"Anne Tóc Đỏ Và Ngôi Nhà Mơ Ước PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anne Tóc Đỏ Và Ngôi Nhà Mơ Ước PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Anne tóc đỏ và ngôi nhà mơ ước Tên gốc: Anne’s House of Dream Tác giả: Lucy Maud Montgomery Giới thiệu Gilbert Blythe - tình yêu đích thực của đời Anne - cuối cùng cũng trở thành bác sĩ, và trong ánh nắng tỏa ngời khu vườn quả, giữa những bạn bè thân thiết nhất, họ nói lời thề ước bên nhau trọn đời. Một cuộc sống mới đang chờ đợi họ trong căn nhà mơ ước nơi bờ cảng Bốn Làn Gió mù sương tím. Cuộc sống mới cũng đồng nghĩa mới những vấn đề mới tinh phải giải quyết, những bất ngờ đáng yêu, những người bạn thú vị: thuyền trưởng Jim, người trông đèn chất chứa những câu chuyện buồn về biển; cô Cornelia, lời nói thẳng như ruột ngựa nhưng tấmlòng lại ấmáp vô ngần; và thiếu nữ tuyệt đẹp mang trong mình đầy bi kịch Leslie Moore, mà cuộc đời tămtối rồi đây sẽ được Anne soi vào ánh sáng rạng rỡ. Nhận định “ Dành cho tất cả những ai muốn được trải nghiệmcảmgiác vui vẻ, hài hước trong khi đọc; và đặc biệt dành cho tất cả những ai từng yêu thích Anne tóc đỏ dưới Chái Nhà Xanh.” - Resident Scholar Tác giả Lucy Maud Montgomery (1874-1942) chào đời tại Clifton (nay là vùng New London), thuộc đảo Hoàng Tử Edward, Canada. Năm1908, bà xuất bản cuốn đầu tiên trong series kinh điển về cô bé Anne tóc đỏ và thu được thành công vang dội. Đến nay, cuốn sách đã được xuất bản bằng hơn 30 ngôn ngữ, bán được tới hơn 50 triệu bản, đưa Montgomery thành một trong những nhà văn bestseller của mọi thời đại. Trọn bộ 8 cuốn series Anne tóc đỏ được Nhã Namxuất bản: - Anne tóc đỏ dưới Chái Nhà Xanh - Anne tóc đỏ làng Avonlea - Anne tóc đỏ ở đảo Hoàng tử Edward - Anne tóc đỏ dưới mái nhà Bạch Dương - Anne tóc đỏ và Ngôi Nhà Mơ Ước - Anne dưới mái nhà Bên Ánh Lửa - Thung lũng Cầu Vồng - Rilla dưới mái nhà Bên Ánh Lửa Mục lục 1. Trên gác xép chái nhà xanh 2. Ngôi nhà mơ ước 3. Giữa Vùng Đất Ước Mơ 4. Cô dâu đầu tiên của Chái Nhà Xanh 5. Về nhà 6. Thuyền trưởng Jim 7. Cô dâu của thầy giáo 8. Cô Cornelia Bryant ghé chơi 9. Một tối ở mũi đất Bốn Làn Gió 10. Leslie Moore 11. Chuyện của Leslie Moore 12. Leslie sang chơi 13. Một tối ma ám 14. Những ngày Tháng Mười một 15. Giáng sinh ở Bốn Làn Gió 16. Đêmgiao thừa ở ngọn đèn biển 17. Một mùa đông bốn làn gió 18. Những ngày xuân 19. Hoàng hôn và bình minh 20. Margaret quá cố 21. Những rào cản bị cuốn trôi 22. Cô Cornelia sắp xếp mọi việc 23. Owen Ford tới 24. Quyển sách cuộc đời của thuyền trưởng Jim 25. Viết sách 26. Lời thú nhận của Owen Ford 27. Trên cồn cát 28. Những chuyện vặt 29. Gilbert và Anne bất đồng 30. Leslie quyết định 31. Sự thật mang tự do 32. Cô Cornelia bàn chuyện 33. Leslie trở lại 34. Con tàu mơ ước cập bến 35. Chính trị ở Bốn Làn Gió 36. Sắc đẹp thay tro tàn 37. Cô Cornelia đưa ra một thông cáo gây kinh ngạc 38. Hoa hồng đỏ 39. Thuyền trưởng Jimra khơi 40. Tạmbiệt ngôi nhà mơ ước 1. Trên gác xép Chái Nhà Xanh “Ơn trời, tớ đã hết việc với môn hình học, học cũng xongmà dạy cũng xong,” Anne Shirley, như thể để trả đũa, vứt quyển Euclid có phần rách nát vào một hòm sách lớn, nện nắp hòm xuống một cách đắc thắng, rồi ngồi lên trên đó, nhìn Diana Wright qua gác xép Chái Nhà Xanh, với đôi mắt xám như bầu trời buổi sáng. Căn gác là một chốn mờ tối đầy khơi gợi và say mê, như tất cả mọi gác xép phải thế. Qua ô cửa sổ để ngỏ nơi Anne ngồi, làn không khí ngọt ngào, thơm nức, ấm mùi mặt trời của một chiều tháng Tám thổi qua; ngoài kia, những rặng phong rì rào lả lướt trong gió; xa xa là cánh rừng, nơi đường Tình Nhân trải ra mê hoặc, và vườn táo cũ vẫn còn hào phóng lưu lại những chùm quả ửng hồng. Và, trên tất cả, là những đám mây trắng tuyết như một rặng núi hùng vĩ trên bầu trời xanh phía Nam. Xa xa qua khung cửa sổ bên kia, biển xanh ngời, thấp thoáng, trắng lấp lóa - vịnh St. Lawrence xinh đẹp, cái tên Anh-điêng mềm mại, ngọt ngào này từ lâu đã bị bỏ rơi để thay bằng cái tên bình dân hơn, đảo Hoàng tử Edward. Diana Wright so với lần gặp trước đã già thêm ba tuổi, và trông đã chín chắn hẳn lên trong khoảng thời gian đó. Nhưng đôi mắt cô vẫn đen và long lanh, má vẫn hồng, và đôi lúm đồng tiền vẫn quyến rũ, như những ngày rất xa khi cô và Anne Shirley thề thốt tình bạn vĩnh cửu trong khu vườn nơi dốc Vườn Quả. Cô bế trên tay một sinh linh bé nhỏ tóc xoăn đen đang ngủ, đứa bé trong hai năm hạnh phúc vừa qua đã được toàn thể làng Avonlea biết đến với cái tên “bé Anne Cordelia”. Dân Avonlea biết tại sao Diana gọi cô bé là Anne, đương nhiên rồi, nhưng dân Avonlea ngơ ngác trước cái tên Cordelia. Chẳng có ai tên Cordelia trong số họ hàng thân thích nhà Wright hay nhà Barry hết cả. Bà Harmin Andrews đoán chắc Diana đã vớ được cái tên trong một cuốn tiểu thuyết rác rưởi nào đó, và tự hỏi Fred đầu óc thế nào mà lại đồng ý. Nhưng Diana và Anne cười với nhau. Họ biết Anne Cordelia bé nhỏ làm sao lại mang tên đó. “Lúc nào cậu cũng ghét môn hình,” Diana nói với một nụ cười hồi tưởng. “Thành thử tớ đoán cậu hẳn phải mừng lắm vì không còn phải dạy với dỗ gì nữa.” “Ôi, tớ lúc nào cũng thích dạy học, trừ dạy môn hình. Ba năm qua ở Summerside rất dễ chịu. Bà Harmon Andrews bảo với tớ khi về nhà tớ sẽ thấy cuộc sống hôn nhân cũng chẳng khá khẩm hơn việc dạy học là mấy như tớ mong đợi đâu. Rõ ràng bà Harmon cùng suy nghĩ với Hamlet, rằng thà cứ ôm lấy những khốn khó đang có còn hơn bay đến với những bất hạnh khác mà ta không biết.” Tiếng cười của Anne, vẫn trong trẻo và khó cưỡng như thuở nào, điểm thêm một nốt ngọt ngào và chín chắn, vang vọng qua căn gác xép. Bà Marilla trong căn bếp phía dưới, đang trộn mứt mận tía, nghe thấy liền mỉm cười; rồi thở dài nghĩ tiếng cười thân thiết ấy những năm sau này sẽ không mấy khi vang vọng trong Chái Nhà Xanh nữa. Không gì trong đời này làm bà hạnh phúc hơn là biết rằng Anne sẽ cưới Gilbert Blythe; nhưng mọi niềm vui đều phải mang theo một bóng mây sầu muộn nho nhỏ. Trong ba năm ở Summerside Anne vẫn thường xuyên về nhà vào các kỳ nghỉ và các dịp cuối tuần; nhưng, sau đám cưới, bà chỉ có thể mong chờ cô về thăm nửa năm một lần là nhiều. “Cậu chẳng cần để tâm lo lắng mấy lời bà Harmon nói đâu,” Diana, với sự tự tin của một người đã làm vợ làm mẹ được bốn năm nay, nói. “Cuộc sống hôn nhân có lúc lên lúc xuống, dĩ nhiên. Cậu không thể trông chờ mọi thứ lúc nào cũng trôi chảy. Nhưng tớ có thể cam đoan với cậu, Anne ạ, rằng đó sẽ là một đời sống hạnh phúc, khi cậu cưới được đúng người.” Anne nhoẻn cười. Dáng vẻ ta đây đầy một bồ kinh nghiệm của Diana lúc nào cũng làm cô thấy khôi hài đôi chút. “Mình dám chắc là rồi mình cũng sẽ khoác cái vẻ ấy, sau khi đã lấy chồng được bốn năm,” cô nghĩ. “Tuy nhiên hẳn khiếu hài hước của mình sẽ bảo vệ mình.” “Thế các cậu đã quyết xong sẽ ở đâu chưa?” Diana hỏi, vuốt ve Anne Cordelia bé nhỏ bằng một cử chỉ thấm đượm tình mẫu tử không thể bắt chước được mà lúc nào cũng truyền thẳng qua tim Anne, đong đầy những ước mơ và hy vọng ngọt ngào không cất nên lời, một cơn rùng mình nửa là niềm vui sướng trong trẻo, nửa là một nỗi đau lạ lùng, thoát tục. “Rồi. Tớ muốn báo cho cậu chuyện đó khi tớ gọi điện bảo cậu xuống đây hôm nay đấy. À mà tớ không nhận ra là chúng ta đã thực sự có điện thoại ở Avonlea rồi đâu đấy. Nghe có vẻ hiện đại và cập nhật đến ngược đời ở cái chốn xưa cũ yêu dấu êm đềm này.” “Ta có thể cám ơn Hội Cải tạo Đồng quê vì chuyện đó,” Diana nói. “Chúng ta chắc sẽ không bao giờ có đường dây nếu Hội không sấn tay vào làm đến nơi đến chốn. Chỗ nước lạnh giội vào đấy đủ để làm nhụt chí bất cứ hiệp hội nào. Nhưng gì thì gì Hội vẫn kiên quyết bám lấy ý tưởng đó. Cậu đã làm một điều tuyệt diệu cho Avonlea khi lập ra cái hội ấy, Anne ạ. Những buổi họp hành mới vui làm sao! Có bao giờ cậu quên được tòa thị chính xanh lè và âm mưu sơn quảng cáo thuốc tây lên hàng rào của Judson Parker không cơ chứ?” “Tớ chả biết mình có toàn tâm toàn ý biết ơn Hội về vấn đề đường dây điện thoại không nữa,” Anne nói. “Ôi, tớ biết là rất tiện - còn tiện hơn phương pháp ra dấu bằng nến của bọn mình hồi xưa nữa! Và, như bà Rachel nói, ‘Avonlea phải theo kịp thời đại, thế đấy’. Nhưng chả hiểu sao tớ vẫn thấy như mình không muốn Avonlea bị làm hư bởi cái mà bác Harrison gọi là ‘những bất-tiện-ích hiện đại’, mỗi khi bác ấy muốn tỏ ra hóm hỉnh. Tớ muốn giữ nó mãi như những năm tháng cũ thân thương ấy. Thật là ngốc - và sến nữa - và bất khả. Thế nên giờ tớ sẽ ngay lập tức trở nên thông thái và thực tế và khả thi. Cái điện thoại, như bác Harrison thừa nhận, là ‘một thứ tốt đẹp tổ chảng’ - ngay cả khi cậu chắc mẩm là có nửa tá người hiếu kỳ đang nghe lỏm trên đường dây.” “Tệ nhất là chuyện đấy,” Diana thở dài. “Thật bực mình khi nghe tiếng dập ống nói mỗi khi mình gọi cho ai đó. Người ta bảo bà Harmon Andrews đã khăng khăng đòi đặt điện thoại trong bếp cốt sao cho bà ta vẫn vừa trông nom được buổi tối vừa có thể nghe lỏm được bất cứ lúc nào chuông reo. Hôm nay, lúc cậu gọi tớ, tớ nghe rõ ràng tiếng gõ của cái đồng hồ quái gở nhà Pye. Thế nên không nghi ngờ gì nữa, hoặc Josie hoặc Gertie đang nghe lỏm.” “Ô, ra đấy là lý do cậu nói, ‘Ở Chái Nhà Xanh mới sắm một cái đồng hồ mới đúng không?’ Tớ chả tưởng tượng nổi ý cậu là gì. Tớ nghe một tiếng cạch rõ là hằn học ngay khi cậu nói xong. Tớ đoán đấy là cái máy nghe nhà Pye bị dập xuống bằng một lực trời giáng. Ôi, kệ nhà Pye đi. Nhà bà Rachel nói, ‘Luôn là Pye và mãi mãi sẽ là Pye, dù trời long đất lở, amen.’ Tớ muốn nói tới những điều dễ chịu hơn. Chuyện nhà mới của tớ ở đâu đã quyết định cả rồi.” “Ôi, Anne, ở đâu thế? Tớ thật sự hy vọng là nó ở gần đây.” “Khôôông, dở một cái là như thế. Gilbert sẽ định cư ở cảng Bốn Làn Gió - cách đây sáu mươi dặm.” “Sáu mươi! Thế thì thà sáu trăm dặm cho xong,” Diana thở dài. “Giờ thì tớ chẳng bao giờ đi xa khỏi nhà đến quá Charlottetown.” “Cậu sẽ phải đến Bốn Làn Gió. Đấy là vũng neo tàu đẹp nhất trên đảo. Có một ngôi làng nhỏ tên là Glen St. Mary ở đầu bến cảng, và bác sĩ David Blythe đã làm việc ở đó được năm mươi năm. Ông là ông chú của Gilbert, cậu biết đấy. Ông sắp về hưu, và Gilbert sẽ tiếp quản công việc của ông. Nhưng mà bác sĩ Blythe sẽ giữ lại nhà của mình, thế nên bọn tớ sẽ phải tìm một chỗ ở riêng. Tớ còn chưa biết trên thực tế nó sẽ ra sao hay ở đâu, nhưng tớ có một ngôi nhà mơ ước nho nhỏ, trang bị đầy đủ đồ đạc trong trí tưởng tượng của mình - một lâu đài be bé xinh xinh ở Tây Ban Nha.” “Các cậu sẽ đi nghỉ tuần trăng mật ở đâu?” Diana hỏi. “Không đâu cả. Đừng tỏ vẻ hãi hùng như thế, Diana thân mến. Cậu làm tớ nhớ tới bà Harmin Andrews đấy. Bà ấy, đương nhiên, sẽ nhận xét một cách kẻ cả là những ai không đủ tiền đi ‘chăng mật’ thì khôn nhất là đừng có đi; và rồi bà ấy sẽ nhắc cho mình nhớ là Jane hồi đó đã đi châu Âu. Tớ muốn trải qua tuần trăng mật của tớ ở Bốn Làn Gió trong căn nhà mơ ước thân yêu của riêng mình.” “Và cậu cũng đã quyết định sẽ không cần phụ dâu?” “Chẳng có ai để mà làm phụ dâu cả. Cậu, Phil, Priscilla và Jane đều đi trước tớ một bước trong vấn đề hôn nhân; còn Stella thì đang dạy học ở Vancouver. Tớ chẳng còn ‘tâm hồn đồng điệu’ nào khác và nếu thế thì tớ cũng chả muốn nhờ ai khác làm phụ dâu.” “Nhưng cậu sẽ đeo mạng chứ, phải không?” Diana hỏi, vẻ hồi hộp. “Có chứ, hẳn rồi. Tớ sẽ không cảm thấy mình là một cô dâu nếu không đeo mạng. Tớ nhớ có lần mình nói với bác Matthew, cái buổi tối bác ấy đưa tớ về Chái Nhà Xanh, rằng tớ chẳng bao giờ mong được làm cô dâu vì tớ xấu quá chẳng ai thèm cưới… trừ một nhà truyển đạo nước ngoài nào đó. Hồi đó tớ có ý nghĩ là mấy nhà truyền đạo nước ngoài chắc không thể kén cá chọn canh quá trong vấn đề hình thức nếu họ muốn một cô gái phải liều mình sống giữa đám người man rợ. Cậu nên gặp mặt nhà truyền đạo nước ngoài chồng Priscilla. Anh ấy đẹp trai và bí hiểm y hệt những chàng trai trong mơ mà chúng ta lên kế hoạch cưới về cho riêng mình hồi xưa ý, Diana ạ; anh ấy là người đàn ông ăn mặc đẹp nhất mà tớ từng gặp, và anh ấy mê tít thò lò ‘vẻ đẹp siêu thoát, vàng son’ của Priscilla. Nhưng dĩ nhiên ở Nhật Bản thì không có những kẻ ăn thịt người.” “Dù sao thì, chiếc áo cưới của cậu đúng là một giấc mơ. Diana thở dài nồng nhiệt. “Cậu sẽ trông như một nữ hoàng tuyệt đẹp khi mặc nó… cậu mới cao và thanh mảnh làm sao. Làm thế nào mà cậu giữ được dáng mảnh dẻ như thế hở Anne? Tớ giờ béo hơn bao giờ hết… chẳng mấy chốc mà tớ sẽ chả còn tí eo nào cả.” “Mập mạp hay gầy gò có vẻ là chuyện trời định rồi,” Anne nói. “Dẫu sao thì, bà Harmon Andrews cũng không thể nói với cậu cái điều bà ấy nói với tớ khi tớ từ Summerside trở về, ‘Này, Anne ạ, cháu đúng là vẫn gầy nhom như thuở nào.’ ‘Mảnh dẻ’ thì nghe khá lãng mạn, nhưng ‘gầy nhom’ lại có vị rất khác.” “Bác Harmon cũng có bàn tán về hòm hồi môn của cậu. Bà ấy thừa nhận là nó cũng đẹp như của Jane, mặc dù bà ấy bảo Jane thì cưới một triệu phú còn cậu thì chỉ cưới ‘một bác sỉ trẻ nghèo chả có một xu lận lưng’.” Anne cười lớn. “Đám quần áo của tớ đúng là đẹp. Tớ thích những thứ đẹp đẽ. Tớ nhớ bộ váy đẹp đầu tiên tớ từng có… chiếc váy lụa nâu mà bác Matthew tặng tớ để diện ở buổi hòa nhạc của trường. Trước đó mọi thứ tớ mặc đều thậm xấu. Tớ như đã bước sang một thế giới khác từ cái đêm hôm đó.” “Đấy là đêm Gilbert ngâm bài ‘Bingen trên sông Rhine’, và nhìn về phía cậu nói, ‘Có một người nữa, không phải người em gái.’ Còn cậu thì tức lồng lên vì cậu ấy để bông hoa hồng giấy của cậu trong túi áo ngực! Lúc đó chắc cậu chả hình dung nổi là sẽ có ngày cưới cậu ấy đâu nhỉ.” “Ừ thì, đấy lại là một chuyện trời định khác,” Anne cười, khi cả hai cùng bước xuống thang gác xép. 2. Ngôi nhà mơ ước Chưa bao giờ trong lịch sử của Chái Nhà Xanh, không khí lại phấn khích đến thế. Ngay cả bả Marilla cũng hào hứng đến mức không thể không thể hiện ra ngoài… mà điều này thì quả là một hiện tượng. “Chưa từng có một đám cưới nào trong căn nhà này,” bà nói với bà Rachel Lynde, vẻ hơi hối tiếc. “Hồi nhỏ tôi nghe một cha đạo già nói rằng một căn nhà không thể là một mái ấm thực thụ nếu nó chưa được thụ phong bởi một cuộc sinh nở, một đám cưới và một đám tang. Đã có những người qua đời nơi đây… cha mẹ tôi mất ở đây, cả anh Matthew nữa; và chúng tôi đã có một cuộc sinh nở ở đây. Lâu lắm rồi, ngay lúc chúng tôi vừa chuyển vào căn nhà này, một người làm thuê có gia đình đã lưu lại đây một thời gian, và vợ anh ta đã sinh một đứa bé ở đây. Nhưng chưa từng có một đám cưới nào. Thật lạ lùng khi nghĩ đến việc Anne lấy chồng. Theo một cách nào đó, với tôi nó dường như vẫn là con bé anh Matthew mang về nhà mười bốn năm về trước. Tôi không tài nào nhận ra nổi là nó đã trưởng thành. Tôi sẽ không bao giờ quên mình đã cảm thấy thế nào khi Matthew mang vào nhà một đứa con gái. Tôi tự hỏi đứa con trai chúng tôi đáng lẽ đã nhận được sẽ ra sao nếu không có sự nhầm lẫn đó. Tôi tự hỏi số phận của nó thế nào rồi.” “Ừ, đấy là một sự nhầm lẫn may mắn,” bà Rachel Lynde nói, “mặc dù, nhắc cho chị nhớ, đã có lúc tôi không nghĩ thế đâu… cái buổi tối tôi đếm xem mặt Anne và con bé đã đãi chúng ta một màn kịch ra trò. Nhiều thứ đã thay đổi từ đó đến giờ, thế đấy.” Bà Rachel thở dài, rồi lại hoạt bát lên gay. Cứ hễ sắp có đám cưới là bà Rachel sẵn sàng vùi chôn quá khứ. “Tôi sẽ cho con bé Anne hai tấm trải trang trí giường bằng vải sợi bong đan dọc của tôi,” bà nói tiếp. “Một có họa tiết sọc nâu đen và một hình lá táo. Nó bảo giờ chúng lại đang mốt. Hừm, mốt hay không mốt, tôi không tin có thứ gì xinh hơn một tấm trải hình lá táo đẹp cho một phòng ngủ trống, thế đấy. Tôi phải sửa soạn đem chúng ra tẩy mới được. Từ hồi Thomas mất tôi đã khâu chúng vào trong mấy cái túi đựng vải sợi bong, đảm bảo là màu sắc trông tệ lắm. Nhưng còn tới một tháng nữa, và phơi sương sẽ cho tác dụng diệu kỳ.” Chỉ còn một tháng! Bà Marilla thở dài rồi tự hào nói: “Tôi sẽ cho Anne nửa tá thảm bện tôi để trên gác xép. Tôi chả bao giờ nghĩ là con bé sẽ muốn lấy chúng… chúng lỗi mốt quá rồi, và dạo này có vẻ như chẳng ai thích gì khác ngoài mấy cái thảm đan. Nhưng nó hỏi xin tôi… bảo là nó muốn có mấy cái thảm ấy để trải sàn nhà của nó hơn bất cứ thứ gì khác. Chúng cũng đẹp mà. Tôi dùng những mẩu vải đẹp nhất mà bện thành sọc. Rất được việc trong mấy mùa đông vừa qua. Và tôi sẽ làm đủ mứt mận tía cho nó trữ cả năm trong tủ mứt. Kể cũng lạ lùng. Mấy cây mận tía đó ba năm rồi chưa nở hoa, tôi cứ tưởng chắc phải chặt đi rồi. Thế mà mùa xuân vừa rồi chúng nở hoa trắng xóa, và chưa bao giờ tôi nhớ ở Chái Nhà Xanh lại có một đợt mận sai quả đến thế.” “Ôi, cảm ơn Chúa là cuối cùng Anne và Gilbert cũng sắp cưới nhau. Lúc nào tôi cũng cầu nguyện cho điều này xảy ra,” bà Rachel nói, bằng giọng điệu của một người tin tưởng một cách thoải mái là những lời cầu nguyện của mình kiểu gì cũng ứng nghiệm. “Thật nhẹ nhõm khi biết tin nó không định cưới cái cậu người Kingsport kia. Cậu ta giàu, dĩ nhiên, còn Gilbert thì nghèo… ít nhất bây giờ thì thế; nhưng mà Gilbert là con trai đảo.” “Nó là Gilbert Blythe,” bà Marilla nói vẻ hài lòng. Bà Marilla thà chết còn hơn nói thành lời ý nghĩ lúc nào cũng ở tận sâu trong tâm khảm bà khi bà ngắm nhìn Gilbert từ lúc cậu còn bé đến nay… rằng nếu không phải vì lòng kiêu hãnh ngang ngạnh của mình từ lâu, rất lâu rồi, thì cậu đáng lẽ đã là con trai bà. Bà Marilla cảm thấy rằng, theo một cách kỳ lạ nào đó, cuộc hôn nhân của cậu với Anne sẽ sửa chữa sai lầm cũ đó. Tốt đẹp đã đến từ sự xấu xí của niềm cay đắng cũ xưa. Về phần mình, Anne hạnh phúc đến nỗi cô gần như sợ hãi. Sự mê tín trong cô mách bảo rằng các vị thần không thích chứng kiến những phàm nhân quá ư hạnh phúc. Ít nhất có một điều chắc chắn… một vài người không thích điều đó. Hai trong số đó “giáng” xuống gặp Anne một buổi hoàng hôn màu tím nọ và xúc tiến làm những gì có thể để chọc vào quả bong bóng cầu vồng mãn nguyện của cô. Nếu cô tưởng kiếm được anh bác sĩ trẻ Blythe đã là một phần thưởng gì ghê gớm lắm, hoặc nếu cô mơ mộng cho rằng anh vẫn còn say đắm cô như cái thuở ngờ nghệch ngày xưa, thì hiển nhiên nhiệm vụ của họ là đặt vấn đề trước mặt cô dưới một ánh sáng mới. Thế nhưng hai người phụ nữ xứng đáng này không phải là kẻ thù của Anne; ngược lại, thực ra họ khá mến cô, và nếu có ai khác công kích cô thì họ sẽ đứng ra bảo vệ cô như con cái của chính mình vậy. Bản chất của con người không phải lúc nào cũng nhất quán. Bà Inglis - tức Jane Andrews, theo tờ Daily Enterprise - đến cùng mẹ và bà Jasper Bell. Nhưng ở Jane, dòng sữa tình cảm con người đã không bị đóng cặn theo những năm tháng vật vãnh của hôn nhân. Cuộc sống của cô đã đi vào những nề nếp dễ chịu. Mặc dù cô cưới một triệu phú - như bà Rachel Lynde hay nói - cô đã có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Sự giàu sang đã không làm hỏng cô. Cô vẫn là cô Jane má hồng điềm đạm, dễ mến của bộ tứ ngày nào, sẻ chia với hạnh phúc của người bạn cũ và cũng hứng thú nhiệt thành với những chi tiết nhỏ xinh trong bộ đồ hồi môn của Anne như thể chúng có thể tranh đua với những món lụa là trang sức sang trọng của chính cô vậy. Jane không phải là người sáng láng, và có lẽ trong đời mình cô chưa bao giờ đưa ra được một nhận xét gì đáng để lắng tai nghe; nhưng cô cũng chưa bao giờ nói điều gì làm tổn thương đến ai… có thể đấy là một khả năng hơi tiêu cực nhưng vẫn là một khả năng hiếm có và đáng ghen tị. “Vậy là Gilbert cũng không quay lưng lại với cháu nhỉ,” bà Harmon Andrews nói, cố truyền đạt một chút ngạc nhiên trong giọng nói. “Ừ, nhà Blythe thường đã nói lời thì sẽ giữ lấy lời, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa. Để ta xem nào… cháu hai mươi lăm rồi Anne nhỉ? Thời của ta, hai lăm tuổi là bước ngoặt đầu tiên đấy. Nhưng trông cháu cũng khá trẻ. Mấy người tóc đỏ lúc nào trông cũng trẻ hơn tuổi.” “Tóc đỏ giờ đang mốt,” Anne nói, cố gắng mỉm cười nhưng giọng vẫn khá lạnh lùng. Cuộc đời đã nuôi lớn trong cô một khiếu hài hước giúp cô vượt nhiều khó khăn; nhưng vẫn chưa điều gì che chắn được cho cô khỏi những ám chỉ liên quan đến mái tóc của mình. “Đúng thế… đúng thế,” bà Harmon nhượng bộ. “Chả ai nói trước được những thứ đồng bóng quái dị mà thời trang đi theo. Anne à, mấy món đồ của cháu đẹp đấy, và rất hợp với địa vị hiện tại của cháu trong cuộc sống, đúng không Jane nhỉ? Ta hy vọng cháu sẽ rất hạnh phúc. Ta chúc cho cháu những gì tốt nhất, chắc chắn rồi. Một hôn ước kéo dài thường không mấy khi kết thúc tốt đẹp. Nhưng dĩ nhiên, trong trường hợp của cháu thì đấy là chuyện chẳng đặng đừng.” “Gilbert trông quá trẻ để làm bác sĩ. Ta sợ là mọi người sẽ không tin tưởng cậu ấy lắm,” bà Jasper Bell nói vẻ u ám. Rồi bà ngậm chặt miệng lại, như thể bà đã nói xong cái điều bà cho là nghĩa vụ phải nói và giờ thì lương tâm bà sạch sẽ. Bà thuộc loại luôn thủ sẵn một sợi lông đen dai nhách trong mũ và một vài lọn tóc rối trên cổ. Niềm vui bề mặt của Anne với những món đồ cưới xinh đẹp của mình tạm thời bị phủ bóng; nhưng những tầng sâu hạnh phúc bên dưới không vì thế mà xáo trộn; và những vết châm chích nhỏ nhặt của hai quý bà Bell và Andrews đã được lãng quên sau đó khi Gilbert đến, và họ tha thẩn tản bộ tới hàng bu lô bên suối, mới hôm nào khi Anne đến Chái Nhà Xanh còn là những cây non, giờ đã là những hàng cột cao lớn màu ngà trong lâu đài thần tiên của ráng chiều và những vì sao. Anne và Gilbert thì thầm kiểu-những-người-yêu-nhau về ngôi nhà mới và cuộc đời mới của họ dưới bóng những hàng bu lô ấy. “Anh đã tìm được một tổ ấm mới cho chúng ta, Anne ạ.” “Ôi, ở đâu? Em hi vọng không phải ở ngay trong làng chứ ạ. Em sẽ chẳng thích thế đâu.” “Không. Chẳng có ngôi nhà cho thuê nào trong làng cả. Đây là một căn nhà nhỏ màu trắng bên bờ cảng, nằm giữa làng Glen St. Mary và mũi đất Bốn Làn Gió. Hơi biệt lập một tí, nhưng khi nào có điện thoại thì điều đó sẽ không quá quan trọng nữa. Vị trí rất đẹp. Nó nhìn về phía hoàng hôn và có một vịnh cảng xanh tuyệt diệu trước mặt. Những đụn cát cũng không cách quá xa… gió biển thổi qua chúng và sóng biển nhúng ướt chúng.” “Nhưng còn căn nhà thì sao, Gilbert… mái ấm đầu tiên của chúng ta? Trông nó như thế nào?” “Không quá to, nhưng đủ rộng cho hai ta. Một phòng khách tuyệt vời có lò sưởi ở tầng dưới, rồi một phòng ăn nhìn ra vịnh cảng, và một căn phòng nhỏ vừa làm văn phòng cho anh. Căn nhà được khoảng sáu mươi tuổi rồi - căn nhà cao tuổi nhất ở Bốn Làn Gió. Nhưng nó được giữ gìn tu sửa khá tốt, và đã được trùng tu toàn bộ khoảng mười lăm năm trước - lợp mái, trát vữa và làm lại sàn. Căn bản nó cũng là một căn nhà được xây kiên cố. Theo anh hiểu thì đã từng có một câu chuyện lãng mạn nào đó gắn với nó, nhưng người anh hỏi thuê lại không biết. Ông ta nói thuyền trưởng Jim là người duy nhất kể được câu chuyện cũ đó.” “Thuyền trưởng Jim là ai?” “Người gác đèn trong ngọn hải đăng của mũi Bốn Làn Gió. Em sẽ yêu ngọn đèn đó cho mà xem, Anne ạ. Đó là một ngọn đèn xoay, nó lóe sáng như một ngôi sao rực rỡ trong buổi chiều tà. Ta có thể nhìn thấy nó từ các cửa sổ phòng khách và cửa chính nhà ta.” “Ai sở hữu căn nhà vậy?” “À, giờ thì nó là tài sản của Giáo hội Trưởng lão Glen St. Mary, và anh thuê nó từ ban ủy thác. Nhưng mãi đến gần đây nó vẫn thuộc về một quý bà rất già, bà Elizabeth Russell. Bà mất mùa xuân vừa rồi, và vì bà không có họ hàng gần nào cả nên bà để lại tài sản cho nhà thờ Glen St. Mary. Đồ đạc của bà vẫn còn ở trong nhà, và anh đã mua lại gần hết - giá rẻ như cho không em ạ, vì chúng lỗi mốt đến nỗi ban ủy thác đã hết hy vọng bán được chúng. Dân ở Slen St. Mary thích nệm bọc gấm và tủ búp phê kính với đồ trang trí hơn, anh đoán thế. Nhưng đồ gỗ của bà Russell rất tốt và anh tin chắc là em sẽ thích, Anne ạ.” “Từ đầu đến giờ thì ổn,” Anne nói, gật đầu tán thành một cách thận trọng. “Nhưng mà, Gilbert ạ, người ta không thể sống chỉ bằng đồ gỗ mà thôi. Anh còn chưa nhắc đến một thứ hết sức quan trọng. Có cây cối quanh căn nhà này không?” “Vô khối, ôi, cả một nữ thần rừng! Có một rừng linh sam lớn sau nhà, hai hàng dương Lombardy dọc lối đi, và một hàng bu lô trắng bao quanh một khu vườn vô cùng tuyệt diệu. Cửa chính nhà chúng ta mở ngay ra vườn, nhưng còn một lối vào nữa - một vòm cổng nhỏ treo ngay giữa hai cây linh sam. Bản lề ở thân cây bên này và then cửa ở bên kia. Các cành cây tạo thành một mái vòm ở trên đầu.” “Ôi, em sung sướng quá! Em không thể sống được ở nơi nào không có cây… một phần thiết yếu trong em sẽ chết mòn đi mất. Ừm, sau hết, chắc em không cần hỏi anh liệu có một con suối nào gần đó nữa đâu nhỉ. Như thế thì quả là hy vọng quá nhiều.” “Nhưng có một con suối mà… mà nó còn cắt ngang một góc khu vườn nữa kìa.” “Thế thì,” Anne nói, với một tiếng thở dài mãn nguyện cực kỳ, “ngôi nhà anh tìm thấy này, không đâu khác, chính là ngôi nhà mơ ước của em.” 3. Giữa Vùng Đất Ước Mơ “Cháu đã quyết định mời những ai đến dự đám cưới chưa Anne?” bà Rachel Lynde hỏi, trong khi vẫn cần mẫn khâu giua mấy cái khăn ăn. “Cũng đến lúc gửi thiếp mời rồi đấy, dù chỉ là mời thân mật.” “Cháu cũng không định mời nhiều lắm đâu ạ,” Anne nói. “Chúng cháu chỉ muốn có những người yêu thương nhất chứng kiến chúng cháu làm đám cưới thôi. Người nhà Gilbert này, gia đình mục sư Allan, nhà bác Harrison này.” “Đã có lúc cháu chắc không liệt ông Harrison vào chỗ bạn bè thân thiết đâu,” bà Marrilla nói khô khan. “Vâng, cháu không thích bác ấy cho lắm ở lần gặp đầu tiên,” Anne thừa nhận, cười thành tiếng khi nhớ lại. “Nhưng bác Harrison đã ngày càng trở thành thân tình, còn bác gái thì thật sự quá đáng yêu. Rồi, dĩ nhiên, có cô Lavendar và Paul nữa.” “Họ đã quyết định đến đảo mùa hè này à? Ta tưởng họ định đi châu Âu.” “Họ thay đổi ý định khi cháu viết thư báo là cháu sắp cưới. Hôm nay cháu vừa nhận được một lá thư từ Paul. Cậu ấy bảo cậu ấy phải dự đám cưới của cháu, chuyện gì xảy đến với châu Âu cũng mặc.” “Thằng bé ấy lúc nào cũng thần tượng cháu,” bà Rachel nhận xét. “ ‘Thằng bé ấy’ giờ đã là một thanh niên mười chín tuổi rồi, bác Lynde ạ.” “Đúng là thời gian thấm thoắt thoi đưa!” là câu trả lời sáng láng và độc đáo của bà Lynde. “Charlotta Đệ Tứ có thể cũng đến. Con bé nhắn qua Paul là sẽ đến nếu chồng nó cho phép. Cháu tự hỏi không biết nó có còn đeo mấy cái nơ xanh to đùng ấy không, không biết chồng nó gọi nó là Charlotta hay Leonora. Có Charlotta ở đám cưới thì tốt biết mấy. Charlotta và cháu đã từng có mặt tại một đám cưới, hồi lâu rồi. Theo dự kiến thì tuần tới mọi người đã ở Nhà Vọng rồi. Rồi còn có Phil và mục sư Jo…” “Thật là kinh khủng khi nghe nói cháu về một mục sư như vậy, Anne ạ.” Bà Rachel nghiêm khắc nói. “Vợ anh ấy gọi anh ấy thế mà.” “Thế thì cô vợ ấy nên kính trọng danh vị thiêng liêng của chồng mình hơn,” bà Rachel vặn lại. “Cháu đã từng nghe bác chỉ trích sát sàn sạt các mục sư còn gì,” Anne trêu. “Đúng, nhưng ta làm thế một cách cung kính,” bà Lynde phản đối. “Cháu đã bao giờ nghe ta đặt biệt danh cho một mục sư chưa?” Anne nặn ra một nụ cười. “Ừm, có Diana và Fred và Fred bé và Anne Cordelia bé nhỏ… và Jane Andrews. Cháu ước sao có cả cô Stacey và dì Jamesina và Priscilla và Stella nữa. Nhưng Stella thì ở Vancouver, Pris ở Nhật, và cô Stacey thì lập gia đình ở California, còn dì Jamesina thì đã đi Ấn Độ để khám phá khu truyền đạo của con cái dì ấy, mặc dù vẫn rất sợ rắn. Thật là dễ sợ… giờ mọi người cứ rải rác khắp địa cầu ấy.” “Chúa không bao giờ muốn vậy đâu, thế đấy,” bà Rachel nói giọng uy quyền. “Hồi ta còn trẻ, mọi người lớn lên và dựng vợ gả chồng rồi định cư ngay nơi họ sinh ra, hoặc khá gần đó. Ơn trời là cháu vẫn gắn với đảo, Anne ạ. Ta cứ sợ là Gilbert sẽ đòi lao về nơi xó xỉnh địa cầu nào đó khi xong đại học, và lôi cháu theo cùng.” “Nếu mọi người đều ở lại nơi mình sinh ra thì sẽ sớm đầy chật mọi chỗ mất, bác Lynde ạ.” “Ôi, ta không tranh luận với cháu đâu Anne. Ta có phải là cử nhân đâu. Hôn lễ sẽ cử hành vào lúc nào?” “Bọn cháu đã quyết định là vào buổi trưa - chính ngọ, như cánh phóng viên xã hội sẽ nói. Như vậy chúng cháu sẽ có thời gian bắt chuyến tàu tối đến Glen St. Mary.” “Và cháu sẽ kết hôn trong phòng khách chứ?” “Không ạ, chỉ trừ phi trời mưa thôi. Chúng cháu muốn tổ chức trong vườn… với trời xanh trên đầu và nắng vàng xung quanh. Nếu được, bác có biết cháu muốn được làm đám cưới ở đâu và lúc nào không? Sẽ là vào lúc bình minh… một buổi bình minh tháng Sáu, với cảnh mặt trời mọc huy hoàng, và hoa hồng bừng nở trong vườn; rồi cháu sẽ lẻn xuống gặp Gilbert và chúng cháu sẽ cùng nhau đi đến giữa rừng sồi… và ở đó, dưới những vòm xanh như một giáo đường lộng lẫy, chúng cháu sẽ cưới nhau.” Bà Marilla khịt mũi vẻ khinh bỉ còn bả Lynde thì có vẻ sốc. “Anne! Như thế thì thật là kỳ cục quá. Chao ôi, lại chẳng có vẻ hợp pháp nữa cơ. Bà Harmon Andrews sẽ nói sao?” “À, cái khó là ở chỗ đó,” Anne thở dài. “Có quá nhiều thứ trong đời ta không thể làm được vì sợ bà Harmon Andrews ‘sẽ nói sao’. ‘Cái đó đúng, cái đó thật đáng tiếc, và tiếc quá, đúng là vậy đó.’ Ta sẽ làm được bao nhiêu là việc hay ho nếu không phải vì bà Harmon Andrews!” “Anne à, nhiều lúc ta không dám chắc là ta hoàn toàn hiểu được cháu đâu,” bà Lynde phàn nàn. “Anne nó lúc nào cũng lãng mạn, chị biết đấy,” bà Marilla nói vẻ biện minh. “Ừm, đời sống hôn nhân chắc chắn sẽ chữa cho nó khỏi cái bệnh đó,” bà Rachel trả lời vẻ an ủi. Anne cười rồi lẻn ra đường Tình Nhân, Gilbert tìm thấy cô ở đó; và không ai trong hai người có vẻ dung dưỡng sự sợ hãi, hay niềm hy vọng, rằng cuộc sống hôn nhân sẽ chữa họ khỏi bệnh lãng mạn. Người Nhà Vọng đến vào tuần sau đó, và Chái Nhà Xanh rộn ràng vui cùng họ. Cô Lavendar thay đổi ít đến nỗi ba năm kể từ chuyến thăm đảo trước của cô cứ như mới hôm qua; nhưng Anne há hốc mồm kinh ngạc trước Paul. Có thể nào chàng trai cáo mét tám sáng rỡ ràng này lại là cậu Paul bé bỏng của những ngày đến trường ở Avonlea? “Em làm cô thấy mình già thực sự đấy, Paul ạ,” Anne nói. “Xem này, cô phải ngước nhìn em đây này!” “Cô sẽ không bao giờ già đi, cô giáo ạ,” Paul nói. “Cô là một trong những người trần may mắn đã tìm thấy và uống nước từ Suối nguồn Tươi trẻ - cô và mẹ Lavendar. Này nhé! Khi cô cưới em sẽ không gọi cô là bà Blythe đâu. Với em cô sẽ luôn luôn là ‘cô giáo’ - cô giáo của những bài học tốt đẹp nhất mà em từng được học. Em muốn cho cô xem cái này.” “Cái này” ấy là một quyển số tay chép đầy thơ. Paul đã đem những tưởng tượng đẹp đẽ của mình chuyển thành những vần thơ, và các nhà biên tập tạp chí không đến nỗi kém khiếu thưởng thức như thi thoảng họ vẫn thế. Anne đọc những bài thơ của Paul với niềm vui thích thật sự. Chúng đầy quyến rũ và hứa hẹn. “Paul, em rồi sẽ nổi tiếng. Cô lúc nào cũng mơ có được một học trò nổi tiếng. Người đó đáng lẽ phải là hiệu trưởng một trường đại học… nhưng một nhà thơ lớn thì còn tốt hơn. Một ngày nào đó cô sẽ có thể huênh hoang là cô đã đánh đòn Paul Irving danh tiếng. Nhưng mà cô chưa bao giờ đánh đòn em, đúng không Paul nhỉ? Một cơ hội bị bỏ lỡ! Nhưng cô nghĩ mình đã từng bắt em ở lại lớp trong giờ nghỉ.” “Cô có thể cũng sẽ nổi tiếng mà, cô giáo. Ba năm trở lại đây em đã được xem khá nhiều tác phẩm của cô.” “Không. Cô biết cô làm được gì chứ. Cô có thể viết những phác thảo nhỏ xinh giàu tưởng tượng mà bọn trẻ con thích và các nhà biên tập gửi cho những tấm séc gọi mời. Nhưng cô không làm được gì lớn cả. Cơ hội duy nhất trên cõi đời này để cô thành bất tử là một góc trong hồi ký của em.” Charlotta Đệ Tứ đã từ bỏ mấy chiếc nơ xanh nhưng những nốt tàn nhang của cô thì vẫn không ít hơn là mấy. “Em không bao giờ nghĩ là mình sẽ xuống thấp đến mức cưới một gã Yankee, cô Shirley ạ,” cô nói. “Nhưng mà chẳng làm sao biết được phía trước có gì, mà đấy cũng không phải lỗi của anh ấy. Anh ấy sinh ra đã thế rồi.” “Em cũng là một người Yankee rồi đấy, Charlotta, vì em đã cưới một người Yankee.” “Cô Shirley, em không phải! Và em sẽ không bao giờ là thế ngay cả nếu em cưới một tá Yankee! Tom khá dễ thương. Với cả, em nghĩ em không nên khó chiều quá, vì em có thể không có cô hội thứ hai. Tom không rượu chè và không càu nhàu vì anh ấy còn phải làm việc kiếm ăn, và nói gì thì nói em cũng hài lòng, cô Shirley ạ.” “Anh ấy có gọi em là Leonora không?” Anne hỏi. “Lạy Chúa, không, cô Shirley ạ. Nếu mà thế thì em sẽ chẳng biết anh ấy gọi ai. Dĩ nhiên, khi làm đám cưới anh ấy phải nói, ‘Anh lấy em, Leonora,’ và em phải nói với cô, thưa cô Shirley, em có cảm giác kinh khủng nhất từ bấy đến giờ là anh ấy đã không nói với em và em chưa hề được hỏi cưới đúng cách. Thế là cô cũng sắp cưới, cô Shirley nhỉ? Em luôn nghĩ mình sẽ khoái lấy được một bác sĩ. Sẽ thật tiện nếu con cái bị lên sởi hay bạch cầu. Tom chỉ là thợ gạch thôi, nhưng anh ấy thuần tính lắm. Khi em nói với anh ấy, em bảo là, ‘Tom, em đến dự đám cưới cô Shirley được không? Em định cứ đi đấy, nhưng em muốn có sự đồng ý của anh,’ anh ấy chỉ bảo, ‘Em mà thích thì anh cũng thích, Charlotta ạ.’ Có được người chồng như thế cũng thật dễ chịu, cô Shirley ơi.” Philippa và mục sư Jo của cô đến Chái Nhà Xanh một ngày trước tiệc cưới. Anne và Phil có một cuộc hội ngộ cuồng nhiệt mà giờ đã dịu xuống thành một cuộc trò chuyện ấm cúng, kín đáo về tất cả những gì đã qua và những gì sắp đến. “Nữ hoàng Anne, cậu vẫn chúa như xưa. Tớ thì gầy đi kinh khủng từ hồi có lũ trẻ. Tớ chẳng xinh bằng một nửa hồi trước; nhưng tớ nghĩ Jo thích thế. Cậu thấy đấy, không còn một sự tương phản quá lớn giữa chúng tớ. Và nữa, thật hết sức tuyệt vời là cậu sắp cưới Gilbert. Roy Gardner sẽ không ổn chút nào. Giờ thì tớ rõ rồi, mặc dù hồi đó tớ thất vọng kinh khủng. Cậu biết đấy, Anne, đúng là cậu đã đối xử với Roy hết sức tệ.” “Anh ấy đã hồi phục, theo tớ biết,” Anne mỉm cười. “Ừ đúng. Anh ta có vợ rồi và vợ anh ta là một phụ nữ bé nhỏ ngọt ngào và họ hoàn toàn hạnh phúc. Mọi thứ đều tốt đẹp. Jo và Kinh Thánh nói thế, và họ là nhửng nguồn tin khá có uy tín.” “Alec và Alonzo đã lập gia đình chưa?” “Alec rồi, Alonzo thì chưa. Những ngày xưa tươi đẹp ở Nhà Patty cứ ùa hết về khi tớ nói chuyện với cậu, Anne ạ! Chúng ta đã có bao nhiêu là niềm vui!” “Gần đây cậu có đến Nhà Patty không?” “Ồ có, tớ đến thường xuyên. Cô Patty và cô Maria vẫn ngồi bên lò sưởi đan lát. À nhắc mới nhớ… bọn tớ mang cho cậu một món quà cưới từ họ đây Anne. Đố cậu đoán là gì.” “Tớ chả đoán được đâu. Làm sao họ biết tớ sắp cưới?” “Ồ, tớ kể chứ. Tớ vừa đến đó tuần trước. Và họ rất quan tâm. Hai ngày trước cô Patty viết cho tớ một bức thư ngắn bảo tớ ghé qua; và rồi cô ấy nhờ tớ mang quà đến cho cậu. Cậu mong ước điều gì nhất từ Nhà Patty hở Anne?” “Đừng nói là cô Patty gửi cho tớ hai con chó sứ đấy nhé!” “Chính thế. Chúng đang nằm trong hòm của tớ ngay lúc này đây. Và tớ có một lá thư dành cho cậu. Đợi tí, tớ đi lấy.” “Cô Shirley thân mến,” cô Patty viết, “Maria và tôi rất vui khi được tin về hôn lễ sắp tới của cô. Chúng tôi gửi cho cô những lời chúc tốt đẹp nhất. Maria và tôi chưa bao giờ lập gia đính, nhưng chúng tôi không hề phản đối những người khác làm thế. Chúng tôi gửi cho cô hai con chó sứ. Tôi đã định để lại chúng cho cô trong di chúc, vì cô có vẻ thật sự yêu mến chúng. Nhưng Maria và tôi định sẽ còn sống dài dài (trộm vía), thế nên tôi đã quyết định cho cô hai con chó khi cô còn trẻ. Chắc cô chưa quên là Gog quay về bên phải và Magog là về bên trái.” “Cứ tưởng tượng hai con chó già đáng yêu kia ngồi cạnh lò sưởi trong căn nhà mơ ước của tớ xem,” Anne cuồng nhiệt nói. “Tớ chưa bao giờ dám mong thứ gì thú vị đến thế.” Tối đó Chái Nhà Xanh rộn ràng chuẩn bị cho ngày hôm sau; nhưng trong ánh chiều tà Anne lại lẩn đi. Cô cần phải làm một cuộc hành hương nho nhỏ trong ngày cuối cùng của thời con gái và cô phải đi một mình. Cô đến mộ ông Matthew, trong nghĩa trang nhỏ rợp bóng dương của Avonlea, nơi lưu giữ những hẹn hò câm lặng của ký ức cũ và những tình yêu bất tử. “Bác Matthew sẽ vui mừng biết mấy nếu mai bác ấy có ở đây,” cô thì thầm. “Nhưng mình tin là bác ấy biết và mừng vì điều đó… ở một nơi khác. Mình đã đọc đâu đó rằng ‘những người thân yêu đã khuất của ta sẽ không bao giờ chết trừ phi ta lãng quên họ’. Bác Matthew sẽ không bao giờ mất với mình, vì mình không bao giờ có thể quên bác ấy.” Cô đặt trên mộ ông những bông hoa cô mang theo và thong dong bước xuống con dốc dài. Đấy là một buổi chiều duyên dáng, đầy ánh sáng và những bóng râm nhảy múa. Ở đằng Tây, một bầu trời đầy mây lãng đãng - đỏ tía và ánh màu hổ phách, chen lẫn những dải dài bầu trời màu xanh táo. Xa hơn nữa là ánh huy hoàng rạng rỡ của mặt biển hoàng hôn, và giọng nói không dứt của ngàn con sóng chồm lên bờ biển vàng nâu. Khắp quanh cô, nằm trong thinh lặng đồng quê êm ái, đẹp tươi là những ngọn đồi, là đồng cỏ và rừng cây mà cô đã quen biết và yêu dấu từ lâu. “Lịch sử lặp lại,” Gilbert nói, sánh bước cùng cô khi cô bước qua cổng nhà Blythe. “Em có nhớ chuyến tản bộ đầu tiên của chúng ta xuống ngọn đồi này không Anne - cũng là chuyến tản bộ đầu tiên của chúng ta với nhau?” “Em đang trên đường về nhà từ mộ bác Matthew trong ánh chạng vạng… và anh bước ra khỏi cửa; và em nuốt đi niềm kiêu hãnh của nhiều năm trời và nói chuyện với anh.” “Và thiên đường mở toang trước mắt anh,” Gilbert nói thêm. “Từ giây phút đó anh đã luôn chờ đợi một ngày mai. Khi anh để em lại cổng nhà em tối hôm đó và bước về nhà, anh đã nghĩ mình là cậu con trai hạnh phúc nhất thế giới. Anne đã tha thứ cho mình.” “Em nghĩ em mới là người cần tha thứ. Em đúng là một con bé ngốc nghếch vô ơn… và sau khi anh đã thực sự cứu mạng em hôm đó trên hồ nữa. Ban đầu em mới căm ghét cái gánh nặng ơn nghĩa đó làm sao! Em không xứng đáng với hạnh phúc đã đến với em.” Gilbert cười lớn và nắm chặt hơn bàn tay người con gái đang đeo chiếc nhẫn của anh. Nhẫn đính hôn của Anne là một vòng nhỏ đính ngọc trai. Cô đã từ chối đeo kim cương. “Em chưa bao giờ thực sự thích kim cương từ khi em phát hiện ra chúng không mang màu tím đáng yêu mà em vẫn mơ tưởng. Chúng sẽ luôn gợi cho em nhớ về niềm thất vọng cũ đó.” “Nhưng ngạn ngữ nói ngọc trai là nước mắt,” Gilbert đã phản đối như vậy. “Em cũng không sợ điều đó. Và nước mắt cũng có thể là hạnh phúc lẫn khổ đau. Những giây phút hạnh phúc nhất của em là những giây phút em trào nước mắt… khi bác Marilla nói em có thể ở lại Chái Nhà Xanh… khi bác Matthew tặng em bộ váy đẹp đầu tiên em từng có… khi em biết tin anh sẽ hồi phục sau trận sốt. Thế nên hãy cho em ngọc trai trên nhẫn đính hôn của chúng ta, Gilbert ạ, và em sẽ sẵn sàng đón nhận những nỗi buồn của cuộc đời cũng như niềm vui của nó.” Nhưng đêm nay đôi tình nhân của chúng ta chỉ nghĩ đến niềm vui mà không hề có nỗi buồn. Vì ngày mai là ngày cưới của họ, và ngôi nhà mơ ước đón chờ họ trên bờ biển tím mờ sương của vịnh cảng Bốn Làn Gió. 4. Cô dâu đầu tiên của Chái Nhà Xanh Sáng ngày cử hành hôn lễ Anne thức dậy, thấy mặt trời hấp háy nhòm vào cửa số mái hiên nhỏ dưới chái nhà và một ngọn gió tháng Chín đang đùa giỡn mấy tấm rèm phòng cô. “Thật vui vì mặt trời sẽ tỏa sáng lên mình,” cô hạnh phúc nghĩ. Cô nhớ lại buổi sáng đầu tiên tỉnh dậy trong căn phòng nhỏ ở chái Đông, khi ấy mặt trời cũng bò vào phòng tỏa sáng lên người cô qua tán cây rực rỡ hoa của cây táo già Nữ Hoàng Tuyết. Đấy không phải là một lần thức dậy hạnh phúc, vì nó đem theo sự thất vọng cay đắng của đêm hôm trước. Nhưng từ đó đến nay căn phòng đã trờ nên xiết bao thân thương, những năm tháng hạnh phúc với mơ ước tuổi thơ và khát khao thiếu nữ đã khiến nó hóa thiêng liêng. Nơi đó cô đã vui sướng trở về sau bao lần vắng mặt; nơi khung cửa sổ này cô đã quỳ xuống trong cái đêm đau khổ đắng chát khi cô tưởng Gilbert sắp chết, và cạnh nó cô đã ngồi trong niềm hạnh phúc không lời của đêm đính ước. Nhiều đêm trắng hạnh phúc và một vài đêm buồn đau đã được lưu giữ ở đây; và ngày hôm nay cô phải rời nó mãi mãi. Từ giờ về sau nó sẽ không còn là của cô nữa; Dora mười lăm tuổi sẽ thừa hưởng căn phòng một khi cô ra đi. Anne cũng không mong gì hơn, căn phòng nhỏ là thiêng liêng với tuổi trẻ và thời con gái… với quá khứ sẽ đóng cửa ngày hôm nay trước khi mở ra chương thiếu phụ. Chái Nhà Xanh sáng hôm đó là một căn nhà bận rộn tràn ngập niềm vui. Diana đến sớm để giúp một tay, mang theo nhóc Fred và bé Anne Cordelia. Davy và Dora, đôi song sinh của Chái Nhà Xanh, lùa hai đứa nhỏ ra vườn. “Đừng để bé Anne Cordelia làm hòng quần áo đấy nhé,” Diana dặn dò vẻ lo lắng. “Cháu không phải sợ khi giao con cho Dora đâu,” bà Marilla nói. “Con bé ấy hiểu biết và cẩn thận hơn hầu hết các bà mẹ mà ta biết. Trong nhiều khía cạnh con bé thật sự là một điều kỳ diệu. Không như cái thằng liều lĩnh vô trách nhiệm ta nuôi kia.” “Hai đứa bé sinh đôi đó thật sự là những đứa trẻ ngoan,” bà Rachel nói, sau khi tin chắc là bọn trẻ đã ra khỏi tầm nghe. “Dora thì hết sức nữ tính và được việc, còn Davy thì đang dần trở thành một đứa con trai rất thông minh. Nó không còn là thằng trời đánh suốt ngày gây chuyện như trước nữa.” “Trong đời mình, chưa bao giờ tôi rối bời như trong sáu tháng đầu thằng bé ở đây,” bà Marilla thừa nhận. “Sau đấy tôi nghĩ chắc mình cũng quen. Dạo này nó bắt đầu để ý nhiều đến việc đồng áng và muốn tôi cho nó thử điều hành nông trại từ năm sau. Chắc tôi sẽ làm thế đấy, vì ông Barry không nghĩ là ông ấy muốn thuê nông trại thêm nữa, thành thử phải có cách cắt đặt khác thôi.” “Này, cậu đã chọn được một ngày thật đẹp trời để làm đám cưới đấy Anne ạ,” Diana vừa nói vừa đeo một cái tạp dề khổng lồ phủ ra ngoài bộ đồ lụa. “Có đặt hàng từ Eaton cũng chẳng đẹp ngày hơn được đâu.” “Thực tình có quá nhiều tiền của đang rời đảo mà đổ vào cái nhà Eaton ấy,” bà Lynde nói vẻ giận dữ. Bà có những quan điểm rất mạnh mẽ đối với những cửa hàng bách hóa bành trướng vòi bạch tuộc, và không bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để phát biểu những quan điểm trên. “Còn mấy cái quyển catalog nữa, giờ chúng cứ như là Kinh Thánh với đám con gái Avonlea, thế đấy. Chủ nhật bọn nó cứ châu đầu vào đó thay vì đọc Kinh.” “Ôi, để tiêu khiển cho bọn trẻ con thì mấy quyển sách ấy tuyệt lắm ạ,” Diana nói. “Fred và bé Anne Cordelia xem tranh ảnh trong đó hàng giờ liền.” “Ta đã giải trí cho mười đứa con của ta mà không hề có sự trợ giúp của quyển catalog Eaton nào sất,” bà Rachel gay gắt nói. “Nào, hai người, đừng cãi nhau vì quyển catalog của Eaton chứ,” Anne vui vẻ nói. “Hôm nay là ngày ý nghĩa hơn tất cả mọi ngày của cháu, mọi người biết đấy. Cháu hạnh phúc đến nỗi cháu muốn tất cả mọi người cũng hạnh phúc luôn.” “Dĩ nhiên là ta hy vọng hạnh phúc của cháu sẽ bền lâu, con gái ạ,” bà Rachel thở dài. Bà thật tâm mong vậy, và tin vào điều đó, nhưng bà sợ rằng phô trương hạnh phúc của mình một cách quá công khai thì về bản chất cũng như một thách thức đối với đấng Tạo hóa. Cần phải làm Anne dịu xuống chút ít, cũng là để tốt cho nó thôi. Nhưng bước xuống những bậc thang cũ kỹ trải thảm thô tự dệt buổi trưa tháng Chín hôm đó là một cô dâu hạnh phúc và xinh đẹp… cô dâu đầu tiên của Chái Nhà Xanh, mảnh mai, mắt sáng ngời, sau tấm mạng trinh nữ sương khói, tay ôm đầy hoa hồng. Gilbert đang đợi cô dưới sảnh ngước nhìn cô với đôi mắt ngưỡng mộ. Cuối cùng cô cũng đã là của anh, cái cô Anne khó nắm bắt mà anh theo đuổi đã bao lâu nay, anh đã có được cô sau nhiều năm ròng kiên nhẫn chờ đợi. Trong sự đầu hàng ngọt ngào của một cô dâu, cô đang đến với anh. Liệu anh có xứng đáng với cô không? Liệu anh có thể làm cho cô hạnh phúc như anh hằng hy vọng? Lỡ anh làm cô thất vọng… lỡ anh không đạt đến tiêu chuẩn người đàn ông lý tưởng của cô… rồi, khi cô đưa tay ra, mắt họ chạm nhau và mọi nghi ngờ đều bị quét sạch trong một niềm tin chắc chắn hân hoan. Họ thuộc về nhau; và dẫu cuộc đời dành cho họ những gì, nó cũng không thể thay đổi được điều đó. Hạnh phúc của họ là do người kia nắm giữ và cả hai đều không sợ hãi. Họ cưới nhau trong ánh mặt trời tỏa sáng trên khu vườn lâu năm, vây quanh họ là những gương mặt yêu thương và ân cần của những người bạn thân thiết lâu ngày. Ông Allan làm phép cưới cho họ, và mục sư Jo đọc cái mà bà Rachel Lynde sau đó tuyên bố là “lời chúc phúc đám cưới đẹp đẽ nhất” mà bà từng được nghe. Chim thường không hay hót vào tháng Chín, nhưng một chú chim đã hót thật ngọt ngào từ một nhành cây kín đáo nào đó khi Gilbert và Anne đọc lời thề bất tử của mình. Anne lắng nghe và rùng mình theo; Gilbert lắng nghe và tự hỏi sao tất cả chim chóc trên thế giới không bừng hát lên một bài ca rạng rỡ hân hoan; Pail lắng nghe và sau đó viết lên một trong những tứ thơ được ngưỡng mộ nhất trong tập thơ đầu tiên của cậu; Charlotta Đệ Tứ lắng nghe và vui sướng tin rằng tiếng hót mang may mắn đến cho cô Shirley yêu quý của mình. Chú chim kia hót cho đến khi buổi lễ chấm dứt và rồi chú kết thúc bài hát bằng một nốt nhỏ cao vút, mừng vui. Chưa bao giờ căn nhà xanh xám cũ trong vòng ôm của những khu vườn biết đến một buổi chiều vui tươi, hạnh phúc hơn thế. Tất cả những lời đùa vui, hẳn đã được nói ra tại những lễ cưới từ thuở hồng hoang, giờ lại được đem ra nói, mà nghe vẫn mới mẻ và rạng rỡ và vui tươi như chưa từng bao giờ được thốt ra. Tiếng cười và niềm vui dẫn lối; và khi Anne và Gilbert rời đi để bắt chuyến tàu đến Carmody, có Paul đánh xe đưa, cặp song sinh đã chuẩn bị sẵn gạo và giày cũ, Charlotta Đệ Tứ và ông Harrison sau đó đã anh dũng giơ đầu chịu ném. Bà Marilla đứng ở cửa nhìn cỗ xe đi xa khỏi tầm mắt dọc con đường dài giữa hai hàng hoàng anh. Anne quay đầu lại ở cuối con đường để vẫy tay chào tạm biệt lần cuối. Cô đã đi khuất… Chái Nhà Xanh giờ không còn là nhà của cô nữa; mặt bà Marilla trông thật u ám và già cỗi lúc bà quay về phía căn nhà mà Anne đã lấp đầy bằng ánh sáng và sự sống trong mười bốn năm nay, ngay cả khi cô vắng mặt. Nhưng Diana và hai đứa nhỏ, người Nhà Vọng và nhà Allan, đã ở lại để giúp hai người phụ nữ có tuổi vượt qua nỗi cô đơn của buổi chiều tối đầu tiên; và họ xoay xở tổ chức một bữa tối nho nhỏ lặng lẽ dễ chịu, ngồi thật lâu quanh bàn và bàn tán về những chi tiết trong ngày. Trong khi họ ngồi đó thì Anne và Gilbert đang xuống tàu tại Glen St. Mary. 5. Về nhà Bác sĩ Davie Blythe cử ngựa và một cỗ xe độc mã đến đón cả hai, và thằng nhóc con mang xe đến đã lẩn đi với một nụ cười đồng lõa nhăn nhở, để lại họ với cái hứng thú được tự đánh xe về nhà trong một buổi chiều rạng rỡ. Anne không bao giờ quên vẻ đáng yêu của khung cảnh ập lên họ khi cả hai đánh xe qua ngọn đồi phía sau làng. Ngôi nhà mới của cô vẫn chưa nhìn thấy được; nhưng trước mặt cô trải ra vịnh cảng Bốn Làn Gió như một tấm gương khổng lồ rực rỡ dát bạc và phủ hoa hồng. Xa xa phía dưới, cô thấy đường dẫn vào vịnh cảng giữa một dải đụn cát một bên và bên kia là vách đá vôi dốc đứng, cao, âm trầm và đỏ ối. Sau dải cát là biển, tĩnh lặng và trang nghiêm, mơ màng trong ánh sáng còn rơi rớt lại. Xóm chài nhỏ, nép mình vào khoảng lõm nơi những đụn cát với bờ vịnh cảng gặp nhau, như một viên opal khổng lồ trong sương mờ. Bầu trời phía trên như một chiếc cốc nạm ngọc mà ráng chiều đang rót xuống; không khí khô giòn vị biển mê hoặc, và cả khung cảnh đẫm trong vị tinh tế của một buổi chiều trên biển. Vài cánh buồm mờ mờ trôi dọc những đường bờ biển mọc đầy linh sam đang chìm dần vào bóng tối. Một tiếng chuông lảnh lót kêu từ tháp nhà thờ nhỏ sơn trắng xa xa; êm dịu và ngọt ngào như một giấc mơ, tiếng chuông trôi lững lờ trên mặt nước hòa vào tiếng rền rĩ của biển. Ngọn đèn xoay vĩ đại trên vách đá nơi kênh nước lóe ánh sáng vàng ấm trên nền trời phương Bắc trong trẻo, một ngôi sao run rẩy, lung linh của niềm hy vọng tốt lành. Xa xa dọc đường chân trời, khói từ một con tàu hơi nước ngang qua trông như một dải lụa xám uốn khúc. “Ôi, đẹp quá, đẹp quá,” Anne thì thầm. “Em sẽ yêu Bốn Làn Gió lắm, Gilbert ạ. Nhà của chúng ta đâu?” “Chưa thấy được đâu em ạ… bị rặng bu lô chạy từ vịnh lên che khuất rồi. Từ Glen St. Mary về nhà mình khoảng hai dặm, rồi từ đấy đến ngọn hải đăng lại thêm một dặm nữa. Chúng ta sẽ không có nhiều hàng xóm đâu Anne. Chỉ có một căn nhà gần đấy và anh cũng không biết ai sống ở đó. Liệu em có cô đơn khi anh đi vắng không?” “Với ngọn đèn kia và cảnh vật đáng yêu này làm bạn thì không đâu. Ai sống trong căn nhà đó vậy Gilbert?” “Anh không biết. Trông không có vẻ, không thật sự có vẻ như những người trong căn nhà đó sẽ là những tâm hồn đồng điệu với mình, phải không?” Căn nhà là một cơ ngơi rộng lớn, sơn một màu xanh lá rực rỡ đến nỗi cả khung cảnh xung quanh như nhạt đi khi đứng cạnh. Một vườn quả ở phía sau, và một bãi cỏ gọn gàng đằng trước, nhưng, không hiểu sao, ở ngôi nhà có một vẻ trống vắng trơ trụi nào đó. Có lẽ chính sự gọn gàng của căn nhà phải chịu trách nhiệm; mọi thứ, ngôi nhà, nhà kho, vườn quả, khu vườn, bãi cỏ và lối đi, sạch sẽ đến cứng nhắc. “Em không chắc là một người có thị hiếu về màu sơn như thế có thể đồng điệu với mình cho lắm,” Anne thừa nhận, “trừ phi đó là một tai nạn - cũng như tòa sảnh thị chính màu xanh dương của chúng ta. Ít nhất em tin chắc là ở đấy không có trẻ con. Nó còn gọn gàng hơn cả căn nhà Copp cũ trên đường Bảo Thủ, thế mà em đã nghĩ là không còn chỗ nào sạch sẽ hơn thế rồi cơ đấy.” Họ chưa gặp ai trên con đường đất đỏ ẩm ướt chạy dọc bờ cảng. Nhưng ngay trước khi đến rặng bu lô che khuất căn nhà của họ, Anne nhìn thấy một cô gái đang lùa một đàn ngỗng trắng muốt từ đỉnh một ngọn đồi xanh mướt bên phải xuống. Giữa các thân cây thấp thoáng những cánh đồng mùa gặt càng ươm, những đồi cát vàng rộm, và vài vạt biển xanh. Cô gái cao, mặc bộ váy in hoa nhạt. Cô bước đi với vẻ nhanh nhẹn trẻ trung, dáng cô thẳng. Cô và đàn ngỗng của mình ra khỏi cánh cổng ở chân đồi đúng lúc Anne và Gilbert đi qua. Cô đứng tì tay vào chỗ chốt cửa, và nhìn thẳng vào họ, với một vẻ mặt chưa đạt đến mức hứng thú, nhưng không xuống đến mức tò mò. Trong thoáng chốc, Anne thấy như còn có chút thù địch trong ánh mắt đó. Nhưng vẻ đẹp của cô gái mới là thứ làm Anne gần như há hốc mồm - một vẻ đẹp lồ lộ đến mức hẳn đi đâu cũng phải gây chú ý. Cô không đội mũ, nhưng những bím tóc nặng, bóng mượt, màu lúa mạch chín, ôm lấy đầu cô như một chiếc mũ miện; đôi mắt cô xanh và sáng như ánh sao; thân hình cô, trong bộ váy in hoa giản dị, vẫn đẹp lộng lẫy; và đôi môi cô đỏ thắm như bó hoa anh túc màu máu cô đeo ở thắt lưng. “Gilber, cô gái ta vừa đi ngang qua là ai vậy?” Anne hỏi, hạ thấp giọng. “Anh có thấy cô gái nào đâu,’ Gilbert nói, vốn chỉ để mắt đến cô dâu của mình. “Cô ấy đang đứng cạnh cái cổng kia kìa… đừng, đừng quay lại nhìn. Cô ấy đang nhìn theo chúng ta đấy. Em chưa bao giờ thấy một khuôn mặt đẹp đến thế.” “Anh chẳng nhớ đã từng thấy cô gái đẹp nào khi ở đây cả. Có vài cô xinh xinh ở Glen, nhưng anh nghĩ không thể gọi họ là đẹp được. “Cô gái này thì có. Chắc chắn anh chưa nhìn thấy cô ấy, nếu không thì anh đã phải nhớ rồi. Không ai có thể quên được cô ấy. Em chưa bao giờ thấy một khuôn mặt như thế trừ ở trong tranh. Và mái tóc của cô ấy! Nó gợi cho em nhớ đến ‘sợi dây vàng’ và ‘con rắn rực rỡ’ của Browning[1]!” [1] Những hình ảnh miêu tả mái tóc cô gái trong bài thơ Trên thuyền đáy bằng của Robert Browning “Có thể cô ấy là khách tham quan ở Bốn Làn Gió chăng… chắc là khách từ cái khách sạn nghỉ hè to bên kia bờ vịnh cảng.” “Cô ấy đeo tạp dề trắng và đang lùa ngỗng.” “Có thể cô ấy làm thế cho vui. Nhìn kìa Anne… nhà của chúng ta kia rồi!” Anne đưa mắt nhìn và tạm thời quên đi cô gái với đôi mắt rực rỡ, thù hằn. Từ cái nhìn đầu tiên, căn nhà đã là một niềm vui thích với cả thị giác và tinh thần - trông nó thật giống với chú sò biển khổng lồ màu kem vừa dạt vào bờ vịnh. Những hàng dương Lombardy cao lớn dọc lối đi in bật những cái bóng màu tía nghiêm trang lên nền trời. Phía sau căn nhà, che chắn khu vườn khỏi hơi thở quá mạnh của những làn gió biển, là một cánh rừng linh sam mờ tối, nơi những ngọn gió sẽ tạo nên vô vàn tiếng nhạc kỳ lạ và say mê. Như mọi khu rừng, nó như đang vừa cất giữ vừa hé mở nhiều bí mật mà sự hấp dẫn chỉ có thể được khám phá bằng cách dấn thân vào và kiên trì tìm kiếm. Bên ngoài, những cánh tay xanh sẫm ngăn chúng khỏi bị xâm phạm bởi những đôi mắt tò mò hoặc thờ ơ. Gió đêm đang bắt đầu vũ điệu hoang dại của mình sau những đụn cát, và khu xóm chài nho nhỏ bên kia vịnh cảng lấp lánh ánh đèn khi Anne và Gilbert đánh xe lên con đường giữa hai hàng dương. Cửa ngôi nhà nhỏ đã mở sẵn, và ánh lửa lò ấm áp bập bùng tỏa lan vào bóng tối bên ngoài. Gilbert bế Anne khỏi cỗ xe và dẫn cô vào khu vườn, qua cánh cổng nhỏ giữa hai cây linh sam rủ cành, lên con đường đất đỏ gọn gàng đến bậc thềm bằng đá vôi. “Mừng em về nhà,” anh thì thầm, và tay trong tay, họ bước qua ngưỡng cửa căn nhà mơ ước của mình. 6. Thuyền trưởng Jim “Bác sĩ Dave già” và “phu nhân bác sĩ Dave” đã xuống tận căn nhà nhỏ để chào đón cô dâu và chú rể. Bác sĩ Dave là một ông già ria bạc to cao, vui tính, còn phu nhân bác sĩ là một cụ bà bé nhỏ gọn gàng má hồng, tóc bạc đã ngay lập tức ôm lấy Anne vào lòng, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. “Bác rất vui được gặp cháu, cháu cưng ạ. Chắc cháu mệt lắm rồi phải không. Chúng ta đã chuẩn bị một chút đồ ăn tối đây, và thuyền trưởng Jim có mang cho cháu ít cá hồi đấy. Thuyền trưởng Jim… anh đâu rồi? Ồ, ông ấy lại đi ra ngoài thăm ngựa rồi, chắc thế. Lên gác cất đồ đạc nào cháu.” Anne nhìn xung quanh với đôi mắt sáng đầy cảm kính rồi đi theo bà lên gác. Cô rất thích vẻ ngoài ngôi nhà mới của mình. Nó như có không khí của Chái Nhà Xanh và mùi vị những truyền thống cũ. “Mình nghĩ mình hẳn đã tìm thấy ở quý bà Elizabeth Russell một ‘tâm hồn đồng điệu’,” cô thì thầm khi còn lại một mình trong phòng. Phòng có hai cửa sổ; cửa mái nhìn ra vịnh cảng phía dưới, cồn cát và ngọn hải đăng Bốn Làn Gió. “Một khung cửa thần kỳ mở ra trên bọt sóng Của những vùng biển dữ nơi đất thần tiên đã bỏ hoang,” Anne nhỏ nhẹ trích đọc. Cửa sổ đầu hồi mở ra cảnh một thung lũng nhỏ màu lúa chín nơi một con suối chảy qua. Ngược lên con suối nửa đặm là căn nhà duy nhất trong tầm mắt - một căn nhà cũ kỹ, úi xùi màu xám bao quanh bởi những cây liễu to lớn, những ô cửa sổ của căn nhà dòm qua hàng liễu ra ngoài ánh chạng vạng, như những con mắt nhút nhát, lần mò. Anne tự hỏi ai sống ở đấy; họ sẽ là những hàng xóm gần nhất của cô và cô hy vọng họ dễ mến. Đột nhiên cô thấy mình đang nghĩ đến cô gái xinh đẹp với đàn ngỗng trắng. “Gilbert nghĩ cô ấy không thuộc về nơi này,” Anne lan man nghĩ, “nhưng mình tin chắc là có. Có cái gì đó nơi cô ấy khiến cô ấy trở thành một phần của biển, của trời và của vịnh. Bốn Làn Gió ở trong máu cô ấy.” Khi Anne xuống nhà thì Gilbert đang đứng trước lò sưởi nói chuyện với một người lạ mặt. Cả hai quay lại lúc Anne bước vào. “Anne, đây là thuyền trưởng Boyd. Thuyền trưởng Boyd, vợ cháu.” Đây là lần đầu tiên Gilbert gọi Anne là “vợ” với bất cứ ai khác ngoài cô, và anh suýt nữa thì nổ tung vì tự hào. Người thuyền trưởng già giơ một bàn tay gân guốc ra cho Anne bắt; họ mỉm cười với nhau và đã là bạn của nhau từ giây phút đó. Những tâm hồn đồng điệu nhận ngay ra nhau. “Ta thật tình vui sướng được gặp cháu, cháu gái Blythe ạ; và ta hy vọng cháu cũng sẽ được hạnh phúc như cô dâu đầu tiên từng đến đây. Ta không thể mong gì hơn thế. Nhưng chồng cháu không giới thiệu ta chính xác cho lắm. ‘Thuyền trưởng Jim’ là tên gọi hằng ngày của ta và tốt hơn cháu nên bắt đầu gọi ta như thế, vì kiểu gì cháu cũng sẽ gọi ta như thế. Cháu rõ ràng là một cô dâu nhỏ bé đáng yêu, cháu Blythe ạ. Nhìn cháu mà ta suýt tưởng mình cũng mới lấy vợ.” Giữa những tràng cười nối tiếp, bà bác sĩ Dave giục thuyền trưởng Jim ở lại ăn tối với mọi người. “Cảm ơn bà rất nhiều. Thế thì tuyệt quá, bà bác sĩ ạ. Tôi gần như lúc nào cũng chỉ ăn một mình, chỉ có cái bóng xấu xí của mình trong cái gương đối diện làm bầu bạn. Chẳng mấy khi tôi có dịp ngồi ăn cùng hai quý bà xinh đẹp, đáng yêu chừng này.” Những lời khen của thuyền trưởng Jim viết ra thì có vẻ phô, nhưng ông nói với một ngữ điệu và dáng vẻ tôn kính lịch thiệp, nhẹ nhàng đến nỗi người phụ nữa được ông khen thấy mình như vừa được dành cho một tặng phẩm dành cho nữ hoàng theo cung cách đế vương. Thuyền trưởng Jim là một ông già với tâm hồn cao thượng và đầu óc giản dị, mang trong mắt và trong tim sự trẻ trung vĩnh hằng. Ông có dáng người dong dỏng cao, hơi thiếu duyên dáng, hơi gù, nhưng bộc lộ sức mạnh và sự bền bỉ cao độ; một khuôn mặt nhẵn nhụi hằn sâu những nếp nhăn và sẫm màu đồng hun; bộ tóc dày màu xám thép phủ gần đến vai, và một đôi mắt đặc biệt xanh và sâu, có lúc lấp lánh, có lúc mơ màng, và đôi lúc vẫn hướng nhìn ra biển với một vẻ kiếm tìm tiếc nuối bên trong, như thể đang tìm kiếm một cái gì quý giá đã mất. Rồi một ngày Anne sẽ biết thuyền trưởng Jim tìm kiếm điều gì. Không thể phủ nhận thuyền trưởng Jim là một người đàn ông thô kệch. Khuôn hàm gầy gò, cái miện khắc khổ, và đôi lông mày vuông không được đẽo theo tiêu chuẩn đẹp; ông đã trải qua nhiều gian truân khổ não; nhưng nếu trong cái nhìn đầu tiên Anne có nghĩ ông trông tầm thường thì cô cũng không bao giờ nghĩ thêm nữa - cái tinh thần tỏa sáng đằng sau chỗ trú ngụ xù xì của nó đã làm cho ông đẹp lên một cách quá toàn hảo. Họ quây quần vui vẻ quanh bàn ăn tối. Ngọn lửa lò xua tan cái giá lạnh đêm tháng Chín, nhưng cửa phòng ăn vẫn mở và từng cơn gió biển ngọt ngào tự ý ùa vào. Khung cảnh đẹp rực rỡ, với vịnh cảng và mướt mát những ngọn đồi thấp sẫm tím xa xa. Bàn ăn bày đầy những món ngon của bà bác sĩ, nhưng món ngon nhất, không nghi ngờ gì nữa, vẫn là đĩa cá hồi to. “Chắc là cũng ngon đấy, sau vài vòng du ngoạn,” thuyền trưởng Jim nói. “Tươi hết mức cá hồi có thể tươi, cháu Blythe ạ. Hai giờ trước chúng còn đang bơi trong hồ Glen.” “Ai trông đèn tối nay vậy thuyền trưởng Jim?” bác sĩ Dave hỏi. “Cháu tôi, Alec. Thằng bé cũng hiểu việc như tôi vậy. Ừ, nào, tôi thật tình rất vui là mọi người mời tôi ở lại ăn khuya. Tôi đói ra trò… tối nay có ăn gì mấy đâu.” “Tôi tin là bác gần như lúc nào cũng bỏ đói cái thân bác ở trên ngọn hải đăng ấy,” bà bác sĩ Dave nói vẻ nghiêm trang. “Bác chẳng bao giờ bỏ công chuẩn bị một bữa ăn nào cho chu đáo.” “Ồ, có chứ, bà bác sĩ, có mà,” thuyền trưởng Jim phản đối. “Chao ơi, tôi sống như một ông hoàng. Mới hôm qua tôi lên Glen và mang về nhà hai cân bò bít tết. Tôi đã định làm một bữa tối ra trò tối nay ấy chứ.” “Thế chuyện gì đã xảy ra với mấy miếng thịt bò đó rồi?” bà bác sĩ Dave hỏi. “Bác đánh rơi chúng trên đường về rồi chăng?” “Không.” Thuyền trường Jim trông có vẻ bẽn lẽn. “Đúng giờ đi ngủ một con chó xấu tính tội nghiệp mò đến xin chỗ trú qua đêm. Tôi đoán chắc chủ nó là mấy người đánh cách dọc bờ biển. Tôi đâu có đuổi nó đi được… nó bị đau một chân. Thế là tôi khóa cửa để nó ngoài hiên, vất cho nó một cái túi cũ để nằm lên, rồi đi ngủ. Nhưng mà chẳng hiểu sao tôi không ngủ được. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi nhớ hình như con chó đó trông cũng đói đói.” “Thế là bác trở dậy cho nó chỗ thịt bò đó… tất cả chỗ thịt bít tết đó,” bà bác sĩ Dave nói, với một vẻ trách móc đắc thắng. “Ờ, thì cũng đâu có gì khác để mà cho nó đâu,” thuyền trưởng Jim nói vẻ phản kháng. “Không có gì mà một con chó thích, ý thế. Tôi đoán nó đói thật, vì nó quơ hai miếng là hết chỗ đó. Đêm hôm ấy tôi ngủ ngon, nhưng bữa tối của tôi thành ra đành phải hơi hẻo một tí… khoai tây nọ kia thôi, có thể nói như vậy. Con chó, nó đi về nhà sáng nay rồi. Cá là nó không ăn chay trường.” “Nghĩ mà xem, bỏ đói bản thân vì một con chó vô giá trị!” bà bác sĩ khịt mũi. “Ai mà biết được, rất có thể nó rất có giá trị đối với ai đó,” thuyền trưởng Jim phản đối. “Trông nó chả ra làm sao thật, nhưng không thể bằng vào vẻ ngoài mà đánh giá một con chó được. Như tôi đây này, nó rất có thể là một con chó đẹp đẽ ở bên trong. Con Bạn Đầu không thích nó, tôi biết thế. Ngữ điệu của nó gượng ép ra mặt. Nhưng con Bạn Đầu thiên vị lắm. Lấy ý kiến của một con mèo về một con chó thì phỏng có ích gì. Tóm lại là, tôi mất bữa tối, thế nên bữa tiệc thịnh soạn đáng yêu giữa những người bạn thú vị này quả là dễ chịu. Có hàng xóm tốt thật là tuyệt.” “Aisốngtrongcănnhàgiữanhữngcâyliễuphíatrênconsuốivậyạ?”Annehỏi. “Bà Dick Moore,” thuyền trưởng Jim nói… “và chồng,” ông nói thêm, kiểu sau một hồi suy nghĩ thì mới nhớ. Anne mỉm cười, và rút ra một bức tranh tâm cảnh về bà Dick Moore từ cách nói của thuyền trưởng Jim; rõ ràng là một bà Rachel Lynde thứ hai. “Cháu không có nhiều hàng xóm lắm đâu, cháu Blythe ạ,” thuyền trưởng Jim nói tiếp. “Phía bên này cảng dân cư khá thưa thớt. Phần lớn đất đai thuộc về ông Howard ở đầu kia, bên Glen, và ông ấy cho thuê làm đất chăn thả. Còn phía kia cảng mới gọi là dày dân… nhất là nhà MacAllister. Có cả một vùng toàn MacAllister quơ tay là trúng. Hôm trước tôi có nói chuyện với ông già Leon Blacquiere. Ông ấy làm việc ở cảng suốt mùa hè. ‘Toàn là MacAllister ở đó,’ ông ấy bảo tôi thế. ‘Cô Neil MacAllister rồi Sandy MacAllister rồi William MacAllister rồi Alec MacAllister rồi Angus MacAllister… và tôi tin là còn có cả Devil MacAllister nữa.’ ” “Elliott với cả Crawford cũng nhiều chả kém,” bác sĩ Dave nói, sau khi tiếng cười đã lắng xuống. “Cháu biết không, Gilbert, bọn ta ở phía bên này của Bốn Làn Gió có câu thành ngữ thế này: ‘Từ tính kênh kiệu của nhà Elliotts, sự tự phụ của nhà MacAllister, và tính khoác lác của nhà Crawford, Chúa trời sinh ra chúng ta.’ ” “Cũng có rất nhiều người tốt trong số đó chứ,” thuyền trưởng Jim nói. “Tôi lái tàu với William Crawford trong nhiều năm, và nói về can đảm và chịu đựng và thật thà thì người đàn ông đó không có đối thủ. Mấy người phía bên kia Bốn Làn Gió có đầu óc lắm đó. Chắc vì vậy nên phía bên này có xu hướng hay trêu ghẹo họ. Lạ hén, cái kiểu người này hay ghét người khác vì họ sinh ra thông minh hơn mình một hai phân đó.” Bác sĩ Dave, bốn mươi năm cừu hận với người phía bên kia cảng, bật cười rồi im lặng. “Ai sống trong căn nhà màu xanh ngọc chói lóa cách nửa dặm phía đầu đường vậy ạ?” Gilbert hỏi. Thuyền trưởng Jim mỉm cười vui thích. “Cô Cornelia Bryant. Chắc cổ sẽ ghé qua thăm mấy đứa sớm thôi, mấy đứa thuộc Giáo hội Trưởng lão mà. Nếu mấy đứa mà ở bên Giám lý là cổ không đến tí nào luôn. Cornelia sợ mấy người theo Hội Giám lý kinh khủng.” “Cổ cá tính lắm đó,” bác sĩ Dave cười khùng khục. “Ghét đàn ông thâm căn cố đế nhất đời.” “Nho chua, gái già ạ?” Gilbert hỏi, bật cười. “Không, không phải nho chua,” thuyền trưởng Jim trả lời vẻ nghiêm túc. “Cornelia hồi trẻ chỉ tay là lấy được chồng, Ngay cả bây giờ chỉ cần cổ nói một tiếng là mấy anh góa già nhảy cỡn lên liền. Có điều cổ hình như sinh ra là đã có cái bệnh kinh niên khinh ghét đàn ông và người theo Hội Giám lý. Cổ có cái lưỡi đắng nhất và trái tim nhân từ nhất Bốn Làn Gió. Cứ chỗ nào có rắc rối là người phụ nữ đó có mặt, làm mọi thứ để giúp đỡ một cách dịu dàng nhất. Cổ không bao giờ nặng lời lấy một tiếng về một phụ nữ khác, và nếu cổ thích đì đám đàn ông hư hỏng bọn này xuống thì ta nghĩ đám da dày của chúng ta phải chịu được thôi.” “Cô ấy lúc nào cũng nói tốt về bác đấy, thuyền trưởng Jim ạ,” bà bác sĩ nói. “Đúng rồi, tôi e là như vậy. Tôi chả thích tí nào. Làm tôi thấy như kiểu con người tôi có gì trái tự nhiên vậy đó.” 7. Cô dâu của thầy giáo “Ai là cô dâu đầu tiên từng đến căn nhà này vậy thuyền trưởng Jim?” Anne hỏi, lúc cả nhà quay quần quanh lò sưởi sau bữa tối. “Có phải cô ấy là một phần trong câu chuyện cháu nghe nói gắn liền với căn nhà này không?” Gilbert hỏi. “Có người nói với cháu rằng ông kể câu chuyện ấy, thuyền trưởng Jim ạ.” “Ừ, đúng, ta biết chuyện ấy. Ta nghĩ ta là người duy nhất sống ở Bốn Làn Gió còn nhớ về cô dâu của thầy giáo khi cô ấy đến đảo. Cổ mất đã ba mươi năm nay rồi, nhưng cổ nằm trong số những phụ nữ mà người ta không bao giờ quên được.” “Ông kể cho cháu cháu chuyện ấy đi.” Anne nài nỉ. “Cháu muốn tìm hiểu mọi thứ về những người phụ nữ từng sống ở căn nhà này trước cháu.” “À, mới chỉ có ba người thôi… Elizabeth Russell, rồi bà Ned Russell, và cô dâu của thầy giáo. Elizabeth Russell là một người con gái nhỏ nhắn xinh xắn, thông minh, cả bà Ned cũng là một người phụ nữ dễ thương nữa. Nhưng họ không giống chút nào với cô dâu của thầy giáo.” “Tên thầy giáo là John Selwyn. Từ Old Country thầy đến dạy học ở Glen khi ta còn là một thằng con trai mười sáu tuổi. Ổng không như mấy gã vô dụng hay ra đảo Hoàng Tử Edward dạy học thời đấy. Đám đó gần hết là mấy gã khôn lỏi say rượu, khi tỉnh rượu thì dạy bọn trẻ được vài ba chữ, lúc say vào thì đánh đập tụi nhỏ. Nhưng John Selwyn là một chàng trai trẻ đẹp, đáng mến. Thầy trọ lại nhà cha ta, và thầy với ta là bạn chí cốt, mặc dù thầy hơn ta tới mười tuổi. Bọn ta đọc sách và đi bộ và nói cả đống chuyện với nhau. Ổng biết tất cả thơ phú từng được viết ra trên đời này, ta nghĩ thế, và ổng thường đọc lại cho ta nghe vào những buổi tối đi bộ dọc bờ biển. Cha ta thì nghĩ làm thế chỉ tổ phí thì giờ, nhưng cha cũng cố chịu đựng chuyện đó, hy vọng nó sẽ làm ta từ bỏ ý định đi biển. Hừm, chẳng có gì làm được chuyện đó… mẹ ta là dân biển và ta sinh ra đã có cái máu đó rồi. Nhưng ta thích nghe John đọc sách và trích thơ lắm. Đã gần sáu mươi năm rồi mà ta vẫn còn đọc lại được hàng tá thơ ta học từ ông ấy. Gần sáu mươi năm rồi!” Thuyền trưởng Jim lặng im một nhịp, đăm đắm nhìn ngọn lửa cháy như đang tìm kiếm những gì đã qua. Rồi, với một tiếng thở dài, ông tiếp tục câu chuyện của mình. “Ta nhớ một tối mùa xuân nọ, ta gặp ổng trên đồi cát. Trông thầy giáo có vẻ kích động… y như cháu, bác sĩ Blythe ạ, lúc cháu đưa cháu gái Blythe vô nhà tối nay. Ta nghĩ đến ổng ngay khi ta nhìn thấy cháu. Ổng nói với ta ổng có một cô người yêu ở nhà và cổ sắp ra đây với ổng. Ta chẳng hài lòng một tẹo nào, cái thằng trẻ người non dạ ích kỷ xấu tính là ta hồi đó; ta nghĩ ổng sẽ không còn thân với ta mấy nữa một khi cô kia đến. Nhưng ta cũng đủ lịch sự để không cho ông ấy thấy. Ổng kể cho ta mọi thứ về cổ. Cổ tên là Persis Leigh, và đáng lẽ cổ đã ra với ổng rồi nếu không vì người chú bị ốm của cổ. Ông chú ốm, mà ông ấy thì đã chăm sóc cho cổ từ hồi cha mẹ cổ mất và cổ không chịu rời ông ấy. Và giờ thì ông ấy chết rồi và cổ sẽ ra đây để cưới John Selwyn. Hồi đó phụ nữ mà đi một chặng như thế là không dễ dàng gì. Nên nhớ là làm gì hồi đó đã có tàu thủy chạy nồi hơi.” “ ‘Anh tính khi nào chị tới nơi?’ ” ta nói. “ ‘Chị ấy lên con tàu Royal William, từ ngày 20 tháng Sáu,’ anh ấy nói, ‘vậy nên chị ấy sẽ có mặt ở đây khoảng giữa tháng Bảy. Anh phải nhờ bác thợ mộc Johnson xây cho anh một cái nhà cho chị mới được. Anh nhận được thư chị hôm nay. Anh biết ngay từ trước khi mở thư là có tin tốt cho anh mà. Mấy đêm hôm trước anh có gặp chị.’ ” “Ta không hiểu, và ổng giải thích… mặc dù sau đó ta cũng chẳng hiểu hơn là mấy. Ổng nói ổng có một năng lực, một món quà, hay một lời nguyền. Đấy là lời ông ấy, cháu Blythe ạ… một món quà hoặc một lời nguyền. Ông ấy không biết là cái nào. Ổng nói một người kỵ ở bên đằng ngoại của ổng có năng lực đó, vì vậy mà người ta đã thiêu bà, nói bà là phù thủy. Ổng nói những cơn mê kỳ quái… những trận lên đồng, ta nghĩ ổng dùng từ đó… thỉnh thoảng lại chiếm lấy ông ấy. Có mấy chuyện đó không, bác sĩ?” “Chắc chắn có những người dễ bị các trạng thái lên đồng như vậy,” Gilber trả lời. “Vấn đề này thiên về nghiên cứu tâm thần hơn là y khoa. Những cơn lên đồng của thầy John Selwyn này như thế nào ạ?” “Như các giấc mơ chứ gì,” ông bác sĩ già nói vẻ nghi ngờ. “Ổng nói ổng nhìn thấy chuyện nọ chuyện kia trong đó,” thuyền trưởng Jim thong thả nói. “Mọi người nên nhớ là ta đang kể đúng những gì ổng nói… những chuyện đã xảy ra… những chuyện sắp xảy ra. Ổng nói cái đó nhiều khi là một niềm an ủi của ông, lắm lúc lại là nỗi kinh hoàng. Bốn đêm trước đêm hôm đó ổng gặp một “cơn” như thế… trôi vô trỏng khi đang ngồi nhìn lò sưởi. Rồi ổng thấy một căn phòng cũ ở Anh mà ổng biết rõ, thấy Persis Leigh trong đó, giơ tay về phía ông ấy, trông rất vui mừng và hạnh phúc. Vậy nên ổng biết mình sắp được tin tốt từ cổ.” “Nằm mơ… nằm mơ,” ông bác sĩ lầm bầm. “Có thể lắm… có thể lắm,” thuyền trưởng Jim thừa nhận. “Lúc đó ta cũng nói với ổng như thế. Nghĩ vậy thì thoải mái hơn rất nhiều. Ta không thích chuyện ổng nhìn thấy cái nọ cái kia… nghe rùng rợn lắm.” “ ‘Không,’ ổng nói, ‘anh không mơ. Nhưng ta sẽ không nói chuyện này nữa. Em sẽ không còn là bạn của anh như trước nữa nếu em nghĩ nhiều về chuyện này.’ ” “Ta nói với ổng rằng không điều gì có thể làm suy suyển tình bạn của ta. Nhưng ổng chỉ lắc đầu và nói, ổng nói: “ ‘Nhóc, anh biết mà. Anh từng mất bạn vì chuyện này. Anh không trách họ. Có những lúc chính anh cũng thấy khó thân thiện với bản thân mình vì chuyện đó. Một khả năng như vậy có chút gì siêu phàm ở trong đó… là tốt hay là xấu ai mà nói được? Và con người chúng ta thảy đều rụt khỏi những tiếp xúc quá gần gũi với Chúa trời cũng như Quỷ dữ.’” “Lời ổng đó. Ta nhớ chúng như thể mới hôm qua, mặc dầu hồi đó ta không biết thiệt tình là ổng muốn nói gì. Bác sĩ, ông nghĩ ổng có ý gì?” “Tôi ngờ là chính thầy ấy cũng không biết mình muốn nói gì,” bác sĩ Dave cáu kỉnh đáp. “Cháu nghĩ là cháu hiểu,” Anne thì thầm. Cô đang lắng nghe bằng thái độ quen thuộc, môi mím chặt và mắt sáng ngời. Thuyền trưởng Jim mỉm một nụ cười ngưỡng mộ trước khi tiếp tục câu chuyện. “Ừm, chẳng mấy mà cả Glen và Bốn Làn Gió đều biết cô dâu của thầy giáo sắp đến, và mọi người mừng lắm vì họ nghĩ rất tốt về thầy. Và mọi người đều quan tâm đến ngôi nhà mới của thầy… căn nhà này đây. Thầy chọn địa điểm, vì từ đây có thể nhìn thấy vịnh và nghe tiếng biển. Thầy làm khu vườn ngoài kia cho cô dâu của thầy, nhưng thầy không trồng mấy cây dương Lombardy. Mấy cây đó bà Ned Russell trồng. Nhưng có một hàng đôi bụi hồng trong vườn mà mấy bé gái học ở trường Glen trồng ngoài đó cho cô giáo. Thầy ấy nói chúng hồng như mà cô, trắng như trán cô và đỏ như môi cô. Thầy ấy trích thơ nhiều đến nỗi thành thói quen nói cũng ra thơ luôn, ta đoán thế.” “Gần như cả làng cả xóm đều gửi cho thầy ít quà để giúp trang bị căn nhà. Khi mà Russell chuyển vô, họ khá dư dả và trang bị nhà cửa rất là tươm tất, như mọi người thấy đấy; nhưng các món đồ đầu tiên vào nhà này chỉ giản dị thôi. Nhưng căn nhà này giàu tình yêu lắm đó. Các bà các cô gửi mền và khăn trải bàn rồi khăn ăn, người này góp cho cô giáo cái tủ, người kia cái bàn, cứ thế. Ngay bà già mù Margaret Boyd cũng đan cho cô giáo một cái làn nhỏ từ cỏ ngọt trên đồi cát. Cô giáo dùng cái làn đó hàng bao nhiêu năm trời để đựng khăn tay.” “Rồi, cuối cùng mọi thứ đã sẵn sàng… đến từng khúc củi trong lò sưởi lớn cũng sẵn sàng để thắp lửa. Không phải cái lò này đâu, mặc dù cũng vị trí đó. Cô Elizabeth cho xây cái lò sưởi này khi cổ sửa lại căn nhà mười lăm năm trước. Hồi đó nó là một cái lò sưởi lớn, kiểu cũ, quay được cả một con bò ở trỏng. Rất nhiều lần ta đã ngồi đây kể chuyện, cũng như ta đang làm đêm nay.” Lại một khoảng lặng nữa, khi thuyền trưởng Jim có một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với những vị khách mà Anne và Gilbert không nhìn thấy được – những người đã cùng với ông ngồi quanh cái lò sưởi kia trong những năm tháng đã tàn phai, cùng từng câu đùa và bao niềm vui mới mẻ bừng sáng trong những đôi mắt từ lâu đã vĩnh viễn nhắm lại dưới lớp đất nghĩa trang nhà thờ hay dưới từng dặm biển phập phồng. Tại đây vào những đêm xưa cũ, lũ trẻ con đã vô tư thả những tràng cười qua lại. Nơi đây trong những đêm đông, bạn bè đã quần quay. Hát ca, nhảy múa, đùa vui. Nơi đây những người trẻ tuổi và những trinh nữ đã mộng mơ. Với thuyền trưởng Jim, cư ngụ trong căn nhà nhỏ đó là bóng hình mong cầu được nhớ tới. “Đến đầu tháng Bảy thì căn nhà hoàn tất. Thầy giáo bắt đầu đếm từng ngày. Chúng ta thường thấy thầy đi bộ một mình dọc bờ biển, và bọn ta nói với nhau, ‘Cô ấy sắp đến với thầy rồi.’ ” “Theo kế hoạch thì giữa tháng Bảy cô giáo sẽ đến nơi, nhưng lúc đó cô không đến. Chẳng ai sốt ruột cả. Thuyền bè thời bấy giờ có thể trễ nhiều ngày thậm chí nhiều tuần. Tàu Royal William trễ một tuần… rồi hai… rồi ba. Và rốt cuộc chúng ta bắt đầu sợ hãi, và mọi thứ càng lúc càng tệ. Cuối cùng ta không nỡ nhìn vào mắt John Selwyn nữa. Cháu có biết không, cháy Blythe” - Thuyền trưởng Jim hạ giọng - “ta thường nghĩ đôi mắt đó hẳn giống như mắt bà cố của thầy lúc cụ bị người ta thiêu đến chết. Thầy chẳng nói gì nhiều nhưng thầy dạy học như người mộng du rồi quay quả đi ra bờ biển. Rất nhiều đêm thầy đếm bước ở đó từ tối đến tận bình minh. Mọi người nói thầy đang mất trí rồi. Mọi người đều đã từ bỏ hy vọng… tàu Royal William đã trễ tám tuần. Đã giữa tháng Chín mà cô dâu thầy giáo vẫn chưa đến… không bao giờ đến nữa, chúng ta đã nghĩ vậy. “Hồi đó có một cơn bão lớn kéo dài ba ngày, và vào cái đêm trước khi bão tan, ta ra bờ biển. Ta thấy thầy ở đó, khoanh tay dựa vào một tảng đá lớn, ngước nhìn ra biển. “Ta gọi thầy nhưng ổng không trả lời. Mắt ổng như đang nhìn về một cái gì đó ta không thấy được. Mặt ổng nghiêm lại, như mặt một người đã chết.” “ ‘Anh John, anh John ơi,’ ta gọi… đúng như thế đó… như một đứa trẻ hoảng loạn, ‘tỉnh dậy… tỉnh dậy đi.’ “Cái vẻ lạ lùng, khủng khiếp ấy dường như từ từ tan biến khỏi mắt thầy. Thầy quay đầu lại nhìn ta. ‘Ta đã thấy con tàu Royal William rẽ vào mũi Đông. Cô ấy sẽ đến đây trước lúc trời sáng. Đêm mai ta sẽ ngồi cạnh cô dâu của ta bên ngọn lửa lò sưởi của ta.’ “Mọi người có nghĩ thầy thấy thật không?” thuyền trưởng Jim đột ngột hỏi. “Chúa biết,” Gilbert nói vẻ dịu dàng. “Tình yêu lớn và nỗi đau lớn có thể đạt đến những điều kỳ diệu mà ta không sao biết được.” “Cháu tin thầy ấy đã thấy,” Anne tha thiết nói. “Vớ-văn-vẩn,” bác sĩ Dave nói, nhưng giọng ông có vẻ ít được thuyết phục hơn thường lệ. “Bởi vì, mọi người biết không,” thuyền trưởng Jim nghiêm trang nói, “con tàu Royal William đã cập vịnh cảng Bốn Làn Gió buổi bình minh hôm đó. “Hết thảy bà con ở Glen và dọc bờ biển đều có mặt ở cầu tàu để gặp cô giáo. Thầy giáo đứng trông ở đó cả đêm. Bọn ta reo hò mới khiếp chứ, lúc con tàu dong buồm vào kênh nước.” Mắt thuyền trưởng Jim sáng long lanh. Đôi mắt ấy đang nhìn thấy vịnh cảng Bốn Làn Gió của sáu mươi năm về trước, một con tàu cũ kỹ tả tơi dong buồm lướt qua rực rỡ bình mình. “Và Persis Leigh có trên tàu?” Anne hỏi. “Đúng, cổ và vợ thuyền trưởng. Họ đã trải qua một hải trình khủng khiếp… hết cơn bão này đến cơn bão khác… thực phẩm dự trữ cũng cạn kiệt. Nhưng rồi họ cũng đến được nơi. Khi Persis Leigh bước lên chiếc cầu tàu vũ, John Selwyn ôm cô ấy vào vòng tay… và mọi người thôi reo hò mà bắt đầu khóc. Ta cũng khóc, mặc dù nên nhớ là phải nhiều năm sau ta mới thừa nhận chuyện đó. Tức cười há, cái chuyện mấy đứa con trai cứ xấu hổ vì nước mắt đó?” “Persis Leigh có đẹp không ạ?” Anne hỏi. “Ừm, ta không biết chính xác có gọi cổ là đẹp được không… ta… không… biết,” thuyền trưởng Jim chậm rãi nói. “Không hiểu sao, chẳng ai buồn tự hỏi cô ấy có đẹp hay là không. Đơn giản là chuyện đó không quan trọng. Ở cổ có một cái gì đó ngọt ngào và thu phục lòng người đến nỗi người ta cứ phải yêu quý cổ, thế thôi. Nhưng cô giáo cũng ưa nhìn lắm - đôi mắt to, trong màu hạt dẻ và mái tóc nâu óng ả bồng bềnh, và một làn da Anh quốc. John và cô ấy thành thân tại nhà ta tối hôm đó lúc vừa đến giờ thắp nến; bà con gần xa đều có mặt để chứng kiến và sau đó cùng đưa họ về đây. Cô Selwyn thắp lửa, rồi chúng ta ra về và để họ ngồi lại đó, đúng như John đã nhìn thấy trong viễn kiến của mình. Kỳ lạ… một điều kỳ lạ! Nhưng ta đã gặp quá nhiều điều kỳ lạ trong đời mình.” Thuyền trưởng Jim lắc đầu như một nhà hiền triết. “Thật là một câu chuyện đáng yêu,” Anne nói, lâu lắm rồi cô mới thấy một câu chuyện đủ độ lãng mạn có thể làm cô thỏa mãn. “Họ sống ở đây bao lâu ạ?” “Mười lăm năm. Ta dông ra biển sau khi họ cưới nhau không lâu, cái thằng trẻ tuổi ất ơ là ta hồi đấy. Nhưng mỗi lần trở về từ một chuyến viễn trình ta lại chạy đến đây, thậm chí còn trước cả khi về nhà, và kể cho cô Selwyn nghe mọi chuyện. Mười lăm năm hạnh phúc! Họ như có năng khiếu hạnh phúc hay sao ấy, hai người đó. Một số người là vậy đó, nếu mọi người để ý. Họ không thể bất hạnh lâu được, dù có chuyện gì xảy ra. Họ cãi vã nhau một hai lần, vì cả hai đều rất giàu nhiệt khí. Nhưng cô Selwyn có lần nói với ta, cổ vừa nói vừa cười đúng cái kiểu dễ thương của cổ, ‘Chị cảm thấy rất kinh khủng khi chị và John cãi nhau, nhưng trong thâm tâm chị rất hạnh phúc vì chị có người chồng dễ thương như vậy để mà cãi cọ rồi lại làm lành với nhau.’ Rồi họ chuyển đến Charlottetown, và Ned Russell mua lại căn nhà này rồi mang cô dâu của mình đến đây. Họ cũng là một cặp trẻ trung vui tươi, ta nhớ vậy. Cô Elizabeth Russell là em gái của Alec. Cô đến sống cùng họ một hai năm sau đó, và cô ấy cũng là người vui tươi. Những bức tường trong căn nhà này chắc phải đẫm tiếng cười và những giờ vui vẻ. Cháu là cô dâu thứ ba ta được chứng kiến đặt chân đến đây, cháu Blythe ạ… và là cô dâu xinh đẹp nhất.” Thuyền trưởng Jim đã mang lại cho lời khen hướng dương này phong vị của một đóa violet, và Anne tự hào mang nó lên mình. Tối hôm ấy là tối cô đẹp nhất với sắc hồng cô dâu trên má và ánh sáng tình yêu trong mắt; ngay cả bác sĩ Dave già khô khan cũng nhìn cô vẻ tán thưởng, và nói với vợ mình, khi cả hai cùng đánh xe về nhà, rằng cô vợ tóc đỏ của cháu ông có thể nói là một mỹ nhân. “Ta phải về với ngọn đèn đây,” thuyền trưởng Jim tuyên bố. “Ta đã tận hưởng buổi tối hôm nay phải nói là hết cỡ.” “Ông phải đến chơi với chúng cháu thường xuyên nhé,” Anne nói. “Ta tự hỏi liệu cháu có dám mời không nếu biết ta sẵn sàng chấp nhận lời mời đó đến mức nào,” thuyền trưởng Jim bông đùa nhận xét. “Một cách khác để nói ông tự hỏi liệu cháu có mời thật lòng không,” Anne mỉm cười. “Cháu nói thật đấy, ‘thề đứt lưỡi luôn’, như chúng cháu hay nói ở trường.” “Thế thì ta sẽ đến. Đảm bảo các cháu sẽ bị ta quấy rầy bất kể giờ giấc. Và ta cũng sẽ tự hào được các cháu ghé qua thăm lúc này lúc khác. Bình thường ta chẳng có ai mà nói chuyện trừ con Bạn Đầu, Chúa phù hộ cho trái tim cởi mở của nó. Nó là một thính giả tuyệt vời, và đã quên đi nhiều chuyện hơn bất cứ gã MacAllister nào từng được biết, nhưng nó không phải là người ‘hay chuyện’ gì cho cam. Các cháu trẻ còn ta già, nhưng tâm hồn của chúng ta chắc cũng khoảng tuổi nhau, ta đoán thế. Chúng ta đều cùng thuộc về lớp người quen của Joseph[1], như Cornelia Bryant vẫn nói.” [1] Sách xuất hành 1:8 (quyển thứ hai trong Cựu Ước) viết, “Nhưng bấy giờ tại nước Ai Cập, có một vua mới lên ngôi chẳng biết quen Joseph,” chỉ sự chấm dứt thời kỳ yên ấm của người Do Thái ở Ai Cập dưới sự lãnh đạo của Joseph. Điều đó có nghĩa là, nhưng người quen biết Joseph, ngược lại, là những người tin ở Chúa và đi theo Người. “Lớp người quen của Joseph á?” Anne ngơ ngác. “Đúng. Cornelia chia tất cả người trên thế giới này làm hai loại: loại quen Joseph và loại không. Nếu một người kiểu như thấu gan thấu ruột cháu, và đại loại có cùng cảm nghĩ với cháu về các vấn đề, và có cùng khiếu hài hước… đó, vậy là anh ta thuộc lớp người quen của Joseph.” “Ô, cháu hiểu rồi,” Anne reo lên, bừng lên ánh sáng thông hiểu. “Đấy là cái mà cháu từng gọi… và vẫn gọi trong ngoặc kép là ‘những tâm hồn đồng điệu’.” “Đúng đó… đúng đó,” thuyền trưởng Jim đồng ý. “Chúng ta là cái đó đó, dù cái đó là cái chi đi nữa. Tối nay lúc cháu bước vào, cháu Blythe ạ, ta đã tự nhủ, ta kêu, ‘Đúng rồi, cô bé thuộc lớp người quen của Joseph đây mà.’ Và ta cực kỳ vui mừng đó, vì nếu không phải vậy thì chúng ta không sao có được sự hài lòng thực sự khi bầu bạn cùng nhau. Lớp người quen của Joseph chính là muối của đất, ta nói vậy đó.” Khi Anne và Gilbert tiễn các vị khách ra cửa thì trăng vừa lên. Vịnh cảng Bốn Làn Gió đang dần chuyển mình thành một cơn mơ với ánh sáng và bùa chú… một chốn trú ẩn được yểm bùa che chở, nơi không một cơn thịnh nộ nào có thể chạm tới. Những cây dương Lombardy dọc lối đi, cao lớn và nghiêm trang như những mục sư đứng xếp thành một hàng kỳ bí, nặng trĩu sương bạc. “Lúc nào cũng thích Lombardy,” thuyền trưởng Jim nói, vẫy cánh tay dài về phía chúng. “Chúng là những cái cây công chúa. Giờ chúng lỗi mốt rồi. Dân tình phàn nàn là chúng chết từ ngọn và dần trông rất thảm hại. Đúng thế… đúng thể, nếu mỗi mùa xuân ta không liều gãy cổ mà leo một cái thang nhẹ lên tỉa ngọn cho chúng. Ta lúc nào cũng làm việc đó cho cô Elizabeth, thế nên mấy cây Lombardy của cổ không bao giờ héo. Cổ đặc biệt thích chúng. Cổ thích vẻ trang nghiêm và sự nổi bật của chúng. Chúng không trộn lẫn với mấy thằng Tom, Dick hay Harry vớ vẩn. Nếu cây phong là bầu bạn, cháu Blythe ạ, thì Lombardy là quảng giao.” “Đêm nay mới đẹp làm sao,” bà bác sĩ Dave nói, khi bà trèo vào xe của bác sĩ. “Hầu hết các đêm đều đẹp,” thuyển trưởng Jim nói. “Nhưng có điều ánh trăng chiếu trên Bốn Làn Gió nhiều khi làm ta tự hỏi thiên đường còn lại gì nữa. Mặt trăng là một người bạn lớn của ta, cháu Blythe ạ. Ta yêu nàng từ hồi ta còn nhớ được. Hồi ta mới là một đứa trẻ lên tám ta ngủ quên ngoài vườn một đêm nọ mà không ai biết hết. Ta thức dậy một mình lúc nửa đêm và sợ gần chết. Toàn là bóng đen và những âm thanh kỳ dị! Ta không động đậy. Cứ cuộn tròn ở đó mà run, thằng nhóc tội nghiệp. Như kiểu không có ai trên thế gian này ngoài ta mà thế gian thì rộng lớn quá. Rồi đột nhiên ta thấy mặt trăng ngó xuống qua rặng táo, như một người bạn cũ. Ta được an ủi ngay. Đứng dậy và đi về nhà dũng cảm như một con sư tử, vừa đi vừa nhìn trăng. Rất nhiều đêm ta đã nhìn nàng từ boong tàu của mình, trên những vùng biển xa xôi. Sao mấy người không bảo ta ngậm mồm lại và đi về cho rồi đi?” Tiếng cười của những lời chúc ngủ ngon dần tắt. Anne và Gilbert tay trong tay dạo bước quanh vườn. Con suối vắt ngang góc vườn gợn sóng trong vắt dưới hàng bu lô. Những bông anh túc ở đôi bờ như những chiếc cốc nông đong đầy ánh trăng. Những bông hoa đã được bàn tay cô dâu thầy giáo trồng xuống tung sự ngọt ngào của chúng vào không khí, như vẻ đẹp và phúc lành từ những ngày đã qua đầy thiêng liêng. Anne dừng trong bóng tối để ngắt một canh hoa. “Em thích ngửi hoa trong bóng tối,” cô nói. “Lúc đó ta nắm bắt được tâm hồn chúng. Ôi, Gilbert, căn nhà nhỏ này là tất cả những gì em từng mơ ước. Và em rất mừng là chúng ta không phải những người đầu tiên giữ gìn đính ước hôn nhân ở đây!” 8. Cô Cornelia Bryant ghé chơi ThángChín năm ấy là một tháng Chín sương vàng khói tím tại vũng Bốn Làn Gió… một tháng Chín của những ngày đẫm nắng và những đêm ngụp lặn trong ánh trăng, hay phập phồng những vì sao. Không một trận bão nào làm xây xước tháng Chín, không cơn gió dữ nào thổi qua. Anne và Gilbert thu xếp tổ ấm của họ, lang thang trên bờ biển, dong thuyền trên vịnh, đánh xe quanh Bốn Làn Gió và Glen, hay qua những con đường rừng cô tịch mọc đầy dương xỉ quanh vịnh cảng; tóm lại, họ đã có một tháng trăng mật mà bất cứ cặp tình nhân nào trên thế giới cũng phải ghen tị. “Nếu cuộc sống có phải dừng lại ngắn ngủi ngay bây giờ thì nó vẫn vô cùng đáng sống, nếu chỉ nhờ bốn tuần vừa qua, phải không anh?” Anne nói. “Chắc chúng ta sẽ chẳng bao giờ có lại bốn tuần hoàn hảo đến thế nữa đâu… nhưng chúng ta đã có. Mọi thứ… gió, thời tiết, bạn bè, căn nhà mơ ước… đã thông đồng với nhau để làm cho tháng trăng mật của chúng ta thật diệu kỳ. Chưa có đến một ngày mưa từ lúc chúng mình đến đây.” “Và chúng ta cũng chưa cãi nhau lần nào,” Gilbert trêu. “À, ‘đấy là một lạc thú hoãn được chừng nào tốt chứng đấy,’ ” Anne trích. “Em rất vui là chúng mình đã quyết định trải qua kỳ trăng mật tại đây. Những ký ức của chúng ta về nó sẽ luôn thuộc về nơi này, trong ngôi nhà mơ ước của chúng ta, thay vì rải rác khắp những nơi chốn xa lạ.” Có một âm sắc lãng mạn và phiêu lưu nhất định trong không gian căn nhà mới của họ mà Anne chưa bao giờ tìm thấy ở Avonlea. Ở Avonlea, mặc dù cô đã sống trong tầm nhìn thấy biển, biển chưa bao giờ bước vào đời cô một cách mật thiết. Ở Bốn Làn Gió, biển bao bọc lấy cô và gọi cô không ngớt. Từ mọi ô cửa sổ căn nhà mới của mình, cô thấy được một góc luôn biến đổi nào đó của biển. Tiếng rì rầm ám ảnh của nó luôn ở trong tai cô. Những chiếc tàu ngày ngày dong vào vịnh để cập cầu cảng ở Glen, hay giương buồm trở ra trong ánh hoàng hôn, đến những bến bờ chưa biết chừng cách cả nửa vòng trái đất. Những thuyền cá lướt đôi cánh trắng xuống kênh nước vào buổi sáng, và trở về trĩu nặng vào ban đêm. Thủy thủ và dân chài đi trên những con đường cảng đất đỏ quanh co, vui vẻ và hài lòng. Lúc nào cũng có cảm giác mọi điều đang sắp sửa xảy ra - những cuộc phiêu lưu và những chuyến đi. Đường ở Bốn Làn Gió ít phẳng lặng, ổn định và mòn cũ như đường ở Avonlea; những ngọn gió của sự đổi thay thổi tràn qua chúng; biển vẫy gọi liên hồi những cư dân trên bờ, và ngay cả những người có thể không trả lời tiếng gọi đó cũng cảm nhận được sự hào hứng và biến động và bí ẩn cũng như những tiềm năng của nó. “Giờ thì em hiểu vì sao một số người nhất định phải ra biển,” Anne nói. “Cái khao khát đến với tất cả chúng ta, lúc này hay lúc khác - ‘dong buồm vượt ra ngoài biên giới của hoàng hôn’ - hẳn phải mãnh liệt lắm một khi nó nảy nở trong ta. Em không ngạc nhiên khi thuyền trưởng Jim chạy theo tiếng gọi của nó. Em không bao giờ nhìn một con tàu lướt ra ngoài kênh nước, hay một con chim mòng tung cánh qua đồi cát, mà không ao ước mình cũng ở trên boong tàu hoặc có cánh, không phải như một chú bồ câu ‘tung cánh hòa bình’, mà như một con mòng biển, sải cánh bay ra vào tận trái tim của một cơn bão.” “Em sẽ ở nguyên đây với anh, bé Anne ạ,” Gilbert nói vẻ lười biếng. “Anh sẽ không cho em rời khỏi anh bay vào các tâm bão nọ kia đâu.” Họ đang ngồi trên bậc thềm sa thạch đỏ vào một buổi chiều muộn. Vẻ bình yên tuyệt diệu ngự trị khắp chung quanh hai người trong đất và biển và trời. Những chú mòng biển màu bạc đang bay lượn trên đầu họ. Đường chân trời viền những dải mây mỏng dài màu hồng hồng. Một điệp khúc gió và sóng du ca thì thầm xâu chỉ qua không gian nín lặng. Những bông cúc tây tím nhạt đong đưa trên những đồng cỏ khô mù sương giữa căn nhà và vịnh cảng. “Các bác sĩ phải thức cả đêm trông người bệnh chắc chẳng máu phiêu lưu lắm đâu nhỉ,” Anne ngoan ngoãn nói. “Nếu đêm qua mà anh được ngủ ngon, Gilbert ạ, thì anh cũng sẽ sẵn sàng cho một chuyến bay tưởng tượng giống em thôi.” “Đêm qua anh đã làm việc tốt, Anne ạ,” Gilbert nhẹ nhàng nói. “Dưới Chúa, anh đã cứu một mạng người. Đây là lần đầu tiên anh có thể thật sự thừa nhận điều đó. Trong các trường hợp khác có lẽ anh cũng giúp phần nào; nhưng mà, Anne ạ, nếu đêm qua anh không ở lại nhà Allonby mà tay bo chiến đấu với thần Chết, thì người phụ nữ ấy đã chết trước lúc trời sáng rồi. Anh đã thử nghiệm một phương pháp chắc chắn trước đây chưa bao giờ được làm thử ở Bốn Làn Gió. Anh nghi là thậm chí nó còn chưa được thử nghiệm ở bất cứ nơi nào khác ngoài bệnh viện. Đây là một phương pháp mới ở bệnh viện Kingsport từ mùa đông trước. Anh đã không bao giờ dám thử nếu anh không hoàn toàn chắc chắn là không còn bất cứ cơ hội nào khác. Anh đã liều… và đã thành công. Kết quả là, một người vợ và một người mẹ tốt đã được cứu để sống thêm nhiều năm hạnh phúc và hữu ích. Lúc anh đánh xe về nhà sáng nay, khi mặt trời ló lên trên cảng, anh đã cảm tạ Chúa vì anh đã chọn nghề mình đang làm. Anh đã đánh một trận cừ và đã thắng - em hãy nghĩ đi Anne, chiến thắng Kẻ Hủy Diệt Vĩ Đại. Đây là điều anh mơ ước từ rất lâu rồi khi chúng ta cùng nhau nói về những điều ta muốn làm trong đời. Giấc mơ ấy của anh đã trở thành sự thật sáng hôm nay.” “Đấy có phải là giấc mơ duy nhất của anh đã trở thành sự thật không?” Anne hỏi, hoàn toàn biết rõ đại ý câu trả lời của anh sẽ là gì, nhưng vẫn muốn nghe lại một lần nữa. “Em biết mà, bé Anne,” Gilbert nói, mỉm cười nhìn mắt cô. Vào giây phút ấy chắc chắn có hai con người hoàn toàn hạnh phúc ngồi trên bậc thềm của một căn nhà trắng nhỏ trên bờ vịnh cảng Bốn Làn Gió. Đúng lúc đó Gilbert nói, đổi giọng, “Có phải anh đang thấy một con tàu trang bị đủ đồ nghề đang dong buồm hướng lên đường vào nhà mình không nhỉ?” Anne nhìn và bật dậy. “Chắc là cô Cornelia Bryant hoặc là bà Moore đến hỏi thăm đấy,” cô nói. “Anh vào văn phòng đây, và nếu đấy là cô Cornelia thì anh cảnh cáo em là anh sẽ nghe lén đấy,” Gilbert nói. “Từ những gì nghe được về cô Cornelia, anh kết luận là cuộc chuyện trò với cô ấy sẽ không nhàm chán đâu, đấy là nói nhẹ nhất rồi đấy.” “Có thể là bà Moore.” “Anh không nghĩ bà Moore có dáng người như vậy. Hôm trước anh thoáng thấy bà ấy làm việc trong vườn, và, mặc dù đứng xa quá không nhìn rõ được, anh nghĩ bà ấy trông khá thanh mảnh. Bà ấy có vẻ không thích giao thiệp xã hội cho lắm khi mà vẫn chưa đến hỏi thăm em, mặc dù bà ấy là láng giềng gần nhất của chúng ta.” “Chí ít thì bà ấy cũng không thể giống như bà Lynde, bằng không thì trí tò mò đã mang bà ấy đến rồi,” Anne nói. “Người khách này, em nghĩ, là cô Cornelia.” Đúng là cô Cornelia; hơn nữa, cô Cornelia không đến chỉ để thăm hỏi đám cưới ngắn gọn và xã giao. Cô cắp theo một bộ đồ nghề đựng trong một cái gói to đùng, và khi Anne mời cô ở lại cô đàng hoàng cởi chiếc mũ đi nắng to uỳnh, được gắn lên đầu cô, bất chấp những cơn gió tháng Chín xấc láo, bằng một dải băng chun chật ních buộc dưới một búi tóc vàng nhỏ chặt. Không kim băng cài mũ cho cô Cornelia, cảm ơn nhé! Dây chun đã là đủ cho mẹ cô, và chúng cũng đủ cho cô. Cô có khuôn mặt tươi tắn, tròn trịa, trắng hồng, và đôi mắt nâu vui vẻ. Cô không giống một “bà cô già” truyền thống tí nào, và có gì đó trong cung cách của cô chiếm ngay được cảm tình của Anne. Với sự nhanh nhạy bản năng trong việc tìm kiếm những tâm hồn đồng điệu, cô biết cô sẽ thích cô Cornelia, bất chấp một số khác biệt chưa xác định về chính kiến, và những khác biệt rõ ràng về cách ăn mặc. Không ai ngoài cô Cornelia đến thăm nhà mà lại khoác lên mình một cái tạp dề sọc xanh trắng và một chiếc áo choàng màu sô cô la với hoa văn in hình những bông hồng to tướng vương vãi trên đó. Và không ai ngoài cô Cornelia có thể trông đường hoàng và phù hợp khi ăn mặc như thế. Giá kể cô Cornelia có bước vào một cung điện để thăm hỏi cô dâu của một hoàng tử, thì cô trông cũng sẽ đường hoàng và hoàn toàn làm chủ bản thân y như vậy. Cô sẽ lê cái viền váy hoa hồng của mình trên mặt sàn đá cẩm thạch cũng với vẻ vô tư lự như thế, và cô cũng sẽ bình thản tiến hành quá trình làm cho nàng công chúa kia tỉnh ngộ nếu nàng ta manh nha có ý nghĩ rằng việc sở hữu một gã đàn ông, dù đấy là hoàng tử hay nông dân, là một cái gì đáng để mà khoác lác. “Ta có mang theo đồ nghề đây, cháu Blythe, cưng ạ,” bà nhận xét, tháo ra một ít vật liệu rất thanh nhã. “Ta đang vội làm cho xong cái này, và không còn thì giờ đâu để mà bỏ phí nữa.” Anne nhìn với chút ngạc nhiên chỗ vải trắng trải khắp trên lòng cô Cornelia. Rõ ràng đấy là một chiếc váy cho trẻ con, và nó mới đẹp làm sao chứ, những viền những nếp bé tí ti. Cô Cornelia chỉnh lại kính và chú mục vào thêu những đường chỉ thật là tinh tế. “Cái này là cho Fred Proctor ở trên Glen,” bà tuyên bố. “Chị chàng sắp sinh đứa thứ tám tới nơi rồi, mà chưa chuẩn bị cho nó lấy một cái áo cái quần nào. Bảy đứa trước đã mặc nát tất cả những gì chị ta may cho đứa thứ nhất, và chị ta không bao giờ có thì giờ hay sức lực hay tinh thần để may thêm cái gì nữa. Người đàn bà ấy đúng là một tu sĩ tử vì đạo đấy, tin ta đi, cháu Blythe ạ. Khi chị ta cưới Fred Proctor ta đã biết chuyện sẽ thành ra như thế nào rồi, một gã đồi bại và hấp dẫn. Sau khi hắn lấy vợ hắn hết hấp dẫn mà chỉ tiếp tục đồi bại. Hắn uống rượu vào rồi hắn bỏ bê gia đình. Đúng là đồ đàn ông! Ta cũng không biết Proctor làm thế nào mà giữ cho con cái chị ta ăn mặc tử tế nếu hàng xóm không đỡ cho nữa.” Như Anne sau này sẽ biết, cô Cornelia là người hàng xóm duy nhất mất công lo cho sự tử tế của mấy đứa nhỏ nhà Proctor. “Khi nghe tin đứa trẻ thứ tám này sắp chào đời ta đã quyết định sẽ làm vài thứ cho nó,” cô Cornelia nói tiếp. “Đây là cái cuối cùng và ta muốn làm cho xong luôn hôm nay.” “Nó rõ ràng là rất đẹp ạ,” Anne nói. “Cháu sẽ lấy bộ đồ thêu của cháu và chúng ta sẽ có một nhóm may vá nhỏ gồm có hai người. Cô may đẹp quá, cô Bryant ạ.” “Ừ, ta là thợ máy khéo nhất vùng này đấy,” cô Cornelia nói bằng giọng thản nhiên. “Phải thế chứ còn gì nữa! Chúa ơi, ta may đồ còn nhiều hơn cả nếu ta có một trăm đứa con ruột, tin ta đi! Ta nghĩ ta thật là đồ ngốc, ta thêu tay trên cái váy này cho một đứa con thứ tám. Nhưng, Chúa ơi, cháu Blythe, cưng ạ, làm sao đổ lỗi cho nó vì nó là đứa con thứ tám được, và ta thì đại loại hy vọng nó có một cái váy thật xinh, như thể nó là một đứa con được mong chờ vậy. Chả ai thèm cái con bé tội nghiệp đó cả… thế nên ta bày vẽ thêm chút xíu trên mấy thứ đồ của nó chỉ riêng vì điều đó.” “Bất cứ đứa trẻ nào cũng có thể tự hào về chiếc váy đó,” Anne nói, cảm nhận ngày càng mạnh mẽ là mình sẽ thích cô Cornelia. “Ta đoán cháu đã nghĩ ta sẽ chẳng bao giờ đến hỏi thăm cháu,” cô Cornelia nói tiếp. “Nhưng đang là tháng gặt, cháu biết đấy, và ta bận lắm… rất nhiều công nhân làm thêm lởn vởn xung quanh, ăn nhiều làm ít, đúng là đồ đàn ông. Ta định sang hôm qua, nhưng lại phải đến dự đám tang của bà Roderick MacAllister. Ban đầu ta nghĩ đầu mình nhức quá, không thể nào vui vẻ được nếu mà đi. Nhưng bà ta một trăm tuổi lận, và ta lúc nào cũng tự hứa với lòng là sẽ đi dự đám tang của bà ta.” “Đám tang có… ừm, thuận lợi không ạ?” Anne hỏi, nhận thấy cửa phòng làm việc đang he hé. “Cái gì cơ? À, có, đám tang hoành tráng lắm. Bà ta quan hệ rộng lắm. Có tới hơn một trăm hai mươi cỗ xe trong lễ đưa tang. Có một hai chuyện tức cười xảy ra. Ta tưởng ta chết tới nơi khi thấy lão già Joe Bradshaw, vốn không theo đạo và chưa bao giờ hắt bóng lên cửa một cái nhà thờ nào, lại hát bài ‘An toàn trong vòng tay của đức Jesus’ nhiệt tình hăng hái tới mức đó. Ông già nổi danh hát hay… chính vì thế ổng không bỏ qua một đám tang nào. Bà già Bradshaw tội nghiệp trông không có vẻ gì là thích hát hò… nai lưng phục vụ chồng con đã mệt chết ra rồi. Thỉnh thoảng ông già Joe lại lên đường đi mua cho bà vợ một món quà nhưng rồi lại lôi về nhà một món máy móc nông trại mới nào đó. Đúng là đồ đàn ông! Nhưng một người đàn ông mà không bao giờ đi nhà thờ, ngay cả nhà thờ Giám lý, thì trông mong được gì? Ta thật mừng khi thấy cháu với bác sĩ trẻ trong nhà thờ Trưởng lão hôm Chủ nhật đầu tiên các cháu tới đây. Không Trưởng lão thì không có bác sĩ bác siếc gì với ta sất.” “Tối Chủ nhật tuần trước chúng cháu mới đi nhà thờ Giám lý đấy ạ,” Anne ranh mãnh nói. “Ồ, ta đoán bác sĩ Blythe thỉnh thoảng cũng phải đi nhà thờ Giám lý, nếu không thì sẽ mất bệnh nhân bên đó.” “Chúng cháu thích bài giảng đạo hôm đó lắm,” Anne bạo gan tuyên bố. “Và cháu nghĩ lời cầu nguyện của vị mục sư Giám lý là một trong những lời cầu nguyện hay nhất cháu từng được nghe.” “Ồ, ta không nghi ngờ chuyện thằng cha ấy biết cầu nguyện. Ta chưa bao giờ nghe ai cầu nguyện hay hơn ông già Simon Bentley, lúc nào cũng say, hoặc sắp say, mà càng say thì ông ta cầu nguyện càng hay.” “Mục sư Giám lý rất đẹp trai,” Anne nói, vì lợi ích của cánh cửa phòng làm việc. “Đúng, hắn khá chải chuốt,” cô Cornelia đồng ý. “Ồ, và rất chi nữ tính. Và hắn nghĩ cô gái nào nhìn hắn cũng sẽ sa bẫy tình yêu với hắn… như thể một mục sư Giám lý, cà lơ phất phơ như một tên Do Thái, là cái quý báu lắm ấy! Nếu cháu và bác sĩ trẻ mà nghe lời khuyên của ta, thì các cháu không nên dính dáng nhiều đến đám Giám lý. Phương châm của ta là… nếu đã là người của Giáo hội Trưởng lão, hãy cư xử cho ra người Trưởng lão.” “Cô không nghĩ là người theo Giáo hội Giám lý cũng được lên thiên đường như người theo Giáo hội Trưởng lão sao?” Anne hỏi, không cười cợt. “Chuyện đó đâu đến lượt chúng ta quyết định. Nó nằm trong những bàn tay cao hơn chúng ta, cô Cornelia nghiêm trang nói. “Nhưng ta sẽ không dây dưa với bọn họ trên mặt đất, dù ta có thể phải làm thế trên thiên đường. Cái gã mục sư Giám lý này chưa lấy vợ. Ông trước thì có vợ, và vợ ông ta là cái thứ ngờ nghệch, đồng bóng nhất ta từng thấy. Có lần ta nói với chồng cô ta rằng ông ta lẽ ra nên đợi tới khi cô ta lớn rồi hãy lấy làm vợ. Ông ta bảo ông ta muốn được huấn luyện vợ. Đúng là đồ đàn ông!” “Cũng hơi khó xác định chính xác khi nào thì con người ta lớn,” Anne bật cười. “Cháu nói đúng đó cưng. Một số người mới sinh ra đã trưởng thành rồi, và số khác đến tám mươi tuổi cũng chưa lớn, tin ta đi. Cái bà Roderick ta mới đó cũng không bao giờ lớn. Một trăm tuổi rồi bà ta vẫn ngốc y như hồi lên mười.” “Có lẽ vì vậy mà bà ấy sống lâu đến thế,” Anne gợi ý. “Chắc vậy. Ta thà sống năm mươi năm biết điều còn hơn một trăn năm ngơ ngốc.” “Nhưng cứ thử nghĩ thế giới này sẽ tẻ nhạt biết bao nhiêu nếu ai ai cũng đầy lý trí,” Anne nài nỉ. Cô Cornelia coi thường mọi cuộc đôi co về thơ thẩn vần vèo vớ vẩn. “Bà Roderick là một người nhà Milgrave, và nhà Milgrave chưa bao giờ có mấy đầu óc cả. Cháu trai của bà ta, Ebenezer Milgrave, hồi xưa còn bị mất trí cả mấy năm trời kia. Hắn tưởng mình chết rồi và thường nổi cơn tam bành với cô vợ vì cô ta không chịu chôn hắn. Phải tay ta là ta chôn luôn!” Cô Cornelia trông quyết tâm sắt đá tới mức Anne gần như có thể hình dung ra cô với một con dao bầu trong tay. “Cô không biết người chồng nào tốt hết sao, cô Bryant?” “Ồ, có, đầy… ngoài kia kìa,” cô Cornelia nói, vẫy tay qua cửa số mở về phía khu nghĩa trang nhỏ của nhà thờ phía bên kia cảng. “Nhưng mà còn sống ấy… đi lại bằng xương bằng thịt ấy?” Anne khăng khăng. “Ồ, cũng có vài tay, để thấy là với Chúa mọi thứ đều có thể,” cô Cornelia thừa nhận một cách miễn cưỡng. “Ta không phủ nhận là chỗ nọ chỗ kia cũng có một vài gã đàn ông lạc loài, nếu tóm được sớm và huấn luyện đúng cách, và nếu mẹ gã đã tét mông gã ra trò từ trước, có thể thành ra người tử tế. Chồng cháu này, cũng không đến nỗi tồi, xét theo tiêu chuẩn đàn ông, từ những gì ta nghe được. Ta đoán,”… cô Cornelia nhìn Anne một cái sắc lẻm qua cặp kính… “cháu cho rằng trên đời này không có ai như chồng cháu.” “Không có đâu ạ,” Anne đàng hoàng nói. “À ờ, ta từng nghe một cô dâu nói câu đó một lần rồi,” cô Cornelia thở dài. “Jennie Dean lúc cưới đã nghĩ không có ai như chồng cô ta trên đời này. Và cô ta nói đúng…làm gì có! Đúng quá đi mà, tin ta đi! Hắn ta dẫn cô ta vào một cuộc đời kinh khủng…và lúc cô ta hấp hối thì hắn đang tán cô vợ thứ hai của hắn. Đúng là đồ đàn ông! Tuy nhiên, ta hy vọng sự tự tin của cháu có cơ sở hơn, cưng ạ! Bác sĩ trẻ đang được tiếng lắm. Lúc đầu ta sợ là không được đâu, vì bà con quanh đây lúc nào cũng nghĩ bác sĩ Dave già là bác sĩ duy nhất trên thế giới. Bác sĩ Dave không khôn khéo gì cho lắm, chắc chắn rồi… toàn nói chuyện dây thừng trong nhà có người treo cổ thôi. Nhưng dân tình hễ đau bụng là quên để bụng. Nếu bác ấy mà là mục sư thay vì bác sĩ thì đừng hòng người ta tha thứ cho bác ấy. Ta thấy là cả hai đứa đều là người Giáo hội Trưởng lão và không có gã Giám lý nào ở quanh đây, cháu có thể cho ta biết ý kiến thẳng thắn của cháu về mục sư của chúng ta được không?” “Chà… thật tình… cháu… ừm,” Anne ngần ngừ. Cô Cornelia gật đầu. “Chính xác. Ta đồng ý với cháu, cưng ạ. Chúng ta đã phạm một sai lầm khi thuê ông ta. Cái mặt ông ta trông đúng như một trong mấy cái bia mộ dài và hẹp trong nghĩa trang, nhỉ? Đáng lẽ người ta nên khắc lên trán ông ta dòng chữ ‘Thiêng liêng trong ký ức’ mới phải. Ta sẽ không bao giờ quên được bài đầu tiên ông ta giảng lúc về đây. Nó nói về việc tất cả mọi người nên làm việc mà họ thấy hợp với mình nhất…một đề tài rất hay, dĩ nhiên; nhưng những minh họa ông ta dùng chứ! Ông ta nói, ‘Nếu các bạn có một con bò và một cây táo, và nếu bạn buộc cây táo trong chuồng rồi trồng con bò trong vườn, bốn chân giơ lên, liệu bạn sẽ lấy được bao nhiêu sữa từ cây táo và mấy quả táo từ con bò?’ Trần đời cháu đã bao giờ nghe thứ gì như vậy chưa cưng? Ta mừng hết lớn là hôm ấy không có gã Giám lý nào ở đó… bằng không thì chúng nó lải nhải bình loạn cả đời chẳng hết. Nhưng cái ta không thích nhất ở ông ta là thói quen đồng ý với tất cả mọi người, dù người ta có nói chuyện gì. Nếu cháu nói với ông ta, ‘Ông là đồ cà chớn,’ ông ta sẽ nói, kèm theo cái nụ cười nuột nà, ‘Đúng, chính thế.’ Một mục sư phải có nhiều chính kiến hơn tí chứ. Nói dài nói ngắn, nói tóm lại là, ta xem ông ta là một gã mục sư chết tiệt. Nhưng, dĩ nhiên, đó là giữa ta với cháu thôi nhé. Dân tình có người nghĩ vợ ông ta ăn mặc vui vẻ qua, ta thì bảo là khi bà ta phải sống với một cái mặt như vậy thì bà ta cần cái gì đó để làm mình vui lên chứ. Cháu sẽ không bao giờ nghe ta kết tội một phụ nữ vì quần áo của cô ta. Chồng cô ta không quá keo kiệt xấu tính mà cho cô ta ăn diện là ta mừng hết lớn rồi. Nói vậy không phải là bản thân ta quan tâm đến quần áo gì lắm đâu. Phụ nữ chỉ mặc đẹp để chiều lòng đàn ông, và ta không bao giờ hạ mình tới mức đó. Ta đã sống một đời bình lặng, dễ chịu, và chính là vì ta không bao giờ để ý một xu tới những gì đàn ông nghĩ.” “Sao cô ghét đàn ông thế, hở cô Bryant?” “Chúa ơi, cưng à, ta không ghét họ. Họ không đáng. Ta chỉ đại loại là coi thường họ. Ta nghĩ ta sẽ thích chồng cháu nếu nó tiếp tục như nó đã bắt đầu. Nhưng ngoài nó ra thì hai người đàn ông duy nhất trên thế giới ta thấy có chút tác dụng là ông bác sĩ già và thuyền trưởng Jim.” “Thuyền trưởng Jim đương nhiên là tuyệt vời rồi,” Anne đồng ý nhiệt thành. “Thuyền trưởng Jim là người tốt, nhưng ông ấy cũng làm ta bực mình theo một kiểu khác. Người ta không làm sao cho ông ấy bực mình lên được. Ta đã cố gắng hai mươi năm nay mà ông ấy vẫn điềm tĩnh. Làm ta khá là bứt rứt. Mà ta đoán cái bà ông ấy đáng lẽ đã lấy làm vợ thể nào cũng vớ được một gã ngày nổi khùng hai bận.” “Bà ấy là ai thế ạ?” “Ồ, ta không biết, cưng ạ. Ta chẳng nhớ thuyền trưởng Jim có bao giờ để ý tới ai không. Ông ấy đã chớm già từ hồi ta bắt đầu nhớ được. Ông ấy bảy mươi sáu tuổi rồi, cháu biết đấy. Ta chưa bao giờ nghe được bất cứ lý do gì khiến ông ấy chịu cảnh độc thân, nhưng chắc chắn là có lý do, tin ta đi. Ông ấy đi biển cả đời cho mãi đến năm năm trước, và không có xó xỉnh nào trên trái đất mà ông ấy chưa chọc mũi vào. Ông ấy với Elizabeth Russell là bạn chí cốt, cả đời luôn ấy, nhưng họ chưa bao giờ có chút ý nghĩ yêu đương gì. Elizabeth chẳng bao giờ lấy chồng, mặc dù cũng có nhiều cơ hội. Hồi trẻ bà ấy đẹp lắm. Cái năm hoàng tử xứ Wales đến thăm đảo, bà ấy đang đến chơi nhà ông chú làm nhân viên chính phủ ở Charlottetown, thế là bà ấy được mời dự buổi vũ hội. Bà ấy là cô gái đẹp nhất ở đấy, và hoàng tử nhảy với bà, thế là tất cả đám phụ nữ khác không được ông ta nhảy cùng liền phát rồ lên, vì địa vị xã hội của họ cao hơn bà ấy và họ nói ông ta không nên bỏ qua họ. Elizabeth rất chi là tự hào vì điệu nhảy ấy. Đám ác mồm nói đấy là lý do vì sao bà ấy không lấy chồng… không chịu nổi bất cứ người đàn ông bình thường nào nữa sau khi đã nhảy với một hoàng tử. Nhưng không phải vậy đâu. Có lần bà ấy kể cho ta biết vì sao… đó là vì bà ấy có tính khí nóng như lửa nên bà ấy sợ không thể sống yên bình với ông nào hết. Bà ấy nóng tính thật ấy chứ… thỉnh thoảng bà ấy thường phải đi lên lầu cắn cho cái tủ com mốt mấy miếng để hạ hỏa mà. Nhưng ta bảo đấy không phải là lý do để không lấy chồng nếu bà ấy muốn. Không lý gì chúng ta phải để cho bọn đàn ông độc quyền nóng tính, phải vậy không, cháu Blythe cưng?” “Bản thân cháu cũng hơi nóng tính đấy ạ,” Anne thở dài. “Thế là tốt con ạ. Vậy mới không dễ bị giẫm đạp lên, tin ta đi! Ôi kìa, đám cúc vàng của cháu nở đẹp chưa kìa! Vườn nhà cháu trông ổn đấy. Elizabeth tội nghiệp chăm bẵm khu vườn này ghê lắm.” “Cháu yêu nó lắm,” Anne nói. “Cháu rất mừng là nó toàn những loại hoa lỗi mốt. Nói về làm vườn, chúng cháu muốn nhờ một người đào chỗ đất nhỏ phía sau rặng linh sam lên và trồng mấy cây dâu tây cho chúng cháu. Gilbert bận quá, mùa thu này anh ấy sẽ chẳng có thời gian cho việc đó đâu. Cô có biết chúng cháu có thể thuê ai được không?” “À, Henry Hammond trên Glen làm mấy việc đó. Chắc là thằng cha đấy cũng được. Lúc nào hắn cũng quan tâm đến tiền công hơn là công việc, đúng là đồ đàn ông, và hắn chậm hiểu đến nỗi có khi đứng đơ ra năm phút mới phát hiện ra là mình đã đơ. Cha hắn ném một gốc cây vào người hắn lúc hắn còn bé mà. Một quả tên lửa nhẹ nhàng dịu dàng, phải không nào? Đúng là đồ đàn ông! Nhưng hắn là người duy nhất ta có thể giới thiệu cho cháu. Hắn sơn cho ta cái nhà hồi mùa xuân năm ngoái. Giờ trông khá là xinh đẹp đấy chứ, cháu có nghĩ vậy không?” Anne được cứu nhờ tiếng đồng hồ điểm năm giờ. “Chúa ơi, trễ vậy rồi đó hả?” cô Cornelia la làng. “Lúc vui vẻ thì thời gian trôi cái vèo vậy đó! Thôi, ta phải vác xác về nhà đây.” “Không được đâu! Cô phải ở lại dùng trà với bọn cháu chứ,” Anne nhiệt thành nói. “Cháu mời ta vì cháu nghĩ cháu nên mời, hay vì cháu thật sự muốn thế?” cô Cornelia hất hàm hỏi. “Vì cháu thực lòng muốn thế.” “Thế thì ta sẽ ở lại. Cháu thuộc lớp người quen của Joseph.” “Cháu biết là chúng ta sẽ là bạn bè mà,” Anne nói, với một nụ cười mà chỉ những người có cùng đức tin đó mới được nhìn thấy. “Đúng là như thế, cưng ạ. Cảm ơn Chúa, ta có thể chọn bạn mà chơi. Ta phải chấp nhận bà con họ hàng như họ vốn thế, và phải lấy làm biết ơn nếu không có con chiên ghẻ nào trong nhà. Mà ta cũng chả có nhiều họ hàng gì cho cam… không có ai gần hơn đám anh chị em họ xa xa. Ta là một linh hồn khá cô đơn, cháu Blythe ạ.” Có một nốt nuối tiếc trong giọng cô Cornelia. “Cháu hy vọng cô có thể gọi cháu là Anne,” Anne bộc phát kêu lên. “Như thế nghe sẽ thân mật hơn. Mọi người ở Bốn Làn Gió, trừ chồng cháu, đều gọi cháu là bà Blythe, làm cháu thấy mình như người lạ ấy. Cô có biết tên cô rất gần với cái tên mà cháu khao khát lúc cháu còn bé không. Cháu ghét tên ‘Anne’ và tự gọi mình là ‘Cordelia’ trong tưởng tượng.” “Ta thích tên Anne. Đấy là tên mẹ ta. Cứ tên kiểu cũ là hay nhất và ngọt ngào nhất theo ý ta. Nếu cháu định đi dọn bữa trà thì nên gọi bác sĩ trẻ ra nói chuyện với ta đi. Nó nằm trên chiếc sofa trong cái văn phòng đó từ lúc ta đến, cười sắp chết vì những gì ta nói nãy giờ.” “Làm sao cô biết?” Anne kêu lên, hoảng hồn trước ví dụ về khả năng nhận biết phi thường này của cô Cornelia đến nỗi không buồn chối cho lịch sự. “Ta thấy nó ngồi cạnh cháu lúc ta đi bộ trên đường, và ta biết mánh khóe của đám đàn ông,” cô Cornelia vặn lại. “Đó, ta đã may xong cái váy nhỏ của ta rồi, cưng ạ, và đứa bé thứ tám có thể chui ra bất cứ khi nào nó thích.” 9. Một tối ở mũi đất Bốn Làn Gió Mãi cuối tháng Chín Anne và Gilbert mới đến thăm được ngọn hải đăng Bốn Làn Gió như đã hứa. Họ vẫn thường định đi, nhưng lúc nào cũng xảy ra chuyện gì đó ngăn cản họ. Thuyền trưởng Jim đã “tạt qua” căn nhà nhỏ vài lần. “Ta không khách sáo đâu, cháu Blythe ạ,” ông bảo Anne. “Với ta đến đây là cả một niềm vui thích, và ta không định từ chối bản thân điều đó chỉ vì cháu chưa xuống thăm ta đâu. Không nên có kiểu cò cưa mặc cả như thế trong lớp người quen của Joseph. Ta sẽ đến khi nào có thể, và cháu cứ đến khi nào đến được, và miễn là được nói chuyện vui vẻ với nhau thì trên đầu là mái nhà ai chả quan trọng gì hết.” Thuyền trưởng Jim hết sức thích thú với Gog và Magog, hai con chó sứ đang ngự trên bệ sưởi trong căn nhà nhỏ cũng kiêu hãnh và trang nghiêm như hồi chúng còn ở nhà Patty. “Hai cái con này dễ thương quá trời,” ông thường nói một cách thích thú; và ông chào hỏi chúng lúc đến cũng như lúc về, nghiêm chỉnh, không bao giờ sai khác, cũng như chào hỏi hai vị chủ nhà vậy. Thuyền trưởng Jim không có ý định xúc phạm các vị gia thần bởi sự thiếu sót trong tôn kính cũng như lễ nghi. “Cháu đã thu vén căn nhà này gần như hoàn hảo,” ông nói với Anne. “Chưa bao giờ nó được xinh xắn như thế này. Cô Selwyn cũng có khiếu thẩm mỹ giống cháu và cô ấy làm được nhiều thứ tuyệt lắm; nhưng bà con thời đấy làm gì có mấy cái rèm cửa nhỏ xinh rồi tranh ảnh và hầm bà lằng các thứ như các cháu có bây giờ. Còn Elizabeth, cô ấy sống trong quá khứ. Cháu đã gần như đem tương lai vào nhà, nôm na thế. Ta sẽ vẫn thật là hạnh phúc ngay cả khi chúng ta không nói chuyện gì hết, khi ta đến đây… chỉ ngồi ngắm cháu và đám tranh và hoa của cháu đã đủ sướng rồi. Đẹp… đẹp lắm!” Thuyền trưởng Jim là kẻ tôn thờ nhiệt thành cái đẹp. Mọi thứ đáng yêu nghe được hay nhìn thấy đều mang cho ông một niềm vui sâu sắc, tinh tế, tỏa sáng cuộc đời ông. Ông cũng ý thức rất rõ việc mình thiếu một vẻ ngoài dễ nhìn, và than vãn về điều ấy. “Bà con nói ta tốt,” một dịp nọ ông nhận xét vẻ chua chát, “nhưng thỉnh thoảng ta ước Chúa trời đúc ta tốt phân nửa thôi và để phần còn lại vào vẻ bề ngoài. Nhưng đó, ta nghĩ Ngài biết Ngài đang làm gì, như một thuyền trưởng giỏi vậy. Một số người trong chúng ta phải xấu xí, không thì những người đẹp - như cháu Blythe đây - sẽ không được nổi bật như thế.” Một buổi chiều nọ Anne và Gilbert cuối cùng cũng đi bộ xuống ngọn hải đăng Bốn Làn Gió. Ngày khởi đầu u ám trong mây xám và sương mù, nhưng đã kết thúc trong vẻ tráng lệ tím vàng. Bên những ngọn đồi phía Tây đằng sau vịnh cảng là những vùng nước sâu thẫm màu hổ phách và những vùng nước nông trong ngắt, với ánh lửa hoàng hôn bên dưới. Phía Bắc là một vùng mây trời li ti vàng rực như lửa. Ánh đỏ bừng lên trên những cánh buồm trắng của một con tàu đang lướt dọc kênh nước, hướng về một hải cảng phía Nam trên một vùng đất đầy cây cọ. Phía sau con tàu, ánh hoàng hôn ập xuống và nhuộm hồng những khuôn mặt trắng sáng ngời, nhẵn cỏ của những đụn cát. Về bên phải, ánh sáng rơi trên căn nhà cũ giữa những cây liễu bên trên con suối, và trong giây phút ngắn ngủi đem lại cho nó những ô cửa sổ rực rỡ hơn cả cửa sổ của một nhà thờ cũ. Chúng tỏa sáng từ vẻ ngoài xám xịt lặng lẽ của căn nhà như những suy nghĩ phập phồng, đỏ máu của một linh hồn sinh động bị cầm tù trong một lớp vỏ môi trường khô khan nhàm chán. “Ngôi nhà cũ phía trên con suối kia lúc nào cũng có vẻ thật cô đơn,” Anne nói. “Em chưa bao giờ thấy nó có khách khứa đến viếng thăm. Dĩ nhiên, lối vào nhà mở ra đường trên… nhưng em không nghĩ có mấy người lui tới. Thật kỳ cục là chúng ta vẫn chưa gặp nhà Moore, khi họ chỉ sống cách chúng ta mười lăm phút đi bộ. Em có thể đã nhìn thấy họ ở nhà thờ, dĩ nhiên, nhưng dẫu vậy chắc em cũng không biết. Em rất tiếc là họ ít giao du đến thế, trong khi họ là những hàng xóm duy nhất của chúng ta.” “Rõ ràng họ không thuộc lớp người quen của Joseph,” Gilbert cười. “Em đã tìm hiểu được ai là cô gái mà em nghĩ là rất đẹp ấy chưa?” “Chưa. Không hiểu vì sao em chẳng bao giờ nhớ ra để hỏi thăm về cô ấy. Nhưng em cũng chưa gặp cô ấy ở đâu khác cả, thế nên em nghĩ có thể cô ấy là một người lạ. Ô, mặt trời đã lặn rồi kìa… và ngọn hải đăng kia rồi.” Khi bóng chiều sẫm dần, con mắt đèn khổng lồ cắt từng vạt sáng xuyên qua hoàng hôn, quét một vòng tròn qua những cánh đồng và khu cảng, cồn cát ngầm và vùng vịnh. “Em có cảm giác như nó có thể bắt lấy em và cuốn em hàng hải lý ra biển,” Anne nói, khi một làn đèn tưới đẫm họ trong ánh sáng; và cô cảm thấy khá nhẹ nhõm khi họ đến đủ gần mũi đất để nằm trong tầm với của những tia sáng rực rỡ, đều đặn kia. Khi họ rẽ vào lối đi nhỏ băng qua những cánh đồng dẫn đến mũi đất, họ gặp một người đàn ông bước ra khỏi đó - một người đàn ông với vẻ bề ngoài phi thường đến nỗi trong một khoảnh khắc cả hai cứ thế trố mắt ra nhìn. Ông là một người rõ ràng là điển trai - cao lớn, vai rộng, các đường nét hài hòa, với một chiếc mũi kiểu La Mã và đôi mắt xám kiên trực; ông ăn mặc theo kiểu phú nông đi nhà thờ Chủ nhật; tả đến đó thì ông có thể là bất cứ cư dân nào của Bốn Làn Gió hoặc Glen. Nhưng, tuôn trào trên ngực ông dài đến tận gối, là một dòng-sông-râu màu nâu uốn khúc, và phía sau lưng ông, bên dưới chiếc mũ tầm thường, là một thác-tóc nâu dày, lượn sóng tương ứng. “Anne,” Gilbert thì thầm, khi họ đã ra ngoài tầm nghe, “em không cho cái chú Dave gọi là ‘một ít Luật Scott’ vào cốc nước chanh em đưa anh ngay trước khi ta rời nhà chứ hả?” “Không, em không có,” Anne nói, nén cười, sợ con người bí hiểm đang dời gót nghe được đến tận đấy. “Ông ấy là ai dưới gầm trời này vậy?” “Anh không biết; nhưng nếu thuyền trưởng Jim giấu những bóng ma như vậy dưới mũi đất này thì anh sẽ phải mang theo một cây gậy sắt trong túi mỗi khi đến đây. Ông kia không phải thủy thủ, nếu không thì người ta đã có thể thông cảm với vẻ ngoài lập dị của ông ấy; chắc ông ấy thuộc hội mấy người bên kia cảng. Chú Dave nói họ có một vài tay lập dị bên đó.” “Chú Dave hơi thiên kiến một tí, em nghĩ thế. Anh biết tất cả những người bên kia cảng đi nhà thờ Glen đều có vẻ rất dễ mến mà. Ôi, Gilbert, anh xem đẹp chưa kìa?” Ngọn hải đăng Bốn Làn Gió được xây dựng trên một mỏm đá vôi đỏ nhô ra vịnh. Ở một bên, qua kênh nước, trải dài bờ cát bạc của cồn cát ngầm; bên kia, mở ra một bờ biển dài uốn cong những vách đá đỏ, vươn lên thẳng đứng từ những vịnh nhỏ đầy đá cuội. Đấy là một bờ biển đã biết đến sự diệu kỳ và bí ấn của bão và của sao. Một bờ biển như thế luôn có một vẻ cô tịch sâu sắc. Rừng không bao giờ cô tịch… chúng đầy những sự sống thì thầm, mời gọi thân thiện. Nhưng biển là một linh hồn uy dũng, mãi mãi than khóc về một nỗi buồn rộng lớn, không sao chia sẻ được, tự nhốt mình vào với chính mình trong ngàn thu. Chúng ta không bao giờ có thể xuyên thủng sự bí ẩn không cùng của biển… chúng ta chỉ có thể lang thang, kinh ngạc và mê hoặc, ở rìa ngoài của biển. Rừng gọi đến ta với hàng trăm giọng nói, nhưng biển chỉ có một… một giọng nói quyền uy nhấn chìm linh hồn ta trong tiếng nhạc huy hoàng của nó. Rừng là người, nhưng biển bầu bạn cùng những thiên thần tối thượng. Anne và Gilbert thấy thuyền trưởng Jim đang ngồi trên một băng ghế ngoài ngọn hải đăng, tút lại những đường nét cuối cùng cho một chiếc thuyền buồm đồ chơi tuyệt vời, đầy đủ mái buồm. Ông đứng lên và chào đón họ vào nơi trú ngụ của ông với vẻ lịch sự nhẹ nhàng, không cần cố gắng, rất hợp với ông. “Hôm nay quả là một ngày đẹp đẽ từ đầu đến cuối, cháu Blythe nhỉ, và bây giờ, ngay phút cuối, nó lại phô ra vẻ huy hoàng nhất của nó. Hai đứa có muốn ngồi xuống đây ở ngoài này một tí, khi ánh sáng còn sót lại không? Ta vừa làm xong món đồ chơi nhỏ này cho thằng cháu họ nhỏ của ta, thằng Joe, ở trên Glen. Sau khi ta hứa sẽ làm cái này cho nó ta cũng hơi hối hận, vì mẹ nó buồn bực lắm. Mẹ nó sợ thằng bé sau này sẽ muốn đi biển và không muốn khuyến khích ý nghĩ đó trong đầu nó. Nhưng mà ta biết làm sao bây giờ, cháu Blythe? Ta lỡ hứa rồi, và ta nghĩ thiệt tình nếu mà đi nuốt lời đã hứa với một đứa trẻ con thì quá là hèn đi. Nào, ngồi xuống đi. Ở lại một tiếng đồng hồ không lâu đâu.” Gió đã rời bờ, và chỉ vỗ về khiến mặt biển vỡ thành những gợn bạc dài, và đem những chiếc bóng lấp lóa từ mọi ngóc ngách và mũi đất bay ngang mặt biển, như những cách bay vô hình. Hoàng hôn đang treo một tấm rèm bóng tối màu tím lên những đụn cát và những mũi đất, nơi lũ mòng biển đang dập dìu bay lượn. Bầu trời phủ những mảnh khăn choàng lụa khói sương. Từng cụm mây trôi lững lờ dọc đường chân trời. Một ngôi sao hôm đang giữ gác trên cồn cát. “Chẳng phải là một khung cảnh đáng ngắm nghía hay sao?” thuyền trường Jim nói, với niềm tự hào yêu thương, gắn bó. “Dễ thương và xa hẳn chốn xô bồ, đúng không nào? Không mua không bán không mặc cả. Không phải trả đồng nào cả… tất cả biển đó trời đó đều miễn phí… ‘không cần tiền và không có giá’. Mà trăng sắp lên rồi đó…ta chẳng bao giờ chán xem trăng sẽ mọc thế nào trên ghềnh đá, mặt biển và bến cảng. Lần nào cũng có một điều ngạc nhiên trong đó.” Họ xem trăng lên, và ngắm sự thần kỳ và ma thuật của nó trong một sự im lặng không đòi hỏi gì thêm ở thế giới hay ở nhau. Khi họ đi vào tháp đèn, thuyền trưởng Jim chỉ dẫn và giải thích cơ chế của ngọn đèn khổng lồ. Cuối cùng họ thấy mình đang ngồi trong phòng ăn, nơi một ngọn lửa đốt bằng gỗ trôi dạt đang dệt những sợi lửa lập lòe, chập chờn ẩn hiện, mang sắc màu của biển trong lò sưởi mở. “Tự tay ta lắp cái lò sưởi này vào đấy,” thuyền trưởng Jim nói. “Chính phủ không cho người giữ đèn những thứ xa xỉ như vậy đâu. Nhìn màu sắc đám gỗ kia tạo ra xem. Nếu cháu thích có ít gỗ trôi dạt để đốt lửa, cháu Blythe ạ, hôm nào ta sẽ mang lên cho cháu một mớ. Ngồi xuống đi. Ta sẽ pha cho các cháu một cốc trà.” Thuyền trưởng Jim chỉ một cái ghế cho Anne, nhưng trước tiên ông phải chuyển một con mèo bự chảng màu cam và một tờ báo ra khỏi đó. “Bạn Đầu, đi xuống. Chỗ của mày là sofa kìa. Ta phải cất tờ báo này đi cho an toàn chờ khi ta có thời gian đọc xong câu chuyện ở trong đó. Nó có tên là Một tình yêu cuồng dại. Đây không phải là dòng truyện ta thích, nhưng ta đang đọc để xem bả kéo dài được đến chừng nào. Giờ đã là chương sáu hai rồi, mà so với chương đầu thì đám cưới vẫn chưa gần hơn tẹo nào, theo như ta thấy. Khi thằng bé Joe đến đây ta phải đọc cho nó nghe chuyện cướp biển. Kỳ nhỉ, những sinh vật nhỏ bé ngây thơ như bọn con nít lại thích những chuyện máu me nhất?” “Y như thằng bé Davy của cháu ở nhà,” Anne nói. “Nó cứ thích những chuyện phải khét lẹt bạo lực cơ,” Trà của thuyền trưởng Jim đúng là nước tiên. Ông hài lòng như một đứa trẻ trước những lời khen của Anne, nhưng cũng bày tỏ một vẻ thản nhiên hết sức tế nhị. “Bí quyết là ta không keo kiệt món kem sữa,” ông thoải mái nhận xét. Thuyền trưởng Jim chưa bao giờ nghe nói đến Oliver Wendell Holmes nhưng rõ ràng ông đồng ý với câu châm ngôn của nhà văn rằng “trái tim lớn không thích hũ kem nhỏ”. “Chúng cháu gặp một nhân vật trông hết sức quái đản bước ra khỏi con đường nhà ông,” Gilbert nói khi họ nhấm nháp trà. “Ai thế ạ?” Thuyền trưởng Jim nhe răng cười. “Đấy là Marshall Elliott, một người rất tốt, chỉ có điều hơi xuẩn ngốc. Ta đoán các cháu thắc mắc mục đích của thằng chả là gì khi tự biến mình thành một vật phẩm trưng bày bảo tàng quái dị hả?” “Phải chăng ông ấy là một tu sĩ Do Thái tóc dài thời hiện đại hay một nhà tiên tri Do Thái còn sót lại từ thời xa xưa?” Anne hỏi. “Không phải. Chính trị là căn nguyên sự quái dị của chả. Cả đám nhà Elliott và Crawford rồi MacAllister đều là chính trị gia từ trong trứng, và họ sống cũng Tự do hoặc Bảo thủ, và họ chết cũng Tự do hoặc Bảo thủ; và họ làm gì trên thiên đường, nơi có lẽ không có chính trị, thì vượt qua trí tưởng tượng của ta. Gã Marshall Elliott này sinh ra đã theo Tự do. Ta cũng là dân Tự do vừa phải, nhưng với Marshall Elliott thì không có vừa phải gì hết. Mười lăm năm trước có một cuộc tổng tuyển cử đặc biệt căng thẳng. Marshall nhe răng xắn tay tranh đấu cho đảng của mình. Hắn tin chắc trăm phần là đảng Tự do sẽ thắng… chắc đến nỗi hắn đứng lên trong một buổi họp chung mà thể rằng sẽ không cạo mặt hay cắt tóc cho đến khi đảng Tự do lên nắm quyền. Ờ, họ không lên - và vẫn chưa lên - và hôm nay mấy đứa được mục sở thị kết quả đấy. Marshall đã giữ lời.” “Vợ chú ấy nghĩ sao ạ?” Anne hỏi. “Thằng chả độc thân. Nhưng nếu hắn có vợ thì ta nghĩ cô ta cũng không thể làm hắn phá lời thề đó. Cái nhà Elliott đó lúc nào cũng cứng đầu hơn bình thường. Anh trai của Marshall, Alexander có một con chó hắn ta cưng lắm, và khi nó chết thằng chả thực tình muốn cho chôn nó trong nghĩa trang, ‘cạnh các con chiên Thiên Chúa giáo khác’, hắn nói. Dĩ nhiên, đâu có ai cho; thế là hắn chôn con chó ngay ngoài hàng rào nghĩa trang, và không bao giờ bén mảng tới cửa nhà thờ nữa. Nhưng các Chủ nhật hắn vẫn đánh xe đưa cả nhà đi lễ còn mình thì ngồi cạnh mộ con chó đó rồi đọc Kinh Thánh suốt thời gian diễn ra buổi lễ. Họ nói khi hấp hối hắn biểu vợ hắn chôn hắn cạnh con chó; cô ta là một linh hồn bé nhỏ yếu ớt nhưng đến đó thì cô ả nổi khùng lên. Cổ nói cổ không định nằm cạnh con chó nào hết cả sất, và nếu hắn thà có chỗ nghỉ ngơi cuối cùng cạnh con chó hơn là cạnh cổ, thì cứ nói ra. Alexander Elliott là một con lừa cứng đầu, nhưng hắn cũng yêu vợ, thế là hắn đầu hàng và nói, ‘Rồi, chết tiệt, cứ chôn tôi chỗ nào bà thích. Nhưng khi tiếng kèn của Thánh Gabriel thổi lên tôi sẽ chờ xem con chó của tôi bay lên cùng với cả đám chúng ta, vì linh hôn của nó cũng như bất cứ tay Elliott hay Crawford hay MacAllister chết tiệt nào từng khệnh khạng bước trên đời này.’ Đấy là những lời trăn trối của hắn. Còn về Marshall, chúng ta đã quá quen với hắn, nhưng với người lạ chắc hắn phải trông kỳ cục ghê lắm. Ta biết hắn từ hồi hắn mới mười tuổi - giờ gần năm mươi rồi - và ta thích hắn. Hắn với ta mới ra câu cá tuyết hôm nay. Giờ thì ta chỉ được mỗi việc đấy - thỉnh thoảng bắt cá hồi với cá tuyết. Nhưng không phải lúc nào ta cũng vậy đâu… không có đâu. Ta cũng từng làm những chuyện khác, như mấy đứa sẽ phải công nhận nếu mấy đứa coi quyển sách cuộc đời của ta.” Anne đang định hỏi quyển sách-cuộc-đời của ông là gì thì bị con Bạn Đầu đánh lạc hướng bằng cách nhảy xổ lên đùi thuyền trưởng Jim. Nó là một con vật tuyệt đẹp, với khuôn mặt tròn như trăng rằm, mắt xanh sáng quắc, và bộ móng đôi trắng muốt mạnh mẽ. Thuyền trưởng Jim nhẹ nhàng vuốt ve sống lưng nhung của nó. “Ta chưa bao giờ thích mèo cho lắm trước khi ta gặp con Bạn Đầu,” ông giải thích, với những tiếng gầm gừ hoành tráng của con Bạn Đầu làm nhạc đệm. “Ta cứu mạng nó, và khi mình đã cứu mạng một con vật thì mình buộc phải yêu nó thôi. Đấy là điều gần nhất với việc tạo ra sự sống. Trên đời này có những người vô tâm khủng khiếp, cháu Blythe ạ. Dân thành phố có vài người tậu nhà nghỉ mùa hè bên kia cảng, họ vô tâm đến độ tàn nhẫn. Đấy là loại tàn nhẫn tệ nhất - dạng vô tâm. Ta không làm sao đối phó được. Họ nuôi mèo ở đó vào mùa hè, rồi cho chúng ăn rồi cưng nựng chúng, và chưng diện cho chúng nào là ruy băng nào là dây đeo cổ. Rồi đến mùa thu họ bỏ đi để mặc chúng lại cho chết đói hoặc chết rét. Làm máu ta sôi lên, cháu Blythe ạ. Một ngày mùa đông năm trước ta thấy một con mèo mẹ già tội nghiệp chết trên bãi biển, nằm sát vào ba con mèo con chỉ còn da bọc xương. Nó chết khi cố gắng che chắn cho chúng. Những cẳng chân cứng đơ tội nghiệp của nó còn ôm lấy chúng. Trời ơi, ta khóc. Rồi ta chửi thề. Rồi ta mang mấy con mèo con tội nghiệp về nhà cho ăn rồi tìm nhà tốt cho chúng ở. Ta biết cái bà để con mèo lại ấy, và hè năm nay khi bà ta quay lại đây, ta đã qua bên kia cảng nói cho bả biết ta nghĩ gì về bả. Rành là nhiều chuyện, nhưng ta thiệt sự thích được nhiều chuyện vì lẽ phải.” “Bà ấy phản ứng ra sao ạ?” Gilbert hỏi. “Khóc và nói bả ‘không nghĩ’. Ta nói với bả, ta nói chứ, ‘Cô cho rằng đó sẽ là một lời bào chữa xác đáng vào ngày Phán xét ư, khi mà cô sẽ phải lý giải cho cái chết của con mèo mẹ già tội nghiệp đó hay sao? Đức Chúa sẽ hỏi cô Ngài cho cô não để làm gì nếu không phải để nghĩ, ta đoán vậy.’ Ta không nghĩ là bà ta dám để mấy con mèo lại cho chết đói nữa đâu.” “Con Bạn Đầu cũng bị bỏ rơi ạ?” Anne hỏi, tỏ với con mèo vài cử chỉ làm thân được đáp lại một cách duyên dáng, dù có hơi kẻ cả. “Đúng. Ta tìm thấy nó một ngày mùa đông lạnh thấu xương, bị mắc lên cây bởi cái dây ruy băng đeo cổ chết tiệt của nó. Nó suýt chết đói đến nơi. Giá cháu thấy được mắt nó lúc đó, cháu Blythe ạ! Nó mới là một con mèo con chứ mấy, sao đó nó đã tự sống được từ hồi bị bỏ lại cho đến khi bị vướng lên cây. Khi ta giải thoát cho nó, nó liếm tay ta một cách tội nghiệp bằng cái lưỡi đỏ nhỏ xíu của nó. Hồi đó nó chưa phải là tay đi biển tài năng mấy đứa thấy bây giờ đâu. Nó gầy nhom à. Chín năm trước rồi. Với một con mèo thì nó sống trên mặt đất thế là thọ đấy. Nó là một anh bạn già rất tốt, con Bạn Đầu ấy.” “Cháu nghĩ chắc ông sẽ nuôi một con chó,” Gilbert nói. Thuyền trưởng Jim lắc đầu. “Ta cũng từng có một con chó. Ta thương nó nhiều đến nỗi nó chết ta không chịu được ý nghĩ tìm một con khác để thay thế. Nó là một người bạn… cháu hiểu chứ, cháu Blythe? Con Bạn Đầu chỉ là một con bạn thôi. Ta thích nó, càng thích hơn vì chút gia vị quỷ quái trong nó… bọn mèo đứa nào cũng vậy. Nhưng ta yêu con chó của ta. Ta lúc nào cũng có chút cảm thông lén lút dành cho Alexander Elliott vì con chó của hắn. Không có chút ma quỷ nào trong một con chó tốt. Đấy là lý do vì sao chúng đáng yêu hơn mèo, ta đoán vậy. Nhưng quỷ tha ma bắt ta đi nếu chúng thú vị được như mèo. Đó đó, ta lại nói nhiều quá rồi. Sao mấy đứa không cản ta? Cứ khi nào có cơ hội nói chuyện với ai đó là ta ba láp kinh dị luôn. Nếu hai đứa uống xong trà rồi thì ta có mấy thứ nho nhỏ hai đứa chắc là thích coi… nhặt nhạnh từ mấy cái xó xỉnh kỳ quặc ta từng hay thò mũi vào.” “Mấy thứ nho nhỏ” của thuyền trường Jim thì ra là một bộ sưu tập thú vị bậc nhất toàn cổ vật, quái dị, kỳ quặc và tuyệt đẹp. Và hầu như mỗi thứ đều có một câu chuyện ấn tượng đi kèm. Anne không bao giờ quên niềm say mê mà cô dành để lắng nghe những câu chuyện cũ đêm trăng đó bên đống lửa gỗ trôi dạt mê hoặc ấy, khi biển bạc vẫy gọi họ qua cửa sổ để mở và thổn thức vỗ vào những tảng đá bên dưới họ. Thuyền trưởng Jim không bao giờ nói một lời khoe khoang, nhưng không thể không thấy ông đã là một người anh hùng như thế nào - dũng cảm, thành thật, không chút ích kỷ. Ông ngồi đó trong căn phòng nhỏ của mình và làm những đồ vật sống lại cho khán giả của mình. Bằng một cái nhướng lông mày, một cái cong môi, một cử chỉ, một lời nói, ông vẽ lại cả một khung cảnh hay nhân vật để họ nhìn thấy chúng như chúng xưa kia. Vài cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Jim có một khía cạnh phi thường đến nỗi Anne và Gilbert thầm tự hỏi liệu ông có đang kéo dãn hơi quá sự cả tin của họ không. Nhưng trong khoản này, sau này họ biết, họ đã hiểu sai cho ông. Những câu chuyện của ông tất cả đều hoàn toàn là sự thật. Thuyền trưởng Jim có cái tài của một nhà kể chuyện bẩm sinh, theo đó “những mẩu chuyện bất hạnh và xa xôi” được đưa ra trước mắt người nghe sống động trong tất cả sự thấm thía tinh khôi của chúng. Anne và Gilbert cười và rùng mình trước những câu chuyện đó, và có lúc Anne thấy mình đang khóc. Thuyền trưởng Jim quan sát những giọt nước mắt của cô với vẻ hài lòng ánh lên trên khuôn mặt ông. “Ta thích nhìn người khác khóc kiểu đó,” ông nhận xét. “Đó là một lời khen tặng. Nhưng ta không thể kể cho xứng đáng với những gì ta đã nhìn thấy hoặc đã góp phần làm. Ta đã ghi chúng lại trong quyển sách cuộc đời ta, nhưng ta không có cái tài để viết chúng ta cho tử tế. Giá có thể dùng được đúng từ ngữ và nối chúng lại với nhau cho ra hồn trên giấy, ta có thể làm một quyển sách tuyệt vời. Nó sẽ đánh bại Một tình yêu cuồng dại liền, và ta tin là thằng Joe cũng sẽ thích nó y như các truyện cướp biển. Đúng, ta đã có một vài cuộc phiêu lưu trong đời mình; và cháu có biết không, cháu Blythe, ta vẫn thầm thèm khát chúng. Đúng, dẫu có già và vô dụng, một nỗi khao khát khủng khiếp thỉnh thoảng vẫn quét qua ta, khao khát được dong buồm ra khơi… đi… đi… mãi mãi và mãi mãi.” “Như Ulysses, ông sẽ Dong buồm vượt cả hoàng hôn và bể tắm Của muôn vì sao phía đằng Tây cho đến chết,” Anne mơ màng nói. “Ulysses à? Ta có đọc về ổng. Đúng, chính là ta cảm thấy như vậy đó… đúng là cảm giác của đám thủy thủ già chúng ta, ta đoán vậy. Ta tính cuối cùng chắc ta sẽ chết trên đất liền thôi. Ờ, cái gì đến thì sẽ đến. Có lão William Ford ở Glen trong đời mình chưa bao giờ ra biển, vì lão sợ chết đuối. Một bà thầy bói đã phán là lão sẽ chết đuối. Rồi một ngày lão ngất xỉu và ngã sấp mặt xuống máng cỏ và chết nước. Hai đứa phải đi rồi à? Ờ, tới sớm và tới thường xuyên nha. Lần sau đến lượt bác sĩ kể chuyện đó. Cậu ấy biết cả mớ thứ mà ta muốn biết. Ở đây ta thỉnh thoảng cũng hơi cô đơn. Từ hồi Elizabeth Russell mất đi thì còn tệ hơn. Bà ấy và ta là bạn bè tốt lắm.” Thuyền trưởng Jim nói với nỗi thống thiết của người già, chứng kiến những người bạn của mình lần lượt rời xa, từng người một – những người bạn mà vị trí không thể thay thế được bởi những người thuộc thế hệ trẻ hơn, dù cho có thuộc lớp người quen của Joseph. Anne và Gilbert hứa sẽ quay lại sớm và thường xuyên. “Ông ấy quả thật là một ông già hiếm có, em nhỉ?” Gilbert nói, khi họ đi bộ về nhà, “Thế nào đó, em không thể hòa hợp cái nhân cách giản dị, tốt đẹp của ông với cuộc sống sóng gió, phiêu lưu mà ông đã sống,” Anne trầm ngâm. “Em sẽ không thấy khó như vậy đâu nếu em gặp ông hôm nọ dưới xóm chài. Một gã trên tàu của Peter Gautier đưa ra một nhận xét xấu tính về một cô gái nào đó sống dọc bờ biển. Thuyền trưởng Jim suýt thì đốt sống gã trai xấu số kia bằng ánh chớp trong mắt ông ấy. Ông ấy như một người hoàn toàn khác. Ông ấy không nói nhiều đâu… nhưng cái cách ông ấy nói chứ! Em sẽ thấy nó như tước hết da thịt khỏi xương của gã kia. Anh hiểu rằng thuyền trưởng Jim không bao giờ cho phép một lời nói xấu phụ nữ nào được thốt ra trước mặt mình.” “Em tự hỏi tại sao ông không bao giờ cưới vợ,” Anne nói. “Ông đáng lẽ phải có những người con trai với những con tàu riêng lênh đênh trên biển, và những đứa cháu nội trèo vào lòng ông để nghe chuyện của ông… ông là kiểu người như vậy đó. Thế mà thay vào đó, ông chẳng có gì ngoài một con mèo lộng lẫy.” Nhưng Anne đã lầm. Thuyền trưởng Jim có nhiều hơn thế. Ông có một ký ức. 10. Leslie Moore “Tối nay ta sẽ đi dạo ngoài bờ biển,” Anne nói với Gog và Magog một tối tháng Mười nọ. Không còn ai khác để kể, vì Gilbert đã đi qua bên kia vịnh. Anne đã xếp dọn căn nhà nhỏ của mình theo một trật tự không chút tì vết mà người ta phải trông đợi ở bất cứ ai được Marilla Cuthbert nuôi dạy, và cảm thấy mình có thể đi lang thang ra bờ biển với một lương tâm trong sạch. Những chuyến lang thang bờ biển của cô nhiều và đầy vui thú, đôi khi với Gilbert, đôi khi với thuyền trưởng Jim, đôi khi một mình với những suy nghĩ của riêng mình và những giấc mơ mới mẻ, ngọt ngào đến nhức nhối đang bắt đầu quét qua cuộc đời cô những chiếc cầu vồng. Cô yêu bờ vịnh dịu dàng, sương khói và bờ cát bạc vi vu gió, nhưng trên tất cả cô yêu bờ đá, với những vách những hang và hàng đống đá cuội được sóng mài mòn nhẵn, với những vũng nhỏ nơi sỏi lấp lánh dưới làn nước; và đêm nay cô lại đi về chính bờ đá này. Vừa qua một cơn bão mùa thu đầy mưa và gió, kéo dài suốt ba ngày. Sấm sét là những đợt sóng cồn trên đá, hoang dã là những bụi những bọt nước đã thổi qua cồn cát, lo lắng và mịt mù và xáo động là sự bình yên màu xanh ngàn đời của vịnh cảng Bốn Làn Gió. Giờ thì tất cả đã qua, bờ biển lại nằm bóng sạch sau cơn bão; không một cơn gió trở mình, nhưng vẫn có một con sóng vỗ mịn màng, dạt vào cát và đá trong một xao động rực rỡ màu trắng – sự thao thức duy nhất trong cái tĩnh lặng và yên bình to lớn, ngập trán. “Ôi, đây quả là một giây phút đáng để sống qua bao tuần bão bùng và lo lắng,” Anne thốt lên, thích thú hướng ánh mắt xa xôi ngang qua những đợt sóng bập bềnh từ đỉnh vách đá nơi cô đang đứng. Lúc này cô lần mò trên con đường dốc dẫn xuống vũng nhỏ bên dưới, nơi cô như bị nhốt lại cùng với đá và biển và trời. “Mình sẽ nhảy và hát,” cô nói. “Không có ai ở đây để nhìn thấy mình… đám mòng biển sẽ không đưa chuyện. Mình có thể điên thế nào tùy thích.” Cô vén váy và xoay tròn trên đầu ngón chân dọc rẻo cát thô ráp chỉ vừa ngoài tầm với của những con sóng suýt chút nữa là ập vào chân cô đám bọt thừa của chúng. Xoay vòng, cười giòn như một đứa trẻ, cô đã đến mũi đất nhỏ chạy ra phía Đông con vũng; rồi đột ngột cô dừng lại, đỏ mặt tía tai; cô không chỉ một mình; đã có một người chứng kiến điệu múa và tiếng cười của cô. Cô gái có mái tóc óng vàng và đôi mắt xanh màu biển đang ngồi trên một tảng đá nơi mũi đất, khuất nửa người sau một tảng đá khác chìa ra. Cô ta đang nhìn thẳng vào Anne với một nét mặt kỳ lạ… phần kinh ngạc, phần thông cảm, phần – có thể thế chăng? – ghen tị. Cô để đầu trần, và mái tóc rực rỡ của cô, giống hơn bao giờ hết “con rắn tuyệt diệu” của Browning, được quấn quanh bằng một dải ruy băng đỏ thắm. Cô mặc một bộ váy làm bằng thứ chất liệu tối màu nào đó, may rất đơn sơ; nhưng buộc quanh eo cô, nhấn mạnh những đường cong đẹp đẽ của nó, là một chiếc đai lưng rực rỡ bằng lụa đỏ. Đôi tay, đặt trên đùi, màu nâu và có hơi chai cứng vì làm lụng; nhưng làn da ở cổ và má thì trắng như kem. Một ánh hoàng hôn bay bay chiếu rọi qua một áng mây nằm thấp ở đằng Tây và rơi qua tóc cô. Trong một khắc trông cô như linh hồn của biển hiện thân – tất cả những bí ẩn của biển, đam mê của biển và vẻ quyến rũ mơ hồ của biển. “Cô… chắc cô nghĩ tôi bị điên,” Anne lắp bắp, cố phục hồi sự tự chủ của mình. Bị cô gái trang nghiêm này bắt gặp trong một vẻ phóng túng trẻ con đến thế… cô, phu nhân bác sĩ Blythe, với tất cả danh dự của một bậc mệnh phụ cần phải giữ gìn… thật quá tệ! “Không,” cô gái nói, “tôi không nghĩ thế.” Cô ta không nói gì nữa; giọng cô vô cảm; thái độ của cô hơi chút xa lánh; nhưng có gì đó trong mắt cô – hăm hở nhưng e dè, tự kiêu nhưng cầu khẩn – làm Anne thay đổi ý định bước đi. Thay vào đó, cô ngồi xuống trên tảng đá cạnh cô gái. “Hãy giới thiệu bản thân nào,” cô nói, với nụ cười chưa bao giờ thất bại trong việc gặt hái sự tin tưởng và thân thiện. “Tôi là bà Blythe… và tôi sống trong căn nhà nhỏ màu trắng trên bờ vịnh cảng.” “Vâng, tôi biết,” cô gái nói. “Tôi là Leslie Moore… bà Dick Moore,” cô thêm vào, vẻ cứng nhắc. Anne lặng đi mất một lúc đơn thuần vì kinh ngạc. Chưa bao giờ cô có ý nghĩ rằng cô gái này đã lấy chồng… trông cô không có chút dáng vẻ gì của một người vợ. Mà cô lại chính là người láng giềng mà Anne đã hình dung là một bà nội trợ Bốn Làn Gió tầm thường! Anne không tài nào điều chỉnh tập trung tinh thần của mình đủ nhanh theo sự thay đổi đáng kinh ngạc này. “Thế… thế tức là cô sống trong căn nhà xám trên suối đó,” cô lắp bắp. “Đúng. Đáng lẽ tôi phải đi thăm cô lâu rồi,” người kia nói. Cô ta không đưa ra một giải thích hay viện cớ gì cho việc không đến. “Tôi ước gì cô đến,” Anne nói, hồi phục đôi chút. “Chúng ta là láng giềng gần, chúng ta nên là bạn bè. Đấy là điểm yếu duy nhất của Bốn Làn Gió… không đủ hàng xóm. Nếu không thì nó hoàn hảo.” “Cô thích nó?” “Thích nó! Tôi yêu nó. Đây là nơi đẹp nhất tôi từng thấy.” “Tôi chưa được thấy nhiều nơi,” Leslie Moore nói, chậm rãi, “nhưng lúc nào tôi cũng nghĩ ở đây rất đáng yêu. Tôi… tôi cũng yêu nó.” Cách cô nói, cũng như vẻ ngoài của cô, e thẹn, nhưng hăm hở. Anne có một ấn tượng kỳ quặc là cô gái kỳ lạ này… cô vẫn muốn dùng từ “cô gái”… có thể nói rất nhiều nếu cô ấy muốn. “Tôi thường ra bờ biển,” cô gái nói thêm. “Tôi cũng thế,” Anne nói. “Thật kỳ lạ là chưa bao giờ chúng ta gặp nhau ở đây.” “Có lẽ vì cô đến sớm hơn tôi. Thường là muộn… gần như tối hẳn… tôi mới đến. Và tôi vô cùng thích đến ngay sau một cơn bão… như thế này. Tôi không thích biển đến mức ấy khi nó yên bình và tĩnh lặng. Tôi thích sự đấu tranh… và sự xô đập… và tiếng ồn của nó.” “Tôi yêu biển trong mọi tâm trạng,” Anne tuyên bố. “Biển ở Bốn Làn Gió với tôi như đường Tình Nhân ở nhà. Tối nay biển có vẻ thật phóng túng… thật hoang dã… có gì đó trong tôi cũng xổ lồng theo. Đấy là lý do vì sao tôi nhảy múa dọc bờ biển một cách hoang dại như thế. Tôi không nghĩ là có ai đó đang nhìn, dĩ nhiên rồi. Nếu cô Cornelia Bryant mà thấy hẳn cô ấy sẽ tiên đoán một viễn cảnh tương lai ảm đạm cho bác sĩ Blythe trẻ tội nghiệp.” “Cô biết cô Cornelia?” Leslie nói, bật cười. Cô có một tiếng cười thanh thoát; nó trào dậy đột ngột và bất ngờ, khoái chí như tiếng cười của một đứa trẻ. Anne cũng cười. “Ồ, có chứ. Cô ấy đã xuống căn nhà mơ ước của tôi vài lần.” “Căn nhà mơ ước?” “Ồ, đấy là cái tên thân mật ngớ ngẩn mà Gilbert và tôi đặt cho căn nhà của chúng tôi. Chúng tôi chỉ gọi như thế giữa hai đứa thôi. Nó bật ra trước khi tôi kịp nghĩ.” “Thế ra căn nhà màu trắng nho nhỏ của cô Russell là căn nhà mơ ước của cô,” Leslie nói vẻ kinh ngạc. “Tôi cũng từng có một căn nhà mơ ước… nhưng nó là một cung điện kia,” cô nói thêm, kèm với một tiếng cười mà sự ngọt ngào bị một nốt mỉa mai nho nhỏ làm hỏng đi. “Ô, tôi cũng từng ước mơ về một cung điện,” Anne nói. “Tôi nghĩ tất cả các cô gái đều thế. Và rồi chúng ta hài lòng yên vị vào những căn nhà tám buồng có vẻ như đã thỏa mãn mọi ước ao của trái tim ta… vì hoàng tử của ta ở đó. Cô chắc đã có cung điện của cô rồi chứ… cô đẹp quá. Cô phải cho tôi nói điều đó – cần phải nói ra điều đó – tôi gần như nổ tung vì ngưỡng mộ. Cô là điều đáng yêu nhất tôi từng thấy, cô Moore ạ.” “Nếu chúng ta làm bạn thì cậu phải gọi tôi là Leslie,” người kia nói với một xúc cảm lạ lùng. “Dĩ nhiên mình sẽ gọi. Và bạn của mình gọi mình là Anne.” “Tôi đoán là mình đẹp,” Leslie nói tiếp, đưa cái nhìn bão bùng ra biển. “Tôi ghét vẻ đẹp của tôi. Tôi ước mình lúc nào cũng đen đúa và xấu xí như cô gái đen đúa và xấu xí nhất trong xóm chài ở đằng kia. À, cậu nghĩ gì về cô Cornelia?” Sự thay đổi đề tài đột ngột đóng sập cánh cửa vào bất cứ thổ lộ nào khác. “Cô Cornelia thật đáng yêu phải không?” Anne nói. “Gilbert và mình được mời đến nhà cô ấy dự một bữa trà trọng thể vào tuần trước. Cậu đã nghe nói đến những chiếc bàn rên rỉ rồi chứ.” “Tôi hình như có nhớ đã từng nhìn thấy cách nói đó trong mấy tờ tường thuật các đám cưới trên báo,” Leslie nói, mỉm cười. “Ừ, bàn của cô Cornelia đã rên rỉ đấy… ít nhất nó cũng kêu răng rắc… chắc chắn luôn. Mình không thể tin được cô ấy có thể nấu nhiều đến thế cho hai người bình thường. Cô ấy có tất cả các loại bánh nướng nhồi nhân ta có thể kể tên, mình nghĩ vậy… trừ bánh nhân chanh. Cô ấy nói cô ấy đã đoạt giải cho món bánh nhân chanh tại Triển lãm Charlottetown mười năm trước và đã không bao giờ làm thêm cái nào nữa vì sợ mất danh tiếng.” “Cậu có ăn đủ bánh để làm vừa lòng cô ấy không?” “Mình thì không. Gilbert chiếm được trái tim cô ấy bằng cách ăn… mình sẽ không nói cho cậu là nhiều đến mức nào đâu. Cô ấy nói cô ấy chưa biết người đàn ông nào lại không thích bánh nướng nhồi nhân hơn Kinh Thánh cả. Cậu biết không, mình yêu cô Cornelia.” “Tôi cũng thế,” Leslie nói. “Cô ấy là người bạn tốt nhất tôi có trên thế giới này.” Anne thầm tự hỏi nếu thế thì tại sao cô Cornelia lại chưa bao giờ nhắc đến bà Dick Moore với mình. Cô Cornelia rõ ràng đã nói thoải mái về mọi nhân vật khác trong và quanh Bốn Làn Gió. “Đẹp chưa kía?” Leslie nói, sau một khoảng lặng ngắn, chỉ tay về một hiệu ứng tinh tế tạo ra từ một tia sáng chiếu qua một khe hở trên đá đằng sau họ, qua một vũng nước xanh sẫm ở chân tảng đá. “Nếu tôi đến đây, và không thấy gì khác ngoài cái đó thôi, tôi sẽ thỏa mãn ra về.” “Những hiệu ứng của sáng và tối khắp dọc bờ biển này thật tuyệt vời,” Anne đồng tình. “Căn phòng khâu nhỏ của mình nhìn ra cảng, và mình thì ngồi ở cửa sổ mà thưởng thức đến mãn nhãn thì thôi. Màu sắc và hình bóng không bao giờ giống nhau trong vòng hai phút đồng hồ.” “Và cậu không bao giờ cô đơn?” Leslie đột ngột hỏi. “Không bao giờ… cả khi cậu ở một mình?” “Không. Mình nghĩ mình chưa bao giờ thực sự cô đơn trong đời mình,” Anne trả lời. “Ngay cả khi mình ở một mình, mình vẫn có những người bạn đồng hành thực sự tốt – những giấc mơ và tưởng tượng và giả vờ. Mình thích thỉnh thoảng được ở một mình, chỉ để nghĩ về mọi thứ và nếm trải chúng. Nhưng mình thích có bạn có bè… và những thời khắc vui vẻ dễ chịu với mọi người. Ôi, cậu có đến chơi với mình không…thường xuyên ấy? Làm ơn đi mà. Mình tin,” Anne nói thêm, cười, “là cậu sẽ thích mình nếu cậu biết mình.” “Tôi tự hỏi cậu liệu có thích tôi không,” Leslie nghiêm túc nói. Cô không nói để “câu” một lời khen. Cô hướng mắt qua những con sóng đang bắt đầu được đeo những vòng hoa bọt sáng ánh trăng, và mắt cô tràn ngập bóng tối. “Mình chắc chắn,” Anne nói. “Và làm ơn đừng nghĩ mình hoàn toàn vô trách nhiệm vì cậu nhìn thấy mình nhảy múa trên bờ biển lúc hoàng hôn. Chắc chắn sau một thời gian nữa mình sẽ đàng hoàng lên thôi. Cậu thấy đấy, mình lấy chồng chưa được bao lâu. Mình vẫn thấy mình như một cô gái, và thỉnh thoảng như một đứa trẻ, vẫn thế.” “Tôi đã lấy chồng được mười hai năm rồi,” Leslie nói. Đây lại là một điều không thể tin nổi nữa. “Sao kia, cậu không thể nào bằng tuổi mình được!” Anne thốt len. “Thế thì chắc lúc cưới chồng cậu chỉ mới là một đứa trẻ con!” “Hồi đó tôi mười sáu tuổi,” Leslie nói, đứng dậy, và nhặt mũ và áo khoác nằm cạnh cô. “Giờ tôi hai tám. Thôi, tôi phải về.” “Mình cũng thế. Gilbert chắc đã về nhà rồi. Nhưng mình rất mừng là cả hai ta cùng đến bờ biển tối nay và gặp nhau.” Leslie không nói gì cả, và Anne thấy hơi giá lạnh. Cô đã thẳng thắn dâng mời tình bạn nhưng nó đã không được đón nhận một cách ân cần gì cho lắm, nếu không muốn nói là đã bị từ chối thẳng thừng. Trong im lặng họ trèo vách đá và đi bộ qua một cánh đồng chăn thả nơi những ngọn cỏ dại bông tơ, phai màu trải ra như một tấm thảm nhung kem trong ánh trăng. Khi họ đến con đường ven bờ biển Leslie quay lại. “Tôi đi lối này, cô Blythe ạ. Cậu sẽ sang thăm tôi lúc nào đó chứ?” Anne cảm thấy như lời mời vừa được ném về phía mình. Cô có ấn tượng là Leslie Moore đưa nó ra một cách miễn cưỡng. “Mình sẽ đến nếu cậu thực sự muốn mình đến,” cô nói hơi lạnh lùng. “Ôi, tôi muốn… tôi muốn,” Leslie thốt lên, với một vẻ hăm hở dường như trào lên cởi tung sự kiềm chế nào đó vốn trói buộc nó. “Thế thì tôi sẽ đến. Chúc ngủ ngon… Leslie.” “Chúc ngủ ngon, cô Blythe.” Anne đi vào nhà trong căn phòng làm việc màu nâu và trút câu chuyện của mình lên Gilbert. “Vậy là bà Dick Moore không phải là một người quen biết với Joseph à?” Gilbert đùa cợt nói. “Kh-ô-ông, không hẳn. Thế nhưng… em nghĩ cô ấy từng là một người như thế, nhưng đã ra đi hoặc rút về quy ẩn,” Anne trầm ngâm nói. “Cô ấy rõ ràng là rất khác với những người phụ nữ khác ở đây. Thế mà em đã từng tưởng tượng cô ấy như một bà Rachel Lynde thứ hai chứ! Anh đã bao giờ gặp Dick Moore chưa, Gilbert?” “Chưa. Anh đã thấy vài người đàn ông làm việc quanh những cánh đồng trang trại, nhưng anh không biết ai là Moore.” “Cô ấy không hề nhắc đến anh ta. Em biết cô ấy không hạnh phúc.” “Từ những gì em nói với anh, anh đoán cô ấy đã cưới chồng trước khi đủ lớn để biết rõ đầu óc hay trái tim mình, và nhận ra quá trễ là mình đã mắc một sai lầm. Đấy là một bi kịch thường gặp, Anne ạ. Một người đàn bà tốt sẽ cố mà lấy hoàn cảnh làm vui. Bà Moore rõ ràng đã để điều đó biến mình thành cay đắng và thù hận.” “Hãy đừng phán xét cô ấy cho đến khi ta biết chuyện,” Anne cầu khẩn. “Em không tin trường hợp của cô ấy lại tầm thường đến thế. Anh sẽ hiểu sự thú vị của cô ấy một khi anh gặp cô ấy, Gilbert ạ. Đấy là một thứ khác biệt đứng ngoài vẻ đẹp của cô ấy. Em cảm giác như cô ấy sở hữu một nội tâm giàu có, mà một người bạn có thể tiếp cận như thể bước vào một vương quốc; nhưng vì một lý do nào đó cô ấy chặn tất cả mọi người lại bên ngoài và nhốt tất cả khả năng của mình vào bên trong bản thân mình, để chúng không thể phát triển và nở hoa được. Đó, em đã vật vã tìm cách định nghĩa cô ấy với chính mình từ lúc em tạm biệt cô ấy, và đấy là mức gần nhất em có thể đến được. Em sẽ hỏi cô Cornelia về cô ấy.” 11. Chuyện của Leslie Moore “Đúng, đứa thứ tám chào đời hai tuần trước,” cô Cornelia nói, từ một chiếc ghế bập bênh trước lò sưởi của căn nhà nhỏ một chiều tháng Mười lạnh giá nọ. “Một bé gái. Fred lảm nhảm điên cuồng luôn… nói hắn muốn một đứa con trai kia… trong khi sự thật là hắn chả thích có đứa con đó chút nào hết. Nếu nó là con trai thì hắn sẽ càu nhàu vì đấy không phải là con gái. Họ có bốn gái ba trai rồi, thế nên ta chả thấy có gì khác nhau chuyện đứa này là trai hay gái, nhưng dĩ nhiên thằng chả cứ phải càm ràm kia, đúng là đồ đàn ông. Con bé xinh lắm, diện mấy bộ đồ bé xinh của nó. Nó có đôi mắt đen và đôi bàn tay nhỏ nhắn xinh xắn nhất đời.” “Cháu phải đi xem thôi. Cháu yêu trẻ con lắm,” Anne nói, mỉm cười một mình với một ý nghĩ quá thân thiết và thiêng liêng để nói thành lời. “Ta không nói là bọn chúng không đáng yêu,” cô Cornelia thừa nhận. “Nhưng nhiều người có vẻ như có nhiều con hơn số họ thực sự cần, tin ta đi. Bà chị họ Flora tội nghiệp của ta trên Glen có mười một đứa, và bà ấy đúng là một nô lệ! Chồng bà ấy tự tử chết ba năm trước. Đúng là đồ đàn ông!” “Điều gì khiến ông ấy làm thế ạ?” Anne hỏi, khá sốc. “Có cái gì đó không vừa ý lão ấy, thế là lão nhảy luôn xuống giếng. Chết đi cho rồi! Lão là một tay bạo ngược từ trong trứng! Nhưng dĩ nhiên là cái giếng cũng bị hỏng luôn. Flora không thể nào chịu được ý nghĩ dùng lại nó nữa, tội nghiệp! Thế là bà ấy nhờ người đào một cái giếng khác và cái vụ đó tốn kém mới khiếp chứ, còn nước thì rắn như đá. Nếu hắn nhất định phải trẫm mình, có bao nhiêu nước trong vịnh mà, đúng không? Ta không có chút kiên nhẫn nào với loại đàn ông như vậy hết. Chúng ta mới chỉ có hai vụ tự tử ở Bốn Làn Gió theo như ta nhớ. Người kia là Frank West… cha của Leslie Moore. Nhân tiện, Leslie đã qua hỏi thăm cháu chưa thế?” “Chưa, nhưng tối hôm nọ cháu gặp cô ấy trên bờ biển và chúng cháu đã vất vả làm quen với nhau ạ,” Anne nói, ngỏng tai lên. Cô Cornelia gật đầu. “Ta rất mừng, cưng ạ. Ta đã hy vọng cháu sẽ làm thân với nó. Cháu nghĩ sao về nó?” “Cháu nghĩ cô ấy rất đẹp.” “Ồ, dĩ nhiên. Không có ai ở quanh Bốn Làn Gió có thể so với nó xét về hình thức. Cháu đã bao giờ thấy tóc nó chưa? Nó dài chấm gót khi thả ra. Nhưng ý ta là cháu có thích nó không?” “Cháu nghĩ cháu có thể thích cô ấy rất nhiều nếu cô ấy chịu cho cháu thích,” Anne chậm rãi đáp. “Nhưng nó sẽ không cho… nó đẩy cháu đi và tránh xa cháu một sải tay. Tội nghiệp Leslie! Cháu sẽ không mấy ngạc nhiên nếu cháu biết đời nó đã như thế nào đâu. Thật là một bi kịch... một bi kịch!” cô Cornelia lặp lại đầy vẻ cảm thông. “Cháu ước gì cô có thể kể cho cháu nghe về cô ấy... ý là, nếu cô có thể làm vậy mà không đi ngược lại lời hứa giữ bí mật nào.” “Chúa ơi, cưng ạ, tất cả mọi người ở Bốn Làn Gió đều biết chuyện của Leslie tội nghiệp. Chẳng có gì bí mật cả... bên ngoài thì thế. Không ai biết chuyện bên trong ngoài chính Leslie, và nó không thổ lộ với ai đâu. Ta gần như là người bạn thân nhất nó có trên quả đất này, chắc thế, ấy thế mà nó cũng chưa bao giờ hé một lời phàn nàn với ta. Cháu đã gặp Dick Moore bao giờ chưa?” “Chưa ạ.” “Ừ, có lẽ ta nên bắt đầu từ đầu và nói cho cháu biết mọi thứ thẳng tuột luôn, để cháu hiểu. Như ta nói, cha của Leslie là Frank West. Anh ta thông minh và khờ dại... đúng là đồ đàn ông. Ồ, anh ta nhiều não lắm... và đám não của anh ta mới mang lại cho anh ta lắm thứ tốt lành chứ! Anh ta bắt đầu đi học đại học này, và anh ta đi hai năm, và rồi sức khỏe của anh ta suy sụp. Dòng họ nhà West thảy đều dễ mắc lao phổi. Thế là Frank về nhà và bắt đầu làm ruộng. Anh ta cưới Rose Elliott từ bên kia vịnh. Rose được cho là nữ hoàng sắc đẹp của Bốn Làn Gió... Leslie thừa hưởng vẻ bề ngoài từ mẹ mình, nhưng nó có gấp mười lần tinh thần và sức sống mà Rose có, và một thân hình đẹp hơn rất nhiều. Giờ thì cháu biết rồi đấy, Anne, ta luôn luôn cho rằng phụ nữ chúng ta phải sát cánh bên nhau. Chúng ta đã có đủ điều phải chịu đựng dưới tay đám đàn ông rồi, có Chúa biết, nên ta tin rằng chúng ta không nên cấu xé nhau, và cháu sẽ không mấy khi thấy ta bôi xấu một phụ nữ khác đâu. Nhưng ta thấy Rose chẳng được cái bộ gì. Cô ta hư hỏng ngay từ đầu, tin ta đi, và cô ta không là gì ngoài một thứ lười nhác, ích kỷ, hay rên rỉ. Frank chẳng giỏi làm lụng gì hết, thế nên họ nghèo rớt mồng tơi ra. Nghèo! Họ chỉ rau cháo qua ngày thôi, tin ta đi. Họ có hai con, Leslie và Kenneeth. Leslie có vẻ ngoài của mẹ nó và bộ não của cha nó, và một thứ gì nữa nó không thừa hưởng từ cả hai người. Nó giống bà nội nó… một bà già tuyệt vời. Nó là đứa bé sáng sủa nhất, thân thiện nhất, tươi vui nhất lúc nó còn bé, Anne ạ. Tất cả mọi người đều thích nó. Nó là đứa con cưng của cha nó và nó rất quý cha. Họ là ‘bồ tèo’, như nó vẫn nói. Nó không nhìn ra bất cứ khuyết điểm nào của cha… mà cha nó xét ở một vài mặt nào đó cũng thuộc loại đàn ông hấp dẫn.” “Rồi, năm Leslie mười hai tuổi, điều kinh khủng đầu tiên xảy ra. Nó tôn thờ thằng bé Kenneth… thằng bé nhỏ hơn Leslie bốn tuổi, và nó đúng là một thằng bé dễ thương. Và một ngày nọ nó bị chết… ngã từ một đám rơm to ngay lúc xe đang đi vào vựa cỏ, và bánh xe nghiến ngang qua thân mình bé nhỏ của nó đè bật sự sống ra khỏi đó. Và cháu hãy nhớ, Anne ạ, Leslie chứng kiến chuyện đó. Nó đang nhìn xuống từ trên gác xép. Nó rú lên một tiếng… bác thợ làm thuê nói bác ta chưa bao giờ nghe thấy tiếng gì như thế trong cả đời mình… bác nói nó sẽ rung trong tai bác cho đến khi tiếng kèn của Tổng thiên thần Gabriel xua được nó ra. Nhưng con bé không bao giờ rú rít hay khóc lóc gì thêm về chuyện đó nữa. Nó nhảy từ gác xép xuống đám cỏ và từ đám cỏ xuống sàn, chụp lấy cái thân hình bé nhỏ đầm đìa máu, còn ấm và đã chết, Anne ạ… họ phải dùng sức gỡ thằng bé ra khỏi Leslie thì nó mới chịu buông. Họ gọi ta đến… ta không nói được nữa.” Cô Cornelia quệt nước mắt từ đôi mắt nâu hiền lành của mình và ngồi khâu trong im lặng cay đắng trong vài phút. “Rồi,” cô tiếp tục, “mọi chuyện qua hết… họ chôn bé Kenneth trong cái nghĩa trang bên kia vịnh, và sau một thời gian Leslie quay lại trường học. Con bé không bao giờ nhắc đến tên Kenneth… ta chưa bao giờ nghe cái tên đó thốt ra từ môi nó từ cái ngày đó đến nay. Ta nghĩ nỗi đau cũ vẫn làm nó nhức nhối và đôi khi đốt cháy nó; nhưng nó mới chỉ là một đứa trẻ và thời gian rất tốt bụng với trẻ con, Anne, cưng ạ. Sau một thời gian nó bắt đầu cười trở lại… nó có tiếng cười đẹp lắm. Giờ ta chẳng còn mấy khi được nghe nữa.” “Tối hôm ấy cháu có được nghe một lần,” Anne nói. “Đó đúng là một tiếng cười đẹp.” “Frank West bắt đầu xuống dốc sau cái chết của Kenneth. Anh ta vốn đã không được khỏe và đấy là một cú sốc với anh ta, bởi vì anh ta thực sự rất yêu thằng bé, mặc dù, như ta nói, Leslie mới là đứa con cưng. Anh ta trở nên ủ rũ và sầu thảm, và không thể hoặc không chịu làm việc. Và một ngày nọ, khi Leslie mới mười bốn tuổi đời, anh ta treo cổ tự tử… và ngay trong phòng khách nữa, con nên nhớ, Anne ạ, ngay chính giữa phòng khách từ cái móc treo đèn trên trần nhà. Đúng là đồ đàn ông phải không? Lại vào đúng cái ngày kỷ niệm ngày cưới của anh ta nữa chứ. Chọn thời điểm thật đáng yêu, ngon lành đúng không nào? Và, dĩ nhiên, Leslie tội nghiệp phải là người đầu tiên tìm thấy cha mình. Sáng hôm đó nó vào phòng khách, miệng hát vang còn tay thì ôm một đóa hoa tươi để cắm lọ, và ngay đó nó thấy cha nó lủng lẳng trên trần nhà, mặt đen như than. Đấy là một cảnh tượng kinh khủng, tin ta đi!” “Ôi, thật khủng khiếp!” Anne nói, rùng mình. “Cô bé tội nghiệp, tội nghiệp!” “Leslie không khóc ở đám tang cha nhiều hơn nó khóc ở đám tang Kenneth. Tuy nhiên Rose thì gào rú vật vã cho cả hai, và Leslie phải làm tất cả mọi thứ để cố trấn tĩnh và an ủi mẹ nó. Ta ghê tởm Rose và tất cả mọi người khác đều thế, nhưng Leslie không bao giờ hết kiên nhẫn. Nó yêu mẹ mình. Leslie rất trọng gia đình… ruột thịt của nó không bao giờ có thể sai trong mắt nó. Ờ, họ chôn Frank West cạnh Kenneth, và Rose dựng một cái lăng mộ to tướng cho anh ta. Nó còn lớn hơn nhân cách của anh ta nữa, tin ta đi! Tóm lại là, nó lơn hơn mức mà Rose có thể chi trả được, vì nông trại đã được đem ra thế chấp nhiều hơn giá trị thực của mình. Nhưng không lâu sau đó bà nội của Leslie mất và bà ấy để lại cho nó một số tiền nhỏ… đủ để cho nó một năm học tại Học viện Queen. Leslie đã quyết tâm trở thành giáo viên nếu như có thể, và rồi kiếm đủ tiền để đi học ở Đại học Redmond. Đấy là kế hoạch ưa thích của cha nó… anh ta muốn nó có được cái mà anh ta đã mất. Leslie tràn trề tham vọng và đầu nó thì đầy nhóc não. Nó đi học ở Queen, học chương trình hai năm trong một năm và có bằng tú tài; và khi về nhà nó đi dạy trường Glen. Nó rất hạnh phúc và hy vọng và tràn đầy sức sống và hăm hở. Khi ta nghĩ đến nó hồi đó và nó bây giờ, ta nói… chết tiệt đám đàn ông!” Cô Cornelia giật đứt sợi chỉ ra một cách hung dữ như thể, giống Nero, cô đang cắt bay đầu giới đàn ông bằng động tác đó. “Mùa hè năm ấy Dick Moore bước vào cuộc đời của nó. Cha thằng đó, Abner Moore, có cửa hàng ở Glen, nhưng Dick thừa hưởng máu đi biển từ mẹ hắn; hắn thường đi biển vào mùa hè và bán hàng trong cửa hàng của cha hắn vào mùa đông. Hắn là một gã cao lớn, đẹp trai, nhưng tâm hồn thì xấu xí nhỏ nhặt. Hắn mà muốn gì thì quyết giành bằng được, nhưng lúc có rồi thì lại chán ngay… đúng là đồ đàn ông. Ô, hắn không gầm gừ với thời tiết lúc trởi đẹp đâu, và nói chung hắn rất dễ chịu và đáng mến khi mọi thứ đều ổn. Nhưng hắn uống rượu rất nhiều, và có vài câu chuyện xấu xí kể về hắn và một con bé dưới xóm chài. Hắn không xứng để làm giẻ cho Leslie lau giày, nói luôn và nhanh. Và hắn lại còn là một tay Giám lý! Nhưng hắn si mê con bé điên cuồng… trước hết vì vẻ ngoài của con bé, sau nữa là vì con bé chả có gì để nói với hắn. Hắn thề hắn sẽ có được con bé… và hắn đã có!” “Làm thế nào anh ta làm được thế ạ?” “Ồ, thật là một việc trái đạo lý! Ta sẽ không bao giờ tha thứ cho Rose West. Con thấy đó, cưng ạ, Abner Moore giữ thế chấp nông trại nhà West, và tiền lãi bị trễ vài năm, và Dick cứ thế đến nói với bà West là nếu Leslie không cưới hắn thì hắn sẽ bảo cha hắn tịch thu thế chấp. Rose làm mình làm mẩy mới gớm chứ… nào ngất xỉu nào khóc lóc, và cẩu khẩn Leslie đừng để mình bị đuổi ra khỏi nhà mình. Cô ta nói trái tim cô ta sẽ tan nát nếu phải rời căn nhà cô ta đã đến với tư cách cô dâu. Ta cũng không trách cô ta vì cảm thấy tồi tệ về chuyện đó… nhưng ai mà nghĩ cô ta lại ích kỷ đến nỗi hy sinh cả máu thịt của mình vì chuyện đó, phải không cháu? Đó, cô ta là thế đó. Và Leslie đầu hàng… nó yêu mẹ mình nhiều đến mức nó có thể làm mọi thứ để cứu vớt nỗi đau của mẹ. Nó cưới Dick Moore. Lúc ấy chẳng ai trong chúng ta biết vì sao. Mãi về sau này ta mới phát hiện ra mẹ nó đẩy nó vào chuyện ấy như thế nào. Nhưng hồi đó ta đã chắc chắn là có chuyện gì sai quấy mà, vì ta biết nó từng làm thằng kia bẽ mặt hết lần này sang lần khác như thế nào, mà Leslie không phải là người hay quay ngoắt như thế. Hơn nữa, ta biết Dick Moore không phải loại đàn ông Leslie có thể thích, mặc cho vẻ đẹp mã và những kiểu cách chưng diện của hắn. Dĩ nhiên, không có đám cưới nào cả, nhưng Rose yêu cầu ta đến chứng kiến chúng nó cưới nhau. Ta đến, nhưng ta rất tiếc vì mình đã đến. Ta đã thấy mặt của Leslie trong đám tang em nó và trong đám tang cha nó… và giờ ta cảm thấy như ta đang thấy con bé trong đám tang của chính mình. Nhưng Rose thì cười như nghé, tin ta đi!” “Leslie và Dick ngụ tại nhà West – Rose không chịu nổi chuyện phải chia tay với cô con gái quý báu của mình! – và sống ở đó qua mùa đông. Đến mùa xuân Rose bị lao phổi và chết… trễ mất một năm! Leslie tan nát con tim vì chuyện đó. Có kinh khủng không kia chứ, một vài kẻ không đáng thì lại được yêu thương như thế, trong khi những kẻ khác xứng đáng hơn rất nhiều, ta nghĩ, lại chẳng được bao nhiêu tình cảm? Còn về phần Dick, hắn đã chán cuộc sống gia đình phẳng lặng… đúng là đồ đàn ông! Hắn cứ thế xách đít ra đi. Hắn qua Nova Scotia thăm họ hàng – cha hắn xuất thân Nova Scotia mà – và hắn viết thư về cho Leslie là anh họ hắn, George Moore, sắp sửa đi một chuyến đến Havana và hắn cũng sẽ đi. Tên còn tàu là Bốn chị em và họ sẽ đi trong khoảng chín tuần.” “Leslie hẳn phải thở phào nhẹ nhõm. Nhưng nó không bao giờ nói gì hết. Từ ngày cưới đến giờ nó đúng như thế… lạnh lùng và kiêu ngạo, và xa lánh tất cả mọi người trừ ta. Ta thì không xa lánh được, tin ta đi! Ta cứ thế dính lấy Leslie, gần gũi hết mức có thể mặc kệ mọi thứ.” “Cô ấy nói với cháu cô là người bạn tốt nhất mà cô ấy có,” Ann nói. “Thế á?” cô Cornelie vui thích thốt lên. “Ừ, ta thật mừng khi nghe câu đó. Nhiều lúc ta tự hỏi liệu nó có thực sự muốn ta ở quanh không… nó không bao giờ cho phép ta nghĩ thế. Cháu hẳn đã làm tan chảy nó nhiều hơn cháu nghĩ, nếu không nó sẽ không bao giờ nói nhiều đến mức đó với cháu. Ôi, con bé tội nghiệp đau khổ! Ta chưa bao giờ nhìn thấy Dick Moore mà không muốn xiên cho thằng đó một nhát.” Cô Cornelia lại quệt nước mắt và sau khi đã giải tỏa cảm xúc bằng điều ước khát máu của mình, cô tiếp tục câu chuyện. “Ờ, Leslie bị bỏ lại ở đó một mình. Dick gieo cấy trước khi đi, và ông Abner già chăm sóc vụ mùa. Mùa hè trôi qua mà con tàu Bốn chị em vẫn chưa trở lại. Đám nhà Moore ở Nova Scotia thăm dò, và phát hiện con tàu đã đến Havana trả hàng và lấy thêm hàng rồi về nhà và đấy là tất cả những gì họ biết được về nó. Dần dà mọi người bắt đầu nói đến Dick Moore như một người đã chết. Hầu như tất cả mọi người đều tin là hắn đã chết, mặc dù không ai biết chắc, vì đám đàn ông đã từng có người xuất hiện tại vùng vịnh này sau khi biệt tích hàng bao nhiêu năm trời. Leslie không bao giờ nghĩ hắn đã chết… và nó đúng. Tiếc một ngàn lần! Mùa hè năm sau thuyền trưởng Jim đến Havana… đấy là ngay trước khi ông ấy từ bỏ nghề biển, dĩ nhiên. Ông ấy nghĩ hay là dò hỏi xung quanh một chút… thuyền trưởng Jim lúc nào cũng nhiễu sự, đúng là đồ đàn ông… và ông ấy bắt đầu dò hỏi quanh những căn nhà trọ của đám thủy thủ và các nơi như thế, để xem liệu có thể tìm được chút manh mối nào về thủy thủ đoàn của con tàu Bốn chị em hay không. Lẽ ra ông ấy đừng nên đánh động mấy con chó đã ngủ, theo ý kiến của ta! Ờ, ông ấy đến một nơi hẻo lánh, và ở đó ông ấy tìm thấy một gã mà ông ấy nhìn là biết ngày là Dick Moore, mặc dù hắn để râu rậm rì. Thuyền trưởng Jim cho cạo đi và rồi không còn nghi ngờ gì nữa… chính thị Dick Moore… ít nhất là thân xác hắn. Đầu óc hắn không có đó… còn về tâm hồn hắn, theo ý ta hắn chưa bao giờ có tâm hồn!” “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta ạ?” “Chẳng ai biết chuyện gì. Tất cả những gì mấy người chủ nhà trọ có thể nói được là một buổi sáng nọ khoảng một năm về trước họ tìm thấy hắn ta nằm trên bậc thềm nhà họ trong một tình trạng kinh khủng… đầu hắn bầm giập đến độ chẳng thành hình nữa. Họ đoán hắn bị thương trong một vụ ẩu đả say rượu nào đó, và chắc đấy là sự thật. Họ đem hắn vào, chẳng bao giờ nghĩ hắn có thể sống nổi. Nhưng hắn đã sống… có điều khi khỏe rồi thì hắn chỉ còn như một đứa trẻ con thôi. Hắn không có trí nhớ hay trí khôn hay lý trí gì sất. Họ cố tìm hiểu xem hắn là ai nhưng không được. Hắn thậm chí còn không nói được tên mình… hắn chỉ có thể nói vài từ đơn giản. Hắn có đem theo một lá thư bắt đầu bằng ‘Dick thân mến’ và ký tên ‘Leslie’, nhưng không có địa chỉ trên đó và phong bì thì mất rồi. Họ để hắn ở lại… hắn học cách làm vài việc lặt vặt quanh nhà…và thuyền trưởng Jim đã tìm thấy hắn ở đó. Ông ấy đưa hắn về… ta vẫn luôn nói đấy là một việc rất dở, mặc dù ta đoán ông ấy cũng chả làm thế nào khác được. Ông ấy nghĩ có thể Dick về nhà, thấy lại khung cảnh cũ và những gương mặt quen thuộc trí nhớ của hắn có thể thức dậy. Nhưng chả có tác dụng gì. Vậy là hắn đã ở căn nhà nơi đầu con suối từ đó đến nay. Hắn chỉ như một đứa trẻ, không hơn không kém. Thỉnh thoảng cũng có lên cơn quạu quọ, nhưng bình thường hắn chỉ ngơ ngẩn, dễ bảo và vô hại. Hắn rất dễ chạy đi mất khi không được để mắt. Đấy là cái gánh nặng mà Lesie đã phải mang trong mười một năm nay… chỉ có một mình. Ông Abner Moore già đã chết chẳng bao lâu sau khi Dick được mang về nhà và hóa ra ông ta đã gần như phá sản. Khi mọi thứ được giải quyết thì chẳng còn gì cho Leslie và Dick ngoài trang trại West cũ. Leslie cho John Ward thuê, và chỗ tiền thuê là tất cả những gì nó có để sống nhờ vào. Thỉnh thoảng vào mùa hè nó nhận khách trọ để giúp thêm. Nhưng hầu hết khách tham quan thích ở bên kia cảng nơi có khách sạn và nhà nghỉ mùa hè hơn. Nhà của Leslie ở xa bãi tắm quá. Nó phải chăm sóc Dick và nó chưa bao giờ rời thằng kia từ mười một năm nay… nó bị buộc với thằng đần ấy suốt đời! Và sau tất cả những mơ ước và hy vọng mà nó từng có! Cháu có thể tưởng tượng mọi thứ đã như thế nào với nó, Anne cưng ạ…với sắc đẹp và tinh thần và lòng tự hào và sự thông minh của nó. Đúng là sống cũng như chết mà!” “Cô gái tội nghiệp, tội nghiệp!” Anne lại nói. Hạnh phúc của chính Anne như sỉ nhục cô. Cô có quyền gì mà hạnh phúc như vậy khi một linh hồn con người khác phải đau khổ đến dường ấy? “Cháu nói cho ta biết chính xác những điều Leslie đã nói và cách xử sự của nó cái đêm cháu gặp nó ngoài bờ biển được không?” cô Cornelia hỏi. Cô lắng nghe chăm chú và gật đầu lộ vẻ hài lòng. “Cháu thì nghĩ nó cứng nhắc và lạnh lùng, Anne cưng ạ, nhưng ta có thể nói cho cháu biết nó đã mềm đi rất nhiều so với chính nó rồi đó. Cháu có thể giúp nó rất nhiều. Ta rất mừng khi nghe tin một cặp vợ chồng trẻ sắp chuyển đến căn nhà này, vì ta hy vọng điều đó sẽ mang lại một vài người bạn cho Leslie; nhất là khi cháu thuộc về lớp người quen của Joseph. Cháu sẽ làm bạn của nó chứ, Anne cưng?” “Chắc chắn ạ, nếu cô ấy cho phép cháu,” Anne nói, với tất cả sự chân thành ngọt ngào, bồng bột của riêng mình. “Không, cháu phải là bạn của nó, dù nó có cho phép cháu hay là không,” cô Cornelia kiên quyết nói. “Cháu đừng để bụng việc thỉnh thoảng nó tỏ ra cứng nhắc… đừng để ý. Hãy nhớ cuộc đời nó đã như thế nào… và vẫn như thế nào… và phải luôn luôn như thế nào, ta đoán thế, vì những đứa như Dick Moore cứ sống mãi thôi, ta hiểu vậy. Cháu phải xem thằng đó béo ú lên như thế nào từ hồi nó về nhà. Hồi xưa nó cũng gầy lắm. Cứ làm bạn với nó… cháu làm được… cháu là một trong số những người có năng khiếu đó. Chỉ có điều cháu không được nhạy cảm quá. Và đừng ngại nếu nó có vẻ không muốn cháu sang bên kia nhiều. Nó biết một số phụ nữ không thích ở gần Dick…họ phàn nàn là thằng đó làm cho họ nổi da gà. Cứ rủ nó sang đây càng nhiều càng tốt. Nó không bỏ đi được quá nhiều đâu… nó không bỏ Dick ở nhà được lâu, vì có Chúa mới biết thằng đấy sẽ làm gì… chắc là đốt nhà quá. Gần như nó chỉ có khoảng thời gian tự do duy nhất là đêm sau khi thằng kia lên giường ngủ. Thằng đó lúc nào cũng đi ngủ sớm và ngủ như chết cho tới sáng hôm sau. Chắc cháu gặp nó ở bờ biển là vì như thế. Nó hay đi lang thang ngoài đó lắm.” “Cháu sẽ làm mọi điều có thể cho cô ấy,” Anne nói. Hứng thú của cô với Leslie Moore, lúc nào cũng mạnh mẽ kể từ lúc cô nhìn thấy Leslie lùa đàn ngỗng xuống đồi, giờ được nhân lên gấp ngàn lần sau câu chuyện của cô Cornelia. Vẻ đẹp và nỗi buồn cùng sự cô đơn của cô gái cuốn hút cô bằng một sức hấp dẫn không thể cưỡng nổi. Cô chưa bao giờ quen biết bất cứ ai như thế; bạn bè cô trước nay luôn là những cô gái trọn vẹn, bình thường, vui vẻ như chính cô, chỉ với những lo lắng và sầu muộn thông thường phủ bóng những giấc mơ con gái. Leslie Moore đứng riêng, một bóng dáng bi kịch, cuốn hút của đời người phụ nữ đầy ngang trái. Anne quyết tâm sẽ chiếm được lối vào cái vương quốc tâm hồn cô độc đó và tìm thấy nơi tình bạn mà nó sẽ trao tặng thật dồi dào, nếu không vì những gông xiềng tàn nhẫn cầm giữ trong một nhà tù không tự nó xây lên. “Và cháu phải nhớ điều này, Anne cưng ạ,” cô Cornelia, vẫn chưa hoàn toàn nói cho hả dạ, nói thêm. “Cháu không được nghĩ Leslie là một kẻ thiếu đức tin vì nó gần như không bao giờ đi nhà thờ… hay thậm chí vì nó là một người Giám lý. Nó không thể đưa Dick đến nhà thờ, dĩ nhiên… cũng chả phải thằng đó thèm đến nhà thờ nhiều hồi nó còn khỏe mạnh. Nhưng cháu cứ nhớ rằng nó là một người theo hội Trưởng lão đặc sệt trong tim nó, Anne cưng ạ.” 12. Leslie sang chơi Leslie ghé thăm căn nhà mơ ước vào một tối tháng Mười mù sương nọ, khi những cụm sương sáng ánh trăng đang treo trên vịnh cảng và uốn mình như những dải lụa bạc dọc các thung lũng hẹp về phía biển. Khi Gilbert ra mở cửa, trông cô có vẻ hối hận vì đã đến; nhưng Anne phóng qua mặt anh, nhảy bổ vào cô và kéo cô vào. “Mình rất mừng là cậu đã chọn tối nay để ghé thăm,” cô vui vẻ nói. “Chiều nay mình mới làm thêm rất nhiều kẹo mềm ngon và chúng mình muốn có ai đó ăn giúp - trước lò sưởi - khi chúng ta trò chuyện. Có khi thuyền trưởng Jim cũng sẽ ghé thăm. Đây là đêm của ông ấy.” “Không. Thuyền trưởng Jim ở bên nhà,” Leslie nói. “Ông ấy... ông ấy bắt tôi tới đây,” cô nói thêm, vẻ hơi thách thức. “Mình sẽ nói cảm ơn ông ấy khi nào gặp,” Anne nói, đoạn kéo những chiếc ghế thoải mái ra trước lò sưởi. “Ồ. Ý tôi không phải là tôi không muốn đến,” Leslie chống chế, hơi đỏ mặt. “Tôi... tôi cũng đã nghĩ đến chuyện ghé qua... nhưng không phải lúc nào tôi cũng dễ dàng bỏ đi được.” “Dĩ nhiên là cậu rất khó rời anh Moore,” Anne nói, bằng một giọng thản nhiên. Cô đã quyết định tốt nhất là thỉnh thoảng cứ nhắc tới Dick Moore như một sự thật đã được chấp nhận, và không mang lại thêm vẻ khó chịu không cần thiết cho đề tài này bằng cách lảng tránh nó. Cô đã đúng, vì thái độ miễn cưỡng của Leslie ngay lập tức biến mất. Rõ ràng cô đã tự hỏi Anne biết về tình trạng đời sống của cô nhiều đến mức nào và lấy làm nhẹ nhõm là không cần phải đưa ra một giải thích nào cả. Cô để Anne đỡ lấy mũ và áo choàng cho mình, và ngồi xuống với một vẻ co ro trẻ con trên chiếc ghế bành lớn cạnh Magog. Cô ăn mặc đẹp đẽ và cẩn thận, với sắc đỏ tươi quen thuộc của bông phong lữ đeo nơi cần cổ trắng ngần. Mái tóc đẹp của cô ánh lên như vàng lỏng trong ánh lửa lò sưởi ấm áp. Đôi mắt xanh màu biển đầy những tiếng cười và sự quyến rũ mềm mại. Trong một chốc, dưới ảnh hưởng của căn nhà mơ ước nhỏ, cô lại là một cô gái đã quên đi quá khứ cùng những cay đắng của nó. Cái không khí mà rất nhiều tình yêu đã phù phép cho căn nhà nhỏ ở khắp xung quanh cô; sự bầu bạn của hai con người trẻ trung, khỏe mạnh và hạnh phúc cùng lứa với cô bao bọc lấy cô; cô cảm nhận và buông theo ma lực của khung cảnh - cô Cornelia và thuyền trưởng Jim hẳn sẽ khó lòng mà nhận ra cô; Anne thấy khó mà tin được đây là người đàn bà lạnh lùng, lãnh đạm cô đã gặp ở bờ biển - cô gái vui tươi này nói và nghe với sự háo hức của một tâm hồn đang chết đói. Và đôi mắt của Leslie nhìn những kệ sách giữa các cửa sổ mới hau háu làm sao! “Thư viện của chúng mình không được nhiều cho lắm,” Anne nói, “nhưng mỗi quyển sách trong đó là một người bạn. Chúng mình đã chọn sách qua nhiều năm, chỗ này chỗ nọ, không bao giờ mua trừ phi đã đọc qua và biết nó thuộc vào lớp người quen của Joseph.” Leslie cười - tiếng cười đẹp đẽ dường như thân thiết với tất cả những tươi vui từng vang vọng khắp căn nhà nhỏ trong những năm tháng đã qua. “Mình có một số sách của cha - không nhiều,” cô nói. “Mình đã đọc chúng cho đến khi thuộc gần như nằm lòng. Mình không mua nhiều sách. Có một thư viện lưu động cửa hàng Glen - nhưng mình không nghĩ hội đồng chọn sách cho ông Parker biết cuốn nào thì thuộc lớp người quen của Joseph - hoặc có lẽ là họ không quan tâm. Quá hiếm khi mình kiếm được một cuốn mình thực sự thích đến nỗi mình từ bỏ luôn.” “Mình hy vọng cậu sẽ xem những kệ sách của chúng mình như của chính cậu,” Anne nói. “Chúng mình hoàn toàn thành tâm hoan nghênh cậu mượn bất cứ cuốn nào.” “Cậu đang đưa ra một bữa tiệc thịnh soạn toàn những món béo bở trước mắt mình đấy,” Leslie vui mùng nói. Rồi, khi đồng hồ điểm mười giờ, cô đứng dậy, vẻ hơi miễn cưỡng. “Mình phải đi rồi. Mình không nhận ra là đã trễ đến thế. Thuyền trưởng Jim lúc nào cũng nói ở lại một tiếng đâu có lâu la gì. Nhưng mình đã ở lại hai tiếng... và ôi, nhưng mình đã rất thích thú,” cô thẳng thắn nói thêm. “Đến thường xuyên nhé,” Anne và Gilbert nói. Họ đã đứng dậy và đứng cạnh nhau trong ánh sáng từ lò sưởi. Leslie nhìn họ - trẻ trung, hy vọng, hạnh phúc, tất cả những gì cô đã bỏ lỡ và sẽ mãi bỏ lỡ. Ánh sáng biến mất khỏi gương mặt và ánh mắt của cô - cô gái đã biến mất, giờ thì người đàn bà sầu muộn và bị lừa dối đáp lại lời mời một cách lạnh lẽo và bỏ đi với vẻ vội vàng đáng thương. Anne nhìn theo đến khi cô biến mất trong bóng đêm lạnh giá mù sương. Rồi cô từ từ quay lại với ánh sáng bệ lò sưởi rực rỡ của mình. “Cô ấy thật đáng yêu, đúng không Gilbert? Mái tóc của cô ấy làm em say mê. Cô Cornelia nói nó dài đến tận gót chân, Ruby Gillis có mái tóc rất đẹp - nhưng tóc của Leslie như đang sống - từng sợi từng sợi là vàng sống.” “Cô ấy rất đẹp,” Gilbert đồng tình, nhiệt tình đến nỗi Anne suýt thì hy vọng anh bớt nhiệt tình đi một chút. “Gilbert, liệu anh có thích tóc em hơn không nếu nó giống như của Leslie?” cô hỏi vẻ bâng khuâng. """