🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Áo Bay Khép Mở Nhiều Tâm Sự
Ebooks
Nhóm Zalo
Table of Contents
Lời nói đầu
Dòng sông hợp lưu văn hóa
Hồn thơ Huế thi sĩ Hàn Mặc Tử
Từ bài Tới ra bài Chòi, bài Thai
Canh rau Tập Tàng món ăn dân dã cổ truyền
Chùa Thiên Mụ
Chiếc cầu trong tâm cảnh
Nghề thủ công mỹ nghệ
Mùa chuyển
Gương nước hồ Truôi
Lấy chồng xứ Huế
Món ăn Huế
Nét dịu dàng Cố đô Huế pha lẫn trầm tư
Còn trong ký ức hội tế đất đền Xã Tắc
Hồn Huế
Huế thuở ban đầu
Mùa thu xanh
Trăng Nguyên Tiêu Ngự Bình, thịt heo quay Gia Lạc
Cái bên sông - gánh chè
Ngôn từ xứ Huế
Cung đình với dân dã gần gũi trong món ăn Huế
Huế một thuở ... trong tôi
Chuyện Huế ít người biết
Thầy tôi
Hồn của áo
Cô bạn gái Thu Sương
Tính cách Huế
http://tieulun.hopto.org
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu ...
Ngày về tóc thề gội chanh chùm kết
http://tieulun.hopto.org
Lời nói đầu
“ Tâm tư khép, mở đôi tà áo…” (Đinh Hùng)
Theo bước chân trường tồn của đôi bờ sông Hương, mái chùa Thiên Mụ, tà áo dài Huế cùng chiếc nón bài thơ đã trở thành một biểu tượng đẹp của xứ mộng mơ. Những tà áo tím bên dòng Hương Giang hay những tà áo trắng của nữ sinh Đồng Khánh qua bến đò Thừa Phủ, qua cầu Trường Tiền… tím buồn và trắng vui, khép mở bao niềm tâm sự. Áo dài Huế gần gũi không chỉ với nữ sinh Đồng Khánh hay phụ nữ khuê các mà còn rất mặn mà với giới bình dân mua gánh bán bưng. Trong tấm áo dài bạc màu vì một nắng hai sương, nối tay, nối vạt vì thiếu vải hay may bằng nhung điều quyền quý, người phụ nữ vẫn phảng phất nét đoan trang, dịu dàng đến e ấp, nhẹ như tà áo bay bay trong gió thời gian…
Công ty Sách Phương Nam mong muốn gặp các tác giả hoặc đại diện gia đình tác giả có bài viết được sử dụng trong cuốn sách này để gởi sách biếu và nhuận bút. Mọi thông tin đóng góp vui lòng liên hệ theo địa chỉ: Email: [email protected]
Trân trọng
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/
Tham gia cộng đồng chia sẽ sách :
Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach
http://tieulun.hopto.org
Dòng sông hợp lưu văn hóa
• Trương Thị Cúc
Sông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hòa tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hóa làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc họa, là dòng chảy để văn hóa Huế luân lưu không ngừng.
Có lẽ ngay từ buổi đầu của lịch sử , khi những chiếc thuyền độc mộc lững lờ trôi trên dòng sông cổ xưa, những câu hò mênh mang sông nước cũng đã ra đời, làm sản sinh những điệu mái nhì, mái đẩy da diết của Huế sau này. Âm điệu đặc trưng đó cũng thấm đượm trong những làn điệu lý Huế, ca Huế, âm nhạc truyền thống cung đình Huế và còn lan mãi đến tận những bài nhạc Huế bây giờ.
Bằng một giai điệu mượt mà, trầm bổng, chậm rãi và khoan thai, điệu hò mái nhì xứ Huế bao giờ cũng ngân nga vang vọng, để rồi chùng xuống, lắng dần với những lời tự tình man mác, trải nỗi buồn dài theo sông nước:
Núi Ngự Bình mơ màng trăng gió
Niềm tâm sự ai thấu rõ cho mình
Đoái nhìn sông Hương nước chảy thanh thanh
Sông bao nhiêu nước, dạ em thương mình bấy nhiêu
http://tieulun.hopto.org
Biến thể của hò mái nhì, hò mái đẩy không ngân nga sâu lắng mà khỏe khoắn hơn, nhanh hơn. Câu hò như muốn góp sức giúp thuyền chở nặng vượt qua những quãng sông dài, những dải đầm phá mênh mông. Nhưng như một định mệnh gắn liền với dòng sông, hò mái đẩy của Huế cũng vẫn da diết buồn:
Thiếp nhớ chàng tấm phên hư, nuột lạt đứt
Chàng nhớ thiếp khi đắng nước, nghẹn cơm
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau
(Gió nồm gió nam)
Cung bậc trầm lắng, mênh mang sông nước, gây xốn xang lòng người của những điệu hò xứ Huế lại mang đậm âm hưởng xa xôi huyền bí của vùng đất Ô Lý một thời để tạo ra loại ngũ cung Huế - “ngũ cung hơi nam giọng ai”- trữ tình, sâu lắng. Từ những điệu hò da diết trên sông, lối hát giao duyên tự tình Huế - lý Huế - đã ra đời bên dòng sông yên ả, mang đậm dấu ấn những ngữ âm, ngữ điệu rất Huế.
Canh một thơ thẩn vào ra
Chờ trăng, trăng xế, chờ hoa, hoa tàn
Canh hai thắp ngọn đèn loan
Chờ người quân tử thở than đôi lời
Canh ba sương nhuộm cành mai
Bóng trăng em ngỡ bóng ai mơ màng
Canh tư xích cửa then vàng
Một mình vò võ đêm trăng xế lần
Canh năm mê mẩn tâm thần
Đêm tàn, trăng lụn, rạng đông lên rồi.
Lý năm canh, lý hoài nam, lý hoài xuân, lý nam xang, lý vọng phu, lý đoản xuân, lý tương tư, lý hành vân, lý trách ai, lý giao duyên, lý tiểu khúc, lý ngựa ô, lý mười thương... những điệu lý Huế vừa mang theo âm hưởng những câu hát giao duyên quen thuộc của miền Bắc, vừa tiếp nhận vô thức âm nhạc sầu não trong dòng nhạc Chămpa đã tiếp tục sinh sôi, nảy nở, làm phong phú thêm những điệu lý muôn màu muôn vẻ của phương Nam.
Và đến một ngày dòng sông Hương chuyển mình, rộn ràng với những đoàn thuyền ngự của vua chúa, thướt tha với những tà áo dài bồi hồi
http://tieulun.hopto.org
hương phấn của kinh thành, những điệu lý Huế lại một lần nữa được các Nho sĩ, quan lại say mê nghệ thuật trau chuốt nâng niu, lời ca ngày càng thêm mượt mà, tao nhã, đường nét giai điệu ngày càng uyển chuyển, luyến láy điệu nghệ hơn.
Từ đó, một hệ thống ca nhạc có tính bác học và cung đình là ca Huế đã ra đời. Dù vẫn mang âm hưởng đậm đà của những điệu hò, điệu lý, nhưng thanh âm và điệu thức của ca Huế đã được nâng cao và phát triển phong phú với hệ thống những điệu Nam, điệu Bắc, hơi dựng, hơi ai; hệ thống nhạc cụ tam tấu: tranh-nhị-nguyệt, tứ tuyệt: tranh-tỳ-nhị-nguyệt, ngũ tuyệt: tranh-tỳ-nhị-nguyệt-tam, lục tuyệt: tranh-tỳ-nhị-nguyệt-tam-bầu, gắn với sáo, kèn, song loan, sanh tiền, trống, tam âm... đa dạng, đòi hỏi một lối chơi điệu nghệ, luôn phải tuân thủ những niêm luật nghiêm ngặt về khúc thức, giai điệu và cung bậc.
Ra đời gắn liền với cung điện, dinh phủ ngào ngạt trầm hương, ca Huế đã trở thành một hình thức âm nhạc thính phòng sang trọng của vùng đất đế đô. Và rồi từ những bến nước kinh thành, trên dòng sông lững lờ thơ mộng, ca Huế lại bước xuống những khoang thuyền để cùng với những tao nhân mặc khách dạo lên những cung đàn, lời ca làm say đắm lòng người.
Hàng chục bài bản ca Huế: Cổ bản, Lộng điệp, Đoản xuân, Lưu thủy, Phẩm tiết, Nguyên tiêu, Hồ Quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây mai, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã, Nam ai, Nam bình, Nam xuân, Hành vân, Phú lục, Tứ đại cảnh... đã dần dần lược bỏ phần lời, tham gia cùng với các bài Đăng đàn cung, Đảo ngũ cung, Ngũ đối thượng - hạ, Long ngâm, Phụng vũ, Xàng xê, Bông man, Cung nam... hình thành hệ thống lễ nhạc cung đình Huế với các dàn khí nhạc được tổ chức đầy tính chuyên nghiệp như Đại nhạc, Nhã nhạc, Huyền nhạc... với những nghi thức trình tấu long trọng trong các dịp tế lễ, yến tiệc, hội triều. Lễ nhạc cung đình Huế không chỉ xuất hiện trong cung điện, lăng miếu, đền đài... mà còn réo rắt trên các đội ngự thuyền của triều đình ngang dọc trên sông Hương.
Không chỉ là không gian làm sản sinh và nuôi dưỡng nghệ thuật diễn xướng truyền thống, sông Hương còn là không gian lễ hội độc đáo của xứ Huế.
Từ lâu lắm rồi, Dương Văn An trong Ô Châu Cận Lục, viết giữa thế kỷ XVI đã từng mô tả xứ Thuận Hóa là “xuân sang mở hội đua bơi, lụa là chen chúc”, dến nay người dân xứ Huế, nhất là cư dân sống dọc hai bờ sông Hương vẫn còn say mê lễ hội đua ghe, đua trải. Khác với đua thuyền truyền thống ở nhiều nơi, thuyền đua thường tập trung ở điểm xuất phát và tranh nhau bơi về điểm đích, đua thuyền ở Huế - cả đua ghe và đua trải - đều đặt nhà điều khiển ở ngay trung tâm với những nghi thức long trọng, có trống lệnh, cờ ngũ hành, đôi khi còn có cả dàn nhạc bát âm trống kèn rộn ràng để thúc giục các tay đua. Ghe đua phải xuất phát từ
http://tieulun.hopto.org
“vè rốn” bơi lên “vè thượng”, tranh về “vè hạ”, liên tục “3 vòng 6 tráo” và lộn quanh “vè rốn” để vào bến khẳng định vị trí của mình. Mỗi đợt “lộn vè” là một đợt tranh chấp căng thẳng, người bơi phải giỏi bọc vè, biết xử lý khôn khéo trong va chạm, tranh chấp. Tương truyền đây là hình thức tập luyện để thủy binh gan dạ, dũng mãnh trong chiến đấu của chúa Nguyễn, vua Nguyễn một thời. Đua thuyền ở Huế là một dấu ấn của văn hóa và lịch sử trên sông nước của vùng kinh sư.
Hàng năm sông Hương còn rộn lên với lễ hội điện Hòn Chén vào tháng Ba, tháng Bảy âm lịch. Đây là dịp thiện nam tín nữ thờ cúng Thánh Mẫu Thiên Y A Na, vị nữ thần Bà Mẹ Xứ Sở của Chămpa đã được Việt hóa, kết những chiếc thuyền “bằng”, thiết kế các hình thức thờ phụng Thánh Mẫu, với cờ lễ, khăn áo hầu và điệu hát chầu văn theo sông Hương để đến điện Hòn Chén, ngôi điện linh thiêng nằm sát một vực sâu bên dòng sông Hương, từng được vua Đồng Khánh ban sắc tứ là điện Huệ Nam (ân huệ trời Nam). Mỗi dịp lễ hội là những ngày sông Hương rợp bóng những chiếc bằng, rộn ràng với nhịp phách sôi động của múa hát Chầu văn, nhất là dịp tháng Bảy, lễ hội còn tổ chức trọng thể lễ rước long kiệu, sắc phong của vua và các đồ tự khí về đình làng Hải Cát trên những đoàn thuyền rực rỡ, trang nghiêm, rộn ràng với các cuộc hầu đồng, hát chầu văn và những bộ trang phục đầy sắc màu hội hè.
Ở cuối dòng sông Hương, tại làng Thai Dương, từ xa xưa, vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm lễ tế Thai Dương thần nữ đã từng là một quốc lễ được tổ chức trang trọng với lễ tục tắm tượng trên tảng đá thiêng, nhắc nhở về vị nữ thần với cuộc tình bi thảm, cuộc tình giữa hai anh em ruột không còn nhận biết nhau sau những tháng ngày lưu lạc. Và 3 năm một lần, lễ hội cầu ngư từ mồng Mười đến Mười hai tháng Giêng lại diễn ra với nhiều lễ nghi tế tự, đua thuyền sĩ - nông - công - thương, diễn trò bủa lưới bắt cá, cầu mưa thuận gió hòa, thuyền đầy tôm cá của ngư dân vùng ven biển.
Cũng những ngày xuân, mồng Mười tháng Giêng, ngay ở bến nước ngã ba sông Hương, sông Bồ, vào ngày chánh tế ngài khai canh, lễ hội vật võ truyền thống làng Sình lại diễn ra hấp dẫn, dựng lại một hình thức thi đấu vật võ để tuyển binh của vùng đất đế kinh một thời.
Và ngay tại Cồn Hến, vùng đất “tả phù” bên trái kinh thành, nơi sản sinh http://tieulun.hopto.org
món cơm hến độc đáo của xứ Huế, hàng năm vào ngày 26 tháng 6 âm lịch lại diễn ra lễ hội rước hến của làng Cồn Soi, phường Giang Hến nhắc lại sự kiện làng thắng kiện, được vua cho phép đi đãi hến khắp các vùng sông nước. Lễ hội rước hến với những chiếc thuyền trang trí long trọng, thiết kế án thờ, chiêng trống, phường nhạc bát âm tỏa về hai hướng - đầu nguồn cuối nguồn để tế thần sông và trở về nhà thờ, rước thần khai canh về đình hiệp tế. Lễ tế gắn liền với hình thức diễn trò múa chèo trên cạn, có tiếng trống, tiếng nhạc rộn ràng cùng hòa nhịp.
Cả một vùng sông nước, từ thượng nguồn đến tận cửa biển, những lễ hội truyền thống luôn gắn liền với dòng sông. Và dọc bờ sông, những lễ hội diều Huế, lễ tế tổ ngành tuồng, lễ cầu an, xuân tế, thu tế,... thường kỳ đã diễn ra, hình thành một lối sống, lối sinh hoạt tâm linh độc đáo mà đặc trưng nhất có lẽ là lễ phóng sinh đăng lung linh trên sông Hương vào những đêm lễ vía, dần dần trở thành lễ hội hoa đăng và những cuộc chơi thả đèn trên sông Hương gắn liền với thú nghe ca Huế đêm đêm, tạo nên một nét rất riêng của dòng sông văn hóa. Phóng sinh đăng là xếp thuyền giấy, cắm một đèn cầy đốt sáng, trong đó thả một cá sống. Khi thuyền trôi ra xa, cá vẫy ra khỏi thuyền, nhập vào sông nước để sống.
Sông Hương còn là không gian của thi ca, nhạc họa và nhiều loại hình nghệ thuật khác. Với thi ca, có người đã ví von có một dòng thi ca về sông Hương, rằng “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Hầu hết những nhà thơ lớn từng sống ở Huế, từng một vài lần đến Huế đều có những bài thơ hay viết về sông Hương.
Nguyễn Du, nhà thơ đa cảm, từng sống gắn bó với Huế một thời, trong một mùa thu tới đã thấy mảnh trăng sông Hương gợi lên cả mối sầu muôn thuở:
Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
(Thu chí)
Cao Bá Quát, một kẻ sĩ “bất đắc chí” phải tự giam mình ở chốn đế kinh đã có cái nhìn khác hơn. Với ông, sông Hương không hiện ra với tính chất trữ tình, sầu muộn mà ngược lại, sông dài như kiếm dựng giữa trời xanh, thúc giục trong ông một thái độ phản kháng sau nầy:
Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền
Trường giang như kiếm lập thanh thiên
(Hiểu quá Hương Giang)
Vua Thiệu Trị, cũng là một nhà thơ, nhưng là nhà thơ thiên tử ngự trị trên ngai vàng, mỗi bài thơ là một bài “ngự chế”. Tổng kết những danh thắng của chốn kinh sư, nhà vua đã có “Thần kinh nhị thập cảnh”, sông
http://tieulun.hopto.org
Hương buổi sáng sớm không những là một cảnh đẹp mà còn là một nhánh nguồn sâu thẳm bảo vệ kinh thành
Nhất phiến uyên nguyên hộ đế thành
(Hương Giang hiểu phiếm)
Với Hàn Mặc Tử, sông Hương lại gắn với thôn Vĩ, với những hàng cau và ngôi vườn xanh mướt lúc nắng lên, và khi đêm xuống, sông Hương trở thành một dòng sông trăng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
(Đây thôn Vỹ)
Văn Cao, trong một đêm đàn lạnh trên sông Hương thưở nào đã không thể quên hình ảnh của một vạt áo xanh tri âm, tri kỷ:
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
(Một đêm đàn lạnh trên sông Huế)
Cũng trên dòng sông đó, với trời trong veo, nước trong veo, nhưng Tố Hữu, con chim đầu đàn của thi ca cách mạng Việt Nam, thuở đất nước còn chìm trong đêm dài nô lệ đã xót thương cho thân phận của những cô gái trên sông:
Tình ơi gian dối là tình
Thuyền em rách nát còn lành được không?
Răng không cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng
(Tiếng hát sông Hương)
Số phận của dòng sông cũng gắn liền với số phận của lịch sử, số phận của một vùng văn hóa. Đến một ngày sông Hương lại an lành, trở về với nguyên dạng một dòng sông trong xanh, sạch bóng quân xâm lược. Sông lại chảy rất sâu vào lòng người như Thu Bồn đã nhận ra:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
http://tieulun.hopto.org
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
(Tạm biệt Huế)
Trở về với dáng vẻ muôn đời, như núi Ngự, sông Hương vẫn cùng đi với Huế mà nhà thơ tiên cảm Bùi Giáng đã khẳng định:
Rằng thưa xứ Huế bây giờ
Ngự Bình vẫn đứng bên bờ sông Hương
Con sông đó đã từ thơ vào với nhạc, với họa, với đời sống văn hóa muôn vẻ của Huế một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không chút gượng ép. Bài tình ca đầu tiên về Huế của Nguyễn Văn Thương viết từ năm 1936, cũng là tình khúc hiện đại sớm nhất của Việt Nam, bài hát đã gắn ngay với sông Hương: “Trên sông Hương”. Từ đó, những bài hát về Huế không thoát nổi những ám ảnh của dòng sông xanh chở đầy tiếng ca này. Lần lượt là “Tiếng sông Hương” của Phạm Đình Chương, “Hương Giang còn tôi chờ” của Châu Kỳ, “Nhắn về sông Hương” của Minh Kỳ, “Thành phố bên bờ sông Hương” của Tân Huyền, “Dòng sông ai đã đặt tên” của Trần Hữu Pháp, “Người sông Hương” của Hồng Đăng, “Dòng sông em đã mang tên” của Phạm Trọng Cầu, “Chiều thu bên sông Hương” của Thế Bảo, “Sông Hương” của Xuân Cửu, “Mơ sông Hương” của Hà Chí Hiếu, “Chiều sông Hương” của Vĩnh Phúc, “Có một dòng sông” của Trần Hữu Dàng, “Lời ru dòng sông” của Lê Phùng, v.v... và cho dù không nhắc đến sông Hương trong tiêu đề thì hầu như những tình khúc đã hát về Huế là hát về sông Hương:
Hoàng hôn rơi ngơ ngẩn hàng thùy dương. Lạnh lùng trong bóng chiều dòng sông Hương
(Khúc tình ca xứ Huế - Trần Đại Mỹ)
Hàng cây soi bóng nước Hương, thuyền xa đậu bến Tiêu Tương lưu luyến thay phút say hương dịu buồn
(Đêm tàn Bến Ngự - Dương Thiệu Tước)
Ngày mai lênh đênh trên sông Hương. Theo gió mơ hồ hồn về đâu sông sầu còn...
(Gợi giấc mơ xưa - Lê Hoàng Long)
Một chiều lang thang bên dòng Hương Giang, tôi gặp một tà áo tím, nhẹ thấp thoáng trong nắng vương
(Tà áo tím - Hoàng Nguyên)
Cả những khi không cần nhắc tên dòng sông, không nhắc đến Huế, nhưng câu ca vẫn nói về dòng Hương Giang:
Tiếng đàn xao xuyến, phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền, mấy cung http://tieulun.hopto.org
trìu mến như nước reo mạn thuyền. Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
(Thiên thai - Văn Cao).
Em đi qua chuyến đò, lắng nghe con sông nằm kể, trăng ơi trăng rất tệ, mày đi nhớ chóng về
(Biết đâu nguồn cội - Trịnh Công Sơn)
Con sông nhẹ như thơ, như nhạc cũng đã đi vào tranh, vào ảnh, vào những tác phẩm mỹ thuật, mỹ nghệ với những sắc màu lung linh và đường nét gợi cảm. Cũng bởi thế mà tranh vẽ về sông Hương, ảnh ghi lại những phút giây vô thường của dòng sông nầy cũng là những tác phẩm đắc ý của nhiều tác giả.
Vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của sông Hương còn gắn liền hài hòa với kinh thành, lăng tẩm, đền chùa, với các công trình kiến trúc và những mảnh vườn xanh tươi của xứ Huế. Ven hai bờ sông Hương, một dãy kinh thành cổ kính với các tòa Nghinh Lương đình, Phu Văn lâu, Thương Bạc đình và các cửa thành thâm nghiêm, gắn kết với những cung điện thấp thoáng trên bờ, với hệ thống lăng tẩm kiến trúc xinh xắn của các bậc vua chúa, với chùa Linh Mụ, điện Hòn Chén, đồi Vọng Cảnh, gò Long Thọ một thời trầm mặc soi bóng xuống dòng sông.
Con sông nửa thực nửa mơ nhưng đã làm nên thần thái của Huế. Có ai đó - hình như là Nguyễn Tuân - đã từng đưa ra một câu hỏi tàn khốc “Giả như Huế không còn sông Hương”. Chỉ “giả như” thôi mà đã làm rúng động lòng người. Không cần phải đến lúc dòng sông mất đi, chỉ cần những ngày dòng sông vẩn đục bất thường thì từ trên những trang văn, trang báo đã bàng hoàng lên tiếng báo động “Ai cứu lấy dòng sông Hương?” và cả trên trang thơ cũng ngậm ngùi:
Thuyền chao chạnh bao ngày sông bệnh
Để rồi lại reo vui
Dòng Hương Giang chớm mùa xanh lại
Nghe niềm vui chan chứa đôi bờ
(Chiều cuối năm - Lê Hương Huyền)
Mà quả thật chỉ cần giữ cho dòng sông như suối tóc xanh, cài lên dòng sông “một chiếc lược ngà sáu vài mười hai nhịp” như thi sĩ Nguyễn Bính đã ví von là sông Hương với cầu Trường Tiền duyên dáng sẽ trở thành một biểu tượng về Huế, về một vùng văn hóa đậm chất thơ, chất nhạc, chất lễ hội.
Và Huế dang chuyển mình từ một cố đô thành một thành phố Festival. Vẫn dáng xưa trầm mặc, vẫn hiền hòa trang nhã, nhưng sẽ không phai
http://tieulun.hopto.org
những nét sang trọng của vùng đất kinh kỳ văn vật. Đêm đêm, Huế lại thắp lên những ngọn nến huyền ảo, thả xuống dòng sông để đèn hoa cùng trôi theo tiếng đàn, tiếng hát. Đêm đêm cầu Trường Tiền bắc qua dòng sông lại tô thêm những mảng sáng nghệ thuật, tạo thêm cho sông Hương một vẻ lấp lánh tân kỳ. Và đã bừng lên trong một mùa lễ hội - Festival Huế 2002 - sông Hương, với cầu Trường Tiền đã vươn dậy, trải lên mình lớp lớp những chiếc chiếu hoa, biến thành một sân khấu nghệ thuật hoành tráng, nâng lấy bước đi của hàng trăm nữ sinh xứ Huế, với vô vàn những chiếc áo dài đầy sắc màu lung linh tuôn chảy để tôn vinh vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam, làm thăng hoa hình ảnh chiếc áo dài độc đáo đã sản sinh từ xứ Huế.
Cao điểm trong những lễ hội của Huế còn là những đêm Hoa đăng lấp lánh thuyền hoa, đèn hoa, pháo hoa... thắp sáng cả dòng sông Hương, sáng cả đôi bờ, tạo ra một Huế lung linh huyền ảo về đêm. Với hàng vạn chiếc đèn hoa thả xuống dòng sông, người Huế mong muốn gởi theo những ước nguyện tốt đẹp, cầu chúc vạn sự an lành.. Cùng với dòng sông Hương, một dòng văn hóa đậm đà truyền thống của Huế cũng đã ra đời và sẽ chảy mãi đến tận mai sau, chảy vô tận trong tâm hồn nhiều thế hệ.
http://tieulun.hopto.org
Hồn thơ Huế thi sĩ
Hàn Mặc Tử
• Lê Văn Lân - Trần Thanh Địch
Hàn Mặc Tử: một kiếp khổ đau!
Cách đây 65 năm, vào buổi trưa ngày 11 tháng 11 năm 1940, một người nằm xuống sau nhiều năm tháng đau đớn, nứt nở thịt da. Ông ta là bệnh nhân của trại cùi Quy Hòa mang số hiệu 1314. Trên cây Thánh giá trồng trên mộ phần của ông, ghi hàng chữ Phêrô Phanxico Nguyễn Trọng Trí. Đây chính là nhà thơ Hàn Mặc Tử.. Ông vừa giống lại vừa khác thế nhân chúng ta. Giống ở chỗ cùng mang kiếp nhân sinh, với thịt xương và một cấu trúc thần kinh cao đẳng, biết ăn, biết ngủ, biết cảm xúc, biết tư duy. Nhưng khác ở chỗ: Thế nhân chết đi thì rơi vào quên lãng, tĩnh mịch còn Hàn Mặc Tử chết rồi nhưng tiếng thơ còn mãi! Chúng ta chết rồi, linh hồn có thể còn khắc khoải chưa biết về đâu vì không trang bị. Một niềm tin tưởng siêu linh, còn Hàn Mặc Tử thuở sanh tiền đã đối đầu và tôi luyện trong niềm đau khổ cực điểm nên linh hồn đã được thăng hoa trong một niềm tin vào Chúa!
Hàn Mặc Tử: Một linh hồn vượt hẳn cõi nhân gian!
Nhìn lại phong trào thơ mới ở Việt Nam khoảng 1932-1945, sự xuất hiện của tiếng thơ dồi dào và sâu đậm nhất trong khuynh hướng nói về cõi Chết, về siêu hình, nhất là về Chúa thì độc nhất có Hàn Mặc Tử .
Tập Thơ “Điên” của Hàn Mặc Tử khiến người đọc bỗng hoàn toàn rời khỏi cái thế giới thực tại của thế nhân đến nỗi nhà bình thơ Hoài Thanh trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” phải thảng thốt viết rằng:
“Một tác phẩm như thế, ta không thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn... Ta chỉ biết ta đang đứng trước
http://tieulun.hopto.org
một người sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu...”
Ông Hoài Thanh thú nhận rằng ông phải bỏ ra ròng rã “ngót một tháng trời” để đọc toàn bộ thơ của Hàn Mặc Tử và ông “đã mệt lả” (sick) (tr.205). Kể ra thật đúng khi ta tìm gặp rất nhiều câu thơ như sau:
Hồn của Hàn Mặc Tử không những chỉ vất vưởng trong cõi vô hình mà nhiều lúc đã:
Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng...
Gào thét một hồi cho rởn óc
Cả thiên đàng, trần gian và địa ngục
(Hồn là ai?)
Hồn có lúc lạc vào nơi
thiên sầu, địa thảm giới Lâm bô [1] ,
có lúc lại bay ra ngoài vũ trụ để:
Tắm gội trong nguồn ánh sáng,
Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng.
Hoặc có lúc tinh khiết, nhẹ nhàng ngoài mức ngôn ngữ phàm tục: Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
Xa xôi đồi trăng mọc nước Huyền vi
Đây miên trường, đây vĩnh cửu, tề phi
(Đừng cho lòng bay xa)
Hàn Mặc Tử: một viên kim cương trong dòng thơ Kitô giáo ở Việt Nam!
Hàn Mặc Tử đã sống đạo, chết đạo và sáng tác thơ Đạo một cách tha thiết khiến nhiều người cho Tử là một “nhà thơ tôn giáo”, nhưng thực sự Tử đã vượt hẳn lên cái mục đích “truyền bá đức tin” của những thừa sai và giáo đồ trong giai đoạn tiên khởi ở Việt Nam. Thơ của Hàn Mặc Tử là một sự cảm nghiệm độc đáo! Đọc thơ Tử, người ta bèn thấy nguồn đạo trong thơ Tử không hạn hẹp với ý nghĩa một tôn giáo mà là một cái gì thuộc về hoàn vũ (universel).
Hoài Thanh trong cuốn Thi Nhân Việt Nam (1941) nhận định rất đúng rằng:
“Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên, cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng Baudelaire và qua Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả tập Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar
http://tieulun.hopto.org
Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh Kinh của đạo Thiên Chúa.
Chính nhờ Thánh Kinh và tinh thần Tin Mến Cậy sốt sắng vào Thiên Chúa. Thơ Hàn Mặc Tử đưa người đọc gần Chúa vô cùng!
Hàn Mặc Tử vướng vào bệnh cùi lúc tuổi còn trẻ đang lúc yêu đời. Bệnh này như một định mệnh đã đọa đầy Hàn Mặc Tử trong một vũng đau thương tuyệt vọng:
...Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
(Những giọt lệ)
...Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bồi hồi ruột gan
(Muôn năm sầu thảm)
Hàn Mặc Tử trong bài “Hồn là ai” đã tự mô tả cái hành hạ thể xác bằng giọng thống thiết sau:
...Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng
Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên...
Dựa vào sự phát triển của bệnh cùi trong đời ông, ta thấy ba giai đoạn tương ứng trong thi nghiệp của ông:
1. Giai đoạn tiền bệnh: trước năm 1936 (nghĩa là trước lúc vô bệnh viện Quy Hòa (1937), đánh dấu bằng những tập “Đường luật” và “Gái Quê” với một giọng trong sáng, nồng thắm, yêu đời cuồng nhiệt, một khí lực phương cương dồi dào tính dục trong lứa tuổi đôi mươi.
2. Giai đoạn bệnh phát lộ đánh dấu bằng tập thơ “Đau Thương”, “Thơ Điên” nên tiếng thơ thống thiết, cực kỳ bi thảm như một con chim biết rằng mình sắp chết. Thiên kiến của người đời xa lánh mình cộng vào đó sự đau khổ vì tình duyên trắc trở đã làm Hàn Mặc Tử càng đau khổ:
Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn hết u buồn của nước mây
Của những tình duyên thương lỡ dở
Của lời rên siết gió heo may
http://tieulun.hopto.org
3. Giai đoạn cuối cùng của Hàn Mặc Tử được định mốc bằng tập thơ “Xuân Như Ý”. Khi ý thức rằng mình không còn hy vọng sống lâu Hàn Mặc Tử càng tìm nguồn giải thoát cho linh hồn khắc khoải qua tôn giáo và những khải thị siêu phàm. Giọng thơ không còn rên rỉ, mà thanh thoát, thăng hoa.
Vào bệnh viện Quy Hòa, thi nhân đã tập được đức tính an vui trong nguồn đau khổ. Trong một lá thơ gửi cho ông bạn thân là Trần Thanh Địch, Tử kể lại rằng mỗi ngày đều đều ông liên tiếp ít nhất năm sáu lần vừa đọc kinh vừa ngâm thơ.
Nhưng ba tháng sau, cơ thể quá suy kiệt và thêm bị chứng kiết lỵ nên vài ngày thì tạ thế (ngày 11 tháng 11 năm 1940 hưởng dương 29 tuổi).
Trên giường bệnh, biết mình sắp chết, tâm hồn thi nhân vẫn vô cùng sáng suốt và giữ một thái độ bình thản như sốt sắng viết một bản kinh nguyện bằng tiếng Pháp là La Pureté de l’âme. (Sự thanh khiết của linh hồn) để dọn mình về với Chúa.
[1] Theo nghĩa từ điển tiếng Anh Linbon nơi giam cầm người chết mà không làm đủ phép bí tích theo Công giáo.
http://tieulun.hopto.org
Từ bài Tới ra bài Chòi, bài Thai
• Hoàng Phủ Ngọc Phan
Từ Nam chí Bắc, mỗi nơi có một loại bài để chơi bài tiêu biểu. Như Bắc có Tổ Tôm, Mạt Chược, Nam có Tứ Sắc, riêng Huế là có bài Tới. Bài Tới ngoài 6 người ngồi chơi trên chiếu còn để chơi bài Thai và bài Chòi. Chưa biết tác giả vô danh nào đó đã sáng tác ra bộ bài này với nhiều hình tượng tiêu biểu trong đời sống dân dã. Sau đây là nội dung chi tiết.
Bài Tới không phải là cờ bạc
Cách đây vài ba thập kỷ, bài Tới là một trò chơi giải trí rất thịnh hành ở các tỉnh miền Trung. Ngày Tết những người trong gia đình ngồi lại với nhau, xây một sòng bài Tới, đặt một chút tiền tượng trưng, ăn thua nhỏ chỉ cốt gây không khí vui vẻ, đầm ấm.
Trong khi các loại bài khác đều có nguồn gốc ngoại lai, bộ bài mắc tiền, cách chơi phức tạp, ăn thua lớn thì bài Tới là một sáng kiến thuần túy Việt Nam. Bộ bài rẻ tiền, gọn nhẹ, cách chơi đơn giản, tên các lá bài nôm na mộc mạc dễ nhớ và vui tai: nhất Trò, nhị Đấu, tam Quăn, tứ Cẳng... Rõ ràng, người sáng chế ra bộ bài Tới đã có ý thức tìm một lối giải trí lành mạnh để phục vụ số đông đồng bào bình dân kể cả người già, trẻ em. Những người này không thể và cũng không muốn bước vào sân chơi của dân cờ bạc.
Trong gia đình, bài Tới có thể chơi từ ít nhất là 2 người, nhiều nhất là 6 người chia làm hai phe. Nhưng vào dịp Tết, yêu cầu giải trí cao hơn, do đó bài Tới được nâng cấp thành bài Chòi, mỗi lần có 12 người tham dự, chơi một hội 12 ván, kéo dài chừng vài giờ, ăn hay thua nhiều nhất cũng chỉ có 1 ván. Cái thú vị của bài Chòi không phải ở chỗ ăn thua tiền bạc mà ở không khí đông vui. Nhà cái ngồi ở chòi trung tâm để điều khiển cuộc chơi. Nhà con ngồi trong những chòi cách biệt. Chòi làm bằng tranh tre, có sạp chắc chắn, ngồi được vài ba người. Nhân vật quan trọng nhất là người rao bài và liên lạc giữa các chòi. Kết thúc ván bài có chiêng trống nổi lên chúc mừng. Chòi nào tới (thắng) một ván được cắm trước cửa chòi một lá cờ. Cách chơi này không thể có cách gì gian lận được.
Để cuộc chơi thêm phần tao nhã hào hứng, người rao bài phải học thuộc một số câu hò vè do các văn nhân thi sĩ sáng tác, ví dụ:
Tóc quăn lấy đá mà đằn
Đá bay đường đá, tóc quăn lên trời
(Là con Quăn)
Một sáng kiến đậm nét văn hóa của bài Tới là bài Thai. Trong cách chơi http://tieulun.hopto.org
bài Thai, tên của mỗi lá bài được nhà cái giới thiệu bằng cách rao lên một vài câu bóng bẩy để nhà con suy đoán. Những thai đố này là trò chơi chữ, thoạt nghe tưởng dễ nhưng mà rất khó, ví dụ:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh phao câu làm mề...
Nghe hai chữ tiết hạnh có người đoán là con Bạch Tuyết . Nghe bốn chữ phao câu làm mề ai cũng liên tưởng đến con Gà . Nhưng khi nhà cái khui bài thì đó là con Bằng đầu . Lại có câu rất văn hoa lãng mạn:
Sầu tương tư đêm cũng như ngày
Hai má hồng đào em phai phấn
Hai mái tóc dày em hóa sưa (thưa)
Đã thương nhau nói mấy cho vừa
Xin hỏi người quân tử:
Vậy là con Sưa hay con Dày?
Có thể nói bài Tới là trò chơi mang đậm màu sắc lễ hội, văn hóa dân gian, không thể lẫn lộn với bất cứ một trò cờ bạc nào khác.
Bộ bài Tới có 30 đôi, phỏng theo bài Tổ Tôm mà chia làm ba pho văn, vạn, sách, gồm:
- 9 đôi vẽ mặt người có tên: nhất Trò, nhị Đấu, tam Quăn, tứ Cẳng, ngũ Trưa, lục Xơ (chuôm), thất Nhọn, bát Bồng, cửa Bệp (thầy chùa).
- 9 đôi có hình bán nguyệt là: Trường Hai, Trường Ba, Rún Liễu, 6 Tiền, 8 Tiền, Voi, Xe và Bạch Tuyết (Bạch Huê).
- 9 đôi vẽ với hình sọc ngang, có nút tròn gồm: Nghèo, Gà, Gióng, Bằng đầu, Dày, Sưa, 8 Dây, Gối và con Nọc Đượng.
Ngoài ra có ba đôi bài chủ có đóng dấu đỏ nên gọi là bài đỏ: Thái tử, ông Âm, Đỏ Mỏ.
Những tên gọi nôm na của các lá bài ấy khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của một xã hội Việt Nam thời phong kiến còn thịnh. Nhất Trò là anh học trò với cái “mác” kẻ sĩ, đứng đầu trong các thành phần giai cấp. Nhị Đấu là binh lính hoặc con nhà võ. Còn tam Quăn với đầu tóc Quăn - có lẽ là hình ảnh của ngoại kiều như người Chà Và (Ấn Độ) hoặc các nhà truyền giáo phương Tây vốn có mặt rất sớm ở nước ta, gây ảnh hưởng và ấn tượng rất đáng kể. Ngũ Trưa là loại cậu ấm, lười biếng vô tích sự. Lục Xơ là nông dân đói rách. Thất Nhọn (nhọn mồm) là loại thầy cung thầy kiện, miệng lưỡi sắc bén đáng sợ. Bát Bồng là ông pháp sư, thầy cúng. Cửu Bệp là nhà sư.
http://tieulun.hopto.org
Ngoài ra ở các lá bài đỏ có Thái Tử tượng trưng cho thế lực giai cấp phong kiến, quý tộc thống trị. Ông Ầm là thiên lôi trên trời giáng xuống gây thiên tai như sấm sét, bão tố. Đỏ Mỏ là thần trùng đỏ mỏ gây thổ tả, dịch hạch. Cả ba thứ trên đều là những quyền lực đáng sợ đối với quần chúng bình dân.
Những pho bài còn lại có lá dễ hiểu như Gióng, Gối, Gà, Xe, Voi ... Có những lá mang tên khó hiểu như Bằng đầu, 8 Dây . Đặc biệt có ba lá bài chỉ những bộ phận kín đáo trong cơ thể là Rún, Bạch Tuyết, Nọc Đượng hẳn là để giúp người chơi bài những phút đùa cợt thư giãn. Hai lá bài Trường Hai và Trường Ba là tên hai kỳ thi ngày xưa. Những kỳ thi này đến năm 1916 đã bị bãi bỏ. Do đó có thể suy đoán, bài Tới có thể đã ra đời trễ nhất là vào khoảng đầu thế kỷ 20. Xã hội trong bộ bài Tới phản ánh sinh hoạt của quần chúng bình dân nên trò chơi này rất phát triển ở nông thôn.
Tính biểu trưng không chỉ thể hiện ở tên gọi các lá bài mà đặc biệt còn thể hiện ở lối vẽ của người họa sĩ. Những lá bài hình mặt người có lẽ mô phỏng theo cách hóa trang của các nhân vật trên sân khấu hát bội. Nhưng những con Gà, Gióng thì rõ là nét vẽ của một trường phái hội họa rất hiện đại. Một người Pháp đã có dịp được giới thiệu bộ bài Tới, nhìn thấy lá bài con Gà , ông ta thốt lên sửng sốt: “Quá đẹp! Con gà là biểu tượng của nước Pháp nhưng người Pháp chưa hề nghĩ ra được cái biểu tượng (logo) nào đẹp đến thế”.
Nhưng không chỉ có lá bài con Gà . Con Nghèo với cái lưng gù, cái mỏ chim khiến ta liên tưởng đến hình ảnh cái cò lặn lội. Con Sưa , con Dày là chỉ việc dệt vải. Trên khung cửi có con ác bằng gỗ mổ lên mổ xuống. Thú vị nhất là hai lá bài Bạch Tuyết và Nọc Đượng chỉ bộ phận sinh dục của nữ và nam. Ý thì tục nhưng cách thể hiện sao mà thanh thoát đến thế. Người họa sĩ quả có đầu óc siêu tưởng rất lạ lùng. Và nếu ngày nay có cuộc thi vẽ biểu trưng, họa sĩ này dám đoạt bằng hết giải thưởng.
Trên đây là những nhận xét theo cảm tính. Nếu có dịp nghiên cứu kỹ hơn nữa, chắc hẳn người ta còn có thể phát hiện trong bộ bài Tới còn lắm điều hay. Tiếc rằng thời gian qua, lắm tang thương biến đổi, bài Tới, bài Chòi, bài Thai đều chìm vào quên lãng. Chỉ có một lần mà đông đảo đồng bào trong nước được thấy hình ảnh bài Chòi trên truyền hình là trong đêm lễ hội chào đón năm 2000 ở khu vui chơi giải trí của phố cổ Hội An. Ngoài lần đó ra, liệu còn có cơ hội nào nữa không?
http://tieulun.hopto.org
Canh rau Tập Tàng món ăn dân dã cổ truyền
• Dương Phước Thu
Cũng như những người dân cư trú ở các tỉnh dọc theo Trường Sơn, người Huế hiện vẫn còn lưu giữ khá nhiều món ăn dân dã quen thuộc văn hóa Mường được tìm thấy trên mâm cơm hàng ngày của mỗi gia đình. Và một trong những món ăn dân dã khoái khẩu ấy là món canh rau dại có tên gọi tập tàng , được xem (theo tôi) là món ăn cổ nhất của người Việt ở miền này. Bởi chính thành phần, tên gọi và nguồn gốc xuất xứ của nó - (mười năm trở lại đây có nhiều nhà biên soạn sách hướng dẫn nấu ăn đã “cải cách” tên gọi là canh rau thập toàn , được đem ví như công dụng của toa thuốc Bắc. Thập toàn đại bổ mà ta thường nghe hoặc thấy ghi trong sử sách...)
Tôi không có ý định luận đàm về món ăn “thập toàn đại bổ bởi danh và nghĩa từ thập vị này được xuất phát từ cách khám, kê đơn, bốc thuốc của các lang y xưa theo ngữ nghĩa chữ Hán dùng cho người bệnh. Bài viết ngắn này “dành đất” tìm hiểu, giới thiệu nguyên thủy - nhất là tên gọi đúng của món ăn dân gian lưu truyền trong văn hóa ẩm thực và đời sống thực tại : Canh rau tập tàng .
Theo tập quán thì người Bắc có thói quen ăn rau trồng. Còn người Nam, người Mường lại có thói quen ăn rau dại. Đây là loại rau mọc dại rất nhiều ở những vùng bán sơn địa, là nguồn rau xanh (có thể xem như lương thực) của người dân du canh du cư. Và nó trở thành món ăn không thể thiếu của người Mường, có thể luộc chín hoặc nấu canh, khi đói ăn thay cơm trừ bữa.
Các thứ rau mọc dại này kể ra như sau: Rau sam, rau má, rau dền trắng (có giống dền đỏ), rau dệu, rau sưng (sâng sâng), rau mồng tơi (tầm tơi), rau bác bác (bát bát), rau mã đề, rau bông ngọt (rau ngót), rau mác, rau cần, cải tần ô, lá lốt, lá dâu tằm, rau khoai lang, măng tre non, đọt bí ngô... nếu liệt kê mãi chắc chắn có đến vài chục thứ, mọc nhiều ở xứ Mường. Trong một năm tùy theo từng mùa, Xuân có thứ này, Hạ có thứ kia, rồi
http://tieulun.hopto.org
Thu sang Đông tới người ta bắt gặp loại rau gì thì hái mỗi thứ một ít (đôi khi có cả nấm mối, nấm tràm) trộn lại đem về nấu (hổ lốn). Món canh rau dại này không nhất thiết phải đủ các loại bắt buộc theo lối thập cẩm, thập vị. Là món ăn dân gian, tiếng Việt cổ gọi là tập tàng . Vùng A Lưới cũng có bộ rau tương tự theo mùa, dùng để nấu canh nên người dân tộc Càtu gọi là canh tà lục tà lạo.
Đi tìm nguyên nghĩa, trong các sách Hán Việt tôi không thấy cuốn nào cho biết gì về món canh rau này? Nhưng trong một số bản chữ Nôm như cuốn Tự điển chữ Nôm , hay cuốn Tự vị Nôm thì lối chiết tự giải thích rằng: chữ Tập có nghĩa là gôm lại, hợp nhiều thứ lại thành một bộ, chữ Tàng là loại cỏ dại ăn không bị độc. Vậy tập tàng có nghĩa là một (mớ) bộ rau dại. Chữ Nôm theo lối viết hài thanh có chú rằng: “Phàm chữ nào có ý chỉ về rau, hoa, cỏ... thì dùng bộ Thảo hoặc có khi viết cả chữ Thảo là Cỏ để gợi ý”. Chữ Tàng trong tập tàng này có bộ Thảo trên đầu để chỉ như vậy.
Rau tập tàng xưa kia người Mường dùng để nấu canh suông với muối, sau này lan xuống đồng bằng có thêm gia vị như nước cua đồng, mắm ruốc, có khi trộn với nhúm tép khô. Người Huế nấu canh tập tàng thường công phu hơn một chút: Vỏ trộn với tý ruốc (Sau này thay ruốc bằng bột ngọt, nhưng vẫn có nhiều gia đình thích dùng ruốc hơn), người ta nêm vừa đủ độ mặn nhạt, nấu sôi nước rồi bỏ rau vào độ mươi phút sau là chín. Có người lại dùng tôm khô đánh rải đều trên mặt trông bát canh rất đẹp mắt, nhưng có mùa lại phải dùng tôm khô bóc vỏ, con nhỏ nhỏ bằng đầu đũa rải đều thêm tý bột canh và vài gia vị khác, ăn rất ngon ngọt.
Vườn Huế bây giờ trồng nhiều loại rau tập tàng, người ta trồng tự nhiên (ít chăm bón) trước cổng, trồng quanh hàng rào, trồng xen vào những chỗ đất trống hoặc dưới bóng cây lưu niên. Do vậy mà nó không còn chất dại nữa nhưng vẫn giữ được vốn quý dược tính khoái miệng của món canh. Ngoài ra vườn Huế còn có một bộ rau sống như: rau rìu, rau éo, rau trai, lá lốt, diếp cá... Lại có thêm một bộ nữa thường trồng quanh giếng nhà như: Rau sam, rau me, rau càng cua, rau bù lột, rau diếp cá, rau má, có cả rau đắng nữa... có loại dùng để nấu canh, có loại để ăn sống. Người Huế rất quý những thứ rau tập tàng trong vườn nhà.
Ở vùng Quảng Trị có thêm vài thứ rau khác trong bộ rau tập tàng như: http://tieulun.hopto.org
rau hoa lý (Huế cũng có nhưng ít hơn), rau chên, rau mảnh bát. Cây rau chên cao to hàng thước, thân cây, cành tước ra làm mắm ăn rất lạ, có câu: “ Cơm bới ăn với mắm chên ” thì tuyệt. Còn lá của nó thêm vào nồi canh tập tàng ăn vài lần nhớ mãi nhiều năm. Vùng Quảng Trị, cua đồng cực ngon. Lại có thứ cua đá giã lấy nước nấu canh, rau dại ăn quý như sâm vậy.
Ở tỉnh Quảng Bình món canh rau tập tàng dân dã mà ngon hơn cả là ở hai huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa. Tôi lên vùng Đồng Lê, Quy Đạt nhiều lần ăn bát canh rau tập tàng thấy hương và chất của nó rất dễ chịu, ngửi thấy có mùi cỏ cây, thanh mà ngọt như mật hoa rừng, vị đắng nhàn nhạt như khổ qua già, lại mát, ăn vào buồn ngủ mà ngủ rất sâu. Hỏi ra, dân ở đây gọi là món canh của người Nguồn tức Kinh nguồn chính là người Mường đấy.
Theo Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh [1] thì xứ này có rất nhiều món canh. Lại có thứ canh rau tập tàng là món dã vị của nhà nông ăn vào mùa hạ vừa ngon, vừa bổ. Nguyên liệu gồm: rau muống, mồng tơi, lá khoai lang, đọt vông, đọt dâu, trái mướp non... mỗi thứ một ít kiếm rất dễ, vì ở đâu cũng có sẵn, với một nhúm tép hay cá khô, hay cua đồng, nếu không có sẵn thì một ít mắm tôm cũng đủ, ăn ngon mà lại dễ ngủ, còn đọt cây dâu thì có công dụng làm mát huyết dưỡng âm. Lại có câu: “ Canh tập tàng thì ngon, con tập tàng thì khôn ” [2]
Tóm lại, món canh rau dại này là tập tàng (không phải thập toàn). Là món ăn cổ của người xưa, đồng thời là một bát thuốc “Nam dược thần diệu” mà nhà đại danh y Tuệ Tĩnh từng căn dặn người Nam, hãy trị bệnh bằng thuốc Nam bằng cách ăn nhiều rau Nam. Hơn nữa tập tàng còn là bản sắc văn hóa cội nguồn của người Việt Nam.
[1]Do GS Nguyễn Đổng Chi chủ biên - NXB Nghệ An ấn hành 1995. [2]Con tập tàng: chỉ con chửa hoang.
http://tieulun.hopto.org
Chùa Thiên Mụ
• Phan Thuận An
Có khá nhiều câu chuyện huyền thoại liên quan đến lai lịch của chùa Thiên Mụ. Một trong những chuyện ấy kể rằng, từ xa xưa, dân chúng địa phương đêm đêm thường thấy một bà già mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện trên ngọn đồi mà chùa tọa lạc ngày nay và nói: “Rồi sẽ có chân chúa đến lập chùa ở đây để tụ long khí cho bền long mạch”. Hễ nói xong là bà biến mất. Từ đó, ngọn đồi được đặt tên là Thiên Mụ Sơn (núi Bà Trời). Sau khi vào chấn Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) một lần đi qua đây chơi nghe kể chuyện, liền tự nhận mình là vị chân chúa ấy, nên cho xây chùa và đặt tên là Thiên Mụ Tự.
Thật ra, ngôi chùa đã có tại chỗ từ trước năm 1555, vì trong sách Ô Châu Cận Lục viết vào thời điểm ấy, tác giả Dương Văn An đã từng nói đến ngôi chùa cổ này rồi. Có lẽ hồi ấy chùa còn đơn sơ nhỏ hẹp, kiến trúc chưa quy mô to lớn như về sau. Thế rồi, sau khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam (1558), một dạo đến chơi đây, vừa có được những gợi hứng tốt đẹp từ ngôi chùa cổ, vừa thấy rõ ở đấy phong cảnh thoát tục hữu tình, nên năm 1601, chúa cho xây lại ngôi chùa một cách chính thức, chùa trở nên khang trang hơn.
Năm 1665, chùa được chúa Nguyễn Phúc Tân cho trùng tu. Cuối năm 1695, Hòa thượng Thạch Liên (Thích Đại Sán) ở Quảng Đông được chúa Nguyễn Phúc Chu mời qua hoằng dương chánh pháp tại đây. Chùa càng trở nên nổi tiếng. Năm 1710, vị chúa Nguyễn ấy cho đúc Đại hồng chung và viết một bài ký để khắc vào chuông. Năm 1714, chúa sai Chưởng cơ Tông Đức Đại đứng ra trông coi việc trùng tu và mở rộng ngôi chùa - xây thêm nhiều điện đài, đỉnh chiện, nhà cửa. Tất cả có đến vài chục công trình kiến trúc, nơi nào cũng huy hoàng tráng lệ. Công tác kéo dài 1 năm. Khi xong, chúa lại viết một bài ký, cho khắc vào bia đá để kỷ niệm và nhờ người qua Trung Quốc thỉnh hơn 1.000 bộ kinh sách Phật giáo về tàng
http://tieulun.hopto.org
trữ ở chùa.
Dưới thời Tây Sơn (1786 - 1801) chùa Thiên Mụ bị binh hỏa tàn phá rất nặng nề. Theo Phan Huy Ích, đã có lúc triều đại lấy chùa làm đền Xã Tắc. Vào các năm 1815 và 1831, vua Gia Long và vua Minh Mạng cho tu sửa lại. Năm 1844, để kỷ niệm bà Thuận Thiên Cao Hòang Hậu (vợ vua Gia Long) thọ 80 tuổi (Bát tuần Thánh thọ), vua Thiệu Trị cử Thống Chế Hoàng Văn Hậu đứng ra điều khiển công cuộc kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô - xây thêm tháp Pháp Duyên, đỉnh Hương Nguyện, dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua. Dưới thời Tự Đức, sau những thất bại dồn dập trong việc nước, việc nhà, vua nghỉ có lẽ dùng chữ “Thiên” đã động đến trời, cho nên danh từ “Thiên Mụ” có đổi thành “Linh Mụ” trong một thời gian ngắn (1862 - 1869).
Năm 1899, để đóng góp công đức cho chùa nhân dịp lễ Cữu tuần Đại Khánh tiết (mừng thọ 90 tuổi) của bà Từ Dũ (vợ vua Thiên Trị), vua Thành Thái cho Bộ Công “đại gia tu bổ” tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm.
Năm 1904, một trận bão dữ dội nhất xưa nay ở Huế, đã gây cho chùa nhiều thiệt hại nặng nề, trong đó có đình Hương Nguyên bị sụp đổ. Ba năm sau (1907), chùa được trùng tu.
Năm 1920, vua Khải Định lại cho dựng bia đá gần tháp Phước Duyên để khắc một bài thơ ngự chế ca ngợi cảnh chùa.
Cuối cùng, chùa Thiên Mụ được tu sửa lớn một lần nữa vào cuối năm 1957. Trong đợt này, phần lớn các bộ phận được thay thế bằng bê-tông giả gỗ.
Xưa nay, bất cứ ai đến viếng cảnh chùa cũng đều thừa nhận rằng người chọn vị trí làm chùa là một Phật tử có trình độ thẩm mỹ rất cao. Kiến trúc ngôi chùa được lồng vào trong một ngoại cảnh thiên nhiên nên thơ tĩnh mịch. Nó thích hợp với Phật tính ở chỗ vừa cách biệt với những sinh hoạt tục lụy của thế nhân, nhưng lại vừa gần gũi đối với những con Phật mộ đạo ở chốn thị thành cách đó chưa đầy 4km.
Ngọn đồi đột khởi giữa quãng đất bằng, được nâng lên thêm bởi ngọn tháp Phước Duyên uy nghi cao cả. Dòng sông Hương thanh khiết uốn khúc trước chùa như để rửa sạch bụi đời cho tâm hồn và thể xác những người hướng đến và tìm về đạo pháp.
Toàn bộ các công trình kiến trúc của chùa đều nằm trên một ngọn đồi có bề mặt hình chữ nhật (280m x 100m) chạy theo hướng Bắc Nam. Chùa lại được bao bọc bởi khuôn tường thành xây bằng đá mang hình dạng một con rùa thò đầu xuống bến để uốn nước sông Hương.
Vào thời cực thịnh của chùa, mật độ kiến trúc nơi đây thật dày đặc, vì có đến mấy chục công trình. Ngay từ bấy giờ, các nhà quy hoạch đã chia
http://tieulun.hopto.org
khuôn viên chùa ra làm hai khu vực, cách biệt nhau bởi cửa tam quan: khu vực ở trước có mặt bằng như các đầu rùa là nơi xây dựng những công trình kiến trúc mang tính kỷ niệm, như bia đá, chuông đồng... và khu vực ở sau, thân rùa, dành để xây cất điện thờ Phật và các nhà tăng, nơi các nhà sư ăn ở để tu hành, tụng niệm.
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1715), mật độ kiến trúc ở phần sau dày hơn ở phần trước, nhưng từ thời vua Thiệu Trị (1846) và nhất là thời Thành Thái (1904) thì ngược lại, vì phần sau bị hư hại nhiều, phần trước xây dựng thêm.
Hiện nay, được đánh giá cao nhất trong chùa là các công trình nghệ thuật sau đây:
- Phước Duyên Bửu Tháp: Tháp hình bát giác cao 7 tầng (21m), dưới lớn trên nhỏ. Số 7 là con số linh của đạo Phật. Hệ thống bậc cấp trước chùa cũng tính theo số 7. Trong tháp có hệ thống bậc thang xây cuốn từ dưới lên trên, chỉ trừ giữa tầng thứ 6 và tầng thứ 7 là phải dùng các thang di động bằng gỗ và cái cửa với chìa khóa đặc biệt, vì ở tầng trên cùng này xưa kia có thờ tượng Phật bằng vàng.
- Đại Hồng Chung: Chuông cao 2.5m, đường kính 1.4m, nặng 2.052kg, là một tác phẩm nghệ thuật bằng đồng rất xuất sắc của Việt Nam đầu thế kỷ XVIII. Mặt trên của chuông có 8 chữ “Thọ” khắc theo lối chữ triện, ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảng, khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi những hình ảnh long, vân, nhật, tinh, ở phần dưới khắc hình bát quái và thủy ba.
- Bia thời chúa Nguyễn Phúc Chu: Đây là một tấm bia đá thanh khá lớn, cao 2.6m, rộng 1.25m, dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2.2m, rộng 1.6m, đều được khắc chạm uyển chuyển, tinh vi. Bộ tác phẩm bằng đá này mang giá trị cao và nghệ thuật của thời các chúa Nguyễn.
- Điện Đại Hùng: đây là ngôi điện chính trong chùa, một công trình kiến trúc đồ sộ nguy nga. Trong lần trùng tu năm 1957, ngoại trừ hệ thống rui và đòn tay, còn tất cả cột, kèo, băng, bệ... đều xây dựng bằng bê-tông và phủ bên ngoài một lớp sơn giả gỗ.
Trong điện, ngoài những tượng Phật bằng đồng sáng chói còn treo một cái khánh đồng khá lớn chạm hình nhật nguyệt, tinh tú và khắc những
http://tieulun.hopto.org
dòng chữ cho biết khánh này do một vị quan người Quảng Trị là Trần Đình Ân thuê đúc năm 1677 để cúng cho chùa và treo một bức hoành phi bằng gỗ sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu ngự đế năm 1714.
- Đình Hương Nguyện cũ: một trong những công trình kiến trúc bằng gỗ rất đặc biệt của thời vua Thiệu Trị (1841-1847) mà hiện nay còn bảo lưu được ở chùa Thiên Mụ là bộ sườn của đình Hương Nguyện. Đình nguyên được xây ngay trước mặt tháp Phước Duyên. Trong trận bão năm Thìn (1904), đình bị đổ. Để cho không gian tại đây được thoáng, sau đó người ta đem ngôi đình cũ ấy vào dựng lại tại nền điện Di Lặc xưa để thờ Đức Địa Tạng. Đây là nguyên mẫu một ngôi nhà tứ giác độc đáo của 150 năm trước. Đứng trong nhà nhìn lên, chúng ta thấy hình bát quái được cấu trúc khéo léo ở cái nóc duy nhất ở chính giữa. Có một số thơ chữ Hán được khảm nổi trên 56 pa-nô trang trí ở các liên ba.
Chùa Thiên Mụ bảo lưu được một số văn vật quý báu lâu đời của Phật Giáo. Thiên nhiên và kiến trúc ở đây hài hòa với nhau đến mức hoàn chỉnh. Với kiến trúc uy nghiêm cổ kính, với cảnh trí thanh thoát nên thơ, chùa Thiên Mụ có thể xem là một danh lam thắng cảnh tuyệt vời của đất nước.
http://tieulun.hopto.org
Chiếc cầu trong tâm cảnh
• Trần Kiêm Đoàn
Châu Thuận Hóa là ốc đảo của thiên nhiên Việt Nam suốt cả một thời quá khứ. Huế cách trở trong lòng người xứ Bắc “ Thương em anh cũng muốn vô, sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang” Và xa xôi lạ lùng quá đỗi với người phương Nam “ Đi bộ thì khiếp Hải Vân, đi thủy thì khiếp sóng thần Hang Dơi” . Thiên nhiên thuở nọ đã bắt Huế nằm im gối đầu Trường Sơn, co chân trên dải đất hẹp giáp biển Đông như những dòng sông bị cản chiều dài, cách trở chiều rộng, nên phải chảy vào bề sâu mà về lại trong lòng. Bởi vậy cái đẹp của Huế là cái đẹp mang vẻ trầm lặng và cô tịch. Cái nên thơ của Huế là vẻ nên thơ trong mắt nai rừng lúc hoàng hôn: Vời vợi, hồn nhiên, nhưng cũng trang đài và huyền hoặc. Dường như người Huế nhìn về quê người thì thấy thấp thoáng bóng tương lai, mà nhìn về quê mình thì chỉ thấy toàn quá khứ, thành kẻ hành hương quanh miếu đền kỷ niệm, những kỷ niệm thuộc về một thời “mô tê” lãng đãng như ca dao.
Huế có một dòng sông và một chiếc cầu Trường Tiền là bến đò của dĩ vãng. Dòng thời gian vẫn luân lưu trôi chảy nhưng không già. Thời gian sẽ đẩy lùi quá khứ để mà quên và kéo dĩ vãng trở về để mà nhớ. Mỗi năm, khi mùa Thu về, dòng sông ấy vẫn xanh; vẫn trôi chảy âm thầm dưới chiếc cầu cong sáu nhịp có nét e ấp tròn trăng đầy duyên dáng. Dòng sông và chiếc cầu vẫn còn trẻ mãi mà những hàng cây hai bên đường lại ngả màu. Thời gian cũng có nét buồn riêng của nó. Với Huế, nét buồn của thời gian là vết chân chim trên khóe mắt cười đã hết long lanh của cô học trò Đồng Khánh một thời áo trắng.
Một sớm mùa hè năm 1954, sau khi rời bến xe Nguyễn Hoàng, tôi theo mẹ về chợ Đông Ba. Một sớm mai trên hè phố Huế, được ngồi bệt trên chiếc mũ đệm bên gánh cháo lòng um khói và được ăn một tô cháo nóng hổi đã đời là cả một niềm hạnh phúc lớn lao mà rất ít đứa trẻ ở làng cùng lứa như tôi có được. Mùa hè, mới nắng mai đã gắt. Vị cay và sức nóng bên trong của tô cháo lòng, bên ngoài của nắng làm tôi ngầy ngật như say. Tôi chạy lúp xúp theo mẹ qua cầu mà chẳng thấy được gì vì mồ hôi đổ dầm như tắm. Đến giữa cầu, cơn gió qua sông mát lạnh. Tôi không cần đưa tay áo quệt mồ hôi mà mắt mũi, mặt mày vẫn ráo hoảnh. Tôi ngước nhìn quanh. Cao vút trên đầu tôi là đường cong trong vàng rực rỡ như thềm núi Trường Sơn có cầu vồng ra ăn mưa. Trước vẻ ngỡ ngàng của thằng con trai út chưa ra khỏi mấy lũy tre làng, mẹ tôi chợt nhớ ra và lên tiếng:
- Cầu Trường Tiền!
Cả một cơn sóng ký ức dội về. Tôi đã quen lắm từ bao nhiêu năm qua tiếng khóc trẻ thơ dịu dần trong tiếng hò ru em, vang lên ấm dịu, ngọt
http://tieulun.hopto.org
ngào từ xóm trên về xóm dưới. Hình như tôi đã biết sâu lắm rồi mà vẫn hỏi. Hỏi như để khẳng định một tình yêu đang có mặt, nhưng cũng rất xa xôi:
- Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp đây phải không mạ hè?
Mẹ tôi thật vô tình. Mẹ không chia sẻ luồng gió mới đang mở phăng cánh cửa lòng tôi, nên mẹ đã nói bằng ngôn ngữ thản nhiên, làm như tôi cũng đã có hơn nửa đời người quen thuộc với chiếc cầu nầy như mẹ. Không, tôi có riêng đôi mắt bình minh của trẻ thơ để khám phá ra “cái cầu ông” uy nghi vươn tay dài sáu khúc để nối liền bờ bên nớ bên ni. Tôi như một người nghèo cháy túi vì không tìm ra được chút vốn liếng kinh nghiệm nào ở làng để so sánh với cả một thế giới lạ lùng, đồ sộ, xinh đẹp, cao sang, nhưng cũng mang về ngự trị và bí ẩn chứa trong từng mảnh nhỏ của “ông” cầu. Tôi mơ hồ liên tưởng tới đường cong như cánh cung của cặp rồng uốn lượn trên nóc đình làng để ví với dáng cong cong thon thả của những vài cầu lên xuống. Vài cầu đang ngự trên cao chót vót tận đọt tre lá ngà gần mây trắng, thấp dần xuống để soi mình trên sông và từ từ vút cong lên trở lại. Tôi đếm thầm những cây quạt trắng khổng lồ mình đã đi qua: Một, hai, ba, bốn, năm, sáu. Rồi những tảng mây trôi trên xa cho cây cầu đổi sắc làm tôi nhớ những giọt sương mai trên lưới nhện hoang giăng trên bờ cỏ dại ở đầu làng.
Có tiếng nổ rất xa, đâu từ phía núi. Tôi nhớn nhác bấu chặt tay mẹ. Mẹ tôi cười, nói một cách tự tin:
- Sáng ni đình chiến rồi, sợ chi nữa!
Tôi nghĩ bụng, “Đình chiến là cái ông nào mà to hơn gan cóc tía. Súng đạn không sợ thì còn biết sợ ai!”. Tôi hỏi về cái ông “đình chiến”. Mẹ tôi cười tội nghiệp rồi giải thích theo lối thông tin “Làng trên xóm dưới”:
- Thì đình chiến là họ ký hiệp định Giơ-Neo với nhau. Việt Minh, Bảo Vệ như chú Dưa, chú Cà không bắn nhau nữa. Mai mốt, mình lên nhà trên kê phản ngủ. Rồi mạ tháo cái hầm làm chuồng heo, thả cặp heo tới tháng Chạp kỵ Ba, rồi ăn Tết. Tôi nín thở tận hưởng nguồn hạnh phúc tưởng tượng là từ nay, đêm đêm mình sẽ thôi ngủ dưới hầm, khỏi ngửi mùi rễ tre lên mốc, khỏi nghe bầy mối nghiến tre trèo trẹo thâu đêm.
Nghe mẹ tôi vẽ bức tranh mơ ước, mấy người gánh gồng cùng chạy bộ http://tieulun.hopto.org
qua cầu cũng hớn hở hỏi nhau:
- Nì, Thím nớ về mô? Đình chiến rồi, hòa bình rồi, hết súng đạn, ăn hột muối cũng sướng. Chừ lo về lại dưới làng cuốc đất mần ăn.
Cây cầu quanh tôi trắng tuyền như ngọc bích. Từ phút đó, cầu đã viết trong ký ức hoa niên của tôi những trang đầu tiên và kết tụ thành tâm ảnh: Cầu Trường Tiền đó, chiếc cầu chở hòa bình về lại quê xưa.
Rồi đời cứ theo dòng. Năm năm, mười năm, hai mươi năm... tôi đã đi về qua chiếc cầu đó; và hết một đời chiếc cầu đó sẽ soi bóng mãi trong lòng tôi.
Dòng sông Hương là mẹ nuôi, đã trở thành quê hương yêu dấu của cầu Trường Tiền. Cầu chào đời ở tận bên Tây. Năm 1899 hãng Eiffel mang về Huế đặt bên cạnh kho đúc tiền nên mang tên là cầu Trường Tiền. Lên năm tuổi, mới học vỡ lòng đường đi còn lót ván, trận bão năm Thìn 1904 đã xô ngã bốn nhịp cầu. Vè dân gian ghi lại rằng:
“Nửa đêm bão tới thình lình; cù lăn nổi dậy miếu đình nghinh ngang...” và cù lăn đã “Xô cầu Trường Tiền ngã bốn, đốn cột cờ gãy ba!”
Trường Tiền là chiếc cầu định mệnh của Huế. Tình yêu chưa bước song đôi qua cầu là tình yêu chưa “chín”. Đến Huế mà chưa đứng trên cầu là chưa vô tới Huế, chỉ mới “tạt” qua Huế mà thôi. Phải chăng vì thế mà từ ngày có mặt, tuy nằm yên một cõi, Trường Tiền đã mang những vết hằn lịch sử sâu nặng nhất của một xứ Huế thăng trầm theo thế sự.
Ngày mới lớn lên ở làng, tôi thường nghe thế hệ đàn anh kể chuyện “Chiến sĩ qua cầu”. Câu chuyện bao giờ cũng bắt đầu bằng cái mốc “Thời Nhật đảo chánh”. Ngày ấy, thực tế lẫn huyền thoại “chống thực dân Tây xâm lăng” là một khúc anh hùng ca thôi thúc những tấm lòng yêu nước lên đường kháng chiến. Mùa Đông năm 1946, những người trai quê và thôn nữ của làng tôi lũ lượt gánh ớt bột, mạt cưa, trấu, rơm rạ, và bùi nhùi để qua Huế đánh đồn Tây Tòa Khâm. Nghe kể lại là khi xông ớt, trấu, rơm rạ, mấy ả đầm và Tây con ở trên lầu cay mắt quá khóc bằng tiếng Pháp(!), nghe thảm thiết như “mèo kêu”(?!). Các chiến sĩ chân đất làng ta không biết vì động lòng trắc ẩn hay vì không chống nổi với súng đạn thiệt tình của quân Tây nên đã hè nhau chạy bộ qua cầu Trường Tiền, băng qua đồng, trở về làng cũ hát tình ca “Ngày nào ta phá tan đồn nó đi, sẽ thấy trên đường trở về, áo dài đùa trong nắng hè...” Làng tôi có khoảng mười “Chiến Sĩ Qua Cầu” và tất cả đều có một nỗi niềm chung là đầu hôm khi băng qua sông Hương, cầu Trường Tiền còn nguyên vẹn, nhưng khi trở lại sau nửa đêm gần sáng, cây cầu đã gãy đôi? Những người trai quê và gái quê đêm đó đã khóc khi lội qua sông không ấp ủ nổi một cây cầu. Lịch sử sau này đã ghi lại rằng, nửa đêm 19/12/1946, dưới sự chỉ huy của trung đoàn trưởng trung đoàn Trần Cao Vân, ông Hà Vãn Lâu, cầu Trường Tiền đã bị gài mìn đánh sập để cản bước tiến của quân Tây. Ớt
http://tieulun.hopto.org
khô của lòng yêu nước sao thắng được thuốc súng của xâm lăng! Anh hùng ca không chỉ là chiến lợi phẩm thu được trên chiến trường. Chiến sĩ làng tôi bỏ chạy, thế mà hào khí một thời vẫn còn cháy mãi trong lòng họ theo những câu chuyện kể không đầu không đuôi, nhưng bao giờ cũng cảm động khi đến đoạn một nhịp cầu Trường Tiền đã gãy lúc nửa đêm...
Tôi là học trò từ làng quê lên Huế học. Thời tôi mới lớn, học trò nhà quê lên tỉnh học còn ít hơn là học trò các thành phố lớn được qua Tây, qua Mỹ du học.
Tôi ở trọ trong Thành Nội, học trường Quốc Học. Mỗi buổi sáng đi học, ra cửa Ngăn dọc theo bờ Bắc sông Hương, qua cầu Trường Tiền, đi ngược bờ Nam sông Hương. Bãi học, về cầu Trường Tiền, vô cửa Thượng Tứ... nhịp điệu đi về trên một chiếc cầu ngỡ như đơn điệu ngày lại ngày cả mười năm đó, thực ra, chẳng có bao giờ giống nhau như con nước bao năm qua trôi chảy mãi dưới chân cầu mà vẫn không có một lần lặp lại.
“Mỗi sáng sớm đi học, qua cầu khi gió ban mai còn nhẹ nhàng, mơn man tà áo, vuốt ve mái tóc thề, dỗ dành từng bước đi của người qua cầu, ánh sáng lấp lánh trên mấy vài mấy nhịp uốn cong, tuổi học trò thấy cuộc đời như trang vở đầu tiên của ngày tựu trường, con tim hồi hộp vui mừng nơi từng nhịp đi...
Cái vòm trắng bạc có một chút kiêu sa phù phiếm. Mỗi bận qua cầu tôi có cảm giác như đi qua một đám mây phù du, một đoạn đường sương phủ hay đi vào một mối tình đầu không dài lâu; hoặc bắt đầu một cuộc đời lãng tử cũng không biết chừng.
Bước đi trên cầu trong ngọn gió sông Hương buổi sáng, khi chiếc cầu còn ngái ngủ trong khói sóng và màn sương, nhìn về phía Vỹ Dạ, có sóng nước êm đềm xanh một màu lục thủy, những chùm tre lả ngọn nơi phía Cồn Hến ẩn hiện đằng sau như vừa mới gội nước hồ chảy để xanh một màu xanh êm ả có thể làm mướt lại những con mắt suốt đêm thức trắng để “gạo” bài. Đến giữa cầu, ấy là lúc không thể nào không ngoảnh mặt về
http://tieulun.hopto.org
phía rặng núi Kim Phụng nổi hẳn lên trong dãy Trường Sơn kéo dài về hướng Tây Nam. Sông Hương mà không có dãy núi này đứng đợi như một tri âm vĩnh viễn thì e sẽ là con sông thảm thiết không biết trôi về phương mô. Dãy núi ấy, xanh một màu xanh “xuân soạn” thăm thẳm, vừa huyền bí, vừa đa tình. Hình như nhờ bóng núi xa xăm kia mà sông Hương trở thành huyền ảo, như có như không trong một nỗi thầm lặng miên man của dòng nước chảy.”
(Thái Kim Lan)
Giờ đến trường và tan học, cả con đường, chiếc cầu và lòng sông soi bóng đều sáng lên theo dòng nón lá và áo trắng học trò. Dòng suối trắng đó có lúc đầy giữa mùa thu tựu trường, mùa xuân nắng ấm, vơi dần giữa mùa thi sang Hè, và xám lại giữa mùa Đông co ro trong những chiếc áo mưa. Thế nhưng cũng có khi dòng suối ấy khô quắt khô queo theo nhịp cầu gãy đổ.
Chiếc cầu sáu nhịp nối liền hai bờ sông bên phượng, bên me. Huế cùng dòng sông bên dưới và dòng người bên trên thì trôi chảy mà chiếc cầu thì vẫn lặng im trong nắng trong mưa có vẻ như thường hằng, bất biến. Huế đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc bể dâu, thế mà sự ngây thơ vẫn còn đeo đẳng. Có những tâm hồn đã thành sắt đá vì chiến tranh; những cảm quan đã chai lì vì súng đạn; những ước mơ đã cùn nhụt vì thực tế chua cay... bỗng trở mình một cách nhẹ nhàng, rồi thức dậy nhìn dòng sông xanh bên dưới với đôi mắt trẻ thơ khi lững thững bước qua chiếc cầu nhũ bạc.
Phong cảnh trên cầu, ngày lụn tháng qua, đã trở thành tâm ảnh trong lòng người lớn lên hay già đi cùng với chiếc cầu. Khi một bóng dáng đã trở thành tâm ảnh thì sự hiện sinh của nó sẽ trở thành ảo ảnh. Cũng thế, những người xa Huế đã mang chiếc cầu trong tâm ảnh mà ra đi. Vô số chiếc cầu Trường Tiền đã bắt qua dòng sông tưởng tượng trong tâm thức lãng mạn được thi vị hóa bằng chất men lưu đày nên càng xa Huế, chiếc cầu và dòng sông trong tâm ảnh lại hiện về càng rõ, bất chợt, không hẹn không hò. Tôi đã về lại Huế, nhiều lần đi trên chiếc cầu xưa mà vẫn quay quắt đi tìm. Tìm chi? Tìm chiếc cầu trong tâm ảnh - như ngày xưa vua Tự Đức đã có lần toan “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/ Xếp tàn y lại để dành hơi”.
Sau biến cố Mậu Thân 1968, khi những đám cháy của bom đạn trên thành phố tan hoang vẫn còn bốc khói, tôi từ Cầu Lò Rèn, men theo dãy tường đầy vết đạn của Mô Ranh, băng qua cầu Trường Tiền để vào Thành Nội. Hai vài xương sống của cầu Trường Tiền đã gục xuống giữa lòng sông. Tôi cảm thấy nỗi buồn co thắt từ bên trong vì mấy vài cầu gãy đổ nằm sóng sượt dưới lòng nước xanh rêu đã vùi dập tâm ảnh của chiếc cầu trong lòng tôi. Tôi đứng lặng phía bên này cầu, hai vài cầu đứt đoạn như vẫn còn run trong dư âm của tiếng bom từ phía Trường Sơn không
http://tieulun.hopto.org
ngớt vọng về. Tôi nhắm mắt trong một giây để cố “bắt” chiếc cầu tâm ảnh vẫn còn nguyên vẹn trong tôi băng qua những nhịp cầu đã mất. Nhưng chiếc cầu tâm ảnh trong tôi sương khói quá mà sự đổ vỡ trước mắt thì bạo liệt không cùng. Nhìn những vài cầu trắng vô tội nằm nghiêng đổ dưới dòng nước sông Hương vẫn trong xanh và hiền hòa trôi chảy, một cảm giác tội tình dâng lên khiến nhiều người đến cạnh vết đứt ở hai phía cầu mủi lòng lau nước mắt. Đừng nhìn vào tâm ảnh, có lẽ tôi sẽ dửng dưng đi qua chiếc cầu phao tạm thời rung rinh dưới chân, vì trong cuộc chiến này, dọc quê hương khói lửa, tôi tìm đâu ra một chiếc cầu còn lành lặn để mà buồn.
Rồi cũng như chàng Do Thái vác thập tự giá mà đi cho hết một đời cứu chuộc, tôi mang tâm ảnh của cầu Trường Tiền mà đi. Chiếc cầu trong tôi bỗng thành một sự hiện hữu vô hình. Khi buồn nhất tôi lại lục lọi ngăn kéo hoài niệm của những ngày vui trên cầu, cố lấy một tâm ảnh liền lặn ngày xưa mà trám vào những đường nứt nhỏ giữa hoàng hôn và bóng tối. Nhưng mong làm sao trám nổi biển phân ranh của đại dương đã chia cách đôi bờ bên nớ bên ni?
Trong sự thăm thẳm tận cùng của lặng yên, tôi lại cảm nhận được sự liền lặn giữa đôi bờ. Có một con đường nửa như hư ảo mà nửa như rất thật, lặng lẽ nối chiếc cầu, dòng sông, và biển cả thành một dải ngân hà. Dòng sông trắng phau ấy không vắt ngang vũ trụ mà cũng chẳng ở dưới lòng đất, nó ở trong sâu thẳm của tâm hồn. Tôi chợt nhận ra dòng sông đó trong một chiều của “Ngày Mẹ Hiền” (Mother’s Day) cuối mùa Xuân ở Cali - khi tất cả những nhánh cây đều có búp măng mà tôi thì không còn Mẹ: Dòng sông kia là dư vị của dòng sữa mẹ ngày xưa khi tôi còn bé, quyện với dư âm của tiếng chuông công phu từ một ngôi chùa cổ nào của Huế từ thuở học trò. Dòng sông hết một đời người sẽ trôi về vĩnh cửu, chợt thật gần mà cũng chợt rất xa.
http://tieulun.hopto.org
Nghề thủ công mỹ nghệ
• Phương Anh
Nón Phú Cam
Nón bài thơ đã đi vào ca dao và nhiều ca khúc trữ tình, là vật che nắng và trang sức cho các cô gái Việt Nam, là kỷ vật hữu nghị đặc sắc của bầu bạn khắp thế giới về Việt Nam... thì một vùng quê gốc nổi tiếng của nó chính là xứ Huế. Và do đó, tên khác của nó cũng thông dụng là nón Huế.
Trên địa bàn Bình Trị Thiên, có một số nơi làm nón nổi tiếng như Triều Sơn, Ba Đồn... nhưng đích thực nón Huế là Phú Cam.
Làng Phú Cam còn được gọi là phường Phước Vĩnh, ngay ở trung tâm thành phố Huế, trên bờ Nam sông An Cựu “nắng thì đục, mưa thì trong”. Nón Huế, nón Phú Cam đã xinh ở dáng lại nhã ở màu, mỏng nhẹ như thấu quang, soi lên ánh sáng thấy rõ những hình trổ giấy về phong cảnh Huế kèm theo lời thơ được cài giữa hai lớp lá.
Dáng nón trước hết phụ thuộc vào khung nón. Cả làng nón Phú Cam chỉ có một gia đình bác Tân nối đời làm khung nón, giữ kỹ thuật tạo dáng mái, khoảng cách giữa các vành và độ tròn của vành... như một thứ gia bảo cha truyền con nối, theo một thẩm mỹ dân gian “hay mắt” mà thật ra là cả một tỷ lệ toán học đã được nhiều đời và nhiều vùng kiểm nghiệm “thuận mắt ta ra mắt người”. Sau khung là lá nón sao cho có màu trắng xanh. Phải chọn lá vừa tuổi để chỉ có 8-9 lá đủ chằm một cái nón, lại tránh được sự thô nặng phải dùng nhiều lá non, hoặc lá già dầy... Có lá đúng tuổi còn phải xử lý qua một quy trình công nghệ sấy và ủi phức tạp. Cả làng chỉ có bốn gia đình thạo kỹ thuật mở lò sấy thủ công. Khi lò đỏ lửa, lá phải được đảo liên tục cho đến lúc đủ xanh và chín tới từng gân lá thì chuyển sang đệm om trong độ ấm của lò.
Nón Huế duyên dáng còn do bộ xương mười sáu cái vành lớn nhỏ khác nhau. Các cụ ông đảm nhiệm khâu chuốt vành rồi lên khung nón, còn cụ bà thì nhận phần nức vành và ủi lá, các cháu gái làm khâu cuối là chằm. Với cây mác sắc các cụ chuốt từng sợi tre thành nan vành đều đặn, tròn
http://tieulun.hopto.org
trịa và bóng bẩy. Những nan vành được uốn thành vòng thật tròn, với hai đầu trên được liền với nhau bằng sợi chỉ khéo léo. Với tay kim chằm, các cháu gái khâu thềm nón một cách tỷ mỷ những sợi chỉ đoát trong suốt gần những tấm lá trắng xanh được sắp xếp đều đặn vào bộ vành.
Nón bài thơ bay đi khắp nước, ra cả nước ngoài, song phải ở đất Huế, do các cô gái Huế dùng, lúc đội đầu, khi che nghiêng nửa mặt hòa hợp với chiếc áo dài và quần trắng đoan trang làm nổi bật vẻ đẹp ngoại hình của người mặc. Ở Huế ngay cả quai nón cũng là một nghệ thuật, có khi là dải gấm đen tuyền, nhưng thường là dải lụa trắng bạch hay các màu nhẹ như vàng mỡ gà, xanh ánh trăng, biếc liễu non, tím e ấp... Màu sắc ấy cũng lại hợp với cái nắng mưa đa tình ở xứ Huế.
Nón bài thơ là bộ phận của văn hóa Huế, nghề làm nón ở Huế không chỉ là nghề thủ công thuần túy vật chất, mà chính là một hoạt động nghệ thuật, cho xã hội những sản phẩm nghệ thuật vật thể.
Điêu khắc Mỹ Xuyên và Thuận Hòa
Về điêu khắc Mỹ nghệ trong vùng nổi lên các tổ hợp tác xã Mỹ Xuyên ở huyện Hương Điền và Thuận Hòa ở Thành Nội Huế. Nơi đây vốn tập trung những người thợ chạm tài hoa đã chạm trổ nhiều công trình nổi tiếng cho triều đình và nhân dân, những sản phẩm mỹ nghệ của họ làm cho nhiều công trình kiến trúc và đồ dùng cao cấp đạt đến giá trị tuyệt phẩm mà nay vẫn còn. Nhưng rồi chiến tranh, các nghệ nhân phân tán, đồ dùng thất thoát, vật liệu hiếm hoi nên nghề xưa mai một, phải sau giải phóng từ 1976 những nghệ nhân đầu đàn mới tập hợp bạn nghề và các cháu nhỏ để hoạt động trở lại.
Trước kia làm ăn cá thể, những người thợ điêu khắc với đồ nghề gọn nhẹ để trong cái tráp con, họ xách theo đến những nơi mời mọc để hóa thân cho những đoạn ngà voi và gỗ quý, thành những đồ vật bền và có cuộc sống vượt cả thời gian. Chỉ có cái đầu sáng tạo và bàn tay khéo léo của những người thợ tài ba mới làm được, xã hội dù văn minh mấy cũng không thể lấy máy móc thay thế được.
Nghề điêu khắc ở đây không có trường dạy. Những người thành thạo trực tiếp kèm cặp người học nghề qua thực hành. Sống trên đất nghề, các cháu nhỏ như được di truyền, luôn tỏ ra có năng khiếu. Ngày nay các em nhỏ ở hai tổ hợp Mỹ Xuyên và Thuận Hòa đang trong lứa tuổi học sinh, có thể vừa đến trường học chữ lại vừa đến tổ hợp tác học nghề. Sau nhiều năm theo thầy, người học trò đã thành thợ chính lại đi tìm trò để làm thợ phụ và cũng qua đó truyền nghề. Với nghề điêu khắc, thợ chính thì chỉ phác dáng, phạt đục sơ qua vật liệu cho thành hình dạng sản phẩm, tốn ít thời giờ nhưng phải chính xác, lỡ tay là bỏ đi cả đoạn vật liệu hiếm quý. Có phác thảo rồi, thợ phụ kỳ cạch gọt, tỉa, mài, giũa cho bóng loáng. Vì thế thợ cả và thợ phụ gắn bó với nhau và vì mình, các thế hệ nối tiếp nhau và
http://tieulun.hopto.org
đào tạo cho xã hội những nghệ nhân tài giỏi. Họ làm việc đầy trách nhiệm, cần cù và tỷ mỷ, không chấp nhận một cái gì vội vã, cẩu thả. Mỗi tổ hợp sản xuất tùy theo nhà xưởng sản xuất và có khoảng mươi thợ chính và vài chục thợ học việc cho đến vài mươi thợ chính và trên trăm thợ học việc, từ những khúc gỗ bình thường đã làm ra cả trăm loại sản phẩm nghệ thuật là những hàng xuất khẩu cao cấp và ăn khách, thu nguồn ngoại tệ lớn làm giàu cho đất nước. Nhiều sản phẩm của Mỹ Xuyên và Thuận Hòa đã giành huy chương vàng, bạc tại các triển lãm trong tỉnh và toàn quốc. Thị trường của họ rất rộng, cả những nước xã hội chủ nghĩa, ở đó đời sống vật chất cao họ rất cần những đồ nghệ thuật, có mẫu hàng phải ký hợp đồng hàng nghìn sản phẩm. Họ chạm người, chạm thú, chạm đồ vật... cái gì cũng sống động. Trong nghề điêu khắc có câu: “Nhất mộc, nhị nhân, tam vân, tứ thú” hay “...nhị nhơn, tam sơn...” đã khái quát cả đề tài của họ gồm cây cối, người, mây (hoặc núi) và thú vật. Cái gì cũng khó, phải chạm sao cho thanh thoát và giống nữa, sao cho sản phẩm có tấm lòng nghệ nhân để toát ra tiếng nói tâm tình.
Xưa kia vật liệu chính là ngà voi, chuyên khắc ngà voi xưa có hai thợ cả là Hưu và Nai ở làng Huệ An nay là Thuận Hòa là nghệ danh của Huế, ngày nay thường là gỗ loại một cũng rất quý hiếm. Từ những thớ gỗ vô tri họ đã làm ra những rồng, phượng, ngựa, voi, mèo... những đại bàng, công, đàn gà... những cây tùng, bách, mai... những thuyền rồng, anh hùng, tượng ngộ... về những ông Di Lặc, tiên đánh cờ, người đi câu, người úp nơm, người cầm chùi... cả những anh hùng như Phù Đổng Thiên Vương... Mỗi đề tài lại có nhiều cách thể hiện, cũng là ngựa của một nơi sản xuất mà có hàng chục dáng hình khác nhau, con nào cũng sống động lạ thường.
Điêu khắc ở Huế đã có nguy cơ mai một thì giờ đây đã tập hợp thành đội ngũ đông đảo, có hướng đi rõ ràng của nghề truyền thống quê mình. “Quý hồ tinh”, bản thân các thợ điêu khắc và sản phẩm của họ đều là những tinh hoa, tinh túy, tinh xúc... và do đó đều là những giá trị tuyệt mỹ của quê hương, của đất nước.
Gốm Phước Phú
Cùng xã với Mỹ Xuyên chạm gỗ còn có Phước Phú làm đồ gốm. Phước Phú do hai thôn Phước Tích và Phú Xuân nhập lại. Làng nằm bên sông Ô Lâu, “sống ở Cồn Dương, chết chôn Cồn Hạ” cách đất liền một dải sông có nơi chỉ dăm mét, tiện cho việc đưa thuyền qua phá Tam Giang để đi các nơi mua vật liệu và bán sản phẩm. Tương truyền từ 600 năm trước, dân làng từ bên sông Hoàng Giang ở Nghệ An vào, nhà thờ tổ có câu: “Hoàng Giang như Ô Giang”. Khi vào đây ông bà khai căn mang theo cả hài cốt tổ tiên, đào bên khu mộ thấy những chum Thanh Hóa 40 - 50 lít có chỗ chôn đến 4 mộ chum liền nhau. Người Phước Phú rất trọng tổ tiên, dòng máu, người già. Ai cao tuổi nhất dù thuộc chi thứ cũng được tôn làm tộc trưởng, khi tộc trưởng trước mất thì họ rước tộc phả về nhà tộc trưởng mới. Làng có 12 họ đùm bọc nhau “thập nhị tôn phái”, cùng lập miếu thờ
http://tieulun.hopto.org
các công khai căn lập làng và ông Bổn dạy nghề.
Gốm Phước Phú có từ rất lâu đời. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ có lúc khó khăn quá phải bỏ làng đi, nhưng đến đâu cũng mang theo nghề. Thời tạm chiến, nghề gốm có nguy cơ tàn lụi và đồ nhôm tràn lan. Sau 1975, dân góp tiền lại lập lò. Trước 1975, làng gốm có 10 khẩu lò mang tính gia đình, cũng là tính phe phường, xây lò cốc và lò thanh nhỏ vừa dùng cho 5 - 7 gia đình, từng nhóm lo mua củi, chuốt gốm và đốt lò, nay còn nền lò. Giờ đây thành hợp tác, học Hương Canh làm lò rồng sản xuất gốm đất nung, sành lại học cả Biên Hòa làm gốm men, mỗi thứ có một lò to.
Gốm Phước Phú mà gốc là gốm Phước Tích vốn là niềm tự hào của địa phương: “Ba phủ, chín tru (con trâu) không bằng khu độộc độộc”. “khu độộc độộc” là vùng làm gốm. Sản phẩm “độộc Phước Tích” có Om thạp, thống, lu, ghè, bùng binh (ống tiết kiệm), tu huýt (còi), ông tác nung chính thành sành. Nhà nhà làm gốm, họ chung nhau thuê “thuyền 11” ngoại cỡ chất sản phẩm chở đi bán từ Nghệ An vào Nam Bộ. Có khi mải làm ăn, Tết đến chiều 30 sáng mùng 1 chưa kịp về. “Sáng chợ Cần, chợ Kề đến Thủ Lễ, Hạ Lang. “Hiếu trung chỉ bên anh, anh cũng bỏ huống chi bên nường, nường ơi!”
Om là đồ nhỏ để thổi cơm chín dẻo rất ngon. Suốt từ thời Minh Mạng đến Khải Định, mỗi tháng Phước Tích phải nộp 30 chiếc “om ngự” để nấu cơm cho vua, dùng một lần rồi bỏ đi. Do có công cung cấp om ngự, Phước Tích được phép đi các nơi khai thác những thứ cần cho nghề. Lên rừng lấy chuông độộc lấy cùi, xuống Cồn Gióng lấy đất. Về sau Cồn Gióng không cho lấy đất thì sang tận Dương Khánh bên Triệu Hải cách xa 30 cây số. Đất ở Dương Khánh lớp trên là sét, lớp dưới là màu nên họ rất mong cho lấy sét, lại được Phước Phú trả sản lượng. Còn đất đỏ có sạn là sét chịu lửa để đắp lò ở Câu Nhi cũng thuộc Triệu Hải, trước kia làm lò cổ phải dùng tre nứa đan khung lò, dưới để tre củi cho khỏi sụt, trên đắp đất sét đỏ, nện kỹ, khô thì đốt lò nó tự rắn như đá. Do thời tiết các lò gốm hoạt động chính quy vào quý II và III còn quý IV và I mưa gió nhiều nên ít đốt lò. Do đất làng chật mảnh gốm và phế phẩm phải mang ra cồn trên đổ, khắp làng đầy mảnh gốm:
Xóm dưới cả chuông, cả gai
Cả sành, cả sỏi, cả trai mục xì
“Mục xì” là không ra gì, nhưng nay nhờ gốm lại giàu nhất. Tranh Sình
Làng Sình có tên chữ là Lại Ân thuộc huyện Hương Phú, cách Huế không xa, ngay bên kia sông Bao Vinh (một đoạn sông Hương), ở vào vị trí trước sông sau đồng, cây cối luôn xanh tươi, Sình nổi tiếng về hội vật
http://tieulun.hopto.org
mùng mười tháng giêng các phe phái mâu thuẫn nhau dẫn đến hội vật để thanh toán.
Dân Sình sống cơ bản về nông nghiệp, nhưng do vị trí sát kế đế đô lại thuận tiện giao thông, có nhiều người buôn bán và làm thủ công, trong đó có nghề làm tranh thờ in vào khắc gỗ còn màu tô tay. Trước kia, hầu hết tranh thờ in ván bày bán ở hàng mã là do dân Sình làm, nên quen gọi là “tranh Sình”. Ngày nay phần lớn các gia đình đã chuyển vào thành phố, tại làng còn rất ít nhà làm tranh. Nhiều người làm đồ mã ở Huế đã thuê thợ theo mẫu tranh đã khắc vốn để in bán, lại có người đưa sang in máy để kinh doanh, nên tranh Sình đích thực đang mai một.
Khi tranh phát triển, các gia đình làm tranh ở Sình mọi người đều biết tin về tô tranh. Tranh làm ra bán buôn ngay tại nhà hoặc cho hàng mã ở chợ, có khi người buôn đặt trước.
Giấy in tranh là giấy báo, màu là phẩm mua ở chợ, gồm có vàng, xanh, tím, đỏ, nghệ, đỏ sen, còn trắng thì để nguyên giấy mộc. Vốn in bằng gỗ mút, họ tự khắc hoặc thợ khắc. Tranh in lối ngửa ván, rồi dùng tay vuốt giấy cho phẳng, in một lấy nét và mảng đen, sau dựa vào đấy mà tô màu một số mảng. Tranh Sình thường chỉ bán quanh vùng Bình Trị Thiên.
Tranh Sình là tranh thờ, có các bộ. Tranh cúng bổn mệnh, tranh cúng gia tiên, tranh ảnh cúng thế mạng, tranh lễ thành cúng cho người mang bầu, tranh cúng cho con nít... Tất cả chừng trên năm mươi tờ có đề tài khác nhau. Tất cả những tranh trên đều phản ánh tín ngưỡng cổ sơ, là sự lưu ảnh của tư tưởng Việt cổ trước một thiên nhiên hoang sơ thần bí và linh dị, cuộc sống bị chi phối bởi nhiều tai họa mà con người hình dung thành các vị thần cầu tranh thủ. Mọi người cúng tranh để cầu cho người yên vật thịnh, phụ nữ sinh nở được mẹ tròn con vuông, trẻ em chóng lớn, người ốm chóng khỏi.
Tuy là những đồ tín ngưỡng, song một khi người ta tin những nhân vật trong tranh có thể thay người sống và vật nuôi thì rõ ràng tờ tranh đã có cuộc sống riêng, cụ thể, gạt sang bên tính thờ cúng, tranh Sình đã ghi
http://tieulun.hopto.org
nhận bằng hình ảnh sinh động những hoạt động văn hóa xã hội, đôi khi cả cảnh lao động nữa của con người, những con vật gần gũi với mọi nhà (lợn, trâu) hay ít ra cũng không xa lạ (ngựa, voi, những con vật của 12 năm), những đồ vật quen thuộc (chậu hoa, thuyền...) Ghi nhận trước hết bằng nét và mảng màu đen vì có những tranh in xong là hoàn chỉnh, nhiều tranh được thêm những vạch màu tùy hứng của người làm tranh “thấy màu chi đẹp thì tô màu ấy” nên đẹp bình dị, tự nhiên. Một số tờ tranh thực sự mang giá trị nghệ thuật, chẳng hạn như bộ Bát Âm. Bát Âm đúng ra gồm tám cô biểu diễn các đàn địch khác nhau nhưng để đỡ ván in người dùng 2 bộ 4 bức. Moችi bức thự c sự là bộ tranh toቷnữ Hueቷ: Moችi bức vẽ một cô đứng biểu diễn nhạc cụ khác nhau, cả bốn cô đều mặc áo “mã tiên”, gồm áo trắng dài mặc trong, áo cánh màu bận ngoài, mỗi cô một màu áo có thể thay đổi khi tô sao cho vui, đội mũ, mặc quần trắng. Áo mã tiên khá điển hình ở Huế, ở những đám cưới có tám em bé mặc áo mã tiên cầm đèn lồng đi thành hai hàng dọc, các cô như những ca sĩ duyên dáng, phục trang nền nã.
Liễn Chuồn
Chuồn là tên nôm của làng An Truyền huyện Hương Phú, là làng nông nghiệp nhưng có nhiều người học cao đỗ đạt làm quan to trong triều. Tính hiếu học đã ảnh hưởng tốt đến nghề làm liễn: Viết chữ đẹp, biết cái đẹp của nghệ thuật viết chữ và phát huy một lối chơi sang treo liễn ngày Tết hay để tặng mừng nhau. Ở đây rất nhiều gia đình biết in liễn Tết, họ tập trung làm từ tháng 10 đến giáp Tết, mỗi gia đình trong vụ liễn in từ dăm trăm đến vài nghìn bộ. Liễn Chuồn được bán ra đến Đông Hà - Quảng Trị và bán vào đến Quảng Nam - Đà Nẵng. Tùy năm, giá mỗi bộ liễn từ dăm cân đến một yến gạo nên là nguồn thu nhập lớn, bảo đảm sinh hoạt Tết và nhiều chi tiêu khác của gia đình. Cho đến nay liễn Chuồn vẫn phát triển và là sản phẩm văn hóa cần khuyến khích.
Giấy in liễn là loại giấy để in báo, mua về phải nhuộm các màu đỏ, vàng hoặc xanh. Còn màu là phẩm bột mua ở chợ về hòa với hồ cho dính, cũng có dùng bột điệp nhưng không để nguyên màu trắng ánh mà pha thêm dương xanh theo tỷ lệ 10 điệp + 1 dương để có màu sáng dịu. Ván khắc bằng gỗ mít, thuê thợ nơi khác khắc theo mẫu riêng của mình, mỗi nhà làm liễn có những hình mẫu riêng. Khi bắt đầu in, pha xong mẫu trong chậu rồi thì quết lên “quản in” (còn gọi là cái “nhấm màu” hay tấm “bố in”). Do có hai loại liễn với kích thước khác nhau nên có hai lối in ngửa hay úp ván. Liễn bông (hoa) mỗi bộ gồm bốn con (bức) toàn cảnh và họa tiết dài như bộ tranh tứ quý. Liễn chữ gồm một đại tự và đôi câu đối. Đại tự là chữ to cần ván lớn. Liễn đại tự in ngửa ván lấy nét, rồi dựa theo đó mà vẽ, trong nét chữ to có vẽ cài các hình bát tiên hoặc tứ linh. Liễn bông và liễn câu đối thì gắn các ván khắc trên một thanh gỗ cố định, rồi in úp ván như kiểu đóng con dấu, có thể in một màu hay nhiều màu trong một lần in. Đại tự là những chữ “phúc”, “lộc”, “thọ”. Liễn câu đối là những lời
http://tieulun.hopto.org
chúc đầu năm chẳng hạn:
Thiên thu trợ đậu di hương.”
(Vạn đời nước cửa nguồn chẳng hết
Ngàn năm không trở lòng thờ phụng tổ tiên)
In và tô màu xong thì đến khâu bồi cho dày và cứng. Bồi phải chờ ngày nắng, phơi hơi khô thôi, để khô quá thì bay màu. Bôi xong phải lăn tròn (tức xếp từ 30 đến 70 tờ rồi cuộn tròn lại), sau đó lại trở thẳng ra ép phẳng và đè nặng 2 ngày, tiếp theo găm kim ở hai góc của một bên để kéo thẳng ra xén. Dao xén có chuôi dài độ 0.40m và lưỡi dài 0.25m, mỗi lần xén từ 30 đến 40 tờ. Khi xén phải có thước bẹt dài độ 1.70m rộng 0.10m và dày 0.03m bằng gỗ kiền hoặc gỗ sao đè giữ cho chặt. Khi xén chỉ đưa dao một lần. Xén xong thì dán que ở hai đầu gọi là “tra trục thép”, có hai mép dọc thì chạy viền hai chỉ.
Liễn được treo trên tường hay treo tranh tứ quý. Riêng đại tự có thể treo riêng hoặc treo giữa hai liễn câu đối như bức hoành cầu phúc. Đấy là lối chơi đẹp.
Đồng Dương Xuân
Làng Dương Xuân ở ngay hữu ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố về phía Tây chừng 4 cây số, hầu hết dân làng làm nghề đúc đồng, nên từ lâu quen gọi là phường Đúc (hay phường Thợ Đúc). Một số gia phả và cả truyền miệng theo trí nhớ thì dân Dương Xuân có quê gốc ở Bắc Ninh và Thanh Hóa, tổ tiên họ vào đây từ thời đầu các chúa Nguyễn và tiếp tục trong đời nhà Nguyễn. Cũng có tài liệu nói thợ đúc đồng Đại Việt từ thời Trần đã theo công chúa Huyền Trân vào đây, nhưng chưa có gì để tin. Đồ đồng hiện còn ở Huế có nhiều hiện vật ghi niên đại vua Lê và mang theo nhiều họa tiết trang trí ngoài Bắc đương thời, chắc chắn là sản phẩm của những thợ thủ công từ Đàng Ngoài mới vào. Có thể tin ngay khi Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hòa mang theo một số dân Bắc, trong đó có thợ đúc đồng. Tiếp theo, trong khi đời sống dân ngoài Bắc khốn khổ, nhiều đợt di cư tìm cuộc sống ở phía Nam, có thể có cả những thợ đúc đồng đã vào đây. Đặc biệt khi Huế thành kinh đô, nhà Nguyễn trưng tập thợ khéo cả nước về đây làm những đồ cao cấp, chắc hẳn có cả thợ đúc đồng ngoài Bắc, khi hết hạn phục vụ họ ở lại Huế bổ sung cho phường Đúc. Bằng những nguồn trên, làng đồng Dương Xuân - phường Đúc ngày càng phát triển. Nhiều cơ sở suy diễn để tin những đồ đồng ở Huế là sản phẩm của phường Đúc. Chỉ kể những vật phẩm nghệ thuật lớn và có niên đại chắc chắn: Những chiếc vạc ở Đại Nội (1659-1684), khánh chùa Thiên Mụ (1677), chuông chùa Thiên Mụ (1710), cửu vị thần công (1803- 1804), cửu đỉnh (1835-1837), chuông chùa Diệu Đế (1846)... đủ thấy sự phát triển liên tục và cũng liên tục ở đỉnh cao cả về kỹ thuật và nghệ thuật của phường Đúc. Các chùa ở Huế có rất nhiều tượng Phật bằng đồng với
http://tieulun.hopto.org
niên đại tương đối thuộc đầu thế kỷ XX. Và gần hơn tượng chân dung đầu nhà chí sĩ Phan Bội Châu cao ngót 4m, rất thành công, đúc năm 1974. Tất cả đều nói lên tài khéo léo của thợ phường Đúc đúc những tác phẩm nghệ thuật khó và lớn cần có sự chỉ đạo của những người thợ cả - nghệ sĩ bậc thầy, sự phối hợp chặt chẽ của hàng chục người cùng làm và của hàng chục lò cùng nấu đồng.
Có những hiện vật lịch sử đặt ra nhiều nghi vấn về kỹ thuật, nhiều người nghiên cứu đã thử giải đáp nhưng đều đưa ra những lập luận còn sơ hở thì khi người thợ phường Đúc tham gia đã có lời đáp đáng tin hơn cả. Chẳng hạn các hình trang trí ở cửu đỉnh được đúc rời hàn gắn vào hay đúc liền với đỉnh? Từ sau công trình “Các phù điêu trên những chiếc đỉnh các đời vua ở Huế” của R. P. Barnouin (đăng trong “Tập san của Hội nghiên cứu Đông Dương” tập XLIX - 3, năm 1974), trên nhiều văn bản khác được công bố, các nhà nghiên cứu của ta cũng cho rằng nó được làm riêng rồi gắn vào sau. Chúng tôi nghi ngờ vì trong lòng đỉnh chắc chắn là mảng đúc liền, khi hàn tạo sao được nhiệt độ cho mảng hàn và cả đỉnh dính miết được vào nhau? Đành rằng mảng hình nhiều chỗ vòng ra rất rõ. Các thợ phường Đúc bằng kỹ thuật đúc cần thiết và có thể làm được cho lời đáp chỉ làm rồi gắn khi tạo khuôn ngoài, còn khi đổ đồng thì đúc liền khối với cả đỉnh.
Đồng Dương Xuân đã cống hiến cho vùng Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế những công trình nghệ thuật sống mãi với thời gian, ngày nay đang được tổ chức lại, vẫn làm ra những sản phẩm dân dụng, tham gia vào guồng máy công nghiệp và đúc hàng nghệ thuật nữa. Họ không ký tên trên tác phẩm, âm thầm, không sống với lịch sử bằng tên cá thể mà đăng ký với xã hội bằng tên cộng đồng mình: “Dương Xuân” mà nôm na là “phường Đúc”, sản phẩm của họ được thời gian kiểm nghiệm, hoàn hảo đến mức lý tưởng. Và đó là lương tâm sáng trong mọi xã hội.
Thêu Thuận Lộc
Khác với các hàng thủ công mỹ nghệ thường có một lịch sử lâu dài, làng nghề đã thành truyền thống, làng thêu Thuận Lộc vừa mới hình thành nhưng đã nhanh chóng dành được vị trí xứng đáng.
http://tieulun.hopto.org
Đất làng thêu Thuận Lộc trong thời Nguyễn còn là cánh rừng cấm để các vua đi săn giải trí. Sau Cách Mạng, cánh rừng xơ xác dần để rồi đến thời Mỹ - Ngụy khi họ lập vành đai trắng quanh Huế thì dân các làng trên vành đai bị dồn về đây lập thành làng mới. Dân làng mới Thuận Lộc này sống phức tạp và lệ thuộc vào đồng tiền Mỹ, nên sau ngày giải phóng thành bơ vơ. Thế là năm 1976, trường Võ Thị Sáu đã mở nghề thêu cho Thuận Lộc và sau đó phường Thuận Lộc lập hợp tác xã thêu, phân tán khung thêu vào các gia đình và do đó Thuận Lộc trở thành làng thêu. Mỗi nhà như một tổ thêu độc lập, vừa sản xuất vừa kèm nghề cho người mới. Người lành nghề đã hưởng lương sản phẩm lại được thêm thù lao dạy nghề, nên cùng một lúc cho xã hội cả sản phẩm hàng hóa cùng sản phẩm con người có nghề. Chỉ thời gian ngắn cả làng biết thêu, đến đâu cũng gặp các khung thêu. Cũng có lúc thiếu nguyên liệu không đủ việc làm cho xã viên, tổ hợp tác phải mở thêm các nghề để hỗ trợ cho nghề thêu, vừa làm hàng xuất khẩu vừa làm hàng tiêu dùng nội địa, về sau bên nghề thêu còn thêm các nghề dệt, len, mành trúc, chuỗi đót. Nhưng do đó hàng thêu lại càng có điều kiện phát triển để trở thành nổi trội, phụ thuộc vào mẫu, vải, chỉ, những người thợ thêu Thuận Lộc cặm cụi bên khung thêu, dùng con mắt lanh lợi và bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, dệt những sợi chỉ màu lên vải, hòa sắc tinh tế với sự nhạy cảm cái đẹp, tạo nên những chim thú, hoa lá, sông nước... hiện ra như bức tranh màu đẹp. Các đường ren ổn định như đã dồn hình vào vị trí thỏa đáng nhất, để rồi trong đó có các mảng màu phát huy tác dụng, cuốn hút mọi người. Hàng thêu chủ yếu là khăn trải giường, năm đầu từ vài trăm bộ đã dần lên hàng vạn bộ nên đòi hỏi có thêm mẫu mới và khi đã tha thiết với nghề thì mẫu nào họ cũng nhanh chóng làm chủ. Mỗi tấm thêu là một tác phẩm mỹ nghệ. Mỗi người Thuận Lộc qua bàn tay mình đã truyền trực tiếp cảm xúc của tâm hồn vào chỉ và vải, vẫn mẫu có sẵn mà sống động, từng hình cứ rung rinh như mang theo hơi thở cuộc đời, để người dùng nó thêm trân trọng sản phẩm và trân trọng cả dân tộc ta luôn.
Và chỉ dăm năm hoạt động, làng thêu Thuận Lộc đã được Nhà nước ta đánh giá xứng đáng bằng tấm Huân chương lao động hạng ba. Phần
http://tieulun.hopto.org
thưởng cao quý ấy càng làm những người thợ thêu Thuận Lộc vươn lên tầm cao mới, càng làm đẹp thêm cho đời và làm giàu thêm cho đất nước.
http://tieulun.hopto.org
Mùa chuyển
• Lê Văn Sâm
Huế thuở ban đầu còn nguyên vẹn trong trí tưởng tôi là như thế đấy. “Văn thánh trồng thông, Võ thánh trồng bàng ngó về Xã tắc hai hàng mù u”. Khi lá thông trải dày mặt đất, lá bàng chuyển gam màu vàng sang màu đỏ sậm, thân cây mù u sần sùi ứa mủ, trái rụng chen trong hàng lúa vãi bên ngoài cháy sém và tim xanh còn ủ mầm sống bên trong chờ cơn mưa đầu mùa. Gió thổi những vạt nắng nhạt nhòa bay qua hoàng thành, trên đồi gió miền quê ngoại Vạn Xuân, hay trên bờ thành bao quanh cung điện tím sẫm màu mây, tầng cao là những chú diều, thấp xuống một vài tầng là tơ trời bay lảng đảng, thỉnh thoảng dịu dàng sà xuống mặt cỏ, nơi từng đám bông tranh, bông cỏ may bay tứ tán. Chưa hết, dòng sông Hương trong xanh cá lội thấy vi, bắt đầu cau mặt đục. Sông An Cựu vẫn còn nắng đục vì chưa có mưa trong, nhưng sông Bến Ngự thì đã trôi một dòng huyết phượng, phượng đỏ cuối mùa thảm xuống mặt đường khắp thành phố và trên cả những mặt sông, nhưng mặt nước phía Vỹ Dạ, Bạch Yến thì lại hiu hắt hoa bắp bay. Miệt vườn Kim Long đổ xuống vườn cùng lề đường Thành Nội, nhãn lồng sau mùa gặt hái đã chĩa chuỗm lên trời, chiều xuống vàng vọt, trông cứ như những ngón tay vẫy lên trời, đón chào những vòng cung chim biển Thuận An bay về bóng núi. Mặt hồ sen đây đó đều đã úa tàn, mùa đang chuyển rất rõ và đó là mùa Thu.
Trong thời tiết lập phân bốn mùa ở Huế ban đầu, mùa Xuân và xuân trong mùa Hạ có chung một nét riêng, mùa Đông thì co ro rét mướt, còn Thu là một thứ tổng hợp nhào nắn chuyển động về cả mấy mùa trên. Tiết Thu đem đến cho đời bao ấn tượng, rung động, nên đã có nhiều người khóc “Giọt mưa thu, Buồn tàn thu”. Thu thường buồn và bi lụy, riêng bọn trẻ chúng tôi thì lại rất yêu mê mùa Thu, mùa chuyển động, ôi biết bao mùi vị và ước hẹn trong Thu, từ bảng lảng tiếng sấm bên trời, tóc xanh lộng gió, đến xênh xang áo mới tựu trường. Mùa Thu thuở quê hương còn thanh bình trong nô lệ, Huế thuở ban đầu Thu không hề ru ngủ mà Thu luôn đánh thức vì sức chuyển động lan tỏa vào tất cả.
Không mê đắm sao được, khi trong mùa chuyển, nói về hương vị trong ăn uống, khi gạo đậu mè đã vào bồ, đụn rơm đã lên ngọn, đứng song song với những dàn chòi cất rớ, chờ nhập cuộc với Đông giá, thì cá hồ sen đã
http://tieulun.hopto.org
béo múp, thơm của mít ổi chín, thanh trà, bưởi nám vàng, nghĩa là những nông sản, đặc sản của một đồng bằng được nuôi dưỡng bằng núi cùng sông và cả biển, đợi thu là mùa gặt hái và thưởng ngoạn. Trái cây nhiệt đới, hoa và xanh trong xuân, chín vào Hạ và chỉ mọng khi vào Thu.
Khi lên núi Ngự Bình hay đồi Vọng Cảnh, chiều về hay tiếng dông từ núi thoát ra, lòng ta sẽ lâng lâng bồi hồi buồn vui lẫn lộn. Đêm trăng Thu nghe rộn tiếng trống lân hay tiếng vang ca tuổi thơ dậy sau mấy lũy tre nhấp nhô bóng trăng vàng. Với Huế xưa, vào Thu có thú vào thâm sơn dự hội lễ báo ân Vu Lan Bồn, tương bần nơi cửa tam quan đã chín rục, chan với cơm gạo mới thơm ngát trong trầm hương. Mặt sông Hương trước khi nhường lại cho các cơn lũ dữ cuồn cuộn từ Tuần đổ về, vào mùa chuyển có những đêm ngập tràn ánh đèn phóng sinh, hay nhiều ghe gỗ kết thành “bằng” ngược dòng Hương lên điện Hòn Chén, mang giọng hát chầu văn cao vút.
Nếu Thu Hà Nội có món cốm Vòng không thể tìm thấy nơi các mùa khác, thì Thu Huế, theo tôi có món độc đáo là củ sen già được nén hạt đậu xanh vào các ống ruột, hầm với cá trê vàng mát bổ, hương hoa đó không thể tìm thấy nơi mùa khác.
Nhưng với thế hệ chúng tôi, mùa chuyển lớn nhất và nhiều âm vang hình ảnh kỷ niệm nồng nàn đáng nhớ nhất là mùa Thu năm 1945. Sau lũy tre làng khi đêm đen nô lệ vẫn còn phong tỏa, thì mùa đã chuyển, chưa được biết rõ ràng chính xác cho lắm, nhưng gió lạ đã về, từ hướng Bao Vinh, Tam Giang rồi Kim Long, Vỹ Dạ, Thuận An, thì thầm về những điều gì đó như một tin vui lớn sắp đổi thay đất nước, làng xóm. Lớp bình dân học vụ do tôi phụ trách trong điểm gác cửa Nhà Đồ, bỗng nhiên được nghỉ sớm để ra sắp hàng tập đi một hai. Tối hôm sau, dưới bóng tối rồn tre, tôi thấy học trò lớn tuổi của tôi, các cô các bác chân lấm tay bùn lại biết dùng bẹ mo cau mà làm giày ủng nhà binh, lại có cả mác-lào và giây dừa cuộn thắt. Bọn chúng tôi do khéo tay được phân công mài củ nghệ mà vẽ sao vàng trên giấy tập vở, dán trên mấy tấm vải điều Bát Quái gỡ từ rầm thượng xuống làm cờ. Những hàng ông lệnh trên Hoàng thành để nổ hầu vua, nay đã được trai tráng trở họng sang phía lầu Morin để khai hỏa. Tiếng chân người rầm rập, đuốc rơm sáng sông, Cách mạng mùa Thu tháng Tám đã về với quê tôi như vậy. Mùa chuyển không chỉ chuyển thời tiết, canh tác và sinh hoạt, mà đã chuyển cả một vận mệnh đất nước, đến nay tưởng cũng đã mấy mươi Thu, mà mùa chuyển năm đó vẫn còn hồng ánh đuốc, trong tâm tưởng...
http://tieulun.hopto.org
Gương nước hồ Truôi
• Dương Trần
Giữa vùng trời đất mênh mang, trù phú, nhiều làng mạc trải rộng hai bên bờ sông lớn nhất phía Nam Thừa Thiên - Huế nổi lên hồ nước kỳ thú “treo” trên núi với mây trời in bóng nước lung linh như dát vàng, dát bạc. Thu về, hãy một lần đặt chân đến hồ Truôi để thỏa sức chiêm ngắm khung cảnh hữu tình, thơ mộng và tận hưởng bầu không khí thiên nhiên trong lành.
Trong số những cái tên như núi Truôi, sông Truôi, làng Truôi, dâu Truôi, bánh lọc Truôi và hồ Truôi... hợp nên xứ “Truôi” nổi tiếng của huyện Phú Lộc thì hồ Truôi là địa danh xuất hiện muộn hơn cả. Đây là công trinh thủy lợi lớn nhất ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, được xây dựng vào năm 1996, có đập tràn cao đến 50m. Dung tích lòng hồ chứa 60 triệu mét khối nước, làm nguồn nước tưới cho các xã đồng bằng của huyện Phú Lộc và Hương Thủy. Quang cảnh nơi đây hùng vĩ, hoang sơ, núi ôm núi trập trùng nối dài từ dãy Bạch Mã. Phía đầu nguồn hồ Truôi là một ngọn núi cao mang hình chiếc ấn đóng xuống mặt đất, lại vừa giống như một kim tự tháp khổng lồ với phần đế tháp rộng hàng chục vạn thước đất.
Khung cảnh kỳ thú của hồ Truôi là hấp lực lôi cuốn nhiều du khách đến khám phá, ngoạn du. Đến bến đò ở gần chân đập tràn, du khách có thể chọn cho mình bất cứ chiếc đò nào vừa với số người trong đoàn. Mỗi chiếc đò thường chở 15 - 20 người, do những người địa phương cầm lái. Đôi khi những người lái đò nhận lời kiêm thêm việc của “hướng dẫn viên du lịch” cho khách.
Có tất cả bốn con suối đổ vào hồ Truôi là suối Hợp Hai, Vũng Thông, Ông Viên và Ba Trại, mỗi suối đều có những vẻ đẹp khác nhau. Quanh hồ, núi non trùng điệp kéo dài từ dãy Bạch Mã, ôm trọn lòng hồ rộng lớn. Nước hồ trong xanh và mát dịu tạo cảm giác dễ chịu. Khi đò rời bến khoảng 30 phút, du khách bắt đầu nghe tiếng suối chảy róc rách. Chuyến du ngoạn diễn ra trên mặt hồ rộng lớn, xuyên qua bóng mát cả dãy núi trùng điệp rợp cây xanh bao quanh, ngọn mờ ngọn tỏ soi mình xuống nước.
Sau những giây phút lênh đênh trên sông nước mênh mông, bạn sẽ được ru bởi bản hòa tấu thiên nhiên hợp nên từ tiếng suối róc rách, tiếng chim rừng vang vọng. Rẽ ngang sang khu rừng nguyên sinh hoang vắng tại chân núi Thanh Long, du khách tiếp tục tiến về bãi đá phẳng lì của dòng suối nhỏ, nơi thích hợp sinh hoạt dã ngoại. Tại đây, bạn cũng có thể tắm suối, đi bộ theo các bãi đá để khám phá những nét đẹp của thiên nhiên hoang sơ. Và đừng quên đắm mình trong dòng suối trong xanh, mát lạnh.
http://tieulun.hopto.org
Chuyến đi sẽ thú vị hơn nếu bạn chuẩn bị sẵn một ít thức ăn để ở lại qua buổi trưa. Để gia tăng hương vị núi rừng, bạn có thể bắt cá tại ngay con suối này. Ở đây, chủ yếu là các loại cá xanh, cá hồng, cá vượt, cá đối... Cá tươi rói vừa bắt từ suối lên, lớn thì cỡ hai ngón tay, nhỏ thì cỡ ngón út, con nào con nấy đều săn chắc, nướng lên trong lửa than hồng ngọt, lại thưởng thức giữa khung cảnh thiên nhiên hoang dã, thử hỏi thú nào sánh bằng!
Nhưng xứ Truôi không chỉ có hồ Truôi. Trên đường trở lại bến đò, du khách có thể tạt vào viếng thăm Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã tọa lạc ngay dưới chân ngọn núi Linh Sơn để lắng lòng trong cảnh thanh tịnh chốn thiền môn. Đây là một tuyệt phẩm kiến trúc hội tụ phong thủy tuyệt vời giữa núi và hồ. Thuộc dòng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử khởi nguyên từ đời Trần, Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã khởi công xây dựng vào cuối tháng 3 năm 2006. Các công trình như chánh điện, phương trượng, tăng đường, thiền đường, trai đường, lầu chuông, tháp xá lợi, tổ đường... nằm trên sườn đồi giữa hồ Truôi thơ mộng với tổng diện tích 1,9 ha.
Bước chân lên 172 bậc tam cấp, đứng trước tam quan thiền viện, bạn sẽ quan sát một cách đầy đủ về hồ Truôi và khung cảnh kỳ vỹ bao quanh nó. Ngược lại, từ bên này hồ Truôi nhìn sang là toàn cảnh thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã đẹp như một bức tranh thủy mặc,
Thông tin thêm:
- Hồ Truôi thuộc xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Từ thành phố Huế đi gần 30km về phía Nam theo quốc lộ 1A, rồi theo con đường làng râm mát cây xanh, đi thêm 10km nữa, du khách sẽ đến hồ nhân tạo đẹp nổi tiếng này.
- Chỉ mất 200.000đồng/chuyến cho chiếc thuyền chở khoảng 15-20 người, bạn sẽ được lái thuyền phục vụ suốt cả chuyến tham quan quanh hồ.
- Truôi có loại trái cây đặc sản nức tiếng trong Nam ngoài Bắc là dâu Truôi - hương vị ngọt ngào, thơm ngon, mát lạnh. Nếu đã đến đây, bạn nên ghé nhà vườn địa phương hỏi mua về làm quà.
http://tieulun.hopto.org
Lấy chồng xứ Huế
• Thùy An
Quen Khanh đã ba năm , tôi không hề biết anh là người Huế. Anh nói tiếng Nam ngọt xớt. Những danh từ rặt Nam bộ như “hưỡn”, “xí xọn”... anh đều hiểu rõ và đôi khi còn áp dụng vào những câu chuyện khôi hài rất có duyên. Cho đến khi tình cảm hai đứa chín muồi, Khanh ngỏ ý:
- Ba mẹ anh muốn biết mặt em.
Tôi theo Khanh về nhà trong tâm trạng vô cùng hồi hộp. Dù đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi vẫn cảm thấy bối rối, chân tay thừa thãi trước tia nhìn vừa dịu dàng vừa soi mói của mẹ Khanh. Đó là người phụ nữ ngoài năm mươi, gương mặt tròn trịa, nước da trắng mịn phảng phất vài nếp nhăn nơi đuôi mắt. Tóc bà nhuộm màu nâu đen, được bới cao, cài trâm đồi mồi trông rất quý phái. Bà trang điểm nhẹ nhàng, một chút phấn hồng và môi son màu nhạt.
- Thưa mẹ, đây là Kiều Tiên, bạn gái của con.
Nụ cười của bà thật tươi:
- Kiều Tiên à? Cái tên dễ thương hí. Ngồi chơi đi cháu. Chờ bác một chút.
Bà đứng dậy, đi vào trong, để lại tôi ngơ ngác sau khi nghe một loạt âm thanh líu lo như chim hót. Khanh nheo mắt:
- Sao? Không hiểu à? Anh đã nói rồi. Gia đình anh người Huế, vậy mà không tin. Em có phải là chắt nội của Tào Tháo không đó.
Mẹ Khanh ra, trên tay bưng một cái đĩa bầu dục tráng men xanh. Bà đến gần tôi, đặt đĩa lên bàn:
- Ăn đông sương với bác cho vui.
Đông sương? Không phải. Đó là những miếng thạch, dày khoảng hai phân, được cắt thành từng miếng hình thoi bằng ba ngón tay. Rải rác giữa những lớp thạch trong suốt là những khối vuông nhỏ màu trắng, đen, nâu, cam và xanh lá cây.
Mẹ Khanh nhìn tôi chăm chú. Hình như bà đang nghĩ, con nhỏ này câm chắc? Và tôi cũng nghĩ, Kiều Tiên, hãy nói một câu gì đi.
- Cháu cám ơn. Ồ, thạch của bác làm đẹp quá.
Mẹ Khanh vui vẻ:
- Người Huế gọi thạch là đông sương, cháu à. Cháu ăn đi, đừng sợ, bác http://tieulun.hopto.org
không dùng màu thực phẩm mô - rồi bà lấy tăm ghim miếng thạch lên săm soi - cháu coi màu nì, màu trắng là sữa, nâu là cà phê sữa, lục là nước lá dứa, còn màu gạch là nước cà rốt.
“Màu gạch” là “màu cam”! Tôi lại học được một từ đặc trưng của Huế. Miếng thạch tan trên đầu lưỡi, thấm vào lòng tôi những cảm giác dịu êm.
Cổng nhà Khanh bỗng mở toang. Một người đàn ông trung niên, giống Khanh như tạc phóng xe máy vào. Ông dừng trước thềm, tôi cười nhìn mẹ Khanh rồi chỉ tay vào giỏ xe: một chậu hoa dâm bụt vừa nở hai nụ hàm tiếu màu vàng. Mẹ Khanh đến gần, ngắm nghía:
- Mình mới mua hả? Ôi, bông cẩn vàng đẹp thiệt đó.
Tôi tròn mắt. Khanh ghé vào tai tôi:
- Người Huế gọi “hoa dâm bụt” là “bông cẩn”.
Ba Khanh bước vào phòng khách. Mẹ Khanh theo sau bảo Khanh: - Con bưng chậu hoa xuống rồi đi cất xe cho ba.
Tôi đứng dậy, vòng tay:
- Cháu chào bác ạ.
- Cháu là bạn gái của Khanh phải không? Bác gái nói cho bác biết rồi.
Ba Khanh ngồi đối diện tôi, hỏi han ân cần. Giọng ông ấm áp, tuy âm sắc hơi nặng, có nhiều từ tôi không hiểu rõ, chỉ lờ mờ đoán ra, nhưng ánh mắt ấy, cử chỉ ấy đã nói lên một tình cảm chân thành.
Tôi nhận lời cầu hôn của Khanh, mặc cho những lời bàn ra tán vào của đám bạn. Thật ra cũng vì thương tôi, nên chúng nó mới đề cao cảnh giác nhiệt tình như thế, nào là: “công dung ngôn hạnh mày có được bao nhiêu mà dám uống thuốc liều hở?”. “Làm dâu người Huế khó lắm, mày chịu được sao?”. “Chúng tao khuyên mày nên đi học vài khóa nấu ăn, làm bánh mới đủ sức đối phó...”
Tôi bịt hai tai, hét:
- Chúng mày có im hết đi không. Tình yêu của Khanh đã cho ta đủ mười thành công lực rồi.
Nói thì oai lắm, nhưng lòng tôi vẫn hơi run khi nghe ba Khanh bảo:
- Đám cưới xong, Khanh nên đưa Kiều Tiên về Huế thăm Mệ và mấy O. Xa xôi quá, không ai vào chung vui cùng hai con được. Ba nghĩ là họ rất mong thấy mặt con dâu của ba.
Tôi lại càng run. Cái gì “Mệ”? Cái gì “O”?
Khanh lại “phụ đề Việt ngữ”:
http://tieulun.hopto.org
- Mệ là... bà nội của anh đó. Còn O là hai người em gái của ba. - Như vậy “O” có nghĩa là “cô”, phải không anh.
- Đúng. Cho em mười điểm. Còn “Mệ”?
- Mệ là... bà nội chứ gì.
- Mệ là bà thôi. Mệ nội, Mệ ngoại là bà nội, bà ngoại.
- Sao hồi nãy anh nói Mệ là bà nội? Tiền hậu bất nhất, cho anh zero điểm là vừa.
- OK, anh chịu thua em 1 - 0 đó. Bây giờ nghe anh đố tiếp nè. - Thôi, bộ anh muốn em loạn thần kinh hả.
Khanh dỗ dành:
- Nếu anh không chịu truyền thêm nội công cho em thì làm sao ứng phó với bà con nội ngoại của anh ngoài Huế chứ.
Có lý. Mặc dù tôi chưa quen nghe giọng Huế, nhưng nếu tôi hiểu được những từ người Huế thường dùng, thì sự đồng cảm của tôi và “giang sơn nhà chồng” sẽ dễ dàng hơn. Tôi lấy tờ giấy và cây bút:
- Được rồi. Anh nói di. Em sẽ ghi và học thuộc lòng.
Khanh phấn chấn ra mặt:
- Em ngoan quá - rồi tằng hắng - anh bắt đầu nè. Người Huế, từ “mô” là “đâu”, ví dụ “anh đi mô?” có nghĩa là “anh đi đâu?”, “bên ni” là “bên này”, “bên nớ” là “bên kia”, “răng” là “sao”, “rứa” là “thế, vậy”...Ví dụ: - “tại răng rứa?” có nghĩa là “tại sao thế?”, “kiệt” là “hẻm”, “tra” là “già”, “ăn kỵ” là “ăn giỗ”...
Đầu óc tôi lùng bùng, tay chân tôi quờ quạng. Khanh đặt câu hỏi: - Đố em “ôn” là gì?
Tôi xếp giấy lại, thở phào:
- Anh hết vốn rồi hả? Đố như anh con nít cũng biết. Ôn là ôn tập chớ gì... Khanh kí vào đầu tôi:
- Cho em xuống học lớp Lá là vừa. “Ôn” là “ông”. Gặp các ông già, người ta thường “thưa Ôn”, cũng như đối với các bà lão, người ta thường thưa “Mệ”.
Khanh tiếp tục đưa tôi vào mê hồn trận:
- À, anh nhắc em điều này, nếu thấy một người đàn ông được gọi là “Mệ” thì em cũng đừng ngạc nhiên, vì đó là người trong hoàng tộc...
http://tieulun.hopto.org
Tôi hét lên:
- Cái gì? Ôi, em bị tẩu hỏa nhập ma rồi.
“Giang sơn nhà chồng” của tôi tọa lạc giữa một khoảng vườn xanh tốt trong Thành Nội, gồm ba căn nhà trệt lợp ngói rộng rãi, ngăn cách nhau bởi các dãy hàng rào bằng cây thấp, lá nhỏ, quấn quýt những sợi dây leo màu vàng. Khanh nói:
- Bà nội anh rất thích chăm sóc vườn tược. Hàng rào chè tàu này còn già hơn tuổi của anh nữa đó, còn kia là những dây tơ hồng. Em thấy đẹp không? Ngày trước, nhà anh chỉ có một căn thôi, sau này hai O lập gia đình, bà nội mới xây thêm hai căn nhà nữa, của hồi môn ấy mà
Có tiếng reo:
- Khanh, cháu Khanh đó phải không?
Một phụ nữ khoảng trên dưới năm mươi, mặc quần tây nâu, áo hoa sặc sỡ, từ căn nhà bên phải chạy ra. Tóc bà uốn cao, nước da trắng, miệng cười có má lúm đồng tiền.
- Đây là O Hương của anh.
- Cháu chào... O ạ!
O Hương tiến đến gần, vuốt má tôi:
- Vợ thằng Khanh đây hả. Chà, hai đứa xứng đôi lắm đó nghen - rồi bà kéo tay tôi và Khanh về phía căn nhà giữa - Mạ ơi, vợ chồng Khanh về tới rồi nì.
Khanh nhìn sang căn nhà bên trái cửa khóa ngoài. O Hương nói: - O dượng Hòa về làng ăn kỵ rồi. Chắc là mai mới lên.
Nãy giờ tôi cố ý lắng nghe. Eureka, tôi đã nhớ. “Ăn kỵ” là “ăn giỗ”, còn “mạ”? Chắc là “mẹ” rồi. Xem ra, tiếng Huế đâu có khó gì. Khỏi cần Khanh làm thông dịch.
Bà nội của Khanh rất đẹp lão. Mái tóc bà bạc phơ, gương mặt hồng hào, phúc hậu. Bà đang ngồi trên chiếc ghế mây cạnh ngưỡng cửa, miệng cười móm mém, âu yếm nhìn Khanh đi bên tôi.
- Chúng cháu chào mệ.
Bà không nói gì, nhưng ánh mắt sáng lên, lấp lánh. Khanh quỳ xuống bên bà:
- Mệ khỏe không mệ?
Bà gật đầu rồi đưa tay níu lấy vai Khanh:
- Đỡ mệ vô nhà.
http://tieulun.hopto.org
Bà nhỏ bé trong vòng tay Khanh, bước chân bà khập khiễng. Khanh lo lắng:
- Mệ, mệ bị sao vậy?
O Hương đỡ lời:
- Hôm qua mệ ra vườn tưới cây, mệ bị bổ...
- Im đi, tau đỡ rồi - bà nhìn O Hương từ đầu đến chân - mi bận cái áo chi mà lòe loẹt rứa? Tra rồi, gần làm mụ gia rồi, còn bày đặt diện.
Tôi nói nhỏ với Khanh:
- Em hiểu ra từ “tra” rồi, nhưng “bổ” là gì? Còn “mụ gia”?
- “Bổ” là “té”, còn “mụ gia” là “mẹ vợ hoặc mẹ chồng” đó. Xứ Huế anh có câu:
Thương chồng mà khóc mụ gia
Chớ tui với mụ chẳng bà con chi
Tôi che miệng cười. Bà nội Khanh đến ngồi trên sập gụ, vẫy Khanh và tôi lại gần. Bà vuốt tóc tôi:
- Mệ có coi bóng đám cưới, trông cháu đẹp hơn trong bóng nhiều. Biết hai cháu sắp ra thăm mệ, đêm mô mệ cũng nằm chộ.
Khanh thông dịch ngay:
- “Bóng” là “hình”...
Tôi ngắt lời:
- Còn “nằm chộ” là “nằm mơ” đúng không?
- Very good. Em thông minh thật đó.
Bà nội Khanh có vẻ thích tôi. Bà kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện, từ chuyện làng xóm, đến chuyện những người trong họ tộc, chuyện gia đình Khanh... giọng bà nhẹ nhàng, thân ái. Vì đã ôn tập trước, nên những từ rất Huế như “răng, mô, tê, rứa...” tôi hiểu dễ dàng và càng lúc, tôi càng thấy gần gũi bà, thương yêu bà hơn.
- Cháu biết không? Chồng của cháu rất thích ăn chè thịt quay.
Chè thịt quay là gì? Tôi nhìn quanh tìm Khanh. Nhưng thôi, khỏi cần thắc mắc, chẳng qua cũng chỉ là một món chè bình thường, cứ ăn vào là biết ngay thôi mà. Bà gọi:
- Hương ơi, lấy cái cà mèn đi mua chè thịt quay cho các cháu ăn đi con. O Hương bảo Khanh:
http://tieulun.hopto.org
- Cháu qua nhà dắt giùm chiếc xe ra cho O.
- Để cháu chở O đi.
Khanh đến bên tôi:
- Em ở nhà với mệ được không?
Tôi vênh mặt:
- Anh khỏi lo. Mệ nói gì em cũng hiểu hết.
***
Tôi đi thơ thẩn trong vườn. Nắng chiều dìu dịu, gió chiều êm ái. Lòng tôi rộn vui theo tiếng chim hót chuyền cành. Hình như bà nội gọi:
- Vợ thằng Khanh mô rồi?
Tôi hấp tấp chạy vào:
- Mệ sai gì cháu ạ?
- Cháu ra ngoài “cươi” lấy cái “chủi”, “xuốt” dùm mệ cái “dà”. (ra ngoài sân lấy cái chổi quét dùm bà cái nhà).
- !!!
Lần này thì tôi thua thật rồi. Khanh ơi, mau về cứu em.
http://tieulun.hopto.org
Món ăn Huế
• Phương Anh
Trên cả nước, có lẽ chỉ có ở Huế, các món ăn mới đạt độ phong phú đến khó nhớ hết. Là mảnh đất được khai phá muộn, các chùa Nguyễn đã tập hợp dân từ nhiều miền. Rồi khi Huế trở thành kinh đô, lại thu hút thêm tinh hoa của cả nước. Và hệ quả là Huế đã hội tụ những món ăn nhiều nơi, tạo ra một “thực đơn” chỉ Huế mới có. Thiên nhiên lại cho Huế những sản vật hỗn hợp của núi rừng, của gò đồi, của đồng bằng, của biển cả... được cung cấp tại chỗ để các bà nội trợ luôn có đồ tươi sống chế biến.
Ở Huế, món ăn dân dã nhất cũng là một thứ văn hóa. Đã ở Huế, ấn tượng khó quên là cơm hến, hay đúng ra là cơm hến Cồn. Cồn đất giữa sông Hương phía dưới chợ Đông Ba đặc biệt sản sinh nhiều hến, tạo thành tên đất: “Cồn Hến”. Hến xúc dưới sông lên, luộc để cái riêng và nước riêng là hai món chính, thêm các phụ gia rau sống, bắp chuối, lạc (đậu phộng) và vừng (mè) rang giã nhỏ, mắm pha dấm, tỏi, chanh, ớt ăn với cơm trắng để nguội. Thật bình dân, pha chế đơn giản, tài là biết hỗn hợp đủ vị ngọt - bùi - chát - chua - cay - hăng sẵn có tại chỗ, như lưu ảnh của nền kinh tế lượm bắt ven sông suối. Đồng hành với nó là lưu ảnh của nền kinh tế hái lượm ở bìa rừng qua món canh rau tập tàng (mà thi vị thì là canh rau thập toàn) gồm nhiều loại rau còn nặng vẻ hoang dại như quả mướp, hoa bí ngô, lá mùng tơi, lá lốt, lá bông ngót, ngọn sần, đọt bát bát, măng vòi, củ hành, thêm vài con tôm và một chút thịt, nấu hỗn hợp pha thêm mắm, ruốc, muối, tiêu... cho một hương vị rau ngàn cỏ nội là cái nôi của Huế. Và tổng hợp hương vị của địa hình Huế đa dạng là món muối sả: đoạn gốc sả lột bỏ vài lớp áo ngoài, được thái lát mỏng, băm hoặc giã nhỏ rồi rang cho vàng đều, dùng để nêm vào thịt bò và tôm lột vỏ đều cùng băm nhỏ, xào với các gia vị muối tiêu, tỏi, đường, mỡ, ruốc các thứ đặc biệt hợp với bữa cơm mùa đông. Một món rất Việt Nam mà cũng rất Huế là rau muống luộc: Đoạn đọt rau non luộc với nước sôi pha tí muối, chín mềm vớt ra cho ráo, chấm với mắm nêm pha chanh, ớt, tỏi. Mắm nêm do gia đình tự chế bằng cá cơm trộn với muối, ủ trong lẩu bịt lá chuối khô, nửa tháng thì ngấu.
Bữa cơm Huế rất thịnh hành món rau sống tổng hợp nhiều loại rau xanh như xà lách, cải con, rau muống trộn với bắp chuối, chuối xanh, khế vả và các loại rau thơm gồm bạc hà, răm, ngò, diếp cá... ăn với canh cá nấu dứa (thơm) hoặc thịt lợn (heo) chấm mắm có pha ớt, tỏi, chanh... tổng hợp nhiều chất và hương vị khác nhau, dễ ăn, bổ và tiêu hóa nhanh.
Gần với rau xanh là món nộm thấu trộn gồm đu đủ xanh nạo thành sợi trộn với giá sống, vừng rang, tôm, da bò rán và thịt lợn ba chỉ thái nhỏ, pha thêm dấm, ớt, tỏi, đường và ít mắm... tạo ra một phong vị riêng của
http://tieulun.hopto.org
món nộm Huế.
Trong món ăn Huế, gia vị tổng hợp rất quan trọng, không bề bộn thịt cá mà nghiêng về các loại rau và khai thác đạm thực vật ở vừng, lạc. Chất đạm động vật không nhiều, song được chế biến nhiều cách công phu. Từ sản phẩm của sông, biển được chế biến thành nhiều loại mắm cá, mắm tôm, mắm sò, mắm mực có phong vị khác nhau để chấm những thức ăn thích hợp. Ngoài mắm, nước chấm còn có nhiều loại như tương, nước cá kho, nước tôm kho đánh, nước tôm xào, nước sốt... tương ứng với các thức ăn cụ thể.
Cạnh sông, gần biển nên Huế cũng hay ăn cá, tôm được chế biến dưới nhiều dạng như cá kho ăn nhiều ngày, kho ăn ngay, kho khô, kho nước, kho nhừ rục, rim và tôm kho, chiên, rim hay làm chả, làm chạo. Thịt ngoài luộc, xào, kho, còn ninh, quay, hầm, thui, băm viên, bỏ lò... Cho đến cơm tẻ cũng có cơm gạo lức, cơm gạo trắng nấu với lá dứa.
Cùng với bữa cơm gia đình, Huế có nhiều món ăn đặc sản như bánh khoái Đông Ba, bánh bèo Ngự Bình, bánh canh Nam Phổ, nem An Cựu, bún bò Gia Hội, bún chợ Tuần...
Bên cạnh các món ăn mặn, ăn ngọt nổi tiếng là chè được nấu theo nhiều http://tieulun.hopto.org
cách có tới 36 loại, tiêu biểu là chè hột sen long nhãn, chè bột lọc thịt quay, chè đậu ngự, chè đậu ván, chè kê, chè kê lộn đậu...
Các món ăn Huế được bày trên mâm cơm rất khéo, các màu sắc xanh, đỏ, hồng, vàng, ghi... xếp cạnh nhau như bông hoa. Từng thứ cũng được thái có ý thức: lát chuối xanh tròn, miếng và trăng khuyết, lát khế ngôi sao, quả ớt đỏ chẻ thành hoa... tất cả đều kích thích con mắt nữa.
Ăn cơm xong, hoa quả tráng miệng cũng có nhiều loại, gần như đủ thứ quả cả nước, nhiều thứ thành đặc sản như dừa Mỹ Á, chuối Mỹ Lợi, quýt Hương Cần, thanh trà Tuần, dâu Truồi... Nước uống nổi tiếng có chè Truồi và chè Tuần, lá chè còn được chế biến thành thứ ướp hoa sen, hoa nhài, hoa ngâu, hoa sói, hoa cúc và cầu kỳ hơn là hoa thủy tiên đã thơm ngon lại thoang thoảng hương hoa thanh nhã.
Hàng trăm món ăn Huế, thật khó kể hết. Chỉ điểm mấy món ăn còn gặp thường ngày trong đời sống bình dân cũng đã đủ thấy một phong vị Huế với tài nội trợ xuất sắc của các bà các chị nơi đây
http://tieulun.hopto.org
Nét dịu dàng Cố đô Huế pha lẫn trầm tư
Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền hòa của miền Trung, Huế là một di sản văn hóa vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy, một miền văn hóa độc đáo của Việt Nam và thế giới. Năm 1993, Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Cho đến hôm nay, với một công cuộc bảo tồn lớn lao theo những tiêu chuẩn cao nhất của Di sản thế giới, Huế đã, đang, và sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kỳ quan hàng ngàn năm của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO.
Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước cũng như quốc tế, chủ yếu là nhờ Huế còn bảo lưu được một di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) bề thế và có cội nguồn từ truyền thống văn hóa dân tộc.
Trong gần 400 năm (1558-1945), Huế đã từng là thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong (bắt đầu từ lộ Thuận Hóa), được thiết lập dưới thời Vương triều Trần (1366). Là kinh đô của triều đại Tây sơn, rồi đến kinh quốc của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn.
Suốt mấy thế kỷ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây hun đúc cho một nền văn hóa đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức cảnh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỷ XIV (khi Vua Chăm là Chế Mân dâng hai châu Ô, Rí cho nhà Trần để làm lễ sính cưới công chúa Huyền Trân), các chúa Nguyễn (thế kỷ XVI XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỷ XVIII) và 13 đời vua Nguyễn (1802- 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hóa vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích của Cố đô Huế với hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền Nhà Nguyễn vẫn sừng sững trước bao biến động của lịch sử và thách thức của thời gian.
Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây, được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh
http://tieulun.hopto.org
thành Huế - đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh... Nhìn từ phía ngược lại, những công trình kiến trúc ở đây như hòa lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó.
Dọc theo bờ sông Hương thơ mộng là những công trình kiến trúc quan trọng nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ảnh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang yên nghỉ: lăng Gia Long mộc mạc nhưng hoành tráng giữa núi rừng trùng điệp khiến người xem cảm nhận được hùng khí của một chiến tướng từng trải trăm trận; lăng Minh Mạng uy nghi bình chỉnh đăng đối giữa núi rừng hồ ao, được tôn tạo khéo léo, hẳn có thể thấy được hùng tâm đại chí của một chính trị gia có tài và tính cách trang nghiêm của một nhà thơ quy củ; lăng Thiệu Trị thâm nghiêm, vừa thâm trầm giữa chốn đồng không quạnh quẽ, cũng phần nào thể hiện tâm sự của một nhà thơ siêu việt trên văn đàn song không nối được chí tiền nhân trong chính sự; lăng Tự Đức thơ mộng trữ tình được tạo nên chủ yếu bằng sự tinh tế của con người, phong cảnh nơi đây gợi cho du khách hình ảnh của một tao nhân mang nặng nỗi niềm trắc ẩn bởi tâm huyết của một nhà vua không thực hiện được qua tính cách yếu ớt của một nhà thơ...
Bên cạnh thành quách, cung điện, lăng tẩm nguy nga tráng lệ, Huế còn lưu giữ trong lòng bao nhiêu công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với thể chế của Hoàng quyền mà cách phối trí của các khoảng không gian đã tiến đến đỉnh cao của sự hài hòa trong bố cục. Song song với Kinh thành vững chãi bảo vệ bốn mặt, Trấn Bình Thành án ngữ đường sông, Trấn Hải Thành trấn giữ mặt biển, Hải Vân Quan phòng ngự đường bộ phía Nam, cả một hệ thống thành lũy của Kinh đô song không mấy ai để ý đến tính quân sự của nó vì nghệ thuật kiến trúc đạt đến đỉnh cao. Đan xen giữa các khu vực kiến trúc cảnh vật hóa độc đáo ấy, chúng ta còn có đàn Nam Giao - nơi vua tế trời; đền Xã Tắc - nơi thờ thần đất, thần lúa; Hổ Quyền - đấu trường duy nhất dành cho voi và hổ; Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và dựng bia khắc tên Tiến sĩ văn thời Nguyễn; Võ Miếu - nơi thờ các danh tướng cổ đại và dựng bia khắc tên tiến sĩ võ; điện Hòn Chén - nơi thờ Thánh mẫu Thiên Y A Na, lầu Nam Đài để xem thiên văn... và còn qua nhiều những thắng tích liên quan đến triều Nguyễn hòa điệu trong các thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, Vọng Cảnh, Thiên Thai, Thiên An, Cửa Thuận... thực sự là những bức tranh non nước tuyệt mỹ.
Huế từng hiện hữu những khu vườn ngự danh tiếng như Ngự Viên, Thư Quang, Thường Mẩu, Trường Ninh, Thiệu Phương... Chính phong cách
http://tieulun.hopto.org
kiến trúc vườn ở đây cũng lan tỏa khắp nơi trong dân gian, phối hợp với những nhân tố sẵn có, dần dần định hình một kiểu thức nhà vườn đặc thù của xứ Huế. Đây là thành phố của những khu nhà vườn với những ngôi nhà cổ thâm nghiêm ẩn hiện giữa xóm phường bình yên trong lòng Cố đô. Mỗi một khu nhà vườn lại mang bóng dáng của Kinh thành Huế thu nhỏ, cũng có bình phong thay núi Ngự, bể nước thế dòng Hương, đôi tảng đá cụm thay cho cồn Dã Viên, Bộc Thanh... đủ các yếu tố tiền án, hậu chẩm, tả long, hữu hổ... lại bốn mùa hóa trái, ríu rít chim ca, không gian ấy còn là thế giới của những thi nhân mặc khách đối ẩm ngâm vịnh, là nơi diễn xướng những điệu ca Huế não nùng như Nam Bình, Nam Ai... trong những đêm gió mát trăng thanh.
Gần một thế kỷ rưỡi là Kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu u tịch. Ông Amadou Mahtar M’bow - Nguyên Tổng giám đốc UNESCO, đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo Di sản văn hóa Huế: “Nhưng Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hóa sôi động - ở đó đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hòa nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lý hết sức độc đáo”.
Gắn với một triều đại phong kiến tuân thủ những quy tắc rạch ròi của triết lý Khổng Mạnh, lễ hội và âm nhạc ở vùng kinh sư này đã phát triển vô cùng phong phú và mang đậm phong cách dân tộc. Triều đình thì có lễ Tế Giao, Tế Xã Tắc, lễ Nguyên Đán, lễ Đoan Dương, lễ Vạn Thọ, lễ Đại triều, lễ Thương triều, lễ Ban Sóc, lễ Truyền Lô, lễ Duyệt Binh, lễ Hạ Điền... Mỗi một lễ hội đều có những bước nghi thức mà phần hồn của nó chính là âm nhạc lễ nghi cung. Dân gian cũng đa dạng các loại hình lễ hội: lễ hội điện Hòn Chén, lễ hội Hòn Ngư, lễ hội vật Sình, lễ hội đua ghe, lễ hội tế đình, tế chùa, tế miếu... gắn kết với các loại hình lễ hội lại là những hình thức âm nhạc lễ nghi dân gian muôn màu muôn vẻ. Cùng tồn tại với dòng âm nhạc mang tính lễ nghi, loại hình âm nhạc mang tính giải trí tiêu khiển của xứ Huế cũng được thế giới biết đến như một điển hình mang đậm bản sắc riêng của một vùng văn hóa, mộc mạc thuần khiết, đặc thù không pha trộn. Đó là những điệu múa Huế, những vở tuồng Huế, những bài ca Huế mà ngày nay đã trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu của những ai đã từng đến Huế.
Và đó cũng chính là phần cốt lõi nhất cần phải được trân trọng, gìn giữ, phát huy để văn hóa Huế trở thành một tiền đề phát triển ngành công nghiệp không khói - Du lịch. Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phố Huế lại đón chào ngày lễ hội trọng đại này trong niềm háo hức. Trong ý
http://tieulun.hopto.org
nghĩ của nhiều người, Huế trở thành thành phố Festival gần như là một điều tất yếu vì ở Huế còn bảo lưu khá điển hình diện mạo một kinh đô của triều đại phong kiến mà các công trình kiến trúc lại hòa điệu với thiên nhiên tạo nên những tiết tấu độc đáo với những lễ hội, âm nhạc, ẩm thực truyền thống được bảo tồn đa dạng.
Việc xây dựng Huế thành một thành phố cấp quốc gia, một thành phố Festival của Việt Nam, đã tạo ra nội lực để phát triển du lịch. Nhìn biểu đồ phát triển du lịch của Huế trong thập niên lại đây cho thấy lượng khách đến Huế ngày càng tăng, cơ sở đón khách, sản phẩm du lịch ngày càng phát triển. Huế với một chiến lược phát triển du lịch bền vững cũng làm thỏa mãn sự phát huy các giá trị văn hóa Huế: Các di sản được thế giới tôn vinh, khai thác và quảng bá tốt nhất.
Nhiều du khách, nhà báo quốc tế đã rất ấn tượng với Cố Đô. Ông John F.Sheld- phóng viên tự do, cộng tác nhiều tạp chí chuyên đề du lịch trên thế giới, cho biết ông bị thu hút thật sự trước nét cổ kính, trầm mặc, rêu phong của cố đô Huế. Đứng trên cửa Ngọ Môn nhìn toàn cảnh Đại Nội, nhà báo Sandiago Bayusi của tờ Star Manila (Philippine) nhận xét: “Tôi đã đến Bắc Kinh, thăm cố cung. Không nên so sánh giữa hai cố đô, giữa Đại Nội và Cấm Thành, nhưng Huế thơ mộng hơn”. Nhà báo Lim Siew Kim (Malaysia) rất thú vị: “Tuyệt vời hơn cả tôi nghĩ. UNESCO đã công nhận quần thể di tích Huế là di sản thế giới. Rất cám ơn UNESCO. Người Huế mà tôi mới gặp dường như họ rất am tường về văn hóa của nước mình”.
Với giá trị nổi bật, khu di tích cố đô Huế là một bộ phận quan trọng cấu thành nền văn hóa dân tộc Việt Nam, đây là một yếu tố hợp thành di sản văn hóa nhân loại. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn - cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta.
Theo tạp chí Sông Hương
http://tieulun.hopto.org
Còn trong ký ức hội tế đất đền Xã Tắc
• Lê Văn Sâm
Là người sinh và lớn lên sát cạnh đền Xã Tắc thuộc phường Thuận Cát cũ, nay đọc tin trên báo Du Lịch số ra ngày 8.5 “Lễ tế đền Xã Tắc sẽ được tái hiện trong Festival Huế năm nay”. Như vậy là dự án trị giá 4 tỉ đồng phục hồi đền Xã Tắc khởi công từ tháng 8.2007 nay đã kịp cơ bản hoàn thành. Mừng và rất đỗi ngạc nhiên, vì lẽ chỉ cách 2 năm, tôi về thăm lại đền Xã Tắc, thì dấu tích chỉ còn sót lại một tấm bia đá nằm nghiêng, với nét khắc 4 chữ Hán “Thái xã chi thần” còn lại tất cả được thay thế bằng một khu nhà tập thể 416 căn khang trang. Một dự án khó khăn vì vấn đề giải tỏa, tái định cư cho các hộ dân. Dù sao đây cũng là một tin vui từ quê nhà. Nhân đây cũng xin ghi lại về một đền Xã Tắc và lễ tế đất còn trong ký ức, biết đâu có giúp ích gì cho công việc tái hiện của thế hệ trẻ ngày nay.
Hình ảnh đầu tiên mà một chú bé nhà quê nhận ra là một hồ sen trắng, sau hồ sen là cửa tam quan 4 cột xây cao, mở con đường lớn đi vào tầng thấp của đền Xã Tắc cao 1.2m, vuông cạnh 70m, tiếp tục lên tầng chồng lên trên cao 1.6m cạnh 28m, từ cửa Bắc đi qua mặt đàn chia ra 5 ô đá thanh, sơn xanh, đỏ, tím, vàng, đen nơi đặt bàn lễ vật để tế đất, đi xuống hướng Nam thì có tấm bình phong. Một bí ẩn là đường vào ra hai hướng Tây Đông lại trồng hai hàng mù u dẫn lối, nên mới có câu ca dao “Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng, ngó về Xã Tắc hai hàng mù u”. Khớp với nơi tế thần đất và thần lúa, đất đền Xã Tắc được phân cho dân làng trồng lúa vại tầng thấp và trồng khoai ở tầng cao. Lúa cạn, vại vào hè thu, nắng cháy, cây lúa non cháy sém, chỉ còn lại cái tim xanh bên trong và gió mùa Thu Cách Mạng 1945 đã thổi tới sức sống mới, mầm tim xanh vươn lên. Huế đổi đời nhìn từ vạt lúa vại trên nền Xã Tắc. Rồi chiến tranh tiếp nối chiến tranh. Đền Xã Tắc không còn giữ tục lệ “Ba năm tế trời, một năm tế đất” và tế trời ở đàn Nam Giao do vua, tế đất ở đền Xã Tắc do thần, chủ tế là quan thượng thư bộ Lễ.
Đã có một số triều vua trước, vua thân chinh đến tế đất, nhưng từ thời vua Bảo Đại thì chỉ có thần đến chủ tế, tuy một năm một lần, lại ra hai kỳ, xuân tế vào tháng 2 và thu tế tháng 8 âm lịch. Từ 3 hôm trước, dân làng đã được huy động để phát quang, rửa sạch từ vòng thành đến sân thượng, sân đá sơn mới lại theo ngũ hành âm dương, chính giữa màu vàng, đông xanh, tây trắng, nam đỏ. bắc đen, Trên sàn tế dựng 32 cái tàn màu vàng trên đá tảng, chính giữa đặt bàn lớn, lễ vật ngoài hoa quả trầm hương, chủ yếu phải có “ngũ tế sinh” gồm heo, bò, gà, dê và cá chép. Những đêm chuẩn lễ trở thành những đêm hội, dân 10 phường thuộc thành nội và các phường tả hữu ngạn sông Hương tụ về vui chơi. Chính lễ
http://tieulun.hopto.org
cử hành đúng ngọ, quan chủ tế đọc văn tế, đại khái cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt... Là nước nông nghiệp, tập tục tế xã đất và tắc lúa được phục hoạt là rất nên, nhất là trong một festival quốc tế thu hút nhiều du khách các nước đến giao lưu văn hóa với Việt Nam.
http://tieulun.hopto.org
Hồn Huế
• Trần Thị Linh Chi
Huế đẹp Huế thơ, Huế thương Huế nhớ! Du khách có cảm nhận được hồn Huế không? Hồn Huế là gì? Đã gọi là hồn thì không thấy, mà chỉ cảm nhận sự gần gũi yêu thương.
Bảy trăm năm trước, từ đôi gót sen rời bỏ quê hương đến làm vợ Chế Mân đổi lấy hai châu Ô, Ri, với những mất mát, cùng những lời phê phán đắng cay, công chúa Huyền Trân vàng ngọc âm thầm chịu đựng, hy sinh cả mối tình rồi đây sẽ trở thành hư ảo với thượng tướng Trần Khắc Chung.
Hồn thiêng cổ ấy còn phảng phất đâu đây. Điệu múa, lời ca, tiếng nhạc còn quanh quẩn thành lời!
Hồn của Huyền Trân, hay hồn của người Việt-Chàm, sống trong cuộc sống hòa bình hay chiến tranh đều mang mạch hồn của Huế. Thái thượng hoàng Trần Anh Tôn đi thăm Chế Mân năm 1301 để rồi câu ca điệu hò làm nên hồn Huế.
Phải chăng hồn Huế chính là con người Huế đang sống ở Huế. Những con người anh hùng dũng cảm, hồn của thơ ca, của nghệ sĩ biểu lộ toàn bộ. Những con người bền bỉ lẫn đau khổ, gian nan lận đận mà sức chịu đựng thật can trường!
Khi cảm nhận được phần nào của ý nghĩ thì đâu đâu cũng là hồn Huế... đền đài, lăng tẩm: Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức... núi Ngự Bình, Kim Phụng, chùa Thiên Mụ, Từ Hiếu, Từ Đàm, Diệu Đế, với tiếng chuông mõ tụng kinh sớm chiều... Khách du lịch sẽ cảm thấy lòng thanh tịnh biết bao khi tiếng đại hồng chung vang lên như xoa dịu những tâm hồn trót lầm lỡ, như an ủi vỗ về làm lòng ta hướng thiện. Trong phút giây thầm lặng ta sẽ mơ về một tia nắng cuối trời, một lần thanh khiết ánh trăng soi, để quên đi chuỗi ngày lận đận.
Du khách hình như còn cảm nhận đâu đây những tiết điệu chầu văn của điện Hòn Chén từ phía Bắc sông Hương lan rộng... Đêm lễ hội lung linh ngọn nến, hương khói mịt mù huyền hoặc của thế giới liêu trai...
http://tieulun.hopto.org
Những chiếc cầu bắc qua sông nước Bến Ngự, Như Ý, Hương Giang, Gia Hội là những nét nên thơ của Huế. Những chiếc cầu đã nối liền Vỹ Dạ, Kim Luông, Nguyệt Biều và cả hoàng thành cổ kính, nối liền với cả làng mạc, thôn xóm đẹp đẽ, tạo thành một dải sơn hà gấm vóc.
Bên bờ sông An Cựu với cung An Định, nơi ở của bà Từ Cung và Cựu Hoàng Bảo Đại sau khi thoái vị, cũng là một danh lam thắng cảnh. Du khách có thể đứng trên cầu nhìn sông An Cựu nắng đục mưa trong, để nghe lao xao giọng Huế:
Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Cho em về với một đoàn cho vui.
Mỗi buổi sáng khi qua cầu Trường Tiền, khách sẽ nhìn thấy những nữ sinh dáng liễu qua cầu từng bước nhịp nhàng man mác phấn hương, gợi nhớ một thời áo trắng tóc thề. Du khách đến Huế để tìm hiểu văn hóa Huế, kể cả từ xưa cho đến hôm nay, mong sao du khách cảm nhận được phần nào cái hồn của Huế. Những cái được nhìn thấy, đẹp đẽ, đầy ý nghĩa thắm thiết đậm đà, dù cho nắng cháy, mưa sa, bão táp cũng là sự rung cảm chân thành, bởi cái hồn Huế trong con người Huế luôn hòa nhập với người và cảnh.
Dù cho ai đi du lịch nhiều nơi, khắp năm châu bốn bể, khi đã mỏi gối chồn chân, vẫn xác nhận du lịch Huế, du lịch quê hương là đẹp nhất!
Đỉnh Ngự mây giăng vầng cổ kính
Dòng Hương nước gợn nét u trầm .
Cái bóng của công chúa Huyền Trân vẫn còn lãng đãng trên sông nước.
Hãy dừng chân trên sông Hương khi mặt trời vừa tắt, sương chiều bàng bạc giữa hoàng hôn muộn, thảng nghe khúc ly ca:
Nước non ngàn dặm ra đi, cái tình chi
Mượn màu son phấn đền nợ Ô Ly...
Ta sẽ vô cùng xúc động, lòng yêu quê hương dâng trào mãnh liệt, cả đau thương nghẹn ngào, cả tự hào hưng phấn.
Ra khỏi ngoại ô thành phố, du khách sẽ thấy những đồng ruộng xưa xanh mát màu mạ, chạy dài đến tận chân trời.
Núi Truồi đúng trơ vơ, bền bỉ với thời gian. Núi Truồi không cao lắm nhưng người Huế vẫn thường hát ru:
Núi cao chi lắm núi ơi!
Núi che mặt trời không thấy người thương.
Hai bên đường, nhà cửa được lợp bằng ngói đỏ nổi bật trên bầu trời, http://tieulun.hopto.org
hòa quyện màu máu trong tim ta làm nên ngày vui mới, khiến khách sẽ cảm nhận được cái hồn Huế trong lòng mình, sắt son bất tận của tình yêu thương đằm thắm, không nói được nên lời.
Tất cả là thiên đường ký ức!
http://tieulun.hopto.org
Huế thuở ban đầu
• Từ Chúc Phúc
Những người con Huế đang ở Huế hay ở xa Huế, giờ đây đang có một thành phố khác, có thể là văn minh hiện đại hơn, nhưng họ lại bị thiệt thòi, là không được sống với cảnh sắc thành Huế thuở ban đầu, mới xây dựng hoàn chỉnh, mịn màng và óng mượt, thơ mộng và trong lành. Đã có nhiều dịp, tôi được một số người thân gợi ý cho tôi vẽ lại cho họ dung nhan thành Huế thuở ban sơ, tức muốn tìm lại cảnh sắc của dung mạo Huế, mà giờ đây đã không còn nữa, trong đó có ông Amadou Mahtar M’Bow nguyên tổng giám đốc UNESCO khi đến Huế.
Cũng dễ thôi, từ trong trí tưởng, phác thảo ban đầu là dựa sông cùng núi và ca dao hò vè dân gian. Phía Tây vẽ dải Trường Sơn trập trùng, phía Đông vẽ viền xanh biển Thuận An. Nối biển và núi đó là dòng Hương Giang thơ mộng, bắt nguồn từ ngọn A-Lu qua thung lũng A-Lưới, sông thơm và xanh trong lượn qua đồi Vọng Cảnh, hiền hòa trôi dưới chân chùa Thiên Mụ, lòn cầu Giã Viên, vỗ đôi bờ tả hữu thành phố rồi thoát qua Cồn Hến Vỹ Dạ, qua phá Tam Giang rồi đổ ra biển.
Sông Hương ban đầu “nước trong con cá lội thấy vi, anh câu không đặng hiềm vì sóng xao”. Đầu xuân sương nhẹ khuất, mờ ảo và ngan ngát hương ướp từ rừng danh mộc thượng nguồn. Bên trên sông Hương là “Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng, ngó về Xã Tắc hai hàng mù u”. Bên kia sông là Phường Đúc, vôi Long Thọ, nhà máy nước Vạn Niên, trở xuống là nhà thờ Phú Cam, trường Pelleren, Khải Định, bến đò Thừa Phủ, trường Đồng Khánh, lầu Morin, xuống Đập Đá, Vườn hoa bên kia sông có khung cao cho hoa kèn vàng vắt vẻo, vườn hoa bên này sông từ cửa Nhà Đổ xuống đến bến Thương Bạc, phần lớn trồng hoa theo khối cảnh màu tím đỏ, có tháp con rồng phun nước trước khi:
Chợ Đông Ba đem ra ngoài dại.
Cầu Trường Tiền đúc lại xi-mon
Ơi người lỡ hội chồng con,
Về đây gá nghĩa vuông tròn nước non...
Tới đây kết nghĩa vuông tròn, có đặng không?” thì mé chân cầu Gia Hội trở lên là một mom sông đầm lầy. Lúc đó, nơi cửa Hậu Bổ gần cửa Thượng Tứ đã có gốc đa già, có lẽ nó cùng cây Ngô Đồng cạnh cầu An Hòa phía Tây là hai cây cổ thụ có trước thành Huế. Nói đến cửa Thượng Tứ, không thể vẽ lại mái ngói trường Paul Bert, lần vào đối diện với hiệu cơm Tây Lạc Thành, là phòng ảnh của chị Maria Mộng Hoa, nơi mà nhà nhiếp ảnh nữ này đã một thời ghi lại, điểm tô thêm ảnh chân dung đen trắng
http://tieulun.hopto.org
cho những hoa khôi Huế, những Hoài Nam, Kim Đính, Tuyết Lộc, Thu Sương, Hà Thanh, Phương Thảo... Cũng như ở phố Ngả Giữa, các họa sĩ Bá Thiệu, Phạm Côn Sơn ghi dấu ảnh cảnh và con người Huế.
Leo lên Ngọ Môn Quan, nhìn suốt qua Kỳ Đài, thì Ngự Bình là một tấm bình phong cho cung đình. Nhưng “núi Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong” . Sau con sông lớn, vẽ tiếp những con sông con làm đẹp thêm thành Huế ban đầu, đó là sông Kẻ Vạn, cạn và hẹp từ mé cầu Bạch Hổ men theo lũy tre thôn Vạn Xuân, hợp lưu với sông Bạch Yến ở An Hòa chạy qua sông Đào, hình thành một bến đò Ba Bến, chảy xuống Bao Vinh. Từ Bao Vinh ngược lên là sông Hàng Bè, có chùa Diệu Đế soi bóng, chui cầu Đông Ba - Gia Hội nối lại với sông Hương. Từ mé nhà máy nước Vạn Niên đổ xuống có sông Bến ngự thâm u, mùa hè tuyết hoa phượng thảm đỏ mặt sông, tiếp đến là sông An Cựu đổ về hướng Hương Thủy, Phú Vang. Đời sống vua quan và dân nội thành dựa trên những con sông đó. Nó như luật âm dương, muốn đắp thành cao phải đào đất, lấy cho đủ đất cao thì sẽ thành hồ sâu, tên hồ gắn với tên cơ đồ xây dựng. Tỉ như xây thành Xã Tắc thì có hồ Xã Tắc, cứ thế đến hồ Thành Hoàng, Văn Miếu, Vỏ Sanh, Tịnh Tâm, Ngọ Môn, Hộ Thành, Mang Cá, rồi đến các hồ dưới chân vòng thành Đại Nội. Tất cả các hồ đều trồng sen, những đêm sen mùa hạ, hợp giao với hương hoa thiên lý, bưởi, thanh trà, nhãn đào mang đến cho bầu trời Huế nức hương đậm đặc.
Những chiếu ca Huế không ở trên đò mà ở dưới những ô trăng giàn bí. Trong những vườn trăng Kim Long, Vỹ Dạ và cả Thành Nội. Khi chiếu ca Huế im tiếng, là ta có thể lắng được tiếng sương rơi, xa xăm đâu đó có tiếng sáo diều vi vút. Vẽ gì thì vẽ, có thể cả những con đò bến Thừa Phủ, bến đò Sình hay những con đò dọc băng băng về hướng phá Tam Giang, nhưng làm sao mà vẽ lại được tiếng hò mái đẩy của những o chèo đò dọc, vút lên trên sông dài, hay tiếng nói cười trẻ trung của các nữ sinh Đồng
http://tieulun.hopto.org
Khánh mùa tựu trường nơi bến đò Thừa Phủ.
Cũng thế, leo lên đồi Vọng Cảnh vào cuối thu, ta có thể vẽ từng đàn chim biển bay về núi theo đội hình chữ V, nhưng khó thể nào vẽ được tiếng sấm rền từ núi vọng ra, báo hiệu một mùa dông bão sắp tới. Đó là lúc trên bầu trời mờ đục, tơ trời bay từng đám la đà, vừa đáp xuống thì bông Cỏ May đã xoáy lên theo giao mùa.
Thời nhà cửa cư dân Huế lưa thưa, chiếc áo lớn của mùa xuân rất lạ. Khi bầu trời vẽ lên những cuộn rơm bay cao từng ống súng lệch, thì trước sân nhà nào cũng ẻo lả những luống cải vàng, cỏ dại phủ một thảm hoa lục bờ ao, áo mới bay như đàn bướm lượn qua những ngõ trúc. Khói hương trầm từ các đình, chùa, am, miếu thoát ra lẩn trong mưa bụi bay, làm cho cảnh sắc Huế như không thật. Nó là một bức tranh thủy mặc, mà giờ đây, không thể nào tìm lại được. Chỉ có tĩnh lặng, ngồi mà hình dung từng góc, từng mảng qua trí tưởng.
http://tieulun.hopto.org
Mùa thu xanh
• Thái Kim Lan
Huế đang vào thu! Những bước đi vào mùa thu của Huế thật là lạ lùng, bất chợt, làm cho mỗi giác quan của con người cứ bối rối ngẩn ngơ, không biết đón nhận buổi giao mùa bằng một thứ tình chi cho vừa lòng kẻ đến.
Buổi sáng mai trời mù trong sương, sông núi cỏ cây nhòe đi trong hơi nước huyền hoặc lãng đãng đến từ dãy núi Kim Phụng, tưởng như từ đây màu nắng sẽ vĩnh viễn phai dần, báo hiệu mùa thu đã về, nhưng xế trưa trời bỗng hửng lên một vài sợi nắng le lói trên từng không, chói chang đến nỗi làm cho trái bưởi nám hồng cả đôi má tròn. “Tháng tám, nắng nám trái bưởi”.
Có những ngày nghe hơi lạnh rùng mình trên da thịt thoáng sần lên một chút gai ốc “đổi trời”, tưởng như từ đây mưa thu sẽ day dứt không ngừng trên mái ngói, bỗng nhiên cơn nóng ở đâu về bất chợt, như một nỗi nhung nhớ mùa hè, nồng nàn hâm hấp những giọt mồ hôi thấm bết tóc mai.
Ngỡ ngàng, lưỡng lự là những ngày đầu thu của Huế, như một nỗi bấp bênh! Đang mưa bỗng nắng, đang buồn bỗng vui! Có chắc chắn chìm một cơn gió heo may, để cứ đinh ninh mùa thu mãi hoài chìm trong màu tím! Có bền bỉ chi những cơn mưa đuổi nhau trên đầu sóng, để cứ mãi tin từ đây bốn bề hiu hắt “lòng rộng không che!” Huế đang say đắm rực rỡ với chiều vàng trên sông Hương, bỗng nhiên não nùng rũ rượi trong màu xanh thủy mặc trên những con đường cây lá giao nhau trong Thành Nội. Huế suốt một ngày mây xám vần vũ xao xuyến cả bầu trời tháng tám, tưởng “Trăng lạnh đầu non” không bao giờ “trở lại”, bỗng đâu nửa khuya trên gối đầy ắp ánh trăng liêu trai, vằng vặc, quyến rũ và mê hoặc như một tình nhân bí mật không hẹn mà về.
Hãy đừng tin chỉ vào chút nắng trên hàng cau nơi thôn Vỹ! Một buổi sáng trời trong như ngọc, trái tim chưa kịp reo vui với nỗi mong đợi một ngày đầy nắng nơi đây - nhất là cho những kẻ đã quen sống theo “Thời khóa biểu” thường hằng ở Phương Tây - chưa chi đã nghe đâu đó trong
http://tieulun.hopto.org
thoáng gió bay về hơi nước của cơn mưa đang ào ạt nơi cầu Bến Ngự. Cũng đừng vui hay buồn chi với cơn mưa buổi sáng nơi đường Ngự Viên, tưởng như cầm chân được ai đang dứt áo ra đi thành người ở lại nơi đây vĩnh viễn. Chỉ chưa đầy một chút quay lưng ra áo, nắng đã lên, lấp lánh ngoài sân, quý giá như vàng ngọc, mời gọi ra ngõ, rủ nhau đem áo ra phơi ngoài dậu, thúc giục kẻ hành nhân rảo bước...
Và cứ thế những ngày qua đi, không vội vàng như có tiếng giục giã của thời gian đang nhuộm lần sắc nhớ... Tôi đã về Huế hơn một lần mang theo ý niệm trung thành tuyệt đối với những bóng hình ngày cũ, với Huế ngày xưa, với nỗi nhớ nhung mùa thu cũ và với tôi hôm nay như những gì “xưa và nay” không thể lay chuyển, đổi thay.
Tôi đã muốn đi tìm một vầng trăng Trung Thu thật tròn thật sáng thật trong nơi đồi Vọng Cảnh, như một “vầng trăng từ độ”... mãi hoài là một vầng trăng “đêm đêm bến cũ”, nhưng thường được những cơn mưa tháng Tám bất chợt làm ướt áo đợi chờ. Trăng thường không lên như nắng gió trong ngày đã hẹn, cứ để cho người háo hức những mong ước thần tiên của thời thơ ấu, để rồi đùng đùng sấm chớp mưa sầm sập đến rửa sạch mọi ảo ảnh chờ mong, dồn nén nỗi thất vọng vào trong giấc ngủ. Thế nhưng có những khoảnh khắc không chờ đợi trăng lại về... trong ngần và sâu thẳm như đôi mắt người xưa! Tôi đã muốn tìm lại “Thu vàng” khi trở về nơi đây để “nhặt lá vàng rơi” như một thời đã hát, nhưng ngỡ ngàng nhận ra mùa thu nơi đây không vàng mà xanh mướt lá cây như màu ngọc thạch nằm trong giếng nước sâu của Trọng Thủy. Để nhận chân hơn một lần “tiếng thu xào xạc” với “nai vàng”, với “lá vàng khô” thời trước chỉ là âm vang “màu thời gian” điểm xuyết cho “mùa thu xanh” của Huế thêm một chút bâng quơ huyền thoại, thêm một lần vu vơ cho những tâm hồn nhạy cảm thuộc lứa tuổi hai mươi. Ai có về Huế trong buổi giao mùa mới thấy được màu thu xanh của Huế nơi những cây bàng, cây khế, cây me, cây phượng, cây chuối, cây muối, cây sầu đông, lá cứ xanh mãi một màu hồ thủy, “lá không vàng lá không rụng, lá lại thêm xanh”... ấy là mùa thu mới về...
Tôi đã muốn tìm về dòng sông Hương với “chiều tím” thẳm sâu, ghi http://tieulun.hopto.org
khắc mỗi tình sông núi thủy chung, khi đứng từ cầu Trường Tiền nhìn lên nẻo sông xa vắng in bóng núi im lìm. Con sông mênh mang lưu luyến ánh mặt trời đang chìm dần sau bóng núi bỗng trở thành một cô gái với những lời ca vụn vặt, với son phấn vội vàng, với om thòm trống phách nửa vời. Màu tím của sông, chút lòng trung kiên vĩnh viễn của Huế, phôi pha như một giấc mộng cố nhân, mỏng manh như một thoáng hơi sương thu, chỉ còn lãng đãng trong hoài niệm và đợi chờ...
Những khi nắng lên, những khi mưa về bất chợt, Huế vào thu đã không dành cho tôi một ý niệm, một hình ảnh cố định nào để con tim chiều theo một nhịp. Buổi giao mùa của Huế cứ giăng mắc những mảng trời vô định, vần vũ những đám mây lang thang như một thứ thiên la địa võng bao phủ lấy tâm hồn, nhấn chìm con tim xuống một vùng vực thẳm mơ hồ nào đó, mất hút nẻo đi về, và lũ giác quan như những kẻ mù, sờ soạng trong không gian vô bờ của gió, của nắng, của mây, bỗng trở thành nhạy cảm đến mức tinh vi trong sự lắng nghe âm vang của tiếng mùa nơi từng giọt mưa rơi, nơi từng rung động của lá, nơi từng câm nín của ánh trăng... nơi từng bước chuyển trong muôn ngàn nẻo vô thường của Huế đầu thu. Ai muốn biết vô thường của cuộc đời là chi, hãy đến Huế khi gió mùa đang chuyển.
http://tieulun.hopto.org
Trăng Nguyên Tiêu Ngự Bình, thịt heo quay Gia Lạc
• Ngô Minh
Sau ba ngày Tết, người Huế bất kể nam phụ lão ấu lại thích thú hồi hộp đợi chờ lên núi Ngự Bình ngắm trăng trong đêm Tết Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng). Không biết tự bao giờ lên núi ngắm vầng trăng rằm đầu tiên nằm mới đã thành tập tục không thể thiếu trong những ngày sau Tết Huế. Đây là đêm hội tao nhã sang trọng, đậm đặc chất văn hóa Phương Đông !
Nhưng tại sao người Huế chỉ lên núi Ngự Bình ngắm trăng mà không lên núi khác? Đó là do vị trí đặc biệt của núi Ngự. Núi Ngự Bình là một biểu tượng văn hóa, phong thổ của kinh đô Huế. Đứng trên Ngọ Môn, nhìn lên Ngự Bình thấy núi có hình dáng cái Ấn Ngọc Thiên Cơ (cái ấn của nhà trời) đóng xuống đất kinh đô linh khí. Sông Hương - Núi Ngự là cặp song sinh không thể tách rời. Kinh thành Huế quay mặt về hướng núi Ngự Bình, lấy núi làm bình phong che chắn. Cái địa thế thiên nhiên ấy đúng theo nguyên tắc của Chu Dịch trong xây dựng kinh đô: Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ... Nhà thơ Bùi Giáng có hai câu thơ ngẫu hứng như đùa mà nói trúng cái cốt lõi muôn đời của Huế: Dạ thưa xứ Huế bây giờ... Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương! Ngoài biểu tượng linh sơn, thú lên núi thưởng ngoạn từ lâu đời đã không thể thiếu trong đời sống người cố đô. Buồn lên núi. Nhớ lên núi. Vui chơi Tết. Lễ cả thành phố lên núi. Sinh viên chia tay nhau khi ra trường lên núi. Nhà quy hoạch thành phố lên núi để tầm mắt bao quát hơn. Nhà thơ lên núi để tìm thi hứng... Các chúa Nguyễn, vua Nguyễn xưa cùng thần dân lên núi và đề thơ. Bài thơ chữ Hán của nhà vua Lên Núi Ngự Bình (thượng thư Ngô Đình Khả dịch) mô tả cảnh leo núi rất vất vả: Càng leo lên càng thấy đường rất khó. Thở hết nổi, đẫm mồ hôi, bắp chân nhừ nhuyễn... Nhưng khi lên tới đỉnh thì vua vô cùng sảng khoái, bởi ở trên núi có thể nhìn khắp bốn phía kinh thành với những cảnh đẹp hùng tráng làm cho nhà vua Dạo chơi chưa thỏa, lòng ta
http://tieulun.hopto.org
chưa muốn xuống núi... Ngày xưa theo quan niệm cũ vào Tết Trùng Cửu (mùng 9 tháng 9 âm lịch) được coi là ngày xấu, mặt đất có khí độc, người Huế rủ nhau lên núi để tránh họa. Hiện nay vào Tết Trùng Cửu người Huế vẫn có tục lên chơi núi Ngự Bình, nhưng không phải để tránh họa mặt đất mà để thưởng ngoạn tiết Trung Thu đang tới, thả hồn lộng gió, hít thở không khí trong lành của trời đất!
Nhưng cuộc thượng sơn đêm Nguyên Tiêu mới thật đông đảo, vui nhộn, náo nức khó quên. Dường như cả thành phố lên núi! Có lẽ rằm tháng giêng là ngày trăng tròn đầu tiên trong một năm, kể từ sau Tết Nguyên Đán, tiết trời chuyển từ đông lạnh sang xuân ấm, con người muốn gần gũi với trời đất, mây gió, muốn tận hưởng những cảm giác giao mùa của thiên nhiên chăng?
Ngay sau Tết, người Huế đã háo hức chuẩn bị lên núi. Các cuộc hẹn hò của từng nhóm, từng đôi diễn ra âm thầm. người ta lặng lẽ chuẩn bị bánh trái, rượu mứt, giấy bút, đàn, sáo, nem, chả, củi, đuốc, lều trại, phim máy... Đúng chập tối ngày rằm, tất cả già trẻ gái, trai, nam thanh nữ tú đã tề tựu dưới chân núi. Họ náo nức hướng về phía chân trời, khi vầng trăng rằm xuất hiện, tất cả mọi người đều hớn hở dắt nhau lên núi. Từng nhóm, từng đôi nhanh nhẹn tìm cho mình vị trí tốt nhất để đốt lửa trại, triển khai cuộc thưởng trăng. Trong đêm Nguyên Tiêu tinh khiết với trăng gió lung linh, mọi người say sưa trò chuyện tâm tình. Cánh già thì nhâm nhi chén rượu làng Chuồn ôn cố tri ân, ngâm nga thù tạc bài thất ngôn vịnh nguyệt, hoặc thả thú tiêu dao lên cùng trăng gió. Lớp trẻ thì từng tốp, từng tốp đàn hát, nhảy múa dưới trăng hoặc bên ánh lửa trại bập bùng. Đây đó lại có tốp người luyện võ, đi quyền. Ở góc xa kia lại có không ít người ngồi lặng một mình, mặt hướng về thành phố trong đêm với muôn vàn đèn sao huyền ảo. Họ cứ ngồi như thế cho tới khi trăng rằm xế bóng mới lững thững chống gậy hạ sơn. Đông đảo hơn cả trong đêm thưởng trăng núi Ngự là những đôi tình nhân nép bên nhau trong trăng sương se lạnh để tận hưởng hơi ấm kỳ diệu của mùa xuân và tình yêu lan tryền, chia sẻ. Hàng chục năm nay lên Ngự Bình ngắm trăng Nguyên Tiêu còn có hàng trăm du khách nước ngoài. Họ cũng say, cũng nhảy, cũng ngẩn ngơ trước vẻ đẹp Hằng Nga...
Cuộc thưởng trăng Ngự Bình Nguyên Tiêu năm nào cũng kéo dài tận quá nửa đêm. Có người vui tới sáng. Có tới hàng vạn người lên núi. Một nét văn hóa đáng trân trọng của người Huế trong đêm thưởng trăng Ngự Bình là tất cả mọi người đều rất lịch lãm, tươi vui, không hề có các vụ gây rối, quậy phá. Dường như mọi người đều thanh cao hơn, trong sáng hơn trong đêm trăng tinh khiết ở tầm cao. Tan hội thưởng trăng, hạ sơn, tiễn bạn, mọi người lại nắm tay hẹn nhau đêm trăng Nguyên Tiêu Ngự Bình năm tới...
Chợ Gia Lạc
http://tieulun.hopto.org
Trong ba ngày Tết chợ Gia Lạc có bán các thứ đồ chơi của trẻ con như gà đất, lùng tung, tu huýt đất... Chợ Gia Lạc cũng có bán những món ăn như ở một ngôi chợ ngày thường. Tuy nhiên, món ăn hấp dẫn ở chợ Gia Lạc là thịt heo quay và thịt bò tái. Ở Nam Phổ hay vùng lân cận bất cứ ai muốn bán hai thứ này trong ba ngày tết được đắt khách, thì nhất thiết phải tuân theo những kỹ xảo để làm thịt. Chẳng hạn làm thịt heo quay thì trước tiên phải chọn lựa giống heo “mọi” nuôi theo kiểu Huế chứ như heo “mẹo” thì không thể nào có thịt ngon vì da quá cứng mất hết cả hương vị. Còn như quay heo hay thui bò thì phải dùng thứ “than bội” hay củi bội quạt lửa đều.
Tuy rằng các thức ăn này hấp dẫn người dân Huế nhưng cũng chưa phải vì nó mà chợ Gia Lạc tồn tại đến ngày nay. Nó còn có những ưu điểm mà không có chợ nào có được. Vì ba ngày Tết là ngày đầu năm “may xưa” tức “lấy hên” nên đi chợ Tết Gia Lạc mọi người ai nấy đều ăn nói nhã nhặn, từ ông già bà lão cho đến nam thanh nữ tú, người mua kẻ bán đàng hoàng lịch sự, đối xử cùng nhau rất là trang trọng lễ độ, mà nhất thiết là phải thuận mua vừa bán, lại không nói thách như bạn hàng ở các chợ khác.
Mỗi năm đến chiều tối 30 Tết, các chợ lớn ở Huế còn lại một ít hàng rau dưa, hoa quả, mứt bánh, thịt cá được dồn về chợ Gia Lạc đến bán ba ngày Tết. Nhờ có chợ Gia Lạc góp phần thêm phong phú cho nền văn hóa nước nhà.
http://tieulun.hopto.org
Cái bên sông - gánh chè
• Tôn Nữ Hỷ Khương
Trong cuốn “Hồi Ức Về Cha Tôi: Ưng Bình Thúc Giạ Thị”, từ trang 29 đến trang 120, chị Hỷ Khương đã kể lại những mẩu chuyện nho nhỏ, những công việc nổi bật, những người thân mà cụ Ưng Bình đã giao tiếp và nhất là lối sống giản dị nhưng đầy nhân bản trong cuộc sống hàng ngày của cụ. Bốn mươi ba mẩu chuyện trong phần hồi ức mà chị Hỷ Khương ghi lại với lối văn trong sáng, đầy xúc động đã dẫn dắt người đọc đi từ thú vị này đến thú vị khác và tưởng như mình đang đọc lại những câu chuyện kể trong “Cổ Học Tinh Hoa” của một thời thơ ấu.
Câu chuyện mà chị Hỷ Khương kể lại trong “Cái Bến Sông” thật là xúc động, tuy đơn giản nhưng thể hiện rõ nét về tấm lòng thương người trong triết lý sống của cụ:
“Nhà tôi ở phía bờ sông Hương, có một cái bến xây rất đẹp, có tầng cấp xi măng, hai bên có cây dừa rợp bóng mát mẻ, bà con trong làng thường qua bến nhà tôi tắm giặt, gánh nước. Suốt mấy mươi năm cái bến riêng của nhà tôi trở thành cái bến công cộng.
Trước cửa nhà tôi có miếu Ngũ Hành, mà con đường đi xuống bến sông phải đi qua trước cửa ngôi miếu. Nhiều người trong nhà thường phàn nàn về sự việc này. Ðó là chưa kể trường hợp người lớn đi ngang về tắt, ồn ào, trẻ con đùa nghịch phá phách, hái các thứ trái cây trong vườn mỗi khi xuống bến. Thỉnh thoảng lại còn có người chở những vật liệu nặng ghé qua bến làm sập các tầng cấp v.v...
Một hôm bà mẹ đích của tôi nói với thầy tôi:
Có một thầy Tàu rất hay, tôi đã nhờ xem giúp một quẻ thì ông ấy bảo rằng nhà mình bị ông bà quở trách vì người đi lại ồn ào quấy nhiễu, vì thế mà động đất không yên.
Thầy tôi cười bảo:
Ông bà đâu có ác vậy. Tôi không bao giờ tin những điều như thế.
Sự việc này làm cho thầy tôi suy nghĩ. Cho nên, trong di chúc thầy tôi để lại có một mục nói về chuyện cái bến sông: “Khi thầy mất rồi vẫn để cho bà con đi lại bình thường, không nên cấm đoán”.
Tính đến nay đã mấy mươi năm, khi nào có dịp gặp lại những người hàng xóm cũ, họ còn nhắc đến sự quan tâm và tấm lòng rộng lượng của thầy tôi với niềm xúc động khác thường. Họ nhìn tôi với ánh mắt đầy tình cảm thân thương. Thốt nhiên tôi chợt tưởng nhớ đến hình ảnh yêu mến của người cha hiền. Lòng bâng khuâng nhớ lại những kỷ niệm của một
http://tieulun.hopto.org
thời xa lắc, đồng thời như vừa cảm nhận được một điều hạnh phúc trời ban cho. Tôi sung sướng đến ứa lệ” ...
Câu chuyện “Gánh Chè Của Con Ðộ Bao Nhiêu?” cũng là một góc cạnh nữa để soi rọi thêm tấm lòng cao quý ấy:
“Một hôm, trời mưa lất phất, sân nhà tôi có rêu trơn trượt. Bất ngờ có một chị gánh chè bán dạo vào sân mời. Chẳng may chị trượt chân, cả người và gánh sóng soài, chè đổ lênh láng. Hôm đó trong nhà có một cô cháu gái tới chơi, thấy cảnh như vậy, cứ đứng cười thích thú. Thầy tôi la cô cháu:
Ôi, mau ra đỡ chị ấy dậy, rồi giúp dọn dẹp cho người ta, cớ sao đứng đó mà cười thế? Ồ, con nhỏ này như vậy là không được, như vậy là ác đấy con ạ!
Cô cháu gái nghe ra, đã cùng tôi chạy ra sân đỡ chị bán chè dậy và giúp chị ấy thu dọn đồ hàng. Lúc này chị bán chè rưng rưng nước mắt, bởi biết hôm nay như thế là lỗ to rồi.
Thầy tôi ở trong nhà đi ra, hiền từ bảo: “Gánh chè của con độ bao nhiêu? Ông cho tiền, đừng khóc nữa.
Sau này, càng lớn lên, để ý quan sát, tôi mới thấy trong cuộc sống thường nhật, bao giờ thầy tôi cũng chia sẻ cái vui, cái buồn với những người xung quanh.
http://tieulun.hopto.org
Ngôn từ xứ Huế
• Bùi Minh Đức
Sau hơn 10 năm nghiên cứu miệt mài tiếng Huế, chúng tôi đã hoàn thành được quyển “Từ Điển Tiếng Huế” in tại California Hoa Kỳ năm 2001. Trong lần in thứ hai năm 2004 tại Thành Phố Hồ Chí Minh, quyển Từ Điển này đã lên tới 1000 trang. Trong thời gian sưu tập Ngôn Từ Xứ Huế, chúng tôi đã đi qua nhiều đoạn đường khá chông gai, gặp phải nhiều khó khăn cũng như đã có nhiều trăn trở. Và sau đây là tóm lược một số nội dung về... Ngôn từ của người Huế có nhiều loại và được dùng với nhiều cách:
Trước tiên, họ rất thường dùng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ, các “phương ngữ” của Thừa Thiên Huế tức những tiếng địa phương của riêng Huế, những tiếng chỉ dùng ở Huế mà ít nơi nào khác trên đất nước dùng đến. Ví dụ: “mô, tê, răng, rứa” hoặc “côi” là trên, “chộ” là thấy, “trốt” là đầu... Ngoài ra, ở một vài vùng Thừa Thiên Huế, người dân ở đây đã dùng những thổ ngữ của họ, đặc biệt và hiếm hoi hơn. Ví dụ: “khóot” ở làng Liễu Cốc hoặc “độột độột” của làng Phước Tích chẳng hạn.
Ngoài ra, người dân Huế cũng dùng các từ, các chữ chung của toàn dân nhưng có một số lớn những chữ, những câu đã được dân Huế dùng rất thường trong đời sống hàng ngày của họ, với “tần số sử dụng” rất cao so với các vùng khác của đất nước. Họ đã dùng với nhiều cách:
Cách nói văn hoa: Họ dùng nhiều tục ngữ, ca dao và nhiều thành ngữ trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Họ nói một cách tự nhiên, song suốt, không có vẻ gì là sáo ngữ, làm cho cân văn tự nhiên thành trơn tru, bóng bảy hay ho. Không một nơi nào trong nước đã dùng các chữ văn hoa trong câu chuyện hàng ngày như vậy. Người Huế dùng lối nói văn hoa này chủ ý để nhấn mạnh ý mình muốn nói và vì thế câu nói đã trở nên súc tích hơn, phù hợp với tật cố hữu “nói ít hiểu nhiều” của dân Huế hơn. Ví dụ: “Năm hạn tháng xung”, “Bói ra ma quét nhà ra rác”, “Đèn nhà ai nấy sáng”, “Đa ngôn đa quá” hoặc “Tích cốc phòng cơ”... Đó là đặc tính nói theo lối Huế, một khía cạnh đặc biệt của tiếng Huế, một đặc thù của ngôn từ xứ Huế mà một vài nhà biên khảo về tiếng Huế đã nhận xét thấy và đã nêu lên như Mặc Khách (“Phiếm luận về tiếng Huế ngày xưa”, Tạp chí Sông Hương số 1, Huế, 1983) hoặc Tiểu Kiều (“Tiếng Huế trong lối nói văn hoa”, Tạp chí Nhớ Huế, NXB Trẻ, Tp. HCM, 2003).
Cách nói chữ: Họ thích dùng những câu chữ Hán thông thường trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Ví dụ: “Bẩn cư tại thị vô nhân vấn, Phú tại sơn lâm hữu khách tầm” hoặc “Hàm huyết phún nhơn tiên ô kỷ khẩu”. Những câu chữ Hán đó đã được ghép ngay vào trong câu chuyện đang nói một cách tự nhiên, song suốt. Có thể đây là tàn dư ảnh hưởng “Vang bóng
http://tieulun.hopto.org
một thời” của các cụ Đồ bốn phương, “chữ nghĩa đầy mình” quy tụ về Huế để ứng thí tại các trường thi của triều đình ngày xưa.
Cách nói điển tích: Họ cũng dùng điển tích trong câu chuyện hàng ngày của họ, phần lớn là điển tích lấy từ lịch sử Tàu, ví dụ: “Phản Trụ đầu Châu” hoặc điển tích trong nước ví dụ như “Vắng như chùa Bà Đanh”... hoặc lấy từ các tích tuồng hát bội như “Kéo cả bầy họ Tạ” trong tuồng Sơn Hậu chẳng hạn. Các điển tích nêu ra có công dụng nói lên được nhiều sự kiện, nhiều ý nghĩ, khỏi phải dài dòng. Có thể đó cũng là tàn tích xưa của nghệ thuật hát bội lúc còn thịnh trị, một nghệ thuật mà ảnh hưởng đã lan ra và thẩm thấu trong dân chúng ở Thừa Thiê Huế. Vì thế, dân Huế đã thường có một nhận định về “trung, nịnh” rất rõ ràng, minh bạch.
Cách nói lái: Thường là mục đích châm chọc, hoặc châm biếm hoặc để phê bình người khác, một tật cố hữu của người Huế. Ví dụ: tên O nó là Bách Diệp tức là “trăm lá”, trăm lá là tra lắm “tức già lắm” để chê cô gái đã già. Ông chú mà bất xứng thì kêu là “Chú trong họ” tức “chó trong hụ” hoặc ông anh không ra ông anh là “Anh chi mà anh, anh quẻ” tức là ẻ quanh (ẻ là tiếng lóng của đại tiện) thứ ông anh chưa đủ lớn. Cách thức nói lái của họ, nhiều khi đậm màu “thô tục” để vui cười, ví dụ: “Mụ Đắc”, “Tôn Lò”, “Cụ Đệ bất kể số chi”...
Cách nói bóng nói gió: Họ thường thích đàm tiếu dị nghị chuyện nhà người ta, xu hướng dạy đời. Ví dụ: “Chị nớ đang trung hưng ‘tức’ chị ấy đang dấy lên” trong trường hợp không chồng mà cái bụng của chị tự nhiên lớn phình lên... Có lúc họ nói bóng nói gió để dạy dỗ con cháu trong nhà. Ví dụ: “Cô dâu đơm chén cơm quá đầy thì bị ông gia “nhận xét” là “Núi Ngự Bình bữa ni cao hơn mọi ngày” hoặc cô dâu dọn mâm cơm ra mà không có chén nước mắm để ăn cho mặn miệng thì bị bà gia “nói khéo” là “tháng ni người Nam Ổ quên gánh nước mắm ra Huế bán” vì chỉ có lý do bất khả kháng ấy thôi mới không có chén nước mắm dọn ra trên mâm. Cách nói bóng nói gió, nói xa nói gần đó cũng là một tật cố hữu của dân Huế.
Cách nói lắt léo: không những nói lái để châm chọc hoặc phê bình người khác mà thôi, người Huế còn hay “nói lắt léo”, “nói cù lần”, “nói ngụy biện” để chữa thẹn, để đánh lạc hướng câu chuyện đang nói không mấy lợi cho họ. Đã say mèm “say tít cung thang” mà cũng còn chối là không say “Tau mô có say, say tình say nghĩa thì có” rồi nói lái qua tình nghĩa ở đời. Cũng vậy, phủ nhận sự can dự của mình vào câu chuyện đó thì nói liều là “Can chi tau, can vải thì có”, rồi nói qua chuyện can vải tức chuyện nói vải để may áo. Đó cũng là một bản sắc con người Huế. Ngụy biện biết đâu cũng đã là một khía cạnh dễ thương của các cụ đồ xưa lúc đuối lý hay ngay cả lúc đang say lướt khướt. Cũng là một cách để giữ phẩm giá, giữ bề ngoài của mình với quan niệm quan trọng hóa mình, luôn luôn nghĩ mình là “phương diện quốc gia”.
http://tieulun.hopto.org
Cách nói tiếng lóng: Dân Huế cũng có những tiếng lóng thông dụng riêng, cũng biết dùng tiếng lóng trong câu chuyện hàng ngày như mọi nơi khác. Tiếng long của họ được dùng với mục đích chế giễu vui cười với nhau mà thôi, không mấy ác ý. Chẳng hạn: “Cá lôi họng” tức thứ cá rẻ tiền ăn dễ bị mắc xương phải lôi họng ra lấy.
Cách nói lạc nghĩa và trệch chữ: Người dân Huế, phần lớn là ở thôn quê, hay có tật nói trật nghĩa, trệch chữ. Ví dụ: họ nói “Anh nớ tánh tình thâm trầm hiểm độc” có nghĩa là họ muốn nói “anh ấy ít nói”. “Trung gian” là “ở giữa” thì họ đôi khi lại dùng như “bên trong” (Trung gian chuyện ni, hai đứa có sự hiểu lầm mà ra). “Bình tịnh” là yên tĩnh thì họ lại dùng như “bình tĩnh”. “Cheo leo” là “cô đơn” thì họ lại dùng như “thèo leo” là đứng không vững (Anh ham đi chơi để em thèo leo một mình ở nhà). “Tương tư” là nhớ nhung thương nhớ thì đôi khi được dùng với nghĩa “khéo léo” như trong câu hò: “Anh têm năm miếng trầu tinh khiết, bỏ vô hộp thiếc, dựng cẩn xa cừ. Anh mướn người mối lái cho tương tư, thế mô chứ thế ni thầy mẹ cũng ừ cho anh”. Thông thường do bản tành thích nói chữ mà trở thành chệch nghĩa. Thay vì “hùng hổ” là hăng hái thì họ lại nói thành “hùm hổ” có nghĩa là ác đức hoặc thay vì nói “tội chưa” để an ủi người ta thì lại nói “tội tình chưa”. “Nói huyên thiên” thì họ lại nói “nói huyên thuyên”, một lỗi thông thường mà giáo sư Nguyễn Lân đã nêu lên trong quyển “Từ Điển Từ và Ngữ Việt Nam” của mình.
Cách nói kiểu cách: Dân Huế, nhất là ở chốn quan trường, trong các gia đình quan lại, trong các gia đình thể giá thường có các từ ngữ riêng biệt và cách nói riêng biệt. Ví dụ: họ dùng chữ “thời”thay vì chữ “ăn”: (“Thưa anh em đã làm rồi”, “thưa anh em đã hiểu ý anh rồi” v.v...), họ dùng chữ “dạy” khi nói đến “lời phản bảo” của các bậc trưởng thượng: (Anh đã dạy thì em xin vâng). Hai chữ “dạ bẩm” thường ở đầu môi chót lưỡi của họ: (Dạ bẩm thưa anh, em không dám có ý kiến chi) v.v... Tất cả đều do hai chữ “lễ nghĩa” mà thành.
Cách nói tránh kỵ húy: Người Huế thường tránh dùng nhưng chữ có tên của các bậc trưởng thượng, của các vua chúa thời xưa và thường “nói trệch” chữ đó để tỏ long kính trọng. Tên của Bà Cố là “Hồng” thì họ đọc trại lại là “Hường”. Tránh dùng chữ “Hoa” là tên của Bà Hồ Thị Hoa, vợ của vua Minh Mạng, thì họ dùng chữ “Huê” hoặc chữ “Ba”, và do đó “Hoa Viên” đã trở thành “Huê Viên” hoặc “Ba Viên” trong câu nói của nhân gian thường ngày.
Cách nói trong Nội: Trong cung vua, trong Đại Nội, ngôn từ của vua quan, của các phi tần, thái giám cũng khác ở ngoài đời. Đối với vua, người ta dùng nhiều chữ đặc biệt. Ví dụ: vua ngủ là “vua ngơi”, vua đau gọi là “vua xiết” v.v... Ngoài ra, các người trong hoàng tộc được kêu là “mấy mệ”, dùng cho cả đàn ông lẫn đàn bà. Ngoài ra, cũng cân nhắc đến giọng trong “Nội” khác giọng ngoài đời. Đó là giọng lơ lớ pha giọng Nam mà người Huế gọi là “giọng Mỹ lợi, giọng Phường Đúc”, theo lệnh của vua Minh
http://tieulun.hopto.org
Mạng “dạy” phải nói thứ giọng này trong Nội cung vì vị vua này đã có thời sinh sống nhiều năm ở vùng đất Nam Bộ.
http://tieulun.hopto.org