🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh Hùng Người Dân Tộc Thiểu Số Tập 1
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
CÁC TÁC GIẢ
NGUYỄN NGỌC THANH (Chủ biên) NGUYỄN THẨM THU HÀ
HOÀNG THỊ HỎI
HỒ SỸ LẬP
SA THỊ THANH NGA
5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Thế kỷ XX, đất nước ta đã phải trải qua các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc để bảo vệ Tổ quốc. Trong các cuộc chiến tranh ấy, đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp vô cùng to lớn. Bất chấp hiểm nguy, đồng bào các dân tộc thiểu số đã hòa mình vào công cuộc kháng chiến kiến quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hàng vạn thanh niên các dân tộc thiểu số đã lên đường nhập ngũ, tham gia lực lượng dân quân tự vệ. Trong các bản làng, bà con nuôi giấu và bảo vệ cán bộ, bộ đội; tham gia tiễu phỉ, trừ gian, bố phòng chiến đấu, chống càn, phục vụ hậu cần cho chiến trận. Từ đó đã xuất hiện nhiều tấm gương trung kiên, tiêu biểu sẵn sàng xả thân vì lý tưởng cách mạng, mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc. Nhiều chiến sĩ là người dân tộc thiểu số đã được phong tặng, truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong lao động, sản xuất cũng xuất hiện những Anh hùng Lao động ở các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã, công trường nông - lâm nghiệp,... là con em của
6 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
đồng bào dân tộc thiểu số. Họ tích cực tăng gia sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, cải thiện cuộc sống trên quê hương, đóng góp nghĩa vụ với nhà nước, cổ vũ, khích lệ bà con dân tộc miền núi cùng nhau đoàn kết vươn lên.
Trân trọng công lao, đóng góp của các Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản bộ sách Anh hùng người dân tộc thiểu số gồm 3 tập, do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh - Trung tâm Thông tin văn hóa các dân tộc làm chủ biên.
Nội dung cuốn sách không chỉ là sự tri ân đối với các anh hùng dân tộc thiểu số mà còn có ý nghĩa giáo dục truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng và lao động sản xuất đối với thế hệ trẻ ngày nay.
Để bạn đọc thuận tiện theo dõi, tên các nhân vật được sắp xếp theo vần chữ cái tiếng Việt. Tập 1 gồm tên các nhân vật từ chữ cái A đến chữ cái K; tập 2 gồm tên các nhân vật từ chữ cái L đến chữ cái S; tập 3 gồm tên các nhân vật từ chữ cái T đến chữ cái Y.
Xin giới thiệu bộ sách cùng bạn đọc.
Tháng 7 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
7
LỜI NÓI ĐẦU
Là một đất nước có diện tích không lớn, song Việt Nam luôn phải hứng chịu những cuộc chiến tranh khốc liệt trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Để có nền hòa bình, độc lập ngày nay, biết bao xương máu của thế hệ người con các dân tộc trên đất nước Việt Nam đã phải đổ xuống. Trải qua các cuộc chiến tranh, tinh thần yêu nước, ý chí quật cường luôn được thắp sáng trong mỗi người con đất Việt, không kể vùng miền, thành phần dân tộc. Cũng từ những cuộc chiến tranh đó, nhiều người con đã trở thành những anh hùng, những tấm gương sáng cho các thế hệ con em mai sau.
Trong thời kỳ lịch sử hiện đại, trải qua các cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược hay chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, nhiều tấm gương anh dũng của các chiến sĩ trên khắp các mặt trận đã được ghi nhận, trong số đó có nhiều chiến sĩ là
những người con của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong mỗi cuộc chiến, ở các địa phương, lực
8 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
lượng dân quân tự vệ là người dân tộc thiểu số đã phát triển nhanh. Hàng vạn thanh niên các dân tộc lên đường nhập ngũ. Các chiến sĩ dân tộc thiểu số đã hòa vào dòng người “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, đã vượt lên mất mát, hy sinh, tham gia kháng chiến với nhiều hình thức phong phú, cả trực tiếp và gián tiếp, cả ở vùng căn cứ, vùng tự do cũng như vùng địch hậu; tham gia trừ gian, bố phòng chiến đấu, chống càn, phục vụ hậu cần cho chiến trận. Trong chiến đấu, đồng bào các
dân tộc thiểu số luôn ngoan cường, lập nhiều chiến công oanh liệt. Nhiều người đã hiến dâng cả xương máu vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Cũng từ trong cuộc chiến đấu ấy, đã xuất hiện nhiều tấm gương trung kiên, tiêu biểu, mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam như các anh hùng La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nông Văn Dền... cùng hàng vạn liệt sĩ đã anh dũng hy sinh. Nhiều chiến sĩ là người dân tộc thiểu số đã được phong tặng danh hiệu “Anh hùng quân đội”, “Dũng sĩ diệt Mỹ”.
Trong các cuộc chiến tranh vĩ đại chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng miền núi luôn tự hào bởi những điều thật đặc biệt: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng được
LỜI NÓI ĐẦU 9
thành lập giữa vùng miền núi Cao Bằng, với các thành viên đa số là đồng bào các dân tộc thiểu số. Anh hùng Lực lượng vũ trang đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam là một người dân tộc Tày - đồng chí La Văn Cầu. Chiến thắng Điện Biên Phủ - chiến thắng quan trọng nhất và là chiến thắng cuối cùng quyết định đánh bại thực dân Pháp đã diễn ra ở vùng miền núi. Chiến thắng Buôn Ma Thuột năm 1975 - chiến thắng đầu tiên nhưng tạo điều kiện để Đảng ta quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam cũng xuất phát ở vùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Những minh chứng đó khẳng định công lao và cống hiến của quân dân đồng bào dân tộc thiểu số và địa bàn vùng dân tộc miền núi - căn cứ địa cách mạng kháng chiến của dân tộc đã đóng góp vô cùng to lớn vào cuộc chiến đấu chung; là sự chia sẻ, gánh vác trách nhiệm chung và đã góp phần vào thắng lợi vẻ vang trước thử thách sống còn của đất nước Việt Nam anh hùng.
Giờ đây, sau hơn 40 năm miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, đồng bào các dân tộc thiểu số đang chung tay cùng với đồng bào cả nước trong công cuộc xây dựng đất nước trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
10 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Bộ sách Anh hùng người dân tộc thiểu số gồm 3 tập sẽ đem đến cho bạn đọc những thông tin cụ thể về những người con ưu tú đại diện cho tinh thần, ý chí chiến đấu bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước của đồng bào các dân tộc thiểu số. Biên soạn bộ sách này, chúng tôi hy vọng sẽ đem đến cho bạn đọc những hiểu biết nhất định về thân thế cũng như thành tích của các anh hùng người dân tộc thiểu số. Qua đó, sẽ giúp cho bạn đọc, nhất là thế hệ trẻ thêm yêu Tổ quốc, sống và cống hiến hết mình cho sự nghiệp phồn vinh của đất nước.
Trong bộ sách này, chúng tôi sắp xếp tên các anh hùng dân tộc thiểu số theo vần A, B, C,... để tiện cho việc tra cứu thông tin của bạn đọc.
Mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng trong thu thập các nguồn tư liệu, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Ban biên soạn mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc để bộ sách được hoàn thiện và đầy đủ hơn trong lần xuất bản sau.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
BAN BIÊN SOẠN
11
HÀ VĂN ẮNG
Anh hùng liệt sĩ Hà Văn Ắng (Tương Phi) sinh năm 1923, là người dân tộc Thái, quê ở xã Mường Tranh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Đồng chí công tác tại Đại đội 168, Tiểu đoàn 105, Trung đoàn 801.
Hà Văn Ắng sớm giác ngộ cách mạng và tham gia hoạt động trong phong trào cách mạng ở quê hương Mường Tranh. Tháng 8-1945, Hà Văn Ắng cùng nhóm cách mạng Mường Tranh đấu tranh giành chính quyền ở xã, tiến lên giành chính quyền tại thị xã Sơn La. Sau cách mạng, đồng chí tham gia vệ quốc đoàn Sơn La, giữ chức Tiểu đội trưởng tiểu đội xung kích, cùng đồng đội chiến đấu tại nhiều nơi như Tuần Giáo, Thuận Châu, Yên Châu và chiến trường Lào.
_____________
1. Xem Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương: Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, t.I.
12 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, chúng dồn lực lượng tấn công các cơ sở cách mạng của quân ta, trong đó có địa bàn tỉnh Sơn La. Trong trận đánh ở cầu Hát Lót, Hà Văn Ắng đã mưu trí chỉ huy tiểu đội tấn công và dồn địch vào thế bị động. Trong trận này, lực lượng cách mạng đã bắt sống được một quan Tây, góp phần củng cố niềm tin trong quân và dân, đồng thời có tác dụng răn đe kẻ thù1. Mùa đông năm 1947, tiểu đội đồng chí phối hợp với tiểu đội bạn phục kích bắt sống 3 tên địch, tiêu diệt một số tên và thu nhiều vũ khí, đạn dược. Sau đó, Hà Văn Ắng tiếp tục chỉ huy tiểu đội xung kích chiến đấu và góp phần giành thắng lợi trên nhiều mặt trận như: Pa Háng, Mường Sại, Vạn Yên, Suối Đúc, Mường Lò, ngã ba Thu Cúc,...2.
Trải qua thực tế chiến đấu, lực lượng cách mạng tại địa bàn tỉnh Sơn La đã lớn mạnh và trưởng thành. Tháng 4-1948, Trung ương quyết định thành lập đội Trung Dũng với nhiệm vụ
vừa tuyên truyền xây dựng căn cứ cách mạng trong quần chúng nhân dân, vừa chiến đấu trên mặt trận chống kẻ thù xâm lược. Hà Văn Ắng, bí danh Tương Phi, được cử làm Tiểu đội trưởng xung kích. Tháng 10-1948, Hà Văn Ắng chỉ huy
_____________
1, 2. Tư liệu tại bảo tàng tỉnh Sơn La.
HÀ VĂN ẮNG 13
tiểu đội đánh các trận Tạ Lương, Tú Nang đã xóa sổ 1 đại đội địch, tiêu diệt 36 tên, bắt sống 4 tên Pháp, thu 36 khẩu súng trường và 2 súng cối, nhiều đạn dược1.
Đội Trung Dũng hành quân lên Chiềng Khừa - Mư Tươi xây dựng khu chiến đấu, địch phát hiện, tổ chức lực lượng bao vây nhằm tiêu diệt đội. Đoán trước ý định hành quân của địch, tiểu đội của Hà Văn Ắng cùng với tiểu đội của Lò Văn Hắc tổ chức lực lượng đánh phục kích địch ở Tô Buông. Trận chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, kết quả
quân ta giành thắng lợi, xóa sổ 1 đại đội địch, tiêu diệt 30 tên, thu 2 khẩu súng máy, 30 khẩu súng trường cùng nhiều quân trang, quân dụng. Trải qua thực tế chiến đấu, đội Trung Dũng đã trưởng thành trên mọi mặt. Kẻ thù khiếp sợ khi nhắc đến đội Trung Dũng với những cái tên Lộc Tài, Tương Phi, Nam Hải2.
Đến tháng 7-1950, tiểu đội của Hà Văn Ắng sáp nhập vào Đại đội 168, đồng chí vẫn giữ chức Tiểu đội trưởng. Hà Văn Ắng đã chỉ huy tiểu đội đánh nhiều trận trên địa bàn Tuần Giáo, Thuận Châu, Yên Châu và chiến trường Lào..., với nhiều
_____________
1. Xem Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương: Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh, Sđd, t.I.
2. Tư liệu tại bảo tàng tỉnh Sơn La.
14 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
hình thức như phục kích, tập kích bắn tỉa, tiêu hao sinh lực địch làm cho địch rất hoang mang, lo sợ. Trong trận đánh Ly Khon (Lào), trước sự phản công quyết liệt của quân địch, Hà Văn Ắng đã dũng cảm ôm bộc phá xông thẳng vào dập tắt hỏa lực địch và hy sinh ngay trên chiến trường, tạo điều kiện cho đồng đội xông lên giải phóng Ly Khon.
Tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí cùng sự hy sinh anh dũng trên chiến trường của Hà Văn Ắng đã trở thành tấm gương sáng cho đồng đội và thế hệ sau noi theo. Với những thành tích và chiến công xuất sắc giành được trên chiến trường, ngày 11-6-1999, Hà Văn Ắng được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân. Tên của ông được đặt cho một con phố ở thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn, đoạn đường từ Ngã tư Nông Trường đi vào chợ Trung tâm Hát Lót.
15
ĐINH BANH
Anh hùng Đinh Banh sinh năm 1942, là người dân tộc Hrê, quê ở xã Sơn Thượng, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
Đinh Banh tham gia cách mạng từ khi còn rất trẻ, mới 16 tuổi đã xin vào du kích địa phương, 17 tuổi xung phong vào bộ đội, biên chế ở Trung đoàn 95, đóng quân ở xã Trà Niêu (huyện Trà Bồng lúc bấy giờ). Năm 1960, đồng chí làm nhiệm vụ trinh sát ở Tiểu đoàn D20 trực thuộc Quân khu 5, với chức danh Trung đội trưởng. Sau đó, đồng chí giữ
chức Đại đội trưởng đại đội trinh sát ở Tỉnh đội Quảng Ngãi1.
Trong 14 năm tham gia lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng ở địa phương, đồng chí đã tham gia tới 200 trận, diệt 54 tên địch, thu 28 súng, phá hủy 1 xe quân sự, cụ thể:
_____________
1. “Thương tiếc Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Đinh Banh”, http://baoquangngai.vn/channel/2047/ 201505/thuong-tiec-anh-hung-llvtnd-dinh-banh- 2388195/.
16 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Trận đánh Hòn Một (Quảng Ngãi) ngày 31- 12-1965, khi ta vừa mở đường xung phong thì địch bắn ra dữ dội. Các mũi xung kích bị chặn lại ngoài hàng rào, chỉ có mình Đinh Banh thọc sâu vào chiếm được lô cốt đầu cầu rồi phát triển chiếm luôn khu vực trụ cờ. Nhưng đến đây thì Đinh Banh hết đạn, trên đường quay trở ra thì bị
thương ở đùi. Không kịp băng bó và cũng không cho đại đội trưởng biết, đồng chí lấy giỏ lựu đạn rồi khập khiễng chạy vào đánh tiếp, chiếm giữ hẳn khu vực cột cờ và làm cho địch rối loạn, tạo điều kiện cho các mũi tiến công của ta xông lên
san bằng cứ điểm, diệt gọn một đại đội địch1. Trong trận đánh đồn Ba Tơ ngày 5-8-1968, đơn vị trinh sát của Đinh Banh làm nhiệm vụ mở đường để các đơn vị bộ binh vào phối hợp chiếm đồn. Lúc đó, địch bị dồn vào thế chân tường, chúng quyết tử thủ để chờ quân tiếp viện, dùng hỏa lực bắn trả ta hết sức dữ dội. Với tinh thần dũng cảm, mưu trí, Đinh Banh đã chỉ huy đại đội chiến đấu ngoan cường, bản thân đồng chí sau khi tiêu diệt được 3 tên địch đã bị một mảnh đạn pháo bắn trúng vào phần lưng, hất cả cơ thể lên
_____________
1. Xem “Nhiều lần bị thương, không rời tay súng” (Viết về Đại đội trưởng Đinh Banh, bộ đội địa phương Quảng Ngãi), báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 11- 3-1974.
ĐINH BANH 17
hàng rào kẽm gai. Sức mạnh của mảnh đạn làm Đinh Banh bị thương nặng, thủng hai đoạn ruột, cộng với xương chậu bị vỡ bởi trúng một viên đạn khác. May nhờ có đồng đội kịp thời khiêng ra tuyến sau cứu chữa, đồng chí vẫn sống sót và bình phục sau ba tháng. Rời khỏi viện cùng tờ giấy của bác sĩ ghi rằng “Đề nghị đơn vị bố trí công việc nhẹ, hợp lý”, Đinh Banh giấu không cho ai biết việc này, cùng đơn vị tiếp tục lao vào những trận chiến căng thẳng1.
Ngày 29-2-1969, một đại đội biệt kích ngụy lùng ra Đồi Cương, xã Sơn Hạ. Đinh Banh chỉ huy 12 chiến sĩ, chia thành ba mũi lặng lẽ tiến đánh lên đồi vào giữa trưa. Bị địch phát hiện, các chiến sĩ của ta buộc phải nổ súng giao chiến. Nhận thấy kẻ địch có lợi thế khi ở trên cao bắn xuống, Đinh Banh chủ động nạp đạn cho súng B40 và bắn thẳng lên đồi, tiêu diệt ngay một lúc 6 tên (trong đó có cả tên cố vấn Mỹ). Tình thế thay đổi hẳn, các mũi quân của ta xông lên như gió lốc và diệt gần hết cả một đại đội địch. Trận đó ta thu được một máy bộ đàm cùng nhiều súng đạn và rời khỏi trận địa an toàn2.
Trong năm 1969, Đinh Banh lại hai lần bị thương trong các trận đánh bọn biệt kích tại _____________
1, 2. Xem “Nhiều lần bị thương, không rời tay súng”, Tlđd.
18 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Sơn Hà: một lần vào ngày 3-3 bị hai viên đạn xuyên qua mông, và trận ngày 2-7 bị một viên đạn xuyên ngực nằm lại trong phổi. Vết thương chưa lành, sức khỏe giảm sút nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu. Trong suốt đợt chống càn đánh Trung đoàn 4 của ngụy đổ lên sông Tan, Nước Biếc năm 1970, đồng chí đã cùng đơn vị cơ động khắp vùng để ngăn chặn kẻ thù. Đặc biệt, đồng chí đã chỉ huy mũi tập kích sở chỉ huy tiểu đoàn địch tại Làng Đèo, cùng đơn vị tiêu diệt 40 tên (trong đó có tên đại úy tiểu đoàn trưởng), thu 20 súng, 1 máy bộ đàm và khiến địch rút quân, bỏ dở cuộc càn1.
Tháng 2-1973, một đại đội địch đánh lấn ra vùng Tà Bua (Quảng Ngãi) thuộc khu vực đơn vị Đinh Banh phụ trách. Đồng chí đã chỉ huy 18 anh em nhanh chóng vận động đánh địch, diệt 47 tên, thu 7 súng, giữ vững vùng giải phóng. Riêng đồng chí diệt được 7 tên.
Tổng kết lại quãng đời chiến đấu, Đinh Banh bị thương tổng cộng 13 lần với hơn 20 vết thương trên cơ thể, có nhiều vết thương nặng như hỏng một mắt, vỡ xương hàm, xương chậu, thủng nhiều đoạn ruột, đạn còn nằm trong ngực...
_____________
1. Xem “Nhiều lần bị thương, không rời tay súng”, Tlđd.
ĐINH BANH 19
Đồng chí Đinh Banh được tặng thưởng 5 Huân chương Chiến công giải phóng các hạng, 9 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Ngày 20- 12-1973, Đinh Banh được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là Đại đội trưởng Đại đội 5 bộ binh, Tiểu đoàn 20 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ngãi, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
20
LÊ CẤP BẰNG
Anh hùng Lê Cấp Bằng sinh năm 1942, là người dân tộc Mường, quê ở xã Phúc Thịnh, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí đang là đảng viên, Thượng sĩ, Trung đội phó thuộc Đại đội 11 pháo cao xạ 37 ly, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 2841, Sư đoàn 367, Quân chủng Phòng không - Không quân.
Từ năm 1966 đến năm 1969, Lê Cấp Bằng đã tham gia chiến đấu trên 600 trận chống máy bay Mỹ ở Hà Tĩnh, Quảng Bình. Ngày 14-8-1967, ở Đất Đỏ (Quảng Trạch, Quảng Bình), nhiều tốp máy bay địch đến oanh tạc trận địa. Là pháo thủ số 4, Lê Cấp Bằng dũng cảm đứng thao tác, lấy đường bay chính xác, bảo đảm cho khẩu đội phát
_____________
1. Xem Phạm Gia Đức, Lê Hải Triều, Phạm Lam, Lê Đại Hiệp (Biên soạn): Anh hùng lực lượng vũ trang (Các dân tộc thiểu số Việt Nam), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996, tr.219.
LÊ CẤP BẰNG 21
huy hỏa lực mạnh mẽ. Bị năm vết thương, trong đó có một vết vào thái dương, đồng chí vẫn vững vàng ở vị trí chiến đấu đến khi trận đánh kết thúc, góp phần cùng đơn vị bắn rơi 2 máy bay F4 của giặc Mỹ1.
Ngày 11-9-1967, ở Kỳ Lâm (Kỳ Anh, Hà Tĩnh), Lê Cấp Bằng vừa là pháo thủ số 4, lấy đường bay, vừa chỉ huy khẩu đội phát huy hỏa lực chính xác, góp phần bắn rơi một chiếc F4. Trận đánh kéo dài, trong một đợt địch đánh bom vào trận địa, đồng chí bị đất vùi lấp, chân bị thương vẫn sát cánh cùng đồng đội đến hết trận đánh.
Ngày 3-5-1969, tại Km50, đường 20, đồng chí bị thương ở chân vẫn chỉ huy khẩu đội chiến đấu cho đến khi trận đánh kết thúc. Trận này, khẩu đội của đồng chí cùng khẩu đội bạn lập công xuất sắc, phối hợp bắn rơi 2 máy bay F4 của địch.
Lê Cấp Bằng 30 tuổi quân đã chiến đấu gần 600 trận ở những nơi địch thường xuyên đánh phá ác liệt2 như Hà Tĩnh, Quảng Bình. Trận nào đồng
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.3, tr.215.
2. Xem Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân 1969- 1970-1971, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1972.
22 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
chí cũng bình tĩnh, mưu trí, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ1. Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Ba, 3 lần là Chiến sĩ thi đua và được tặng danh hiệu Chiến sĩ quyết thắng. Ngày 22-12-1969, Lê Cấp Bằng được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
_____________
1. Xem Phạm Gia Đức, Lê Hải Triều, Phạm Lam, Lê Đại Hiệp (Biên soạn): Anh hùng lực lượng vũ trang (Các dân tộc thiểu số Việt Nam), Sđd, tr.216.
23
CAO VĂN BÉ
Anh hùng Cao Văn Bé (tức Cao Bé) sinh năm 1944, là người dân tộc Ra Glai, quê ở xã Ba, Cụm 2, huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, nhập ngũ tháng 9-1963. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Thiếu úy, Đại đội trưởng Đại đội 548 bộ binh, bộ đội địa phương tỉnh Khánh Hòa.
Từ năm 1963 đến năm 1975, Cao Văn Bé trải qua các nhiệm vụ chiến sĩ liên lạc, tiểu đội trưởng trinh sát, trung đội trưởng, đại đội trưởng bộ binh. Ở các cương vị, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cao Văn Bé đã nhiều lần đưa công văn, tài liệu, dẫn đường cho hàng trăm cán bộ đến đích an toàn. Ngoài ra, đồng chí còn điều tra, nắm chắc tình hình và cách bố phòng của địch, phục vụ cho đơn vị chiến đấu. Cao Văn Bé đã chiến đấu 30 trận, góp phần chỉ huy đơn vị, diệt và làm bị thương hơn 500 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Riêng anh đã diệt và làm bị thương hơn 150 tên, phá hủy 8 xe quân sự, thu 11 súng.
24 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Năm 1966, địch đóng đồn và thường xuyên phục kích, ngăn chặn, cắt đứt đường liên lạc giữa khu Bắc và khu Nam của tỉnh. Cao Văn Bé xung phong nhận nhiệm vụ bám địch, theo dõi hoạt động của chúng, đồng chí đưa nhiều đoàn cán bộ
đi công tác giữa hai khu an toàn.
Năm 1968, một lần địch càn vào khu căn cứ, trong lúc chúng đang triển khai đội hình bao bây bệnh xá của ta, Cao Văn Bé dũng cảm, tìm mọi cách vượt qua đội hình địch đến bệnh xá để truyền lệnh của trên cho di chuyển vị trí. Sau đó, đồng chí lại dẫn dường đưa cán bộ và chiến sĩ trong bệnh xá vượt qua khỏi khu vực địch càn an toàn1.
Tháng 9-1971, Cao Văn Bé phụ trách một tổ phục kích đoàn xe địch trên đường 21. Khi đoàn xe lọt vào trận địa, anh bắn 2 quả đạn B40, phá hủy 2 xe (có một chiếc chở xăng). Trong trận phục kích bọn lính gác đường 21 ngày 11-1-1974, sau khi dẫn đơn vị bố trí xong, thấy địch đứng gác quá thưa, Cao Văn Bé động viên anh em chờ đến trưa bọn địch tập trung dưới một gốc cây để ăn trưa mới nổ súng, diệt 35 tên tại chỗ. Trận đánh này làm bọn địch rất hoang mang, không dám đi gác đoạn đường đó nữa.
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, t.5, tr.278.
CAO VĂN BÉ 25
Cao Văn Bé được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 7 lần là Chiến sĩ
thi đua và Dũng sĩ, 11 bằng khen và giấy khen. Ngày 6-11-1978, Cao Văn Bé được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
26
LƯƠNG VĂN BIÊNG
Anh hùng Lương Văn Biêng sinh năm 1944, là người dân tộc Mường, quê ở xã Nam Tiến, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 7-1967. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Tiểu đội trưởng Đại đội 19 công binh, Trung đoàn 33, Quân khu 7.
Từ năm 1968 đến năm 1974, Lương Văn Biêng chiến đấu ở chiến trường Đông Nam Bộ. Lúc trực tiếp đánh giặc, khi vận chuyển gạo, đạn hoặc chở đò cho bộ đội qua sông, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ1. Cùng với tiểu đội, Lương Văn Biêng đã tiêu diệt hàng trăm tên địch, chở hàng trăm chuyến đò đưa bộ đội qua sông an toàn trong điều kiện địch bắn phá ác liệt. Riêng Lương Văn Biêng đã tiêu diệt 165 tên địch (68 tên lính Mỹ, 5 tên lính Úc), bắn cháy 2 xe tăng, phá hủy 1 kho đạn. Trận đánh sân bay Tánh Linh (Bình Tuy) tháng 6-1970, Lương Văn Biêng dẫn đầu một tổ
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.5, tr.95.
LƯƠNG VĂN BIÊNG 27
đánh thẳng vào khu sân bay địch. Ngay phút đầu anh đã diệt 1 súng cối, 2 khẩu đại liên và làm nổ 1 kho đạn. Địch đông gấp bội và chống trả quyết liệt, anh động viên tổ chiến đấu diệt gần hết một đại đội Mỹ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác, tạo điều kiện thuận lợi cho mũi đơn vị bạn tiêu diệt khu Tánh Linh.
Tháng 8-1971, Lương Văn Biêng và đơn vị làm công tác tuyên truyền ở một ấp chiến lược, xong việc trở ra thì gặp đoàn xe vận tải của địch. Lương Văn Biêng chỉ huy tổ chiến đấu diệt được 2 xe, đánh lui nhiều đợt phản kích của chúng, diệt 30 tên địch. Riêng anh đã diệt được 17 tên. Từ tháng 6 đến tháng 8-1974, Lương Văn Biêng chỉ huy trung đội đánh 4 trận, diệt hơn 100 tên địch trên đường 1 và khu vực Bảo Ninh. Trận này anh diệt được 21 tên, thu 6 súng các loại.
Lương Văn Biêng được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 4 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua, 9 lần là Dũng sĩ, được tặng 24 bằng khen, giấy khen. Ngày 15-1-
1976, Lương Văn Biêng được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
28
ALĂNG BIN
Anh hùng Alăng Bin sinh năm 1931, là người dân tộc Xtiêng, quê ở xã Na De, huyện Giằng, tỉnh Quảng Nam, nhập ngũ tháng 4-1960. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Thượng úy, Chính trị viên Huyện đội huyện Giằng, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Từ năm 1954 đến năm 1960, Alăng Bin làm chiến sĩ giao liên của đường dây giữa Trung ương với Khu 5.
Từ năm 1961 đến tháng 4-1975, anh tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong lực lượng vũ trang huyện và tỉnh, đảm nhiệm nhiều cương vị khác nhau: trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng vận tải, chính trị viên huyện đội. Ở cương vị nào Alăng Bin cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Khi ở đơn vị chiến đấu, Alăng Bin đã chỉ huy toàn đơn vị tiêu diệt 144 tên địch, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Riêng anh diệt 29 tên địch, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, thu 4 súng.
Ngày 23-9-1965, Alăng Bin chỉ huy trung đội bộ đội địa phương huyện (hầu hết là người dân tộc
ALĂNG BIN 29
thiểu số), chạy tắt rừng đón đánh quân địch đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống xã A Sào. Khi máy bay vừa đổ quân, Alăng Bin dẫn đầu trung đội xông vào đội hình địch, diệt 14 tên, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng trong đó có 11 tên địch. Khi làm tiểu đoàn trưởng vận tải, ngoài việc tổ chức chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển hàng đến nơi an toàn, Alăng Bin còn thường xuyên mang vác từ 50-60kg. Những lúc đường sá khó khăn (địch ngăn chặn, trời mưa, nước lũ không qua suối được), anh trực tiếp tới tận nơi tìm cách giải quyết1. Trong ba năm phụ trách vận tải, tiểu đoàn do anh chỉ huy năm nào cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vượt mức kế hoạch vận chuyển vũ khí, gạo, kịp thời phục vụ cho các đơn vị chiến đấu.
Khi làm Chính trị viên Huyện đội, Alăng Bin luôn sâu sát cơ sở và các xã, làm tốt công tác vận động và xây dựng lực lượng dân quân du kích ở các bản, làng. Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 14 bằng khen và giấy khen, 3 lần là Chiến sĩ thi đua, 11 lần đạt danh hiệu Dũng sĩ. Ngày 6-11-1978, Alăng Bin được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
_____________
1. Xem Phạm Gia Đức, Lê Hải Triều, Phạm Lam, Lê Đại Hiệp (Bên soạn): Anh hùng lực lượng vũ trang (Các dân tộc thiểu số Việt Nam), Sđd, tr.336.
30
BÙI VĂN BỊN
Anh hùng Bùi Văn Bịn (tức Bùi Văn Thế), sinh năm 1949, là người dân tộc Mường, quê ở xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 7-1968. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Trung úy, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 4 bộ binh, Trung đoàn 24, Sư
đoàn 10, Quân đoàn 3.
Bùi Văn Bịn chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên từ năm 1970 đến mùa xuân năm 1975. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ tiểu đoàn, dù ở cương vị nào anh cũng thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên quyết tấn công địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Với 48 trận chiến đấu, Bùi Văn Bịn góp phần chỉ huy đơn vị diệt gần 1.000 tên địch. Riêng anh diệt 53 tên, bắt sống 5 tên1. Ngày 10 và 11-3-1975, Bùi Văn Bịn chỉ huy một đại đội đảm nhận hướng đột kích chủ yếu _____________
1. Theo Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.5, tr.61, Bùi Văn Bịn bắt sống 3 tên địch.
BÙI VĂN BỊN 31
đánh vào Sư đoàn bộ binh 23 ngụy ở Buôn Ma Thuột. Địch ngoan cố chống cự, phản kháng kịch liệt. Đơn vị của Bùi Văn Bịn bị thương vong một số anh em, anh bình tĩnh đến từng trung đội, động viên anh em, điều động tập trung hỏa lực, bố trí lại lực lượng tiếp tục tiến công địch. Sau khi diệt gần hết các hỏa điểm và xung phong vào khu vực Sư đoàn bộ binh 23 ngụy, Bùi Văn Bịn bị
thương nặng nhưng vẫn cố gắng gượng dậy động viên bộ đội xông lên diệt địch, làm chủ trận địa. Đồng chí cùng đơn vị góp phần làm nên chiến thắng Buôn Ma Thuột.
Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 2 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua, 2 lần đạt danh hiệu Dũng sĩ, 5 lần được tặng bằng khen. Ngày 15-1-1976, Bùi Văn Bịn được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
32
SIU BLÊH
Anh hùng Siu Blêh sinh năm 1944, là người dân tộc Gia Rai, quê ở xã Ia Lang, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai (tức xã E3, khu 5 Gia Lai trong kháng chiến chống Mỹ), tham gia cách mạng năm 1963. Khi hy sinh, đồng chí là đảng viên, cán bộ
đội công tác tỉnh Gia Lai.
Siu Blêh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở địa phương có truyền thống yêu nước và cách mạng. Đồng chí đã qua các cương vị đội viên du kích, xã đội trưởng, cán bộ tuyên truyền vũ trang của huyện và cán bộ đội công tác của tỉnh... Ở cương vị nào Siu Blêh cũng khắc phục mọi khó khăn, gian khổ thể hiện lòng quyết tâm cao, chiến đấu mưu trí, dũng cảm, công tác năng động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Từ năm 1963 đến tháng 8-1969, Siu Blêh là du kích xã đội trưởng1. Anh đã tham gia đánh 623
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.6, tr.347.
SIU BLÊH 33
trận, diệt và làm bị thương 143 tên địch, bắt 30 tên, phá hủy 2 xe tăng, 7 xe bọc thép, 6 xe GMC, bắn rơi 6 máy bay.
Ngày 12-4-1967, một mình Siu Blêh phục kích bắn máy bay bay thấp, chỉ với hai băng đạn đã bắn rơi tại chỗ một máy bay lên thẳng, động viên mạnh mẽ tinh thần toàn đội du kích thi đua bắn máy bay địch. Đến cuối năm đó, đồng chí chỉ huy đội du kích bắn rơi 2 chiếc máy bay đổ quân càn quét, bắn hỏng một chiếc khác, đẩy lùi cuộc càn quét của địch.
Ngày 15-7-1968, Siu Blêh được giao nhiệm vụ tổ chức chống địch càn vào xã Lệ Thanh. Địch có 1.200 quân Mỹ và 80 xe tăng yểm trợ, nhưng anh vẫn chỉ huy bố trí trận địa hợp lý sẵn sàng đánh địch. Kết quả, ta đã phá hủy 4 xe tăng, diệt 39 tên, làm bị thương nhiều tên địch. Ngày thứ hai, địch thay đổi chiến thuật cho bộ binh đi trước. Siu Blêh đã chỉ huy du kích phục kích bắn chết 12 tên, làm bị thương 5 tên. Địch hoang mang vì chết nhiều mà không phát hiện được du kích nên đã bỏ
chạy. Trong trận này, riêng anh đã diệt 16 tên, phá hủy 2 xe tăng.
Bên cạnh đó, Siu Blêh còn tích cực xây dựng lực lượng du kích xã, với 2 trung đội, 3 tiểu đội (cả thiếu nhi và phụ nữ cũng tham gia chiến đấu giỏi); đã tổ chức sáu đợt du kích phối hợp với nhân dân phá ấp chiến lược; tích cực tăng gia sản xuất,
34 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
động viên gia đình đóng góp cho kháng chiến 18 gùi lúa.
Từ năm 1969 đến năm 1976, Siu Blêh đảm nhiệm công tác trong đội tuyên truyền vũ trang của huyện và đội công tác tỉnh. Đồng chí vừa chỉ huy du kích đánh địch vừa thực hiện xây dựng cơ sở, tuyên truyền vận động nhân dân dọc đường 19, vùng Mang Yang, tây nam huyện Chư Prông nổi dậy mở rộng vùng giải phóng, chống âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của địch. Sau ngày giải phóng miền Nam, đồng chí vẫn tiếp tục đi khắp các địa bàn xung yếu trong tỉnh, tiến hành vận động quần chúng xây dựng cơ sở, truy quét Fulro1.
Siu Blêh đã hy sinh trên đường đi công tác do bị Fulro phục kích tháng 7-1976.
Đồng chí được tặng 4 bằng khen của tỉnh và danh hiệu Chiến sĩ thi đua năm 1968. Ngày 20- 12-1994, Siu Blêh được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.6, tr.348-349.
35
Y BUÔNG
Nữ Anh hùng Y Buông sinh năm 1946, là người dân tộc Xơ Đăng, xã Đắk La, huyện Đắk Tô, tỉnh Kon Tum, nhập ngũ tháng 3-1960. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Trung đội phó nuôi quân, Đại đội 1, Tiểu đoàn 304 bộ đội địa phương tỉnh Kon Tum.
Y Buông tham gia phục vụ cách mạng từ khi còn nhỏ. Năm 13 tuổi, Y Buông đã làm liên lạc đưa đường cho cán bộ ra vào vùng tạm chiếm hoạt động. Từ năm 1962 đến 1972, Y Buông làm chiến sĩ nuôi quân của Đại đội 1, Tiểu đoàn 304 thuộc tỉnh đội Kon Tum. Những khi thiếu thốn lương thực, thực phẩm, Y Buông đã đào củ rừng, hái rau rừng, bắt cua, ốc,... để cải thiện bữa ăn cho đơn vị, anh em bị ốm mệt luôn được chị chăm sóc chu đáo, nhiều khi nhường cả khẩu phần ăn của mình cho đồng đội. Y Buông còn tìm thêm thức ăn, nuôi thường xuyên 5, 6 con lợn và hàng chục con gà, cung cấp thêm cho đơn vị hơn 3 tạ thịt lợn và trên 100 con gà, góp phần cải thiện đời sống cho đơn vị.
36 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Y Buông kể rằng nồi cơm nuôi quân là loại nồi được đúc bằng đồng rất nặng, mỗi lần nấu cho hàng chục người ăn. Hồi đó Y Buông thấp bé, người cứ lùn như bụi chuối. Mỗi lần đơn vị di chuyển, anh em thường ví Y Buông là “nồi cơm di động” vì mớ nồi lỉnh kỉnh treo trước ngực, sau lưng. Mớ “nồi cơm” ấy cứ lúc lắc di chuyển giữa rừng không một ngày ngơi nghỉ. “Hồi đó đánh nhau liên miên, để có được một nắm gạo đến đơn vị phải đổi bằng máu, nhưng đâu phải lúc nào gạo cũng được tiếp tế tới nơi, cũng được đồng bào cõng đến cho bộ đội. Có những ngày bị càn, bộ đội đói lắm. Mình thương vô cùng”. Y Buông kể
những ngày không có gạo ăn, sợ bộ đội không có sức đánh giặc, chị lại vào rừng cả buổi sáng để chặt măng, tìm rau về cho anh em ăn lấy sức. Không có muối, chị đi chặt cây chát, xuống suối bắt cá về nấu. Cứ như thế, chị nuôi người Xơ Đăng này đã trở thành một phần máu thịt của những người lính trên chiến trường Đắk Tô - Tân Cảnh và vùng Bắc Tây Nguyên thời kỳ ấy.
Ngoài việc nuôi quân, chị còn tham gia chiến đấu cùng với anh em trong đơn vị. Năm 1967, trong lúc anh em đi tải gạo, ở lán chỉ còn 3 thương binh, chị và 1 chiến sĩ khác do Đại đội trưởng Hòe phụ trách. Lúc đó, hơn 10 tên địch tập kích bất ngờ, Y Buông đã kịp thời giấu nồi cơm, dụng cụ cấp dưỡng và ba lô của anh em vào
Y BUÔNG 37
vị trí bí mật, sau đó cùng Đại đội trưởng chiến đấu với địch. Riêng chị đã dùng lựu đạn diệt 3 tên địch. Những tên còn lại tìm đường bỏ chạy, bị Y Buông bắn đuổi theo và tiêu diệt một tên. Chuyện của nữ chiến sĩ nuôi quân tiêu diệt 4 tên địch đã lan tỏa khắp các đơn vị chiến trường Đắk Tô - Tân Cảnh ngày ấy, làm nức lòng quân và dân Bắc Tây Nguyên.
Đặc biệt từ năm 1968, làm nhiệm vụ nuôi quân phục vụ đơn vị chiến đấu, phải hành quân cơ động vất vả, Y Buông vẫn bám sát đơn vị, có lần hành quân 5, 6 đêm liền, ban ngày không nghỉ, chị đào bếp, kiếm củ, nấu cơm cho đơn vị ăn đầy đủ, kịp thời. Quá trình phục vụ, hàng trăm lần trong mọi hoàn cảnh địch đánh phá ác liệt, Y Buông vẫn tìm mọi cách nấu được cơm và mang đến trận địa cho đồng đội.
Nồi cơm của chị Y Buông đã góp phần làm nên chiến thắng oai hùng Đắk Tô - Tân Cảnh trong mùa hè đỏ lửa năm 1972 và cũng từ chính “nồi cơm huyền thoại ” đã mang theo suốt trong cuộc đời quân ngũ này đã đưa chị trở thành Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, người nữ Anh hùng đầu tiên và duy nhất của dân tộc Xơ Đăng và của tỉnh Kon Tum hiện nay. Hôm ấy, đại đội của chị
bị địch phát hiện, chúng dùng pháo cao xạ bắn dữ dội vào chỗ ở của đơn vị. Lúc này đã gần trưa, chị vừa nấu cơm xong, thay vì phải chạy vào hầm để
38 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
trú ẩn, chị đã dùng cả thân mình ôm chặt lấy nồi cơm cho đến khi không còn tiếng pháo... Lúc anh em trong đơn vị trở về, chị và nồi cơm bị đất vùi lấp, cả đơn vị phải bới chị từ trong đất lên. Chị bị thương nặng nhưng nồi cơm thì vẫn còn nguyên vẹn, không có một tí đất lọt vào. Khi tỉnh dậy, anh em hỏi vì sao lại làm như thế, Y Buông nói rằng: “Nếu chị có chết thì vẫn còn người khác thay chị nấu cơm nuôi bộ đội, nhưng nếu nồi cơm mà bị mất đi, bộ đội sẽ bị đói cái bụng, chị thương anh em lắm”. Chỉ đơn giản có vậy thôi nhưng trong lòng chị luôn chứa đựng một tình thương yêu vô bờ bến đối với anh em chiến sĩ mà hằng ngày chị gắn bó như những người ruột thịt.
Chị được tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 16 bằng khen và giấy khen, 3 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Ngày 20-12- 1994, Y Buông được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
39
LÒ VĂN BƯỜNG
Anh hùng Lò Văn Bường sinh năm 1923, là người dân tộc Thái, quê ở xã Thanh Cao, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Trung đội phó bộ binh, Đoàn 335 quân tình nguyện. Hiện đồng chí đang sống cùng gia đình tại thôn Cộc Chẻ, xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 18 tuổi, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, Lò Văn Bường hăng hái lên đường đi bộ đội, thuộc Trung đội 3, Sư đoàn 355, bộ đội tình nguyện giúp nước bạn Lào. Ban đầu đơn vị ông đóng quân tại địa bàn huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Thời kỳ 1948-1953, ông chiến đấu và hoạt động ở những vùng rừng núi âm u như Viêng Xay, Sầm Nưa, Sầm Tớ, Xiêng Khoảng, thuộc nước bạn Lào...1.
_____________
1. Xem Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương: Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh, Sđd, t.I.
40 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Trong 5 năm chiến đấu và hoạt động ở miền Tây giúp bạn Lào, Lò Văn Bường cùng đồng đội đã xây dựng cơ sở ở 28 làng, lập được 70 đội du kích, đào tạo nhiều cán bộ địa phương; tổ chức cho nhân dân hai lần phá vỡ âm mưu dồn dân của địch. Tháng 1-1952, khi đang xây dựng cơ sở ở
một bản, một chiều Lò Văn Bường vào bản, bất ngờ gặp một trung đội địch đi lùng sục. Tên đi đầu phát hiện thấy đồng chí, vừa kêu lên thì Lò Văn Bường đã nhanh nhẹn nằm xuống bắn bị
thương mấy tên. Địa hình trống trải, địch bắn mạnh, Lò Văn Bường bị 5 vết thương ở tay phải, lưng và mắt phải. Tưởng đồng chí chết, địch vào bản cướp phá, Lò Văn Bường cố lết ra rừng, 5 ngày không có thuốc điều trị, các vết thương càng nặng. Cả tổ lo lắng, nhưng Lò Văn Bường động viên anh em tiếp tục công tác. Ít ngày sau được y tá chữa chạy, được người dân giúp đỡ, vết thương lành dần, Lò Văn Bường tiếp tục cùng với những đồng đội của mình kiên trì bám trụ xây dựng cơ sở cách mạng ở miền Tây nước bạn Lào.
Năm 1953, thực dân Pháp cho quân lính nhảy dù xuống Điên Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự kiên cố. Tại nhiều tỉnh của Lào, bọn thổ phỉ được sự hậu thuẫn của quân Pháp ra sức hoành hành. Khi đó, ông được chỉ huy phân
LÒ VĂN BƯỜNG 41
công về khu vực Xiêng Khoảng tiếp tục công tác xây dựng cơ sở ở vùng sau lưng địch, vận động người dân đi theo cách mạng1.
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc chưa được bao lâu, đất nước lại tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, là một người lính, ông tiếp tục tham gia bảo vệ tuyến đường giao thông huyết mạch của tỉnh Thanh Hóa từ cầu Hàm Rồng đến địa phận huyện Tĩnh Gia.
Không chỉ kiên cường trong mưa bom, bão đạn, Lò Văn Bường còn là một người làm kinh tế giỏi khi bước vào công cuộc xây dựng đất nước. Quê hương ông vốn nổi tiếng với cây quế đặc sản, là cây trồng có giá trị kinh tế cao. Khi về hưu, ông Bường là người tiên phong trong việc khai hoang đất, phát nương rẫy và trồng được vài hécta quế. Thấy ông trồng quế mang lại giá trị kinh tế, nhiều người dân đến học hỏi đều được ông hỗ trợ, hướng dẫn tận tình2.
_____________
1. Xem http://kienthuc.net.vn/song-4-mau/gap-nguoi hung-bi-giac-ban-vao-mat-van-chuong-ca-toi-cung334101. html.
2. Xem http://kienthuc.net.vn/song-4-mau/gap-nguoi hung-bi-giac-ban-vao-mat-van-chong-cu-toi-cung 334101.html
42 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Với những thành tích trong chiến đấu, trong sản xuất, Lò Văn Bường đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng Ba, 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì, là Chiến sĩ thi đua của bộ
đội tình nguyện. Ngày 7-5-1956, Lò Văn Bường được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
43
ĐIỀU VĂN CẢI
Anh hùng Điều Văn Cải sinh năm 1948, là người dân tộc Chơ Ro, quê ở ấp Đức Thắng, xã Túc Trưng, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Khi hy sinh, đồng chí là đảng viên, Xã đội trưởng xã Phú Túc.
Điều Văn Cải hoạt động ở địa phương từ tháng 10-1965 đến khi hy sinh (tháng 10-1969). Trong 5 năm (1965-1969) tham gia du kích ở địa bàn xã Túc Trưng, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai, Điều Văn Cải đã tham gia 125 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt 142 tên Mỹ - ngụy. Riêng anh đã trực tiếp diệt 84 tên, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng, phá hủy 2 xe M113.
Đầu năm 1968, địch phát hiện được căn cứ của đội du kích nên đã nã pháo bắn phá để dọn đường cho bộ binh Mỹ càn quét. Điều Văn Cải (lúc này đang là xã đội trưởng) được giao phụ trách cùng 6 du kích phối hợp với đơn vị bộ đội phục kích tại khu rừng Suối Nho. Cuộc giao tranh diễn ra quyết liệt từ sáng đến tối, lực lượng của ta đã tiêu diệt được 31 tên Mỹ - ngụy,
44 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
làm bị thương 20 tên khác. Tháng 6-1968, một mình Điều Văn Cải với khẩu AK đã bắn rơi một máy bay đi thám thính trên trục quốc lộ 20 làm chết 2 lính Mỹ; tháng 11-1968, anh lại bắn một máy bay khác tại Km91, rơi xuống Gia Kiệm làm chết 5 tên Mỹ. Tháng 9-1968, Điều Văn Cải xung phong một mình (trong nhóm du kích ba người) cài ba trái mìn chống tăng khi biết kế hoạch hành quân của địch qua khu vực này. Đúng như nhận định, lần lượt 3 xe tăng M113 hành quân qua khu vực trên trúng mìn và nổ tung làm chết 24 lính Mỹ - ngụy. Một lần khác, Điều Văn Cải cải trang, ba lần trà trộn vào ấp chiến lược Cây Xăng, dùng lựu đạn và súng AK tiêu diệt 24 tên lính. Chỉ riêng cuối năm 1968, Điều Văn Cải hóa trang ba lần vào ấp chiến lược gần chợ Thế Lương giữa ban ngày, diệt tề điệp, ác ôn, làm cho địch hoảng sợ không dám hoạt động mạnh, qua đó hỗ trợ phong trào hoạt động chính trị của quần chúng trong ấp chiến lược phá thế kìm kẹp của giặc... Tháng 6-1969, phát hiện địch dùng mìn mo cài trên con lộ đá từ xã Túc Trưng đi vào Tam Bung, Điều Văn Cải đã bí mật cho du kích cảnh giới, còn mình bò vào gỡ mìn và cài hướng khác. Hôm sau, bọn Mỹ - ngụy đi kiểm tra, đồng chí Cải đã chập điện cho nổ mìn, làm chết tại chỗ 12 tên, bị thương 7 tên, thu được 2 súng... Trong một trận chiến đấu ở địa phương tháng 10-1969,
ĐIỀU VĂN CẢI 45
Điều Văn Cải cùng 3 du kích đi nắm tình hình địch để tổ chức đánh, nhưng khi đến khu vực rừng Suối Nho thì dẫm phải mìn của địch nên cả ba đã anh dũng hy sinh.
Sự gan dạ, thoắt ẩn, thoắt hiện của Điều Văn Cải là nỗi kinh hoàng lớn của bọn giặc. Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, năm 1969, anh được chọn tham dự “Đại hội Chiến sĩ thi đua” cấp miền, sau đó tiếp tục được chọn vào đoàn “Những đứa con ưu tú của miền Nam” ra thăm quê Bác Hồ và miền Bắc xã hội chủ nghĩa1.
Điều Văn Cải được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 4 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua. Ngày 6-11-1978, Điều Văn Cải được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
_____________
1. Xem http://www.dongnai.gov.vn/Pages/glp-dieu cainguoianhhungcuabuonlang-glpnd-53508-glpnc-115- glpsite-1.html
46
SƠN CANG
Anh hùng Sơn Cang sinh năm 1948, là người dân tộc Khmer, quê ở Trà Vinh. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo khó, cha sớm thoát ly theo cách mạng, vì vậy, từ nhỏ, Sơn Cang phải giúp mẹ làm rất nhiều việc. Năm 1962, mới 14 tuổi, đang học lớp 5 trường làng, Sơn Cang đã tham gia các hoạt động bí mật ở ấp như: nắm tình hình địch, làm giao liên dẫn đường phục vụ cán bộ
cách mạng phản kích diệt ác, phá kìm, chống địch hành quân càn quét... Với sự khéo léo, gan dạ, không biết bao nhiêu lần Sơn Cang đã vượt qua vòng kiểm soát gắt gao của địch, bảo đảm chuyển thư, tài liệu an toàn. Chỉ một năm sau (15 tuổi), Sơn Cang được chọn làm Đội trưởng du kích mật ấp Cây Xoài.
Một chiều cuối tháng 7-1964, Sơn Cang lặng lẽ trốn mẹ và hai em, thoát ly. Ngày đi đánh bót, tối Sơn Cang cùng các đồng đội vào các ấp chiến lược để vận động bà con đóng góp cho cách mạng. Có lúc địch oanh tạc trên sông, Sơn Cang và đồng đội
SƠN CANG 47
phải bỏ xuồng, trầm mình dưới dòng sông lạnh suốt mấy ngày liền. Lúc lên bờ, người tím tái, phồng rộp, đói lả. Thế nhưng, khi xông trận, Sơn Cang chẳng còn biết mệt mỏi. Thấy Sơn Cang gan lỳ, một mình nhiều lần đương đầu với địch và giành thắng lợi, lãnh đạo địa phương bố trí Sơn Cang làm công an xã.
Cuối tháng 11-1972, ông đang làm nhiệm vụ tại trại giam Ban An ninh tỉnh Trà Vinh. Trại giam này có hơn 200 tù nhân, đặc biệt có hai tù binh Mỹ nên nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho họ là vô cùng cấp thiết. Hôm đó, địch huy động ba tàu chiến từ vàm Cái Nước chạy vào sông Bến Giá (Duyên Hải) cùng hai phi cơ hộ tống, trực tiếp tấn công trại giam. Thời điểm đó, đồng chí Nguyễn Văn Tiết, Trưởng ban An ninh tỉnh Trà Vinh cũng vừa đến làm việc với cán bộ trại giam. Nhận định, nếu để địch tấn công bất ngờ, trại giam sẽ bị oanh tạc, thương vong sẽ vô cùng lớn. Do đó, để tránh thương vong cho tù nhân, cán bộ trại giam, đồng đội, khi máy bay địch vần vũ trên đầu, Sơn Cang dũng cảm lao ra bắn đạn xối xả, “nhử” địch về phía mình để đồng đội bảo vệ, di tản cán bộ cấp cao, tù nhân đến nơi an toàn.
Thấy động, máy bay địch chĩa hết súng về phía Sơn Cang, ra sức nhả đạn. Một mình giữa vòng vây, Sơn Cang dựa vào công sự đào, liên tục
48 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
bắn đáp trả để thu hút máy bay địch. Sự gan lỳ, mưu trí của Sơn Cang khiến địch nhả hết đạn vẫn chưa hạ được anh công an dũng cảm, phải quay về căn cứ nạp đạn. Sau ít phút, địch tiếp tục quay lại, đánh đến đêm nhưng không xóa được “cái gai trong mắt”.
Bước vào công cuộc tái thiết, xây dựng đất nước, lúc này, Sơn Cang đang giữ cương vị Phó trưởng phòng Bảo vệ chính trị, Công an tỉnh Cửu Long, lại lao vào công cuộc chống thế lực phản động. Sơn Cang trực tiếp phụ trách đội phòng, chống phản động lợi dụng chiêu bài dân tộc.
Trong hơn 100 án phản động, đồng chí Sơn Cang nhớ nhất vụ chống bạo loạn, lật đổ chính quyền vào ngày 16-11-1976 tại tỉnh Cửu Long. Cụ thể, khoảng tháng 9-1976, bằng các biện pháp nghiệp vụ, ông phát hiện đối tượng người nước ngoài tên Phola cùng bạn gái đến Trà Vinh trong vai người nuôi bệnh ở bệnh viện tỉnh Cửu Long. Thực tế, Phola đến Trà Vinh để móc nối, tổ chức, mưu đồ bạo loạn, lật đổ chính quyền. Đồng chí Sơn Cang lên kế hoạch bắt chớp nhoáng tên Phola chỉ với hai trinh sát.
Ông nhớ lại: “Qua khai thác, Phola khai với chúng tôi toàn bộ tổ chức và bộ máy chính quyền của chúng từ tỉnh đến xã. Tổ chức phản động mà Phola tham gia có phân cấp rõ ràng, riêng cấp
SƠN CANG 49
tỉnh có 7 tên, tên T.K. làm tỉnh trưởng, có nhiều quan chức của chúng đang cài cắm trong nội bộ chính quyền của ta lúc bấy giờ. Nhận thấy sự phức tạp, cũng như quy mô rộng lớn của tổ chức phản động này, tôi “tương kế tựu kế”, đồng thời triển khai nhiều biện pháp để tóm gọn cả bọn. Đến đầu tháng 11-1976, toàn bộ kế hoạch bạo loạn ở thị xã Trà Vinh bị chúng tôi vạch trần. Sau này, các đối tượng khai báo đã chọn sẵn ngày hành động là 16-11-1976, cũng là ngày khai mạc Đại hội Đảng bộ tỉnh Cửu Long lần thứ I. Theo kế hoạch, chúng sẽ tiến hành bạo loạn tại 63 điểm ở thị xã Trà Vinh và các huyện Trà Cú, Cầu Kè,
Tiểu Cần, Cầu Ngang, Châu Thành...”. Tháng 2-1979, đồng chí Sơn Cang được giao nhiệm vụ làm Tổ phó Tổ chuyên gia Công an tỉnh Cửu Long sang Campuchia giúp Công an tỉnh Kampong Speu xây dựng lực lượng và giúp nước bạn củng cố bộ máy chính quyền. Là người Khmer, nên việc ông truyền kinh nghiệm nghiệp vụ cho bạn gặp nhiều thuận lợi. Với kinh nghiệm và kiến thức có được, ông giúp nước bạn tìm, diệt hàng trăm tên nội gián, phản động.
Năm 2003, ông được phong hàm Thiếu tướng, là đại biểu Quốc hội khóa XI. Năm 2004, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh II Bộ Công an, được thăng hàm Trung tướng,
50 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
là thành viên Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ. Ông vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đến thời điểm này, ông là người con Khmer duy nhất của lực lượng vũ trang Việt Nam được mang hàm tướng, đồng thời được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân.
51
MAI TINH CANG
Anh hùng Mai Tinh Cang sinh năm 1920, là người dân tộc Hoa, quê ở Thuận Đức, Quảng Đông, Trung Quốc. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, công nhân trưởng ngành cơ khí Nhà máy điện Hà Nội.
Mai Tinh Cang đã có nhiều sáng kiến có giá trị, giải quyết được nhiều khó khăn cho nhà máy: nghiên cứu chế tạo một máy tiện đơn giản để tiện tămpông hình bầu dục của gờ tămpông mà không phải mua của nước ngoài; làm dao tiện tháo được cánh quạt bất động của máy tuốc bin số 1 khi đại tu mà trước đây người Pháp không tháo được; cải tiến máy guồng than, thay xích mua ở nước ngoài bằng bánh răng khía giúp máy chạy tốt hơn. Mai Tinh Cang còn góp phần thực hiện tốt sáng kiến của tập thể là làm máy sàng than xỉ, tiết kiệm được 1.170 tấn than xỉ, trị giá 40.000 đồng (giá tiền lúc bấy giờ). Đồng chí luôn nêu cao tinh thần tận tụy, phát huy nhiều sáng kiến có giá trị, tiêu biểu cho tinh thần sáng tạo và tự lực cánh sinh của giai cấp công nhân.
52 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Lao động hạng Nhất, 1 Huân chương Lao động hạng Nhì, 1 Huân chương Lao động hạng Ba, 7 năm liền là Chiến sĩ thi đua. Ngày 3-5-1952, Mai Tinh Cang được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
53
NGUYỄN HỒNG CAO
Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Hồng Cao sinh năm 1962, là người dân tộc Tày, quê ở xã Ngọc Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Tuyên (nay thuộc tỉnh Hà Giang), nhập ngũ tháng 2-1982. Khi hy sinh, đồng chí là Trung sĩ, Trung đội phó, Đại đội 1 bộ
binh, Tiểu đoàn 3, bộ đội địa phương tỉnh Hà Tuyên, Quân khu 2, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh1.
Nguyễn Hồng Cao rất chịu khó đi sâu học tập kỹ thuật, chiến thuật quân sự, phấn đấu rèn luyện về mọi mặt, trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ trung đội phó. Trong chiến đấu, đồng chí luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, dù khó khăn ác liệt thế nào cũng tích cực đánh địch. Gần một năm chỉ huy trung đội chốt giữ trận địa ở hướng chủ yếu của đại đội trên điểm
_____________
1. Xem Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương: Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh, Sđd, t.II, tr.458.
54 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
cao 1250 (thuộc huyện Yên Minh, Hà Tuyên), mặc dù hằng ngày, pháo địch bắn phá vào khu vực đơn vị, bộ binh địch luôn luôn áp sát nhưng Nguyễn Hồng Cao vẫn đi sát từng chiến sĩ kiểm tra, hướng dẫn mọi người trong trung đội, tổ
chức tuần tra canh gác chặt chẽ, nắm chắc mọi tình hình hoạt động của địch, báo cáo kịp thời giúp cho cấp trên chỉ huy, chỉ đạo chính xác, hạn chế được nhiều thiệt hại cho đơn vị.
Từ ngày 2 đến ngày 30-4-1984, địch bắn hàng vạn đạn pháo cối vào khu vực điểm cao 1250. Có ngày chúng bắn hơn 1.000 quả đạn và dùng bộ binh tấn công lên trận địa của ta. Nguyễn Hồng Cao bình tĩnh chờ địch đến gần mới nổ súng, đẩy lùi các đợt tấn công của chúng. Đơn vị Nguyễn Hồng Cao đã diệt nhiều tên, giữ
vững trận địa.
Ngày 30-4-1984, địch lợi dụng sương mù, dùng nhiều loại pháo bắn dữ dội và cho bộ binh mở nhiều đợt tấn công ác liệt vào trận địa ta. Nguyễn Hồng Cao bình tĩnh chỉ huy một bộ
phận bắn thẳng vào đội hình tấn công của địch, một bộ phận xuất kích đánh vào sườn, vào phía sau địch, diệt nhiều tên, đẩy lùi 6 đợt tấn công của chúng, giữ vững trận địa. Riêng Nguyễn Hồng Cao diệt hơn 40 tên. Anh đã anh dũng hy sinh sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
NGUYỄN HỒNG CAO 55
Gương chiến đấu của Nguyễn Hồng Cao có tác dụng động viên cổ vũ mọi người noi theo1. Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày 29-8-1985, liệt sĩ Nguyễn Hồng Cao được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
_____________
1. Xem http://trianlietsi.vn/new-vn/Trang-vang-liet si/1857/anh-hung-liet-sy-nguyen-hong-cao.vhtm.
56
HOÀNG THẾ CAO
Anh hùng Hoàng Thế Cao sinh năm 1936, là người dân tộc Tày, quê ở xã Đa Vi, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, nhập ngũ tháng 1-1964. Khi hy sinh, đồng chí là đảng viên, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 1, Sư đoàn 5, Bộ
Tư lệnh Miền.
Từ tháng 1-1968 đến tháng 3-1973, Hoàng Thế Cao làm nhiệm vụ quốc tế chiến đấu ở Đông Bắc Campuchia và Đông Nam Bộ. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ tiểu đoàn, ở cương vị nào, đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ1.
Anh đã tham gia 70 trận đánh, cùng đồng đội tiêu diệt và làm bị thương gần 1.000 tên địch, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Riêng anh diệt và làm bị thương 135 tên (trong đó có 25 tên lính Mỹ), bắt 5 tên, bắn cháy 7 xe tăng, thu 22 súng, 3 máy thông tin. Trận Suối Long
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.2, tr.563.
HOÀNG THẾ CAO 57
(Bình Long) tháng 3-1969, Hoàng Thế Cao dẫn đầu tiểu đội B40 đánh vào giữa đội hình địch, diệt nhiều tên, góp phần cùng đại đội diệt gọn một đại đội địch. Khi rút, anh ở lại một mình kiểm tra trận địa thì một đại đội địch bất ngờ phản kích. Dù có một mình, Hoàng Thế Cao vẫn kiên quyết dùng lựu đạn, tiểu liên, B40 đánh trả ác liệt, làm bị thương 40 tên, bọn địch còn lại bỏ chạy. Trong trận Xnun (Campuchia) ngày 29-5-1970, sau khi diệt gọn sở chỉ huy tiểu đoàn ngụy, đơn vị anh được lệnh trụ lại. Khi hai tiểu đoàn bộ binh địch được pháo binh yểm hộ quay trở lại phản kích, Hoàng Thế Cao linh hoạt, dũng cảm chỉ huy đại đội đẩy lùi 7 đợt tiến công của địch, diệt và làm bị thương 100 tên, trận địa được giữ vững. Riêng anh diệt 10 tên. Trong trận Trạch Đông (Thủ Dầu Một) ngày 21-3-1973, khi đơn vị được lệnh rút, bộ phận cáng thương binh sắp rời trận địa thì một đại đội địch phản kích. Sau khi cho anh em đưa thương binh ra, một mình anh ở lại ngoan cường chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch. Bị
trúng đạn, đồng chí đã anh dũng hy sinh. Đồng chí được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 1 Huy hiệu Bác Hồ, 2 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 22 bằng khen, giấy khen. Ngày 20-12-1973, Hoàng Thế Cao được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
58
BẾ VĂN CẮM
Anh hùng Bế Văn Cắm sinh năm 1945, là người dân tộc Nùng, quê ở Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Khi hy sinh, đồng chí là đảng viên, Trung đội phó, Đại đội 3, Trung đoàn 14, Sư đoàn 7.
Sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở Pác Bó - căn cứ địa vững chắc của Đảng ta từ trước Cách mạng Tháng Tám, Bế Văn Cắm sớm tiếp thu truyền thống đấu tranh cách mạng, có lòng yêu nước, căm thù sâu sắc đế quốc và phong kiến1.
Tháng 2-1964, Bế Văn Cắm nhập ngũ, tháng 1-1966, cùng đơn vị hành quân vượt Trường Sơn vào miền Nam chiến đấu. Đến vị trí tập kết, anh bị ốm nặng rồi bị liệt cả hai chân. Với hai tay và hai gậy kiên trì, rèn luyện từng bước một, anh đã chiến thắng bệnh tật và quay trở lại đội ngũ chiến đấu. Qua sáu tháng chiến đấu từ tháng 7-1967 _____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.2, tr.284.
BẾ VĂN CẮM 59
đến tháng 1-1968, Bế Văn Cắm tham gia sáu trận đánh, trận nào cũng lập công xuất sắc. Trong trận đánh căn cứ Tân Hưng đêm mùng 10-7-1967, sau khi hoàn thành nhiệm vụ diệt lô cốt số 6, đồng chí diệt hỏa điểm bên phải cửa mở
tạo thời cơ cho đơn vị tiến lên. Sau đó, đồng chí bắn sập ổ đề kháng chặn đường đơn vị, rồi dùng quả đạn cuối cùng diệt lô cốt số 5, tạo thuận lợi cho đơn vị diệt gọn căn cứ địch. Lúc giải quyết chiến trường, đồng chí cõng một thương binh, rồi tham gia cáng 2 thương binh và mang 3 súng cá nhân về tuyến sau1.
Tiếp đó ngày 6-8-1967, trong trận đánh Cầu Lê, đồng chí chỉ huy một tổ hỏa lực sang phối hợp chiến đấu cùng trung đoàn bạn đánh căn cứ, diệt 40 tên biệt kích. Thấy địch chống trả quyết liệt, khi đó tổ bộc phá chưa phá được hàng rào, đồng chí dũng cảm bò lên sát hàng rào, bất ngờ nổ súng chính xác, diệt hỏa điểm đầu cầu tạo điều kiện cho đồng đội vượt lên phá rào để cho bộ đội tiến lên đánh sâu vào giữa căn cứ. Khi đơn vị đang vượt bãi đất trống thì bị địch phát hiện, một đại liên địch bắn sát mặt đất, gây thương vong cho mũi xung kích của ta, không phút chần chừ, bất chấp hiểm nguy, đồng chí đã lợi dụng địa hình,
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.2, tr.285.
60 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
địa vật áp sát mục tiêu, mưu trí, khôn khéo ném một quả lựu đạn chặn họng hỏa điểm của địch. Với hành động dũng cảm đó, sau trận đánh, đồng chí được đơn vị bạn đề nghị tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba.
Đồng chí Bế Văn Cắm không những là một xạ thủ hỏa lực, cùng đơn vị diệt các hỏa điểm, lô cốt địch mà còn là dũng sĩ diệt xe tăng địch. Tháng 11-1967, trong trận đánh Lộc Ninh, lần đầu tiên gặp xe tăng địch, đồng chí đã diệt một xe M14. Tiếp đó, trong một trận phục kích khác, đồng chí tiêu diệt thêm một xe tăng nữa trên đường Cà Tum - Bố Túc. Tháng 12-1967, được đơn vị giao nhiệm vụ luồn sâu vào trong sân bay Cà Tum, đồng chí bò sát vào bãi để xe, phá nổ tung 5 xe tăng địch. Với những chiến công đó, Bế Văn Cắm được đơn vị bình bầu là Dũng sĩ diệt xe cơ giới, đề nghị tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba. Đồng chí cũng là lá cờ đầu của sư đoàn trong phong trào thi đua diệt xe tăng địch. Chiến công nối tiếp chiến công, tháng 1-1968, đồng chí lại cùng đơn vị đánh quân Mỹ đổ bộ đường không tại Trảng Rôm (Tây Ninh). Với cương vị Trung đội phó bộ binh của Đại đội 3, Tiểu đoàn 11, Trung đoàn 14, Sư đoàn 7, đồng chí đã chỉ huy trung đội chiến đấu dũng cảm, xuất kích đánh gần, diệt nhiều địch. Khi trận chiến diễn ra ác liệt, địch đông ta ít, Bế Văn Cắm
BẾ VĂN CẮM 61
chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và đã anh dũng hy sinh.
Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì, 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 6 bằng khen, một lần đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú và nhiều lần đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt xe cơ giới. Do đạt được nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 20-12-1969, đồng chí Bế Văn Cắm được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
62
CHA MA LÉ CHÂU
Anh hùng Cha Ma Lé Châu sinh năm 1940, là người dân tộc Ra Glai, quê ở xã Phước Trung, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận, tham gia cách mạng tháng 1-1960. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí làm Chính trị viên xã đội (1965-
1973), Bí thư Đảng ủy xã (1973-1985). Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Bí thư Đảng ủy xã Phước Trung, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.
Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, sớm giác ngộ cách mạng, năm 1960, Cha Ma Lé Châu tham gia du kích xã, dù ở cương vị chiến sĩ hay ở vị trí lãnh đạo chủ chốt trong xã, đồng chí luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, nêu cao ý chí cách mạng, quyết tâm vượt qua hy sinh, gian khổ1.
Cha Ma Lé Châu đã cùng đồng đội đánh nhiều trận, diệt và làm bị thương nhiều tên địch, bắn
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.6, tr.479.
CHA MA LÉ CHÂU 63
cháy 32 máy bay địch. Riêng anh đã bắn rơi 7 chiếc máy bay (5 máy bay lên thẳng, 1 chiếc phản lực, 1 chiếc L19). Cha Ma Lé Châu đã chỉ huy đội du kích và phối hợp với lực lượng đặc công cửa trên đánh hàng chục trận, diệt và làm bị thương trên 100 tên địch (cả lính Mỹ, Nam Triều Tiên), đốt cháy cả 7 bồn xăng dầu, phá sập nhiều nhà và vật tư chiến tranh của địch trong sân bay Thành Sơn. Tháng 3-1967, Cha Ma Lé Châu tổ chức lực lượng đánh địch càn quét đổ bộ
bằng máy bay, anh đã bắn cháy 4 máy bay (3 máy bay lên thẳng, 1 chiếc L19) tạo ra phong trào bắn máy bay bằng súng trường trong lực lượng vũ trang địa phương.
Tháng 7-1967, địch mở cuộc càn lớn có máy bay và gần 400 tên, vây kín hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng của xã để tạo thành vùng trắng bảo vệ sân bay. Cha Ma Lé Châu đã chỉ huy du kích dựa vào các hốc đá, cõng người già, em nhỏ
và dẫn 500 người dân ra khỏi vòng vây; đồng thời tổ chức đánh sau lưng địch, diệt nhiều tên, buộc chúng phải rút khỏi xã. Trong trận này, anh bắn rơi 3 máy bay khi chúng đổ quân xuống địa bàn.
Để ngăn chặn hoạt động đánh phá của không quân địch từ sân bay Thành Sơn ra các vùng phụ cận, Cha Ma Lé Châu tổ chức lực lượng du kích phục ém và bắn máy bay khi chúng cất và hạ cánh, gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc
64 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
chúng phải thay đổi đường bay và chuyển hướng cất cánh, hạ cánh, qua đó hạn chế sự đánh phá của địch.
Trong những năm 1968-1975, đồng chí đã chủ động chỉ huy du kích và phối hợp dẫn đường cho lực lượng đặc công về đánh sân bay có kết quả, đồng thời tổ chức chống càn, bảo vệ dân, bảo vệ sản xuất, diệt địch cho đến khi xã hoàn toàn giải phóng. Năm 1970, du kích xã được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Từ năm 1973, giữ cương vị chủ chốt của xã, Cha Ma Lé Châu đã tận tâm tận lực gắn bó với địa phương, xây dựng phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh, đóng góp nhiều sức người cho cách mạng, bảo vệ được dân, bảo vệ căn cứ
cách mạng ngay sát nách địch. Đất nước thống nhất, Cha Ma Lé Châu tích cực cùng cấp ủy và chính quyền chăm lo cho đời sống của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng bộ xã Phước Trung thường xuyên vững mạnh, toàn diện.
Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất và nhiều bằng khen, giấy khen của Quân khu 6, tỉnh và huyện. Ngày 20-12-1994, Cha Ma Lé Châu được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
65
RƠ Ơ CHEO
Anh hùng Rơ Ơ Cheo sinh năm 1952, là người dân tộc Gia Rai, quê ở xã Ear Sai, huyện A Yun Pa, tỉnh Gia Lai. Khi được tuyên dương Anh hùng, anh là đảng viên, Trung úy, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 303 bộ binh, bộ đội địa phương tỉnh Đắk Lắk, Quân khu 51.
Năm 1966, Rơ Ơ Cheo xin gia nhập đội du kích xã. Nhiều lần, Rơ Ơ Cheo băng rừng, làm cầu nối thông tin giữa buôn làng với lực lượng bộ đội trong núi. Năm 1967, Rơ Ơ Cheo chính thức được đứng vào hàng ngũ lực lượng bộ đội địa phương, thuộc Huyện đội H2 (huyện Krông Pa ngày nay) và biên chế vào bộ phận trinh sát.
Mùa khô năm 1970, đại đội địa phương huyện H2 nhận kế hoạch tiêu diệt đồn dân vệ quân Phú Túc (huyện Krông Pa). Tổ trinh sát của Rơ Ơ Cheo có nhiệm vụ điều nghiên, nắm tình _____________
1. Xem Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương: Chân dung anh hùng thời đại Hồ Chí Minh, Sđd, t.II, tr.462.
66 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
hình bố phòng trong đồn địch, trước khi đơn vị lên kế hoạch tấn công. Sau ba đêm trinh sát, nhiệm vụ được hoàn thành. Đúng 3 giờ sáng, tiếng súng pháo hiệu nổi lên, cả đơn vị tiến công, bọn giặc trong đồn hoàn toàn bất ngờ không kịp trở tay. Nhờ vào những thông tin chính xác mà trận đánh đồn dân vệ Phú Túc diễn ra hết sức thuận lợi, 30 tên địch hoàn toàn bị tiêu diệt. Ta thu một bộ
máy bộ đàm PC25, súng hỏa lực trung liên và toàn bộ súng AR15.
Năm 1974, Rơ Ơ Cheo trở thành Trung đội phó thuộc Đại đội 303, đơn vị chủ lực của tỉnh Đắk Lắk hoạt động ngay tại khu vực huyện Krông Pa và các huyện phụ cận. Đại đội 303 là đơn vị
đặc thù, từ cán bộ đến chiến sĩ đều là người dân tộc Tây Nguyên, thông thạo địa hình, địa bàn, am tường phong tục, tập quán, vừa chiến đấu, vừa đánh giặc, vừa vận động quần chúng nhận diện kẻ thù và đấu tranh với bọn Fulro.
Đất nước thống nhất, Trung đội phó Rơ Ơ Cheo được giữ trọng trách Đại đội trưởng. Tháng 5-1975, Đại đội 303 rút về tiếp quản Cheo Reo, phát triển thành Tiểu đoàn 303. Tháng 6 năm đó, Rơ Ơ Cheo chỉ huy đơn vị làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch ở khu vực Cheo Reo, đã kết hợp lùng sục trong rừng với công tác phát động quần chúng ở
các buôn. Kết quả, trong một thời gian ngắn đã cùng với nhân dân bắt gọn và gọi ra trình diện
RƠ Ơ CHEO 67
500 tên địch, thu trên 100 súng các loại, góp phần phá tan âm mưu cướp chính quyền của địch ở huyện lỵ Cheo Reo1.
Tháng 9-1975, một lần đơn vị tập kích đánh hang ổ của Fulro ẩn náu trên núi, đã thu được một số tài liệu quan trọng, trong đó có kế hoạch gây bạo loạn của lực lượng Fulro ở A Yun Pa. Là người bản địa, Rơ Ơ Cheo đã cùng tổ công tác ngày ngày chia nhau về các buôn làng tuyên truyền về chính sách của cách mạng, giúp nhân dân lao động sản xuất, giúp người nghèo làm nhà cửa ổn định cuộc sống... nên đã thu phục được lòng dân, cảm hóa những người lầm đường lạc lối trở về với buôn làng. Cuối cùng, kế hoạch gây bạo loạn của lực lượng Fulro phản động đã bị đập tan, ta thu hàng nghìn súng các loại, bắt trên 200 tên đưa đi cải tạo.
Năm 1978, một buổi sáng tiểu đội vận động quần chúng do Đại đội trưởng Rơ Ơ Cheo trực tiếp chỉ huy đi vào buôn Ea Pok, chợt anh phát hiện có dấu chân từ rừng đi vào trong buôn. Đến chiều thì lực lượng truy kích phát hiện bọn Fulro đang ở trong buôn Chua, trắng trợn đến các buôn khuất trong rừng để cướp lương thực, thực phẩm.
_____________
1. Xem Phạm Gia Đức và cộng sự: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, t.9, tr.410.
68 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
Rơ Ơ Cheo định triển khai tấn công với 2 khẩu B40, 2 khẩu M79, còn lại súng AK, nhưng thấy anh em truy kích cả ngày mệt mỏi, vả lại nổ súng có thể nguy hiểm tới tính mạng người dân, đành phục lại nghỉ ngơi đợi mờ sáng sẽ đánh. Nhưng đến sáng, bọn Fulro chỉ có vài tên lèo tèo trong buôn. Sinh nghi, Rơ Ơ Cheo ra bờ suối thì thấy chúng đang lô nhô lội dưới nước. Vừa lúc ấy, chúng cũng phát hiện ra anh, buộc anh phải nổ
súng. Nghe tiếng súng nổ, cả tiểu đội lao lên tấn công bọn địch đang ở trong buôn. Bị đòn bất ngờ, 4 tên bị tiêu diệt, bọn còn lại bỏ chạy tán loạn, ta thu được 12 khẩu súng và mấy tấn mì do chúng cướp bóc của dân. Trận ấy, Rơ Ơ Cheo bị thương vào cánh tay...
Lần khác, tổ công tác do đích thân Rơ Ơ Cheo chỉ huy về xã Ea Pok, Cư M’gar để vận động đồng bào. Đang là cuối mùa khô, đâu đâu cũng gặp đồng bào lên dọn phát rẫy chuẩn bị cho mùa gieo tỉa. Thấy một số người đang cặm cụi cuốc xới, Rơ Ơ Cheo ra hiệu cho tổ trinh sát dừng lại nghỉ rồi anh ghé vào rẫy hỏi thăm đồng bào. Bất chợt người đang làm rẫy bỏ chạy, linh cảm điều gì đó xảy ra, anh vội đề phòng thì ngay lúc đó hàng loạt đạn AR15 từ các lùm cây bắn ra. Biết bị phục kích, Rơ Ơ Cheo lăn mình vào một mô đất, nâng nòng súng AK bắn trả, các chiến sĩ tổ công tác kịp thời nổ súng phá vây. Cuộc chiến
RƠ Ơ CHEO 69
diễn ra chớp nhoáng, chỉ huy Rơ Ơ Cheo và tổ công tác vẫn an toàn, chỉ tiếc là để bọn Fulro trốn thoát vào rừng...1.
Với thành tích trong kháng chiến chống Mỹ, và đặc biệt là chiến công trong cuộc chiến chống lại bọn Fulro, ngày 28-8-1981, Rơ Ơ Cheo vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
_____________
1. Xem thêm tại http:// www.baomoi.com/Ky-tich Cheo-Reo/c/4202713.epi.
70
TÒNG VĂN CHÔ
Anh hùng Tòng Văn Chô sinh năm 1955, là người dân tộc Thái, quê ở xã Na Càng, huyện Than Uyên, tỉnh Lào Cai, nhập ngũ tháng 9-1976.
Trong chiến tranh biên giới phía Bắc, tháng 2- 1979, Tòng Văn Chô được phân công công tác tại Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 254, bộ đội địa phương tỉnh Hoàng Liên Sơn, Quân khu 2. Anh hăng hái, tích cực tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương, biên cương Tổ quốc. Với tinh thần chiến đấu quả cảm, kiên cường, Tòng Văn Chô đã tiêu diệt và làm bị thương hàng chục tên địch và cùng đồng đội diệt và làm bị thương hàng trăm tên khác. Trong trận chiến ngày 18-2-1979, Tòng Văn Chô đã bắn một quả đạn B40 diệt và làm bị
thương 15 tên, cùng đồng đội dùng súng AK bắn vào đội hình địch, làm bị thương và tiêu diệt hàng trăm tên khác.
Ngày 21-2-1979, đơn vị Tòng Văn Chô bố trí trên điểm cao 393. Địch bắn ác liệt vào trận địa và tấn công lên chốt. Tòng Văn Chô chờ địch đến gần mới nổ súng và ném lựu đạn. Thấy địch lên
TÒNG VĂN CHÔ 71
lấy xác đồng bọn, anh nhanh chóng kéo hai xác địch nhử chúng đến gần, diệt được 3 tên, buộc những tên còn lại phải tháo chạy. Khoảng 15 phút sau chúng lại tổ chức đợt xung phong mới vào trận địa. Bọn địch định xông vào bắt sống Tòng Văn Chô, nhưng anh đã diệt được 3 tên địch. Một tên khác ném lựu đạn vào chỗ anh, Tòng Văn Chô nhanh chóng chộp quả lựu đạn đang xì khói ném trả lại, quả lựu đạn nổ khiến một số tên địch bị tiêu diệt. Trong trận chiến đấu này, Tòng Văn Chô đã diệt và làm bị thương 31 tên, góp phần cùng đồng đội đánh lui hơn chục đợt tấn công của địch, đồng thời củng cố ý chí chiến đấu của bộ đội ta.
Tòng Văn Chô được tặng 1 Huân chương Quân công hạng Ba và danh hiệu Dũng sĩ giữ nước. Khi được tuyên dương Anh hùng, anh là đoàn viên, binh nhất, Tiểu đội phó Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 254, bộ đội địa phương tỉnh Hoàng Liên Sơn, Quân khu 2. Ngày 20-12-1979, Tòng Văn Chô được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
72
BÙI XUÂN CHÚC
Anh hùng Bùi Xuân Chúc sinh năm 1938, là người dân tộc Mường, quê ở xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Chuẩn úy, Đại đội trưởng Đại đội 6 bộ binh, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304.
Tham gia chiến đấu ở mặt trận bắc Quảng Trị, Bùi Xuân Chúc luôn nêu cao tinh thần tiến công địch, dũng cảm chiến đấu, mưu trí, giành nhiều chiến công. Đặc biệt trong thời gian đánh vây lấn địch dài ngày ở Tà Cơn, từ ngày 8-2 đến ngày 27-
3-1968, mặc dù máy bay, pháo binh địch bắn phá ngày đêm rất ác liệt hòng giải vây cho đồng bọn trên các điểm cao, Bùi Xuân Chúc vẫn cùng anh em kiên cường bám trụ trận địa, chỉ huy đơn vị
diệt hơn 300 tên địch, bắn cháy 8 xe tăng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong đợt này, nhiều trận đạt hiệu suất diệt địch cao như trận ngày 24-2-1968 ở điểm cao 468 Tà Cơn. Dù máy bay và pháo binh địch từ các trận địa tầm xa, từ tàu
BÙI XUÂN CHÚC 73
chiến ngoài khơi bắn rất dữ dội ngăn chặn đường tiến của đơn vị, Bùi Xuân Chúc vẫn dũng cảm dẫn đầu tiểu đội tiến công. Phát hiện những hỏa điểm, những tổ đề kháng lợi hại của địch, anh cho diệt gọn từng mục tiêu, nhanh chóng tiến lên điểm cao, đánh sâu vào bên trong vị trí của địch, tạo điều kiện cho đại đội chia cắt địch ra từng mảng để diệt gọn. Trong trận này, tiểu đội của Bùi Xuân Chúc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, riêng Bùi Xuân Chúc diệt được 21 tên địch, góp phần vào thành tích chung của đơn vị, diệt 130 tên địch.
Ngày 9-6-1968, anh chỉ huy đại đội phục kích đoàn xe địch ở Bồng Kho, nhanh chóng đưa đơn vị vào chiếm địa hình có lợi, bố trí trận địa phối hợp các mũi rất tốt. Khi quân địch lọt vào trận địa phục kích, đại đội của Bùi Xuân Chúc đánh rất mạnh và trúng, nhanh chóng chia cắt đội hình địch, làm chúng tê liệt tại chỗ1. Chỉ trong 15 phút đã diệt hơn 70 tên địch, phá hủy 8 xe tăng và xe bọc thép.
Trong một trận chiến đấu khác ở đồi Con Vịt (Quảng Trị), đơn vị đồng chí bị máy bay và pháo cỡ lớn của địch bắn dữ dội, đồng chí đã mưu trí
_____________
1. Xem Nguyễn Mạnh Đẩu (Chủ biên): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, t.3, tr.269.
74 ANH HÙNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - Tập 1
vừa tổ chức đánh máy bay địch trên không, vừa đánh bộ binh địch dưới đất. Suốt hai ngày đêm quần nhau với địch, lúc thì phản công trực diện, lúc thì đánh úp sau lưng địch, đơn vị đồng chí đã đánh tan cứ điểm của địch, diệt hơn 100 tên, trong đó có nhiều lính Mỹ.
Lần khác, Bùi Xuân Chúc được cấp trên giao nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tấn công một đồn địch ở Quảng Trị. Đồng chí đã dẫn một trung đội luồn sâu vào khu vực địch chiếm giữ. Trong 30 phút đánh quyết liệt, đơn vị đồng chí đã chiếm giữ được một vị trí của địch trên một ngọn đồi. Đồng chí bị thương ở bàn tay trái, chưa kịp băng vết thương thì địch xông tới, tay đau không cầm được súng, đồng chí đã dùng lựu đạn diệt liền mấy tên. Sau khi băng vết thương, đồng chí cùng đơn vị tiếp tục chiến đấu. Súng của mình bị hỏng, đồng chí lấy súng của một chiến sĩ đã hy sinh xông lên diệt nhiều tên khác1.
Trận đánh ngày 9-8-1969 ở bắc Tân Lâm, Bùi Xuân Chúc bám sát địch ba ngày đêm liền, điều tra tỉ mỉ, nắm chắc tình hình địch và địa hình. Khi đơn vị tiến công, đồng chí đi sát mũi chủ yếu, bình tĩnh và gan dạ đứng ở những vị trí nguy
_____________
1. Xem http://thcsbuixuanchuc.pgdbathuoc.edu.vn/ tabid/7250/Anh-Hung-QDND-Bui-Xuan-Chuc.aspx
BÙI XUÂN CHÚC 75
hiểm, động viên và chỉ huy đơn vị phát triển, chỉ rõ từng mục tiêu cho anh em đánh. Khi đánh sâu vào trận địa, bị thương vào tay, Bùi Xuân Chúc vẫn chỉ huy chiến đấu đến khi đại đội hoàn toàn
làm chủ trận địa, diệt hơn 100 tên Mỹ. Với những thành tích đã đạt được, Bùi Xuân Chúc được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày 25-8-1970, Bùi Xuân Chúc được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
76
PHẠM NGỌC CHỨC
Anh hùng Phạm Ngọc Chức sinh năm 1939, là người dân tộc Mường, quê ở xã Minh Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, công nhân lâm trường Yên Cát, tỉnh Thanh Hóa.
Phạm Ngọc Chức công tác ở lâm trường Yên Cát từ năm 1956. Trong công việc, đồng chí luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, góp phần giải quyết nhiều khó khăn của lâm trường. Năm 1961, Phạm Ngọc Chức đã có công nghiên cứu và cải tiến khâu vận xuất - một khâu quan trọng và khó khăn nhất của lâm trường trong thời điểm đó, như chế tạo chiếc xe quệt kéo gỗ giúp tăng năng suất từ 150 - 200%, cải tiến xe mộc lăn, tăng năng suất vận chuyển gỗ từ 1,2 - 5m3. Sáng kiến của đồng chí đã được áp dụng rộng rãi trong toàn xí nghiệp, nhờ đó, xí nghiệp không phải mua 83 con trâu. Ngoài ra, đồng chí còn có sáng kiến dùng cưa ngang hạ gỗ thay rìu, tăng năng suất 100%. Tổ của Phạm Ngọc Chức đã trở thành tổ tiên tiến
PHẠM NGỌC CHỨC 77
dẫn đầu phong trào toàn ngành lâm nghiệp. Đồng chí trở thành tấm gương tiêu biểu cho tinh thần phấn đấu vươn lên của đồng bào dân tộc miền núi.
Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, Ban Miền Tây đã động viên đồng bào xây dựng hậu phương vững chắc để phục vụ tiền tuyến, với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Trong lĩnh vực sản xuất đã phát động phong trào thi đua “Ba nhất” làm thủy lợi, khai hoang, thâm canh, trồng rừng, khai thác và chế biến lâm sản phát triển sâu rộng trong toàn vùng. Từ phong trào này nhiều địa phương đã đạt danh hiệu: “Vua luồng” ở Ngọc Lặc, Lang Chánh; “Vua gai” ở Bá Thước; “Vua cánh kiến” ở Quan Hóa; “Vua ngô” ở Cẩm Thủy; “Vua quế” ở Thường Xuân và đã xuất hiện 2 Anh hùng Lao động trong ngành lâm nghiệp là Hà Văn Dân, dân tộc Thái và Phạm Ngọc Chức, dân tộc Mường.
Phạm Ngọc Chức được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất. Ngày 3-5-1962, Phạm Ngọc Chức được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
78
HOÀNG VĂN CÓN
Anh hùng Hoàng Văn Cón sinh năm 1944, là người dân tộc Nùng, quê ở xã Thượng Thôn, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ tháng 10-1963. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Thượng sĩ, Tiểu đội trưởng thông tin Đại đội 2, Trung đoàn 134 thông tin liên lạc.
Tháng 10-1963, Hoàng Văn Cón nhập ngũ. Sau một thời gian huấn luyện ở Tuyên Quang, đầu năm 1965, Hoàng Văn Cón được chuyển về Đại đội 2, Trung đoàn 134, Bộ Tư lệnh thông tin liên lạc công tác. Đơn vị anh đóng quân kéo dài từ Hòa Bình tới Hà Tĩnh, trong đó tiểu đội của anh tập trung ở khu vực cầu Bến Nhạ, Thường Xuân, Thanh Hóa, kéo dài khoảng 40km. Hoàng Văn Cón được giao nhiệm vụ bảo đảm đường dây thông tin trên đường 15 - tuyến đường huyết mạch vận chuyển lương thực, thực phẩm, quân nhu, quân trang của ta ra chiến trường. Khu vực này trở
thành một trong những cái “rốn” bom mìn trong những năm đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá