"
Anne tóc đỏ ở đảo hoàng tử Edward PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anne tóc đỏ ở đảo hoàng tử Edward PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Tác phẩm: Anne tóc đỏ ở đảo Hoàng tử Edward
Tác giả: Lucy Maud Montgomery
Dịch giả: Hồ Thanh Ái
Công ty phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn
Ngày xuất bản: 08-2014
Type & ebook: Bacha
CHÚ Ý
Ebook được làm với mục đích phi thương mại, nhằm chia sẻ cho các bạn không có điều kiện mua sách.
Nếu có thể, xin hãy mua sách để ủng hộ nhà xuất bản.
Giới thiệu
Anne tóc đỏ ở đảo hoàng tử Edward là cuốn thứ 3 trong xê ri truyện về cô bé Anne mồ côi gồm 8 tập này.
Tác phẩm mở đầu với lời đề: “Tặng mọi cô bé khắp trên thế giới đã muốn “biết thêm nữa” về Anne”.
Ở phần này, “Anne đã bước vào tuổi thiếu nữ, và những cuộc phiêu lưu của cô vẫn khiến ta vừa thích thú cười thầm vừa trào dâng xúc cảm”.
Cô bé tóc đỏ duyên dáng, lãng mạn vẫn gắn với tình bạn thân thiết cùng Diana Barry, với Chái Nhà Xanh và hồ Lấp Lánh.
Câu chuyện cũng “lớn dần” lên với một thiếu nữ Anne đã biết yêu, ghen tuông và đau khổ. Và cả diễn biến cuộc đời của những nhân vật đã gắn bó với Anne trong hai tập đầu tiên, như cậu bé Paul với những người trên vách đá, cậu nhóc Davy với các lá thư ngộ nghĩnh....
Series Anne tóc đỏ gồm 8 quyển:
Anne tóc đỏ dưới Chái Nhà Xanh (đã xuất bản ở Việt Nam)
Anne tóc đỏ làng Avonlea (đã xuất bản ở Việt Nam)
Anne tóc đỏ ở đảo HoàngTử Edward (đã xuất bản ở Việt Nam)
Anne tóc đỏ dưới mái nhà Bạch Dương (đã xuất bản ở Việt Nam) Anne tóc đỏ và Ngôi Nhà Mơ Ước (đã xuất bản ở Việt Nam) Anne dưới mái nhà Bên Ánh Lửa (đã xuất bản ở Việt Nam)
Thung lũng Cầu Vồng (chưa xuất bản ở Việt Nam) Rilla dưới mái nhà Bên Ánh Lửa (chưa xuất bản ở Việt Nam)
Mục lục
Chương 1: Bóng dáng của sự đổi thay
Chương 2: Vòng hoa mùa thu
Chương 3: Chào đón và tạm biệt
Chương 4: Quý bà Tháng Tư
Chương 5: Thư nhà
Chương 6: Trong công viên
Chương 7: Trở về nhà
Chương 8: Lời cầu hôn đầu tiên dành cho Anne
Chương 9: Người yêu không được chào đón và người bạn được hoan nghênh
Chương 10: Nhà Patty
Chương 11: Vòng quay cuộc đời Chương 12: “Averil chuộc lỗi” Chương 13: Con đường dẫn tới sa ngã Chương 14: Lời gọi của Chúa
Chương 15: Giấc mơ đảo lộn
Chương 16: Điều chỉnh các mối quan hệ Chương 17: Lá thư của Davy
Chương 18: Cô Josephine nhớ đến Anne Chương 19: Khoảng lặng
Chương 20: Gilbert thổ lộ
Chương 21: Hoa hồng của ngày hôm qua
Chương 22: Mùa xuân và Anne quay trở lại Chái Nhà Xanh Chương 23: Paul không tìm lại được những người trên vách đá Chương 24: Jonas xuất hiện
Chương 25: Bạch mã hoàng tử xuất hiện
Chương 26: Christine xuất hiện
Chương 27: Trao đổi tâm sự
Chương 28: Một chiều tháng Sáu
Chương 29: Đám cưới của Diana
Chương 30: Chuyện tình của bà Skinner
Chương 31: Anne gửi Philippa
Chương 32: Tiệc trà với bà Douglas
Chương 33: “Anh ấy cứ tới chơi tới chơi” Chương 34: John Douglas cuối cùng cũng cầu hôn Chương 35: Năm cuối cùng ở Redmond bắt đầu Chương 36: Nhà Gardner đến thăm
Chương 37: Cử nhân chính thức
Chương 38: Bình minh hụt
Chương 39: Vất vả với các đám cưới
Chương 40: Sách Khải huyền
Chương 41: Tình yêu lấp đầy khoảng cách thời gian
Lời khen tặng dành cho tác phẩm:
“Vẫn luôn như vậy, Anne lại đối mặt những thách thức trong cuộc sống và trong các mối quan hệ với sự dữ dội, cảm tính và sức hút lạ kỳ, vốn là đặc trưng mà không ai còn lạ lẫm ở cô.” - Resident Scholar
“Anne đã bước vào tuổi thiếu nữ, và những cuộc phiêu lưu của cô vẫn khiến ta vừa thích thú cười thầm vừa trào dâng xúc cảm.” - Random House
“Dành cho tất cả những ai muốn được trải nghiệm cảm giác vui vẻ, hài hước trong khi đọc; và đặc biệt dành cho tất cả những ai từng yêu thích Anne Tóc đỏ dưới Chái nhà xanh.” - Resident Scholar
Lời đề tặng
Tặng mọi cô bé khắp trên thế giới đã muốn “biết thêm nữa” về ANNE Những điều quý báu muộn màng
Tâm thành truy cứu nồng nàn đến sau.
Ái tình Duyên phận theo nhau
Rửa cho xán lạn ngọc châu lấm bùn.
TENNYSON
Chương 1: Bóng dáng của sự đổi thay
“Vụ mùa kết thúc, hạ đã trôi đi,” Anne Shirley lẩm nhẩm đọc một câu[1], mơ màng nhìn ra cánh đồng trơ gốc rạ. Cô và Diana Barry vừa hái táo trong vườn Chái Nhà Xanh, nhưng giờ thì họ đang nghỉ ngơi lấy lại sức ở một góc vườn đượm nắng, nơi từng cụm bông kế lững lờ trôi trên cánh gió còn đượm hương mùa hạ ngọt ngào, thấm đẫm mùi dương xỉ trong rừng Ma Ám.
[1]. Cựu ước, sách Jeremiah 8:20.
Nhưng cảnh vật xung quanh họ đâu đâu cũng đậm không khí mùa thu. Biển gầm gừ ầm ì xa xa, những cánh đồng trơ trọi héo úa, phủ gốc rạ vàng rực, hoa cúc tây tím mơ màng nở rộ nơi vùng trũng có dòng suối chạy qua phía dưới Chái Nhà Xanh và hồ Lấp Lánh thì xanh, xanh, xanh biếc, không phải màu xanh biến ảo của mùa xuân, không phải màu xanh ngăn ngắt của mùa hạ, mà là màu xanh trong trẻo, thanh thản và trầm lặng, cứ như mặt nước đã qua tuổi bồng bột, nay lắng xuống với một sự tĩnh lặng chẳng bị giấc mơ bốc đồng nào phá vỡ.
“Mùa hè vừa qua thật đẹp,” Diana mỉm cười xoay xoay chiếc nhẫn mới tinh nơi tay trái. “Và đám cưới của cô Lavendar chính là đỉnh sự kiện tuyệt vời nhất. Tớ nghĩ ông bà Irving giờ đang ở bờ Thái Bình Dương rồi.”
“Tớ thấy họ đi lâu cứ như đi vòng quanh cả thế giới ấy,” Anne thở dài. “Tớ không tin được là họ chỉ mới cưới có một tuần thôi. Mọi thứ đều thay đổi hết cả. Cô Lavendar, ông bà Allan đều đã rời đi, ôi, ngôi nhà mục sư trông cô đơn biết bao khi cửa chớp đóng kín cả! Tối qua tớ đi ngang qua và cảm thấy cứ như mọi người trong đó đã chết hết rồi ấy.”
“Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được vị mục sư nào tốt như ông Allan nữa,” Diana bi quan khẳng định như đinh đóng cột. “Tớ chắc mùa đông này sẽ có đủ kiểu mục sư thử việc ghé qua, và phân nửa số ngày Chủ nhật sẽ chẳng có buổi lễ nào cho coi. Mà cậu với Gilbert lại đi xa nữa chứ, sẽ buồn chán đến chết mất thôi.”
“Fred sẽ luôn có mặt mà,” Anne bóng gió một cách láu lỉnh.
“Khi nào thì bà Lynde dọn vào?” Diana hỏi cứ như chẳng hề nghe thấy lời bóng gió của Anne.
“Ngày mai. Tớ mừng là bà ấy sẽ tới, nhưng sẽ lại thêm một sự thay đổi nữa. Hôm qua bác Marilla và tớ đã dọn hết mọi thứ ra khỏi phòng dành cho khách. Cậu biết tớ ghét việc đó đến nhường nào không? Đương nhiên như thế thật ngốc nghếch, nhưng cứ như là bác cháu tớ phải làm chuyện gì đó tội lỗi lắm vậy. Cái phòng dành cho khách cũ kỹ ấy lúc nào cũng giống như một nơi thiêng liêng đối với tớ. Khi còn nhỏ, tớ nghĩ đó là căn phòng tuyệt vời nhất trên thế giới. Cậu nhớ tớ đã khao khát muốn ngủ trên một chiếc giường dành cho khách đến phát rồ lên không, nhưng đương nhiên không phải là trong căn phòng ở Chái Nhà Xanh. Ồ, không, trong đó thì không bao giờ! Sẽ rất khủng khiếp, tớ sẽ không tài nào chợp mắt nổi vì kính sợ. Tớ chẳng bao giờ bước qua căn phòng ấy mỗi khi bác Marilla sai tớ vào có việc, không, tớ lúc nào cũng rón rén và nín thở đi từng bước, cứ như là đang ở trong nhà thờ ấy, và tớ cảm thấy nhẹ cả người khi ra khỏi căn phòng đó. Có ảnh chân dung George Whitefield và công tước Wellington treo trên tường ở hai bên tấm gương, họ nghiêm khắc cau mày nhìn tớ từ lúc bước vào đến lúc bước ra, nhất là nếu tớ dám nhìn lén vào gương, đó là cái gương duy nhất trong nhà không làm mặt tớ bị vẹo đi một tẹo. Tớ lúc nào cũng tò mò không biết bác Marilla lấy đâu ra can đảm để mà dọn dẹp căn phòng ấy nữa. Giờ thì căn phòng không những được lau chùi mà còn bị dọn sạch sẽ rồi. George Whitefield và ngài công tước đã bị đày lên treo ở hành lang trên lầu. ‘Vậy đó, mọi vinh quang trên thế giới này đều đến hồi kết thúc’,” Anne kết luận rồi phá lên cười tuy giọng cười có chút tiếc nuối. Chẳng bao giờ vui được khi chốn thiêng liêng xưa cũ của ta bị mạo phạm, dẫu ta đã qua thuở thơ ngây đó rồi.
“Cậu đi rồi tớ sẽ cô đơn đến chết mất thôi,” Diana rên rỉ đến lần thứ một trăm.
“Cứ nghĩ mà xem, tuần sau là cậu đi rồi!”
“Nhưng lúc này chúng ta vẫn đang ở bên nhau mà,” Anne vui vẻ nói. “Chúng ta không nên để tuần kế tiếp lấy đi niềm vui của tuần này. Tớ cũng chẳng thích nghĩ tới chuyện rời đi tí nào, quê nhà là người bạn rất thân thiết của tớ. Cô đơn ư? Chính tớ mới là người phải rên rỉ đây. Cậu sẽ ở lại với đủ bạn đủ bè, và cả Fred nữa! Trong khi tớ một mình đối mặt với cả biển người lạ, chẳng biết ai cả!”
“Ngoại trừ Gilbert, và Charlie Sloane,” Diana bắt chước kiểu nhấn giọng láu lỉnh của Anne.
“Charlie Sloane sẽ an ủi tớ được nhiều đấy, hẳn là thế,” Anne mỉa mai đồng ý, khiến cho hai cô nàng vô trách nhiệm cùng phá lên cười. Diana biết rõ Anne nghĩ gì về Charlie Sloane, nhưng qua bao câu chuyện tâm sự tầm phào, cô không biết chắc Anne cảm thấy thế nào về Gilbert Blythe. Rõ ràng là Anne cũng chẳng biết điều này.
“Bọn con trai có thuê nhà ở đầu bên kia Kingsport thì với tớ cũng chẳng khác gì,” Anne tiếp. “Tớ mừng là mình sắp vào trường Redmond học và tớ chắc là mình sẽ thích nó sau một thời gian. Nhưng trong mấy tuần đầu, tớ biết là tớ sẽ không thích đâu. Tớ còn chẳng được an ủi bằng niềm trông đợi đến cuối tuần để về nhà như hồi đi học ở Queen nữa. Giáng sinh thì còn cả ngàn năm nữa mới tới.”
“Mọi thứ đều đang thay đổi, hay là sắp sửa thay đổi,” Diana buồn bã nói. “Tớ cảm thấy mọi việc sẽ chẳng bao giờ như xưa nữa, Anne à.”
“Chúng ta đã đi đến ngã ba đường rồi, tớ nghĩ thế,” Anne trầm tư. “Chúng ta phải đến lúc đó thôi. Cậu nghĩ làm người lớn có thích như tưởng tượng của chúng ta thuở nhỏ không hở Diana?”
“Tớ chẳng biết nữa, cũng có vài điều hay đấy chứ,” Diana đáp, một lần nữa lại mân mê chiếc nhẫn với nụ cười tủm tỉm lúc nào cũng khiến cho Anne đột nhiên cảm thấy mình thật trẻ con và bị bỏ rơi. “Nhưng cũng có nhiều chuyện đáng băn khoăn. Thỉnh thoảng tớ cảm thấy làm người lớn khiến tớ run sợ, và sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì để trở lại thành một cô bé.”
“Tớ cho rằng từ từ thì chúng ta cũng sẽ quen với việc là người lớn thôi,” Anne vui vẻ nói. “Sẽ không có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra nữa, dẫu tớ vẫn ngờ rằng chính những điều bất ngờ mới là thứ đem lại gia vị cho cuộc đời. Chúng ta mười tám tuổi rồi, Diana ạ. Hai năm nữa chúng ta sẽ hai mươi. Hồi mười tuổi, tớ nghĩ hai mươi là già lắm rồi. Chẳng bao lâu nữa, cậu sẽ là một bà nội trợ đứng tuổi trầm tính, còn tớ sẽ là dì Anne, cô gái già hiền hậu hay đến thăm cậu vào các dịp lễ. Cậu sẽ luôn chừa một góc nhà cho tớ, phải không Di yêu dấu? Đương nhiên không phải là phòng dành cho khách rồi, các cô gái già làm gì đủ tiêu chuẩn bước vào đó, tớ sẽ ‘khúm núm’ y hệt Uriah Heep[2] và hài lòng với căn gác xép ọp ẹp hay căn phòng chứa đồ đằng sau phòng khách.”
[2]. Nhân vật trong cuốn tiểu thuyết David Copperfield của Charles Dickens, có tính khúm núm, xun xoe, khiêm nhường giả tạo.
“Cậu nói chuyện nhảm nhí quá đi, Anne ạ,” Diana phá lên cười. “Cậu sẽ cưới một chàng trai vừa tuyệt vời, vừa đẹp trai, vừa giàu có, và chẳng có căn phòng dành cho khách nào ở Avonlea đủ hào nhoáng cho cậu đâu, và cậu sẽ hất mũi cười nhạo vào đám bạn cũ của cậu.”
“Thật đáng tiếc, cái mũi của tớ đẹp thế này, nhưng cứ hất mũi lên hoài thì sẽ mất đẹp đi,” Anne vỗ vỗ vào cái mũi đẹp dáng của mình. “Tớ không có bao nhiêu ưu điểm để mà hoang phí, cho nên dẫu có cưới ông hoàng của đảo Ăn thịt người thì tớ hứa tớ cũng không hất mũi lên cười nhạo cậu đâu, Diana ạ.”
Phá lên cười rộn rã thêm lần nữa, hai cô gái chia tay nhau. Diana về lại Dốc Vườn
Quả, Anne đi bộ đến bưu điện. Cô thấy có một lá thư đang chờ mình ở đó, và khi Gilbert Blythe bắt gặp cô trên cây cầu bắc qua hồ Lấp Lánh, cô đang hớn hở trước tin bất ngờ mà nó đem lại.
“Priscilla Grant cũng đến Redmond đấy,” cô kêu lên. “Có tuyệt vời không? Tớ cứ mong là cậu ấy sẽ đi, nhưng cậu ấy sợ ba không đồng ý. Nhưng giờ thì ba cậu ấy đồng ý rồi, và bọn tớ sẽ thuê nhà cùng ở với nhau. Tớ cảm thấy tớ có thể đối diện với cả một đạo quân đầy gươm giáo - hay một binh đoàn khủng khiếp gồm tất cả các giáo sư của Redmond nếu có người bạn thân như Priscilla bên cạnh.”
“Tớ nghĩ chúng ta sẽ thích Kingsport,” Gilbert nói. “Ai cũng nói đó là một thị trấn cổ dễ thương, và có khu bảo tồn thiên nhiên đẹp nhất thế giới. Nghe nói phong cảnh ở đó hết sức ấn tượng.”
“Tớ tự hỏi liệu nó có - nó có thể - đẹp hơn thế này không,” Anne lẩm bẩm, nhìn quanh với đôi mắt yêu thương thán phục của những người luôn cho rằng “quê nhà” là nơi chốn tuyệt vời nhất trên đời, dẫu có bao nhiêu vùng đất diệu kỳ khác nơi những tinh cầu xa xôi.
Bọn họ tựa vào cây cầu cũ vắt ngang hồ nước, thu vào tầm mắt vẻ đẹp mê hồn của buổi chiều tà, ở đúng nơi Anne trèo ra khỏi con thuyền đáy bằng đang chìm vào ngày Elaine trôi xuống Camelot. Màu đỏ tía dịu dàng của nắng chiều vẫn rọi sáng bầu trời phía Tây, nhưng trăng đang mọc và mặt nước lặng yên như một giấc mơ bạc mênh mông dưới ánh trăng. Hoài niệm tựa như bùa mê ngọt ngào và huyền ảo quấn lấy hai người trẻ tuổi.
“Cậu yên lặng quá, Anne à,” cuối cùng Gilbert cũng lên tiếng.
“Tớ sợ không dám lên tiếng hay cử động, để tránh cho vẻ đẹp tuyệt vời này khỏi
biến mất khi bầu yên lặng bị phá tan,” Anne thở hắt ra.
Gilbert đột nhiên đặt tay lên bàn tay trắng muốt thon thả đang tựa hờ lên thành cầu. Đôi mắt nâu nhạt của anh thẫm lại, đôi môi vẫn còn non nớt mở ra định nói đến giấc mơ và niềm hy vọng đang rạo rực trong tâm hồn. Nhưng Anne rút mạnh tay ra và quay vội đi. Phép màu của chiều tà không còn tác dụng với cô nữa.
“Tớ phải về nhà thôi,” cô kêu lên với vẻ vô tâm khá là giả tạo. “Bác Marilla bị nhức đầu từ chiều, và tớ tin chắc là hai đứa sinh đôi đã kịp bày trò khủng khiếp gì nữa đây. Lẽ ra tớ không nên rong chơi lâu quá thế này.”
Cô nói huyên thuyên không ngừng cho đến khi họ đi tới lối vào Chái Nhà Xanh. Gilbert đáng thương chẳng có cơ hội mở miệng nói xen vào tiếng nào. Anne cảm thấy nhẹ người hẳn khi họ chia tay. Tim cô bỗng cảm nhận một sự e dè mới mẻ kỳ lạ đối với Gilbert kể từ thoáng thấu hiểu trong khu vườn Nhà Vọng. Có thứ gì đó xa lạ đã xâm nhập vào tình bạn lâu năm hoàn hảo thời đi học - thứ gì đó đang đe dọa phá vỡ nó đi.
“Trước đây mình chưa bao giờ cảm thấy vui khi tiễn Gilbert,” cô nghĩ bụng, nửa hối hận, nửa âu sầu trong lúc bước dọc theo lối đi. “Tình bạn của bọn mình sẽ mất đi nếu cậu ấy cứ làm những điều vớ vẩn như thế. Nó sẽ không mất đi được, mình sẽ không để cho điều đó xảy ra đâu. Ôi, tại sao bọn con trai không thể lý trí một chút chứ!”
Anne rối bời nhận ra cảm giác ấm áp lúc này vẫn đang rõ mồn một trên tay cô y như trong thoáng ngắn ngủi Gilbert đặt tay lên chẳng thể nào gọi là lý trí được, và một thực tế còn ít lý trí hơn nữa là cảm giác đó chẳng hề khó chịu chút nào, hoàn toàn khác hẳn khi Charlie Sloane làm điều tương tự lúc hai người ngồi chầu rìa trong buổi vũ hội ở White Sands ba ngày trước đây. Anne rùng mình nhớ lại cảm giác khó chịu khi ấy. Nhưng mọi rắc rối liên quan đến những chàng trai say men tình ái bay mất sạch khi cô bước vào bầu không khí ấm cúng chất phác của căn bếp Chái Nhà Xanh, nơi một cậu bé tám tuổi đang khóc nức nở trên ghế dựa.
“Chuyện gì vậy Davy?” Anne ôm lấy cậu bé. “Bác Marilla và Dora đâu rồi?”
“Bà Marilla cho Dora đi ngủ,” Davy nức nở, “cháu khóc là bởi vì Dora trượt chân ngã lộn vòng ở bậc thang ngoài trời dẫn xuống tầng hầm, mũi bị xước hết cả da và...”
“Ôi, thôi đừng khóc nữa cưng à. Đương nhiên là cháu thương em, nhưng khóc lóc cũng chẳng giúp gì cho em được. Mai là em sẽ ổn thôi. Khóc chẳng có tác dụng gì cả, nhóc Davy à, và...”
“Cháu có khóc vì Dora bị té đâu,” Davy cắt ngang lời thuyết giảng thiện ý của Anne với giọng mỗi lúc một chua chát. “Cháu khóc vì không được tận mắt nhìn nó té. Cháu lúc nào cũng bỏ lỡ những dịp vui vẻ, hình như thế.”
“Ôi, Davy!” Anne cố nhịn để không phá ra cười sằng sặc rất không đứng đắn. “Nhìn Dora tội nghiệp bé bỏng trượt té và bị thương thì vui vẻ lắm sao?”
“Nó có bị nặng đâu,” Davy bào chữa. “Đương nhiên, nếu nó chết thì cháu sẽ buồn lắm, cô Anne à. Nhưng người họ Keith chẳng dễ chết đâu. Giống như mấy người nhà Blewett vậy, cháu nghĩ thế. Thứ tư tuần trước Herb Blewett ngã từ vựa cỏ khô xuống, lăn thẳng qua chỗ trút củ cải vào máng ăn, nơi họ nuôi một con ngựa vừa hung hãn vừa khó thuần, rồi lăn ngay xuống dưới chân con ngựa ấy nữa. Ấy thế mà anh ta vẫn sống nhăn chỉ bị gãy có ba cái xương. Bà Lynde nói có nhiều người dùng dao phay chém cũng chẳng chết. Mai bà Lynde sẽ tới đây phải không cô Anne?”
“Đúng rồi, Davy ạ, và cô mong là cháu sẽ luôn ngoan ngoãn và đối xử tốt với bà ấy.”
“Cháu sẽ ngoan và cư xử đàng hoàng. Nhưng liệu mỗi tối bà ấy có cho cháu đi ngủ không cô Anne?”
“Có thể. Thì sao?”
“Bởi vì,” Davy quả quyết, “nếu bà ấy cho cháu đi ngủ, cháu sẽ không cầu nguyện trước mặt bà ấy như vẫn làm với cô Anne đâu.”
“Vì sao?”
“Vì cháu nghĩ không nên nói chuyện với Chúa trước mặt người lạ như thế, cô Anne ạ. Dora muốn làm sao thì làm, nhưng cháu thì đừng hòng. Cháu sẽ đợi bà ấy đi rồi mới cầu nguyện. Vậy có được không hở cô Anne?”
“Được, nếu cháu chắc là cháu sẽ không quên cầu nguyện, Davy ạ.”
“Ồ, cháu không quên đâu, thề luôn. Cháu thấy cầu nguyện rất vui. Nhưng cầu nguyện một mình thì chẳng vui như khi cầu trước mặt cô. Cháu ước gì cô ở nhà hoài, cô Anne ơi. Cháu chẳng biết cô ra đi bỏ rơi mọi người như thế để làm cái gì nữa.”
“Không hẳn là cô muốn đi, Davy ạ. Nhưng cô nghĩ là cô nên đi.”
“Nếu không muốn thì cô chẳng cần làm làm gì. Cô là người lớn mà. Cháu mà lớn rồi ấy, cháu sẽ chẳng bao giờ làm chuyện cháu không muốn đâu, cô Anne ơi.”
“Davy ạ, rồi có lúc trong đời cháu sẽ thấy cháu phải làm nhiều việc mà cháu không muốn.”
“Không đâu,” Davy nói thẳng. “Cứ thử ép cháu xem! Giờ thì cháu phải làm những việc cháu không muốn, bởi vì cô và bà Marilla bắt cháu đi ngủ nếu cháu không chịu đi. Nhưng khi cháu lớn rồi thì cô không làm vậy được nữa, và chẳng ai chỉ trỏ gì cháu nữa. Lúc đó thì sướng biết bao! Cô Anne ơi, Milty Boulter kể mẹ nó nói cô đi học đại học để kiếm chồng. Phải vậy không cô Anne? Cháu muốn biết.”
Trong một thoáng, Anne bừng bừng tức giận. Rồi cô phá lên cười, tự dặn lòng rằng những suy nghĩ và lời nói dung tục của bà Boulter chẳng thể làm cô tổn thương được.
“Không, không phải vậy, Davy ạ. Cô sẽ đi học, trưởng thành và hiểu biết nhiều điều.”
“Điều gì cơ?”
“‘Giày, thuyền và xi gắn. Cùng bắp cải và các vị vua.’”[3]
Anne ngâm nga.
[3]. Bài thơ Hải mã và thợ giày của Lewis Carroll.
“Nhưng nếu cô muốn kiếm chồng thì cô làm thế nào? Cháu muốn biết,” Davy lằng nhằng, rõ ràng chủ đề này khá hấp dẫn cậu.
“Cháu đi mà hỏi bà Boulter ấy,” Anne buột miệng. “Có vẻ bà ấy biết nhiều hơn cô.” “Lần sau gặp cháu sẽ hỏi,” Davy nghiêm túc đáp.
“Davy! Liệu hồn!” Anne kêu lên, nhận ra mình đã sai lầm.
“Nhưng cô vừa bảo cháu làm thế mà,” Davy bực tức phản đối.
“Đến giờ đi ngủ rồi đó,” Anne tuyên bố để thoát khỏi trò nhì nhằng của cu cậu.
Sau khi Davy đi ngủ, Anne vẩn vơ đi xuống đảo Victoria và ngồi đó một mình, ánh trăng mịn màng bao phủ lấy cô, làn nước cười khúc khích quanh cô trong bản đồng ca suối và gió. Anne lúc nào cũng yêu dòng suối đó. Trong những tháng ngày qua, cô đã dệt bao nhiêu giấc mơ trên làn nước lấp lánh. Cô quên đi những cậu trai si tình sầu muộn, quên lời xỉa xói của những người láng giềng ác ý cũng như mọi rắc rối trong cuộc đời con gái của mình. Trong tưởng tượng, cô giương buồm đi giữa vùng biển cổ tích, nơi sóng dạt vào bờ biển óng ánh của “vùng đất thần tiên trơ trọi”, nơi lục địa Atlantis và Elysium tồn tại ngoài thế giới, có sao Hôm làm hoa tiêu, đi tới miền đất Trái Tim Khao Khát. Và trong những giấc mơ đó, cô giàu có hơn hẳn thực tế, vì những gì ta thấy đều trôi đi, còn những gì mắt không thấy được luôn tồn tại mãi mãi.
Chương 2: Vòng hoa mùa thu
Tuần tiếp đó trôi qua nhanh, dồn dập bởi vô số “việc cuối cùng” như Anne vẫn hay gọi. Phải đi viếng thăm chia tay và đón khách ở nhà, tuy nhiên thoải mái hay không là tùy theo khách hay chủ có nồng nhiệt thông cảm với ước mơ của Anne hay không, hay lại nghĩ cô quá chảnh vì chuyện đi học đại học và cho rằng nhiệm vụ của họ là phải “kéo cô trở về mặt đất” một tí.
Hội Cải tạo Làng quê tổ chức tiệc chia tay Anne và Gilbert vào một buổi tối ở nhà Josie Pye, họ chọn nơi đó một phần vì nhà ông Pye khá rộng và tiện, một phần bởi vì ai cũng nghi ngờ mấy cô nàng nhà Pye sẽ không thèm tham gia nếu mọi người không chấp nhận lời đề nghị cho mượn nhà tổ chức tiệc của họ. Khoảng thời gian ngắn ngủi đó khá dễ chịu, vì mấy cô họ Pye tỏ ra lịch thiệp, không làm gì hay nói gì ảnh hưởng đến không khí hài hòa của buổi họp mặt - một điều hiếm thấy ở họ. Josie thân thiện khác thường - đến mức cô nàng còn trịch thượng nói với Anne:
“Cái váy mới khá hợp với cậu đấy, Anne ạ. Thực đấy, cậu trông có vẻ xinh đẹp khi mặc nó.”
“Cậu thật dễ thương khi nói thế,” Anne đáp với ánh mắt lấp lánh. Khiếu hài hước của cô ngày càng tiến bộ, những lời nói từng làm cô tổn thương hồi mười bốn tuổi giờ chỉ là trò giải trí cho cô mà thôi. Josie nghi ngờ Anne đang giấu tiếng cười chế nhạo phía sau đôi mắt tinh quái, nhưng cô nàng tạm hài lòng với việc chỉ thì thầm với Gertie lúc đi xuống cầu thang, rằng Anne Shirley càng lúc càng chảnh khi biết sắp đi học đại học, cứ nhìn xem thì biết!
Cả đám “bạn lâu năm” đều có mặt, cười đùa phấn khởi, tràn đầy sự vô tư lự của tuổi trẻ. Diana Barry, má lúm đồng tiền hồng hào, luôn được chàng Fred trung thành bám dính đằng sau, Jane Andrews, gọn gàng, thực tế và giản dị, Ruby Gillis nhìn hết sức xinh đẹp và sáng sủa trong chiếc áo lụa màu kem và hoa phong lữ đỏ cài trên tóc,
Gilbert Blythe và Charlie Sloane, cả hai đều cố hết sức xán lại gần cô nàng Anne đang lẩn như chạch, Carrie Sloane nhìn xanh xao và buồn thảm, vì nghe đồn là ba cô nàng không cho Oliver Kimball tiếp cận, Moody Spurgeon MacPherson, khuôn mặt tròn và đôi tai vểnh trông vẫn tròn và vểnh như thuở nào, Bill Andrews ngồi trong góc suốt cả buổi tối, cười khùng khục mỗi khi có ai bắt chuyện, quan sát Anne Shirley với nụ cười toe toét trên khuôn mặt rộng lấm tấm tàn nhang.
Anne biết là sẽ có tiệc, nhưng cô không ngờ rằng cô và Gilbert, với vai trò là người sáng lập hội, sẽ được tặng quà một cách “trân trọng” với những lời “tán tụng” chân thành. Quà của cô là cuốn tuyển tập kịch Shakespeare, còn Gilbert là một cây bút mực. Cô thật bất ngờ và cảm động khi lắng nghe những lời lẽ tốt lành trong bài diễn văn tán tụng, được đọc bởi giọng trang nghiêm y hệt mục sư của Moody Spurgeon, đến nỗi nước mắt thiếu điều đã nhấn chìm ánh lấp lánh trong đôi mắt xám to của cô. Cô đã tích cực hoạt động cho Hội Cải tạo, mọi ngóc ngách trong tim cô đều ấm áp khi thấy các thành viên đánh giá cao nỗ lực của mình một cách chân thành đến thế. Và mọi người ai cũng dễ thương, thân thiện và vui vẻ, ngay cả đám con gái nhà Pye cũng có ưu điểm riêng, vào lúc ấy, Anne yêu toàn thể thế giới.
Cả buổi tối Anne rất vui, nhưng cuối buổi suýt nữa lại làm hỏng tất cả. Gilbert một lần nữa lại phạm sai lầm khi nói vài lời sướt mướt với cô khi họ ăn tối ngoài hiên dưới ánh trăng, và Anne trừng phạt anh bằng cách cư xử hòa nhã với Charlie Sloane và cho phép cậu chàng đưa mình về nhà. Nhưng rồi cô phát hiện ra rằng việc trả thù chỉ khiến bản thân người trả thù đau đớn nhất mà thôi. Gilbert ung dung đi về với Ruby Gillis, và Anne có thể nghe thấy tiếng họ vừa cười đùa trò chuyện vừa la cà trên đường trong bầu không khí tĩnh lặng se se lạnh của mùa thu. Rõ ràng họ hết sức vui vẻ, trong khi cô bị Charlie Sloane làm cho buồn chán đến chết đi được, anh chàng cứ huyên thuyên không dứt, và chẳng bao giờ, dù cố ý hay vô ý, nói được điều gì đáng lắng nghe. Anne lơ đãng nói vài ba tiếng “ừ”, “không” và luôn nghĩ tới vẻ đẹp của Ruby tối hôm đó, cùng với đôi mắt trợn tròn của Charlie dưới ánh trăng - trông còn tệ hơn lúc ban ngày nữa - và cảm thấy thế giới này dường như không tươi đẹp như cô từng nghĩ lúc đầu.
“Mình chỉ mệt chút thôi, vấn đề là ở chỗ đó,” cô nói, vui mừng vì được ở một mình trong phòng riêng. Và cô thành thật tin điều đó. Nhưng chiều hôm sau, một dòng cảm xúc vui sướng nhỏ nhoi tuôn trào trong trái tim cô, như thể tràn ra từ nguồn suối bí mật vô danh nào đó, khi cô nhìn thấy Gilbert sải chân băng qua rừng Ma Ám, vượt
qua cây cầu gỗ với những bước đi thoăn thoắt và tự tin. Vậy là cuối cùng, Gilbert cũng không đến chơi với Ruby Gillis vào buổi tối cuối cùng này!
“Nhìn cậu mệt mỏi đấy, Anne ạ,” anh nói.
“Tớ mệt, và còn tệ hơn nữa, tớ đang bất mãn đây. Tớ mệt vì phải đóng hành lý và khâu vá suốt cả ngày. Nhưng tớ bất mãn vì có tới sáu phụ nữ hôm nay đến đây chào tạm biệt tớ, và ai cũng đều tìm ra câu gì đó để quét sạch mọi màu sắc ra khỏi cuộc đời, khiến cho nó xám xịt, ỉu xìu và âm u như một buổi sáng tháng Mười một.”
“Đám mèo già hằn học ấy mà!” Gilbert tao nhã bình luận.
“Ồ không, bọn họ không có ý xấu,” Anne nghiêm túc cải chính. “Đó mới là vấn đề. Nếu bọn họ chỉ là mèo già hằn học thì tớ chẳng thèm để ý đâu. Nhưng họ lại là những người dễ thương, tốt bụng, đầy mẫu tính, họ thương tớ, tớ cũng thương họ, và đó là lý do mà những điều họ nói, hay ám chỉ, lại trĩu nặng trong lòng tớ. Họ cho tớ hiểu là họ nghĩ tớ thật điên khùng khi đi Redmond học đại học, và cho tới giờ tớ đang tự hỏi có phải tớ điên khùng thật không. Bà Peter Sloane thở dài nói là bà hy vọng tớ đủ sức chống chọi tới cùng, và ngay lập tức, tớ tưởng tượng mình là nạn nhân vô vọng của chứng kiệt quệ tinh thần vào cuối năm thứ ba; bà Eben Wright nói là học trọn bốn năm ở Redmond thì hao tiền khủng khiếp, và tớ cảm thấy ngay tắp lự rằng tớ không đáng được tha thứ khi vung vít tiền của mình và bác Marilla cho những trò vô bổ như thế. Bà Jasper Bell nói bà hy vọng tớ sẽ không bị hỏng người vì đại học như nhiều kẻ khác, và tớ nhận ra từ tận xương tủy rằng cuối năm thứ tư ở Redmond tớ sẽ trở thành một sinh vật khó chịu nhất trên đời, nghĩ là mình biết tuốt, coi thường mọi vật và mọi người ở Avonlea; bà Elisha Wright nói rằng theo bà biết các cô gái học ở Redmond, nhất là những người sống ở Kingsport, ‘ăn mặc hết sức thời trang và chảnh chọe’, bà đoán là tớ sẽ cảm thấy cô độc khi ở với bọn họ, và thế là tớ nhìn thấy mình, con bé nhà quê ăn mặc luộm thuộm, bị xa lánh và coi thường, lê bước trên hành lang kiểu cổ trường Redmond trong đôi bốt màu đồng.”
Anne kết thúc bằng một nụ cười xen lẫn tiếng thở dài. Với bản tính nhạy cảm, mọi lời phản đối đều đè nặng trong cô, dẫu đó là lời phản đối của những người cô vốn không đánh giá cao về mặt khuyên bảo cho lắm. Ngay vào lúc này, cuộc đời thật vô vị, mọi tham vọng đã tắt phụt như đèn cạn dầu.
“Cậu hẳn là không quan tâm tới những điều họ nói chứ,” Gilbert phản đối. “Cậu biết rõ họ có tầm nhìn hạn hẹp thế nào mà, dẫu họ có là người tốt tới đâu đi nữa. Làm chuyện gì mà họ chưa bao giờ làm, đều là phản lại Chúa trời. Cậu là cô gái Avonlea đầu tiên đi học đại học, và cậu biết đấy, những người tiên phong đều bị cho là mắc bệnh hoang tưởng cả.”
“Ồ, tớ biết chứ. Nhưng cảm thấy thì khác hẳn với nhận thấy. Lý trí của tớ khuyên tớ y như cậu vừa nói, nhưng có lúc lý trí cũng phải bó tay. ‘Vô lý trí’ đã chiếm lấy toàn bộ linh hồn của tớ rồi. Thật đó, sau khi bà Elisha đi rồi, tớ chẳng còn tinh thần nào gói ghém đồ đạc cho xong nữa.”
“Cậu chỉ mệt mỏi chút thôi, Anne ạ. Đi nào, quên hết mọi thứ và đi dạo với tớ đi, làm một chuyến ngao du trong rừng phía bên kia đầm lầy. Có lẽ sẽ có một thứ mà tớ muốn cậu nhìn thấy đấy.”
“Có lẽ? Cậu không biết chắc à?”
“Không. Tớ chỉ biết là có lẽ nó sẽ có ở đó, nhờ một thứ khác tớ bắt gặp hồi mùa xuân. Đi nào. Chúng ta sẽ vờ như chúng ta trở lại thành hai đứa trẻ, và đi theo lối mòn của gió.”
Hai người vui vẻ lên đường. Anne nhớ lại những bực dọc tối qua nên cư xử rất dễ thương với Gilbert, và Gilbert khôn ngoan, cố không nói gì khác ngoài việc bày tỏ tình bạn bè như trước. Bà Lynde và Marilla dõi theo họ từ cửa sổ nhà bếp.
“Một cặp tương lai đấy,” bà Lynde tỏ vẻ tán đồng.
Bà Marilla hơi cau mày. Trái tim bà cũng hy vọng thế, nhưng phải nghe giọng bà tám của bà Lynde khẳng định trần trụi thế thì quá sức chịu đựng của bà.
“Chúng còn là con nít,” bà gắt.
Bà Lynde cười hiền hòa.
“Anne mười tám tuổi rồi, hồi tuổi đó thì tôi đã lấy chồng. Những người già như chúng ta, Marilla ạ, hay có thói quen nghĩ rằng đám con nít chả bao giờ lớn lên, thế đấy. Anne là một thiếu nữ, Gilbert là một người đàn ông, cậu ta tôn thờ từng miếng đất con bé đặt chân lên, ai cũng thấy thế cả. Cậu ta là một chàng trai tốt, Anne chẳng kiếm
ai hơn được đâu. Tôi hy vọng con bé sẽ không yêu đương vớ vẩn ở Redmond. Tôi không thích nam nữ học chung một chỗ, chẳng bao giờ cả, thế đấy. Tôi chẳng tin nổi,” bà Lynde long trọng kết luận, “rằng đám sinh viên ở mấy trường đại học đó làm được chuyện gì khác ngoại trừ đi tán tỉnh nhau.”
“Chắc bọn họ cũng học hành chút ít chứ,” bà Marilla mỉm cười.
“Tí tẹo thôi,” bà Rachel khịt mũi. “Dù sao thì tôi cũng tin là Anne sẽ học đàng hoàng. Con bé không có thói trăng hoa. Nhưng con bé không đánh giá đúng giá trị của Gilbert, thế đấy. Ôi, tôi biết tỏng mấy cô nàng mà! Charlie Sloane cũng mê con bé tít thò lò, nhưng tôi thì không bao giờ khuyên nó cưới một người họ Sloane. Nhà Sloane ai cũng tử tế, trung thực và đáng kính trọng, đương nhiên. Nhưng nói gì thì nói, bọn họ Sloane chết đi được.”
Bà Marilla gật đầu. Với người ngoài, câu nói người nhà Sloane thì Sloane lắm không dễ dàng hiểu được, nhưng bà thì hiểu. Ngôi làng nào cũng có một gia đình như vậy, tốt, trung thực và đáng trọng, có thể là thế, nhưng họ luôn luôn rất là Sloane, dẫu nói chuyện bằng các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần[4].
[4]. Tân ước, Thư 1 gửi tín hữu Corinth: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.”
Không hề biết chuyện tương lai của mình đã được sắp xếp đâu vào đó dưới miệng bà Rachel, Gilbert và Anne vui vẻ thơ thẩn đi dưới bóng cây trong rừng Ma Ám. Bên ngoài, những ngọn đồi thu hoạch xong đang tắm mình trong ánh chiều hổ phách, dưới bầu trời nhạt nhòa nhẹ bỗng nửa hồng nửa xanh. Những cụm vân sam đằng xa ánh nâu bóng loáng, đổ bóng dài thượt đan xen trên đồng cỏ trên cao. Nhưng xung quanh họ, một ngọn gió nhẹ cất tiếng hát giữa những chùm linh sam, và trong tiếng hát vang lên giai điệu mùa thu.
“Khu rừng này giờ đã thực sự có ma rồi, những bóng ma kỷ niệm,” Anne cúi xuống hái một nhành dương xỉ đã bị sương giá nhuộm trắng như sáp. “Dường như hai cô bé là Diana và tớ vẫn còn hay chơi ở đây, ngồi bên bờ suối Bong Bóng Nữ Thần Rừng dưới ánh chạng vạng, hẹn hò với các hồn ma. Cậu biết không, tớ chẳng thể nào đi trên con đường này dưới ánh chiều mà không cảm thấy một chút run rẩy và sợ hãi thuở xưa. Có một bóng ma đặc biệt đáng sợ mà bọn tớ đã nghĩ ra, bóng ma của đứa bé bị giết, chuyên rón rén tới sau lưng cậu và đặt những ngón tay lạnh giá lên tay cậu. Thú thật là cho tới tận bây giờ, tớ vẫn không thể không tưởng tượng ra tiếng chân khẽ khàng lén lút của nó sau lưng mỗi khi tớ qua đây vào buổi tối. Tớ không sợ Quý Bà Áo Trắng hay người đàn ông không đầu hay những bộ xương khô, nhưng ước gì tớ đã không tưởng tượng ra bóng ma đứa bé ấy. Bác Marilla và bà Barry đã giận điên lên khi nghe bọn tớ kể lại,” Anne kết luận cùng với nụ cười hoài niệm.
Cánh rừng đầu đầm lầy chi chít những vệt sáng màu tím nhạt đan xen với tơ nhện.
Đi qua một đồn điền ủ rũ đầy vân sam xương xẩu rồi một thung lũng ấm hơi nắng có cây thích viền quanh, họ nhìn thấy được “một thứ” mà Gilbert đang tìm.
“À, nó đây rồi,” anh kêu lên thỏa mãn.
“Một cây táo, ở tận đây cơ à!” Anne kêu lên sung sướng.
“Đúng vậy, một cây táo trĩu đầy quả táo chính hiệu, ở giữa rừng thông và sồi, cách vườn cây ăn trái cả dặm. Mùa xuân rồi tớ có ghé qua đây và nhìn thấy nó, trắng muốt đầy hoa. Thế là tớ quyết định sẽ quay lại vào mùa thu xem nó có đậu quả không. Nhìn này, quả trĩu trịt. Nhìn cũng ngon nữa, ngả màu nâu như táo da nâu nhưng vỏ màu đỏ sậm. Táo dại thì thường xanh lè chẳng hấp dẫn gì.”
“Có lẽ nó nảy mầm từ một hạt giống tình cờ nào đó cách đây nhiều năm,” Anne mơ màng. “Và nó đã lớn lên, đơm hoa kết trái, tự lập vững vàng giữa những kẻ xa lạ, đúng là một cái cây hết sức dũng cảm và kiên cường!”
“Ở đây có một thân cây gãy với lớp nệm rêu này. Ngồi xuống đi Anne, chẳng kém gì ngai vàng rừng núi đâu. Tớ sẽ leo lên hái vài trái táo. Chúng đều mọc tít trên cao cả, cây phải ráng ngoi lên để lấy ánh nắng mà.”
Mấy trái táo quả thật ngon tuyệt. Dưới lớp vỏ rám nắng là ruột táo trắng muốt có lẫn gân đỏ, và bên cạnh vị táo, chúng còn có một mùi đặc trưng vừa hoang dã vừa thú vị mà chẳng trái táo nhà nào có được.
“Trái táo định mệnh ở vườn Địa Đàng cũng chẳng có vị đặc biệt hơn thế này đâu,” Anne bình luận. “Nhưng đến lúc chúng ta phải về nhà rồi. Nhìn kìa, mới cách đây ba
phút vẫn còn chạng vạng, giờ thì trăng đã lên rồi. Thật tiếc là ta không nắm bắt được phút giao thời. Nhưng những giây phút như thế thì chẳng thể nào nắm bắt được, tớ nghĩ thế.”
“Chúng ta vòng qua đầm lầy về nhà theo đường Tình Nhân đi. Cậu có còn cảm thấy bất mãn như lúc khởi hành nữa không Anne?”
“Không đâu. Những trái táo đó đúng là nguồn sinh lực cho một linh hồn đói khát. Tớ cảm thấy mình sẽ yêu quý Redmond và sống bốn năm tuyệt vời ở đó.”
“Và sau bốn năm đó thì thế nào?”
“Ồ, sẽ là một khúc quanh nữa thôi,” Anne trả lời một cách ơ hờ. “Tớ chẳng biết đằng sau nó là gì, tớ cũng chẳng cần biết. Không biết thì tốt hơn mà.”
Tối đó đường Tình Nhân thật thân thương, yên tĩnh và mờ ảo một cách bí ẩn dưới ánh trăng nhạt nhòa lấp lánh. Họ thơ thẩn đi dọc con đường trong sự tĩnh lặng thân thiết và dễ chịu, chẳng ai buồn cất tiếng.
“Nếu Gilbert lúc nào cũng cư xử như tối nay thì mọi việc sẽ tốt đẹp và đơn giản biết mấy,” Anne nghĩ bụng.
Gilber nhìn Anne khi cô bước đi. Trong chiếc váy nhẹ, dáng vóc thanh mảnh tinh tế, cô khiến anh nghĩ tới một đóa diên vĩ trắng.
“Chẳngbiếtmìnhcóbaogiờkhiếnnàngnghĩđếnmìnhđượchaykhôngnữa,”tim anhnhóilên.
Chương 3: Chào đón và tạm biệt
Charlie Sloane, Gilbert Blythe và Anne Shirley rời Avonlea vào sáng thứ Hai tuần sau đó. Anne cứ hy vọng trời đẹp. Theo dự định, Diana sẽ đánh xe đưa cô ra ga, và hai cô gái muốn chuyến đi chung cuối cùng trong thời gian tới sẽ là một chuyến đi dễ chịu. Nhưng khi Anne đi ngủ vào tối Chủ nhật, gió Đông rên rỉ quanh Chái Nhà Xanh mang lại lời tiên đoán đen tối được chứng thực vào sáng hôm sau. Anne thức dậy trong tiếng mưa tạt lộp độp vào cửa sổ, những giọt mưa phủ lên mặt hồ xám xịt những vòng sóng mở rộng, các ngọn đồi và biển chìm trong sương mù, cả thế giới dường như đều thảm đạm và bi thương. Anne thay quần áo trong ánh bình minh u ám buồn bã, vì cô phải đi sớm cho kịp chuyến tàu ra bến phà. Cô cố gắng nén những giọt lệ cứ mãi dâng trào trong mắt trái với ý muốn của cô. Cô sắp rời căn nhà quá ư thân thiết với mình, và có điều gì đó cho cô biết rằng cô sẽ rời xa nó mãi mãi, ngoại trừ những dịp lễ tết ngắn ngủi. Mọi thứ sẽ chẳng bao giờ trở lại như xưa, trở về mỗi dịp nghỉ khác hẳn với thực sự sống ở đó. Và ôi, mọi thứ gần gũi và đáng yêu biết chừng nào - căn phòng nhỏ bé màu trắng trên gác xép, đối tượng tôn sùng trong những giấc mơ thời con gái, cây táo Nữ Hoàng Tuyết ngoài cửa sổ, con lạch nơi thung lũng, suối Bong Bóng Nữ Thần Rừng, rừng Ma Ám, đường Tình Nhân, ngàn lẻ một nơi chốn chất đầy kỷ niệm thời xưa cũ. Liệu cô có thể thực sự hạnh phúc ở bất cứ nơi nào khác không?
Bữa sáng ở Chái Nhà Xanh hôm đó là một bữa ăn sầu thảm. Davy, có lẽ lần đầu tiên trong đời, không ăn nổi thứ gì mà chỉ rơi nước mắt lã chã lên món cháo đặc, không hề xấu hổ chút nào. Chẳng ai cảm thấy đói bụng, ngoại trừ Dora vẫn ăn hết sạch phần của mình. Dora, như nàng Charlotte bất tử, cực khôn ngoan, vẫn “tiếp tục cắt bánh mì và bơ” khi xác của người từng yêu nàng điên cuồng được khiêng qua cửa chớp[5], là loại người may mắn hiếm khi bị bất cứ chuyện gì làm ảnh hưởng. Dora mới tám tuổi, nhưng sự trầm tĩnh của cô bé không dễ bị phá vỡ. Cô bé đương nhiên buồn bã vì Anne đi xa, nhưng đó có phải lý do khiến cô không thể thưởng thức món trứng chần và bánh mì nướng không? Đương nhiên là không rồi. Và khi thấy Davy không ăn nổi, Dora bèn ăn giùm anh.
[5]. Ám chỉ nàng Charlotte trong tiểu thuyết Nỗi đau của chàng Werther của Goethe, nhân vật chính đã tự tử vì không hy vọng chiếm được tình yêu của nàng.
Thackeray viết một bài đoản thi châm biếm, miêu tả Charlotte điềm nhiên, thấy xác Werther được mang qua cửa sổ vẫn “tiếp tục cắt bánh mì và bơ”.
Đúng giờ, Diana xuất hiện trên xe ngựa kéo, khuôn mặt hồng hào rạng rỡ phía trên chiếc áo mưa. Giờ thì phải tìm cách nói lời tạm biệt rồi. Bà Lynde từ phòng mình bước ra ôm hôn Anne thắm thiết và nhắc cô nhớ giữ gìn sức khỏe cẩn thận, dù có làm gì đi nữa. Bà Marilla, khô khan chẳng có giọt lệ nào, hôn phớt lên má Anne và nói bà mong sẽ nhận được thư cô khi ổn định xong chỗ ở. Một người quan sát lơ là có thể kết luận là chuyến đi của Anne chẳng mấy ảnh hưởng đến bà, nhưng chỉ là khi người ấy không nhìn kỹ vào mắt bà thôi. Dora nghiêm trang hôn Anne và ráng nhỏ ra hai giọt nước mắt nhỏ xíu làm cảnh, nhưng Davy đã khóc nức nở ở hiên sau kể từ khi họ rời bàn ăn, nhất định không chịu nói lời tạm biệt. Khi thấy Anne đi về phía mình, cậu đứng bật dậy, chạy ào ào lên cầu thang phía sau, giấu mình trong một tủ áo và cương quyết không chịu ra ngoài. Tiếng gào khóc nghẹn ngào của cậu là âm thanh cuối cùng Anne nghe thấy khi rời khỏi Chái Nhà Xanh.
Trời mưa nặng hạt trên quãng đường đến ga Sông Bright, phải đi từ đó vì tuyến tàu xuất phát từ Carmody không liên thông với tàu ra phà. Charlie và Gilbert đã đợi ở sân ga khi họ tới nơi, và con tàu đã huýt còi ầm ĩ. Anne chỉ đủ thời giờ lấy vé và gửi hành lý, vội vàng nói lời tạm biệt với Diana rồi hấp tấp lên tàu. Cô ước mình có thể quay lại Avonlea cùng Diana, cô biết cô sẽ chết vì nhớ nhà mất. Và ôi chao, giá như cái cơn mưa buồn thảm này có thể dừng trút nước xuống cứ như cả thế giới đang khóc lóc vì mùa hè đã qua và niềm vui khuất bóng! Ngay cả sự có mặt của Gilbert cũng chẳng làm cô dễ chịu hơn, vì Charlie Sloane cũng có mặt ở đó, mà cái tính cách của họ nhà Sloane thì chỉ có thể chịu đựng nổi khi thời tiết tốt thôi. Trong cơn mưa thì hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Nhưng khi chiếc phà khởi hành rời khỏi bến cảng Charlottetown, mọi việc bắt đầu tốt đẹp hơn. Mưa tạnh và mặt trời thỉnh thoảng ló đầu ra vàng rực giữa những kẽ mây, phủ lên mặt biển xám xịt ánh hào quang màu đồng, thắp sáng đám sương mù phất phơ trên bờ biển đỏ bao quanh đảo bằng những tia vàng óng ánh, báo hiệu hôm nay rốt cuộc cũng là một ngày đẹp trời. Bên cạnh đó, Charlie Sloane bắt đầu bị say sóng kinh khủng đến mức phải đi xuống dưới, chỉ còn mình Anne và Gilbert đứng trên boong.
“Mình rất mừng là tất cả những người họ Sloane đều bị say sóng ngay khi đặt chân lên tàu,” Anne nghĩ có phần tàn nhẫn. “Mình chắc là mình không thể nào ngắm nhìn lần cuối ‘quê nhà’ nếu có Charlie đứng ngay đây giả vờ như cũng đang ngắm một cách đầy ủy mị.”
“Thế đấy, chúng ta lên đường rồi,” Gilbert nhận xét một cách chẳng hề ủy mị.
“Ừ, tớ cảm thấy như ‘Hiệp sĩ Harold’ của Byron ấy, chỉ có điều đây không phải thực sự là ‘nơi chôn nhau cắt rốn’ của tớ,” Anne không ngừng chớp chớp đôi mắt xám. “Tớ sinh ra ở Nova Scotia cơ. Nhưng nơi chôn nhau cắt rốn là nơi mà ta yêu quý nhất, và với tớ đó chính là đảo Hoàng Tử Edward thân thương. Không thể tin nổi là có lúc tớ từng sống ở đâu khác. Mười một năm ròng trước khi đến đây chẳng khác nào một giấc mơ buồn với tớ. Đã bảy năm rồi kể từ ngày tớ băng qua biển bằng con phà này, cái buổi chiều bà Spencer đưa tớ tới đây từ Hopetown. Tớ như còn nhìn thấy mình lúc đó, trong chiếc váy len cũ mèm và chiếc mũ thủy thủ bạc màu, đang háo hức tò mò thám hiểm boong phà và ca bin. Đó là một buổi chiều đẹp trời, và bãi biển màu đỏ của đảo mới lấp lánh làm sao dưới ánh mặt trời. Giờ tớ lại rời đi theo đường cũ. Ôi, Gilbert, tớ thực sự hy vọng mình sẽ thích Redmond và Kingsport, nhưng tớ biết là mình sẽ chẳng ưa chúng đâu!”
“Bao triết lý xử thế của cậu đâu mất hết rồi hả Anne?”
“Nó đã bị làn sóng cô đơn và nhớ nhà khổng lồ ẩm ướt đè bẹp rồi. Tớ mong mỏi suốt ba năm ròng để có cơ hội tới Redmond - và giờ tớ đã được đi - thế mà tớ ước giá như mình đừng đi! Thôi kệ! Tớ sẽ trở nên vui vẻ và biết điều trở lại sau khi khóc đã đời một trận. Nhất định phải khóc một trận, như là ‘truyền thống’ ấy mà, nhưng tớ phải đợi đến khi leo lên giường trong phòng trọ vào tối nay đã, dù nó ở chốn nào đi nữa. Rồi Anne sẽ trở lại là chính mình. Tớ tự hỏi không biết Davy đã chui ra khỏi tủ áo chưa.”
Chín giờ tối hôm ấy chuyến phà của bọn họ mới tới Kingsport, và họ thấy mình đứng giữa ánh trắng xanh lóa mắt từ cả trạm ga đông đúc. Anne cảm thấy lúng túng
không sao tưởng nổi, nhưng chỉ một giây sau cô đã bị tóm chặt trong tay Priscilla Grant, vừa mới tới Kingsport hôm thứ Bảy.
“Cậu đây rồi, bé cưng! Và tớ cho rằng cậu cũng mệt y chang tớ khi tớ tới đây vào tối thứ Bảy.”
“Mệt ấy à! Priscilla, đừng nhắc đến làm gì. Tớ mệt, nhớ nhà, quê mùa và chỉ mới có mười tuổi đời. Xin hãy rủ lòng thương đưa cô bạn nghèo khó tội nghiệp này đến nơi nào đó để cô nàng có thể lắng nghe được suy nghĩ của mình đi.”
“Tớ sẽ đưa ngay cậu đến nhà trọ của bọn mình. Tớ có xe đợi sẵn bên ngoài rồi.”
“Ơn Chúa vì có cậu ở đây, Prissy. Nếu không có cậu, tớ nghĩ tớ sẽ ngồi xuống va li, ngay vào lúc này, và khóc một cách chua chát. Một khuôn mặt thân quen đem lại biết bao an ủi giữa đám người xa lạ đáng sợ!”
“Gilbert Blythe ở đằng kia hả Anne? Năm nay cậu ấy cao lên nhiều quá! Khi tớ dạy ở Carmody thì cậu chàng chỉ mới là một tên học trò. À, còn có Charlie Sloane nữa kìa. Cậu ấy thì chẳng thay đổi gì, chẳng thể thay đổi gì! Khi mới sinh cũng bộ dạng như thế mà khi tám mươi tuổi cũng bộ dạng như thế. Lối này, cưng à. Chúng ta sẽ đến nhà trong hai mươi phút nữa.”
“Nhà ư!” Anne rên rỉ. “Ý cậu là chúng ta sẽ đến một căn nhà trọ khủng khiếp gì đó, trong căn phòng ngủ còn khủng khiếp hơn ở trong góc, nhìn ra sân sau bẩn thỉu.”
“Không hề là một căn nhà trọ khủng khiếp, cô bé Anne à. Đây là xe của chúng ta. Nhảy lên đi, anh đánh xe sẽ khuân rương cho cậu. Ồ, đúng rồi, nhà trọ, đó là một căn
nhà trọ khá dễ thương so với những chỗ khác, sáng mai cậu sẽ đồng ý như thế sau khi giấc ngủ nhuộm hồng cơn nhớ nhà của cậu. Đó là một căn nhà đá xám lớn kiểu cũ trên đường St. John, chỉ cách Redmond một thoáng đi bộ. Đó từng là ‘dinh thự’ của những người nổi tiếng thời thượng đã rời bỏ đường St. John, những căn nhà ở đó chỉ còn biết mơ đến những ngày tươi đẹp xưa cũ. Chúng rộng đến nỗi những người sống nơi đó phải cho thuê phòng chỉ nhằm làm cho căn nhà có sinh khí một chút. Ít nhất đó là lý do mà các bà chủ nhà vội vã muốn áp đặt cho bọn tớ. Khá là ngon mắt, Anne ạ, ý tớ là các bà chủ nhà của chúng ta ấy.”
“Có bao nhiêu bà?”
“Hai thôi. Cô Hannah Harvey và cô Ada Harvey. Họ là cặp song sinh được sinh ra vào khoảng năm mươi năm về trước.”
“Dường như tớ không thể thoát khỏi các cặp song sinh,” Anne mỉm cười. “Đi đâu tớ cũng đụng mặt họ cả.”
“Ồ, giờ thì họ không còn là một cặp song sinh nữa đâu, cưng ạ. Sau khi đến tuổi ba mươi thì họ chẳng còn là song sinh nữa. Cô Hannah già đi theo cái lối chẳng mấy yêu kiều, cô Ada thì vẫn mãi ba mươi tuổi, còn ít yêu kiều hơn nữa. Tớ chẳng biết cô Hannah có biết cười hay không, ít nhất thì tớ chả bắt gặp cô cười bao giờ, nhưng cô Ada thì lúc nào cũng cười, thế còn tệ hơn. Dù sao thì họ cũng là những người dễ thương tốt bụng, năm nào cũng nhận hai khách trọ vì bản tính tiết kiệm của cô Hannah không chịu nổi việc ‘lãng phí phòng ở’, chứ không phải bởi vì họ cần hay phải cho thuê, như cô Ada đã lặp lại với tớ cả bảy lần kể từ tối thứ Bảy. Về phòng của chúng ta thì, phải thú nhận là chúng đều nằm trong góc, và phòng tớ đúng là nhìn ra sân sau thật. Phòng của cậu ở đằng trước và nhìn ra nghĩa địa Cựu St. John, ngay ở bên kia đường thôi.”
“Nghe ớn quá,” Anne rùng mình. “Tớ nghĩ thà là nhìn sân sau còn hơn.”
“Ồ không đâu. Đợi mà xem. Nghĩa địa Cựu St. John là một nơi rất dễ thương. Nó cũ đến mức chẳng còn là nghĩa địa nữa, và giờ đã trở thành một địa điểm đáng tham quan ở Kingsport. Hôm qua tớ đã đi qua đó một lượt để tập thể dục. Có một bức tường đá lớn, và hàng cây cổ thụ bao quanh, vô số cây cối trồng thẳng hàng ngay lối ở bên trong, và những bia mộ cũ quái gở hết sức cùng những lời ghi độc đáo và kỳ cục nhất trên đời. Cậu sẽ đến đọc chúng cho xem, Anne ạ, tớ cá đấy. Đương nhiên, giờ thì chẳng còn ai chôn ở đó nữa. Nhưng cách đây vài năm họ dựng lên một đài kỷ niệm tuyệt đẹp cho các chiến sĩ Nova Scotia hy sinh trong cuộc chiến ở Crime. Nó ở ngay trước cổng vào, và có rất nhiều ‘khoảng trống dành cho trí tưởng tượng’, như cậu thường hay nói ấy. Cái rương của cậu đây rồi, và bọn con trai đến nói lời tạm biệt. Tớ có phải bắt tay với Charlie Sloane không hả Anne? Tay cậu ấy lúc nào cũng lạnh và nhớp nháp như cá ấy. Chúng ta phải mời họ thỉnh thoảng ghé chơi. Cô Hannah nghiêm trang nói với tớ rằng chúng ta có thể mời các ‘chàng trai’ đến chơi hai tối một tuần, nếu họ ra về vào một giờ phải phép, và cô Ada vừa cười vừa đề nghị tớ là đừng để họ ngồi lên mấy cái đệm ghế xinh đẹp của cô. Tớ hứa sẽ giữ lời, nhưng Chúa mới biết họ có thể ngồi ở đâu khác nữa, trừ ở dưới sàn, vì ở đâu cũng có đệm cả. Cô Ada thậm chí còn đặt một cái nệm hình bánh ngọt trên nắp đàn dương cầm.”
Giờ thì Anne cũng phải phá lên cười. Những chuyện tầm phào vui nhộn của Priscilla đã thực hiện tròn bổn phận làm cô vui lên, cơn nhớ nhà lúc này đã biến mất, và nó cũng không còn da diết như trước khi cô ở lại một mình trong căn phòng ngủ nhỏ xíu. Cô bước đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Con đường bên dưới tối om và tĩnh lặng. Mặt trăng sáng rực bên trên hàng cây trong nghĩa địa Cựu St. John, ngay phía sau khối đen cái đầu sư tử to đùng trên đài kỷ niệm. Anne tự hỏi có phải mình chỉ mới rời Chái Nhà Xanh hồi sáng nay thôi không. Một ngày thay đổi và di chuyển khiến cô thấy thời gian trôi qua dài dằng dặc.
“Mình nghĩ mặt trăng đó cũng đang nhìn xuống Chái Nhà Xanh,” cô lẩm bẩm. “Nhưng giờ thì mình không nghĩ thế nữa, sẽ làm cơn nhớ nhà trào dâng thôi. Mình cũng chẳng cần khóc cho thỏa thích nữa. Mình sẽ để dành nó cho một dịp thuận tiện hơn, còn giờ thì mình sẽ bình tĩnh và lý trí leo lên giường đi ngủ.”
Chương 4: Quý bà Tháng Tư
Kingsport là một thị trấn cổ duyên dáng, được thành lập từ thời kỳ đô hộ đầu tiên, và chìm đắm trong bầu không khí cổ xưa cứ như một quý bà xinh đẹp lớn tuổi vẫn ăn mặc như thuở còn thiếu nữ. Có đôi chỗ lộ vẻ hiện đại, nhưng từ trong bản chất, thị trấn vẫn còn nguyên vẹn như xưa, đầy những dấu tích kỳ dị và lấp lánh hào quang của những truyền thuyết trong quá khứ. Xưa kia đây chỉ là một tiền trạm mấp mé vùng hoang dã, và có thời người da đỏ đã giúp cho cuộc sống của những người định cư nơi này bớt phần đơn điệu. Rồi nó lớn lên, trở thành khúc xương bị giành giật giữa người Anh và người Pháp, lúc thì bị bên này chiếm, lúc thì bị bên kia chiếm, mỗi lần lại xuất hiện thêm vài vết sẹo mới do các quốc gia tham chiến khắc lên.
Trong công viên có một tháp canh bị du khách ký tên khắp bốn bề, một pháo đài Pháp cũ đã bị dỡ sạch trên đồi bên ngoài thị trấn, và vài ba khẩu đại bác cổ lỗ sĩ đặt ở các quảng trường công cộng. Thị trấn cũng có vài ba di tích lịch sử có thể tìm thấy được nếu đủ tò mò, và chẳng có nơi nào duyên dáng và đẹp đẽ như nghĩa địa Cựu St. John ở ngay trung tâm thị trấn, hai phía là những con đường san sát những căn nhà cũ kỹ yên tĩnh, và hai phía còn lại là đường phố hiện đại bận bịu ồn ã. Mỗi cư dân của Kingsport đều tự hào về Cựu St. John, vì nếu quả thật là người “có gốc có rễ”, họ sẽ có tổ tiên được chôn ở đó, với một tấm bia kỳ dị cong oằn trên đầu, hay trải rộng ra bảo vệ cả ngôi mộ, ở trên ghi chi chít những chi tiết cuộc đời của người nằm bên trong. Đa số các tấm bia mộ chẳng hề được chạm trổ khéo léo nghệ thuật gì. Phần lớn chỉ là mấy tảng đá địa phương màu nâu hay xám bị đẽo gọt vụng về, hiếm hoi lắm mới được điêu khắc trang hoàng thêm chút ít. Một vài bia mộ được tô điểm đầu lâu xương chéo, mẫu trang trí ghê rợn này lại thường đi kèm với đầu thiên sứ. Nhiều bia đã ngã rạp và hư hại nghiêm trọng. Hầu hết bia mộ đều bị hàm răng Thời gian gặm nhấm, cho đến khi chữ viết bên trên bị xóa đi hoàn toàn, những chữ còn sót lại khó khăn lắm mới nhận ra được. Nghĩa địa rộng đầy chật mộ và rợp bóng cây, những hàng du và liễu mọc đan xen bao quanh nghĩa địa, dưới bóng cây, người quá cố nằm ngủ say không mộng mị, được gió và lá ngâm nga hát ru trong một giai điệu vĩnh cửu, chẳng hề bị làm phiền bởi tiếng xe cộ ồn ào bên ngoài.
Buổi chiều hôm sau, Anne bắt đầu chuyến thăm đầu tiên mở đầu cho nhiều chuyến nữa tới nghĩa địa Cựu St. John. Hồi sáng, cô và Priscilla đến Redmond để đăng ký nhập
học, sau đó thì họ chẳng còn nhiệm vụ gì khác trong ngày. Hai cô gái vui sướng khi thoát khỏi đó, vì bị hàng đống người lạ vây quanh thì chẳng đáng phấn khởi chút nào, nhất là bọn họ hầu như đều có bề ngoài xa lạ, cứ như chẳng biết là họ đến từ đâu cả.
Mấy cô nàng “ma mới” đứng túm tụm thành nhóm hai ba người, e dè nhìn nhau, đám ma mới nam sinh thì có vẻ thạo đời hơn, tụ tập nơi cầu thang lớn ở tiền sảnh, hát hò và gào hết sức từ lồng ngực trẻ trung như một hành động thách thức kẻ thù truyền thống của bọn họ: sinh viên năm hai. Vài sinh viên năm hai trịch thượng lảng vảng một ở gần đó, đầy vẻ khinh bỉ đám “vắt mũi chưa sạch” trên cầu thang. Chẳng thấy Gilbert và Charlie đâu.
“Tớ chẳng bao giờ nghĩ là có thể vui sướng nổi khi nhìn thấy một tay họ Sloane,” Priscilla nói khi họ băng qua khuôn viên trường, “nhưng bây giờ tớ sẵn sàng vui mừng đón tiếp đôi mắt lồi của Charlie. Ít nhất thì đó cũng là một đôi mắt quen thuộc.”
“Ôi,” Anne thở dài. “Tớ chẳng diễn tả nổi cảm giác của mình khi đứng chờ đăng ký - tầm thường như một giọt nước bé tí tẹo trong một xô nước khổng lồ. Cảm thấy mình tầm thường đã tệ rồi, nhưng bị cái mác tầm thường đấy in sâu vào linh hồn, cảm thấy tớ sẽ chẳng bao giờ, chẳng bao giờ có thể vượt qua khỏi cái mức tầm thường ấy, thì không chịu đựng nổi, mà đó chính là cảm giác khi nãy của tớ, cứ như tớ vô hình nếu không dùng kính lúp mà soi, và vài tay sinh viên năm hai sẽ giẫm lên tớ mà đi. Tớ biết tớ sẽ đi xuống mồ, chẳng được ai khóc thương, chẳng được ai tôn trọng, chẳng được ai ca ngợi.”
“Đợi tới sang năm đi,” Priscilla an ủi. “Khi ấy chúng ta sẽ có vẻ ngoài chán chường và thạo đời chẳng kém gì bọn sinh viên năm hai bây giờ. Đương nhiên, cảm thấy tầm thường nhỏ nhoi thì khá là tệ, nhưng còn hơn là cảm thấy to đùng vụng về như tớ, cứ như tớ phình tướng ra choán hết Redmond vậy. Đó là cảm giác của tớ đấy, có lẽ vì tớ cao hơn đám đông cả hai phân. Tớ không sợ bị các tay sinh viên năm hai giẫm đạp, tớ sợ họ tưởng tớ là một con voi, hay là điển hình một dân Đảo ăn toàn khoai tây quá cỡ.”
“Tớ nghĩ vấn đề nằm ở chỗ chúng ta không chấp nhận nổi thực tế trường Redmond to lớn này không thể giống y hệt trường Queen nhỏ bé,” Anne cố gắng gom góp những mảnh vụn triết lý lạc quan cũ của mình lại để che đi cảm giác trần trụi của linh hồn. “Khi rời Queen, chúng ta biết hết mọi người ở đó và biết vị trí riêng của mình. Tớ cho là trong vô thức, chúng ta mong là cuộc sống của Redmond nối tiếp cuộc sống ở Queen, và giờ thì ta cảm thấy như đất đang bị trượt dưới chân vậy. Tạ ơn Chúa là bà Lynde và bà Elisha Wright không biết và chẳng bao giờ biết suy nghĩ của tớ hiện giờ. Họ sẽ hả hê mà nói ‘đã bảo rồi mà không nghe’, và tin chắc rằng đây là bắt đầu của sự kết thúc. Trong khi đây chỉ là kết thúc của sự khởi đầu mà thôi.”
“Chính xác. Giống Anne hơn rồi đấy. Một thời gian nữa, chúng ta sẽ quen nước quen cái, quen bạn quen bè, mọi việc sẽ ổn thôi. Anne, cậu có để ý cô gái đứng một mình bên ngoài cửa phòng thay đồ chung cả buổi sáng không, cô nàng xinh đẹp mắt nâu môi hơi trề ra ấy?”
“Có chứ. Tớ để ý đến cô nàng vì cô nàng dường như là sinh vật duy nhất nơi này trông có vẻ cô độc và lạc lõng y như cảm giác của tớ. Tớ có cậu, nhưng cô nàng thì chả có ai cả.”
“Tớ nghĩ cô nàng chắc cũng cảm thấy cô đơn. Thỉnh thoảng tớ thấy cô nàng dợm chân định bước về phía chúng ta, nhưng rồi lại thôi, quá nhút nhát, tớ nghĩ thế. Tớ ước cô nàng chịu đi qua đây. Nếu không cảm thấy quá giống con voi cỡ bự, tớ đã đến chỗ cô nàng rồi. Nhưng tớ không thể hùng hục băng qua cái sảnh to đùng ấy trong khi bọn con trai đang hú hét trên cầu thang. Cô nàng là ma mới xinh đẹp nhất mà tớ thấy hôm nay, nhưng có lẽ thiên ân là lừa dối, nhan sắc chẳng có giá trị gì[6]trong ngày đầu tiên ở Redmond,” Priscilla kết thúc và phá lên cười.
[6]. Cựu ước, sách Cách Ngôn, 31:30.
“Sau bữa trưa tớ sẽ đi đến Cựu St. John,” Anne nói. “Tớ không nghĩ nghĩa địa là nơi phù hợp để lên dây cót tinh thần, nhưng đó là nơi duy nhất trong tầm chân mà có
nhiều cây cối, tớ cần phải ở gần cây thôi. Tớ sẽ ngồi trên một phiến đá cũ, nhắm mắt lại và tưởng tượng rằng mình đang ở trong rừng Avonlea.”
Thế nhưng Anne không có dịp làm vậy, vì ở Cựu St. John cô phát hiện ra có quá nhiều thứ thú vị đáng cho cô mở to mắt ngắm nhìn. Họ đi vào từ cổng chính, băng qua vòm đá đơn giản đồ sộ có con sư tử biểu tượng Anh quốc cưỡi lên phía trên.
“‘Ở Inkerman, bụi gai dại vấy máu, Và những đỉnh cao hoang vắng từ nay sẽ nổi tiếng trong truyền thuyết.’”[7] Anne ngâm nga và nhìn quanh đầy hứng khởi. Họ thấy mình đang đứng ở một khoảng xanh âm u mát mẻ, tiếng gió ngân nga. Đi lên đi xuống dọc những lối đi cỏ mọc cao, họ thong thả đọc những đoạn văn bia cổ kính dài dòng, được khắc chạm vào thời kỳ cuộc sống thong thả hơn hẳn hiện giờ.
[7]. Trích truyện thơ Lucile của Owen Meredith.
“‘Nơi đây an nghỉ ông Albert Crawford,’” Anne đọc từ một bia mộ màu xám đã mòn, “‘từng là người quản lý hậu cần của hoàng gia ở Kingsport nhiều năm liền. Ông phục vụ trong quân đội cho đến khi hòa bình lập lại vào năm 1763, rồi ông xuất ngũ vì sức khỏe kém. Ông là một sĩ quan dũng cảm, người chồng tốt nhất, người cha tốt nhất, người bạn tốt nhất. Ông qua đời ngày 29 tháng Mười, năm 1792, hưởng thọ 84 tuổi.’ Một bài văn bia hết chỗ chê, Prissy ạ. Rõ ràng là có nhiều ‘khoảng trống cho tưởng tượng’ trong đó. Cuộc đời của ông ấy chắc phải tràn đầy phiêu lưu mạo hiểm. Về các ưu điểm cá nhân, tớ tin văn bia nhân loại không thể đi xa hơn thế. Tớ tự hỏi hồi ông ấy còn sống người ta có khen ông ấy cái gì cũng là nhất hay không.”
“Một bài khác nữa này,” Priscilla nói. “Nghe này: ‘Tưởng niệm Alexander Ross, mất vào ngày 22 tháng Chín, 1840, 43 tuổi. Bia này được dựng để biểu lộ tình cảm của người được ông phục vụ tận tâm suốt 27 năm ròng, coi ông như một người bạn, xứng đáng với sự tin tưởng và gắn bó tuyệt đối.’”
“Một văn bia rất có ý nghĩa,” Anne trầm tư. “Tớ chẳng mong được gì hơn thế. Chúng ta đều là người phục vụ, về mặt nào đó, và nếu sự tận tâm của chúng ta có thể được ghi lại một cách chân thực trên bia mộ thì chẳng cần ghi thêm gì nữa. Đây là một bia mộ xám buồn thảm, Prissy ạ, ‘Tưởng niệm đứa con yêu dấu.’ Và đây nữa ‘Dựng lên để tưởng niệm người chôn thân nơi khác.’ Tớ tự hỏi ngôi mộ thực của người đó nằm ở đâu. Thiệt tình, Pris ạ, nghĩa địa thời nay chẳng được thú vị thế này. Cậu nói đúng, tớ sẽ thường ghé qua đây. Tớ thích nó rồi đấy. Tớ thấy chúng ta không cô độc, có một cô gái ở cuối đường kìa.”
“Ừ, và tớ tin đó chính là cô gái chúng ta nhìn thấy ở Redmond sáng nay. Tớ đã quan sát cô nàng năm phút rồi. Cô nàng dợm chân bước đến đây được cả năm, sáu lần, rồi năm, sáu lần đều xoay người quay trở lại. Hoặc là cô nàng cực kỳ nhút nhát, hoặc là lương tâm cô nàng đang cắn rứt vì chuyện gì đó. Chúng ta đến gặp cô nàng đi thôi. Làm quen trong nghĩa địa thì dễ hơn là ở Redmond, tớ nghĩ thế.”
Họ đi dọc theo đường mái vòm cỏ mọc đầy về phía cô gái lạ đang ngồi trên một phiến đá xám dưới cây liễu khổng lồ. Cô nàng rõ ràng là hết sức xinh đẹp, một vẻ đẹp sống động, bất thường và quyến rũ hút hồn. Mái tóc mịn như nhung sáng bóng như hạt dẻ, đôi má bầu bĩnh ửng mọng dịu dàng. Đôi mắt cô nàng to, màu nâu và thẫm như nhung, chân mày đen sắc nhọn lạ thường, đôi môi hơi trề đỏ thắm. Cô nàng vận bộ váy nâu thanh lịch, hai mũi giày nhỏ đúng mốt thò ra bên dưới, mũ rơm màu hồng sẫm, vòng hoa anh túc vàng sậm đan quanh, chiếc mũ mang vẻ duyên dáng khó gọi thành lời, rõ ràng là “sáng tạo” của một nghệ nhân may vá. Priscilla lập tức bối rối nhớ ra chiếc mũ mình mua của một thợ may làng, Anne thì bất an không biết chiếc áo cô tự may và bà Lynde đo cắt có vẻ quá quê mùa và tầm thường trước bộ đồ đúng mốt của cô gái lạ hay không. Trong một thoáng, hai cô gái đều muốn quay lưng đi.
Nhưng họ đã dừng lại và quay về phía bia mộ màu xám. Rút lui bây giờ thì quá trễ, vì cô gái mắt nâu rõ ràng đã kết luận rằng họ đến để nói chuyện với mình. Cô lập tức đứng bật dậy, đi tới trước mặt họ với bàn tay chìa ra và nụ cười vui vẻ thân thiện chẳng có dấu ấn nào của sự nhút nhát hay lương tâm bị cắn rứt.
“Ồ, tớ rất muốn biết hai cậu là ai,” cô hào hứng kêu lên. “Tớ muốn biết đến chết
được. Sáng nay tớ nhìn thấy các cậu ở Redmond. Nói xem, ở đó khủng khiếp quá phải không? Lúc đó tớ ước gì tớ ở nhà lấy chồng cho rồi.”
Anne và Priscilla không nén được tiếng cười trước câu kết luận bất ngờ này. Cô gái mắt nâu cũng phá lên cười.
“Thật đó. Tớ có thể đã làm vậy, các cậu biết đấy. Lại đây, chúng ta ngồi xuống tấm bia này mà làm quen với nhau đi. Không khó khăn gì đâu. Tớ biết ngay là chúng ta sẽ thích mê nhau mà, tớ biết ngay từ lúc nhìn thấy các cậu ở Redmond sáng hôm nay. Tớ hết sức mong muốn được chạy ngay lại và ôm chầm lấy các cậu.”
“Sao cậu không làm vậy?” Priscilla hỏi.
“Bởi vì đơn giản là tớ không thể quyết định làm vậy được. Tớ chẳng thể tự quyết định được bất cứ việc gì, tớ lúc nào cũng bị sự do dự xâm chiếm. Ngay khi quyết định làm chuyện gì đó, tớ cảm thấy từ trong xương tủy rằng làm khác đi mới là đúng. Đó đúng là một sự bất hạnh khủng khiếp, nhưng bẩm sinh tớ là thế, có trách móc tớ cũng chẳng có tác dụng gì, dù nhiều người trách móc lắm rồi. Thế nên tớ không thể quyết định đến nói chuyện với các cậu được, dù tớ rất muốn.”
“Bọn tớ tưởng là cậu quá nhút nhát,” Anne nói.
“Không, không, cưng à. Nhút nhát không phải là một trong những khuyết điểm, hay là ưu điểm, của Phillippa Gordon, gọi tắt là Phil. Cứ gọi luôn tớ là Phil đi. Nào, còn các cậu tên là gì?”
“Cô ấy là Priscilla Grant,” Anne chỉ sang bạn.
“Còn cô ấy là Anne Shirley,” Priscilla chỉ lại sang Anne.
“Và chúng tớ đều là dân Đảo,” cả hai đồng thanh.
“Tớ sống ở Bolingbroke, Nova Scotia,” Philippa nói.
“Bolingbroke!” Anne kêu lên. “Ôi, đó là nơi tớ sinh ra.”
“Thật không? Ôi, thế thì cậu là dân Mũi xanh rồi.”[8]
[8]. Biệt hiệu của dân Nova Scotia.
“Không đời nào,” Anne phản đối. “Chẳng phải Dan O’Connell từng nói người sinh ra ở trong tàu ngựa cũng không biến thành ngựa sao? Tớ là dân Đảo từ trong xương đấy nhé.”
“Ôi, dù sao thì tớ cũng mừng là cậu sinh ra ở Bolingbroke. Chúng ta gần như là láng giềng, nhỉ? Tớ thích thế, vì nếu tớ kể những chuyện bí mật cho cậu nghe, tớ sẽ không có cảm giác đang kể cho người lạ. Tớ phải kể hết bí mật ra thì mới chịu được. Tớ chẳng giữ được bí mật đâu, cố cũng chẳng có tác dụng gì. Đó là khuyết điểm tệ hại nhất của tớ, và cả sự thiếu quyết đoán nữa, như đã nói lúc nãy. Các cậu có tin nổi không? Tớ tốn đến nửa tiếng để quyết định xem nên đội cái mũ nào để đi đến đây, đến đây, đến nghĩa địa! Lúc đầu tớ ưa cái mũ nâu đính lông hơn, nhưng vừa đội lên thì tớ nghĩ cái mũ hồng vành mềm này sẽ hợp hơn. Nhưng khi đội nó lên tớ lại thích cái màu nâu. Thế là
cuối cùng tớ đặt cả hai cái lên giường, nhắm tịt mắt và chọc cái đinh gài mũ. Cái đinh đâm vào cái mũ hồng, thế là tớ bèn đội nó. Nó khá hợp đấy chứ, phải không? Trả lời tớ xem, các cậu thấy trông tớ thế nào?”
Trước câu hỏi ngây thơ với giọng điệu hoàn toàn nghiêm túc đó, Priscilla phá lên cười. Nhưng Anne bốc đồng siết chặt lấy tay Philippa.
“Sáng nay bọn tớ đã nghĩ cậu là cô gái xinh đẹp nhất mà bọn tớ thấy ở Redmond.”
Đôi môi mọng của Philippa hé ra một nụ cười hết sức quyến rũ, để lộ hàm răng trắng bóng.
“Tớ cũng nghĩ thế,” đó là câu tuyên bố bất ngờ thứ hai của cô, “nhưng tớ muốn tham khảo ý kiến của người khác để duy trì suy nghĩ của tớ. Tớ thậm chí còn chẳng quyết định được về vẻ ngoài của mình nữa. Ngay khi vừa cho rằng mình xinh đẹp, tớ lại lập tức đau khổ cảm thấy mình chẳng xinh chút nào. Hơn nữa, có một bà dì già cỗi khủng khiếp cứ lúc nào cũng thở dài thườn thượt bảo tớ, ‘Hồi nhỏ cháu xinh lắm. Nhưng khi lớn lên thì sao mà con nít thay đổi nhiều thế.’ Tớ thương các dì, nhưng tớ căm ghét các bà dì. Làm ơn hãy thường nói với tớ là tớ xinh đi nhé, nếu các cậu không phiền. Tớ cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều khi tớ tin rằng mình xinh đẹp. Và tớ sẵn sàng làm điều tương tự với các cậu nếu các cậu muốn, tớ có thể mà, với một lương tâm trong sạch.”
“Cảm ơn,” Anne phá lên cười, “nhưng Priscilla và tớ hoàn toàn tin chắc vào vẻ ngoài xinh đẹp của mình mà chẳng cần đến sự xác thực nào, nên không phiền cậu đâu.”
“Ôi, các cậu lại cười tớ. Tớ biết các cậu nghĩ tớ là một kẻ tự phụ hão huyền, nhưng không phải vậy đâu. Tớ chẳng có một tí ti tự phụ nào hết. Và tớ cũng chẳng bao giờ cảm thấy miễn cưỡng khi khen những cô gái khác nếu họ xứng đáng. Tớ rất mừng
được làm quen với các cậu. Tớ vừa tới hôm thứ Bảy, và thế rồi suýt chết vì nhớ nhà. Đúng là một cảm giác khủng khiếp, phải không? Ở Bolingbroke, tớ là nhân vật quan trọng, còn ở Kingsport tớ là kẻ vô danh! Có lúc tớ cảm giác được linh hồn của tớ chuyển sang màu xanh buồn thảm nữa cơ. Các cậu ở đâu?”
“Số ba mươi tám đường St. John.”
“Tốt quá tốt quá. Ôi, tớ ở ngay đường Wallace qua ngã tư. Nhưng tớ chẳng ưa nhà trọ của mình tí nào. Nó ảm đạm và buồn bã lắm, phòng của tớ nhìn ra sân sau thật kinh khủng. Đó là nơi xấu xí nhất trên thế giới. Còn mèo nữa, ôi, rõ ràng là tất cả mèo ở Kingsport không thể tụ tập hết ở đó được, nhưng ít nhất là phân nửa bọn chúng đều có mặt. Tớ thích mèo nằm trên thảm trải trước lò sưởi, gừ gừ trước ngọn lửa ấm áp thân thiện, nhưng mèo ở sân sau vào giữa khuya là một giống vật hoàn toàn khác hẳn. Hôm đầu mới tới, tớ khóc suốt đêm, bọn mèo cũng rú cả đêm. Các cậu phải nhìn mũi tớ vào sáng hôm sau mới hiểu. Lúc đó tớ chỉ ước gì mình chưa từng rời nhà ra đi!”
“Tớ chẳng hiểu làm sao cậu có thể quyết định đi học ở Redmond, nếu cậu là người hay do dự như thế,” Priscilla hứng thú hỏi.
“Cưng à, Chúa phù hộ cho cưng, tớ có quyết định đâu. Ba tớ muốn tớ đi học đấy chứ. Ba tớ quyết chí như thế, vì sao ư, tớ chả biết nữa. Tớ học để lấy bằng đại học, thật ngớ ngẩn phải không? Được rồi, không phải vì tớ không học được. Tớ có nhiều não lắm.”
“Ồ!” Priscilla mơ hồ đáp.
“Ừ. Nhưng dùng đến nó chẳng dễ dàng gì. Cử nhân đại học là những kẻ thông thái, thông minh, nghiêm túc và đáng trọng, nhất định là thế. Không, tớ không muốn đi học ở Redmond. Tớ làm vậy để chiều ba tớ thôi. Ba tớ dễ thương lắm nhé. Hơn nữa, nếu ở
nhà thì tớ phải đi lấy chồng là cái chắc. Mẹ tớ muốn thế, kiên quyết muốn như thế. Mẹ tớ có dư tính quả quyết mà. Nhưng tớ ghét phải đi lấy chồng, ít nhất là trong vài năm tới. Tớ muốn chơi cho thỏa đã trước khi dừng chân ổn định. Và, cứ nghĩ đến chuyện tớ là người có bằng đại học thì thấy thật ngớ ngẩn, nhưng vẫn không vớ vẩn bằng việc tưởng tượng ra tớ là một bà vợ đứng tuổi, phải không? Tớ mới mười tám. Không, tớ rút ra là thà đi học ở Redmond còn hơn lấy chồng. Hơn nữa, làm sao mà tớ có thể quyết định được là lấy ai cơ chứ?”
“Có nhiều người để chọn không?” Anne phá lên cười.
“Cả đống. Bọn con trai thích tớ khủng khiếp, thật đó. Nhưng chỉ có hai người đáng để chọn thôi. Số còn lại hoặc quá trẻ hoặc quá nghèo. Tớ phải lấy một người giàu có, các cậu biết đấy.”
“Vì sao?”
“Cưng à, cậu có thể tưởng tượng tớ là vợ của một người nghèo được không? Tớ chẳng làm trò gì nên hồn, và lại cực kỳ phung phí nữa. Ồ, không, chồng tớ phải có cả đống tiền. Cho nên số người để chọn giới hạn lại còn có hai thôi. Nhưng chọn một trong hai chẳng dễ hơn chọn một trong hai trăm. Tớ biết chắc chắn rằng dù chọn ai thì cả đời tớ cũng sẽ hối hận vì không cưới người còn lại.”
“Cậu... yêu... cả hai người à?” Anne hỏi, hơi ngần ngừ. Nói chuyện với người lạ về những bí ẩn và biến đổi của cuộc đời chẳng dễ dàng chút nào.
“Ôi trời, không. Tớ chẳng yêu nổi ai đâu. Bản chất tớ là thế. Hơn nữa tớ cũng chẳng muốn thế. Yêu sẽ biến ta thành một kẻ nô lệ, tớ nghĩ thế. Và nó sẽ trao cho người đàn ông rất nhiều quyền lực để làm tổn thương ta. Tớ e là thế. Không, không, Alec và Alonzo là hai cậu bạn dễ thương, tớ thích họ nhiều đến mức tớ chẳng biết là tớ
thích ai hơn. Đó là vấn đề. Đương nhiên, Alec đẹp trai hơn, và tớ chẳng thể cưới một người đàn ông xấu trai được. Anh ấy cũng tốt tính nữa, và có mái tóc xoăn đen tuyệt đẹp.
Anh ấy có vẻ hơi quá hoàn hảo, tớ không nghĩ là tớ thích có một người chồng hoàn hảo mà tớ chẳng thể tìm ra được khuyết điểm nào.”
“Vậy sao không cưới Alonzo?” Priscilla nghiêm túc hỏi.
“Nghĩ đến việc cưới người mang tên Alonzo coi!” Phil u sầu đáp. “Tớ không tin là tớ chịu đựng nổi điều đó. Nhưng anh ấy có một cái mũi đẹp theo kiểu cổ điển, và thật dễ chịu nếu trong gia đình có một cái mũi đẹp để nương tựa vào. Tớ không thể tin tưởng vào cái mũi của tớ. Cho tới giờ thì nó giống kiểu mũi của người họ Gordon, nhưng tớ e là khi tớ già đi thì nó sẽ giống người họ Byrne. Ngày nào tớ cũng kiểm tra một lượt để chắc là nó vẫn mang họ Gordon. Mẹ tớ họ Byrne và có mũi kiểu Byrne ở mức độ Byrne nhất. Các cậu đợi xem đi rồi biết. Tớ mê tít những cái mũi đẹp. Cái mũi của cậu đẹp khủng khiếp, Anne Shirley ạ. Cái mũi của Alonzo suýt nữa đã giúp anh ấy chiến thắng. Nhưng mà Alonzo sao! Không, tớ không thể quyết định được. Giá như tớ có thể làm như khi chọn mũ ấy, để hai người họ đứng kế nhau, nhắm mắt lại và chọc đinh ghim, thì sẽ dễ dàng biết mấy.”
“Alec và Alonzo nghĩ gì khi cậu đi?” Priscilla hỏi.
“Ồ họ vẫn còn hy vọng mà. Tớ bảo họ hãy đợi đến khi tớ có thể quyết định được. Họ sẵn sàng chờ đợi mà. Các cậu biết đó, họ tôn thờ tớ. Trong lúc ấy, tớ quyết tâm phải chơi cho thỏa. Tớ hy vọng tớ sẽ có hàng đống bạn trai ở Redmond. Các cậu biết đấy, không có bạn trai thì tớ chẳng vui nổi. Nhưng các cậu có nghĩ rằng đám con trai năm nhất nhìn quê kinh khủng không? Tớ chỉ thấy có một tay thực sự đẹp trai thôi. Anh ta đi trước khi các cậu đến. Tớ nghe bạn anh ta gọi anh ta là Gilbert. Bạn của anh ta có đôi mắt lồi ra đến thế này này. Các cô gái, các cậu định đi à? Khoan đi mà.”
“Tớ nghĩ bọn tớ phải đi thôi,” Anne đáp khá lạnh nhạt. “Trễ rồi và tớ còn có việc.”
“Nhưng các cậu sẽ đến chơi với tớ phải không?” Philippa hỏi, đứng dậy nắm tay hai người. “Và cho tớ đến thăm các cậu nhé. Tớ muốn làm thân với các cậu. Tớ đã mê các cậu rồi. Và tớ không làm các cậu muốn ói vì tính khí màu mè của tớ, phải không?”
“Không hẳn,” Anne phá lên cười và thân tình trở lại, siết chặt tay đáp lại Phil.
“Vì tớ không ngốc bằng nửa bề ngoài của tớ đâu, các cậu biết đấy. Các cậu cứ chấp nhận Philippa Gordon như Chúa đã tạo ra cô ấy, cùng mọi khuyết điểm của cô ấy, và tớ tin là các cậu sẽ mến cô ấy thôi. Nghĩa địa này thật dễ thương phải không? Tớ thích được chôn ở đây. Đây là một ngôi mộ tớ chưa thấy trước đây, nằm bên hàng rào sắt, ồ, các cô gái, nhìn này, trên bia mộ ghi đây là mộ của một chuẩn úy hải quân hy sinh trong trận chiến giữa tàu Shannon và tàu Chesapeake đấy. Tưởng tượng xem!”
Anne dừng lại bên hàng rào, nhìn tấm bia đã bị thời gian bào mòn, mạch đập dồn dập bởi cảm giác phấn khởi bất ngờ. Khu nghĩa địa cũ, với những hàng cây đan xen và những lối đi râm mát, từ từ biến mất khỏi tầm mắt cô. Thay vào đó, cô nhìn thấy cảng Kingsport cách đây gần một thế kỷ. Một chiếc tàu chiến chầm chậm xuất hiện giữa màn sương, “lá cờ sao băng Anh quốc” tung bay phần phật phía trên. Theo sau là một con tàu khác, trên bệ chỉ huy là một thi thể anh hùng bất động, được lá cờ đầy sao của quốc gia mình bọc quanh, là Lawrence anh dũng. Ngón tay thời gian lần giở từng trang sách, đó chính là con tàu Shannon đắc thắng khải hoàn cùng với chiến lợi phẩm là tàu Chesapeake.
“Trở lại, Anne Shirley, trở lại đi,” Philippa phá lên cười, kéo kéo tay cô. “Cậu cách bọn tớ cả trăm năm thời gian lận. Quay lại thôi.”
Anne trở lại hiện thực với một tiếng thở dài, mắt cô long lanh.
“Tớ lúc nào cũng ưa thích câu chuyện xưa cũ đó,” cô nói, “và dẫu người Anh chiến thắng, tớ thích câu chuyện chỉ vì người thuyền trưởng chiến bại nhưng vẫn tràn đầy can đảm. Ngôi mộ này khiến câu chuyện trở nên gần gũi và thực tế hơn biết mấy. Chàng chuẩn úy hải quân đáng thương chỉ mới mười tám tuổi. Chàng ‘hy sinh vì vết thương trầm trọng trong cuộc chiến đấu anh hùng’, đó là văn bia của chàng. Người lính chỉ mong có vậy thôi.”
Trước khi quay đi, Anne tháo chùm hoa păng xê tím cài trên áo và nhẹ nhàng thả xuống nấm mộ của chàng trai trẻ hy sinh trong trận thủy chiến vĩ đại.
“Sao, cậu nghĩ gì về người bạn mới của chúng ta?” Priscilla hỏi sau khi Phil chia tay bọn họ.
“Tớ thích cô nàng. Cô nàng có vẻ gì đó rất đáng yêu, mặc cho mọi trò lố lăng khác. Tớ tin, cũng như lời cô nàng nói, rằng cô nàng chỉ ngốc bằng phân nửa vẻ ngoài thôi. Cô nàng là một đứa bé dễ thương chỉ nhìn thôi đã muốn hôn rồi, và tớ chẳng biết liệu cô nàng có bao giờ trưởng thành hay không nữa.”
“Tớ cũng thích cô nàng,” Priscilla quả quyết. “Cô nàng tán nhảm về bọn con trai y như Ruby Gillis vậy. Nhưng nghe Ruby nói thì lúc nào tớ cũng tức điên lên hay là muốn ói, trong khi tớ chỉ muốn phá lên cười vui vẻ với Phil. Nào, vì sao lại như vậy?”
“Có khác biệt chứ,” Anne ngẫm nghĩ. “Tớ nghĩ bởi vì Ruby quá để tâm đến bọn con trai. Cậu ấy đùa giỡn với tình yêu và hay tán tỉnh. Hơn nữa, cậu cảm thấy mỗi khi cậu ấy khoe khoang về số bạn trai của mình, cậu ấy có ý muốn nhấn mạnh với cậu rằng cậu chẳng có đến phân nửa số bạn trai của cậu ấy. Còn bây giờ, khi Phil nói đến đám bạn trai, nghe như cô nàng đang kể về bạn bè thân vậy. Cô nàng quả thật coi bọn con
trai là bạn bè, và vui sướng khi có hàng đống con trai theo đuôi, chỉ vì cô nàng thích được ngưỡng mộ và thích được coi là đáng ngưỡng mộ. Cả Alex và Alonzo nữa - về sau tớ sẽ chẳng thể nào tách riêng hai cái tên này ra được - họ chỉ là hai người bạn muốn cô nàng chơi cùng đến suốt cuộc đời thôi. Tớ mừng vì chúng ta gặp được cô nàng, và mừng vì chúng ta đã đến Cựu St. John. Tớ tin là tớ đã bén một cái rễ tâm hồn nhỏ xíu xuống mảnh đất Kingsport chiều nay. Tớ hy vọng thế. Tớ ghét cảm giác lỏng gốc lắm.”
Chương 5: Thư nhà
Trong ba tuần kế tiếp, Anne và Priscilla tiếp tục cảm thấy mình là người lạ giữa một vùng đất chưa quen. Rồi đột nhiên mọi việc trở nên đâu vào đó, Redmond, giáo sư, giờ học, sinh viên, học tập, giao tế. Cuộc sống trở lại liên tục, không còn là những mảnh vỡ rời rạc nữa. Sinh viên năm nhất, thay vì là tập hợp những cá nhân đơn lẻ, giờ đã chuyển mình thành một lớp, có tinh thần đồng đội, khẩu lệnh, sở thích, kẻ thù và tham vọng chung. Họ chiến thắng sinh viên năm hai trong trận giao đấu hữu nghị nghệ thuật hằng năm, nhờ vậy chiếm được sự tôn trọng của các lớp còn lại, cộng thêm cảm giác tự tin khổng lồ về bản thân. Trong ba năm liền, sinh viên năm hai đều chiến thắng trận giao đấu, và chiến thắng năm nay của lớp sinh viên năm nhất là nhờ vào sự lãnh đạo đầy chiến lược của Gilbert Blythe, người tổ chức chiến dịch và phát minh ra những kế sách mới, làm lớp năm hai mất tinh thần và đưa lớp năm nhất đến chiến thắng. Để tưởng thưởng, anh được bầu làm lớp trưởng, một chức vụ đầy vinh dự và trách nhiệm được bao người thèm muốn, ít nhất là trong mắt sinh viên năm nhất. Anh cũng được mời gia nhập câu lạc bộ Lamb, tiếng gọi tắt của dân Redmond cho tên Lamba Theta, một vinh dự hiếm khi dành cho sinh viên năm nhất. Để thử thách trước khi chính thức gia nhập, anh phải đi diễu hành trên các đường phố chính của Kingsport suốt cả ngày trời, đội mũ rộng vành và mặc tạp dề làm bếp thùng thình bằng vải trúc bâu hoa hòe hoa sói. Anh vui vẻ làm theo yêu cầu, nhấc mũ rộng vành với vẻ lịch thiệp mỗi khi gặp phải các quý bà quý cô quen biết. Charlie Sloane, vốn không được mời gia nhập hội Lamb, nói với Anne là anh chẳng hiểu nổi làm sao Blythe có thể vượt qua nổi thử thách, và chính anh đây sẽ chẳng bao giờ hạ thấp bản thân như thế.
“Tưởng tượng Charlie Sloane trong một cái tạp dề ‘khoa khòe’ và một chiếc nón ‘rộng dành’ xem,” Priscilla cười khúc khích. “Cậu ta sẽ giống y hệt bà nội Sloane. Gilbert nhìn vẫn rất đàn ông, chẳng kém khi cậu ấy mặc lễ phục là bao nhiêu.”
Anne và Priscilla bị cuốn vào vòng xoay giao tế ở Redmond. Họ hòa nhập nhanh chóng như vậy đa phần là nhờ vào Philippa Gordon. Philippa là con gái của một người giàu có và nổi tiếng, thuộc về một gia đình “Mũi xanh” danh giá lâu đời. Điều này kết hợp với vẻ đẹp và sức quyến rũ của cô, sức quyến rũ mà ai gặp cô rồi cũng phải công nhận, đã mở toang mọi cánh cửa của các hội đoàn, câu lạc bộ và lớp học ở Redmond, và nơi nào cô đặt chân tới thì Anne và Priscilla cũng cùng đi theo. Phil “mê tít” Anne
và Priscilla, đặc biệt là Anne. Cô là một cô bé cực kỳ trung thành, hoàn toàn không có tí tẹo trịch thượng nào. “Chơi với tớ thì phải chơi với cả bạn tớ,” hình như là tôn chỉ không nói ra lời của cô. Không cần nỗ lực chút nào, cô kéo hai người bạn vào vòng tròn xã giao ngày càng mở rộng của mình, và hai cô gái làng Avonlea thấy các mối quan hệ xã hội đến với mình rất dễ dàng và vui vẻ, khiến các nữ sinh ma mới còn lại không khỏi ngưỡng mộ và ghen tỵ. Bọn họ không được Philippa bảo trợ nên bị ra rìa trong suốt năm học đầu tiên.
Trước quan điểm sống chín chắn hơn của Anne và Priscilla, Phil vẫn là một cô bé đáng yêu dễ mến như cô đã thể hiện trong lần gặp đầu tiên. Thế nhưng, đúng như cô cũng đã nói, cô có “hàng đống” não. Thời gian và địa điểm học hành của cô vẫn là một bí mật, vì lúc nào cô cũng được lôi kéo tham dự một trò “vui thú” nào đó, các buổi tối nhà cô chật kín những kẻ viếng thăm. Cô có vô số “người ngưỡng mộ” đủ đáp ứng khao khát của mọi cô gái, vì chín phần mười đám nam sinh năm nhất và một tỷ lệ khá lớn các lớp còn lại tranh giành từng nụ cười của cô. Cô vui sướng một cách hết sức trong sáng về việc này, và hớn hở kể từng cuộc chinh phục mới cho Anne và Priscilla nghe, kèm theo bình luận có thể khiến cho lỗ tai chàng si tình kém may mắn bỏng ran vì xấu hổ.
“Alec và Alonzo xem ra vẫn chưa có đối thủ nào đáng kể,” Anne trêu.
“Chẳng có ai,” Philippa đồng ý. “Tớ viết thư cho cả hai mỗi tuần và kể cho họ nghe về tất cả các chàng trai theo đuổi ở đây. Tớ chắc là họ cũng lấy làm thú vị lắm. Nhưng, đương nhiên, người tớ thích nhất thì tớ chẳng chiếm được. Gilbert Blythe chẳng thèm để ý gì đến tớ cả, anh ta có nhìn tớ thì cũng chỉ như nhìn con mèo con đáng được vuốt ve thôi. Tớ biết rõ lý do mà. Nữ hoàng Anne, tớ thù cậu lắm đấy nhé. Lẽ ra tớ phải ghét cậu, thế mà tớ lại yêu cậu chết đi được, và tớ sẽ phát rồ nếu không nhìn thấy cậu mỗi ngày. Cậu khác hẳn với các cô gái tớ biết trước giờ. Khi cậu nhìn tớ theo một kiểu nào đó, tớ cảm thấy mình đúng là một con quái vật tầm thường phù phiếm, tớ ước gì tớ có thể trở nên mạnh mẽ, tốt đẹp và thông minh hơn. Thế là tớ quyết tâm thay đổi bản thân, nhưng chỉ cần một anh chàng đẹp trai xuất hiện trong tầm mắt là tớ quên hết tất cả. Cuộc đời sinh viên tuyệt vời quá phải không? Thật tức cười khi nhớ lại là ngày đầu tiên tớ ghét nó biết bao. Nhưng nếu tớ không cảm thấy như vậy, chắc tớ chẳng bao giờ thực sự làm quen được với cậu. Anne ơi, làm ơn nói với tớ một lần nữa là cậu thích tớ một chút xíu đi. Tớ khao khát được nghe câu nói đó.”
“Tớ thích cậu rất nhiều xíu, và tớ nghĩ cậu là một... con mèo con dễ thương, ngọt ngào, đáng yêu, mịn như nhung và chẳng có chút móng vuốt nào,” Anne phá lên cười, “nhưng tớ không biết cậu học bài vào lúc nào nữa.”
Phil rõ ràng là có dành thời gian để học, vì cô được điểm cao trong tất cả các môn học. Ngay cả vị giáo sư Toán già khó tính căm ghét việc nam nữ học chung, chua chát phản đối việc cho phép nữ sinh vào Redmond, cũng không thể đánh rớt được cô. Cô dẫn đầu các nữ sinh năm nhất trong tất cả các môn, trừ môn Văn, môn này thì Anne Shirley bỏ xa cô. Chính Anne cũng thấy các môn học năm nhất rất dễ dàng, chủ yếu nhờ cô và Gilbert đã không ngừng chăm chỉ ôn tập suốt hai năm vừa qua ở Avonlea.
Nhờ vậy, cô có nhiều thời gian cho các hoạt động xã giao mà cô rất thích thú. Nhưng chẳng giây phút nào cô quên được Avonlea và bạn bè của mình ở nhà. Đối với cô, giây phút vui sướng nhất mỗi tuần là khi nhận được thư nhà. Cho đến khi nhận được những lá thư đầu tiên, cô mới bắt đầu nghĩ mình có thể yêu Kingsport và cảm thấy gần gũi với nơi này. Trước khi nhận được thư, Avonlea dường như cách nơi này cả ngàn dặm, nhưng những lá thư kéo nó lại gần hơn, gắn kết cuộc sống cũ và mới lại với nhau khiến chúng chỉ là một và duy nhất, chứ không phải là hai cuộc sống tách biệt không có chút liên hệ nào. Đợt thư đầu tiên có sáu lá, của Jane Andrews, Ruby Gillis, Diana Barry, Marilla, bà Lynde và Davy. Lá thư của Jane chẳng khác nào một bản in mẫu, mỗi chữ “t” đều gạch ngang chỉn chu, và mỗi chữ “i” có một dấu chấm ngay ngắn, trong thư chẳng có một câu nào thú vị cả. Cô chẳng hề nhắc đến trường học, điều mà Anne khao khát muốn biết, cô thậm chí chả hề trả lời câu hỏi nào trong thư của Anne. Nhưng cô kể cho Anne nghe cô đã móc được bao nhiêu thước đăng ten, thời tiết ở Avonlea thế nào, kiểu váy mới cô định may, và cảm giác của cô khi đầu bị nhức. Ruby Gillis viết hẳn một bài văn dài thườn thượt than thở về sự vắng mặt của Anne, khẳng định ai cũng nhớ cô muốn chết, hỏi xem các “bạn học” Redmond thế nào, phần còn lại của lá thư là bản kê khai về những kinh nghiệm đau đớn của cô với hàng đống người ngưỡng mộ. Đó là một lá thư ngớ ngẩn vô hại, Anne hẳn đã lấy nó làm trò vui nếu không đọc đến phần tái bút. “Theo mấy lá thư của Gilbert thì cậu ấy có vẻ thích Redmond đấy,” Ruby viết. “Tớ không nghĩ là Charlie thích nơi đó.”
Vậy là Gilbert có liên lạc với Ruby! Tốt lắm. Đương nhiên, anh ta có quyền làm thế mà. Chỉ là...!!! Anne không biết rằng Ruby đã viết thư trước, Gilbert chỉ trả lời theo phép lịch sự thôi. Cô khinh bỉ quăng lá thư của Ruby sang một bên. Nhưng nỗi nhức nhối do dòng tái bút đó gây nên chỉ phai nhạt đi sau lá thư phấn khởi đầy những tin tức thú vị của Diana. Thư của Diana nhắc đến Fred có phần nhiều hơn mức cần thiết, nhưng dù sao cũng tràn đầy những điều đáng quan tâm, và Anne cảm thấy như mình đang ở Avonlea khi đọc bức thư đó. Lá thư của bà Marilla khá cứng ngắc và vô vị, hoàn toàn chẳng có chút buôn chuyện hay chút tình cảm nào. Nhưng bằng cách nào đó, nó vẫn gợi lại cho Anne chút hơi hướm của cuộc sống đơn giản lành mạnh ở Chái Nhà Xanh, với mùi vị thanh thản cổ xưa và tình yêu vĩnh viễn không hề thay đổi dành cho cô. Thư của bà Lynde thì đầy tin tức về công việc nhà thờ. Sau khi thoát khỏi công việc nội trợ, bà Lynde có nhiều thời gian hơn hẳn để cống hiến cho nhà thờ, và dành hết trái tim cùng sức lực vào đó. Hiện giờ, bà đang khá bực bội vì những “người thử việc” kém cỏi nhăm nhe vị trí giảng đạo đang bỏ trống ở Avonlea.
“Ta nghĩ giờ chắc chỉ có những tay khờ khạo mới làm linh mục,” bà chua chát viết. “Họ đã gửi tới cho chúng ta những loại ứng cử viên nào cơ chứ, và những bài giảng khủng khiếp làm sao! Phân nửa đều sai toét cả, và còn tệ hơn thế, nghe chẳng có vẻ đạo mạo chút nào. Ứng cử viên hiện tại là tệ hại nhất. Ông ta cứ trích ra một đoạn kinh, xong rồi lại giảng giải về một vấn đề khác. Và ông ta nói mình không tin tất cả bọn ngoại đạo đều phải xuống địa ngục. Ối trời ơi! Nếu không phải vậy thì số tiền chúng ta đóng góp cho hội truyền giáo quá phí phạm đi, thế đấy! Tối Chủ nhật trước, ông ta tuyên bố Chủ nhật tới ông ta sẽ giảng về lưỡi rìu nổi lên mặt nước. Ta nghĩ ông ta tốt nhất hãy tự giới hạn mình trong Kinh Thánh và tránh xa các chủ đề giật gân ra. Thế giới này đảo lộn tùng phèo lên cả rồi, mục sư mà lại không thể tìm được chủ đề nào đó để giảng giải trong Kinh Thánh, thế đấy. Anne, cháu đi nhà thờ nào? Ta mong cháu đi nhà thờ thường xuyên. Người ta thường quên bẵng việc đi nhà thờ khi xa nhà, ta biết đám sinh viên đại học toàn là những con chiên tội lỗi về vấn đề này. Ta nghe nói có nhiều đứa còn học bài vào Chủ nhật nữa chứ. Ta hy vọng cháu sẽ chẳng bao giờ tệ đến mức ấy, Anne ạ. Nhớ lấy chúng ta đã nuôi dạy cháu thế nào. Và hãy cẩn thận khi làm quen với bạn mới. Cháu chẳng biết được loại người nào đi học đại học đâu. Bên ngoài thì trắng tinh tươm như bia mộ ấy, nhưng bên trong thì y hệt con sói đen sì, thế đấy. Tốt nhất là cháu đừng có nói chuyện với đám trai trẻ không phải dân Đảo.
“Ta quên không kể cho cháu nghe chuyện xảy ra hôm mục sư đến thăm nhà. Đó là chuyện tức cười nhất mà ta từng thấy. Tôi bảo Marilla, ‘Nếu Anne có ở đây, chắc nó cười dữ lắm đấy.’ Ngay cả Marilla cũng phá lên cười. Cháu biết đấy, ông mục sư khá nhỏ
con, lùn, mập, chân vòng kiềng. Và, cái con lợn già nhà ông Harrison, cái con vừa to vừa cao ấy, hôm đó đi lang thang sang nhà mình, xông vào sân, chui vào hiên sau mà chẳng ai biết, nó xuất hiện ngay đó khi viên mục sư bước vào cửa. Nó nhào mạnh tới để thoát ra, nhưng chẳng có chỗ nào để thoát ngoại trừ khoảng trống giữa đôi chân vòng kiềng của ông mục sư. Thế là nó chui ra theo lối ấy, nhưng vì nó quá to, mà ông mục sư lại quá nhỏ con, nó cõng luôn ông ta lên lưng và phóng đi. Mũ ông ta văng một đằng, gậy văng một ngả ngay khi Marilla và ta ra đến cửa. Ta chẳng bao giờ quên được bộ dạng ông ta lúc đó. Và con lợn tội nghiệp thì sợ phát khiếp. Ta sẽ chẳng bao giờ có thể đọc đoạn Kinh Thánh nói về bầy lợn chạy điên cuồng xuống dốc lao xuống biển[9] mà không tưởng tượng ra cảnh con lợn nhà ông Harrison chạy hết tốc lực xuống đồi với ông mục sư. Ta đoán con lợn nghĩ là nó đang cõng Quỷ sứ trên lưng chứ không phải mang hắn trong mình. Thật may là hai đứa sinh đôi không có mặt. Để chúng nhìn thấy một mục sư trong tình trạng chẳng đường hoàng chút nào thì thật không đúng đắn. Ngay trước khi đến dòng suối, ông mục sư nhảy ra, hay là bị té lăn ra thì đúng hơn. Con lợn điên cuồng băng qua dòng suối và chạy thẳng vào rừng. Marilla và ta chạy xuống giúp ông mục sư đứng dậy và phủi áo cho ông ta. Ông ta không bị thương nhưng tức điên lên. Dường như ông ta cho rằng Marilla và ta bày ra mọi chuyện, dẫu bọn ta nói rõ con lợn không phải là của nhà, và nó phá phách nhà chúng ta suốt cả mùa hè rồi. Hơn nữa, ông ta vòng ra cửa sau làm quái gì? Cháu sẽ chẳng bao giờ thấy ông Allan làm điều đó. Cũng còn lâu lắm chúng ta mới kiếm được một người như ông Allan. Nhưng trong cái xui cũng có cái hên. Bọn ta chẳng bao giờ thấy một cọng lông hay một vết chân của con lợn ấy nữa, và ta tin là bọn ta đã được giải thoát khỏi nó.
[9]. Tân ước, Phúc âm theo thánh Matthew 8, Phúc âm theo thánh Mark 5: Jesus gặp người bị quỷ ám, lệnh cho quỷ rời khỏi người ấy và nhập vào đàn lợn đang ăn gần đó; cả đàn lợn lao xuống biển chết.
“Mọi chuyện diễn ra khá êm đềm ở Avonlea. Ta không thấy Chái Nhà Xanh quá cô độc như ta từng nghĩ. Ta định làm một cái chăn bông nữa cho mùa đông này.
Bà Silas Sloane có một mẫu thêu lá táo mới nhìn rất đẹp.
“Khi ta muốn có chút hứng khởi, ta đọc các vụ án mạng đăng trên tờ báo Boston
cháu gái ta gửi. Ta chưa làm thế bao giờ, nhưng chúng thật hấp dẫn. Nước Mỹ hẳn là một nơi thật khủng khiếp. Hy vọng cháu chẳng bao giờ phải đi đến đó, Anne ạ. Nhưng bọn con gái ngày nay đi khắp trái đất, thật khủng khiếp. Nó luôn gợi cho ta nhớ đến Satan trong sách Job, đi qua đi lại, đi lên đi xuống. Ta nghĩ Chúa trời không hề muốn như vậy đâu, thế đấy.
“Kể từ khi cháu đi thì Davy khá là ngoan. Có một hôm nó hư nên bị Marilla phạt đeo tạp dề của Dora suốt ngày, sau đó nó cắt nát hết tất cả tạp dề của Dora. Ta đánh nó một trận, thế là nó đuổi theo con gà trống của ta cho đến khi con gà chết ngắc.
“Gia đình MacPherson đã chuyển đến nhà cũ của ta. Bà MacPherson là một người nội trợ giỏi giang tuy có phần kỳ quặc. Bà ấy nhổ sạch mấy bông loa kèn tháng Sáu của ta vì chúng làm khu vườn lộn xộn quá. Hoa ấy Thomas trồng khi chúng ta cưới nhau. Chồng bà ta coi cũng tử tế, nhưng bà ta hình như chưa tỉnh lại từ thời kỳ làm gái già, thế đấy.
“Đừng học hành vất vả quá, nhớ để ý mặc quần áo ấm ngay khi thời tiết trở lạnh. Marilla lo lắng cho cháu lắm, nhưng ta bảo bà ấy là cháu khôn ngoan hơn hẳn so với trước kia ta vẫn tưởng, và cháu sẽ ổn thôi.” Thư của Davy bắt đầu bằng lời kêu rên.
“Cô anne yêu dấu, xin hãy viết thư bảo bà marilla đừng trói cháu vào trụ cầu khi cháu đi câu cá bọn con trai trêu chọc cháu dữ lắm khi bà ấy làm thế. Không có cô thì buồn khủng khiếp nhưng ở trường thì dất vui. Jane andrews dữ hơn cô. Cháu bắt ma trơi dọa bà lynde tối qua. Lúc nào bà ấy cũng bực bội, bà ấy bực vì cháu dí con gà trống già chạy dòng dòng quanh sân cho tới khi nó chết ngắc. Cháu không muốn làm nó chết mà. Cô anne, sao nó lại chết, cháu muốn biết. bà lynde ném nó vào chuồng lợn bà ấy có thể bán nó cho ông blair. ông blair mua gà trống chết còn ngon lành với giá 50 su. Cháu nghe bà lynde nhờ mục sư cầu nguyện giùm cho bà ấy. Bà ấy làm chuyện xấu gì vậy hả cô anne, cháu muốn biết. Cháu có một con diều với cái đuôi hết xẩy, cô anne ạ. Milty bolter kể cho cháu nghe một chuyện dất hay trong lớp hôm qua. chuyện thật đấy. ông già Joe Mosey và Leon đang chơi bài đêm tuần qua trong rừng. Bài đặt trên một gốc cây và một người đàn ông to lớn đen thùi to hơn cái cây đi tới chộp lấy bài và gốc cây và biến mất với tiếng động rầm rầm như sấm. Cháu đoán là họ sợ hết hồn. Milty nói người
đàn ông đen là quỷ xứ đấy, phải vậy không hở cô anne, cháu muốn biết. Ông kimball ở spenservale bệnh nặng và phải đi bệnh diện. đợi cháu chút để cháu hỏi bà marilla coi viết vậy đúng chưa. Bà marilla nói là ông ta đi bệnh diện tâm thần thì có. Ông ta nghĩ có một con rắn trong người, có con rắn trong người là sao hở cô anne. Cháu muốn biết. bà lawrence bell cũng bị bệnh. bà lynde nói vấn đề duy nhất của bà ta là bà ta nghĩ quá nhiều về những thứ bên trong bà ấy.”
“Mình tự hỏi,” Anne nói khi gấp các lá thư lại, “bà Lynde sẽ nghĩ gì về Phillippa đây.”
Chương 6: Trong công viên
“Các cô nàng định làm gì hôm nay nào?” Phillippa hỏi khi ló đầu vào phòng Anne vào một buổi chiều thứ Bảy.
“Bọn tớ định đi dạo ngoài công viên,” Anne đáp. “Lẽ ra tớ phải ở nhà khâu cho xong cái áo. Nhưng tớ chẳng thể may vá gì vào một ngày thế này. Có thứ gì trong không khí đã chui vào máu tớ, khiến cho linh hồn tớ lâng lâng. Tay tớ cứ giật giật và thế là đường may bị méo. Thế là, đi công viên thăm hàng thông thôi.”
“‘Bọn tớ’ có bao gồm ai khác ngoài cậu và Priscilla không?”
“Có chứ, có Gilbert và Charlie, và chúng tớ rất vui nếu cậu tham gia.”
“Nhưng,” Philippa u sầu đáp, “nếu tớ đi tớ sẽ trở thành kỳ đà cản mũi, mà Philippa Gordon chưa từng làm kỳ đà bao giờ.”
“À, phải thử một lần mới biết. Đi với bọn tớ đi, rồi cậu sẽ thông cảm với những linh hồn tội nghiệp cứ phải làm kỳ đà cản mũi mãi. Mà đám nạn nhân của cậu đâu rồi?”
“Ôi, tớ chán tất cả bọn họ và chẳng thể chịu nổi bất kỳ ai trong ngày hôm nay. Hơn nữa, tớ đang cảm thấy chán đời tí xíu xiu, như màu trời xanh nhờ nhờ ấy. Không đến nỗi đen tối lắm đâu. Tuần trước tớ viết thư cho Alec và Alonzo. Tớ bỏ thư vào phong bì, ghi tên nhưng chưa dán lại. Chiều hôm ấy, có một chuyện tức cười diễn ra. Alec sẽ thấy tức cười, nhưng Alonzo thì không đâu. Tớ đang vội, thế là tớ lôi lá thư gửi Alec ra - ít nhất là tớ nghĩ thế - và viết vội một hàng tái bút. Sau đó tớ gửi hai lá
thư đi. Tớ nhận được thư trả lời từ Alonzo sáng nay. Các cô gái ơi, tớ đã viết dòng tái bút vào thư của anh chàng, và anh chàng tức điên lên. Đương nhiên là anh chàng sẽ qua cơn thôi - tớ cũng cóc thèm để ý nếu anh chàng còn giữ cơn tức giận - nhưng một ngày của tớ thế là xong. Thế là tớ nghĩ tớ sẽ đi tìm các cậu để vui vẻ hơn một chút. Mùa bóng bắt đầu là tớ chẳng có buổi chiều thứ Bảy rảnh rỗi nào nữa đâu. Tớ mê đá bóng lắm. Tớ có cái mũ và áo len tuyệt vời kẻ sọc các màu Redmond để mặc tới các trận đấu. Đương nhiên, nhìn xa thì tớ trông giống như là cái trụ đèn ba màu ở hiệu cắt tóc ấy. Cậu có biết là Gilbert của cậu đã được bầu là đội trưởng đội bóng năm nhất không?”
“Có, cậu ấy kể cho bọn tớ nghe chiều qua,” Priscilla kể khi thấy Anne giận đến mức không trả lời nổi. “Cậu ấy và Charlie ghé chơi. Bọn tớ biết là họ sẽ tới, nên đã khổ sở cất hết đám đệm ghế của cô Ada ra khỏi tầm nhìn hay tầm tay. Cái đệm thêu nổi cầu kỳ ấy, tớ dúi nó xuống sàn trong góc đằng sau cái ghế. Tớ nghĩ nó sẽ sống an toàn ở đó. Nhưng cậu có tin nổi không? Charlie Sloane tiến tới cái ghế đó, để ý thấy cái đệm đằng sau, nghiêm trang kéo nó lên và ngồi lên đó suốt cả buổi chiều. Sau đó nhìn nó thảm đến chết được! Hôm nay, cô Ada đáng thương hỏi tớ, vẫn mỉm cười nhưng nụ cười sao mà đầy trách móc, rằng vì sao tớ lại để người ta ngồi lên nó. Tớ đáp rằng tớ không cho ai làm thế cả, chỉ là ý trời kết hợp với tính nhà Sloane mà thôi, và tớ thì làm sao chống lại cặp đôi ấy nổi.”
“Mấy cái đệm ghế của cô Ada bắt đầu làm tớ phát khùng rồi đấy,” Anne nói. “Tuần trước, cô ấy làm xong hai cái mới, đường thêu chằng chịt đến mức chẳng còn thêu thêm chỗ nào nữa. Không còn chỗ nào thiếu đệm nữa, cô ấy dựng sát vào tường trên chiếu nghỉ cầu thang. Hở chút là chúng lại đổ xuống, và cứ đi lên xuống cầu thang trong bóng tối là bọn tớ lại bị vấp. Chủ nhật vừa rồi, khi tiến sĩ Davis cầu nguyện cho những người phải đối mặt với những hiểm nguy ngoài biển cả, tớ thầm thêm vào, ‘và cho những kẻ sống trong những ngôi nhà mà đệm ghế không những được yêu mến mà còn được tôn thờ!’ Này, bọn tớ sẵn sàng rồi, và tớ đã thấy bọn con trai đang đi vòng qua Cựu St. John. Cậu có gia nhập không, Phil?”
“Đi chứ, nếu tớ được đi chung với Priscilla và Charlie. Làm kỳ đà cản mũi cho cặp này thì cũng chịu đựng được. Chàng Gilbert của cậu dễ thương lắm, Anne ạ, nhưng vì sao chàng lúc nào cũng đi chung với cái tên mắt ốc nhồi kia thế?”
Anne cứng người. Cô không ưa Charlie Sloane cho lắm, nhưng anh ta là dân Avonlea, cho nên không có người ngoài nào được quyền cười nhạo anh ta cả.
“Charlie và Gilbert là bạn từ nhỏ,” cô lạnh lùng đáp. “Charlie là một cậu trai dễ thương. Cậu ấy đâu có lỗi vì đôi mắt của mình.”
“Đừng có nói thế! Cậu ta có lỗi chứ! Kiếp trước chắc cậu ta phải phạm tội gì ghê gớm lắm nên kiếp này mới phải mang cặp mắt như thế. Chiều nay Pris và tớ sẽ đùa cậu ta ra trò. Bọn tớ sẽ trêu chọc cậu ta thẳng mặt mà cậu ta chẳng bao giờ hiểu.”
Đương nhiên, “hai cô nàng P bị bỏ rơi”, như Anne hay gọi, đã tiến hành ý định đáng yêu của mình. Nhưng may mắn thay Sloane chẳng biết tí gì, anh ta nghĩ thật oách khi được đi chung với hai nữ sinh như thế, nhất là Philippa Gordon, hoa khôi của lớp. Nhất định Anne sẽ ấn tượng lắm đây. Cô ấy sẽ thấy là cũng có người đánh giá đúng giá trị của anh ta.
Gilbert và Anne la cà đằng sau, tận hưởng vẻ đẹp tĩnh lặng buổi chiều thu dưới hàng thông trong công viên, trên con đường quanh co vòng qua bến cảng.
“Nơi đây tĩnh lặng như một lời cầu nguyện vậy, phải không?” Anne ngẩng mặt lên bầu trời đầy nắng. “Tớ yêu những hàng thông quá! Chúng cắm rễ thật sâu, xuyên qua những truyền thuyết lãng mạn của các thời đại. Thỉnh thoảng tới đây trò chuyện với chúng thì thật dễ chịu. Lúc nào tớ cũng cảm thấy rất hạnh phúc ở nơi này.”
“‘Và dãy núi cô đơn bỗng chìm đắm. Như bùa mê thuốc say. Lo âu rơi khỏi họ như muôn lá. Gió giũ hàng thông bay.’”[10]
[10]. “Dickens ở trại”, thơ Bret Harte, kể về những người thợ mỏ nghe đọc Dickens bên lửa trại.
Gilbert ngâm nga.
“Chúng khiến cho những tham vọng của chúng ta trông thật nhỏ nhen, phải không Anne?”
“Tớ nghĩ, nếu có chuyện gì thật buồn xảy đến với tớ, tớ sẽ tìm an ủi ở hàng thông,” Anne mơ màng.
“Tớ mong là chẳng có chuyện gì buồn xảy ra với cậu cả, Anne à,” Gilbert không thấy có mối liên hệ nào giữa nỗi buồn và cô nàng sống động vui vẻ bên cạnh anh, anh không biết rằng người biết bay lên đỉnh cao nhất thì cũng có thể lao xuống vực sâu nhất, và những kẻ tột cùng yêu mến cuộc đời cũng là những kẻ đau khổ nhiều nhất.
“Nhưng phải có thôi, một ngày nào đó,” Anne lẩm bẩm. “Cuộc đời giờ chẳng khác gì ly rượu nồng kề sát môi tớ. Nhưng luôn có chút cay đắng trong mỗi ly rượu. Tớ sẽ nếm trải một ngày nào đó. Ôi, tớ hy vọng mình sẽ đủ mạnh mẽ để đón nhận. Và tớ mong đó sẽ không phải là do lỗi của tớ. Cậu có nhớ tối Chủ nhật tuần trước tiến sĩ Davis đã nói gì không, rằng những buồn thương mà Chúa gửi tới mang theo cả sự an ủi và sức mạnh, trong khi những buồn thương chúng ta tự chuốc lấy vì ngu ngốc hay xấu xa mới là khó chịu đựng nhất? Nhưng chúng ta không nên nhắc đến những chuyện buồn đau vào một buổi chiều thế này. Nó chỉ dành riêng cho niềm vui cuộc sống tuyệt đối thôi, phải không?”
“Nếu có thể, tớ sẽ giữ cho cuộc đời cậu chỉ tràn đầy niềm vui và hạnh phúc thôi, Anne à,” Gilbert nói với một giọng “cảnh báo nguy hiểm”.
“Vậy thì cậu thật ngốc,” Anne vội cắt ngang. “Tớ chắc chắn là chẳng có cuộc đời nào hoàn chỉnh nếu không có vài trắc trở và buồn đau, mặc dù tớ cho rằng chúng ta chỉ nói thế khi đang hạnh phúc mà thôi. Đi nào, mấy người kia đã đi đến chòi nghỉ mát và đang vẫy gọi chúng ta kìa.”
Họ ngồi xuống bên trong chòi nghỉ mát ngắm cảnh hoàng hôn mùa thu đỏ thẫm màu lửa xen lẫn ánh vàng lấp lánh. Bên trái họ là Kingsport, mái nhà và tháp nhọn lờ mờ dưới lớp sương tím. Bên phải là cảng biển, ửng màu hồng pha đồng trải dài đến tận nơi mặt trời lặn. Trước mặt họ, mặt nước lấp lánh màu xám bạc mịn như nhung, xa hơn nữa, đảo William nhẵn nhụi nhô ra khỏi làn sương, chẳng khác gì chú chó bun cường tráng đang canh gác cho thị trấn. Ánh đèn hải đăng lóe sáng trong làn sương như ngôi sao báo bão, đối ứng với một ngôi sao khác ở tít tận chân trời.
“Cậu có bao giờ nhìn thấy một nơi nào nhìn có vẻ vững vàng như thế chưa?” Philippa hỏi. “Tớ không hẳn là muốn sở hữu đảo William, nhưng tớ tin chắc dù tớ có muốn thì cũng chẳng được. Nhìn chàng lính canh trên chóp pháo đài kìa, ngay bên cạnh ngọn cờ đấy. Trông cứ như là bước ra từ một truyền thuyết Trung cổ ấy nhỉ?”
“Nói đến truyền thuyết,” Priscilla thốt lên, “bọn tớ đang tìm ít thạch nam, nhưng đương nhiên là không tìm được rồi. Tớ nghĩ là quá mùa rồi.”
“Thạch nam!” Anne kêu lên. “Thạch nam làm gì có mọc ở châu Mỹ?”
“Trên cả lục địa chỉ có hai chỗ mà thôi,” Phil đáp, “một ở ngay trong công viên này, và một ở chỗ nào đó tận Nova Scotia mà tớ quên mất tiêu rồi. Một năm nọ Trung đoàn cao nguyên nổi danh Black Watch đến đây cắm trại, và khi những người lính giũ rơm khỏi giường vào mùa xuân, vài hạt thạch nam đã nảy mầm.”
“Ôi, tuyệt quá!” Anne kêu lên sung sướng.
“Chúng ta vòng qua đại lộ Spofford về nhà đi,” Gilbert đề nghị. “Chúng ta sẽ tha hồ ngắm ‘những ngôi nhà đẹp đẽ nơi các nhà quý tộc giàu có cư ngụ.’ Đại lộ Spofford là con đường dân cư đẹp nhất ở Kingsport này đấy. Không ai xây nổi căn nhà nào ở đây nếu không phải là triệu phú đâu.”
“Ôi, đi đi,” Phil nói. “Có một chốn nhỏ nhắn đáng yêu đến chết được tớ muốn cho cậu xem, Anne ạ. Chủ của nó không phải triệu phú đâu. Nó nằm ngay sau chỗ cậu rời công viên đấy, chắc mọc lên ở đó từ thuở đại lộ Spofford vẫn còn là một con đường làng. Nó mọc lên thật đấy, không phải được xây nên đâu! Tớ chẳng ưa những căn nhà khác trên đại lộ. Nhìn chúng mới tinh tươm và trông như hàng mẫu ấy. Nhưng chốn nhỏ nhắn này là một giấc mơ, và tên của nó nữa chứ, nhưng đợi chút chính mắt cậu sẽ thấy.”
Họ nhìn thấy nó khi leo từ công viên lên ngọn đồi thông xanh viền quanh. Ngay trên đỉnh, nơi đại lộ Spofford thu nhỏ thành một con đường bình thường, một căn nhà khung trắng mái thấp nằm dưới vòng tay che chở của cụm thông ở hai bên. Dây leo vàng đỏ phủ kín căn nhà, lấp ló đằng sau là những ô cửa sổ với cửa chớp sơn xanh. Đằng trước là một khu vườn bé tí teo lọt giữa bức tường đá thấp. Dẫu trời đã vào tháng Mười, khu vườn vẫn tươi thắm với những bông hoa và cây bụi kiểu xưa thanh tao đáng yêu: táo gai, ngải bụi, cỏ roi chanh, cải gió, thuốc lá cảnh, vạn thọ và cúc đại đóa. Một bức tường gạch xếp chữ chi dẫn từ cổng vào tận hiên trước. Nơi này cứ như là được bứng rễ từ một làng quê xa xôi nào đó đến đây, nhưng ở ngôi nhà vẫn có nét đặc biệt khiến cho láng giềng gần nhất, tòa lâu đài to đùng với bãi cỏ viền quanh của một ông vua thuốc lá, nhìn cực kỳ thô lỗ, lòe loẹt và thiếu trau chuốt. Đúng như Phil nói, đó là sự khác biệt giữa tự nhiên và nhân tạo.
“Đây là nơi ở tuyệt vời nhất mà tớ từng thấy,” Anne vui sướng thốt lên. “Nó khiến tim tớ lại quặn lên rất kỳ cục và hân hoan, cứ như hồi xưa ấy. Nó trông còn thân thương và đặc biệt hơn cả căn nhà đá của cô Lavendar nữa kìa.”
“Tớ muốn cậu đặc biệt chú ý đến tên của nó,” Phil lên tiếng. “Nhìn kìa, chữ màu trắng, xung quanh cổng tò vò bên trên cửa. ‘Nhà Patty’. Có chết người không chứ? Nhất là trên đại lộ toàn Đồi Thông, Trại Tuyết Tùng và Khoảnh Du? ‘Nhà Patty’, thế cơ chứ! Tớ nhìn mà mê tít mắt.”
“Cậu có biết Patty là ai không?” Priscilla hỏi.
“Patty Spofford là tên của quý bà chủ nhà, tớ hỏi rồi. Bà ấy sống ở đây với cô cháu gái, họ đã ở đây cả trăm năm rồi, lâu cỡ đó đó, chỉ xê xảy chút ít thôi, nhưng có lẽ là thua vài ba năm, Anne ạ. Cường điệu chỉ là một khoảnh khắc thăng hoa thơ ca thôi. Tớ biết đám nhà giàu đã nhiều lần tìm cách mua khu đất này, cậu biết đấy, giờ thì nó đắt bằng cả một gia tài, nhưng ‘Patty’ cương quyết không bán với bất cứ giá nào. Và nó không có sân sau mà thay vào đó là một khu vườn táo ở đằng sau nhà, lát nữa đi qua cậu sẽ thấy, một vườn táo thực thụ ngay trên đại lộ Spofford!”
“Tối nay tớ sẽ nằm mơ thấy ‘Nhà Patty’,” Anne nói. “Ôi, tớ cảm thấy như tớ thuộc về nơi này ấy. Tớ tự hỏi, không biết chúng ta có may mắn được ngó qua một lượt bên trong không.”
“Khó đấy,” Priscilla đáp.
Anne mỉm cười bí ẩn.
“Ừ, khó lắm. Nhưng tớ tin là sẽ có dịp thôi. Tớ có một cảm giác kỳ lạ ớn xương sống, cậu có thể gọi đó là linh cảm, nếu thích, rằng ‘Nhà Patty’ và tớ sẽ trở thành bạn bè với nhau.”
Chương 7: Trở về nhà
Ba tuần đầu tiên ở Redmond có vẻ dài dằng dặc, nhưng học kỳ còn lại lại trôi qua nhanh như gió. Trước khi kịp ý thức được, các sinh viên Redmond đã thấy mình bị cuốn vào vòng quay của các kỳ thi trước khi nghỉ lễ, rồi thoát khỏi nó một cách vinh quang, dẫu nhiều hay ít. Vinh dự đứng đầu sinh viên năm nhất các môn chia đều giữa Anne, Gilbert và Philippa; thành tích của Priscilla rất tốt, Charlie Sloane lê gót mãi cũng qua được cầu, rồi tự an ủi mình một cách vênh váo cứ như anh ta luôn đứng đầu trong mọi môn học vậy.
“Tớ không tin nổi là giờ này ngày mai tớ sẽ có mặt ở Chái Nhà Xanh,” Anne thốt lên vào đêm trước khi quay về nhà. “Nhưng đó là sự thật. Và cậu, Phil ạ, sẽ ở Bolingbroke cùng với Alec và Alonzo.”
“Tớ cũng muốn gặp bọn họ lắm,” Phil thú nhận trong lúc nhấm nháp sô cô la. “Bọn họ là những cậu trai rất đáng yêu, cậu biết đấy. Tha hồ mà khiêu vũ, đi dạo, tiệc tùng đàn đúm liên miên. Tớ sẽ không bao giờ tha thứ cho cậu, Nữ hoàng Anne ạ, vì tội không chịu đến nhà tớ chơi vào dịp nghỉ lễ.”
“‘Không bao giờ’ đối với cậu chỉ là ba ngày thôi, Phil ạ. Cậu thật dễ thương khi mời tớ, và tớ cũng thích đi Bolingbroke lắm. Nhưng năm nay thì không được, tớ phải về nhà. Cậu không biết tim tớ khao khát điều đó đến nhường nào đâu.”
“Chẳng có gì hay ho ở đó đâu,” Phil coi thường đáp. “Ừ thì tớ nghĩ chắc cũng có vài bữa họp mặt đan lát, và những bà già lắm chuyện sẽ tha hồ lèm bèm trước mặt và sau lưng cậu. Cậu sẽ chết vì cô đơn mất, bé cưng.”
“Ở Avonlea sao?” Anne thấy hết sức thú vị trước lời nói của bạn.
“Còn nếu cậu đi với tớ, cậu sẽ có một khoảng thời gian không thể nào tuyệt vời hơn được. Bolingbroke sẽ điên lên vì cậu, Nữ hoàng Anne ạ, tóc của cậu, phong cách của cậu, và ôi, tất cả mọi thứ! Cậu thật khác biệt. Cậu sẽ thành công dữ lắm, và tớ sẽ dựa hơi cậu, ‘không phải hoa hồng nhưng ở cạnh hoa hồng’. Dù gì thì cũng đi với tớ đi, Anne ạ.”
“Bức tranh về những trò vui xã giao đó khá là hấp dẫn đấy, Phil ạ, nhưng tớ sẽ vẽ một bức tranh khác để cậu so sánh nhé. Tớ trở về nhà, một ngôi nhà kiểu trang trại miền quê cũ kỹ, từng được sơn xanh nhưng giờ đã phai màu, nhô lên giữa vườn táo trụi lá. Có một con suối phía dưới và một cánh rừng linh sam tháng Mười hai ở đằng xa, nơi tớ từng nghe tiếng đàn hạc vẳng lên dưới những ngón tay của gió cùng mưa. Cái hồ gần đấy mùa này đã chuyển màu xám xịt ủ ê. Có hai quý bà lớn tuổi bên trong căn nhà, một vừa cao vừa ốm, một vừa thấp vừa béo, và còn hai đứa nhóc sinh đôi, một thì ngoan ngoãn kiểu mẫu, một thì đến ‘quỷ sứ cũng phải sợ’, theo cách nói của bà Lynde. Căn phòng nhỏ trên lầu nhìn ra cổng vòm giăng mắc đầy những giấc mơ xưa, một cái giường nệm lông dày cộm tuyệt vời, đỉnh cao của xa hoa so với tấm nệm nơi nhà trọ. Cậu thấy bức tranh của tớ thế nào hả Phil?”
“Có vẻ chán đời lắm,” Phil nhăn mặt.
“Ồ, nhưng tớ chưa kể đến những thứ vô hình.” Anne dịu dàng tiếp. “Sẽ có tình yêu ở đó, Phil ạ, thứ tình yêu dịu dàng như nhất mà tớ chẳng thể tìm thấy được ở bất kỳ nơi nào khác trên cả thế giới này, tình yêu đang chờ đợi tớ quay về. Nó phải chăng đã khiến cho bức tranh của tớ trở thành một danh tác, dẫu màu sắc không được chói lọi lắm?”
Phil lặng lẽ đứng dậy, quăng hộp sô cô la qua một bên, bước tới bên Anne và choàng tay quanh người cô.
“Anne, ước gì tớ được như cậu,” cô trịnh trọng nói.
Tối hôm sau Diana đón Anne ở trạm Carmody, họ đánh xe về nhà dưới màn trời êm ả, sâu thẳm đính đầy sao. Chái Nhà Xanh tràn đầy không khí lễ hội khi họ đánh xe dọc theo lối vào. Cửa sổ nào cũng sáng đèn, ánh sáng xuyên qua màn đêm cứ như những đóa hoa đỏ rực đung đưa, đối chọi hẳn với cái nền sẫm màu của rừng Ma Ám. Và ở giữa sân là một đống lửa to đùng với hai bóng trẻ con đang vui sướng nhảy nhót xung quanh, một đứa hú lên ghê rợn khi chiếc xe ngựa rẽ vào dưới tàng bạch dương.
“Davy bảo đó là tiếng rú xung trận của mọi da đỏ,” Diana nói. “Tên nhóc giúp việc của ông Harrison dạy cho cu cậu, cu cậu tập luyện mãi để hú lên đón cậu về. Bà Lynde nói tiếng rú đó làm dây thần kinh của bà ấy tả tơi cả ra. Cậu biết không, cu cậu toàn lẻn đến sau lưng bà Lynde rồi bất thần hú lớn lên. Cu cậu cũng đòi bằng được phải thắp lửa để đón cậu. Cu cậu nhặt nhạnh củi khô suốt hai tuần liền rồi kỳ kèo bác Marilla xin đổ dầu hôi lên trước khi thắp lửa. Ngửi mùi thì tớ đoán bác Marilla đã đồng ý, dẫu bà Lynde cứ đinh ninh là Davy sẽ làm nổ tung chính cu cậu và tất cả mọi người nếu được phép thích làm gì thì làm.”
Lúc này thì Anne đã nhảy ra khỏi xe, Davy nồng nhiệt ôm chặt lấy đầu gối cô và cả Dora lúc này cũng bíu lấy tay cô.
“Đống lửa ngon lành quá phải không cô Anne? Để cháu chỉ cô cách cời lửa nhé, thấy tia lửa bắn lên không? Cháu đốt lửa mừng cô đấy, vì cháu rất sung sướng khi cô về nhà.”
Cửa bếp mở ra, thân hình mảnh khảnh của bà Marilla hiện ra tối sẫm giữa ánh sáng đằng sau. Bà thích đón Anne trong bóng tối, vì sợ khủng khiếp rằng mình sẽ òa khóc vì vui sướng - chính bà Marilla đây, con người nghiêm khắc luôn biết tự kiềm chế, luôn cho rằng biểu lộ cảm xúc thực sự ra ngoài thì chẳng phải phép chút nào. Bà Lynde ở ngay phía sau, phốp pháp, thân mật, chỉnh tề vẫn như mọi khi. Tình yêu chờ đợi Anne mà cô từng kể với Phil bao bọc lấy cô một cách ngọt ngào và tràn đầy chúc phúc. Cuối
cùng, chẳng có gì so sánh nổi với những mối dây thân tình, bạn bè và Chái Nhà Xanh cũ xưa! Đôi mắt Anne lấp lánh như sao trời khi mọi người ngồi xuống bàn ăn tối nặng trĩu, má cô ửng hồng, giọng cười của cô trong trẻo như chuông bạc! Và Diana cũng ngủ lại qua đêm nữa. Ôi, y hệt như thời thơ ấu thân yêu! Và bộ đồ trà hoa hồng ngự trị trên bàn ăn nữa chứ! Với Marilla thì cơn bão tình thâm chỉ quét đến đó là dừng.
“Ta chắc cháu và Diana sẽ lại thì thà thì thầm suốt đêm chứ gì,” Marilla nói với giọng chế nhạo khi hai cô gái lên cầu thang. Sau mỗi lần để lộ tình cảm ra ngoài, lúc nào Marilla cũng xù lông lên như vậy.
“Đúng thế,” Anne vui vẻ đáp, “Nhưng cháu sẽ cho Davy đi ngủ cái đã. Cu cậu cứ nằng nặc đòi cháu.”
“Chứ còn gì nữa,” Davy nói lúc họ đi dọc theo hành lang. “Cháu muốn lại được đọc lời cầu nguyện với ai đó. Cầu nguyện một mình chán phèo.”
“Cháu có cầu nguyện một mình đâu, Davy. Chúa luôn ở bên cạnh lắng nghe cháu.”
“À, cháu có nhìn thấy Người đâu,” Davy phản đối. “Cháu muốn cầu nguyện với ai mà cháu có thể nhìn thấy được ấy, nhưng cháu không cầu nguyện với bà Lynde hay bà Marilla đâu, thế đấy!”
Tuy nhiên, sau khi chui vào bộ quần áo ngủ vải flanen xám, cu cậu chưa vội cầu nguyện. Nó đứng trước mặt Anne, di di hết chân phải đến chân trái, vẻ mặt lưỡng lự.
“Nào, bé cưng, quỳ xuống,” Anne gọi.
Davy chạy tới dụi đầu vào lòng Anne nhưng không quỳ.
“Cô Anne,” nó nói với giọng nghèn nghẹn. “Cháu chẳng muốn cầu nguyện tí nào. Cả tuần rồi cháu chả có hứng thú cầu nguyện. Cháu... cháu không cầu nguyện tối hôm qua lẫn tối hôm kia.”
“Vì sao vậy Davy?” Anne dịu dàng hỏi.
“Cô... cô sẽ không nổi khùng chứ?” Davy nằng nặc.
Anne nhấc thân hình bé bỏng trong bộ đồ flanen xám lên gối và đưa hai tay ôm lấy đầu cậu bé.
“Cô có bao giờ ‘nổi khùng’ khi cháu kể chuyện đâu nào?”
“Khôngggg, cô chẳng bao giờ như thế. Nhưng cô sẽ buồn, và thế còn tệ hơn. Cô sẽ buồn khủng khiếp khi nghe cháu kể, Anne ạ, và cô sẽ xấu hổ vì cháu, cháu nghĩ thế.”
“Cháu làm chuyện xấu gì hả Davy, đó là lý do mà cháu không cầu nguyện được sao?”
“Không, cháu đâu có làm chuyện gì xấu... vẫn chưa làm. Nhưng cháu muốn làm lắm.”
“Chuyện gì cơ, Davy?”
“Cháu... cháu muốn nói một từ bậy, cô Anne ơi,” Cố gắng hết sức, Davy cũng bật ra. “Cháu nghe anh giúp việc của ông Harrison nói tuần rồi, và kể từ đó, lúc nào cháu cũng muốn nói từ bậy đó, kể cả lúc đang cầu nguyện.”
“Vậy thì cứ nói đi, Davy.”
Davy kinh ngạc ngước khuôn mặt đỏ bừng lên.
“Nhưng cô Anne ơi, đó là một từ bậy khủng khiếp.”
“Cứ nói đi!”
Davy nhìn cô lần nữa vẻ không thể tin nổi rồi hạ giọng nói ra cái từ khủng khiếp đó. Ngay lập tức, nó lại dụi mặt sát vào người Anne.
“Ôi, cô Anne ơi, cháu sẽ không bao giờ nói từ đó nữa, không bao giờ. Cháu sẽ không bao giờ muốn nói từ bậy đó nữa. Cháu biết nó bậy, nhưng cháu không nghĩ rằng nó... nó... Cháu không nghĩ rằng nó tệ đến thế.”
“Không, cô không nghĩ cháu sẽ muốn nói lại, hay nghĩ về nó lần nữa. Và nếu cô là cháu, cô sẽ chẳng thèm chơi với anh chàng giúp việc của ông Harrison nữa đâu.”
“Anh ấy hú tiếng rú chiến tranh hay dễ sợ,” Davy lộ vẻ tiếc nuối.
“Nhưng cháu không muốn tâm trí cháu đầy những từ bậy, phải không Davy? Những từ sẽ hủy hoại đầu óc cháu và xua đuổi những gì tốt đẹp và nam tính?”
“Không đâu,” Davy mở to mắt cố quan sát tâm trí của mình.
“Vậy thì đừng có chơi với những người hay nói bậy nữa. Giờ thì cháu cảm thấy có thể cầu nguyện được chưa hả Davy?”
“Ồ, được rồi,” Davy hào hứng bò xuống quỳ gối, “Giờ thì cháu cầu nguyện được rồi. Giờ cháu chả sợ khi nói câu ‘nếu con chết đi trong lúc ngủ’ như lúc cháu vẫn còn muốn nói bậy nữa.”
Có lẽ Anne và Diana đã dốc hết bầu tâm sự cho nhau nghe vào đêm đó, nhưng chẳng có nguồn nào ghi chép lại những câu chuyện tâm tình của họ. Cả hai trông tươi tắn mắt sáng rực trong bữa sáng, chỉ có tuổi trẻ mới được như thế sau khi thức khuya lâu khủng khiếp để cười đùa và tâm sự. Tới giờ tuyết vẫn chưa rơi, nhưng khi Diana băng qua cây cầu gỗ cũ trên đường về nhà, những bông tuyết trắng bắt đầu phấp phới phủ xuống cánh đồng và rừng cây nâu ửng xám xịt trong giấc ngủ không mộng mị. Chẳng mấy chốc, những dốc núi và ngọn đồi đằng xa mờ dần và thoắt ẩn thoắt hiện qua tấm khăn choàng mỏng mảnh, cứ như mùa thu xanh xao đã tung một tấm voan cô dâu mờ ảo lên mái tóc, chờ đợi chú rể mùa đông. Cuối cùng thì họ cũng có được một Giáng sinh tuyết trắng, và đó là một ngày hết sức dễ chịu. Buổi sáng, thư và quà của cô Lavender và Paul đã đến nơi, Anne mở ra xem trong gian phòng bếp vui vẻ của Chái Nhà Xanh, nơi tràn đầy mùi thơm “ngon lành” như Davy hay vừa gọi vừa đánh hơi với vẻ ngây ngất.
“Cô Lavendar và ông Irving đã yên ổn trong căn nhà mới của bọn họ rồi,” Anne
thuật lại. “Cháu chắc chắn là cô Lavendar đang hết sức hạnh phúc - đọc lời thư của cô ấy là biết rồi - nhưng còn có thêm lời nhắn của Charlotta Đệ Tứ nữa. Cô bé chẳng thích Boston chút nào và nhớ nhà khủng khiếp. Cô Lavendar nhờ cháu khi nào rảnh thì ghé qua Nhà Vọng để đốt bếp lò cho thoáng khí, đồng thời xem xem nệm ghế có bị mốc không. Cháu định rủ Diana đi cùng tuần sau, sau đó thì ghé thăm Theodora Dix vào buổi tối luôn. Cháu muốn gặp Theodora. Nhân tiện, Ludovic Speed có còn theo đuổi chị ấy không?”
“Người ta bảo vẫn còn,” bà Marilla đáp, “và anh chàng coi bộ vẫn cứ tiếp tục đường ta ta đi. Mọi người đã đầu hàng, không dự đoán nổi kết quả của cuộc tình này nữa.”
“Nếu ta là Theodora thì ta sẽ khéo léo thúc giục anh chàng, thế đấy,” bà Lynde lên tiếng. Không nghi ngờ gì, nhất định bà Lynde sẽ làm như vậy.
Còn có một bức thư viết tháu rất đặc trưng từ Philippa nữa, đầy thông tin về Alec và Alonzo, họ nói gì, họ làm gì, trông họ thế nào khi họ gặp cô.
“Nhưng tớ vẫn chưa quyết định được là nên cưới ai,” Phil viết. “Tớ ước gì có cậu đi cùng để quyết định cho tớ. Phải có ai đó làm chuyện này thôi. Khi tớ thấy Alec, tim tớ đập mạnh một phát và tớ nghĩ, ‘Chắc là anh ấy rồi.’ Và rồi khi Alonzo tới, tim tớ lại nhảy lên một phát nữa. Thế là chẳng căn cứ vào nhịp đập trái tim được nữa, dẫu lẽ ra nó khá là đáng tin theo tất cả những tiểu thuyết tớ từng đọc. Này, Anne, trái tim của cậu chắc sẽ chỉ đập mạnh trước mỗi mình Bạch Mã Hoàng Tử thôi, phải không? Tim của tớ chắc bị hư từ gốc rễ mất rồi. Nhưng tớ đã sống những ngày hoàn toàn tuyệt vời. Ôi, tớ ước gì cậu đang ở đây! Hôm nay tuyết rơi, tớ phát điên vì vui sướng. Tớ cứ sợ là sẽ có một Giáng sinh xanh, tớ ghét thể loại Giáng sinh đấy lắm. Cậu biết đấy, khi Giáng sinh chỉ là một ngày nửa xám nửa nâu buồn tẻ bẩn thỉu, cứ như đã cũ mấy trăm năm và bị trấn nước trong suốt thời gian ấy, thế mà như thế lại được gọi là Giáng sinh xanh! Đừng hỏi tớ tại sao. Cũng như Huân tước Dundreary từng nói, ‘có những thứ chẳng ai hiểu nổi.’
“Anne, cậu có bao giờ nhảy lên xe điện rồi phát hiện ra mình không đem tiền theo để trả tiền vé không? Tớ thì có, ngày hôm trước ấy. Thật khủng khiếp. Lúc lên xe thì tớ có một xu. Tớ nghĩ nó nằm trong túi áo khoác trái. Khi ngồi xuống thoải mái rồi, tớ mới lần tìm nó. Nó không có trong túi. Tớ sợ đến lạnh toát người. Tớ sờ vào túi bên kia. Cũng không có nốt. Một cơn lạnh khác lại ập tới. Rồi tớ sờ vào túi áo trong. Vô ích. Tớ chịu hai cơn lạnh cùng lúc.
“Tớ tháo găng ra, đặt lên ghế rồi mò tất cả các túi. Nó không có ở đó. Tớ đứng dậy, lắc lắc người rồi nhìn xuống sàn xe. Xe đầy nhóc người vừa coi nhạc kịch về, họ nhìn chằm chằm vào tớ, nhưng lúc đấy thì tớ còn tâm trí đâu mà để ý tới nữa.
“Nhưng tớ vẫn chẳng thể tìm ra tiền. Cuối cùng, tớ kết luận là tớ đã đút nó vào miệng và nuốt mất mà không biết.
“Tớ chẳng biết phải làm gì nữa. Tớ tự hỏi liệu ông soát vé có dừng xe lại đuổi tớ xuống trong sự nhục nhã đáng xấu hổ hay không? Liệu tớ có thể thuyết phục ông ấy rằng tớ chỉ là nạn nhân của thói đãng trí chứ không phải là một kẻ vô đạo đức dối trá đi xe chùa? Ôi, tớ ước ao giá như Alec hay Alonzo có mặt ở đó. Nhưng dẫu tớ có muốn thì bọn họ cũng không có mặt. Nhưng nếu tớ không cần thì bọn họ có mặt đủ cả tá. Và tớ chẳng quyết định được là nên nói gì khi ông soát vé đến thu tiền. Ngay khi óc tớ nảy ra một lời giải thích, tớ lại cảm thấy lời đó thật khó tin và phải sáng tác ra một lời giải thích mới. Dường như chẳng còn gì khác để làm ngoại trừ đặt lòng tin vào đấng tối cao, và giá trị an ủi của đấng tối cao với tớ thì cũng chỉ như với quý bà lớn tuổi trong cơn bão, được viên thuyền trưởng khuyên hãy đặt lòng tin vào Chúa, bà ta đã kêu lên, ‘Ôi chao, thưa thuyền trưởng, tình hình tệ hại đến thế rồi sao?’
“Vào đúng giây phút sinh tử ấy, khi mọi hy vọng đã vỗ cánh bay xa và ông soát vé đang chìa hộp tiền ra cho hành khách ngồi kế bên tớ, tớ chợt nhớ ra nơi tớ cất cái đồng xu đáng thương. Hóa ra tớ đâu có nuốt mất. Tớ nhu mì rút nó ra khỏi ngón trỏ trong găng tay và bỏ vào trong hộp. Tớ mỉm cười với mọi người xung quanh và cảm thấy thế giới thật tươi đẹp.”
Chuyến viếng thăm Nhà Vọng cũng là một buổi đi chơi đáng nói trong số những buổi đi chơi thú vị trong kỳ nghỉ. Anne và Diana lần theo con đường mòn trong rừng sồi để quay lại Nhà Vọng, cầm theo một giỏ đồ ăn trưa. Nhà Vọng đóng cửa kể từ đám cưới của cô Lavendar, nay được mở rộng tất cả cửa nẻo ra trong một khoảng thời gian ngắn để đón gió và ánh mặt trời, ánh lửa lấp lánh thêm lần nữa trong những căn phòng nhỏ nhắn xinh xẻo. Mùi hương từ bát hoa hồng của cô Lavendar vẫn còn phảng phất quanh đây. Thật khó mà tin rằng không còn thấy cô Lavendar lập tức nhẹ nhàng bước vào phòng, đôi mắt nâu lấp lánh đón mừng, và Charlotta Đệ Tứ, nơ xanh và nụ cười rộng mở, chạy tọt vào. Paul dường như cũng luẩn quẩn quanh đó với những điều tưởng tượng về chốn thần tiên.
“Tớ có cảm giác giống như một bóng ma đang quay lại viếng thăm mặt trăng thời xưa cũ,” Anne phá lên cười. “Chúng ta ra ngoài xem những tiếng vọng có ở nhà không đi. Cầm theo cái còi cũ ấy. Nó vẫn nằm sau cửa bếp đấy.”
Những tiếng vọng vẫn có ở nhà, bên trên dòng sông trắng, vẫn trong trẻo và đông đảo như thuở nào, và khi chúng đã dừng không đáp lại, các cô gái khóa trái Nhà Vọng lần nữa và ra về trong nửa tiếng giao thời hoàn hảo nối tiếp ánh hồng và vàng nghệ của buổi xế chiều mùa đông.
Chương 8: Lời cầu hôn đầu tiên dành cho Anne
Năm cũ không lặng lẽ lướt đi trong buổi chạng vạng xanh non cùng với ánh chiều tà vàng hồng. Thay vào đó, nó rời đi trong cơn bão tuyết nhộn nhạo hoang dại. Đó là một đêm gió bão rít gào trên những cánh đồng cỏ lạnh cứng và thung lũng tối om, rên rỉ quanh chóp nhà như một con thú lạc lối và hất mạnh tuyết vào những ô cửa run lẩy bẩy.
“Những đêm như đêm nay người ta chỉ thích cuộn mình trong chăn đếm những hạnh phúc của mình,” Anne nói với Jane Andrews khi cô bạn đến chơi vào buổi chiều rồi ở lại qua đêm. Nhưng khi họ cuộn mình trong chăn ở căn phòng nhỏ nhìn ra cửa của Anne, Jane không hề nghĩ đến những điều hạnh phúc trong đời mình.
“Anne,” cô nói với vẻ hết sức nghiêm túc, “tớ muốn nói với cậu một chuyện. Có được không?”
Anne cảm thấy khá buồn ngủ sau bữa tiệc Ruby Gillis tổ chức vào đêm hôm trước. Cô thà đi ngủ còn hơn là lắng nghe tâm sự của Jane, chắc chắn sẽ làm cô chán chết đi được. Cô chẳng hề có chút ý niệm mơ hồ tiên tri về chuyện sắp được nghe. Có lẽ là Jane cũng đính hôn rồi, mọi người đồn là Ruby Gillis đã đính hôn với một thầy giáo ở Spencervale, nghe đồn đám con gái cô nào cũng phát rồ vì anh này.
“Mình sẽ sớm trở thành cô gái độc thân vô tư lự duy nhất trong nhóm bốn người bọn mình,” Anne nghĩ bụng trong cơn buồn ngủ. Cô lên tiếng, “Đương nhiên rồi.”
“Anne,” giọng của Jane còn nghiêm túc hơn nữa, “cậu nghĩ gì về anh trai Billy của tớ?”
Anne há hốc miệng kinh ngạc trước câu hỏi bất ngờ và lúng túng một cách đáng thương tìm hiểu suy nghĩ của mình. Trời ơi, cô nghĩ gì về Billy Andrews? Cô chẳng bao giờ nghĩ gì về anh chàng cả, cái anh chàng Billy Andews mặt tròn, ngốc nghếch, cười không nghỉ, tốt tính ấy. Có ai thèm nghĩ gì về Billy Andrews cơ chứ?
“Tớ... tớ không chắc lắm, Jane ạ,” cô lắp bắp. “Ý cậu... chính xác ấy, là sao?” “Cậu có thích Billy không?” Jane hỏi toạc.
“À, à, ừ, đương nhiên là tớ mến anh ấy rồi,” Anne há hốc miệng, tự hỏi liệu mình có nói đúng nghĩa của từ mến hay không. Đương nhiên là cô không ghét Billy rồi. Nhưng sự chấp nhận thờ ơ của cô đối với anh chàng mỗi khi anh chàng tự dưng xuất hiện trong tầm mắt có đủ tích cực để tính là mến hay chăng? Jane đang cố nói chuyện gì đây?
“Cậu có nghĩ anh ấy thích hợp làm chồng không?” Jane bình tĩnh hỏi tiếp.
“Chồng á!” Nãy giờ Anne ngồi thẳng trên giường, tư thế tốt nhất để vật lộn với vấn đề: đánh giá chính xác của cô về Billy Andrews là gì. Giờ thì cô nằm ngã lăn ra trên gối, hơi thở như tắt lịm. “Chồng của ai cơ?”
“Của cậu, hẳn là thế rồi,” Jane trả lời. “Billy muốn cưới cậu. Anh ấy lúc nào cũng phát điên lên vì cậu, và giờ ba tớ đã chuyển quyền sở hữu trang trại phía trên cho anh ấy, chẳng gì ngăn cản kế hoạch kết hôn của anh ấy nữa. Nhưng anh ấy quá nhút nhát không dám hỏi ý cậu nên anh ấy mới nhờ đến tớ. Tớ từ chối nhưng anh ấy chẳng để tớ yên cho đến khi tớ đồng ý hỏi giúp nếu có dịp. Thế cậu nghĩ sao hả Anne?”
Đây có phải là một giấc mơ không? Loại ác mộng trong ấy ta thấy mình đính hôn hay kết hôn với ai đó mà ta ghét hay chẳng biết tí gì, mà chẳng hiểu vì sao lại ra nông nỗi ấy? Không, cô, Anne Shirley, đang nằm đó, hoàn toàn tỉnh táo trên giường của mình, và Jane Andrews nằm ngay cạnh, bình tĩnh cầu hôn cô giùm cho anh trai Billy. Anne không biết mình nên cảm thấy đau đớn hay nên phá lên cười, nhưng cô chẳng làm gì được, để tránh làm tổn thương Jane.
“Tớ… tớ không thể cưới Bill được, cậu biết mà, Jane,” cô cố gắng lắm mới thốt nên lời. “Ôi, tớ chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó, chưa bao giờ!”
“Tớ cũng cho là thế,” Jane đồng ý. “Billy lúc nào cũng quá nhút nhát chẳng dám nghĩ đến chuyện tán tỉnh con gái. Nhưng cậu cứ suy nghĩ kỹ đi, Anne à. Billy là một người đàn ông tốt. Tớ phải nói thế, dẫu anh ấy có là anh tớ hay không. Anh ấy không có tật xấu nào, làm việc chăm chỉ và cậu có thể tin tưởng anh ấy. ‘Một con chim trong tay bằng hai con chim ngoài bụi.’ Anh ấy bảo tớ nói với cậu là anh ấy sẵn sàng đợi đến khi cậu học xong, nếu cậu muốn, dù ý anh ấy thì thích cưới sớm vào mùa xuân này trước khi bắt đầu gieo hạt. Anh ấy lúc nào cũng đối xử tử tế với cậu, tớ chắc chắn điều đó, và cậu biết đấy, Anne ạ, tớ rất vui nếu được làm chị em với cậu.”
“Tớ không thể cưới Billy đâu,” Anne quả quyết. Giờ thì cô đã tĩnh trí lại và thậm chí còn cảm thấy có chút tức giận nữa. Đúng là quá sức lố bịch mà. “Suy nghĩ cũng chẳng để làm gì, Jane ạ. Tình cảm của tớ với anh ấy chẳng phải là tình yêu, cậu hãy nói với anh ấy như thế.”
“Ôi, tớ cũng nghĩ là cậu từ chối,” Jane thở dài cam chịu, cảm thấy mình đã cố hết sức rồi. “Tớ bảo với Billy là có hỏi cậu cũng chẳng ích gì, nhưng anh ấy cứ nằng nặc nhờ tớ. Ừ, cậu đã quyết định rồi thì thôi, Anne ạ, tớ mong là cậu sẽ chẳng bao giờ phải hối hận.”
Jane nói năng có vẻ lạnh nhạt. Cô cũng hoàn toàn tin chắc là ông anh Billy si tình chẳng có chút cơ hội nào thuyết phục Anne cưới mình. Tuy nhiên, cô vẫn cảm thấy
đôi chút oán giận khi Anne Shirley, nói cho cùng chỉ là một trẻ mồ côi được nhận nuôi, chẳng có họ hàng tài sản gì, lại từ chối anh trai của mình, một trong những người thuộc dòng họ Andrews danh giá ở Avonlea. Ôi chao, thích trèo cao thì sẽ té đau thôi, Jane ác ý nghĩ bụng.
Anne cho phép mình mỉm cười trong bóng đêm trước ý nghĩ rằng cô sẽ có lúc hối hận vì không đồng ý cưới Billy Andrews.
“Tớ mong là Billy sẽ không quá buồn bã về chuyện này,” cô tế nhị tiếp. Jane cử động như thể đang hất đầu trên gối.
“Ồ, trái tim anh ấy sẽ chẳng tan vỡ đâu. Billy đủ lý trí mà. Anh ấy cũng khá là mến Nettie Blewett, mẹ tớ muốn anh ấy lấy Nettie nhất đấy. Chị ấy tiết kiệm và là người nội trợ giỏi. Tớ nghĩ khi Billy biết chắc là cậu không ưng anh ấy, anh ấy sẽ hỏi cưới Nettie. Xin cậu đừng kể chuyện này với ai nhé, được không Anne?”
“Đương nhiên rồi,” Anne cũng chẳng có chút khao khát rêu rao chuyện Billy Andrews muốn cưới cô, và nói cho cùng, thích cô hơn là thích Nettie Blewett. Nettie Blewett!
“Và giờ thì tớ nghĩ chúng ta đi ngủ được rồi đấy,” Jane đề nghị.
Thế là Jane chìm vào giấc ngủ một cách dễ dàng và nhanh chóng, tuy nhiên, mặc dù hoàn toàn khác biệt với Macbeth về các mặt khác, Jane đã thành công trong việc giết chết giấc ngủ của Anne[11]. Cô tiểu thư vừa được cầu hôn nằm mở mắt thao láo bên gối cho tới khi trời sáng, nhưng những suy nghĩ của cô chẳng có tí xíu lãng mạn
nào. Dù sao, cô cũng chẳng có cơ hội phá lên cười thỏa thích cho tới tận sáng ngày hôm sau. Khi Jane rời đi, vẫn có chút lạnh giá trong giọng nói và thái độ vì Anne đã từ chối một cách quá quả quyết và thẳng thừng vinh dự được kết minh với gia tộc Andrews, Anne quay trở về phòng, đóng cửa lại và phá lên cười thỏa thích.
[11]. Macbeth của Shakespeare, hồi 2, chương 2: sau khi ám sát vua Duncan trong khi ngủ, Macbeth cảm thấy như có tiếng người thét vào tai mình: “Đừng ngủ nữa! Macbeth đã giết chết giấc ngủ.”
“Giá như mình có thể kể câu chuyện tức cười này với ai đó!” cô nghĩ. “Nhưng mình không thể làm vậy. Diana là người mình muốn tâm sự nhất, nhưng dẫu không thề giữ bí mật với Jane, mình cũng chẳng thể kể nhiều chuyện cho Diana nghe được. Chuyện gì cậu ấy cũng nói với Fred cả, mình biết chắc là thế. Ôi chao, mình đã nhận được lời cầu hôn đầu tiên. Mình cứ nghĩ rồi cũng sẽ đến lúc thôi, nhưng rõ ràng là mình chẳng bao giờ ngờ sẽ được cầu hôn thông qua người đại diện. Thật tức cười phát khiếp được, nhưng dù sao thì cũng có chút chua chát trong đó.”
Anne biết rất rõ vì sao cô lại cảm thấy chua chát, dẫu không nói rõ ra thành lời. Cô vẫn ôm ấp giấc mơ riêng về lần đầu tiên người nào đó sẽ hỏi cô câu hỏi tuyệt vời này. Và trong những giấc mơ đó, mọi chuyện luôn diễn ra hết sức mỹ lệ và lãng mạn: “người ấy” sẽ hết sức đẹp trai, mắt sẫm màu, vẻ ngoài ưu tú, nói chuyện hùng hồn, cho dù chàng có là Bạch Mã Hoàng Tử được nghe tiếng “vâng” sung sướng, hay một lời từ chối dịu dàng khéo léo nhưng vẫn hết sức dứt khoát. Trong trường hợp sau, lời từ chối sẽ được diễn đạt một cách tế nhị đến mức chỉ kém lời chấp nhận một tí xíu thôi, “chàng” sẽ quay đi sau khi hôn tay cô, khẳng định lại với cô mối tình vĩnh cửu của mình. Và đó sẽ luôn là một kỷ niệm đẹp, để cô có thể tự hào, và thêm chút buồn bã nữa.
Nhưng giờ thì sự kiện cảm động đó hóa ra chỉ hết sức lố bịch. Billy Andrews nhờ em gái cầu hôn giùm vì bố anh chàng đã cho anh chàng trang trại phía trên, và nếu Anne “không thèm” thì Nettie Blewett sẽ luôn sẵn sàng thôi. Thế đấy, sự lãng mạn mà cô mong muốn cao hơn hẳn mong đợi! Anne phá lên cười, rồi thở dài. Đóa hoa đã bị dứt khỏi một giấc mơ thiếu nữ non trẻ. Quá trình lột xác đau đớn này sẽ còn tiếp tục
"""