Xấp xỉ thôi. - Liggett nói. - Tôi phải có em vì tôi còn rất trẻ. - Không “rất” lắm đâu. Tôi đã nhìn thấy ảnh các con anh trong phòng khách nhà anh, họ không ít tuổi hơn tôi là mấy. Nhưng tôi không muốn anh cảm thấy mình quá già, vì thế chúng ta hãy bỏ qua chuyện này. Anh muốn có tôi và tưởng rằng khi anh trả tiền thuê nhà, tôi sẽ là của anh và không là của ai khác nữa. Đúng thế không? - Không. Trên thực tế thì không. Một giờ trước tôi chưa nghĩ đến, trước khi tôi biết em ở đâu, Gloria, tôi phát hiện ra rằng tôi không quan tâm em đang ở với ai hoặc trên chiếc giường nào, tôi vẫn muốn có em. - Chà, kinh thật. Mà anh sắp, ờ, anh hơi lo vì sắp năm chục tuổi, phải không? - Có lẽ. Mà tôi không nghĩ thế. Đàn ông không có thời mãn kinh. Tôi còn có thể với em nhiều năm nữa. Tôi tự chăm sóc bản thân rất kỹ càng. - Mong là thế. - Tôi mong em cũng thế. - Đừng lo cho tôi. Ngày mai, việc đầu tiên tôi làm là đến nhà một người bạn ở đại lộ Park. - Người bạn ở đại lộ Park của em là ai? - Bạn tôi ở đại lộ Park ư? Đấy là bác sĩ của tôi. Tôi có thể nói với anh là tuần này tôi không rảnh cho anh và tôi. - Em hay đến với anh ta? - Nhất định rồi, thường xuyên. Anh nghe này, tôi không muốn ngồi đây và nói chuyện về bệnh lây qua đường sinh dục. Anh để tôi nói hết lời đang nói. Anh tưởng tôi sẽ trung thành với anh vì anh cho tôi một căn hộ. Anh bạn điển trai của tôi ơi, tôi chỉ trung thành với anh khi nào tôi muốn thôi, có thể một năm hoặc có khi chỉ đến trưa mai. Không. Không có căn hộ nào cho tôi hết. Nếu anh muốn có một căn hộ để chúng ta đến mỗi khi tôi muốn đi cùng anh, hoặc anh có thể đưa bất cứ ai anh thích đến đó, thì nó hoàn toàn là việc của anh. Nhưng sau khi làm khách và nhìn ngó căn hộ của mình, anh sống ra sao? Không thú vị lắm. Anh không đủ tiền sở hữu tôi đâu. Năm ngoái, mùa thu năm ngoái, tôi nảy ra một ý khá hay ho là tôi đáng giá bao nhiêu. Anh có thể trả tiền bảo dưỡng cho một du thuyền dài 55 mét không? Một du thuyền chạy bằng diesel? - Nói thật là không. - Phải, còn người này đã và đang làm thế, mà tôi đánh cược là mỗi năm anh ta không sử dụng đến năm, sáu lần. Anh ta đến các cuộc đua thuyền và dự một bữa tiệc linh đình của thanh niên, họ thường xuống Florida với anh ta mỗi khi anh ta đến, trước khi nó thuộc về anh ta, tôi đã nhìn thấy nó ở Monte Carlo. - Tôi đoán ra ai rồi. - Phải, tôi cũng đoán là anh biết. Và anh ta cũng muốn có tôi. - Sao em không túm lấy anh ta, nếu em muốn có tiền? - Anh biết vì sao không? Anh có biết ảnh những người lùn trên báo Chủ nhật không? Những người đàn ông bé nhỏ chân như hai que diêm, bụng tròn xoe, rốn to tướng và da nhăn nheo? Trông anh ta giống y như thế. Tôi cũng không thể nói tôi thích ý tưởng ngộ nghĩnh của anh ta. Eo ôi. - Cái gì? - Thật tình, tôi không biết nói với anh ra sao. Tôi ngượng. Có khi anh đã nghe rồi, nếu anh biết anh ta là ai. - Em muốn nói anh ta là người dị dạng? - Hừm. Dị dạng. Nghe này anh yêu, anh có biết vì sao em thích anh không? Em rất thích anh. Anh biết vì sao không? Vì anh là người đàn ông bình thường và mộc mạc. Anh tưởng anh không chung thủy với vợ là khá “hot” và sành điệu. Chà, em có thể kể cho anh nghe về cái thành phố bẩn thỉu bị Chúa Trời nguyền rủa này. Kinh lắm. Em biết một người suýt đắc cử, ờ, mà em nghĩ tốt hơn hết là im miệng. Em biết quá nhiều so với tuổi của mình. Nhưng em thích anh, Liggett, vì anh thèm muốn em theo cách em muốn, và không có những biến thể hoang đường. Chúng ta ra khỏi đây đi, nó quá lỗi thời rồi. - Em muốn đi đâu? - Liggett hỏi. - Xuống phố Bốn mươi, đến một chỗ gần như ưa thích của em. Họ đến phố Bốn mươi, leo lên một cầu thang ngoằn ngoèo. Một người đàn ông cầm cái hộp trang trí hoa hồng tuyệt đẹp tiếp họ, sau khi đã nhòm ngó kỹ lưỡng. - Tôi e anh không nhớ tôi. - Gloria nói. - Cái gì? Sao tôi lại không nhớ cô kia chứ, thưa cô? - người đàn ông nói. Anh ta chính là bồi rượu. - Cô ưng uống gì ở Lord’s Day này? - người bồi rượu nói. - Có lẽ Little Irish? - Được. - Còn ông? - Scotch pha sôđa. - Vâng. Vâng. - người bồi rượu nói. Vào những ngày này, đó là quán rượu đáng kể nhất ở New York, căn phòng không có gì ngoài những loại rượu nguyên chất. Nửa phòng là bàn, ghế và một cây đàn piano cơ, nhưng nửa căn phòng phía trước quầy rượu là cái sàn bêtông trống trơn. Liggett và Gloria đã quen cảnh này và mỉm cười với nhau trong gương thì một giọng nói cất lên. - La đi đu, la đi đu, li đi đi. Tom! - Bớt nhắng đi nào, Eddie. - Tom (người bồi rượu) nói, rồi cười toe toét với Gloria và Liggett. - Cho tôi vài đồng năm xu nào, la đi đu, la đi đu. Họ nhìn người đàn ông tên là Eddie ở đầu kia quán, đang xát hai bàn tay mũm mĩm vào nhau và mút răng chùn chụt. Anh ta đội mũ đồng phục, mặc gilê len màu xám và quần xanh. Họ để ý thấy anh ta có một khẩu súng lục, dây xích, còng tay và các thiết bị khác của một cảnh sát tuần tra. Áo cảnh phục của anh ta nằm trên ghế. - Xin lỗi các vị. - Eddie nói. - Hãy phục vụ quý bà và quý ông đây trước. - Thì tôi đang làm việc đó đây. - Tom nói. - Làm xong tôi sẽ mang tiền năm xu đến cho anh. - Được thôi. Cho tôi một chai bia, anh bạn. - Eddie nói. - Tất nhiên là sau khi phục vụ xong quý ông quý bà đây. - Khi nào xong tôi sẽ mang bia cho anh. Mà anh thì lúc nào chẳng khua chiêng gõ trống. Còn những người đóng thuế như chúng tôi trong cái thành phố vĩ đại này thì sao đây? Khi nào đi bầu cử, chúng tôi sẽ thay đổi toàn bộ những thứ này. - Cơ quan Chính phủ mà. Anh chưa bao giờ nghe đến nó phải không? Các thành viên cừ nhất đều là công chức nhà nước và những kẻ bỏ phiếu gian lận như các anh cứ làm như chúng tôi chẳng là cái đinh gì. Một bia! - Ra khỏi đây đi. Ra khỏi đây mà kêu. Bây giờ là hai mươi giờ năm phút, đến giờ rồi. - Đồng hồ chạy nhanh. - Trời đánh tôi chết nếu nó chạy nhanh. Tối nào tôi cũng chỉnh. Đi đi hoặc anh lại bị ghi sổ bây giờ. - Thì đi, và tôi sẽ trở lại với một mũ đầy đồng năm xu. - Eddie nói. Anh ta đeo thắt lưng, mặc áo và đội mũ cho ngay ngắn. Lúc rời đi anh ta nói: - Tôi sẽ mang đến cho anh một tờ báo nhé? - Thôi đi, lúc này đừng cố nịnh tôi. - Tom nói. Một nhóm bốn thanh niên bước vào và bắt đầu chăm chú với trò chơi bằng que diêm, đổi lấy đồ uống. Tiếp đến là người đàn ông mặc gilê và quần đen, đội cái mũ gấp gọn bằng giấy báo; anh ta vẫy tay chào cả bọn nhưng ngồi một mình. Một người với cái mũ lật ra sau gáy bước vào, nói chuyện với những anh chàng đang chơi diêm và người đội mũ giấy. Anh ta ngồi một mình, bắt đầu nhăn nhó đủ kiểu trong gương và nói chuyện dài dòng với Tom, vừa lắng nghe vừa gật gù. Trong lúc nói chuyện, người đàn ông không lúc nào rời mắt khỏi tấm gương. Tom ân cần với người soi gương, gẫu chuyện bóng chày với người đội mũ giấy, đùa với những người chơi diêm, lịch sự với Liggett và Gloria. Viên cảnh sát quay lại cầm mấy tờ báo và một túi giấy to, rồi lấy ra vài cái hộp. Anh ta trút món trai hầm ra các đĩa mà Tom lấy ở dưới quầy ăn trưa miễn phí. Viên cảnh sát nói: - Mời quý cô trước. Những người còn lại tự lấy đĩa trong lúc viên cảnh sát nhìn, vẻ hài lòng; sau đó, anh ta cởi áo vắt lên lưng ghế rồi đến bên cây piano. - Xéo khỏi cây đàn chết tiệt ấy đi. - Tom quát. -Xin cô tha lỗi. Eddie, vác cái xác anh đi, tránh ngay khỏi thứ đó, hỏng hết bây giờ. - Anh xéo đi thì có. - Eddie nói. - Rất mong cô tha lỗi, tôi có quyền ở đây. - Anh ta thả đồng năm xu vào máy, và trong giây lát cả phòng tràn ngập giai điệu Dinah, ai là người cuối cùng? - Lạy Chúa tôi, trời đất quỷ thần ơi, sai đĩa. - viên cảnh sát nói, buồn rầu thực sự. - Tôi muốn nghe bài Mẹ Machree kia. ••• Sáng hôm sau, một bức thư chuyển phát đặc biệt đến nhà Gloria Wandrous: Gloria thân mến, Anh thấy em chẳng thay đổi tí nào thói quen đáng chê trách là sai hẹn, hay em không nhớ hôm nay chúng ta đã hẹn gặp nhau? Hôm nay anh đến New York rất phiền phức, hy vọng gặp em để giải quyết những điều cả hai chúng ta cùng băn khoăn. Anh mang theo một số tiền, quả là lớn khi mang trong người, nhất là ở thời buổi như hiện nay. Ngày mai (thứ Hai) em ở nhà vào khoảng từ 12 giờ trưa đến 1 giờ chiều nhé, anh sẽ liên lạc với em qua điện thoại đuờng đài. Nếu không, anh sẽ cố liên lạc lại vào khoảng giờ ấy, thứ Ba. Giá em biết anh đã tốn phí chừng nào để đến New York, em sẽ ý tứ hơn. Viết vội, J. E. R Gloria đọc thư này vào cuối buổi chiều thứ Hai, lúc cô trở về nhà sau đêm ở với Liggett. - Tội nghiệp anh quá. - cô nói lúc đọc thư. - Chà, nếu em biết là phiền đến thế! E 4 ddie Brunner là một trong những người California không ưa nhìn. Anh cao và dáng vẻ trông vụng về, trừ khi mặc trang phục của một vận động viên đua thuyền, hoặc áo đuôi tôm giá 150 đôla. Anh không thành công lắm với chiều cao hơn mét tám của mình. Khi đứng nói chuyện, anh hay làm điệu bộ, và thường là một điệu bộ giống hệt nhau; anh giơ hai bàn tay như đang giữ một quả bóng chày, sắp làm một cú chơi xấu tưởng tượng. Anh không thể chuyện trò sôi nổi nếu không đứng, nhưng anh cũng không hay nói chuyện hăng hái. Giống như mọi người California khác, anh hay dùng kiểu mệnh đề phụ khi trình bày: “Hôm nay trời sắp mưa, đó là điều tôi nghĩ… Herbert Hoover sẽ là Tổng thống của chúng ta, đó là phỏng đoán của tôi… Tôi chỉ có hai đôla, đó là tất cả.” Trong hai năm ở New York, anh đã có bốn hoặc năm tháng dễ chịu. Ở Stanford, anh là người được mến mộ, khác với người nổi tiếng. Trong trường, các nam thanh nữ tú coi nhiệm vụ của mình là phải thành người nổi tiếng. Người được mến mộ làm việc mà không cần để ý có bị ghét hay không. Eddie Brunner vẽ nhiều biếm họa. Ra ngoài, anh được hâm mộ nhiều hơn ở Stanford vì các tạp chí đại học in lại tranh của anh. Anh tiếp thu tác phẩm của vài họa sĩ châm biếm đầu tiên của các trường, nhất là Taylor của Dartmouth, và tạo thành một kiểu khôi hài riêng. Anh vẽ những người bé tí, mắt như quả bóng chày dội ngược, đầu và thân trông như bị ấn ngồi xổm. Anh có chữ ký hóc hiểm: một chữ “B” viết hoa và bức vẽ người đang chạy đua. Một chữ ký nhỏ xíu, vì những người Eddie vẽ rất bé. Anh không vẽ nữ giới trong trường, nếu có thể tránh được; những người đàn bà anh vẽ đều có đôi chân mập mạp và thân hình lùn bè bè. Thỉnh thoảng anh vẽ một cái đầu đàn bà để minh họa cho những câu nói đùa Chàng-Nàng, phần lớn do anh tự viết. Trong ba năm Eddie cộng tác, nhờ những bức biếm họa của anh mà tờ Stanford Chaparral có lượng người mua cao trong số các nguyệt san hài ẳ của trường. Năm thứ nhất anh chẳng làm gì, chỉ ở lỳ trong trường, thực ra vì anh lười, anh mê mẩn những đĩa hát nào đó và một cô gái. Khi ra trường, anh được nhiều bạn học giỏi giang cùng lớp 29 ngấm ngầm ghen tị. Ngay những người giàu có cũng đố kỵ với anh. Trong con người anh có một cái gì đó; trở lại miền Đông người ta cũng biết về Eddie. Các bức vẽ của anh chẳng được in hết lần này đến lần khác trên Judge và College Humor đó sao? Cha của Eddie - một người nghiện rượu may mắn phát tài nhờ mở các lớp chơi gôn thu nhỏ đến loạt thứ tư, đã thấy chán các lớp này đúng lúc và biến chúng thành các quán ăn tự phục vụ trên xe ở bất cứ nơi nào luật khu vực cho phép - năm ngoái đã làm một thương vụ huy hoàng trong trường của Eddie. Brunner - cha chưa bao giờ vui đến thế khi được hộ tống một đoàn các “nhà thể thao” và nhà báo đến cuộc đấu lượt về quan trọng ở miền Đông. Jack Dempsey[24] là bạn thân của ông. Ông ta nguyên là sinh viên đại học Kansas, nhưng sau những trận thi đấu đã tổ chức các bữa tiệc bóng đá linh đình ở Stanford, tiếp đến là ở St. Francis. Những bữa tiệc không làm Eddie bối rối, vì anh không tham gia các hội nam sinh viên của cha, mỗi khi quý ông hào hoa này xuống Stanford ghé thăm các bạn học năm xưa và bận bịu túi bụi đến mức Eddie phải theo những kế hoạch của ông. Với cha mình, Eddie hờ hững khoan dung, khi thì đền bù cho sự thiếu vắng các tình cảm khác, hoặc khá hơn là thay cho sự coi thường mà đôi khi anh có cơ nguy cảm thấy. Eddie nhận sự hào phóng của cha bằng những lời cảm ơn lễ phép. Anh biết rằng ở năm học cuối cùng, mỗi tuần Brunner-cha trợ cấp cho con trai ít nhất 50 đôla tiền tiêu vặt. Eddie dùng khoản tiền này sưu tầm các đĩa hát cũ và cho gái. Hầu như thành thông lệ, cứ sáu tháng, Eddie lại yêu một cô mới, đắm đuối cho đến khi khủng hoảng vì quá yêu, như kỳ thi giữa năm chẳng hạn. Nó làm anh sao nhãng bọn con gái, và khi trở lại nếp sống hàng ngày, anh chợt nhận ra đã vô tư lỡ hẹn và phải có một cô mới. Với chiếc Packard cũ song vẫn dùng tốt và cái vẻ không có khả năng uống quá nhiều rượu, thái độ tử tế theo bản năng của anh và những gì mà các cô gái gọi là tính hóm hỉnh, anh tha hồ chọn các cô gái Stanford cho cuộc tháo chạy tiếp theo. Eddie tưởng khoản trợ cấp vẫn tiếp tục và anh sẽ đến New York, ở lại cho đến khi tìm được việc làm. Vì thế với những đĩa hát, giấy Bristol và các thiết bị khác được xếp chặt trong hòm đồ thủy thủ, cùng hành lý xách tay là quần áo đủ dùng, Eddie và hai ông bạn nối khố lái xe đến New York. Cha anh đã thu xếp với viên thư ký về khoản trợ cấp, và nó sẽ đến như thường lệ. Anh chiếm một căn hộ trong tòa nhà đẹp đẽ ở Greenwich Village cùng hai người bạn thân; mỗi người dùng một phòng ngủ có sẵn đồ đạc và dùng chung một phòng khách. Họ mua một quầy rượu và rất nhiều rượu gin, lắp đặt một tủ đá lớn hơn và bắt đầu làm việc trong thành phố. Một trong những người bạn cùng phòng với Eddie chơi trombone khá hay, người kia chơi piano, còn Eddie chơi tenor banjo và guitar Hawaii cũng khá. Eddie còn tậu cây kèn đồng mellophone, hy vọng lặp lại thành tích của Dudley trong đĩa Travelin’ Blues mà anh coi là một bài xuynh hay và đã ghi vào đĩa. Anh chưa bao giờ chơi mellophone, nhưng thỉnh thoảng vào những đêm thứ Bảy và Chủ nhật, ba người bạn chơi nhạc jazz ứng tấu; cả ba chơi và uống gin ướp gừng, vừa chơi vừa tán dương lẫn nhau, và trong lúc nghỉ họ đấm hoặc nhăn nhó khi người này hoặc người kia chơi quá sướt mướt. Một đêm kia, chuông cửa reo và một thanh niên trông như thường xuyên say xỉn hỏi liệu anh ta có thể vào nghe được không. Anh ta mang theo một cô gái Do Thái tuyệt đẹp. Eddie hơi lưỡng lự, nhưng người thanh niên ấy nói chỉ muốn vào và nghe nhạc thôi. - Hay quá! - mấy người bạn ở cùng la to. - Mời các vị ngồi và uống một cốc. Hai cốc cũng được. Các vị thích nghe bài gì nào? - Ding Dong Daddy. - người lạ nói. - Tên tôi là Malloy. Đây là cô Green. Cô Green ở tầng trên. Là bạn gái của tôi. - Thế là được rồi. - họ nói. - Ngồi xuống đi ông bạn, chúng tôi sẽ diễn tấu một bài tặng các vị. Họ chơi, và khi xong, Malloy và cô Green nhìn nhau gật đầu. - Tôi có trống. - Malloy nói. - Ở đâu? Trên gác à? - Eddie nói. - Ồ, không. Cô Green và tôi không thường sống chung, Sylvia nhỉ? - Không nhiều. Gần như chung sống nhưng không nhiều. - Sylvia nói. - Thế bộ gõ để ở đâu? - Eddie nói. - Ở nhà tôi tại Pennsylvania. - Malloy nói. - Nhưng tuần sau tôi sẽ mang đến đây. Bây giờ các bạn không phiền nếu Sylvia chơi nhạc chứ? Anh chàng thổi trombone đưa cô cây kèn. Eddie giơ cây đàn banjo. - Không. - Malloy nói. - Piano. - Chà, piano. Thế có nghĩa là tôi phải đi pha rượu thôi. - anh chàng chơi piano nói. - Vâng, tôi cũng đoán thế sau khi anh nghe Sylvia chơi đàn. - Malloy nói. - Cừ lắm hả? - người thổi trombone nói. - Chơi đi, Sylvia. - Malloy nói. - Trước hết tôi phải uống cốc nữa đã. - Đưa cô ấy cốc nữa. - Eddie nói. - Đây, cô uống của tôi. Sylvia uống ừng ực và tháo nhẫn ra đưa cho Malloy. - Đừng quên chúng từ đâu ra đấy nhé. - cô nói. - Một điếu thuốc. Malloy châm thuốc cho cô và cô kéo hai hơi dài. - Cô ấy cừ gớm. - một người bạn của Eddie nói với người kia. Lúc đó hai bàn tay nhỏ nhắn của cô đập ba hợp âm trầm, một, hai, ba. - Chúa ơi! - mấy anh chàng California kêu lên, đứng phắt dậy và đến đứng sau cô. Sylvia chơi đàn suốt một giờ liền. Trong lúc cô chơi, các chàng kia ghi danh sách những bài cô chơi. Cuối giờ, cô muốn ngừng nhưng họ cố nài. - Được thôi. - cô nói. - Tôi sẽ chơi nhại các nhân vật nổi tiếng. Đầu tiên là Vincent Lopez chơi bản Nola. - Thôi thôi, cô có thể nghỉ. - Eddie nói. - Không quá sớm đâu. - cô nói. - Phòng vệ sinh nữ đâu, nhanh lên? - Cô ấy làm nghề gì? Cô ấy là ai? Cô ấy làm gì để sống? - mấy anh chàng California muốn biết. - Cô ấy là nhân viên khảo giá thị trường ở Macy. - Malloy nói. - Thế là gì? - Một nhân viên khảo giá thị trường. - Malloy nói. - Cô ấy đi khắp các cửa hàng tìm xem họ có bán rẻ hơn Macy không, thế thôi. - Nhưng lẽ ra cô ấy nên… Thế làm sao anh quen được cô ấy? - anh chàng chơi piano hỏi. - Này, tôi không thích cái giọng của anh, rõ chưa? Cô ấy là người yêu của tôi, và tôi là một tay khó chơi đấy. - Ồ, tôi không nghĩ anh là một tay khó chơi. Anh to lớn, nhưng không thô bạo, tôi đoán thế. - Đúng, không thô bạo, nhưng đủ thô bạo với anh đấy. - Malloy nói và nhảy tới chỗ anh chàng chơi piano. Anh chàng thổi trombone vồ lấy cánh tay Malloy. Anh chàng chơi piano đánh vào cánh tay đang giơ lên. - Mặc họ đánh nhau. - Eddie nói nhưng vẫn ôm lấy Malloy. - Nghe này anh bạn, anh có một mình còn chúng tôi ba người, chúng tôi có thể đánh quỵ anh và ném anh xuống cầu thang nếu cần. Nhưng chúng tôi không làm thế. Anh bạn tôi đây là một võ sĩ quyền Anh nhà nghề đấy. - Bảo họ bắt tay nhau đi. - người thổi trombone nói. - Để làm gì? - Eddie hỏi. - Sao họ phải bắt tay nhau? - Buông anh ta ra. - người chơi piano nói. - Thôi được, thả anh ta ra. - Eddie nói với người thổi trombone. Họ buông anh ta ra, Malloy theo sau người chơi piano rồi bỗng đột ngột dừng lại và ngã ngồi xuống sàn. - Anh đừng làm thế. - người thổi trombone nói. - Sao lại không? - người chơi piano nói. - Sao lại không? Anh ta muốn thế mà. - Eddie nói. - Hừ, anh ta ăn vạ đấy. - người thổi trombone nói. - Anh ta sẽ ổn thôi. Tôi e là thế. - người chơi piano nói. Anh ta tiến đến, cúi xuống nói với Malloy. - Anh thấy thế nào, bị đo ván hả? - Không sao. Anh là người đánh tôi? - Malloy nói, sờ nhẹ xương quai hàm. - Phải. Này, nắm lấy tay tôi. Đứng dậy, trước khi người yêu của anh quay lại. - Ai kia? A, Sylvia. Cô ấy đâu? - Cô ấy còn trong nhà xí. Malloy chậm rãi đứng dậy nhưng không được giúp đỡ. Anh ta lún người vào cái ghế sâu và nhận cốc nước. - Tôi tưởng thắng được anh, anh chàng không say ạ. - Không. Không. Bỏ ý nghĩ ấy đi. - người chơi piano nói. - Đừng hạ cố thế. - Malloy nói. - Cậu ấy có thể hạ cố thế lắm chứ. - Eddie nói. - Anh bạn tôi là một trong những đấu thủ hạng nhẹ nghiệp dư xuất sắc nhất The Coast[25]. Anh có biết The Coast ở đâu không? - Sao cậu không thôi áp đảo anh ta? Để anh ta yên. - người thổi trombone nói. Sylvia xuất hiện. - Các anh có nghĩ tôi bị kẹt không? Tôi không tìm thấy đèn buồng tắm. Sao thế Jimmy, có chuyện gì thế? - Anh vừa bị một quả đấm. - Ai? Ai đánh anh? Anh à? Cái đồ khốn mắt lồi? - Không, không phải tôi. - người thổi trombone nói. - Thế thì ai? Anh! Tôi có thể nói anh cay cú vì tôi thể hiện cho anh thấy phải chơi piano ra sao, anh phải đòi sự ưu việt của anh bằng cách nào đấy nên mới đấm đá một người say. Đi thôi Jimmy, chúng mình ra khỏi đây. Ngay từ đầu em đã bảo là không muốn đến đây mà. - Gượm đã em. Đừng nghĩ sai trái thế. Đây là lỗi của anh. - Anh thôi cái trò làm một quý ông khỉ nợ ấy đi. Nó không hợp với anh đâu. Đi thôi, hay em đi một mình và không cho anh vào nhà. - Anh sẽ đi, nhưng anh sai và anh muốn nói thế. Xin lỗi anh, tên anh là… - Brunner. - Còn anh, còn anh và cảm ơn anh vì… đằng nào, tôi cũng xin lỗi. - Không sao. - Nhưng tôi vẫn nghĩ có thể thắng được anh. - Giờ hãy đợi một phút, nghe này. - người chơi piano nói. - Nếu anh muốn dàn xếp chuyện này ngay bây giờ tôi sẽ ra ngoài, hoặc ngay ở đây… - Im đi. - Eddie nói. - Cậu cũng tệ như anh ta. Xin chào. Chúc ngủ ngon. Khi cửa đã khép lại, Eddie quay sang người chơi piano: - Cuối cùng anh ta đã ổn. Anh ta đã xin lỗi, cậu không thể đổ lỗi cho anh ta là muốn táng cậu. - Một gã bậy bạ. Nếu gặp hắn lần nữa, tôi sẽ tống cho một quả vào mặt. - Có lẽ. Có khi không dễ thế đâu nếu hắn tỉnh táo. Hãy nhớ là hắn chân nam đá chân chiêu nên mới bị cú đấm choáng người của cậu. Tôi không muốn nghe thêm về chuyện này nữa. Mặc xác nó đấy! - Ái chà, cậu làm tôi đau tức cả mông. - Lời lẽ vừa ra khỏi miệng tôi là cậu phản ứng liền. Các cậu mới là những kẻ khó chơi. - Eddie nói. - Này, nhưng cái con bé ấy chơi piano cừ ra phết. - người thổi trombone nói. Đấy là lần đầu tiên trong hai cuộc gặp giữa Eddie Brunner và Jimmy Malloy. Cuộc sống của Eddie trôi đi như thường lệ trong một thời gian. Anh vẽ một ít tranh và chẳng bán được cái nào. Chất liệu của anh quá nhạy cảm, quá tốt cho một thư ký tòa soạn. Nhưng nó không thuộc loại cho tờ New Yorker, là thị trường khác duy nhất anh có thể nghĩ đến hồi ấy. Vì thế ba người bạn có những buổi hòa tấu ngẫu hứng của họ, và một vài tối không chơi nhạc, họ ngồi trò chuyện. Các tên tuổi họ nhắc đến là: Bix Beiderbeck, Frankie Trumbauer, Miff Mole, Steve Brown, Bob MacDonough, Henry Busse, Mike Pingatore, Ross Gorman và Benny Goodman, Louis Armstrong và Arthur Shutt, Roy Bargy và Eddie Gilligan, Harry MacDonald và Eddie Lang, cùng những tên tuổi khác như Mannie Kline và Louis Prima, Jenney và Morehouse… Những tên tuổi này với một số người có ý nghĩa vĩ đại không kém Wallenstein[26], Flonzaley và Ganz. Đầu tháng Mười năm đó, Eddie nhận được một bức điện của mẹ “CHA CON MẤT VÌ ĐỘT QUỴ SÁNG NAY. THỨ BẢY ĐƯA TANG. HÃY VỀ”. Eddie đếm số chữ. Anh biết tính mẹ, chắc chắn bà cho là các mạo từ không đáng tốn tiền trong một bức diện. Anh rút quá số tiền gửi ở ngân hàng và đổi một cái séc lớn đủ để về nhà, lấy tiền mặt tại một quán rượu lậu trên phố anh quen. Về đến nhà, một ông bác đằng ngoại kể cho anh nghe cha anh mất ra sao, vào lúc giữa hoặc bắt đầu bữa tiệc ở khách sạn Hollywood, nhiều nhân vật nổi tiếng của Hollywood vây quanh. Họ giấu mẹ Eddie, một người đàn bà bé nhỏ, ngớ ngẩn và buồn bã từ nhiều năm nay, bà nghe tin đó không hề sửng sốt. Khi người ta chuẩn bị tang lễ, bà chỉ nhắc đi nhắc lại: - Tôi không biết, Roy hay nói ông ấy muốn được chôn với dải băng thờ. Ông ấy muốn được dạo hành khúc, nhưng tôi không thể nghĩ ra tên """