🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh hùng Đông A, Gươm thiêng Hàm Tử - Tập 2 Ebooks Nhóm Zalo Q U Y Ể N II Hồi thứ sáu mươi mốt Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử Trở về khoang thuyền trên bến Bồ lăng, Dã Tượng, Địa Lô, cùng Thúy Hường họp với đại sư Huệ Đăng, Lý Như Lan, thiết kế bình định hai châu Khâu bắc, Văn sơn. Từ lúc Địa Lô xuất hiện, hai nàng Thúy Hường, Như Lan cảm thấy trong lòng bừng bừng lên một niềm vui, khó diễn tả. Hai nàng luôn tìm cách đi cạnh, hay nói truyện với chàng. Khi Vũ Uy vương sai Dã Tượng, Thúy Hường đi sứ, vương chỉ tiên liệu việc đàm phán, không dự trù đến vụ hai châu Khâu bắc, Văn sơn. Nay phải quyết định một việc quá lớn, Dã Tượng hơi bỡ ngỡ. Nhưng nhớ lại khi ban lệnh Vũ Uy vương có nói dặn: “ Con là con của Hưng Đạo vương. Con là cháu ta. Con là tướng Tổng lĩnh ngưu binh. Cấp bậc của con là Đô Thống. Khi con rời đây thì con là khâm sứ, con có toàn quyền thay triều đình quyết định mọi tình huống ». Trong thời gian qua, Dã Tượng đã đọc Lục thao, Tam lược, Tôn Ngô binh pháp, Thánh Thiên binh pháp, chàng có đầy đủ kiến thức của một đại tướng quân. Tuy vậy chàng chưa dám quyết đoán. Bây giờ có Địa Lô, chàng hỏi : – Em nghĩ mình phải làm gì bây giờ ? – Anh không nhớ Hưng Đạo vương đã dạy hay sao ? – Vương dạy nhiều, mà anh nhớ chẳng bao nhiêu. Địa Lô dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Dã Tượng : – Em nhắc lại cho anh nghe này : «Phàm khi bàn về quốc sự , dù tài trí, dù thông minh, không bao giờ nên quyết đoán môt mình. Mà cần phải tham vấn nhiều người ». – À anh nhớ rồi. – Anh có nhớ, trong khi Mông cổ tấn công Bình lệ nguyên, Cụ bản, Phù lỗ ; các Ngưu tướng tuy là những trẻ con 12-13 tuổi, nhưng cũng được các tướng Lê Tần, Phạm Cụ Chích, Trần Tử Đức mời họp tham mưu, rồi tham khảo ý kiến. Ý kiến các Ngưu tướng rất lợi hại. Từ kinh nghiệm đó anh phải tham khảo ý kiến sư Huệ Đăng trước. Dã Tượng cung cung kính kính hỏi sư Huệ Đăng : – Thưa Đại sư, liệu ta có thể tin được Ngũ hổ tướng của Khâu bắc không ? – Được ! Bần tăng đã âm thầm thu họ làm đệ tử rồi. Chàng tham vấn Thúy Hường : – Còn em ! Em là Tá lĩnh. Em nghĩ sao ? – Không cần phải nghĩ. Cứ lý mà suy : cả Ngũ hổ tướng đều đều thuộc là con cháu các vua Lý. Họ bỏ gia đình, bỏ thân thuộc với tấm lòng son mong phục hồi tiền triều, không ngờ bị lừa. Bây giờ họ như chim trong lồng được thả ra. Ta nên tin họ. Nhờ họ giúp bình định Khâu bắc, Văn sơn. Như Lan đã hai lần thấy Thúy Hường tỏ vẻ ghen vì Dã Tượng có những lời ngọt ngào với mình. Bây giờ Địa Lô xuất hiện, nàng muốn ra khỏi cái ghen tương của cô ca nhi này. Nàng cần nói một vài câu, để lấp cái hố ngăn cách : – Dù sao thì họ Thân của tên Long Vân cũng có công khai hoang lập ra một vùng đất trù phú. Trong 20 vạn dân, thì tông tộc họ Thân chiếm tới ba vạn. Cho nên, dù họ Thân trải mấy đời cai trị dân quá ác độc, ta nên mở cho con cháu họ một sinh lộ. Khi chiếm được hai châu, ta xin triều đình ban lệnh đại xá cho họ Thân kể từ Thân Lợi cho đến nay. Nếu ai muốn giữ họ Lý, ta cũng cho. Dã Tượng không ngờ Thúy Hồng với Như Lan lại có những ý kiến hay như vậy. – Về việc bình định. Địa Lô nghị kế : Long Vân cũng như tiền nhân của y quá ác độc. Nếu nay vẫn cho y tồn tại, tiếp tục cai trị hai châu, thì dân chúng vẫn khốn khổ. Tông tộc y vẫn bóc lột dân chúng. Vậy chúng ta đem Long Vân trở về, bắt y họp triều đình, rồi ra một cáo tri năm điều, gọi là Ngũ sự. Một là, tổ tiên Long Vân họ Thân chứ không phải họ Lý. Nay sự đã lộ, y không thể dối dân chúng nữa. Xin công bố sự thực. Long Vân trở lại họ Thân. Giải tán triều đình gian dối, ác độc. Hai là, triều đình tại quốc nội, không còn là triều đình nhà Lý nữa, mà là triều Trần. Trên có minh quân cai trị, trăm họ yên vui. Không còn cái gọi là chính thống phục hồi triều Lý nữa. Dân trong hai châu là dân Việt, không lý gì dân Việt cứ phải chống lại đất nước mình. Vậy hai châu Khâu Bắc, Văn Sơn sát nhập vào cương thổ Đại Việt. Ba là , dân chúng vì nghe lời dối trá bỏ nước ra đi, ai cũng muốn trở về cố hương, vậy những người muốn ở lại hay trở về nguyên quán tùy ý. Bốn là, ân xá tất cả tội trạng từ 7 đời trước cho họ Thân. Ân xá tội trạng cho dân chúng dù thành án hay chưa. Thả tất cả tù nhân. Năm là, tha thuế trong một năm, xóa bỏ thuế còn thiếu trong những năm trước. Thông thường mỗi ngày vào buổi tối, Dã Tượng đều viết tấu chương gửi cho Vũ Uy vương, báo cáo sự việc xẩy ra, rồi nhận chỉ thị do chim ưng gửi tới. Nhưng hôm nay có nhiều biến cố quá, Dã Tượng để Địa Lô ngồi viết thay, phải suốt một ngày mới xong tấu chương, rồi sai chim ưng gửi về Khu mật viện Thăng long, Khu mật viện Bắc biên, và cho sứ đoàn. Sáng sớm hôm sau, có chim ưng mang chỉ dụ của Vũ Uy vương : «1. Dã Tượng làm chánh tướng. Địa Lô làm quân sư. 2. Vẫn để cho Long Vân làm Thái tử bù nhìn. 3. Đợi bình định xong sẽ đuổi y khỏi Văn Sơn, Khâu Bắc. 4. Kiềm chế y thực chặt. Nếu y có hành vi gì gian dối thì giết thẳng tay. 5. Đi đường tắt về Khâu bắc, Văn sơn ngay. 6. Sẽ có quân từ Bắc biên tiếp viện. Tránh đổ máu ». Dã Tượng, Địa Lô định họp mọi người, chuẩn bị lên đường thì Hoàng Hoa gõ cửa vào phòng. Nàng nói nhỏ : – Hai vị tướng quân đang làm những việc quốc gia đại sự. Liệu những người xung quanh ta có thể tin được hết không ? Dã Tượng giật mình, vì khi từ khi theo quân, các chúa tướng luôn nhắc nhở : phải đề phòng cẩn mật. Hãy tưởng tượng lúc nào kẻ địch cũng rình rập quanh ta. Thế nhưng từ hôm khởi hành, cạnh chàng chỉ có mình Thúy Hường, thì chàng không cần đề phòng. Sau thêm Tô lịch thất tiên, mới đây thêm đại sư Huệ Đăng, Lý Như Lan, rồi Khâu Bắc ngũ hổ tướng, quả thực chàng không nghĩ đến đề phòng. Dã Tượng dùng lối xưng hô bình dân : – Cô thấy Dã Tượng có gì sơ hở, xin dạy dỗ cho. – Bây giờ nhị vị tướng quân giả cùng cùng tôi lên bờ mua sắm. Rồi chúng ta nói truyện. Hai người ra cầu bến thì thấy Hồng Hoa đang nói truyện với Thúy Hồng. Thúy Hồng hỏi : – Hai anh theo sư mẫu đi đâu đây ? Địa Lô vui vẻ chỉ Hoàng Hoa : – Sư mẫu muốn mua một vài thổ sản, để mai này gặp thầy Quốc Ninh, tặng thầy. Hai anh phải theo hộ vệ. Lên khỏi thuyền, ba người đến góc chợ, vào một quán ăn. Hoàng Hoa gọi vài thức ăn. Rồi nàng hỏi : – Chúng ta bị gian tế Mông cổ theo dõi, nhị vị tướng quân có biết không ? Địa Lô kinh ngạc : – Gian tế ? Có lý nào ? – Đúng vậy. Này nhé, theo lời thuật của Lý Như Lan, thì khi gã Long Vân tới Côn minh, Ngột Lương Hợp Thai sai y đem bộ hạ đi đoạt lại bọn tôi. Đây là công việc rất khó khăn, tại sao Ngột Lương Hợp Thai là tướng giỏi, biết mình, biết người, mà lại sai vợ chồng tên Ngọc đi ; trừ vợ y biết võ, còn y với con y chỉ là cái bị thịt. Sai y đi thêm vướng chân, vướng tay ? Một điều ta phải nghi. Dã Tượng than : – Chết thực ! – Chúng ta đi lễ đền Tam anh, người ngoài tuyệt không ai biết. Thế mà tại sao bọn Trịnh Ngọc biết, biết rất chi tiết để dẫn bọn Long Vân đến phục sẵn tại đền. Ban nẫy y chối rằng y không có thuốc mê. Đánh thuốc mê là tên Trịnh Ngọc. Mà tên Trịnh Ngọc đâu có lén bỏ thuốc độc vào thức ăn ? Vậy có thể chính người mình bỏ thuốc độc chứ không phải bọn Long Vân, Trịnh Ngọc. Hai điều ta phải nghi. Dã Tượng rùng mình : – Chết thực. Có lẽ khi Hoa sơn ngũ hiệp thả vợ chồng tên Ngọc ra, chúng biết rồi theo dõi chăng ? Địa Lô lắc đầu : – Hoa sơn ngũ hiệp thả vợ chồng tên Trịnh Ngọc ở Giang an. Chúng nào biết Ngũ hiệp đem Thất tiên đi đâu ? Từ Giang an đến đây cách mấy ngày đường. Chúng không đủ khả năng theo dõi. Đây chúng biết rất rõ anh đem Thất tiên đi lễ đền thờ Tam anh. Vậy phải có con rắn ẩn trong chúng ta, báo cho chúng biết. Dã Tượng bàng hoàng : – Tôi sẽ hỏi chi tiết đại sư Huệ Đăng, Lý Như Lan, rồi khảo vợ chồng tên Ngọc thì ra ngay. – Phải như thế. Sáng hôm sau, Dã Tượng, Địa Lô gặp riêng đại sư Huệ Đăng với Như Lan. Chàng hỏi chi tiết về vợ chồng tên Ngọc, những liên quan với Long Vân. Kết quả : « Khi Mông cổ chuẩn bị đánh Đại Việt, Hốt Tất Liệt đã cho Tế tác nghiên cứu rất chi tiết về binh lực, về tài nguyên. Hốt Tất Liệt từng nghe nói phụ nữ Việt nổi tiếng can đảm, nhưng cũng đẹp nổi tiếng trong lịch sử. Tế tác cung cấp tin tức rằng, những thiếu nữ đẹp nhất Đại Việt đều tập trung ở 36 Quán văn trong thành Thăng long. Bọn Tế tác chỉ biết có thế. Sau y được bọn mặt dơi tai chuột sang Vân Nam nói cho nghe rằng, trong các Quán văn tại Thăng long thì bẩy ca kĩ nhan sắc diễm lệ mang tên Tô lịch thất tiên là của báu hiếm có trên đời. Tuy cả 7 đều đã là vợ của các nhân vật lỗi lạc, nhưng tuổi còn trẻ. Người lớn tuổi nhất là Hoàng Hoa mới 23, trẻ nhất là Lan Hoa mới 20. Hốt Tất Liệt ra mật lệnh cho Ngột Lương Hợp Thai, khi vào Thăng long, phải bắt hết những thiếu nữ đẹp, nhất là Tô lịch thất tiên. Cho nên vừa vào Thăng long, Ngột Lương Hợp Thai sai bọn du thủ du thực nghe ngóng, truy tầm. Biết cả Thất tiên ẩn ở Nghi tàm. Y sai một thiên phu vây bắt. Bắt được rồi y chiều chuộng cực kỳ, bố trí nữ tỳ hầu hạ; cử riêng vợ chồng tên Trịnh Ngọc cung phụng như những công chúa. Ngột Lương Hợp Thai dành Hoàng Hoa, Hoài Đô dành Bạch Hoa, A Truật dành Huyền Hoa. Sợ để Thất tiên ở Thăng long, sẽ bị quân Việt cướp lại, Ngột Lương Hợp Thai sai Lý Long Vân bí mật đem về an trí tại Khâu bắc, Văn sơn. Bẩy nàng tuyệt không biết mình bị giữ ở đâu. Mãi tới gần đây Ngột Lương Hợp Thai bị bại trận. Y nghĩ tới đem bẩy nàng dâng cho Hốt Tất Liệt. Y ra lệnh đem bẩy nàng về Côn minh. Hành trình của vợï chồng tên Ngọc tuy bí mật, nhưng bị Tế tác của Tống biết được. Vương Kiên nhờ Hoa Sơn ngũ hiệp cứu ra. Long Vân ước mong được Mông cổ phong cho làm An Nam Quốc vương. Ngột Lương Hợp Thai gọi y tới Côn minh chờ bái kiến Hốt Tất Liệt. Long Vân tới giữa lúc tên Trịnh Ngọc hớt hải báo rằng Thất tiên bị Tống cướp mất. Ngột Lương Hợp Thai sai Ngọc đi cướp lại, với sự hỗ trợ của Long Vân. Dọc đường Như Lan thường thấy Trịnh Ngọc gặp bọn phu xe chuyên chở nói truyện riêng. Song Huệ Đăng, Như Lan không biết chúng trao đổi với nhau những tin gì. Cho đến mấy ngày trước tên Trịnh Ngọc ra lệnh cho Long Vân phục ở đền Tam anh hành sự “. Dã Tượng, Địa Lô cùng Ngũ hổ tướng Khâu bắc hỏi cung Long Vân. Y cũng không biết gì hơn, ngoài việc tuân lệnh tên Ngọc. Dã Tượng, Địa Lô bàn với sư Huệ Đăng và Như Lan. Sư Huệ Đăng đề nghị: – Nếu ta khảo vợ chồng tên Trịnh Ngọc thì khó có thể tìm ra con rắn. Chi bằng ta cứ đem chúng theo, rồi theo dõi, thì kẻ gian sẽ lộ mặt nạ. Việc quan trọng là bình định hai châu Khâu bắc, Văn sơn. Bây giờ bần tăng đem Như Lan, Long Vân, Ngũ hổ tướng đi trước bằng đường bộ. Đường này gồ ghề, nhưng là con đường tắt.Tướng quân đem Thất tiên với đám tên Ngọc đi sau bằng đường thủy. Đến Giang an thì đổi đi bằng đường bộ về Chiêu thông. Từ Chiêu thông đi Khâu bắc không xa. Dọc đường ta âm thầm theo dõi hành động của chúng. Địa Lô dặn dò sư Huệ Đăng, Như Lan, Ngũ hổ tướng chi tiết những gì phải làm. Hôm sau cho lên đường . Sáng sớm Dã Tượng nhận được lệnh của Vũ Uy vương: “Lệnh này chỉ mình Dã Tượng, Địa Lô đọc, không cho thêm bất cứ ai biết. Chắc chắn gian tế không thể là sư Huệ Đăng hoặc Lý Như Lan. Cần theo dõi Tô lịch thất tiên, kể cả Hoàng Hoa. Dọc đường tìm cách sơ hở để cho bọn Trịnh Ngọc trốn, rồi sai chim ưng theo dõi. Bọn Trịnh Ngọc là con mồi, theo dõi chúng sẽ biết được nhiều tin tức về phía Mông cổ”. Địa Lô bàn với Dã Tượng: – Như vậy dĩ nhiên mình không cho sư Huệ Đăng, Lý Như Lan biết đã dành, mà Thúy Hường cũng không thể cho biết lệnh này. Vương Kiên cấp cho Dã Tượng, Địa Lô ba xe song mã. Vương lại cử Kim sơn tam kiệt dẫn đường. An Nhất đi trước, An Nhị đi giưã, An Tam đi sau. Thúy Hồng xếp xe thứ nhất chở Dã Tượng, Tử Hoa, Lan Hoa và vợ tên Ngọc là Mỹ Liên. Xe thứ nhì Địa Lô, Hoàng Hoa, Bạch Hoa, Huyền Hoa tên Ngọc. Xe thứ ba Thúy Hồng, Thanh Hoa, Hồng Hoa, và tên Long. Vợ chồng Trịnh Ngọc và thằng con bị xích chân tay. Xe đi suốt một ngày, không có biến cố gì. Buổi chiều, tới thị trấn Hợp giang. Tại đây có một trại binh Tống. An Nhất đưa lệnh bài của Vương Kiên trình cho trại trưởng, xin tá túc qua đêm. Trại trưởng là một Tá lĩnh tên Tô Kim. Tô Kim sai giam bọn tên Ngọc vào nhà tù. Mã phu thì ngủ trong căn nhà của lính. Ba ba anh em họ An ngủ một phòng số một. Bốn nàng Hoàng, Bạch, Huyền, Thanh ngủ phòng số 2. Thúy Hường, với các nàng Hồng, Tử, Lan ngủ phòng số 3. Dã Tượng, Địa Lô, gốc là mục đồng, ngủ ngoài trời đã quen, hai chàng mắc võng ngủ trong góc vườn. Chỗ này có thể thấy động tĩnh toàn khu trại binh. An Nhất hỏi Tô Kim: – Tô Tá lĩnh, ban đêm mà trại binh không có người gác ư? Nhà tù không có người canh ư? Tô Kim cười: – Vùng này cách xa chiến trường tới hai ngày sức ngựa, nên chẳng cần canh gác nhiều chi cho quân sĩ mệt mỏi. Còn an ninh ư, mấy chục năm nay chưa từng xẩy ra trộm cướp, vì vậy trại binh chỉ cần đóng cửa, khóa lại là đủ. Sau một ngày hành trình vất vả, cơm chiều xong, mọi người lăn ra ngủ. Dã Tượng nghĩ thầm: – Sao ta lại buồn ngủ quá thế này? Ôi! Không khéo tất cả chúng ta đều bị gian nhân đánh thuốc mê nữa rồi. Nếu tên Ngọc liên lạc với bọn gian tế, thì chúng sẽ làm vào ban đêm. Ta mà ngủ thì hỏng bét. Nghĩ vậy chàng vận Vô ngã tướng thiền công. Phải mất ba vòng Tiểu chu thiên, chàng mới thấy tỉnh. Kinh ngạc, chàng nghĩ thầm: – Hôm bị đánh thuốc mê ở đền thờ Tam anh, mình chỉ vận có một vòng đã tỉnh. Sao hôm nay phải ba vòng? Có lẽ thuốc hôm nay mạnh hơn chăng? Lo cho Địa Lô, chàng khẽ hỏi: – Chú năm, chú có thấy gì khác lạ không? – Chúng ta bị kẻ gian trộn thuốc ngủ vào thức ăn. Đệ biết ngay từ đầu bữa cơm, nên đã uống thuốc giải. Còn anh, anh dùng Vô ngã tướng thiền công nên vô sự phải không? Dã Tượng phục tài của người em: – Chúng ta chờ. Gian nhân sắp xuất hiện bây giờ đấy. Chàng nằm yên, vận công luyện Vô ngã tướng thiền công. Đến canh hai, thì cửa phòng số 2 tử từ hé mở, rồi một bóng người xẹt tới trước cửa nhà tù. Dưới bóng trăng rằm chàng thấy rõ bóng đen là Thanh Hoa. Thanh Hoa móc trong túi ra con dao, nàng dùng dao cưa nhẹ vào khoen khóa. Thoáng một cái khoen khóa bị cắt đứt. Bên trong có tiếng vợ tên Ngọc: – Phu nhân đấy phải không? – Ừ, tôi đến cứu các người ra đây. Các người có bị khóa chân tay không? – Không! – Bây giờ các người trốn đi mau, xin Thái sư điều quân tới chiếm Khâu bắc, Văn sơn ngay. Bằng không tụi nó chiếm mất thì khó đấy. – Không có ngựa thì trốn đâu thoát. – Tất cả ngựa đều là ngựa kéo xe. Duy ba con của Kim sơn tam kiệt là ngựa chiến. Hãy lấy ba con ngựa đó mà chạy. Ba tên họ Trịnh vòng ra phía sau nhà tù. Dã Tượng gọi Địa Lô: – Ta tri hô lên, bắt quả tang con gian phụ Thanh Hoa đi! Địa Lô dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Dã Tượng: – Bây giờ ta tri hô lên, bắt bọn họ Trịnh với Thanh Hoa thì thực dễ dàng. Nhưng ta cứ để chúng trốn. Nếu chúng chạy trở lại Bồ lăng thì ta dùng chim ưng báo cho Vương Kiên biết. Vương sẽ bắt chúng rồi chặt đầu. Còn chúng chạy về phía Khâu bắc, ta báo cho sư Huệ Đăng, sư sẽ bắt chúng. Còn Thanh Hoa, ta lờ di. Không chừng còn có gian tế khác nữa. Qua câu nói của Thanh Hoa : “xin Thái sư điều quân tới chiếm Khâu bắc, Văn sơn ngay. Bằng không tụi nó chiếm mất thì khó đấy”. Thái sư là ai? Có thể là Ngột Lương Hợp Thai không? Chàng tiếp tục: – Anh thấy không? Khắp nước đều nghe danh Tô lịch thất tiên! Nào là văn hay, chữ tốt. Nào là sắc nước hương trời. Nào là hoa tay đàn địch. Nào là cất tiếng ca như ngàn chim trời hót. Cả nước trân trọng, người người quý mến. Thế rồi một chốc, một lát trở thành đại phu nhân, sống trong nhung lụa. Trong lúc đất nước nghiêng ngửa bị giặc bắt, đáng lẽ phải tự tử để bảo toàn danh tiết, thì lại thản nhiên đem tấm thân nghìn vàng làm đồ chơi cho bọn rợ Thát đát. Đã thế mà lại nhẫn tâm dẵm lên giang sơn, đạp lên tổ tiên, đi làm gian tế cho giặc. Đúng là đồ nằm ngửa, đồ dâm bôn. Địa Lô thiu thiu nhập vào giấc ngủ. Cả hai giật mình thức giấc vì tiếng ồn ào. Trong sân Tô Kim, ba anh em họ An, Tô lịch thất tiên, Thúy Hường đang đứng trước nhà tù. Tô Kim cầm hai cái khoen khóa nhà tù than: – Gian nhân cứu ba tên tù phải có cái cưa thép rất sắc mới có thể cắt hai cái khoen lớn như thế này. Kim sơn tam kiệt than: – Ba tên tù lấy ba con ngựa của chúng tôi, vậy thì tên cắt khóa chưa trốn đi. Nó quanh quẩn đâu đây thôi. Tô Kim hỏi anh em Kim sơn tam kiệt: – Có thể nào một trong các mã phu đã tham tiền, mà cứu bọn tù không? Địa Lô xua tay: – Tô tá lĩnh đừng nghi oan cho mã phu. Vì họ đều thuộc đạo Kị binh Bồ lăng, chưa từng quen biết ba tên tù này. Vả ba tên tù khi bị bắt, vàng bạc bị thu hết rồi, làm gì còn mà mua chuộc người? Ba anh em họ An bực tức: – Bây giờ không biết bọn Trịnh chạy theo đường nào mà bắt lại. Mất ba con ngựa quý thực khốn nạn. An Tam chắp tay xá Dã Tượng: – Chúng tôi được lệnh hộ tống tướng quân tới đây. Bây giờ chúng tôi đành đi xe ngựa về Bồ lăng. Còn tướng quân với phái đoàn đi đường thủy ngược giòng về cảng Hợp thủy mất một ngày, nghỉ một ngày ở Hợp thủy, rồi đi Giang an. Đoạn này nước chảy gấp, nên phải đi mất một ngày. Tới Giang an sẽ lên bộ đi xe ngựa, vượt đường tắt tới Chiêu thông. Từ Chiêu thông đến Khâu bắc, Văn sơn không xa. Thúy Hồng thuê một con thuyền lớn. Chủ thuyền kiêm tài công, 6 tay chèo và ba người đầu bếp. Nghe nói thuyền đi Giang an thì mừng ra mặt, vì phải trải qua 7 ngày. Trong ba đầu bếp thì một là vợ chủ thuyền, còn lại là hai thiếu nữ. Nàng để Dã Tượng, Địa Lô ở một khoang riêng. Còn Hoàng, Bạch Hoa ở một khoang, Huyền, Thanh Hoa ở một khoang, Hồng, Tử Hoa ở một khoang. Nàng ở chung với Lan Hoa. Thuyền chạy ngược giòng sông, nhưng lại xuôi gió, trên thuyền có hai cánh buồm nên đi rất nhanh. Dã Tượng rủ Địa Lô, Thúy Hường lên trên sàn thuyền ngắm cảnh. Cả ba nói tiếng Việt với nhau, nên tài công ngồi trên chòi cầm lái mà y không hiểu gì. Thuyền đi được một ngày, Thúy Hồng chỉ vào con thuyền đang đi phía sau: – Các anh có thấy điều gì lạ không? Địa Lô gật đầu: – Có! Một là thuyền này là thuyền chở hàng chứ không phải thuyền chở khách, nên thuyền khẳm. Hai là thuyền nhỏ hơn thuyền mình, mà có đến ba cây buồm lớn, đáng lẽ họ vượt qua thuyền mình dễ dàng, nhưng họ không vượt . Như vậy họ đang theo dõi mình. Ba là các thuyền của người Hoa cũng như người Việt mình, mũi thuyền luôn vẽ hai con mắt. Đây thuyền này vẽ vầng trăng khuyết lưỡi liềm. Có chim ưng mang thư tới. Dã Tượng mở ra, không phải lệnh lệnh của Khu mật viện Thăng long, mà là chỉ dụ của Hưng Đạo vương cho Dã Tượng: “ Con yên tâm, ta cũng như triều đình theo dõi từng bước của con, sẵn sàng tiếp cứu con về mọi mặt. Phàm việc Quốc gia đại sự, việc gì cũng phải cân nhắc cẩn thận. Ả Thanh Hoa làm gian tế cho giặc, có thể chỉ mình ả. Cũng có thể một hay sáu Hoa kia cũng làm gian tế. Cần trấn nhiếp tâm thần, coi như không biết gì, quan sát thực kỹ”. Trời về chiều, ánh nắng chiếu giòng sông lấp lánh như những thỏi vàng. Ngồi trong khoang, nhìn ra cửa sổ, Dã Tượng hỏi Địa Lô rằng tại sao lại có mặt ở đền thờ Tam anh đúng lúc bọn Long Vân cũng tới? Địa Lô thuật: – Em về nhà chịu tang chú một tháng, thì họ hàng họp lại bắt em phải lên đường ngay, vì việc nước trọng hơn việc nhà. Em đành gạt nước mắt lạy vong linh chú em, rồi ra đi. Em đuổi kịp sứ đoàn khi sứ đoàn đến Côn Minh. Vũ Uy vương thuật cho em biết tình hình sứ đoàn từ khi rời Thăng long. Vương sợ anh nói tiếng Hoa không giỏi, e có sự hiểu lầm, nên bảo em trợ giúp anh. Em âm thầm đến Bồ lăng đã lâu. Vô tình em ở trong cùng khách điếm với bọn Long Vân. Vì chúng là châu trưởng hai châu của Tống, chúng có thẻ bài của Tổng trấn Quảng Tây. Chúng bịa ra rằng Tổng trấn Quảng Tây sai chúng đến liên lạc với Vương Kiên, rồi sẽ tiếp tế lương thảo cho mặt trận Thục. Nhưng sáng hôm ấy chúng bàn kế hoạch bắt Tô lịch thất tiên ở đền Tam anh. Em mới theo dõi chúng, rồi gặp anh. Địa Lô hỏi: – Anh luyện Vô ngã tướng thiền công mau thực. Thanh đại đao nặng như vậy mà anh múa vù vù! Dã Tượng trở lại vụ Thanh Hoa: – Em bảo anh lờ đi cho bọn gã Trịnh trốn là theo kế hoạch của Vũ Uy vương. Còn không lột mặt nạ mụ Thanh Hoa thì em dụng ý gì? Địa Lô giảng giải: – Anh phải biết, Thanh Hoa là thê tử của Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm. Tuổi cô ta mới 22, mà thoát một cái đang là một ca nhi, trở thành đại phu nhân, lại được sủng ái cùng cực. Công danh lên tột đỉnh, tiền rừng bạc biển. Mụ bị Mông cổ bắt, chúng chiều chuộng rất mực để làm vật giải khuây. Bây giờ được cứu ra, chỉ còn mấy ngày nữa sẽ về Thăng long tái hồi với chồng. Vậy vì lý do gì mụ lại phản lại chúng ta? Dã Tượng bàn: – Anh nghĩ có lẽ trong thời gian bị Mông cổ bắt, mụ bị thất tiết, sợ trở về ông Chu Bác Lãm sẽ ruồng rẫy, khinh bỉ, nên ném lao phải theo lao, mụ muốn ở lại làm vợ một tên tướng Mông cổ chăng? – Có thể. Bởi theo Tử Hoa nói, thì Hoàng Hoa bị Ngột Lương Hợp Thai dành làm của riêng, giữ làm tỳ thiếp. Bạch Hoa được Hoài Đô dùng làm tình nhân. Huyền Hoa trở thành vợ của A Truật. Còn lại bốn nàng Thanh, Hồng, Tử, Lan Hoa thì ba tên thay phiên thỉnh thoảng dùng qua đêm một vài lần mà thôi. Dã Tượng quả quyết: – Vậy chúng ta cần theo dõi xem mụ sẽ liên lạc với bọn Mông cổ bằng đường dây nào khác không? Địa Lô mỉm cười nhìn thẳng vào mặt Dã Tượng: – Bỏ truyện Thanh Hoa, bây giờ nói truyện anh. Anh đào hoa thực. Trên bến Bắc ngạn, Thanh Nga tuyển phu, điều kiện khó khăn như vậy mà anh thành công. Rồi Vũ Uy vương lại sai anh đi với Thúy Hồng trong vai vợ chồng. Thanh Nga đẹp chói chang như hoa hải đường. Thúy Hồng đẹp nhu mì, đẹp ủy mị. Vậy từ hôm ấy tới giờ anh đã gì gì với Thúy Hồng chưa? – Không hề! Anh đối với nàng như anh em ruột. – Em không tin. Nàng đẹp xót ruột, anh với nàng luôn chung phòng, mà anh không gì gì thì mặt trời mọc đằng Tây em có thể tin được, chứ anh với nàng không ấy ấy thì em không thể tin. Anh như con mèo đói, mà nàng là miếng mỡ thơm ngon để trước mặt. Mỡ để trước mặt mèo, mà mèo không ăn là mèo mù. Anh đâu có mù? Dã Tượng bị tấn công liên tiếp, chàng lắc đầu quầy quậy: – Oan uổng! Oan uổng!Anh thề không có gì gì mà, cũng chẳng ấy ấy với nàng. – Em là thầy thuốc em biết, sức anh khỏe thì truyện ấy ấy, gì gì cũng khỏe vô cùng. Không lẽ anh không có hai quả cật, hoặc cái đó của anh teo như quả ớt. Anh ngồi dậy, em xem mạch cho nào! Dã Tượng biết Địa Lô xuất thân phái Sài Sơn, y học rất cao minh, chàng ngồi dậy. Địa Lô nắm lấy cườm tay phải bắt mạch, rồi tay trái phất trước bụng Dã Tượng hai cái. Chàng lắc đầu: – Cái ấy của anh lớn quá. Tốt vô cùng. Còn mạch thì Xích nhảy căng như dây đàn, chứng tỏ thận khí sung mãn. Trai to, gái lớn, sống với nhau trong phòng kín mà không gì gì thì anh có chối mấy em cũng không tin. Dã Tượng phải khai thực: – Lúc đầu anh bị rạo rực đến khô miệng, chóng mặt. Nhưng anh dùng Tiêu Sơn hóa tinh pháp của Hưng Ninh vương dạy để trấn áp dục tính đấy chứ. – À thì ra thế. Em hỏi nhé, trong hai nàng thì anh yêu nàng nào hơn? – Nếu nói yêu theo tình anh em thì anh yêu cả hai cô như nhau. Còn yêu theo tình trai gái thì anh không yêu cô nào cả. – Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại (Bất hiếu có ba điều, không con nối dõi tông đường là tội lớn nhất). Anh định không lấy vợ đấy à? Năm cô Đông hoa hoa tươi đẹp trước mặt mà bỏ qua thì trời phạt đấy. Dã Tượng vung hai tay: – Em đã biết anh là Thống lĩnh ngưu binh toàn quốc rồi mà. Hai vai anh gánh nặng Xã tắc. Giặc đang rình rập ở biên cương. Vui với thê nhi hiện chưa phải lúc. Không! Không! Một trăm lần không! Một nghìn lần không! Giặc đốt nhà, quẳng trẻ con vào; hãm hiếp đàn bà tàn bạo, mà bảo anh vui với thê nhi thì anh vui sao đước? – Anh nói thế mà không sợ đức vua nọc ra đánh đòn à? – Hư! Đức vua là minh quân, đời nào đánh anh! Địa Lô thấy Dã Tượng cương quyết, càng trêu già: – Khi chiến lũy Phù lỗ, Cụ bản vừa bị tràn ngập, giặc hùng hổ vào Thăng long, Vũ Uy vương trấn nhậm Bắc cương; vậy mà Nguyên Phong hoàng đế ban chỉ cho vương phải lấy vợ. Anh bảo cưới vợ khi đất nước chưa yên là ích kỷ, thì chẳng hóa ra anh kết tội đức vua à? Này! Anh thấy Vũ Uy vương không? Cưới vợ xong, vương với vương phi đánh hàng chục trận kinh thiên động địa. Theo gương người trên anh còn chờ gì mà không cưới vợ như vương? Tỷ như anh cưới một trong các nữ Ngưu tướng, rồi vợ chồng thống lĩnh Ngưu binh trấn ngự biên cương, có phải đẹp biết bao không? – Ừ nhỉ. Chưa bao giờ anh nghĩ đến việc đó. Có lẽ anh phải cưới một nữ Ngưu tướng mới được. Còn em, em là người tài hoa bậc nhất Đại Việt, lại nổi tiếng Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử. Em cũng phải cưới vợ đi chứ. Chàng trêu ngược lại Địa Lô: – Xa đâu không biết, trước mắt chúng mình có năm cô Đông hoa. Trong năm cô Đông hoa, nếu em thích cô nào, em xin Vũ Uy vương gả cho một cô. Ngay cả Thanh Nga ếu em thích, anh rất vui mà cho không em đấy. Địa Lô dí tay vào trán Dã Tượng: – Anh không được phép nghĩ thế, làm thế. Anh dự cuộc tuyển phu mà được ThanhNga.Thanh Nga yêu anh. Như vậy Thanh Ngalà của anh. Tình yêu là báu vật trên thế gian, như hương thơm của hoa. Khắp trời Nam này, con gái Việt đều là giòng dõi vua Trưng, chúng ta phải quý hơn vàng, trân trọng hơn ngọc, chứ không phải đồ chơi, là của riêng mà đem cho được. Bị chỉnh, Dã Tượng tấn công tiếp: – Vậy thì bốn cô còn lại, cô nào cũng đẹp như tiên nữ. Em nên rước một cô về làm vợ. Bằng không vương phi gả cho bọn Mông cổ hết thì thực đáng tiếc. – Không bao giờ! Không bao giờ em lấy vợ là ca nhi đâu. – Em nói lạ, ca nhi là những người có nhan sắc, họ lại mang thêm nghệ thuật trong người. Đàn ông ai cũng say mê họ. Sao em lại ghét họ? – Anh nói! Địa Lô tự biện hộ: em không muốn lấy vợ ca nhi, chứ em đâu có ghét họ? Họ như những đóa hoa đầy hương sắc, cần để cho người người chiêm ngưỡng, chứ không nên hái về làm của riêng. Hoa Lan, hoa Huệ, Hoa Hồng, khi còn ở trên cây thì hương sắc tươi thắm ngạt ngào. Nhưng đem nấu canh ăn thì đắng ngắt, không thể so sánh với rau muống, rau dền. Họ là người của thiên hạ, không thể, không nên bắt họ vào khuôn khổ làm vợ, uổng phí tài hoa của họ. Nếu em lấy một trong năm cô thì chẳng hóa ra em ích kỷ, đem đóa quốc sắc thiên hương về làm của riêng ư? Dã Tượng cung tay: – Cảm ơn em đã phân tích cho anh. Nghe em nói, anh như người tỉnh cơn mê. Đúng, từ hôm gặp năm cô, anh yêu thương, chiều chuộng các cô rất mực, mà anh vẫn thấy các cô với anh có khoảng cách. Thì ra khoảng cách đó là mình chỉ nghĩ đến nước, đến dân, mà các cô thì ca, hát cả ngày, không hợp với mình. Cho nên anh rửng rưng trước tài sắc của Thanh Nga. Địa Lô nắm lấy bàn tay khổng lồ của ông anh: – Người ta tặng cho em mỹ danh Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử, em không thấy hãnh diện bằng anh; bằng anh Yết Kiêu. Anh từ một mục đồng, nhưng có tấm lòng son với đất nước, thúc trâu đuổi giặc, trở thành người có đại công với Xã tắc, đấy mới là điều ước vọng của cháu vua Hùng, con vua Trưng. Dã Tượng cũng nắm lấy bàn tay mềm như nhung, tươi hồng của Địa Lô: – Sau trận Đông bộ đầu, năm anh em mình đã bàn luận, rồi đưa ra năm điều làm Cương cho nam nhi Đại Việt. Anh còn nhớ: “ Một là trung với Xã tắc, Hai là xả thân cứu nước, Ba là phẩm giá, đạo đức, Bốn là tài trí, dũng, mưu, Năm là hiếu kính phụ mẫu”. Bàn về lập công với Xã tắc, thì mỗi người mỗi cương vị, mỗi hoàn cảnh. Trong cuộc chiến vừa qua, em từng lập công, tương lai còn nhiều dịp. Năm anh em mình hiện đều đang lĩnh trọng trách, nhất định chúng mình phải đồng tâm nhất trí giữ đất nước của tổ tiên để lại. Công nhiều hay công ít cũng là công. Sống hay chết cũng vẫn là nguồn vui. Không ai hơn ai. Trong khoang nhỏ con thuyền trên sông Trường Giang xứ Thục của Trung quốc, năm 1259, hai thiếu niên Việt luận bàn về bổn phận của nam nhi Đại Việt. Có ai ngờ đó là cương lĩnh cho hằng vạn thiếu niên Việt trong hai lần đuổi giặc Mông cổ sau này, mà sử Việt gọi những thiếu niên đó là Anh hùng Đông A. Dã Tượng vấn kế: – Em này! Giữa anh với Thanh Nga đã có những giây tình vướng mắc. Vậy em nghĩ, anh phải giải quyết ra sao? – Tâm lý người con gái nào cũng giống nhau. Địa Lô phân giải: Dù họ đẹp, họ xấu, họ dữ, họ hiền họ đều muốn đàn ông con trai say mê họ. Nếu ta cứ lờ đi, họ sẽ làm bất cứ điều gì cho dù tàn ác, vô luân họ cũng làm để đạt mục đích. Vì vậy tuy anh không yêu Thanh Nga, nhưng nàng yêu anh đến điên đảo thần hồn. Anh cũng nên đáp lại bằng cử chỉ nhu nhã, lời nói ngọt ngào cho phải đạo. – Cảm ơn em. Địa Lô tiếp: – Anh có biết tại sao vương phi Ý Ninh lại cứ muốn gả Thanh Nga cho Ngột A Đa không? – Vì A Đa làm quan lớn bên Mông cổ. Gả Thanh Nga cho y thì y sẽ giúp Đại Việt. – Nhưng tại sao vương phi không gả Thúy Nga, Thúy Hồng, Thúy Trang hay Hồng Nga cho A Đa? – Anh không hiểu. – Dễ thôi! Dù sao năm cô Đông hoa cũng là những cô gái ngây thơ trong tình trường. Gả bất cứ cô nào cho một tay già dặn về đàn bà như A Đa, các cô dễ bị say tình, rồi bị A Đa điều khiển. Duy Thanh Nga đã yêu anh đến điên đảo thần hồn, khi làm vợ A Đa thì A Đa chỉ được thân xác nàng. Còn hồn của nàng vẫn dành cho anh. Dành cho anh tức là dành cho Đại Việt. – Á chà! Bà Ý Ninh không lớn tuổi hơn anh làm bao, mà đã già dặn trong tình trường. Khiếp thực. Có tiếng gõ cửa, rồi tiếng Thúy Hồng: – Mời hai anh ra khoang chính xơi cơm, nghe nhạc, uống trà. Dã Tượng reo: – Ừ nhỉ, đi thuyền 7 ngày mà cứ ở trong khoang nhỏ này thì chán chết. Nào đi nghe các tiên ca hát, tấu nhạc. Vào khoang chính Địa Lô chắp tay: – Địa Lô này trên đường đi sứ, may mắn được ngồi cùng thuyền với bẩy vị tiên của Thăng long, lại thêm một đệ nhất giai nhân Kinh bắc. Bây giờ được nghe các giai nhân cho nghe hát. Đúng là tam sinh, hữu hạnh. Thúy Hồng hỏi: – Này anh Địa Lô, nghe anh là đệ tử của phái Sài Sơn, thì giỏi âm nhạc lắm nhỉ? – Giỏi thì anh không dám nói rằng giỏi. Nhưng cũng không tệ. Bây giờ anh xin múa rìu qua mắt thợ. Chàng cầm lấy cây nhị trong tay Lan Hoa: – Tôi xin hát Xẩm, bài này tôi sáng tác trong trận tái chiếm Thăng Long, mang tên Mùa xuân đuổi giặc. Khi Địa Lô vừa cất tiếng hát, tay kéo nhị thì cả Tô lịch thất tiên với Thúy Hồng đều tự than: – Hỡi ơi! Mình cứ tự cho là tay tiên, giọng ca vàng, mà thua người này xa. Bẩy nàng tiên nghe nhị, nghe tiếng hát, nhìn dáng người thanh nhã, bất giác cùng thở dài. Trong lòng bẩy nàng bừng lên một dục vọng: – Khi còn hát ở Thăng long mình đã gặp không biết bao nhiêu đấng tài hoa, mà so với người này thực vạn vạn lần không bằng. Ôi! Mình đã có chồng, mới đây lại được các tướng Mông cổ ôm trong tay không biết bao nhiêu đêm; nhưng… nhưng sao bằng người này. Phải chi mình được người này ôm trong lòng một đêm, rồi có tan xương nát thịt cũng không ân hận. Địa Lô nào biết những dục vọng trong lòng bẩy nàng Tô lịch. Hết bản nhạc, chàng lại thổi tiêu, rồi đánh đàn bầu. Nhạc khí nào chàng cũng tấu tới trình độ tuyệt cao. Địa Lô rất giỏi về tướng mệnh, khi đàn, lúc hát chàng quan sát thính giả, thấy Dã Tượng thưởng thức với vẻ mặt của người quân tử. Thúy Hồng thì gật gù lắng nghe. Còn bẩy nàng Tô lịch thì ánh mắt, nét mặt tiết ra lửa dục ngùn ngụt, ngực nhô lên thụp xuống. Chàng than thầm: – Ấy a! Bẩy cô này đều đã có chồng, thân phận trôi nổi làm vợ hờ bọn ác quỷ Mông cổ mà vẫn chưa thỏa tính hoa nguyệt, bây giờ lại bộc lộ dục tính quá đáng ở đây. Mình còn đi chung với bẩy nàng còn nhiều. Mình phải làm sao bây giờ? Ừ, thì mình nói bóng, nói gió, may ra các nàng hiểu rõ rằng các nàng phải trở lại chính đạo, xa lìa tà tâm của ca kĩ. Nghĩ vậy chàng chỉ dòng sông trôi nước đỏ ngầu, hai bên bờ nhà cửa ẩn hiện trong các lùm cây xanh, gió thổi vi vu: – Sông Trường giang phát xuất từ Tây tạng. Chảy qua Đại lý, Tứ xuyên thì mang tên Kim sa giang, tới vùng này gọi là Trường giang. Dưới hạ lưu có nhánh gọi là Tần hoài, cảnh trí cực đẹp, thi sĩ Đỗ Mục đời Đường có làm bài thơ khi thuyền đậu trên nhánh này. Địa Lô xin ngâm để chư vị thưởng lãm. Chàng bật dây đàn bầu rồi cất cao giọng: Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa, Dạ bạc Tần Hoài, cận tửu gia. Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu Đình hoa. Ngâm dứt, chàng ngâm sang tiếng Việt: Khói mờ nước lạnh, trăng lồng cát, Thuyền đỗ Tần Hoài, cạnh tửu gia. Ca nữ nào hay hờn quốc hận, Cách sông vẫn hát Hậu đình hoa.(1) Ngâm xong chàng nhìn bẩy nàng xem có ai hiểu ý mình không? Nhưng chàng tuyệt vọng, vì cả bẩy vẫn nhìn chàng rồi nuốt nước miếng. Nản quá, Địa Lô hát, tấu đủ mọi nhạc khí, thì ngừng lại, vì nhà đò đã dọn cơm lên. Vừa nhìn món ăn, Lan Hoa reo: – Món ăn xứ Thục đây. Có bốn món: một món canh nấu bằng tôm đồng, một món thịt nướng, một món chim quay, và một món cá hấp. Vừa ăn, Địa Lô vừa gợi truyện cho Thất tiên thuật lại thời gian bị lưu giữ ở Thăng long, cũng như ở Khâu bắc, Văn sơn. Các nàng hồ hởi kể truyện được bọn chúa tướng Mông cổ sủng ái như thế nào. Trong khi thuật, giọng nói các nàng ngọt ngào, sắc mặt tươi hồng, tỏ ra hãnh diện lắm lắm. Dã Tượng cực kỳ bất mãn, chàng hỏi móc: – Nếu như bây giờ Đại Việt đem các chị cống cho Hốt Tất Liệt, các chị có còn tưởng nhớ đến Ngột Lương Hợp Thai, Hoài Đô, A Truật nữa không? Thanh Hoa tưởng Dã Tượng nói thực, nàng trả lời không suy nghĩ: – Nếu được như vậy thì hãnh diện biết bao. Vì Hốt Tất Liệt là một vị thân vương, là chúa tướng của bọn Hoài Đô. Sống với chúa tướng chẳng hơn sống với thủ hạ của y sao! Nàng cất tiếng hát theo diệu Cò lả: Một đêm vương giả nằm kề, Còn hơn gã tướng nằm kề quanh năm. Nguyên văn hai câu ca trên như sau: Một đêm quân tử nằm kề, Còn hơn chàng ngố nằm kề quanh năm. Nàng đã đổi đi vài chữ. Nhìn Tô lịch thất tiên, Địa Lô bùi ngùi, nghĩ thầm: – Bẩy cô gái này là những báu vật trên thế gian. Hoàn cảnh đất nước biến họ là những món đồ chơi cho đàn ông. Bẩy người đều làm tỳ thiếp của bẩy danh nhân Đại Việt. Chiến tranh bùng nổ, bẩy cô bị Mông cổ bắt đem đi, nhưng chúng vẫn chiều đãi các cô. Đúng ra đối với một con gái lương gia, chỉ cần bị giặc làm nhục là họ tự tử để bảo toàn danh tiết. Hoàng, Bạch, Huyền được chúa tướng Mông cổ dùng làm tỳ thiếp, khi gặp mình đáng lẽ các cô phải xấu hổ đến chết đi được, thì lại thản nhiên tỏ ra sung sướng. Còn Thanh Hoa được chuyển từ Ngột Lương Hợp Thai sang Hoài Đô, sang A Truật, không những không cảm thấy nhục, mà còn hãnh diện, rồi làm gian tế cho chúng. Liệu khi ta đưa các nàng về cho chồng, các nàng có biết xấu hổ không hay vẫn trơ mặt đá ? Còn Dã Tượng thì nghĩ: – Ôi! Bẩy cô này đã thành đại phu nhân mà vẫn không rửa hết được những vết dơ bẩn của ca kĩ. Họ sống trong cảnh dâm dật, dối trá riết rồi coi là sự thường. Khi mới gặp mình trên hồ, thì thiết tha xin được giải cứu về nước. Khi gặp Hoa sơn ngũ hiệp thì nguyền rủa Mông cổ. Khi bái kiến Vương Kiên thì làm như những tiết phụ, khổ sở khi phải bắt vào chốn bùn nhơ. Kinh khủng nhất là lúc ở trong đền thờ Tam anh. Các nàng không tiếc lời nguyền rủa Long Vân để lấy lòng đại sư Huệ Đăng, Địa Lô với mình. Xảo trá! Kinh tởm. Lan Hoa là người nhỏ tuổi nhất trong Thất tiên, nàng hỏi Thúy Hồng: – Năm nay em mười chín tuổi thì phải? Không biết Vũ Uy vương có ý gì mà cho em đi chung với Dã Tượng, trong lớp vợ chồng giả. Chắc vương muốn hai em thành đôi giai ngẫu phải không? – Không! Vương sai em đi với anh Dã Tượng vì anh nói tiếng Hoa, tiếng Thái không giỏi. Mà em thì giỏi hai ngôn ngữ này. – Cho dù ý vương không thế. Nhưng em là cô gái đẹp, Dã Tượng là một người con trai hùng vĩ. Khi đi với nhau, đêm xuân đáng giá nghìn vàng, sao lại bỏ phí những ngày hoa rực nở! Thúy Hồng cãi: – Không phải thế! Anh Dã Tượng đã có ý trung nhân rồi. Nàng tên Thanh Nga. Nhan sắc Thanh Nga e trong bẩy chị không ai bằng. Về nghệ thuật cầm ca thì Thanh Nga bỏ xa em. Hơn nữa anh Dã Tượng là một người chính nhân, quân tử. Suốt thời gian đi bên nhau không bao giờ anh ấy tỏ ra một cử chỉ khinh bạc với em. Nghe Thúy Hồng nói, bẩy nàng mở to mắt ra kinh ngạc. Vì các nàng tự cho mình đẹp nhất đế đô. Thế mà Thúy Hồng bảo Thanh Nga còn đẹp hơn. Về nghệ thuật cầm ca, bẩy nàng chỉ ngang với Thúy Hồng, bây giờ Thúy Hồng bảo Thanh Nga hơn nàng thì có nghĩa hơn bẩy nàng xa. – Thúy Hồng vừa đẹp vừa thông minh, Thanh Hoa tiếp: mà em chỉ lĩnh hàm Vệ úy, hôm rồi mới được thăng Tá lĩnh, như vậy không xứngvới những gì em có. Em phải là những sủng nhân của các đại tướng quân, của các đại phú gia, đại danh sĩ. Này chị khuyên em, khi về Thăng long, treo bảng tuyển phu, một sớm một chiều trở thành đại phu nhân. Như chị Bạch Hoa thành vương phi của đại vương cầm quân Nhân Huệ vương. Như chị Hồng Hoa thành phu nhân của Vũ kị thượng tướng quân. Chứ em an phận thì không biết kiếp nào, từ Tá lĩnh lên tới tướng quân. Thúy Hồng định trả lời thì có tiếng Địa Lô dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai: – Mỉm cười không trả lời. Thanh Hoa thấy Thúy Hồng không trả lời, chỉ mỉm cười thì cho rằng nàng nghe theo mình. Tiếp: – Như các chị đây, được các danh nhân Đại Việt sủng ái cùng cực. Đến như hoàng đệ Mông cổ là Hốt Tất Liệt nghe danh, lệânh cho Thái sư Ngột Lương Hợp Thai khi vào Thăng long phải đem về dâng cho người. Bây giờ tướng quân Dã Tượng muốn đem các chị về Thăng long, đoàn tụ với chồng cũ cũng được. Nhược bằng để các chị đi Mông cổ thì cũng thành vương phi Thiên triều, thực là vinh hạnh biết bao. Hồng Hoa tiếp lời Thanh Hoa: – Em đẹp, trẻ hơn các chị nhiều, nếu em muốn chị sẽ tiến cử em lên cho vị Hoàng đệ của đại vương Hốt Tất Liệt là A Lý Bất Ca. Ông ấy hiện làm vua vùng chính quốc Mông cổ. Thấy Thanh Hoa, Hồng Hoa, Lan Hoa thuyết Thúy Hồng, Dã Tượng, Địa Lô nghe giọng điệu vong quốc, ngôn tứ dâm bôn của ca kĩ, cả hai ứa gan, nhưng biết rằng nếu mình lên tiếng thì bẩy nàng sẽ không bầy tỏ hết những bí mật trong thời gian vừa qua. Hơn nữa không biết đường dây gian tế. Dã Tượng cảm thấy đăng đắng trong miệng: – Bẩy cô này thực là loại liễu ngõ, hoa tường. Hôm mới gặp mình thì khóc lóc làm như bị bắt theo Mông cổ là điều sỉ nhục. Bây giờ sau một thời gian, chân tướng mới từ từ hiện ra. Vậy mình có nên đem những dâm vật về cho chồng không? Những người này mà về với chồng, lại được sủng ái thì sẽ phá nát gia cang các ông. Mình hiện được coi như tướng ngoài biên cương, được toàn quyền quyết định. Hay mình tìm cách đưa các nàng cho bọn Mông cổ, để các nàng tàn hại sinh lực, trí tuệ, gia cang nhà chúng? Các ông tiếc thương kệ các ông. Còn hơn đưa về, các ông biết sự thực sẽ kinh tởm các nàng? Aên xong, ai về khoang đó. Có tiếng gõ cửa, Tử Lan nói với Địa Lô: – Anh ơi! Chị Hồng Hoa bị đau bụng dữ dội lắm. Địa Lô vội xách túi chạy đến khoang của Hồng Hoa. Nàng đang nằm trên giường ôm bụng quằn quại. Địa Lô ngồi xuống cạnh giường cầm tay trái của nàng chẩn mạch. Hồng Hoa rên: – Ôi đau quá! Anh đóng cửa lại rồi hãy khám bệnh. Địa Lô đóng cửa, tiếp tục chẩn mạch. Chàng kinh ngạc, vì thông thường khi bị đau bụng do thực phẩm thì mạch Hoạt. Thế nhưng mạch Hồng Hoa lại Hồng Xác. Hồng Hoa cứ ôm bụng rên: – Ôi đau quá. Địa Lô án tay lên bụng nàng, thì nàng choàng tay ra ôm lấy vai chàng. Cho rằng cơn đau hành hạ, Hồng Hoa đang cơn mê loạn, nên ôm lấy mình, Địa Lô không nỡ gỡ tay nàng ra, mà tiếp tục dồn chân khí xoa khắp bụng. Không thấy triệu chứng gì khác, chàng hỏi: – Có phải chị đau bụng kinh không? – Phải, hằng tháng em vẫn đau như vậy ba ngày liền. Địa Lô tự hỏi: – Sách An Nam Y Kinh của Bồ tát Minh Không nói rằng khi đau bụng kinh thì bụng dưới căng, nóng, án sâu vào trong thì càng căng thêm. Mình đã trị chứng đau bụng kinh cho hằng trăm người, đều thấy như thế; mà sao bụng cô này không thấy nóng, chẳng thấy căng! Lạ quá. Có lẽ đây là trường hợp bất thường chăng? Tuy vậy chàng vẫn an ủi: – Vậy chị nằm ngay lại đi, tôi dùng châm cứu trị cho chị. Chỉ cần trị mỗi ngày một lần. Trị trong năm ngày liền, thì bệnh khỏi. – Khỏi tạm thời hay khỏi vĩnh viễn? – Khỏi vĩnh viễn. Chàng móc hộp kim ra, án tay vào bụng dưới, đầu tiên châm huyệt Quan nguyên. Quan nguyên là huyệt nằm dưới rốn. Hồng Hoa rên lên mấy tiếng. Cho rằng kim làm đau. Địa Lô an ủi: – Chịu đau một tý rồi bệnh sẽ giảm. Chàng xoay kim 100 lần, rồi án tay vào huyệt Trung cực. Huyệt này nằm bên trên xương chậu bụng dưới. Tay chàng vừa chạm vào xương bụng thì Hồng Hoa rên lên hừ hừ. Kinh ngạc, Địa Lô chợt để ý trên khuôn mặt Hồng Hoa đỏ tươi hiện ra vẻ sảng khoái, chứ không thấy nhăn nhó khó chịu. Nhất thời chàng cho rằng kim đã làm giảm cơn đau, nên Hồng Hoa có nét mặt như vậy. Xoay kim 100 lần, rồi chàng tiếp tục châm huyệt Tam âm giao, Túc tam lý, Thái xung. Xoay kim. Nét mặt Hồng Hoa tươi như hoa mới nở ban mai: – Thần diệu. Anh ơi! Em hết đau bụng rồi. Anh lưu kim bao lâu? Nhìn nét mặt Hồng Hoa tươi hồng, nàng nở nụ cười, ngực nhô lên thụp xuống. Địa Lô kinh hãi, nhìn đi chỗ khác, chàng lắc lắc đầu tự nói thầm: – Ta là thầy thuốc. Nàng là con bệnh. Y đạo Đại Việt dạy ta phải coi con bệnh như nhau, dù nam, dù nữ, dù trai, dù gái, dù già, dù trẻ. Tất cả đều là kẻ cần cứu giúp. Hồng Hoa cầm lấy tay Địa Lô, thở hổn hển hỏi lại: – Anh lưu kim bao lâu? Địa Lô khẽ gỡ tay nàng ra: – Một khắc rưỡi ( 20 phút ngày nay). Hồng Hoa lại hỏi: – Anh ơi! Tại sao lại có chứng đau bụng kinh thế này? Tại sao Tử Hoa không bị, mà em lại bị? Địa Lô giảng: – Chứng đau bụng kinh, tên trong Y học gọi là Thống kinh hay Kinh thống. Nguyên nhân có sáu loại. Thực chứng, Hư chứng, Hàn chứng, Nhiệt chứng, Khí đới, Huyết ô. – Em chỉ là cô gái suốt ngày ca hát, có đọc sách nhiều đâu mà anh nói chữ thì sao em hiểu. Địa Lô giảng: – Đại khái: Đau bụng không thích án tay vào thuộc thực chứng, Đau bụng thích án tay vào thuộc hư chứng, Đau bụng sau khi kinh xuất, thích án tay thuộc hàn chứng, Đau bụng trước khi có kinh, không thích án tay thuộc nhiệt chứng. Đau ngâm ngẩm, kinh xuất khó khăn thuộc hàn trở, Đau như cắt thuộc huyết ô. Thầy thuốc phải biết phân loại mà đưa ra Lý, Pháp, Phương. – Ba cái đó là gì vậy? – Lý là bệnh lý, nguyên nhân đưa đến bệnh. Pháp là phương pháp điều trị. Phương là bài thuốc cho mỗi bệnh. Giảng đến đây, Địa Lô nhổ kim cất vào hộp. Thuận tay chàng án vào bụng Hồng Hoa: – Chị còn đau không? Miệng nói chàng định rời giường, ngồi trên chiếc ghế, bên cạnh, thì Hồng Hoa năn nỉ: – Anh ơi, anh xoa bụng cho em đi. Em cần anh bên cạnh. Lòng Địa Lô lại nhũn ra, chàng không nỡ rời cạnh giường. Hồng Hoa cầm tay chàng ấn vào bụng, rồi quay vòng tròn. Địa Lô cảm thấy miệng khô, tai ù, chân tay như tê liệt. Trước mặt chàng, khuôn mặt thanh tú, môi hồng mọng, đôi mắt to đen, mi cong của Hồng Hoa… như hút toàn thân chàng vào cơ thể nàng. Thình lình nàng kéo tay chàng lên ngực. Một cảm giác êm đềm khó tả từ ngựïc nàng truyền vào thân thể chàng. Chàng nhắm mắt, ngồi như pho tượng. Hồng Hoa quàng tay ra ôm chặt lấy Địa Lô. Địa Lô tuyệt không đề phòng, vì vậy chàng ngã xuống giường, nằm đè lên người nàng. Hồng Hoa hôn lên môi chàng: – Chàng ngốc ơi! Chàng ngốc là trai tơ, chưa biết sự đời, để chị dạy cho. Chị sẽ đưa em lên tiên. Vừa nói nàng vừa đưa tay kéo rút quần. Địa Lô như bị tê liệt toàn thân, chàng buông lỏng hết. Hồng Hoa cởi áo mình, rồi thuận tay cởi quần chàng. Khoảng thời gian ngắn ngủi đó, bản chất người anh hùng trong Địa Lô bùng lên, gọi bên tai: “ Một là trung với Xã tắc, Hai là xả thân cứu nước, Ba là phẩm giá, đạo đức, Bốn là tài trí, dũng, mưu, Năm là hiếu kính phụ mẫu”. Chàng nhắc lại Ba là phẩm giá, đạo đức. Hồng Hoa là thê tử của Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách. Tuy nàng là ca kĩ, tuy nàng đã đem thân dâng hiến cho bọn quỷ Mông cổ. Nhưng ta không thể đâm sau lưng Lý tướng quân. Chàng chụp cái túi đựng thuốc rồi chạy khỏi phòng Hồng Hoa. Về tới khoang mình thấy Dã Tượng đang luyện công, chàng nằm dài ra giường thỏ dốc: – Kinh khủng! Thì ra Hồng Hoa giả đau bụng kinh, để lừa chàng vào khu vườn dâm đãng! Hú vía. Đêm đó thuyền đậu tại một bến nhỏ. Suốt đêm không có biến cố gì. Sáng hôm sau, Thúy Hường chỉ về sau: – Con thuyền kia vẫn bám sát mình. Dã Tượng dặn: – Em cứ theo dõi, thấy có gì lạ thì báo cho anh ngay. Lại một ngày yên tĩnh. Ghi chú: (1) Tần Hoài, tên sông ở tỉnh Giang tô chảy vào sông Trường giang. Thương nữ, kỹ nữ. Hậu đình hoa, tên một khúc hát làm trong bữa tiệc của vua Trần hậu chủ và Trương quý phi. Hồi thứ sáu mươi hai Nguyên tổ Mật tông Việt Nam Trời về chiều, chủ thuyền gặp Thúy Hường đề nghị: – Trời tối rồi, chúng tôi phải neo thuyền tại bến này, rồi mai đi tiếp. Tuy nhiên đêm nay trăng sáng, nếu quý khách muốn, tôi có thể cho thuyền đi trong đêm đến Giang Tân. Địa Lô vui vẻ: – Ừ! Thuyền đi trong đêm, chúng tôi được ngắm sông Trường giang dưới trăng thì còn gì bằng. Địa Lô vừa về khoang thì Thúy Hường gõ cửa bước vào: – Các anh có thấy thương cho phu quân của Tô lịch thất tiên không? Trong khi các ông thương nhớ các nàng, thì các nàng lại cảm thấy hạnh phúc, hãnh diện khi được dâng thân xác cho bọn Thát đát không? Từ Vương Kiên, Hoa sơn ngũ hiệp, cho đến chúng ta đều làm cái công việc gánh vàng đi đổ sông Ngô mất rồi. Dã Tượng an ủi Thúy Hường: – Em phải bình tĩnh. Ta cần im lặng để các nàng lộ chân tướng ra hết. Đêm nay, có thể gian tế sẽ liên lạc với các nàng. – Sao anh biết? – Hồi trưa, anh thấy vợ chồng tên Trịnh Ngọc phi ngựa theo thuyền chúng ta trên bờ. Tuy chúng đã hóa trang, nhưng anh vẫn nhận được, vì chim ưng báo chỉ điểm. Còn con thuyền phía sau kia nữa, không biết của phe phái nào đang theo mình? Thúy Hường đi rồi, Dã Tượng bàn: – Chúng ta phải phúc trình cho Khu mật viện và Vũ Uy vương biết. Nhất là những gì đã xuất ra ở bẩy nàng Tô lịch. Hai anh em viết tấu chương rồi sai chim ưng mang đi. Dã Tượng là người chân thật, nên trước sự lộ diện của Thất tiên, chàng muốn nổi đóa. Còn Địa Lô là người đọc sách, nên rất bình tĩnh. Chàng nói với Dã Tượng: – Anh đừng quên mình đang đi sứ Mông cổ, mình không nên lộ ý chống đối chúng. Tính tình phụ nữ vốn đa dạng, thâm sâu, ta cần phải hiểu rõ, rồi chờ Khu mật viện quyết định. Chợt Địa Lô hiệu im lặng, tay chỉ vào tai ngụ ý lắng nghe. Hồi này nội công Dã Tượng đã thâm sâu. Chàng cũng nghe rõ có tiếng nước long bong, khác hẳn tiếng sóng. Chứng tỏ có người đang bơi lại mạn thuyền. Địa Lô nói vào tai Dã Tượng: – Anh ở trong này, để em ra ngoài quan sát xem, những gì đang xẩy ra. Địa Lô chui ra khỏi khoang, con thuyền nhờ sức gió thổi, hai cánh buồm căng no, vẫn chạy ngược giòng, sóng vỗ róc rách. Chàng bò lên trên sàn. Ánh trăng không sáng lắm, nhưng cũng đủ cho chàng nhìn rõ một người vừa từ dưới nước đang men theo mạn thuyền nghe ngóng. Hình như y vừa từ con thuyền vẽ hình lưỡi liềm phía sau, chạy bằng buồm vẫn theo xa xa từ Bồ lăng. Có tiếng ho của Hồng Hoa, bóng đen men tới khoang của nàng. Cánh cửa khoang mở ra, bóng đen chui vào trong. Địa Lô men tới phía ngoài cửa sổ, ghé mắt nhìn qua kẽ hở: bên trong Tử Hoa ngủ say, đang gáy nhè nhe, có lẽ bị đánh thuốc mê. Còn Hồng Hoa thì ôm một người đàn ông y phục ướt nước nhỏ lộp bộp. Da tên này đen, mũi cao, mắt sâu, y là ngươi Hồ chứ không phải người Hoa. Hồng Hoa nói tiếng Việt: – Anh! Anh định sao đây? Người đàn ông nói tiếng Việt lơ lớ: – Em có biết bọn chúng sẽ đi theo đường nào không? Vùng này thuộc địa phận Tống đóng binh, anh không giải cứu em được. Này em, chúng định đi đâu vậy? – Chúng từ Hợp giang tới đây, tiếp theo tới Giang an, rồi đổi đường thủy, đi đường bộ tới Chiêu thông. Cuối cùng đi Khâu bắc, Văn sơn. – Như vậy anh phải báo cho Mông cổ biết, để họ giải cứu các em. Hồng Hoa gắt: – Anh nói! Nếu để bọn chúng đem em về Thăng long, thì chúng mình mới có dịp hội ngộ. Chứ Mông cổ đem bọn em đi thì tuyệt đường chim xanh. Câu nói làm Địa Lô rợn tóc gáy: – Thì ra Hồng Hoa đã từng bán thân cho tên Hồ này. Khi nàng về làm phu nhân Vũ kị thượng tướng quân, mà chưa thỏa lòng, vẫn bí mật gian dâm với tên Hồ, cung cấp tin tức chiến cuộc cho y. Tên Hồ là Tế tác cho Mông cổ. Với tội trạng này thì Vũ kị thượng tướng quân bị chặt đầu. Còn Hồng Hoa với tên Hồ bị tội xẻo thịt, toàn gia bị xử tử. Của cải bị xung công. Tên Hồ hỏi: – À này! Cái tên mới tới là tên nào vậy? – Tên nó là Nguyễn Địa Lô. Nó là một trong Thiên trường ngũ ưng đấy. – Thiên trường ngũ ưng à? Sao anh chưa nghe qua? – Thiên trường ngũ ưng là năm tên còn trẻ, nhưng đó là những thiên tài. Năm đứa kết huynh đệ theo thứ tự Dã Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành, Địa Lô. – Tài năng của nó so với Dã Tượng thế nào? – Dã Tượng chỉ là một con voi, thể lực mạnh, có thiên tài về Ngưu binh. Còn tên Địa Lô này nổi tiếng là một mỹ nam tử, miệng lưỡi như gươm treo. Y có trí nhớ siêu việt. Vì vậy y nói được tiếng Hoa vùng Quảng, vùng Lâm an, vùng Thục. Y nói, viết tiếng Mông cổ như những danh sĩ. Y xuất thân phái Sài sơn, từ Nho, Y, Lý, Số , Xạ, Ngựï, Thư, Họa đều đạt tới trình độ siêu đẳng. Cho nên đàn bà, dù là thiếu nữ khuê các, dù bà già tám chục, thấy y đều ngây ngất. Y là người thâm cơ, mưu trí trùm thiên hạ. – Em phải lòng y rồi hả? – Không phải mình em mà cả bẩy đứa đều ước mơ được y ôm một đêm rồi bị ngựa xé, voi dầy cũng cam tâm. – Em dạn dầy kinh nghiệm phòng the, sao em không dẫn dụ được nó ư? – Em đã làm, nhưng thất bại. Rồi Hồng Hoa thản nhiên thuật lại việc nàng giả đau bụng kinh để kích động Địa Lô mà không thành. – Chà! Phải đối đầu với tên này thực là đại họa. Có cách nào mua y được không? Y thích gì? Vàng bạc, châu báu, gái? – Y xuất thân bần hàn. Có lẽ y thích vàng. Còn đàn bà thì không được đâu, vì y đã đẹp, lại có tài đàn ca, đàn bà nào cũng muốn chạy theo y, thì anh dùng đàn bà tối vô ích. Được, em sẽ thử đem vàng dụ y xem. – Nếu ai trong Tô lịch mua được nó, hay dùng nhan sắc bắt con nai này thì anh trả cho một nghìn lượng vàng. – Một nghìn ? – Anh hứa chắc mà. Đến đây Hồng Hoa ngửa mặt nhìn gã đàn ông như mời gọi, như thúc dục. Hai người ôm nhau ngã xuống giường. Địa Lô là người chính nhân quân tử, một anh hùng thời Đông A. Chàng không muốn nhìn cảnh dâm bôn. Nhưng vẫn ghé tai nghe ngóng bên trong, chỉ có tiếng sột soạt y phục, tiếng thở hổn hển của tên rợ, tiếng Hồng Hoa rên rỉ. Khoảng ba khắc sau, cửa sổ thuyền mở ra, gã đàn ông từ từ tụt xuống nước rồi bơi đi đến con thuyềnlưỡi liềm. Địa Lô định gọi chim ưng theo dõi, thì nghe tiếng chúng kêu trên không. Chàng huýt sáo ra lệnh cho chúng bay theo gã đàn ông. Địa Lô trở về khoang thuyền mình, Dã Tượng hỏi: – Thế nào? Chàng thuật lại mọi diễn biến. Dã Tượng than: – Mưu trí em hay thực. Ta không lột mặt nạ Thanh Hoa, bây giờ biết thêm Hồng Hoa làm gian tế cho giặc. Không biết gã đàn ông này lý lịch ra sao? Hình như y không phải là quan chức Mông cổ, mà chỉ làm gian tế cho chúng. Y từng ở Thăng long, từng gian díu với Hồng Hoa. – Chim ưng đang theo dõi y. Sáng mai ta sẽ truy tìm cũng chưa muộn. – Tại sao em không điểm huyệt, bắt y? – Bắt y làm gì? Ta đang đi sứ sang Mông cổ, mà ta bắt y, rồi phải cung kính thả y thì vô ích. Hồng Hoa còn tại đây thì y còn trở lại. Ta cần im lặng theo dõi xem trong bẩy mụ, còn mụ nào làm gian tế cho chúng không? – Qua vụ Hồng Hoa anh nghĩ Tử Hoa không làm gian tế cho giặc vì vậy nàng bị Hồng Hoa đánh thuốc mê. – Anh khờ thực. Địa Lô lắc đầu: Anh phải nhớù rằng phàm tổ chức ngoại gián trong một nhóm người thì không bao giờ dùng quá một người, như vậy dễ bị lộ. Bố trí một người khi bị lộ chỉ mất một người mà thôi. Qua những biến cố, ta biết Thanh Hoa làm gian tế có liên quan tới bọn Mông cổ chỉ huy tên họ Trịnh. Bây giờ ta lại biết gian tế thứ nhì là Hồng Hoa, do một tên tình nhân của nàng cầm đầu.Tên này không phải Mông cổ, y từng đến Thăng long. Tương lai y còn về Thăng long, nên Hồng Hoa mới nói hy vọng gặp lại y ở Thăng long. Biết đâu các nàng Hoa còn lại không làm gian tế cho Tống? Cho bọn Mông cổ? Chiều hôm sau, thuyền đến một thị trấn nhỏ tên Giang tân. Chủ cho thuyền ghé bến: – Thưa quý khách, thuyền nghỉ nửa ngày để quét dọn, mua thực phẩm. Mời quý khách lên bờ dạo chơi cho đỡ cuồng cẳng. Dã Tượng chỉ vào tảng đá trên bến nói với Thất tiên: – Xin bẩy chị đi cùng với nhau, đã có chú Địa Lô theo hộ vệ. Tôi với Thúy Hường ngồi đây canh giữ thuyền. Địa Lô chắp tay xá: – Xin mời Thất tiên. Thất tiên được đi bên cạnh một thiếu niên anh tuấn, tài hoa, nàng nào cũng cố tạo ra những nụ cười thực đẹp, liếc mắt đưa tình với chàng. Địa Lô luôn tỏ ra bặt thiệp, nụ cười phơi phới với tất cả các nàng. Nàng nào cũng tự cho rằng mình đã bắt được con nai nổi danh Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử. Trấn Giang tân tuy nhỏ, nhưng cũng có hằng trăm dẫy phố. Đến một cửa hàng bán sách, giấy bút, Địa Lô vào mua bút, mực, giấy rồi nói: – Để tôi vẽ một bức tranh kỷ niệm Thất tiên qua đây. Chàng mượn nhà hàng một cái bàn, trải giấy ra, rồi mài chín thứ mực khác nhau, tay thoăn thoắt vẽ. Thoáng một cái chàng đã vẽ xong. Người qua lại thấy bẩy cô gái nhan sắc diễm lệ thì trố mắt ra nhìn. Lại thấy bẩy nàng y phục xanh, đỏ khác hẳn y phục xứ Thục, họ thì thầm: – Người ta nói đẹp như tiên nữ. Không biết tiên nữ có đẹp bằng bẩy cô này không? Lại còn chàng trai tuấn tú kia, đẹp đến như thế là cùng. Họ xúm vào xem tranh. Địa Lô cầm tranh lên rao bằng tiếng Thục: – Tranh bẩy tiên nga trên thượng giới giáng trần. Ai mua không? – Giá bao nhiêu? – Rẻ thôi! Một lượng vàng. – Đắt quá. – Tranh tiên vô giá mà. Có hai người khách trang phục rất lạ. Một người đầu đội khăn mầu nâu, phía trước nhọn, phía sau tròn, da họ nâu nâu, mũi cao, mắt sâu. Rõ ràng yï là người xứ Hồ chứù không phải người Trung nguyên. Một người trông dáng như người Hán. Người Hồ chỉ Hồng Hoa, nói: – Nếu vẽ hình tiên cô này, tôi xin trả hai lượng vàng. Nghe giọng nói, Địa Lô trấn động tâm thần, vì y chính là người vào khoang thuyền Hồng Hoa đêm qua. Thì ra tên này không phải là người Mông cổ. Chàng đóng kịch: – Được! Tôi xin vẽ. Chàng đưa bút một lát, bức tranh đã vẽ xong. Chàng trao cho Thất tiên xem. Cả sáu cùng nhìn Hồng Hoa: – Tươi! Đẹp như người thực. Người Hồ cầm bức tranh, tỏ vẻ hài lòng. Y móc túi đưa ra hai lượng vàng trao cho Địa Lô. Chàng nói tiếng Hoa vùng Thục: – Xin ông cho biết quý danh! – Quý danh của tôi là Mộ Hợp Mễ An Hat San (Mohamed Al Hassan). Phàm người Hoa, Người Việt khi hỏi tên ai thường dùng sáo ngữ “Quý danh, Đại danh”. Còn khi nói về mình thì dùng chữ “Tiện danh, Ngu danh”. Tên Hồ này không biết thế, thấy Địa Lô hỏi quý danh, y cũng nhắc lại. Địa Lô trao tranh cho y, tay tiếp vàng. Muốn thử xem y có biết võ hay không? Công lực y đến đâu, chàng vận khí ra bàn tay tấn công y. Khi y vừa tiếp bức tranh, thì cảm thấy một luồng điện truyền vào tay. Y lảo đảo muốn ngã. Hồng Hoa kêu thét lên: – Oái! Sao vậy? Nàng định chạy lại đỡ y. Nhưng chợt nhớ thân phận mình, nàng buông tay, lùi lại. Địa Lô an tâm: tên Hồ Hát San này không biết võ, y đúng là tên đã gian dâm với Hồng Hoa đêm qua. Hai người mua tranh trở về con thuyền lưỡi liềm. Thuyền có hai tấm ván bắc cầu. Thuyền phu dùng một cầu chuyển hàng lên bờ. Một cầu chuyển hàng xuống. Hàng đem xuống là những tấm gấm, lụa. Hàng đem lên là những bao gì không rõ. Dã Tượng đề nghị toàn đoàn ăn trưa tại nhà hàng lớn nhất tên Trường giang tân lâu. Tất cả mười người ngồi vào một bàn. Gã người Hồ cũng đã dành hai bàn, cho 19 người của họ. Đoàn của người Hồ gồm 10 người Hán, trong đó có người Hán đã xem tranh và 9 người Hồ. Những người này đều giống nhau: mũi cao, da ngăm ngăm đen, mắt sâu. Họ nói tiếng Hán lẫn với tiếng rất lạ, không phải tiếng Mông cổ. Địa Lô chú ý tới một điểm: những món ăn của họ toàn cá, thịt bò, thịt gà mà không có thịt lợn. Họ cũng không uống rượu. Trước khi ăn họ cùng chắp tay rồi đọc kinh. Địa Lô dùng lăng không truyền ngữ nói với Dã Tượng, Thúy Hường: – Phải cẩn thận, vì trong đám người Hồ có người biết nói tiếng Việt. Vì vậy trong suốt bữa ăn cả đoàn chỉ bàn luận về ca hát, âm nhạc. Giữa bữa ăn Địa Lô xin phép ra ngoài tìm hiệu thuốc, mua mấy hộp thuốc phòng đau bụng. Nhưng chàng tới tiệm thịt tên Thành hưng mua hai cái thủ lợn luộc. Chàng gói cẩn thận mang về dấu trong khoang mình, rồi trở lại Trường giang tân lâu, tiếp tục ăn. Ăn xong, mọi người về thuyền. Địa Lô đóng cửa khoang lại. Dã Tượng hỏi: – Em nghĩ xem bọn thuyền lưỡi liềm là loại người nào? – Em đã tìm ra, nhưng chưa chắc lắm. Chúng là người Hồi, chuyên buôn bán. Đêm nay chúng ta thử dò xem mới biết được. Bọn Hồi từng mở nhiều cửa hàng buôn bán ở Thăng long. Trịnh Ngọc là tên lai Việt- Hồi. Mẹ nó có chồng tên Trịnh Văn Thư. Nhưng mụ thả nái với tên Hồi hột sinh ra nó. Dã Tượng từng đến cửa hàng Hồi mua một số vật dụng như dao, kéo, búa. Đồ kim khí của chúng rất tốt. Chợt nhớ ra một truyện, chàng nói với Địa Lô: – Anh nghĩ ra rồi, cái đêm mà Thanh Hoa dùng cưa cắt khoen khóa nhà tù cứu bọn họ Trịnh, anh cứ tự hỏi cô ta kiếm đâu được cái cưa con sắc như vậy, thì ra bọn Hồi cung cấp cho cô ta. Thế thì tên Trịnh Ngọc, Thanh Hoa, Hồng Hoa cùng liên hệ với tên Hồi An Hut San. Có lẽ hai cô đã từng đi khách với tên này. – Bên trong còn nhiều bí ẩn. Đêm nay anh em mình thám thính con thuyền lưỡi liềm xem sao. Dã Tượng tỏ vẻ quan tâm đến bọn Hồi, chàng hỏi Địa Lô: – Anh thường thấy nhiều thương đoàn Hồi lập cửa hàng buôn bán ở kinh thành, và hầu hết ở các trấn trên đất Trung nguyên. Ngay trong lãnh thổ Đai Việt ta cũng vậy. Họ rất hiền lành, biết nói tiếng Việt. Nhưng có điều là khi họ nói với nhau thì lại bằng tiếng Hán, tiếng Chiêm, tiếng Mông cổ và nhiều tiếng rất lạ. Không biết nước Hồi ở đâu? Địa Lô hắng giọng rồi nói rất chậm: – Hồi không phải là giống người, cũng không phải là một nước. Hồi là một tôn giáo giống như Phật giáo của ta, chứ không phải là một nước, một tộc. Hồi được khai đạo vào năm Tân Mùi (611 sau Tây lịch), tương đương với Trung-nguyên vào những năm cuối đời Tùy sang đời Đường. Bấy giờ nước ta đang bị Bắc thuộc. Đạo này truyền sang khắp 48 nước thuộc Tây thổ. Gần đây truyền vào Chân lạp, Chiêm thành. Địa Lô ngừng một lát rồi tiếp: – Giáo chủ của đạo này tên là Mộ Hợp Mễ (Mohamed). Ông sinh năm Tân Mão (Dl 571) nhằm niên hiệu Hậu Lý Nam đế nguyên niên của Đại Việt. Bên Trung nguyên là niên hiệu Thái kiến năm thứ ba của Trần Tuyên đế. Ông mồ côi cả cha lẫn mẹ rất sớm, vô sở , bất chí, phải đi ở, chăn cừu, chăn bò. Lớn lên ông làm trung gian mại bản cho các thương gia, chuyên chở hàng hóa trong các nước Tây vực. Đặc biệt ông làm công cho góa phụ Khả Dị Giả (Khadija). Khả Dị Giả là một thương gia lớn hơn ông 15 tuổi đã trải qua hai đời chồng, có nhiều con. Bà này tín nhiệm ông cực kỳ. Năm hai mươi lăm tuổi, ông kết hôn với thiếu phụ này. Dã Tượng mở to mắt kinh ngạc. Địa Lô biết rằng ông anh mình thâm nhiễm văn hóa tộc Việt. Mà văn hóa tộc Việt bấy giờ không thể chấp nhận cho người đàn bà góa tái giá. Huống hồ bà này đã hai đời chồng, lại kết hôn với trai tơ. Chàng tiếp: – Năm 35 tuổi ông ta chán mùi thế tục, lên núi Hi ra ẩn cư, hy vọng nhận được lời phán truyền của Thượng đế. Thế rồi năm năm sau, ông toại nguyện. Vào một đêm, ông nghe văng vẳng trên không có tiếng gọi tên ông, rồi ánh sáng đỏ chói từ trời chiếu vào núi. Lúc đầu ông cho rằng đó là giấc mơ, nhưng không, ông đang thức. Ông lại cho rằng đó là tiếng ma quỷ. Từ đó ông sống trong hoảng hốt, ông cho rằng mình bị điên loạn. Bà vợ an ủi ông: “Ông không điên đâu, ông cũng không bị quỷ ám đâu. Thượng để khải ngộ cho ông đấy”. Thế rồi tiếng nói lạ nhập vào tai ông, đó là tiếng của Thượng đế. Ông không biết chữ, nên ông đọc những gì nghe được cho người ta chép lại, đó là kinh Cổ lăng (Coran). Kinh Cổ lăng rất huyền diệu, lại chứa những lời đạo đức gần giống Nho giáo, Phật giáo của ta. Mộ Hợp Mễ trở thành giáo chủ thứ nhất của đạo Hồi. Đạo này truyền sang các nước Tây phương đã đành, mà còn truyền sang Chân lạp, Chiêm thành. Nhưng tại phía cực tây đã có một tôn giáo, tổ chức chặt chẽ, nghiêm trang là Thập tự giáo gọi là Da Tô giáo (ghi chú: tức Thiên chúa giáo). Giữa hai tôn giáo đều đạo đức, nhưng do giáo chúng, giáo sĩ có xung đột nhỏ, rồi đi đến các nước theo Gia tô, Hồi giáo liên kết lại đánh nhau liên miên. Khi Thái tổ của Mông cổ là Thành Cát Tư Hãn đánh sang Tây vực là lúc mà thế lực Hồi hột thắng thế. Nhờ quân Mông cổ phá tan các chủ lực của những nước theo Hồi, mà chiến tranh giữa hai tôn giáo tạm ngưng. – Anh không hiểu tại sao các giáo sĩ có thể thuyết phục vua chúa đem quân đi đánh nhau? – Vấn đề như thế này. Địa Lô giảng giải: do kinh điển của tôn giáo. Bên mình, Phật giáo vốn xuất thế, gốc từ đức Phật đang đêm bỏ địa vị Thái tử đi tìm lẽ giải thoát. Khi Phật giáo truyền vào Đại Việt, tuy các vua chúa tôn trọng chư tăng ni thực, nhưng tăng ni không hề tham dự vào việc triều chính. Triều Lý, nhiều vị tăng được tôn làm Quốc sư, song các ngài chỉ góp ý kiến với vua, chứ không trực tiếp cầm quyền. Ngược lại Da Tô giáo, Hồi giáo, uy quyền các giáo sĩ rất lớn. Vua chúa lên ngôi, phải do giáo chủ làm lễ tuyên phong mới được dân chúng tuân lệnh. Đạo Hồi còn dành cho giáo sĩ quyền tư pháp, xử tội nhân, căn cứ vào kinh Cổ lăng (Koran) Dã Tượng hỏi: – Có một điều mà anh không hiểu được là: tại sao những người Hồi lại chuyên việc buôn bán mà không làm nghề gì khác? Địa Lô trả lời: người Hồi ở trong nước họ, họ cũng làm đủ nghề như người Hán, người Chà và, người Ấn độ. Có điều giáo chủ của họ xuất thân là thương gia, nên họ có nhiều kinh nghiệm về buôn bán. Khi quân Mông cổ chiếm các nước miền Tây vực thì Thành Cát Tư Hãn cho tổ chức những thương đoàn Hồi đi khắp các nơi , rồi cho Tế tác (trinh sát) trà trộn vào để dò xét tình hình vua chúa, binh tình, địa lý v.v. Nước ta cũng bị cái nạn này. Nhưng Khu mật viện đã biết hết, nên lờ đi để lợi dụng chúng. Trời tối xụp xuống. Địa Lô đem ra cái bọc vải, trong có hai cái thủ lợn. Dã Tượng hỏi: – Cái gì vậy? Em định làm gì vậy? – Lúc ăn em gỉa đứng lên xin đi mua thuốc chứ thực sự em mua hai cái thủ lợn luộc rồi cất đi, lát nữa ta phải dùng tới. – Anh không hiểu! – Trong đạo Hồi, coi lợn là con vật ô uế. Giáo chúng bị cấm ăn thịt lợn. Họ cũng không nuôi lợn. Khi chết mà người bị máu lợn đổ vào thì không được lên Thiên đường. Lát nữa mình treo hai cái thủ lợn trong thuyền của chúng. Nếu thấy chúng bình tĩnh, hoặc cắt ra ăn thì bọn chúng không phải theo Hồi giáo. Còn chúng kinh hoảng, thì đúng. Chúng ta khắc có biện pháp đối phó. Địa Lô lại lôi ra cái bọc vải nữa, có 5 gói giấy, một con dao dài khoảng hơn gang tay, sống dao là cái cưa. – Cái gì vậy? – Em trộm của Thanh Hoa đấy. Dã Tượng cầm con dao lưỡi bằng thép rất dầy, chàng vận khí đâm xuống sàn thuyền, chít một tiếng, con dao ngập tới chuôi: – Thì ra con dao này Thanh Hoa dùng để cưa khoen sắt cứu ba tên họ Trịnh đây. Địa Lô mở năm gói giấy ra, mỗi cái có một mầu khác nhau, trong là bột. Chàng đưa lên mũi ngửi, có 5 mùi khác nhau. Chàng than: – Không biết thuốc gì đây? Có lẽ là thuốc của Hồi. Thôi ta tìm cách trả lại cho mụ, bằng không khi khám phá ra mất đồ, mụ đề phòng. Dã Tượng hỏi: – Bây giờ chúng ta thám tính con thuyền lưỡi liềm. Em đi hay anh đi? – Em đi! Vì anh đi sợ chúng nói tiếng Mông cổ, anh không hiểu hết. Địa Lô đeo cái bọc có hai cái thủ lợn trên vai, rồi lên bờ. Con thuyền lưỡi liềm vẫn để tấm cầu ván như ban ngày, không có người canh gác. Địa Lô tung mình qua cầu, đáp nhẹ nhàng xuống mạn thuyền rồi đi về phía mũi: trong chòi lái không có người. Chàng sẽ đẩy cửa, bước vào trong, đem hai cái thủ lợn treo ngay trước chỗ tài công ngồi. Có nhiều tiếng nói ở khoang chính vọng ra. Chàng lại men theo mạn thuyền tới cửa sổ khoang chính; ánh sáng chiếu qua khung cửa sổ khá sáng. Chàng vận khí, sẽ chọc một lỗ rồi ghé mắt nhìn vào: đó là một khoang bằng gỗ, trang trí cực kỳ mỹ lệ. Bốn bức vách chạm trổ xà cừ rất tinh vi. Ánh nến dọi vào vách phản chiếu ra lung linh. Người đàn ông xưng là An Hát San ngồi vào vị trí chủ vị. Còn lại hai chục người ngồi làm hai hàng. Hàng bên trái 10 người Hồ, hàng bên phải 13 người da vàng. Trong đó có bọn họ Trịnh. Tên Trịnh Ngọc dùng tiếng Việt nói với Hat San: – Cha ơi! Vợ chồng con trải biết bao nhiêu gian nguy, hôm nay mới được đoàn tụ với cha. Con không về với Mông cổ nữa đâu. Từ nay con theo cha, giang hồ buôn bán, về với Mông cổ thì Ngột Lương Hợp Thai sẽ giết con, vì không cứu được bẩy vô gái. Hat San nói với Trịnh Ngọc bằng giọng ngọt ngào: – Con ơi! Sự nghiệp buôn bán của mình phải nhờ thế lực Mông cổ mới thành công. Nếu ta không làm việc cho Mông cổ thì sẽ mất hết. – Nhưng làm thế nào để cứu bẩy cô gái đem về cho Mông cổ? Hat San cười, vỗ tay lên đầu gã Trịnh Ngọc: – Sao con khờ quá vậy. Khi thuyền gần tới Giang an, thì ta sẽ ra lệnh cho cô Thanh Hoa bỏ thuốc độc vào thức ăn giết chết bọn nhà đò cũng như tên Dã Tượng, Địa Lô. Sau đó ta đánh chìm đò, đưa bẩy cô gái về thuyền mình. Rồi đem bẩy cô đi Độ khẩu, dâng cho Mông cổ. Thôi chúng ta đọc kinh rồi đi ngủ. Hat San cùng mọi người hướng vào bàn thờ lạy liên tiếp rồi đọc kinh bằng tiếng gì rất lạ. Bên cạnh khoang chính, còn một khoang nữa, trong có ánh sáng chiếu ra. Địa Lô ghé mắt nhìn vào, trong có một người đàn ông, tướng mạo uy vũ, đang ngồi luyện công. Nhìn lối luyện công Địa Lô nhận ra đây là lối luyện công của người Thổ phồn (Tây tạng). Thấy không còn gì theo dõi nữa, Địa Lô nhún mình vọt lên bờ, rồi về thuyền mình. Nghe Địa Lô thuật lại cuộc thám thính, Dã Tượng thở phào nhẹ nhõm: – Mọi thắc mắc bây giờ mới được sáng tỏ: Mộ Hợp Mễ An Hat San là người Hồi, chỉ huy một hệ thống thương mại lớn trên đất Trung nguyên, Đại Việt. Y được Mông cổ trợ giúp đi lại buôn bán. Vì vậy y phải làm Tế tác cho Mông cổ. Y từng đến Đại Việt mở nhiều cửa hằng buôn bán. Nhân thấy vợ tên Trịnh Văn Thư có nhan sắc, y bỏ tiền ra mua chuộc. Sau nhiều lần gian dâm, mụ này có thai, sinh ra Trịnh Ngọc. Vì vậy Trịnh Ngọc theo cha giang hồ buôn bán, cho nên y biết tiếng Hán, Mông, Hồi. Trong những ngày trước cuộc chiến, Hat San thường lui tới quán văn Tô Lịch, y không tiếc tiền, bỏ vàng bạc mua chuộc Tô lịch thất tiên. Khi Thất tiên trở thành đại phu nhân, Hat San vẫn tiếp tục dan díu để thỏa lòng dâm, cũng như lấy tin tức cho Mông cổ. Dã Tượng hỏi Địa Lô: – Mình phải làm gì? Anh nghĩ mình là biên cương sứ thần, tội trạng bẩy con quỷ Tô lịch đã rõ ràng, mình xử tử chúng ngay, để tránh nguy hiểm cho anh em mình, cho Thúy Hường. Bằng không khi bẩy con quỷ này về nước, chúng sẽ bị xử lăng trì, toàn gia bị tru lục, của cải bị xung công. Còn bẩy ông chồng nếu đức vua xử nhẹ thì bị cách chức. Nặng thì bị chặt đầu. – Không nên xửû tử hình chúng vội. Trước hết gửi tấu chương về Khu mật viện, cũng như Vũ Uy vương để xin ý kiến. Nói rồi Địa Lô ngồi viết tấu chương gửi đi liền. Chim ưng bay đi, hai anh em vào khoang ngủ.(1) Sáng hôm sau chim ưng mang lệnh của Vũ Uy vương tới: “ Bằng mọi giá phải: Bảo vệ tính mệnh cho bẩy nàng Tô Lịch, Phải tỏ ra tin cậy bẩy ả hơn nữa. Giả ngây ngô không đề phòng, để chúng sẽ lộ thêm chân tướng”. Có tiếng gõ cửa khoang, Thúy Hồng gọi: – Hai anh dậy mà coi! Mau mau. Dã Tượng, Địa Lô mở cửa khoang hỏi: – Cái gì vậy? Thúy Hồng chỉ ra mũi thuyền. Trên mặt sàn thuyền, từ chủ thuyền cho đến nhà bếp, Thất tiên đều đứng lố nhố nhìn sang bên con thuyền lưỡi liềm: Hat San cùng hơn 20 người rời khỏi thuyền, đang quỳ gối cúi đầu hướng chòi lái chắp tay lạy liên tiếp, miệng đọc kinh. Duy người đàn ông luyện Thiền công Tây tạng, thì đứng thản nhiên nhìn trời. Địa Lô suýt bật cười, chàng biết rõ đây là kết quả của việc chàng treo đầu lợn. Chàng dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Dã Tượng: – Anh đừng bật cười, bằng không chúng sẽ biết anh em mình làm. Chắc sáng nay chúng thức dậy, khám phá ra hai cái thủ lợn treo trong buồng lái thì kinh hoảng hô hoán lên, rồi tất cả bỏ thuyền lên bờ đọc kinh. Dã Tượng làm bộ ngây ngô hỏi Thất Tiên: – Các chị có biết họ làm gì không? Hình như họ điên thì phải? Hoàng Hoa giải thích: – Con thuyền lưỡi liềm là của thương gia người Hồi. Người Hồi coi lợn là giống vật đơ bẩn, kinh khiếp, không biết ai đã treo hai cái thủ lợn trong chòi lái thuyền của họ, nên họ kinh hãi, bỏ chạy lên bờ đọc kinh xin A La của họ che chở, tha tội. – Kiến thức cô rộng quá nhỉ, Dã Tượng vờ khen: tại sao cô biết rõ vậy? A La là ai? – Người Hồi mở cửa hàng buôn bán ở Thăng long đông lắm. Hồi còn hát ở quán văn Tô Lịch, tôi đã gặp họ khá nhiều. Họ rất hào phóng với ca nhi, tiểu bảo. Khi họ thích một ca nhi nào thì bằng mọi giá họ bỏ vàng ra để đạt cho được. Còn A La của họ cũng giống như Ngọc Hoàng Thượng Đế của mình vậy. Cái ông mua tranh của Địa Lô hôm qua là giáo sĩ của đạo Hồi đấy. Hoàng Hoa còn định nói nữa thì Hồng Hoa tằng hắng một tiếng, Hoàng Hoa vội nói lảng : – Trẻ con ở Thăng long đều biết họ sợ lợn, nên thường cầm vạt áo, hoặc khăn như hình tai lợn rồi vẫy vẫy trước mặt họ. Lập tức họ đuổi đánh. Địa Lô dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Dã Tượng : – Anh thấy không, ả Thanh Hoa làm gian tế đã rõ ràng. Khi thấy Hoàng Hoa báo cho anh biết trong đoàn có gian tế, anh cho rằng Hoàng Hoa không phải là gian tế. Khu mật viện ra lệnh cho mình phải đề phòng cả Hoàng Hoa. Bây giờ đãõ rõ ba năm bẩy mười rồi : nàng biết rất rõ về Hồi giáo, định nói nữa thì Thanh Hoa cản. Kết lại : Thanh Hoa là gian tế, ả cản Hoàng Hoa, thì Hoàng Hoa cũng là gian tế. Lan Hoa tiếp lời Hoàng Hoa : – Các giáo sĩ được quyền có vợ con, có tài sản riêng, có quyền làm thương gia, làm quan, làm vua. Người Hồi thích con gái Hoa, Việt, Chiêm. Khi họ đến Thăng long làm ăn thì không có đàn bà, con gái theo đi. Vấn đề phòng the của họ bị khiếm khuyết, họ thường tìm đến các lầu xanh, các kĩ viện tìm gái giải khuây. Khi thấy ca kĩ, gái mại dâm xinh đẹp, thì dù giá đắt nhất họ cũng bỏ tiền ra để hưởng thụ. Thúy Hường thắc mắc: – Em nghe nói có một kĩ nữ vì tham tiền, bị một gã Hồ hành dâm đến chết. Không biết sự thực ra sao ? Lan Hoa cười khúc khích : – Truyện này khắp các lầu xanh, kĩ viện đều biết. Bấy giờ vào niên hiệu Thiên ứùng Chính bình (2), đức vua chưa trực tiếp chấp chính. Thái sư Trần Thủ Độ phụ chính. Có một gã người Hồ thân thể to lớn tên A Li Si Ti (Ali Siti) tới Thăng long buôn bán. Hắn đến các kĩ viện tìm giái. Cô nào tiếp hắn xong cũng bị mệt ngất ngư đến nỗi đi không nổi, vì vậy chỉ ít lâu sau, y đến kĩ viện nào cũng bị kĩ nữ từ chối. Một lần hắn đến kĩ viện Ngọc Thụy tìm gái, y hứa ai tiếp y, y sẽ trả cho mười lượng bạc, trong khi giá một lần tiếp như vậy chỉ có một lượng. Tuy thấy bạc nhiều, nhưng không kĩ nữ nào dám tiếp y. Bấy giờ có kỹ nữ mới nhập viện tên Hồ Thanh Tuyền, tuổi 16, không biết gì về y, thấy tiền nhiều tối mắt lại, nhận lời. Sau một đêm ngủ với A Li, Hồ Thanh Tuyền chết. Phủ thừa Thăng Long sai hình quan điều tra, kết quả : vì thân thể của A Li quá lớn, nên lúc giao hoan, âm hoa Thanh Tuyền rách ra, chảy máu. Nhưng A Li cứ tiếp tục hết trận này đến trận khác. Vừa mất máu, vừa quá mệt, Thanh Tuyền chết. Phủ thừa Thăng Long kết án A Li can tội cố sát, phải chém ngang lưng. Án đệ lên đức vua phê chuẩn. Thái sư Trần Thủ Độ bút phê rằng : « A Li không hề hiếp dâm Hồ thị Thanh Tuyền. Chính y thị đồng ý bán thân cho A Li. Vì vậy A Li không có tội. Tuy nhiên Thanh Tuyền qua đêm với A Li, thì cũng như vợ A Li. Một ngày cũng nên nghĩa vợ chồng. Vậy A Li phải bồi thường cho cha mẹ Thanh Tuyền mười lượng vàng, và phải làm lễ tống táng cho Hồ Thị Thanh Tuyền ».(2) Thanh Hoa hỏi: – Rồi sau A Li có còn ở Thăng Long hay không? Tiếc quá. Lan Hoa phì cười: – Không phải mình chị tiếc đâu! Sau vụ án, A Li nổi tiếng không những khắp Thăng long mà sang cả Quảng Đông bên Trung nguyên, dĩ chí Chiêm thành, Chân lạp. Y không phải bỏ tiền vào kĩ viện nữa, mà đàn bà tham dâm tự tìm đến y. Chị Thanh Hoa tiếc thì cứ tiếc, bởi A Li chết lâu rồi. Nếu y còn sống thì năm nay cũng tám mươi tuổi hơn thì còn làm ăn gì được nữa mà tiếc. Nói về nghệ thuật chỉ huy Ngưu binh xung trận, nói về tư cách lãnh đạo tướng sĩ, thì có lẽ Dã Tượng là một nhân tài xuất chúng. Triều đình đã phong hàm Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân. Nhưng về vấn đề nam-nữ chàng mới chỉ nếm mùi hương nhẹ nhàng thoang thoảng qua lần tuyển phu của Thanh Nga. Chàng lại sống bên cạnh những người đạo đức, tài trí bậc nhất thời Đông A, ngày đêm tắm trong nếp sống chủ đạo của tộc Việt. Lại chỉ nghe những lời trung nghĩa. Nên truyện tình dục trai gái, chàng như con nai tơ, như con chim mới mọc lông cánh. Từ hôm cứu Tô lịch thất tiên, dần dần các nàng lộ ra là những đàn bà từng trải, dâm dật kinh khủng, không còn một chút phẩm hạnh của con cháu vua Trưng. Dã Tượng từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Hôm nay nghe các nàng Tô lịch nói, chàng lại ngạc nhiên hơn nữa: – Chị Lan Hoa ơi, chị nói sao nghe lạ tai quá. Tôi tưởng sau vụ án Hồ thị chết, thì đàn bà thấy y phải tránh xa, chứ có đâu tìm đến y? Lan Hoa chưa kịp trả lời thì Thanh Hoa đã lên mặt kinh lịch: – Trần tướng quân! Tôi nói tướng quân đừng giận nghe. Chỉ mấy năm nữa đàn bà con gái cũng tìm đến tướng quân như tìm A Li vậy! Thời còn là trinh nữ thì được cha mẹ giáo dục đức trinh tĩnh, trong sạch tam tòng, tứ đức. Cho nên nghe đến truyện trai gái thì đỏ mặt xấu hổ. Nhưng khi có chồng rồi, đã nếm mùi phòng the, thì như được cho ăn món ăn trân quý. Cứ mười người thì chín người trở thành tham ăn, chồng cho ăn một thì muốn ăn hai. Như vậy họa chăng ông chồng có sức voi như tướng quân mới đủ. Bây giờ nghe A Li sung sức đến nỗi dạn dầy như Hồ Thị Thanh Tuyền mà chịu không nổi, đến nỗi chết, hỏi các bà sồn sồn nào không ước mơ A Li. Mà dù có chết như Thanh Tuyền là chết sướng. Qua lời nói của Hoàng Hoa, rồi Hồng Hoa tằng hắng ; Dã Tượng được Địa Lô giảng cho biết Hoàng Hoa cũng là gian tế Mông cổ qua tên An Hat San. Nhưng chàng không hiểu nổi tại sao Hoàng Hoa lại báo cho mình biết là trong Tô lịch thất tiên có người làm gian tế ? Dã Tượng hỏi Địa Lô: – Bây giờ chúng ta phải đề phòng Tô lịch thất tiên. Cứ như quyết định của An Hat San, y ra lệnh cho Thanh Hoa đánh thuốc độc giết toàn thể nhà đò, với anh em mình. Chúng chỉ chừa lại Thúy Hồng. Trên đường đi làm sao có thể đề phòng được ? Giết quách chúng đi cho rồi. Địa Lô mỉm cười : – Chúng ta có thể căn cứ vào luật : tướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải tuân lệnh đức vua, rồi giết bẩy con quỷ cái thì dễ dàng quá. Giết thì phải giết quang minh chính đại, nghĩa là tuyên bố tội trạng rồi hành hình. Nhưng này anh ! Anh là con nuôi Hưng Đạo vương, công lao anh tuy không nhỏ. Liệu anh có khả năng chống lại 7 ông chồng của bẩy con quỷ không ? Nghe tin anh xử tử chúng, bẩy ông chồng sẽ nhảy dựng lên. Liệu anh có chống lại bẩy miệng lưỡi các ông không ? – Anh vì sự nghiệp của vua Hùng vua Trưng mà hành động. Cây ngay không sợ chết đứng. – Thế mà có rất nhiều cây ngay chết đứng trong lịch sử rồi đó. – Kể cho anh nghe thử. – Tăng Tử là người hiền, Tăng mẫu là người hiểu con mình. Một ngày kia, có kẻ sát nhân trùng tên với Tăng Tử. Tăng mẫu đang dệt vải. Có người nói: Tăng Sâm giết người. Tăng mẫu thản nhiên: con tôi là người hiền đâu có làm việc đó. Một lát có người thứ nhì nói: Tăng Sâm giết người. Tăng mẫu vẫn thản nhiên: con tôi là người hiền đâu có làm việc đó. Lát sau, người thứ ba nói: Tăng Sâm giết người. Tăng mẫu kinh hoảng ném thoi, bỏ khung cửi mà chạy. Hiền không ai bằng Tăng Tử. Hiểu con không ai bằng Tăng mẫu. Nay đức độ hiền của anh không bằng Tăng Tử. Triều đình khó có ai hiểu anh bằng Tăng mẫu hiểu con? – Vậy làm sao bây giờ? – Cứ lờ đi, đề phòng cẩn thận. Trong năm gói thuốc của Thanh Hoa ắt có thuốc mê, hoặc thuốc giết người. Em đã ngửi 5 gói thuốc của Thanh Hoa. Bây giờ em lên bờ mua 5 vị thuốc có mùi hơi giống với 5 vị thuốc đó, rồi đánh tráo đi. Khi mụ ra tay, thì không kết quả. Cứ mỗi lần Dã Tượng nghĩ đến bọn họ Trịnh là chàng lợm giọng. Chàng nói với Địa Lô: – Anh định dùng mưu nhờ tay Tống giết ba đứa này đi, cắt đứt đường dây liên lạc của tên Hat San. Địa Lô phì cười: – Em biết mưu anh rồi. Em sẽ thực hành như ý anh muốn. – Em thử nói xem có đúng ý anh không? – Anh sai chim ưng báo cho Kim sơn tam kiệt biết rằng bọn Trịnh đang dùng ngựa của họ đi lại song song với chúng ta trên bờ. Tam kiệt sẽ đuổi theo bắt chúng, chặt đầu chúng dùm ta. Dã Tượng cười: – Đúng vậy. – Nếu ba tên họ Trịnh bị giết, ta mất đi nhân chứng chính về 7 con quỷ. – Ừ nhỉ. Phải để chúng sống. Ta cần bắt chúng đem về nước. Làm sao bây giờ? – Lượng tiểu phi quân tử. Vô độc bất trượng phu. Ta giúp Kim sơn tìm được ngựa để trả nghĩa Hoa sơn ngũ hiệp, Kim sơn tam kiệt đã giúp mình. Tuy nhiên ta nên nhân dịp này bưng thêm mâm cỗ biếu Kim sơn để lưu lại cảm tình mai hậu. – Nghĩa là? – Khi ta viết thư cho Kim sơn tam kiệt, ta kể rõ bố tên Trịnh Ngọc là gã Hat San. Hat San buôn bán khắp Đại Việt, Chiêm Thành, Chân lạp, Hoa Nam. Y giầu có súc tích. Tam kiệt bắt ba tên họ Trịnh, rồi đòi Hat San chuộc một số tiền lớn bằng không thì giết chết. Thế là ta báo ơn Kim sơn tam kiệt, mà làm cho bọn Hat San tốn bạc. Khi Tam kiệt tha chúng ra. Bấy giờ ta mới bắt chúng đem về nước. Suốt dọc đường không có gì xẩy ra. Con thuyền lưỡi liềm vẫn theo sát thuyền của Dã Tượng. Trưa hôm ấy, thuyền đến Giang an. Giang an là tuyến lửa đầu giữa Tống với Mông cổ, nên việc tuần phòng của Tống rất cẩn mật. Khi thuyền vừa cập bến thì con thuyền lưỡi liềm cũng cập cách đó chừng năm chục trượng (100 m). Người Hán luyện Thiền công lên bờ với hai người khác, thủng thỉnh dạo phố, thỉnh thoảng lại vào một cửa hàng hỏi han gì đó. Dã Tượng dặn Thất tiên: – Đây là trấn lớn, tiếp giáp với vùng đóng quân của Mông cổ. Thủy, bộ quân Tống rất đông. Tuy nhiên mình là sứ đoàn, lại có thẻ bài của Vương Kiên thì không sợ bị làm khó dễ. Các chị muốn mua bán gì hãy lên bờ tìm mua. Vùng này họ nói tiếng Thục. Địa Lô, Thúy Hồng đều biết nói tiếng Thục. Vậy tôi để cả hai đi làm thông dịch cho các chị. Hoàng Hoa hỏi: – Thế Tướng quân làm gì? – Tôi ở lại thuyền ngủ cho hồi sức. Chín người ra đi một lát thì có một kị mã Tống mặc chiến bào cấp Đô thống dừng chân trước ván xuống thuyền. Người này nói với thuyền phu: – Tôi muốn gặp vị khách thuê thuyền của ông! – Các khách lên bờ hết rồi. Chỉ còn một người thôi. Để tôi mời ông đó ra đây. Vừa trông thấy kị mã, Dã Tượng kêu lên: – Nhị kiệt. Đệ đây. Mời Nhị kiệt xuống thuyền. Có nhiều truyện phải nói. Vào khoang thuyền, Nhị Kiệt hỏi: – Chim ưng mang thư của Quốc Kinh tới, chúng tôi vội đến đây bắt ba tên họ Trịnh. Nhưng tìm không thấy chúng. – Dễ mà, tôi sai chim ưng dẫn đường cho Nhị Kiệt. Chàng chỉ vào con thuyền lưỡi liềm: – Nhị Kiệt có biết con thuyền kia không? – Biết! Chủ nhân của thuyền ấy tên Mộ Hợp Mễ An Hat San. Y là một thương gia giầu có, đi lại trên sông Kim sa giang, Trường giang, cho tới biển. Y giao thiệp rất rộng, đóng thuế đầy đủ. Dã Tượng mỉm cười: – Phen này Tam kiệt phát tài lớn. Hat San có cơ sở buôn bán vĩ đại ở Đại Việt, Kinh châu, Tứ xuyên, Đại lý, Lưỡng Quảng. Cái tên Trịnh Ngọc là con y. Trịnh Ngọc làm Tế tác cho Mông cổ. Bây giờ Tam kiệt bắt ba tên họ Trịnh về tội ăn cắp ngựa chiến, sai điệu ra bờ sông tuyên án tử hình. Cần phải lờ việc bọn chúng làm Tế tác cho Mông cổ. Dĩ nhiên tên Hat San không thể nhìn con bị giết, y phải xin chuộc. Tam kiệt đòi mỗi mạng một nghìn lượng vàng. Nhận vàng, Tam kiệt thả chúng ra, tôi sẽ tìm cách bắt chúng lại đem về Đại Việt xử tội. – Nhưng tôi không biết chúng ở đâu? – Chim ưng của tôi theo dõi chúng từ mười ngày nay. Bây giờ tôi sai chim ưng dẫn đường. Nào chúng ta cùng đi. Nhị Kiệt lên bờ đi tìm Nhất, Tam Kiệt. Lát sau cả ba đều tập trung trên bờ sông. Nhất Kiệt, Tam Kiệt cùng nhỏ người. Hai anh em cỡi chung một ngựa. Dã Tượng cỡi một ngựa. Chim ưng bay trên đầu dẫn đường. Đi hơn một khắc ra khỏi thị trấn, rồi hơn khắc sau tới một làng nhỏ. Vừa vào trong làng đã thấy ba chiến mã của Kim sơn tam kiệt cột trong sân một ngôi nhà khá khang trang. Cả bốn nhảy xuống ngựa. Nhất Kiệt hú lên một tiếng gọi ngựa của mình. Ba con ngựa nghe tiếng chủ cùng hí lên tỏ vẻ vui mừng. Bốn người lăm lăm vũ khí tìm bắt bọn họ Trịnh. Khi vào trong sân ngôi nhà, bất giác cả bốn cùng ngừng lại mở to mắt ra nhìn: bọn họ Trịnh bị trói nằm dưới đất. Lối trói rất đặc biệt: hai vợ chồng tên Ngọc quay lưng vào nhau. Tay trái của vợ bị trói vào tay phải của chồng. Còn thằng con tên Long thì tay chân bị trói như trói lợn. Có tiếng nói vọng ra: – Dã Tượng! Sao anh chậm quá vậy? Một người cao lêu khêu bước ra. Thì ra người đó là Cao Mang, đứng thứ ba trong Thiên trường ngũ ưng. Dã Tượng giới thiệu Kim sơn tam kiệt với Cao Mang. Cao Mang nói tiếng Hoa rất chuẩn. Chàng cung tay: – Rất hân hạnh được biết ba vị anh hùng đánh Mông cổ. Thấy Cao Mang cao lênh khênh, Nhị Kiệt chạy lại bên cạnh đứng sóng vai: – Cao huynh cao hơn tôi một cái đầu. Hơn năm trước võ lâm Trung nguyên thường không ngớt ca tụng tài thiện xạ của Cao huynh bách phát, bách trúng. Xạ lực xa đến hơn trăm trượng (200 m ngày nay). Nhất Kiệt chỉ cây cung Cao Mang đeo trên lưng: – Cao huynh cho chúng tôi xem cây cung đặc biệt của Cao Huynh một chút được không? Cao Mang tháo cung trao cho Nhất Kiệt: cánh cung không phải bằng tre, bằng gỗ mà bằng thép đúc, dây bằng gân bò. Cung có hai bậc, một bậc bắn xa, một bậc bắn gần. Nhất Kiệt cầm mấy mũi tên xem. Có ba loại tên, một loại bằng gỗ, mũi nhọn bịt thép. Một loại bằng thép, mũi bằng, sắc, giống như con dao nhỏ. Một loại nữa đầu cuốn vải. Nhất Kiệt hỏi: – Công dụng của ba loại tên này khác nhau thế nào? – Loại mũi thép dùng để bắn người, ngựa. Loại như con dao dùng để phá thuẫn. Loại cuốn vải dùng để tẩm dầu bắn lửa. Dã Tượng ghét mặt bọn họ Trịnh, chàng nói với Cao Mang: – Bây giờ anh treo hai vợ chồng tên ghẻ lở này lên cây cách xa trăm trượng, rồi em biểu diễn cho Tam kiệt xem. Mũi thứ nhất em bắn tên bịt thép xuyên qua mông y. Mũi thứ nhì em bắn tên thép, cắt đứt chân tay y. Mũi thứ ba em bắn tên tẩm dầu đốt cháy quần áo y. Nói là làm. Dã Tượng treo vợ chồng tên Trịnh Ngọc lên một cành cây. Mụ Mỹ Liên kinh hoảng: – Trăm lạy tướng quân, nghìn lạy tướng quân! Xin đừng thử tiểu nhân. Tướng quân mà thử thì nhất định tiểu nhân sẽ chết ngay. Dã Tượng càng dọa già: – Chỉ bắn thử thôi, chỉ bắn thủng mông, đứt chân, tay thì chết thế nào được? – Nhất định chết. Xin tướng quân đừng thử. Mụ năn nỉ mặc mụ năn nỉ, Cao Mang lấy cung, dương lên, mũi tên xé gió, vèo một cái xén mất búi tóc trên đầu mụ. Mụ rú lên kinh khủng. Lại mũi tên bằng phẳng bắn ra, chát một tiếng, cành cây to bằng bắp tay bị tiện đứt rơi xuống đất. Kim sơn tam kiệt biết Cao Mang chỉ muốn đùa cợt, dọa vợ chồng tên Ngọc. Nhất Kiệt can thiệp: – Xin Cao huynh ngừng tay, bằng không vợ chồng tên này sợ quá vỡ mật ra mà chết mất. Bây giờ Dã Tượng mới hỏi Cao Mang: – Tại sao em lại ở đây? – Thì có gì lạ đâu. Hưng Đạo vương sai Đại đởm thượng tướng quân đem Đại đởm thập tam kiệt đi tiếp viện cho anh. Em cũng xin đi theo. Trước khi lên đường Khu mật viện giảng cho bọn em biết hết tình hình. Cả đoàn đi đường tắt tới đây. Vừa gặp bọn này, Thập tam kiệt nhận ra chúng là bọn Việt gian theo Mông cổ. Tướng quân Nguyễn Thiên Sanh ra lệnh bắt trói chúng. Thấy chim ưng bay lượn trên đầu thì em biết anh sắp tới. Em ngồi chờ anh. Chàng cho tay lên miệng hú một tiếng dài. Lập tức có có tiếng hú đáp lại. Mười ba kị mã phi ngựa tới. Dã Tượng cung tay chào Nguyễn Thiên Sanh: – Đệ xin kính chào trưởng bối. – Miễn lễ. Theo quân luật Đông A, khi tập hợp nhiều tướng sĩ thì người nào có hàm cao nhất sẽ là người chỉ huy. Hàm của Dã Tượng là Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân, tước chưa có. Hàm của Cao Mang là Đô thống còn nhỏ hơn nữa. Trong khi hàm của Nguyễn Thiên Sanh là Đại đởm thượng tướng quân, tước An xuyên bá. Cao hơn Dã Tượng đến bốn bậc. Nghiễm nhiên Thiên Sanh là người chỉ huy. Thiên Sanh ra lệnh: – Chúng ta trao bọn họ Trịnh cho ba vị Đô thống Kim sơn. Nhiệm vụ của anh là trợ giúp em đã xong. Bọn anh về nghe. Thiên Sanh nói sẽ vào tai Dã Tượng: – Biết rằng trong đoàn của em có gian tế. Nên Khu mật viện ra lệnh cho em rằng khi đến Giang an thì lên bộ tiến về Chiêu thông. Đó là lệnh giả nhằm đánh lừa bọn Mông cổ. Bây giờ em không lên bộ nữa, đem thuyền vào Hoành giang, xuôi về Chiêu thông. Anh đi trước tuần phòng, sẵn sàng tiếp cứu em. Nhất Kiệt tấm tắc: – Chúng tôi ở Trung nguyên mà từng nghe danh Đại đởm thập tam kiệt như sấm động bên tai. Phải chi bên Tống cũng có một đội dũng sĩ như vậy thì hay biết bao! Thiên Sanh nắm tay Nhất Kiệt: – Có rồi. Từ sau trận Mông cổ xâm Đại Việt thì Hưng Đạo vương đã ban lệnh chỉ truyền chúng tôi huấn luyện cho mỗi Quân một đội Đại đởm. Đó là binh Việt. Sau khi Dã Tượng sang hội kiến với Vương Kiên, vương tổ chức các Hoa kiều yêu nước thành một Hiệu binh. Hiệu binh này được trang bị, huấn luyện như quân Đại Việt. Mỗi Hiệu có bốn Quân. Như vậy tương lai có đến bốn đội Đại đởm trở về quê hương chống Thát đát. Không lâu nữa, Hiệu binh này sẽ về Trung nguyên cùng với hơn nghìn cao thủ võ lâm chiến đấu cho quê hương. Đại đởm thập tam kiệt từ biệt Kim sơn tam kiệt. Còn Cao Mang thì đi theo Dã Tượng. Cả đoàn người ngựa tiến vào thị trấn Giang an. Giang an thuộc quyền trấn nhậm của Vương Kiên. Đô đốc Giang an cũng đã tới. Nhất Kiệt trình bầy chi tiết tội trạng ba tên họ Trịnh, rồi nói nhỏ: – Ba tên này là người Việt, chúng làm gian tế cho Mông cổ. Ta không kết tội chúng làm gian tế, mà chỉ kết tội ăn cắp chiến mã. Mục đích dụ cho tên Hat San đem vàng chuộc. Khi ta lấy vàng xong thì phóng thích chúng. Đại Việt sẽ bắt lại. Ba tên họ Trịnh bị điệu ra bờ sông trói vào ba cái cột. Đô đốc Giang an sai người cầm loa đi báo cho dân chúng tới xem xử tử ba tên tội phạm ăn cắp chiến mã. Chỉ hai khắc sau, dân chúng nườm nượp kéo đến xem xử tội. Aån trong dân chúng có cả Địa Lô, Tô lịch thất tiên, Thúy Hồng. Dã Tượng, Cao Mang cũng ẩn vào dân chúng. Lát sau tên Hát San, người Hán luyện Thiền công cùng đám người Hồi cũng tới. Thấy con, cháu, dâu bị bắt, y luống cuống ra mặt. Đô đốc Giang an cho lệnh đánh ba hồi chiêng trống rồi tiến ra cầm tờ giấy tuyên án ba tên họ Trịnh về tội trộm chiến mã. Cả ba bị kết án tử hình, chém ngang lưng. Bây giờ là giờ Ngọ, đến giờ Thân thì thi hành án. Bản án cũng nói: theo luật của Tống triều, vì ba tên họ Trịnh gốc là người Việt, nên có khoản châm trước. Tội nhân được quyền dùng vàng chuộc mạng. Mỗi mạng một nghìn lượng vàng. Tuyên án xong, Đô đốc Giang an cùng Kim sơn tam kiệt về dinh trấn thủ, đợi giờ thân sẽ tới làm giám trảm. Dã Tượng gặp lại Cao Mang thì mừng chi siết kể. Khác với Địa Lô là người đọc sách, tài hoa. Cao Mang từng là ngưu tướng, từng cùng Dã Tượng dự tất cả bẩy trận đuổi Mông cổ, nên anh em có nhiều kỷ nịệm vui buồn. Dã Tượng là thống lĩnh Ngưu binh. Cao Mang làm phó. Khi Dã Tượng lên đường thì Cao Mang thay thế. Dã Tượng phất tay cho Địa Lô dẫn Cao Mang, Thúy Hồng, Tô lịch về thuyền mình. Vào trong khoang, nhìn nét mặt bẩy cô Tô lịch hiện ra vẻ lo lắng luống cuống. Địa Lô nháy Dã Tượng ngụ ý im lặng chờ xem phản ứng của bẩy con quỷ cái ra sao? Vừa lúc đó thuyền phu báo: – Có đạo sĩ Mộ Hợp Mễ An Hat San muốn xin tiếp kiến tướng quân Dã Tượng. – Cho mời vào. Phân ngôi chủ khách, Dã Tượng ngồi vào chủ vị, tiếp theo đến Cao Mang, Địa Lô, Thúy Hồng. Hat San ngồi vào vị trí khách. Bẩy nàng Tô lịch ngồi vào vị trí quan sát. Hat San chắp tay vái Dã Tượng: – Bần đạo lớn gan xin tướng quân giúp cho một việc. – Tại sao đạo sư biết tôi có thể giúp cho đạo sư? – Suốt thời gian nửa tháng qua, thuyền của chúng tôi đi sau thuyền của tướng quân, nên tôi nhận ra tướng quân. Tôi biết tướng quân từ mấy năm trước tại Thăng long. Địa Lô lờ đi như không biết gì: – Kính chào đạo sư. Năm trước trong lần về Thăng long, tôi có hân hạnh đến cửa hàng của đạo sư mua một thanh đao, cùng ít thước vải. Mấy hôm nay tuy biết đạo sư đi trong con thuyền lưỡi liềm. Nhưng trên đất Tống tôi không dám nhận đạo sư, sợ Tống làm khó dễ thương thuyền của đạo sư. Cao Mang tiếp: – Người Việt chúng tôi có câu: Vạn lý tha hương ngộ cố tri. Nghĩa là xa quê hương vạn dặm mà gặp người mình quen biết, là điều vui vô cùng. Luật của Đại Việt định rằng: bất cứ người nào cư trú hợp pháp trên toàn lãnh thổ Đại Việt năm năm thì được trở thành người Việt. Đạo sư từng cư ngụ ở Thăng long mấy chục năm thì đạo sư là con dân Đại Việt. Hiện diện ở đây thì tướng quân Dã Tượng là trưởng sứ đoàn, tướng quân có bổn phận phải cứu giúp con dân Đại Việt. Vậy đạo sư có gì khó khăn cứ nói ra; sứ đoàn sẽ hết sức chu toàn. Hat San chắp tay: – Gã Trịnh Ngọc kia là con ngoại hôn của bần đạo, cùng vợ con làm thông ngôn cho Mông cổ. Chúng từng giúp bần đạo rất nhiều khi buôn bán qua vùng Mông cổ chiếm đóng. Nay chúng bị Tống kết án tử hình. Bần đạo muốn dùng vàng chuộc chúng ra. Mong tướng quân giúp cho. Dã Tượng nghĩ: – Mày muốn giả trá thì tao cũng giả trá. Bộ tao thua mày ư? Chàng nói: – Ấy à! Khó quá. Để tôi hỏi Tô lịch thất tiên xem. Chàng quay lại hỏi Hoàng Hoa: – Trong Tô lịch thất tiên, thì tôi phải gọi cô bằng cô, vì cô là phu nhân của thầy Khai sơn hầu Tạ Quốc Ninh. Ba người họ Trịnh dẫn giải cô từ đâu đến Trấn trì rồi gặp đám Hoa sơn ngũ hiệp? Hoàng Hoa đáp: – Trịnh Ngọc được Thái sư Ngột Lương Hợp Thai sai đưa chúng tôi từ Thăng long lên Khâu bắc, vì sợ ở Thăng long không an ninh. Sau lại ra lệnh đưa chúng tôi từ Khâu bắc đi Côn minh. Giữa đường gặp Hoa sơn ngũ hiệp. Địa Lô hỏi: – Trong khi đi đường chúng có cử chỉ khinh bạc, hoặc vô lễ với cô không? – Không! Tuyệt đối không! Chúng hầu hạ cung phụng chúng tôi rất chu đáo. Xin tướng quân cứu mạng bọn y. Thanh Hoa tiếp lời Hoàng Hoa: – Trước kia thì Mông cổ với Đại Việt có chiến tranh. Bây giờ hai nước đã giảng hòa. Đại Việt chịu xưng thần, gửi Vũ Uy vương sang làm con tin, tuế cống. Mà ba người họ Trịnh hộ tống chúng tôi đi Côn minh cho Thái sư, nay tướng quân là người của sứ đoàn theo con tin, thì cũng là thần tử Mông cổ. Tướng quân phải cứu ba người họ Trịnh để lập công với đại vương Hốt Tất Liệt. Thấy Thanh Hoa lộ nguyên hình là kẻ vong quốc, Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang muốn buồn nôn. Nhưng hoàn cảnh phải lờ đi. Dã Tượng giả vui lòng: – Vậy thì được. Xin đạo sư đem vàng cho chúng tôi, để chúng tôi vào dinh Đô đốc Giang an chuộc chúng. Hát San mừng chi siết kể, về thuyền lấy vàng. Địa Lô hỏi Tô lịch thất tiên: – Bây giờ tôi hỏi thực bẩy chị. Mong bẩy chị đừng vì lý do gì mà nói trái với lòng mình. – ?!?!?! – Các chị có hai vấn đề trước mắt. Một là trở về Đại Việt với chồng, hai là đi Mông cổ làm vương phi Thiên triều. Các chị chọn đường n ào. Thấy Địa Lô dùng chữ Thiên triều, thì Dã Tượng, Cao Mang đều biết rằng chàng mở đường cho bẩy con quỷ cái sang Mông cổ, hơn là đem về Đại Việt. Chúng về Đại Việt sẽ gây ra không biết bao nhiêu xáo trộn, mà kết quả khó thể đoán trước được. Bẩy nàng nhìn nhau. Rồi Hồng Hoa e thẹn nói: – Chúng tôi được trời cho tấm nhan sắc, lại có tài ca hát. Trong dịp tuyển phu, chúng tôi tuyển được chồng là những bậc kỳ vỹ nhất nước. Tiếc rằng trời đất nổi cơn gió bụi, chúng tôi được Mông cổ đón đi. Tất cả đã bất trinh, thất tiết thì còn mặt mũi nào về Đại Việt nhìn chồng, nhìn người thân nữa? Mà ví dù tướng quân đưa chúng tôi về Đại Việt thì cũng bị tội voi dầy, ngựa xé. Vậy mong tướng quân cho chúng tôi đi Mông cổ. Dã Tượng quyết định: – Thế thì tôi sẽ tấu trình lên Vũ Uy vương, rồi đem bẩy vị dâng cho đại vương Hốt Tất Liệt. Nghe Dã Tượng hứa, cả bẩy nàng Tô lịch mừng chi siết kể. Lát sau Hat San đã mang vàng sang. Ngoài ba nghìn lượng chuộc người, y con biếu cho Dã Tượng một nghìn lượng. Dã Tượng dẫn Cao Mang, Địa Lô mang vàng vào dinh Đô đốc Giang an. Anh em Kim sơn tam kiệt thấy anh em Dã Tượng vào dinh thì biết vụ chuộc người đã xong. Đúng ra anh em Kim sơn có thể ôm hết số vàng này, rồi chia cho Đô đốc Giang an một phần. Nhưng ba người là những anh hùng của Tống, họ không muốn gian dối. Nhất Kiệt nói với Đô đốc Giang an: – Vàng này xin Đô đốc xung vào công khố. Chứ chúng ta không thể, không nên đụng vào. Tới giờ thân, cả đoàn cùng ra bờ sông. Dân chúng chen chúc xem ba tên trộm chiến mã bị chém ngang lưng. Lẫn trong dân chúng có cả Thất tiên, Thúy Hồng, cùng bọn Hat San. Chiêng trống ba hồi. Hình binh cầm loa nói lớn: – Tới giờ hành hình. Ba hình binh, mỗi người cầm một thanh đao, đứng trước ba tội nhân. Một hình binh vung đao ướm thử vào lưng tên Trịnh Ngọc, khiến y rú lên một tiếng như chó tru. Cả ba đao phủ lăm lăm cầm đao chờ đợi Đô đốc ném thẻ tử ra là vung đao chặt đôi tội nhân. Bọn họ Trịnh mở to mắt ra nhìn đao phủ. Chúng sợ quá, hai hàm răng đánh vào nhau lộp cộp. Đô đốc Giang an tuyên án: – Đúng luật thì cả ba người này bị trảm ngang lưng. Nhưng họ là người Việt. Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân Trần Quốc Kinh là sứ thần đặc mệnh toàn quyền xin đem vàng chuộc người. Vì vậy ba tên trộm này được trao cho sứ đoàn. Nghe tuyên án, bọn họ Trịnh mừng quá, ngất xỉu. Hình binh cởi trói cho chúng. Chúng đã tỉnh dậy. Dã Tượng giải chúng về thuyền mình. Thúy Hồng nói với Hat San: – Bây giờ chúng ta đã nhận họ hàng với nhau rồi, thì thuyền của Đạo sư là thuyền Đại Việt. Chúng tôi có bổn phận phải bảo vệ cả người lẫn tài sản trên thuyền của Đạo sư. Thuyền này chúng tôi thuê của người Thục. Trong ước hẹn thì đến đây là xong. Chúng tôi trả thuyền cho họ. Tất cả chúng tôi sẽ dùng thuyền của Đạo sư xuôi về Đại Việt. Không biết có trở ngại gì cho Đạo sư không? Nói rồi nàng nhìn Hồng Hoa mỉm cười mà không phải cười. Hat San luống cuống tự hỏi: – Cái cô này trẻ hơn Hồng Hoa nhiều, sắc đẹp dịu dàng, tươi như hoa mới nở, mà bản lĩnh không tầm thường. Có lẽ cô ta biết truyện mình với Hồng Hoa thì phải. Dường như trong bốn người Dã Tượng, Cao Mang, Địa Lô dã phân chia nhiệm vụ rõ ràng rồi. Cô này phụ trách chi tiêu, mua sắm, nên mỗi khi ăn uống thì cô trả tiền. Ngay việc thuê thuyền cô cũng quyết định. Hat San không đừng được y trả lời: – Bần đạo xin tuân lệnh. Con thuyền lưỡi liềm rời sông Trường giang đi vào địa phận sông Hoành giang. Chiều hôm sau có chim ưng mang thư của Vũ Uy vương tới. Thư khá dài. Vương cho biết: “1. Hiện vương, vương phi đang trên dường đi Côn minh, nhưng vì cần giải quyết vụ Văn sơn, Khâu Bắc, nên đã quay trở về, không đi Côn minh nữa. 2. Vương đã ra lệnh cho Đô thống Lê Linh Anh (Hĩm Còi), Phó thống lĩnh Ngưu binh đem một Đô (80) Ngưu binh tiến lên Khâu bắc đề phòng có biến cố gì không. 3. Vương cũng ra lệnh cho Đại đởm thập tam kiệt âm thầm đột nhập Văn sơn, Khâu bắc đề phòng âm mưu phản phúc của bọn con cháu Thân Lợi. 4. Kiềm chế, kiểm soát gắt gao bọn Tô lịch thất tiên, bọn Hồi Hat San”. Chiều hôm ấy thuyền tới Chiêu thông. Đây thuộc địa phận Quý châu. Thị trấn này vừa có không khí lưu vực sông Hoành giang, vừa có không khí núi rừng. Hat San từng bôn ba buôn bán qua đây. Y có một cơ sở buôn bán giữa khu chợ chính. Y ngỏ lời mời mọi người lên bờ, vào cơ sở chơi. Hat San lên bờ một lúc, thì y trở lại với một người Hán to lớn, cử chỉ nho nhã tên Lê Minh Quang. Hat San giới thiệu: – Trưởng cơ sở của chúng tôi tại Chiêu thông là một người Hán ở vùng Trường sa đến đây lập nghiệp đã hơn hai chục năm tên Lê Minh Quang. Minh Quang giao dịch với hầu hết quan lại Tống trong trấn. Sau bốn ngày ngồi thuyền, người người đều bứt rứt khó chịu. Bây giờ được lên bờ hưởng khí hậu sông-núi, ai cũng cảm thấy thoải mái. Duy người Hán luyện Thiền công vẫn ở lại. Hát San giảng giải rằng đó là một vị sư (Thổ phồn) Tây tạng xin tháp tùng thương thuyền để hoằng dương đạo pháp. Nhà sư không thích ồn ào nên muốn ở lại thuyền luyện công. Nghe Hat San nói, Dã Tượng mới tỉnh ngộ, chàng cứ thắc mắc tại sao trên thuyền lại có một người mà lúc nào cũng đội mũ. Thì ra nhà sư đội mũ để dấu thân phận. Thúy Hồng là một Phật tử thuần thành, nghe nói đến một vị sư thì tỏ vẻ kính cẩn: – Thế mà tôi không biết. Hèn gì từ Giang an tới đây, không thấy người ăn cơm cùng với chúng ta. Thì ra người ăn chay. Không biết người có biết nói tiếng Hán không? – Ông ta nói được, nhưng rất ít. Thúy Hồng gõ cửa khoang. Nàng nói tiếng Hán vùng Thục: – A di đà Phật. Có tiếng đáp lại: – Mời thí chủ vào. – A di đà Phật, đệ tử thực phúc đức được đi cùng thuyền với đại sư mà không biết. Đệ tử không dám thỉnh pháp danh đại sư. – Bần tăng pháp danh bằng Tạng ngữ, dịch sang tiếng Hoa là A Hàm La. – Kính mời đại sư lên bờ cho dãn gân cốt. – Đa tạ thí chủ. Bần tăng muốn được yên tĩnh. Minh Quang mời khách lên một khu trang trại làm trên sườn đồi. Đường lên đồi trồng rất nhiều loại hoa, hương đưa thơm ngát. Minh Quang nói với Hat San: – Vùng này không có trộm cắp. Mời Đạo sư cùng các vị lên bờ nghỉ vài ngày. Y nói với đám thuyền phu: – Anh em cũng lên bờ thôi. Thuyền cứ neo trên bến, tôi sẽ cử một vài vệ sĩ xuống thuyền canh gác. Với một đoàn 40 người y phục khác lạ vào thị trấn, dân chúng nhìn bằng con mắt tò mò. Minh Quang mời Hat San cùng đám đệ tử Hồi giáo nghỉ trong một căn nhà có bàn thờ. Đám người Hán phần đông là thuyền phu nghỉ trong một căn nhà dựa vào chân núi. Y mời nhóm Dã Tượng, Tô lịch nghỉ trong căn lầu đẹp nhất. Y nói với Hat San: – Chư vị có y phục cần giặt cứ thay ra, trong trang này đệ tử có bốn tỳ nữ lo giặt cho các vị. Không đầy một giờ sau đầu bếp của Quang Minh đã chuẩn bị xong bữa tiệc với mười món ăn. Đám thuyền phu người Hán, đám đệ tử người Hồi của Hat San ăn riêng. Hat San, với ba tên họ Trịnh cùng ăn với nhóm Dã Tượng. Ăn xong, Thúy Hồng thân vào bếp làm mấy món chay, đích thân mang đến thuyền cho vị tăng. Nàng bầy ra bàn, xới cơm kính cẩn: – Thỉnh đại sư. Rồi nàng chắp tay lui ra sau đứng hầu. Từ hôm đáp thuyền lưỡi liềm đến giờ trải hơn tháng A Hàm La chỉ được ăn vài món rau luộc với muối. Hôm nay được ăn mấy món chay vùng Việt, ông ăn nhiều vô cùng. Đợi ông ăn xong, Thúy Hồng dọn bát đũa, rồi từ biệt ông lên trang trại. Khi Thúy Hồng quay đi, ông dùng ngón tay gõ vào mạn thuyền ba tiếng. Âm kình nhẹ nhàng, nhưng vang đi rất xa. Lúc Thúy Hồng rời cầu lên bờ nàng lại nghe ba tiếng nữa. Nàng thắc mắc tự hỏi: – Vị Thiền sư này gõ ba tiếng ngụ ý gì đây? Chợt nàng tỉnh ngộ: một lần lên chùa Tiêu sơn nghe giảng kinh, sư phụ giảng Thiền sử về giòng Thiếu lâm có đoạn: ” Bồ-đề Đạt-ma là tổ thứ hai mươi tám dòng thiền Tây-trúc qua Lĩnh-Nam hoằng dương đạo pháp, rồi tới Trung-thổ. Ngài diện bích chín năm tại núi Tung-sơn, sau truyền tâm-ấn cho Huệ-Khả (486- 593). Huệ-Khả truyền cho Tăng-Sán (606). Tăng-Sán truyền cho Đạo-Tín (580-674) . Đạo-Tín truyền cho Hoằng-Nhẫn (601-674). Hoằng-Nhẫn truyền cho Huệ-Năng (638-713). Cuộc truyền tâm ấn của ngũ tổ Hoằng-Nhẫn cho lục tổ Huệ-Năng là một giai thoại kỳ thú. Cuộc truyền tâm ấn như sau: Một hôm ngũ tổ Hoằng-Nhẫn gọi tất cả đệ tử trong chùa lại dạy rằng: – Ta nói cho các người biết. Trong kiếp sống thì sinh tử là lẽ lớn. Thế mà các người chỉ đi tìm cái phước điền, chứ không tìm cách thoát khỏi bể khổ. Các người u mê về lý tính thì phúc điền có đạt chăng nữa cũng không cứu được các người. Các người hãy trở về với chân tâm, tự xét chân tâm, tìm lấy cái gốc chân tâm. Tự chân tâm sinh ra gốc của nó, và ánh sáng Bát-nhã. Mỗi người làm một bài kệ trình ta xem. Nếu người nào kiến tính giác ngộ được, ta sẽ truyền y bát để trở thành lục tổ của dòng Thiền-tông. Sư Thần-Tú vốn người học rộng, biết nhiều, lại là học trò giỏi nhất của Hoằng-Nhẫn; ông trở về phòng làm một bài kệ. Đêm đó ông viết bài kệ của mình ở hành lang chùa, bầy tỏ sở kiến. Bài kệ như sau: Thân thị Bồ-đề thụ, Tâm như minh kính đài. Thời thời cần phất thức, Vật xử nhạ trần ai. Nghĩa là: Thân tại gốc Bồ-đề, Tâm như đài gương sáng. Thời thời cần lau sạch. Đừng để nhuốm bụi trần. Canh ba, tổ Hoằng-Nhẫn gọi Thần-Tú vào bảo đường hỏi rằng: – Có phải bài kệ viết ở hành lang là do nhà ngươi làm không? Sư Thần-Tú đáp: – Chính là đệ tử làm. Đệ tử không dám hy vọng được làm lục tổ. Chỉ mong sư phụ xét xem đệ tử có chút ánh sáng trí tuệ nào không. Tổ Hoằng-Nhẫn đáp: – Nhà ngươi kiến giải trong bài kệ ấy; là chưa thấy được gốc của tính, mới đến cửa Bồ-đề chứ chưa nhập vào Bồ-đề được. Nhà ngươi kiến giải như vậy mà muốn vào Vô-thượng Bồ-đề thì chưa tới. Muốn đạt Vô-thượng Bồ-đề phải hiểu tại ngoài lời nói, để nhận thức cái gốc của chân tâm. Gốc của chân tâm là bất sinh bất diệt, không lời nào nói ra được. Bất cứ lúc nào, ý nào cũng tự nó hiện ra mà có. Tất cả đều không. Một là chân tất cả đều là chân. Muôn vàn cảnh giới đều là như như. Cái ý thức về như như ấy là chân thực. Nếu nhà ngươi kiến giải được như vậy, thì mới có tự tính Vô thượng Bồ- đề. Sau đây nhà ngươi suy nghĩ vài ngày, làm một bài kệ khác, đưa trình ta xem. Nếu tỏ ra nhập được vào cửa Bồ-đề thì ta truyền tâm ấn cho. Thần-Tú tở về, mấy ngày sau tinh thần hoảng hốt không làm được bài kệ nào. Cách đó mấy ngày, có chú tiểu đi qua chỗ dã gạo, miệng đọc bài kệ của Thần-Tú. Bấy giờ có nhà sư Huệ-Năng, vốn người Việt xin vào tu ở chùa Thiếu-lâm từ lâu. Vì sư không biết chữ, nên được giao cho công việc dã gạo. Tuy vậy sư nghe ngũ tổ giảng kinh, thì hiểu thấu đáo ngay. Nay nghe chú tiểu đọc bài kệ của Thần-Tú. Huệ-Năng thấy ngay bài kệ đó chưa hiện ra gốc của tính. Ông làm một bài kệ khác như sau: Bồ- đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài. Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai? Nghĩa là: Bồ-đề chẳng có gốc, Minh kính cũng không đài. Xưa nay nào có vật, Đâu nơi nhuốm trần ai? Yếu chỉ của Thiền-tông là kinh Kim-cương, Lăng-già, Bát-nhã. Tất cả đều qui về tính không, tức sao bỏ được vọng tâm là ngã tướng. Muốn thế phải dứt được Ngũ-uẩn, Lục-trần, Nhân-ngã tứ tướng. Thế mà bài kệ của Thần-Tú vẫn còn đủ sắc, tướng: Thân là ngã tướng. Bồ-đề là thọ giả tướng. Tâm lại là ngã tướng nữa. Minh kính đài là chúng sinh tướng. Thời thời, phất thức, vật xử là thọ giả tướng. Trần ai là thọ giả tướng. Như vậy là vẫn trần tục. Bài kệ của Huệ-Năng làm tổ Hoằng-Nhẫn vui mừng. Hôm sau tổ tới nhà dã gạo, thấy Huệ-Năng đang dã gạo, bèn hỏi: – Người học đạo phải thế nào? Nhà ngươi dã gạo trắng chưa? Ý tổ hỏi ngoài lời nói: Tâm sáng, nhập vào Bồ-đề, thế đã chuẩn bị nhận y bát chư? Huệ-Năng trả lời: – Gạo tôi dã sạch lắm. Còn thiếu cái sàng thôi. Ý nói rằng: Tâm đã trong, chỉ còn chờ truyền tâm ấn. Tổ cầm gậy gõ vào cối ba cái, rồi bỏ đi. Ý nói canh ba Huệ-Năng lên bảo đường gặp ngài. Canh ba Huệ-Năng lên phòng tổ, được tổ giảng yếu chỉ kinh Kim-cương, Lăng-già, rồi truyền y bát“. Thúy Hường nghĩ thầm: – Vị đại sư này định giảng gì cho mình đây! Ngài giảng gì cũng được. Nghe các thầy giảng kinh có bao giờ mình chán đâu. Chả biết canh ba này mình có phải xuống thuyền không? Theo lời Minh Quang thì tối sẽ có người lên thuyền canh gác. Như vậy có hơi bất tiện. Trời về chiều, Minh Quang hỏi Hat San: – Đạo sư! Không biết những vị đây là thế nào với Đạo sư? Hat San đi một vòng giới thiệu. Trước hết y giới thiệu bọn Trịnh Ngọc. Rồi mới giới thiệu nhóm Dã Tượng. Cơm chiều xong Địa Lô, với bẩy nàng Tô lịch đem đàn, trống ra ca hát. Đám gia nhân của Minh Quang; đám đệ tử, đám thuyền phu của Hat San lần đầu tiên được thưởng thức những âm điệu tuyệt diệu của thế gian. Họ ngây người ra ngồi nghe. Trước đây Thúy Hồng chỉ học văn, học ca hát. Từ ngày theo sứ đoàn Vũ Uy vương bắt tất cả năm nàng phải luyện võ cho thân thể khỏe mạnh, nhất là tự vệ khi cần thiết. Người dạy là Tạ Quốc Ninh. Nàng đã được học võ công căn bản của phái Sài sơn gồm mười đòn tay, mười đòn chân, phản đòn tay, phản đòn chân. Sau đó 3 bài bài quyền, cùng nội công tâm pháp. Từ hôm rời sứ đoàn, tối nào Dã Tượng cũng bắt nàng ôn tập. Vì vậy sức khỏe của nàng tăng tiến kỳ lạ. Suốt thời gian đi thuyền, nàng không có nơi ôn luyện võ, vì vậy chân tay nặng nề, đi đứng mất linh động. Hôm nay ở trong trang trại nằm trên sườn đồi đầy hoa thơm, cỏ lạ. Khi trời xụp tối, nàng xuống một góc vườn ôn luyện võ công. Sau khi đi hết 3 bài quyền, thì trời đã về khuya, nàng hướng con thuyền lưỡi liềm khoan thai rảo bước. Thình lình có tiếng chát từ phiến đá trên dốc đồi trước mặt phát ra, cùng với tia lửa. Kinh ngạc nàng chạy tới xem, thì lại có tiếng chát tóe lửa ở phiến đá cao hơn. Nàng tung mình lên xem, thì lại có tiếng chát khác. Cứ thế sau 5 tiếng thì nàng đã ở trên đỉnh đồi. Đỉnh đồi có khu đất khá bằng phẳng. Đứng tại đây có thể nhìn thấy toàn trấn Chiêu thông. Gió thổi làm y phục nàng bay phần phật. Hương thơm núi rừng cho Thúy Hồng cảm giác sảng khoái nàng cất tiếng hát một bài Quan họ. Khi vừa ngừng thì nàng phát hiện ra có tiếng ngưới hô hấp. Nhìn về phía ấy, nàng giật mình khi thấy nhà sư A Hàm La đang ngồi luyện công. Tỉnh ngộ, nàng biết vị đại sư này dùng thủ pháp gì đó bắn đá dẫn dụ nàng lên đây. Nhà sư cất tiếng trầm trầm: – Thí chủ! Thí chủ với bần tăng vốn có thiện duyên từ kiếp trước, nên chúng ta gặp nhau dưới con thuyền. Bần tăng biết thí chủ là một Phật tử thuần thành, nên muốn truyền cho thí chủ mấy thức Mật công. Ghi chú: (1) Dã Tượng là một đại tướng, nhưng lại là người lòng dạ trung thuần, nhân từ. Nhưng tại sao ông lại muốn xuống tay giết Tô lịch thất tiên? Nguyên do luật đời Trần rất nghiêm khắc với đàn bà ngoại tình. Luật Hồi- giáo kết tội người đàn bà ngoại tình thì bị ném đá cho đến chết. Vậy tội ngoại tình trong xã hội Việt Nam xưa kết tội ra sao? Đàn ông ngoại tình có bị chế tài gì không? Do phong tục, do luân lý và do luật pháp, nghĩa vụ trung thành chỉ đặt ra với người đàn bà, mà không đặt ra với đàn ông. Nghĩa vụ trung thành không đặt ra với người chồng. Người chồng được lấy nhiều vợ. Vợ là những người phải cưới. Vợ cả gọi là thê, vợ thứ gọi là thiếp. Thiếp không giới hạn là bao nhiêu người. Ít thì một, nhiều thì hằng trăm hằng nghìn. Ngoài ra, người đàn ông có thể nạp thêm nàng hầu, không cần phải cưới. Nàng hầu vừa là người phục vụ trong gia đình, bất cứ lúc nào ông chủ muốn, thì cứ việc đem về phòng ngủ của mình và sex như với thê-thiếp. Tội ngoại tình trong cổ luật gọi là thông gian. Dù thê, thếp, nàng hầu mang tội thông gian thì: Luật triều Trần (1225-1400) quy định: Người chồng phải giết gian phu, dâm phụ. Nếu vì thương con, người chồng chỉ có quyền tha tội chết cho vợ, có quyền bán vợ cho người khác làm tỳ thiếp, làm tôi tớ. Còn người chồng tha cho dâm phu, thì chính người chồng sẽ bị tội xử giảo (thắt cổ chết), dâm phu bị tội chém ngang lưng. Luật Hồng Đức điều 401 (áp dụng từ năm 1470 đến năm 1802), vợ chính hay vợ thứ phạm tội thông gian, phải tội lưu, điền sản dành cho người chồng. Luật Gia Long, điều 332 (áp dụng suốt triều Nguyễn, từ năm 1802 đến 1945), phạt thê, thiếp, nàng hầu phạm tội thông gian, và gian phu 100 trượng. Người chồng được quyền tha cho vợ, hoặc bán vợ cho người khác. Tuy nhiên nếu bán cho dâm phu, thì cả chồng lân gian phu bị phạt 80 trượng. Người vợ phải trở về sống với bản tông. (2) Sự việc này xẩy ra vào niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 4 (1236) đời vua Thái Tông . Bên Trung Nguyên là niên hiệu Tống Đoan Bình thứ nhì. Trước đây phụ chính là Thượng hoàng Trần Thừa. Thượng hoàng băng năm 1234, Thái sư Trần Thủ Độ thay thế. Hồi thứ sáu mươi ba Thiên đường của A La Thúy Hồng mừng lắm nàng chắp tay: – Đa tạ sư phụ. A Hàm La bảo Thúy Hồng ngồi kiết già trên phiến đá cạnh đó, rồi ông giảng giải yếu chỉ kinh Tượng Đầu Tinh Xá. Ông nói: – Hôm nay ngoài những thức Thiền công, thầy dạy cho con pháp thứ nhất trong 36 pháp của Mật tông. Ông dạy nàng thở hít, vận khí, dẫn khí. Khi nàng thở được hai chục thức thì lạ thay, mắt nàng như xụp xuống, rồi trầm vào nhập tĩnh không biết gì. Thế nhưng bên tai, nàng vẫn nghe tiếng ông nói. Ông dạy nàng phương pháp nghe người đối thoại với mình, mà hiểu những gì người đó nói. Tiếng chim hót líu lo buổi sáng làm Thúy Hồng tỉnh giấc. Mặt trời đang ló dạng, ước đã sang giờ mão. Nàng vẫn ngồi trên phiến đá. Còn A Hàm La thì không thấy đâu. Chân khí trong người lưu thông, sảng khoái không bút nào tả siết, nàng tung mình đứng dậy phóng xuống đồi. Nhưng kỳ lạ không, cái tung mình đưa thân thể nàng lên cao, nhẹ nhàng như bay vậy. Nàng nghĩ thầm: – Thì ra sư phụ dạy nàng những thức Mật công thượng thừa. Khinh công của mình đến như thế này thì bỏ xa cả thầy Tạ Quốc Ninh rồi. Mọi người trong trang đã tỉnh giấc, đang ăn điểm tâm. Dã Tượng hỏi: – Cô tiên nữ Thúy Hồng ơi! Mọi khi cô thức giấc sớm nhất, sao hôm nay lại dậy muộn vậy? Nhìn Dã Tượng, Thúy Hồng thấy người anh này ngùn ngụt những tình cảm lo cho mình như lo cho một cô em gái. Không muốn nói dối, nhưng cũng không muốn khai thực, Thúy Hồng mỉm cười chỉ lên đỉnh đồi: – Trên đỉnh đồi có chỗ đất bằng phẳng, em lên đó ngồi luyện công, chứ có phải ngủ trưa đâu? Nói dứt, nàng lại thấy rõ Dã Tượng dang nghĩ: làm sao con bé lại leo lên đỉnh đồi luyện công, mà không luyện ở dưới này. Nàng đáp: – Em lên đỉnh đồi vì có một lẽ huyền bí dẫn dụ lên. Cứ thế, sau mỗi câu nàng trả lời thì Dã Tượng lại suy nghĩ về nàng. Nàng lại đọc được ý nghĩ của ông anh. Dã Tượng kinh ngạc: – Thúy Hồng ơi! Em học được Thông thiên pháp của Mật tông Tây tạng từ bao giờ vậy? – Mới thôi anh ạ. Suốt ba ngày ở Chiêu thông, ngày nào Thúy Hồng cũng làm cơm chay cúng dàng cho sư A Hàm La, rồi tối tối nàng lại lên đỉnh đồi luyện Thiền công với nhà sư. Ngày thứ nhì trở đi, mỗi ngày ông dạy nàng 5 pháp Mật tông nữa. Hôm đầu tiên thì sau khi luyện 20 thức thì nàng đã nhập tĩnh sâu sa. Sang ngày thứ nhì thì đến 40 thức nàng mới nhập tĩnh. Tới đêm thứ tư thì nàng luyện tới 100 thức mới nhập tĩnh. Hôm nay, ông không cần nói, chỉ ngồi nhắm mắt dùng thần thức giảng cho nàng. Còn nàng chỉ cần nhìn ông mà hiểu được ông giảng gì, nói gì. Nàng luyện tới sáng chỉ thấy riu riu mà không nhập tĩnh nữa. Dã Tượng đốc thúc mọi người lên đường. Thuyền đi đến chiều thì thuyền trưởng báo với Hat San: – Thưa đạo trưởng chỉ còn hơn giờ nữa thì chúng ta đến địa phận Lục bàn thủy. Từ Lục bàn thủy về nam sông hẹp, nước cạn, thuyền chúng ta lớn quá đi không được. Xin đạo trưởng quyết định. – Neo thuyền tại bến Lục bàn thủy. Vừa lúc đó, có tiếng tài công la lớn: – Đánh nhau. Trên bờ có hai đạo quân đang đánh nhau. Hát San, bọn Dã Tượng cùng kéo nhau lên sàn thuyền nhìn về phía bờ trái: trên cánh đồng rộng mênh mông, có hai đạo quân y phục giống nhau, dàn ra đối diện đang giao chiến dữ đội. Địa Lô quan sát rồi nói: – Một đạo quân mang cờ Khâu bắc, một đạo quân mang cờ Văn sơn. Đạo quân mang cờ Khâu bắc do đại sư Huệ Đăng, Lý Như Lan và Khâu bắc ngũ hổ tướng đứng đầu. Đạo quân mang cờ Văn sơn do Lý Long Vân và một Thiên phu Mông cổ đứng đầu. Đạo Khâu bắc nhờ có đại sư Huệ Đăng , Như Lan, Khâu bắc ngũ hổ, võ công trấn tiền lộ yểm trợ. Còn đạo quân Văn sơn nhờ có Thiên phu kị mã Mông cổ thiện chiến trợ giúp, nên chưa phân thắng bại. Dã Tượng ra lệnh: – Địa Lô, Cao Mang, chúng ta mau tiếp ứng cho đạo Khâu bắc. Ba người nhảy lên bờ xung vào phía hông trận Văn sơn. Cao Mang đứng lên một mỏm đá, dương cung. Giữa lúc đó có nhiều tiếng rú kéo dài rùng rợn, một bách phu kị mã Mông cổ dàn hàng ngang xung vào trận Khâu bắc. Chúng cùng dương cung bắn ra, rồi quay ngựa trở lại. Tên bị Huệ Đăng, Như Lan, Ngũ hổ tướng đứng đầu vung vũ khí gạt rơi xuống đất. Nhưng tên cũng lọt vào trận Khâu bắc khiến hơn chục người bị lật ngược. Lại tiếng hú man rợ, bách phu thứ nhì lao tới. Cao Mang bắn liên tiếp mười mũi tên chặn lại. Vèo, mũi tên thứ nhất bay đến trúng giữa lưng một bách phu trưởng Mông cổ. Tên xuyên qua tới ngực, tên bách phu trưởng ngã lộn xuống ngựa; Cao Mang bắn liên tiếp mười mũi, mười kị mã Mông cổ chết. Mười kị mã cùng ngựa ngã chặn phía trước. Đợt kị mã Mông cổ thứ nhì bị rối loạn. Sư Huệ Đăng thấy mình có viện binh, thúc quân tiến lên. Hai bên lẫn vào nhau. Địa Lô nói với Cao Mang: – Anh với em bắn vào bọn cận vệ tên Long Vân, để anh Dã Tượng xung vào bắt sống y. Vèo vèo, hai mũi tên bay ra, hai cận vệ Long Vân bị ngã. Đã Tượng đoạt được một cây côn sắt chàng xung vào trận Mông cổ. Gậy vụt xuống, một kị mã gẫy đôi, hai gậy vụt xuống hai kị mã gẫy đôi. Chàng tung mình vọt lên cao, đáp xuống lưng một chiến mã. Cứ như thế, sau năm bước chàng đã tới trước mặt Long Vân. Long Vân thấy Dã Tượng thì hồn phi phách tán. Y vọt ngựa về sau bỏ chạy. Dã Tượng nhảy xuống đất túm đuôi ngựa y, dùng một chiêu Đảo mã cửu lộ thức, giật mạnh. Con ngựa ngã chổng vó lên trời. Long Vân vọt mình lên một chiến mã Mông cổ, phi về phía sau. Một bóng người xẹt tới như tia chớp, chỉ mấy bước đã chặn trước đầu ngựa Long Vân. Long Vân kinh hoàng giật cương cho ngựa chụp lên đầu người kia. Người kia tung mình lên cao, chân đáp phía sau Long Vân, tay đẩy mạnh. Y ngã xuống ngựa. Dã Tượng túm tóc nhắc y lên như nhắc con gà: – Mau hô bộ hạ buông vũ khí, bằng không tao xé xác mày làm đôi. Bấy giờ Dã Tượng mới nhìn lại xem người chặn Long Vân là ai? Chàng kinh ngạc đến ngẩn người ra, vì đó là Thúy Hồng. Địa Lô, Cao Mang đã tới đứng cạnh Dã Tượng. Long Vân kinh hồn hét lớn: – Ngừng chiến. Lui lại! Buông vũ khí đầu hàng. Dã Tượng vận khí hô lớn: – Quân Văn sơn, Khâu bắc nghe dây! Chúng ta là người Việt, không nên tàn sát nhau. Mau lui lại. Quân Khâu bắc, Văn sơn lùi lại. Thế là Thiên phu Mông cổ phía trước bị quân Khâu bắc chặn, phía sau bị quân Văn sơn cản đường. Nhưng là đội binh thiện thiến, Thiên phu Mông cổ đổi thế trận lao về hông trái. Dã Tượng, Cao Mang, Địa Lô dương cung bắn theo, viên Thiên phu bị trúng ba mũi tên, nhào xuống ngựa. Không hổ là đội quân thiện chiến nhất gầm trời, một Bách phu trưởng thay Thiên phu chỉ huy. Đội hình Mông cổ lại củng cố, dàn ra uy nghiêm đối diện với trận Khâu bắc. Ba tiếng trống, một tiếng chiêng, trận Khâu bắc mởû ra, rồi tiếng tù và tu tu rúc lên. Hai đội trâu, mỗi đội 40 con dàn hàng ngang từ từ tiến ra. Một nữ tướng đứng trên lưng trâu, tay cầm khiên mây chống tên, tay cầm cờ chỉ huy. Dã Tượng nhận ra đó là Ngưu tướng vùng Kinh Bắc, Hĩm Còi. Trên lưng tất cả trâu, đều có một người cỡi. Kị binh Mông cổ dương cung bắn. Mục đồng đưa khiên mây ra hứng. Tên găm vào khiên mây. Phút chốc ngựa, trâu lẫn vào nhau. Mục đồng từ lưng trâu lăn xuống đất dùng đoản đao chặt chân ngựa. Trận Mông cổ bị vỡ, trước sau tử trận chỉ còn năm bách phu. Một tiếng hú kéo dài. Thiên phu Mông cổ bỏ chạy về phía chân núi. Nhưng từ chân núi một đội kị mã dàn ra phía trước. Đó là đội kị mã Long biên được phái theo hộ vệ sứ đoàn. Hai bên phải, trái hai đội Ngưu binh. Trống thúc nhịp nhàng. Thế là Thiên phu Mông cổ bị bao vây vào giữa. Thúy Hồng, Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang theo đội Ngưu binh lao vào trận tuyến. Phía Khâu bắc Huệ Đăng, Như Lan, Khâu bắc ngũ hổ tướng cũng xung vào trận. Cuộc chiến kéo dài hơn nửa giờ, phía Mông cổ chỉ còn hơn hai trăm kị mã. Dã Tượng cầm tù và rúc lên. Ngưu binh từ từ lui lại. Địa Lô hô lớn bằng tiếng Mông cổ : – Mau đầu hàng bằng không sẽ chết hết. Đám tàn binh Mông cổ buông vũ khí đầu hàng. Hai đạo quân Văn sơn, Khâu bắc đang chém giết nhau, bây giờ được tập trung lại. Đại sư Huệ Đăng nhìn Thúy Hồng từ đầu đến chân như muốn hỏi điều gì. Tất cả mọi người cùng hướng mắt nhìn nàng. Thúy Hồng hỏi : – Không biết đại sư có gì dạy bảo đệ tử không ? – Không dám ! Bần tăng với cô nương chia tay không lâu mà dường như dung quang cô nương thay đổi hẳn. Này nhé : thần thái rực rỡ, da tươi hồng, mắt chiếu ra tia sáng long lanh, trông xa như một Quan Thế Âm vậy. Một điều kỳ lạ là mới đây khinh công của cô nương bình thường thôi, mà nay siêu việt như vậy, e bỏ xa bần tăng. Thắc mắc của sư Huệ Quang cũng là thắc mắc của đám Dã Tượng. Dã Tượng hỏi đại sư Huệ Đăng: – Đại sư! Sự thể ra sao, mà lại có cuộc chém giết này? Như Lan thuật. – Sau khi rời Bồ lăng, đại sư Huệ Đăng muốn dùng Lý Long Vân để bình định hai châu Khâu bắc, Văn sơn. Nên vẫn giữ thể diện cho y, không trói y, vẫn cho y làm châu trưởng. Cả đoàn đi trong 7 ngày thì về đến Khâu bắc. Như Lan sai tập họp thủ hạ Long Vân lại, bắt y tuyên bố Ngũ sự như đã quyết định tại Bồ lăng. Dân chúng reo hò mừng rỡ. Nhờ được tự do, đêm Long Vân trộm ngựa trốn về Văn sơn. Y tập họp quân sĩ lại, chuẩn bị kéo đi chiếm lại Khâu bắc. Y gửi người đến cầu cứu với Thiên phu Mông cổ đóng tại Chiêu dương. Hai bên hợp nhau tái chiếm Khâu bắc. Đại sư Huệ Đăng, Như Lan, Ngũ hổ tướng Khâu bắc đem quân chống lại. Trận chiến suốt một ngày, phần thắng nghiêng về phía Long Vân thì Dã Tượng, rồi Ngưu binh xuất hiện. Dã Tượng gặp lại Ngưu binh thì mừng chi siết kể. Chàng hỏi : – Hai năm qua anh đi vắng, ở nhà có gì xẩy ra không ? Một thiếu nữ da ngăm đen, mắt sáng như sao, cổ đeo tù và, lưng đeo kiếm, ngực nở căng, dáng người thanh nhã hành lễ quân cách : – Đô thống Lê Linh Anh, vệ trưởng vệ Ngưu binh thống thuộc đạo Tinh cương, tham kiến Trần thống lĩnh. Dã Tượng đưa mắt hỏi Cao Mang : – Là ? Là ai vậy. Cao Mang bật cười : – Khi anh lên đường thì em thay anh thống lĩnh Ngưu binh. Ngưu binh được phân chia cho mỗi hiệu binh một vệ. Hĩm Còi chỉ huy vệ của hiệu binh Tinh cương. Triều đình thấy các tướng trâu đều có hàm cả mà cứ dùng tên Cu, Hĩm, Trâu, Cái nghe không thuận, mới đặt cho mỗi đứa một tên. Còn họ thì giữ nguyên. Hĩm Còi có tên là Lê Linh Anh. Hĩm Cao có tên Vũ Linh Hương. Hĩm Lùn có tên Trần Linh Trang. Hĩm Rỗ có tên Phạm Linh Phong. Hĩm Hô có tên Hoàng Linh Thạch. Dã Tượng nắm lấy tay Linh Anh : – Ôi mới có hai năm mà em tôi lớn lên, xinh đẹp thế này đây. Thì em cứ gọi anh là Dã Tượng, anh vẫn gọi em là Hĩm Còi nghe hay hơn. Có tiếng nói thanh thoát bên cạnh : – Anh Dã Tượng ơi ! Anh thử nhìn lại cô em Linh Anh một tý nào ? Về hàm cô đã là Đô thống. Về nhan sắc, cô là thiếu nữ xinh đẹp, thân thể nở nang. Thế mà anh cứ gọi là Hĩm Còi nghe không thuận tý nào cả. Thúy Hồng đã đến từ hồi nào. Nàng cỡi trên lưng một chiến mã cướp được của Mông cổ. Nghe Thúy Thúy Hồng trách, Dã Tượng vội bỏ tay Hĩm Còi ra, vì bây giờ nàng không còn còi nữa, mà là một thiếu nữ dậy thì như hoa mới nở khoe sắc. Bất giác chàng so sánh Hĩm Còi với Thúy Hồng: cả hai đang tuổi dậy thì, cùng tươi như hoa ban mai. Nhưng Thúy Hồng có vẻ đẹp ủy mị, còn Hĩm Còi thì đẹp hồng hào, tươi thắm. Ba anh em Dã Tượng trở lại con thuyền lưỡi liềm, thì thuyền đã không còn đậu ở bên sông nữa. Địa Lô than : – Trong khi chúng ta mải tiếp cứu đạo quân Khâu bắc thì bọn Hat San đã bỏ trốn. Phải sai chim ưng báo cho Thủy quân Tống ở Chiêu thông chặn bắt cho ta mới được. Thúy Hồng than : – Nguy qua ! Y phục, vàng bạc, cũng như sắc lệnh, thư tín của chúng ta đều ở trên thuyền. Bọn Hat San sẽ nộp cho Mông cổ. Lê Linh Anh an ủi Thúy Hồng: – Chị đừng lo! Từ khi phái đoàn rời con thuyền thuê của người Thục di chuyển sang con thuyền lưỡi liềm, thì Đại đởm thập tam kiệt được lệnh Vũ Uy vương âm thầm theo dõi trong bóng tối, đề phòng rất cẩn thận rồi. Linh Anh hỏi Thúy Hồng: – Em nghe nói chị là một ca nhi nức danh Kinh bắc. Không biết chị học võ với ai mà khinh công đến trình độ em chưa từng thấy qua. Lúc chị xung sát, em thấy chị chỉ xử dụng những chiêu số rất tầm thường của phái Sài sơn, nhưng nhờ công lực thâm hậu, nên khi kiếm của chị chạm vào vũ khí bọn Mông cổ, thì vũ khí của chúng bị văng ra xa. Thúy Hồng đã học được 24 pháp của Mật tông. Nàng vận khí nhìn mọi người, thấy trong tâm họ đều thắc mắc. Cao Mang thì : “Con bé xinh đẹp này chỉ mới học được mấy cái múa. Nhưng nội công thì thâm hậu vô cùng”. Địa Lô thì nghĩ : “ Con bé này học đâu được Thiền công giống Thiền công Tây tạng”. Nàng trả lời: – Đúng như anh Cao Mang nghĩ, em chỉ mới học được mấy đòn căn bản và ba bài quyền của phái Sài sơn. Còn anh Địa Lô đoán em học Thiền công giống Thiền công Tây tạng quả không sai. Đó là Mật công chính tông của Tây tạng. Địa Lô, Cao Mang giật mình, vì Thúy Hồng đọc được ý nghĩ mình. Cao Mang nói với Dã Tượng, Địa Lô: – Anh cả, chú năm. Em thấy từ khi đến Chiêu thông tới giờ Thúy Hường có những thay đổi rất lạ lùng, rất mau. Trước hết là phong thái, trước kia thì phong thái của một ca nhi, đằm thắm, dịu dàng, toát ra nét thanh tao của một giai nhân. Bây giờ thì gương mặt phong quang rạng rỡ, mắt chiếu ra tia sáng ngời, tóc óng mượt, da mịn màng, dáng đi nhẹ nhàng như lướt trên đất. Nhìn chung thì Thúy Hồng mất hết những nét thế tục của một ca nhi, một hoa khôi, mà tư thái hơi giống một Quán thế âm Bồ tát. Cả đoàn kéo về tiếp thu Văn sơn. Khi đoàn người đổ đèo vào thung lũng Văn sơn thì Thúy Hồng chỉ về phía trước reo lên : – Dã Tượng, anh coi kìa ! Nhìn theo tay Thúy Hồng, Dã Tượng thấy xa xa cờ Đại Việt la liệt trên các cây cao. Dã Tượng hỏi đại sư Huệ Đăng: – Phải chăng đại sư đã kinh lý Văn sơn? – Không, bần tăng chưa chiếm được Văn sơn. Khâu bắc ngũ hổ tướng chia nhau, Lý Đại, Lý Anh, Lý Hùng theo Dã Tượng tiếp thu Văn sơn. Còn Lý Hào, Lý Kiệt đem quân Khâu bắc trở về nơi đồn trú. Đoàn người sắp tới châu Văn sơn thì thấy binh sĩ hiệu Tinh cương đóng thành hai ba khu khác nhau. Vương phi Vũ Uy cùng bốn nàng Thanh Nga, Thúy Nga, Thúy Trang, Hồng Nga đều mặc võ phục, cỡi ngựa. Thanh Nga thấy Dã Tượng, thì không tự chủ được, nàng thúc ngựa tới cạnh chàng. Nàng định lên tiếng, nói ra nỗi nhớ nhung sau thời gian dài xa cách, nhưng trước mặt nhiều người, nàng gọi: – Anh! Anh! Em… Dã Tượng đâu phải là gỗ, chàng nhìn Thanh Nga với tất cả thương yêu: – Cô em tiên nữ. Em mặc võ phục đẹp quá! Vương phi hỏi: – Cháu, sao tới chậm vậy? Dã Tượng kinh ngạc hỏi: – Thì ra chú thím. Dã Tượng mừng rỡ: khi cháu thấy quân Văn sơn, Khâu bắc dàn ra đánh nhau. Quân Khâu bắc có Ngưu binh yểm trợ, cháu chỉ đoán rằng Khu mật viện Bắc cương gửi Ngưu binh sang trợ chiến thôi. Nào ngờ… Vương phi mỉm cười: – Chú thím đang trên đường đi Côn minh, thì nhận được tin tức của cháu, nên quay trở về. Trên đường đi chú điều đạo Tinh cương, Đại đởm thập tam kiệt tại Bắc cương lên đóng sát biên giới đề phòng biến cố. Khi chú biết tên Lý Long Vân trốn về Văn sơn đem quân tái chiếm Khâu bắc, chú điều đội kị mã Long biên với Ngưu binh chặn đường rút lui của Mông cổ. Còn hiệu Tinh cương tiến vào giải phóng Văn sơn. Vương phi thấy ba trong Thiên trường ngũ ưng thì mừng lắm: – Ba cháu vào mau, vương gia đang chờ các cháu. Tuy chỉ làm chúa hai châu Văn sơn, Khâu bắc, nhưng tổ tiên bọn họ Thân trải qua năm đời cai trị, nên tài vật súc tích. Họ xây dựng cung điện nguy nga giống như Hoàng thành Thăng long: cung Long thụy, Long an, điện Giảng võ, Khu mật viện. Vương phi Ý Ninh chỉ Khu mật viện: – Vũ Uy vương đang chờ các vị trong đó. Vũ Uy vương đứng dậy chắp tay chào đại sư Huệ Đăng: – A di đà Phật. Đệ tử Trần Nhật Huy xin ra mắt đại sư. – Không dám! Bần tăng từ vạn dặm xa xôi, đã từng được nghe danh tiếng của đại vương như sấm động bên tai. Hôm nay được bái kiến thực vinh hạnh vô cùng. Vương hướng Như Lan: – Quận chúa! Hai chục vạn dân hai châu Văn sơn, Khâu bắc được thấy ánh sáng mặt trời một phần lớn do công lao của quận chúa. Quận chúa là hiện thân của công chúa Bình Dương, Kim Thành, Trường Ninh, Thiên Ninh, Đoan Nghi. – Đa tạ vương gia quá khen. Hằng ngày phụï vương luôn nhắc nhở chúng tôi rằng tuy sống cách biệt với đất nước, tuy thành danh nơi quê người, nhưng không bao giờ được quên mình là giòng giống Tiên Rồng. Dã Tượng trình bầy tất cả những diễn biến tứ khi tuân chỉ Vũ Uy vương lên đường đi sứ: nào là gặp Tô Lịch thất tiên bị tên Trịnh Ngọc tuân lệnh Ngột Lương Hợp Thai giải đi cống cho Hốt Tất Liệt. Nào là gặp Hoa sơn ngũ hiệp giải cứu Thất tiên. Nào là cuộc họp với Vương Kiên: Đại Việt sẽ trao hơn nghìn cao thủ Trung nguyên về với Tống, để họ chống Mông cổ bảo vệ quê hương. Nào là Đại Việt huấn luyện, trang bị Hoa kiều thành một hiệu binh, tương lai sẽ trở về nước chiến đấu. Nào là đại sư Huệ Đăng, quận chúa Lý Như Lan chiêu mộ Khâu bắc ngũ hổ bỏ Lý Long Vân về với triều đình. Nào là kiềm chế Lý Long Vân. Nào là gặp Mộ Hợp Mễ An Hat San. Cuối cùng là giải phóng dân chúng hai châu Khâu bắc và Văn sơn. Vũ Uy vương mỉm cười: – Thế bọn Hat San với Tô Lịch thất tiên đâu? Dã Tượng lột mũ chịu tội: – Cháu sơ ý, thành ra y trốn mất. Vương ban chỉ: – Chúng ta ra sân. Sân Khu mật viện khá lớn. Trước sân trái, Long Vân cùng cả triều đình của y bị trói ngồi cúi gầm mặt xuống. Bên phải bọn Hát San cùng Tô Lịch thất tiên cũng bị trói. Dã Tượng kinh ngạc: – Ai đã bắt bọn này? Vũ Uy vương chỉ Đại đởm Thập tam kiệt: – Còn ai vào đấy nữa? Thúy Hồng thấy trong đám người bị trói có cả sư A Hàm La, nàng đến trước Vũ Uy vương, vương phi quỳ gối rập đầu binh binh tay chỉ vào sư: – Vương gia! Vị này là một đại hòa thượng người Tây tạng. Tây tạng bị Mông cổ chiếm, ngài có hạnh nguyện sang phương Đông hoằng dương đạo pháp, nên đi nhờ thuyền của bọn Hat San. Ngài là sư phụ của Thúy Hồng. Vương gia không nên hành tội ngài. Vũ Uy vương phi đỡ Thúy Hồng dậy. Còn vương thân cởi trói cho sư, tay chắp: – A Di đà Phật. Chúng tôi đều là Phật tử. Duyên may đại sư giá lâm Đại Việt. Chúng tôi kính thỉnh đại sư về Thăng long thuyết pháp. Đại sư Huệ Đăng đến trước sư A Hàm La hành lễ. Vương đưa mắt cho Thúy Hồng mời sư vào điện Kinh dương, cử người phục thị. Vương hỏi Đại đởm thượng tướng quân Nguyễn Thiên Sanh: – Tướng quân bắt bọn này như thế nào? Nguyễn Thiên Sanh cáo với vương: “ Khi Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang, Thúy Hồng lên khỏi con thuyền. Nàng Thanh Hoa gọi Hát San hạ lệnh: – Chúng nó đi hết rồi. Đạo sư mau cho thuyền nhổ neo trở lại Kim sa giang, chúng ta đi Độ khẩu gấp. Chúng quay trở lại có đuổi theo chúng ta cũng không kịp. Hat San hô thủy thủ dương buồm, người người ngồi vào mái chèo, chèo khẩn cấp. Thuyền đi nhanh vùn vụt. Được khoảng 10 dặm thì thấy một đoàn kị mã 13 người phi ngược chiều từ phía thượng lưu. Phía hạ lưu, một đoàn trâu đang lồng đuổi theo, trên lưng mỗi trâu là một thiếu nữ, lưng đeo đoản đao. Đoàn 13 kị mã đều dương cung, buông tên. Các dây buồm bị đứt hết. Thuyền quay ngang. Mũi ủi vào bờ. Nữ tướng trâu hỏi người chỉ huy 13 kị mã: – Anh Sanh! Anh hay thực. Mười ba kị mã bỏ ngựa nhảy xuống thuyền. Bọn thủy thủ chưa kịp phản ứng thì đã bị kiềm chế. Hat San hỏi: – Các người là kị binh nào? Kị binh Tống, hay Mông cổ? Người cầm đầu kị mã quát: – Mộ Hợp Mễ An Hat San. Người từng ở Đại Việt, chắc người có nghe danh Đại đởm thập tam kiệt chứ? Hat San tỉnh ngộ: – Thì ra tướng quân là Nguyễn Thiên Sanh đấy! – Đúng vậy. – Tướng quân ơi! Xin tướng quân tha cho bọn tôi. Tôi sẽ tạ tướng quân một ngàn lượng vàng. Tên Trịnh Long thấy Nguyễn Thiên Sanh mải nói, y rút dao đâm vào lưng Sanh. Nhưng Sanh mặc áo giáp, dao đâm trúng lưng kêu lên một tiếng chát. Sanh giật mình tung vào ngực y một cước. Tên Trịnh Long bay ra xa, quằn quại mấy cái rồi nằm im. Tên Trịnh Ngọc chạy lại đỡ con dậy, thì chỉ còn thấy mắt tên Trịnh Long trợn ngược. Ngực bị trấn động. Mụ Mỹ Liên tu lên khóc : – Oái con ơi ! Con chết thảm thế này đây. Thiên Sanh thấy tên Long mắt mở thao láo thì cười : – Nó chưa chết đâu. Mụ rút kiếm lao tới tấn công Thiên Sanh trả thù cho con. Nhưng mụ bị các dũng sĩ Đại đởm bao vây, chỉ ba hiệp mụ bi bắt sống. Thiên Sanh ra lệnh khám thuyền, trói Hat San cùng thuyền phu lại, dẫn giải lên bờ . Một dũng sĩ Đại đởm hỏi : – Anh Sanh, trong thuyền còn 7 cô gái, các cô xưng là vương phi, là đại phu nhân Đại Việt. Bọn em không dám lùa các cô ra. Xin anh phát lạc. – Lùa lên bờ như bọn thuyền phu. Ngay từ tuổi 15, nổi tiếng tài sắc nhất Thăng long, Tô Lịch thất tiên luôn nhận được người đời chiều chuộng, trân trọng. Mấy năm sau, các nàng tổ chức tuyển phu, chỉ một sáng một chiều, trở thành vương phi, đại phu nhân, luôn được người xung quanh kính trọng, hầu hạ. Ngay cả lúc bị Mông cổ bắt, cũng vẫn được nâng niu. Đây là lần đầu tiên các nàng bị đối xử bằng vũ lực. Vốn hách dịch đã quen, các nàng uất ức khóc rấm rức. Hồng Hoa hỏi Nguyễn Thiên Sanh : – Người có phải là Đại đởm thượng tướng quân không ? – Đúng vậy. – Tướng quân có phải là người dưới quyền của Vũ kị thượng tướng quân không ? – Đúng vậy. – Tướng quân có biết tôi là phu nhân của Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách không ? – Biết ! Biết từ mấy năm trước rồi. – Tôi hỏi tướng quân : tôi phạm tội gì mà tướng quân lùa tôi như lùa vịt thế này ? Nói rồi Hồng Hoa chỉ từng người trong Thất tiên giới thiệu với Thiên Sanh. Thiên Sanh đưa mắt hỏi Lê Linh Anh : – Hĩm Còi ! Anh là đàn ông thô lỗ. Em giải quyết vụ này dùm anh. Linh Anh mỉm cười : – Để đấy cho em. Nàng hất hàm chỉ Hồng Hoa ra lệnh : – Đúng ra thì chúng ta chỉ lùa các người như lùa vịt thôi. Nhưng mụ này hách dịch quá, ta phải áp dụng quân luật. Trói mụ lại. Nữ Ngưu binh trói Hồng Hoa. Hồng Hoa hỏi : – Ta phạm tội gì mà bọn mục đồng các người trói ta ? – Tội nằm ngửa, dâng trôn cho quốc tặc. Linh Anh chỉ Hoàng Hoa, Thanh Hoa hỏi : – Hai mụ này là ai? Hai nàng Hoàng, Thanh Hoa tưởng Linh Anh cũng dễ bắt nạt như Thiên Sanh, nàng hách dịch: – Là phu nhân của Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh và Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm. Linh Anh ra lệnh. – Trói. Hai nữ Ngưu binh túm lấy Hoàng, Thanh Hoa, bẻ quặt tay ra sau trói lại. Tiếp tục, Linh Anh ra lệnh trói tất cả Thất tiên. Thanh Hoa nổi giận: – Bọn mục đồng thô lỗ kia. So với phu quân của chúng ta, bọn mi chỉ là tiểu tốt, nhỏ như con kiến, chưa đáng giặt váy cho bọn ta. Thế mà bọn bay dám trói ta ư? Được chúng ta sẽ nói với phu quân chúng ta chặt những cái đầu rẻ như củ chuối của các người, ném xuống sông cho cá rỉa. Linh Anh điểm mặt mặt các tiên: – Các mụ tự thị làm chủ tấm nhan sắc nghiêng nước ư? Các mụ tự thị cầm ca nhất Đại Việt ư? Những cái đó chỉ có giá trị với đàn ông đa tình. Còn đối với bọn mục đồng như chúng ta, chúng ta biết các mụ là bọn chuyên nằm ngửa, bán trôn cho thiên hạ mà thôi. Bây giờ chúng ta đang đuổi giặc, bắt được các mụ đang chạy trốn với giặc, chúng ta không chặt đầu là may rồi. Vẫn chưa hả giận, Linh Anh tiếp – Các mụ tự thị là phu nhân của thân vương, đại tướng quân, hầu tước, rồi lên mặt hách dịch với bọn mục đồng này ư? Ta hỏi các người câu này nhé: các người có biết rằng tướng ngoài mặt trận được toàn quyền xử tử tội nhân không? Các người có biết ta là Ngưu tướng không? Thanh Hoa vẫn không chịu thua: – Bọn mục đồng hôi thối kia! Các người có gan thì giết chúng ta đi. Linh Anh rút con dao đeo ngang hông: – Được, đễ quá! Con Hĩm Còi này không giết các mụ đâu. Nó chỉ rạch trên mặt mỗi mụ hình con chó đang chổng mông ỉa, rồi bôi vôi lên cho thành sẹo. Bấy giờ các mụ sẽ ba phần giống người, bẩy phần giống quỷ. Sau đó nó đưa các mụ về Thăng long, dẫn đi khắp phố phường rao: ai coi Tô Lịch bẩy chó ỉa ra xem này. Dân chúng sẽ chỉ chỏ: Ôi trên đời sao lại có bẩy mụ chó ỉa thế kia. Liệu phu quân các người có còn sủng ái các mụ nữa không? Nói rồi Linh Anh sẽ đưa con dao quét qua má Thanh Hoa. Thanh Hoa rú lên kinh hoàng. Trong nhất thời bẩy nàng Tô Lịch tự nhủ: – Mình có đẹp là đẹp với bọn đàn ông. Chứ đối với bọn mục đồng này thì chúng chỉ biết xua trâu đánh giặc. Nhan sắc, cầm ca vô dụng với chúng. Thôi đành nín nhịn cho qua”. Bạch Hoa hỏi vương phi Ý Ninh : – Tôi là vương phi của Nhân Huệ vương. Vương là nghĩa tử của Thượng hoàng, thì là em của vương gia. Chúng ta là chị em dâu. Tôi tuy là phận em, nhưng tôi lớn tuổi hơn vương phi. Thế mà vương phi để bọn đầu trâu mặt ngựa Nguyền Thiên Sanh làm nhục em dâu thế này đây ! Luật lệ, quy củ của giòng họ Đông a là như thế sao? Vương phi Ý Ninh biết rằng bẩy nàng Tô Lịch đã trải qua thời gian dài ở Quán văn. Cả bẩy từng tiếp xúc với đủ mọi loại người từ vương tôn, danh sĩ đến bọn du thủ du thực rồi mới lên ngôi phu nhân, vương phi. Dĩ chí các nàng cam tâm làm thê thiếp cho bọn tướng Mông cổ, thì mình khó mà đấu khẩu với họ. Phi nói nhỏ nhẹ: – Em ơi! Chúng ta là chị em dâu, đó là tình nhà. Còn đây là chiến trường. Trên chiến trường thì quân luật phải được thi hành. Vũ Uy vương tuy là chúa tướng, nhưng không thể vì tình riêng mà dẵm lên phép nước. Em bị bắt khi cùng trốn chạy với giặc, thì thuộc thẩm quyền của Đại đởm thượng tướng quân Nguyễn Thiên Sanh và Đô thống Ngưu binh Lê Linh Anh. Chị vô thẩm quyền. Khi vương phi Ý Ninh đối đáp với Bạch Hoa, thì Linh Anh đứng sau phi. Nàng cầm con dao nhỏ đưa qua, đưa lại trên má mình, miệng mỉm cười, ngụ ý: ta sẽ rạch mặt mấy mụ. Bẩy nàng tiên uất khí lên tận đỉnh đầu, nhưng tự biết hoàn cảnh không thể đem lý ra trong lúc này. Vũ Uy vương truyền Thanh Nga, Thúy Trang cởi trói cho bẩy nàng Tô Lịch: – Các vị là vương phi, là đại phu nhân. Các vị cần làm gương cho tướng sĩ, cho trăm họ. Bây giờ các vị phải chịu một cuộc thẩm vấn về những gì đã làm trong thời gian qua. Đô thống Lý Thúy Hồng và Lê Linh Anh sẽ chấp cung các vị. Nghe Vũ Uy vương nói, Tô Lịch thất tiên tự biết sắc đẹp, ca hát vô ích trong trường hợp này. Bẩy nàng ngoan ngoãn theo Thúy Hồng, Linh Anh. Vũ Uy vương nói với Hat San: – Đạo sư! Tội trạng của đạo sư chưa rõ ràng. Xin đạo sư hãy trả lời với Đô thống Cao Mang và Công chúa Lý Như Lan. Dù sao cũng còn quốc pháp. Đạo sư đừng lo sợ bị oan uổng. Vương nói với Lý Long Vân và triều đình của y: – Tội ác tổ tiên bẩy đời của họ Thân quá rõ ràng. Mấy hôm trước chính Thái tử đã công bố việc hai châu sát nhập vào cương thổ Đại Viêt. Triều đình ban chỉ ân xá cho Thái tử và 7 đời tổ tiên. Thế mà Thái tử còn trốn về Văn sơn điều quân làm phản. Quân hai châu chết có đến hơn trăm. Cô gia giao các người cho quận chúa Lý Như Lan với Tướng quân Dã Tượng chấp cung. Tội trạng nặng nhẹ thế nào đã có luật pháp định. Sau hơn một tháng, các cuộc thẩm cung hoàn tất. Vũ Uy vương gửi tấu chương về Thăng long, xin chỉ dụ của triều đình. Phải hai tháng sau, các bản án mới được Thượng hoàng duyệt. Sứ giả là Thượng thư Tả thừa Lê Phụ Trần, mang chiếu tưởng thưởng cho tướng sĩ, cùng bản án các tội phạm. Lễ nghi tất. Sứ giả đọc chiếu chỉ của Thiệu long hoàng đế. Trước hết triều đình ban chỉ phủ tuất gia đình những người tử trận trong cuộc nội chiến Khâu bắc, Văn sơn. Truyền khu đất giữa Bắc cương với Văn sơn nằm trong vùng tam biên Đại Việt, Đại lý, Tống trước thuộc Đại lý dân chúng hỗn hợp gốc tộc Thái, Việt, Hán, được thành lập một châu mới tên Chiêu dương. Châu Chiêu dương, Khâu bắc, Văn sơn sát nhập vào cương thổ Bắc cương, thành Trấn Văn Bắc thuộc lãnh địa trấn nhậm của Vũ Uy vương, Truyền lập đền thờ vua Hùng, vua An Dương, vua Trưng, Tám vua triều Lý tại mỗi châu. Truyền ân xá cho tất cả những người từng nghe lời dụ dỗ, lừa dối của phỉ đồ họ Thân trốn khỏi Đại Việt. Những người này muốn ở lại hay về cố hương tùy ý. Tài sản tại cố hương trước bị tịch thu, nay được trả về. Truyền ân xá cho những người phạm thường tội dưới thời họ Thân dù thành án hay chưa. Truyền tha thuế cho ba châu trong vòng một năm. Truyền phá rừng khai năm con lộ lớn từ Bắc cương sang ba châu mới. Hàng hóa, gia súc, nông phẩm, kim khí giữa Bắc cương với ba châu tự do mua bán. Truyền Bộ lễ, bộ Binh khẩn thành lập học chế văn võ cho ba châu. Quân đội tại ba châu được tổ chức thành một Hiệu, mang tên hiệu Văn bắc. Đặt trực thuộc tòa Tổng trấn Bắc cương. Hiệu Văn bắc gồm: ba Quân mang tên Khâu bắc, Văn sơn, Chiêu dương (mỗi Quân có ba Vệ bộ binh, một vệ kị binh, 1 vệ ngưu binh, 1 vệ Thần nỏ, 1 lượng Đại đởm). Binh bộ Đại Việt sẽ huấn luyện trang bị cho Hiệu Văn bắc. Mỗi châu tùy địa lý, sắc dân sẽ chia ra làm làng, xã, tổng. Tổng trấn Bắc cương Vũ Uy vương sẽ bổ nhiệm mỗi châu một châu trưởng. Bổ nhiệm một Tuyên vũ sứ cho Trấn Văn Bắc. Các quan lại cũ tùy theo tài năng, vẫn được trọng dụng. Bất cứ hoàng thân, tướng sĩ, văn võ quan lại nào phân biệt đối xử với dân chúng trong ba châu đều bị cách chức, phạt trượng từ 10 đến 100. Phạt tiền từ một quan đến 100 lượng vàng. Căn cứ vào chỉ dụ của triều đình, Vũ Uy vương cùng vương phi cân nhắc, bàn đi tính lại với Dã Tượng, Địa Lô rồi bổ nhiệm cho Hà Bổng, người đã có công đầu cùng vương phá Mông cổ mấy năm trước vào chức Tuyên vũ sứ trấn Văn Bắc kiêm châu trưởng châu Văn sơn. Hà Đặc, em Hà Bổng vào chức châu trưởng Khâu Bắc. Người em thứ nhì của Hà Bổng là Hà Chương làm châu trưởng châu Chiêu dương. Sau đó sứ giả tuyên chiếu thăng thưởng cho những người có công: Vũ Uy vương Chức tước cũ là: Thái tử thiếu bảo, Đồng bình chương sự, Phụ quốc thượng tướng quân, Tước Vũ Uy vương, trao cho trấn ngự Bắc cương. Nay đổi thành: Thái tử thái bảo, Đồng bình chương sự, Võ hiển đại học sĩ, Bắc cương Tiết độ sứ, Trấn Bắc đại tướng quân, Tước Vũ Uy vương. Trấn ngự Bắc cương. Sát nhập Chiêu dương, Khâu bắc, Văn sơn vào Bắc cương. Vương phi Ý Ninh, được gia phong: Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Đại đởm thượng tướng quân Nguyễn Thiên Sanh thăng lên Đại tướng quân. Tước An xuyên bá thăng lên An xuyên hầu. Các Đại đởm dũng sĩ thăng lên cấp Vệ úy. Trần Quốc Kinh (Dã Tượng) mới được thăng hàm Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân. Nay giữ nguyên. Ban cho tước Khâu bắc bá, hưởng lộc châu này. Nguyễn Địa Lô, được thăng lên Văn bác thượng tướng quân, tước Văn sơn Nam. Aên lộc châu Văn sơn. Cao Mang, được thăng lên Chiêu võ thượng tướng quân, tước Chiêu dương Nam. Aên lộc châu Chiêu dương. Lý Như Lan, được phong Quang minh, Trang liệt, Hồng anh công chúa. Lê Linh Anh (Hĩm Còi) được thăng lên giữ chức Phó thống lĩnh Ngưu binh, tước Nghi tàm quận chúa. Lý Thúy Hồng, thăng hàm Đô thống, tước Trang văn, Hồng hạnh Dương xá Quận chúa. Cha mẹ có công nuôi dạy con thành người của Xã tắc, được ban cho 15 mẫu ruộng nhất đẳng điền. Hàm Tam tư. Đại sư Huệ Đăng được phong: Thông huyền, Đại hạnh Quốc Sư, Kính thỉnh đi khắp nơi hoằng dương đạo pháp Đức Thế Tôn. Sau phần thăng thưởng tới phần xử phạt. “ Xử tội Lý Long Vân và chân tay ác độc của y gồm 18 tên: Thân Long Vân cùng toàn gia bị xử trảm. Tài sản xung vào công khố. Chân tay, bộ hạ y chỉ bị xử trảm. Còn gia thuộc được ân xá. Tài sản vẫn được giữ nguyên. Án thi hành ngay trong ngày”. Về vụ xử bọn Hat San, Thất tiên, triều đình lấy lý rằng hai vụ án này có quá nhiều uẩn khúc, vì vậy ủy cho Tòa Tổng trấn Bắc cương cử thành phần xét xử tại chỗ. Bản án sẽ tấu về triều sau khi thi hành. Trước hết xử vụ Hat San. Vũ Uy vương nại lý do Hat San là một đạo sư nên cử: Chánh thẩm: Đại sư Huệ Đăng. Hai Phụ thẩm: Vương phi Ý Ninh đại diện tòa Tổng trấn Bắc cương. Một trong Ngũ hổ tướng Khâu bắc Lý Đại, coi như đại diện cho dân chúng Khâu bắc, Văn sơn, Chiêu dương. Công tố : Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân, Khâu bắc bá, Trần Quốc Kinh (Dã Tượng) Chấp cung: Chiêu võ thượng tướng quân Cao Mang, tước Chiêu dương Nam. Quang minh, Trang liệt, Hồng anh công chúa Lý Như Lan. Cuộc sử sẽ diễn ra công khai, dân chúng được vào xem. Chấp cung, công chúa Lý Như Lan trình bầy: “ Trên con thuyền lưỡi liềm có tất cả 51 người. Thì một là đại sư A Hàm La chỉ là người tỵ nạn, đáp thuyền từ Tây tạng sang Đông phương hoằng dương đạo đức Thế tôn. Xin tòa chuẩn cho hạnh nguyện của Đại sư . Còn 50 người thì trong đó có Hat San với ba người nữa là đạo sĩ Hồi giáo làm Tế tác cho Mông cổ. Còn lại 17 người đều là nhân viên Tế tác. Mười chín phu gốc người Tây tạng, Đại lý, Hán là người làm công, vô tội”. Sau khi thẩm vấn các chính phạm, tất cả đều khai giống nhau: “Mộ Hợp Mễ An Hat San gốc người Hồ ở Tây vực . Con trai thứ ba của đạo sĩ tổng giáo phận miền nam Hồi quốc. Đi tu từ nhỏ. Năm 14 theo luật Hồi giáo được kế tục cha làm Tổng sư giáo phận. Cưới 5 vợ. Năm 20 tuổi tổ chức 10 thương đoàn buôn bán khắp vùng Tây vực, tới Chiêm thành, Chân lạp, Đại Việt, Trung nguyên, Đại lý, Tây tạng. Cơ sở tại Thăng long rất lớn, có tới 50 người phục vụ. Là một thương gia ngoan, nộp thuế đầy đủ. Chưa từng phạm tội. Khi thân vương Mông cổ Tốc Bất Đài tuân chỉ Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Hồi quốc, lập thành một nước trong Kim trướng. Tốc Bất Đài thấy phạm vi giao thương của Hat San quá lớn, thì để cho tồn tại với ba điều kiện: – Một là biến cơ sở tại chính quốc thành một tổ chức Tế tác của Mông cổ. – Hai là tất cả các thương đoàn đều phải nhận một hay hai người của Tế tác . – Ba là mỗi cơ sở ngoại quốc, đều phải thu dụng ít nhất một hay hai người của Tế tác. Dù thương đoàn, dù cơ sở ở đâu cũng phải thu lượm tin tức về vua chúa, tổ chức đồn trú quân đội, đời sống dân chúng, gửi về chính quốc cho Mông cổ. Vì vậy cơ sở tại Thăng long thu dụng tới ba đạo sư và mười bẩy nhân viên Tế tác Mông cổ. Muốn có tin tức, Hat San bỏ tiền ra nay đãi tiệc, mai tặng quà cho các thân vương, hoàng tộc, tướng sĩ, quan lại. Vì vậy Hat San được tiếng là người hiền lành, hào phóng nhất Đại Việt. Từ niên hiệu Thiên ứng chính bình thứ 6 (1237), sau khi nhà vua tuyển ca nhi Mai Đông Hoa vào cung, khắp nước rộ lên phong trào mở Quán văn. Các kĩ viện là nơi bán dâm, đều nhận được lệnh Phủ thừa Thăng long phải đóng cửa. Kĩ nữ bán dâm bị cấm tuyệt. Các Quán văn trở thành nơi ngâm thơ, bình phú, luận văn. Thân vương, văn quan, võ tướng, phú gia đều tụ về đây hưởng cái thú thanh nhã. Những cô gái ca hát không phải là gái bán dâm, mà là những ca nhi ngâm thơ, bình phú, đọc sách. Hay những tiểu thư khuê các mượn Quán văn tuyển phu. Hat San thấy muốn có tin tức quan trọng phải thâm nhập vào các Quán văn. Y bỏ tiền ra đến nghe hát thường trực. Mỗi khi cùng bạn hữu ăn xong, y đều kiếm cớ thưởng tiền cho tiểu bảo, đầu bếp thực hậu. Ca nhi nào y cũng trân trọng tặng tiền, vàng, bạc. Các ca nhi xinh đẹp, bằng mọi giá, mọi cách y mua thân thể cho được. Khi các cô tay đã nhúng chàm, y mới dạy cách sưu tầm tin tức từ những thân vương, đại thần võ tướng. Mỗi khi nhận được tin quan trọng, y thưởng cho các cô những món tiền lớn. Tại Quán văn Tô Lịch, y phải mất cả nghìn vàng mới mua chuộc được Tô Lịch thất tiên. Cả bẩy cô đều thất thân với y bằng những nén vàng, chuỗi ngọc. Hồi Tô Lịch thất tiên treo bảng tuyển phu, không những y không cản mà còn khuyến khích. Khi các cô trở thành vương phi, phu nhân; y mới đe dọa: phải tiếp tục cung cấp tin tức cho y, nếu không cái án bán dâm lộ ra, không bị voi dầy ngựa xé thì cũng mất địa vị vương phi, phu nhân. Còn như tiếp tục, thì còn được thưởng vàng, bạc, châu báu. Thế là y ra vào vương phủ, dinh thự dưới cái vỏ ngoài thương gia dâng tặng vải vóc, lụa là, thực vật thời trân. Tin tức gì của triều đình y cũng biết. Y âm thầm chuyển cho Mông cổ. Khi Thất tiên được Hoa sơn ngũ hiệp cứu ra đưa đi Bồ lăng là lúc y đang từ Kinh châu vào Thục. Con trai, con dâu, cháu nội y báo cho biết sự tình: nếu không cứu được Thất tiên thì cả ba sẽ bị chém đầu, các cơ sở thương mại của y tại Trung quốc sẽ không thể hoạt động được nữa. Vì vậy y phải dùng con thuyền lưỡi liềm theo sát con thuyền của Dã Tượng. Khiếp sợ trước võ công, mưu trí của Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô, y ra lệnh cho Hồng Hoa đánh thuốc độc hai người, và thuyền phu. Chỉ chừa lại Lý Thúy Hường vì là người có nhan sắc diễm lệ, cầm ca tuyệt đỉnh. Nhưng không hiểu sao, Hồng Hoa đã bỏ thuốc độc vào nước uống cũng như thực phẩm mà không ai chết”. Công tố Khâu Bắc bá Dã Tượng đứng lên chỉ vào mặt các chính phạm: – Thưa quý tòa, những người này đều phạm tội đại hình. Cầm đầu là bốn giáo sĩ Hồi giáo. Tín đồ Hồi giáo tin rằng thế giới chúng ta sống do một vị Thượng đế quyền năng tối cao cai trị, họ gọi là A La. Kinh Cổ lăng của Hồi giáo rất huyền diệu, dạy con người sống theo đạo đức, không thua gì Phật giáo, Khổng giáo. Nhưng bọn giáo sĩ lợi dụng tín đồ tuân phục, bắt họ làm những điều ác độc. Cái ác độc nhất là bắt bắt giáo chúng làm Tế tác cho Mông cổ. Các đạo sư này đi khắp nơi, đội lốt đi rao giảng đạo, để rồi khi bị bắt lại hô hào giáo chúng chịu chết dưới danh nghĩa tử đạo. Hôm nay, những người này thành tội phạm của Đại Việt. Phạm nhân được phân ra: Chính phạm: – Mộ Hợp Mễ An Hat San (Mohamed Al Hassan) 55 tuổi, trưởng giáo Hồi giáo, đại thương gia. Trưởng Tế tác Mông cổ Đại Việt. – Mộ Hợp Mễ An Ac Linh (Mohamed Al Arlinh), 45 tuổi, phó trưởng giáo Hồi giáo, phó trưởng Tế tác Mông cổ Đại Việt. – Cổ Mễ Linh (Komeini) , 41 tuổi, đạo sĩ Hồi giáo, trưởng Tế tác Mông cổ vùng Thăng long. – Sa Đa Hac San (Sadat Hassan) , 37 tuổi, đạo sĩ Hồi giáo, trưởng Tế tác Mông cổ vùng Đại lý. 17 người Hồi Tế tác. – Trịnh Ngọc 35 tuổi, vô nghệ. – Ngu Mỹ Liên, kĩ nữ, vợ Trịnh Ngọc. – Con Trịnh Ngọc là Trịnh Long 17 tuổi, vô nghệ. Tất cả can phạm 10 tội quy định trong bộ Hình thư. Trong đó 3 tội thuộc loại Thập ác phải chịu án lăng trì. 5 tội phải chém ngang lưng, 2 tội bị chặt tay. Riêng Mỹ Liên bị cho voi dầy. Tòng phạm: – 19 phu người Tây tạng, Đại lý, Hán. Chỉ vì nghèo khó mà phải tha phương cầu thực. Xin được ân xá cho về cố lý. Đại sư Huệ Đăng lấy ý kiến của hai phụ thẩm rồi tuyên án: “ Xét bản cung từ thì 19 phu người Tây tạng, Đại lý, Hán, vì miếng cơm manh áo mà làm công cho Hat San nghĩ cũng đáng thương. Tất cả đều vô tội. Tòa truyền ân xá. Tuyên vũ sứ Khâu bắc trích vàng ngọc trên con thuyền lưỡi liềm cho mỗi người một trăm lượng bạc làm tiền lộ phí về nguyên quán. Còn như ai muốn ở lại Đại Việt, cũng được ban cho làm người Việt”. 19 phu hướng về Thăng long lạy tạ hoàng ân. Thanh Nga dẫn cả 19 người ra ngoài. Sư Huệ Đăng tuyên án: “ Tòa y đề nghị của công tố, tất cả chánh phạm đều bị xử lăng trì. Tuy nhiên Đại Việt hoàng đế mới lên ngôi, cho cải tội danh thành trảm. Duy Mỹ Liên cho voi dầy. Bản án thi hành ngay ngày mai”. Nghe tuyên án, Cổ Mễ Linh nhìn tất cả tử tội rồi nói lớn bằng tiếng Hồi. Địa Lô dịch lại: – Chúng tao là con cháu A La, chúng tao phải theo Mông cổ chỉ vì muốn đi truyền giáo. Chúng mày cứ giết chúng tao đi, chúng tao sẽ được lên Thiên đàng. Thị vệ quát: – Trước tòa, các người không được nói lời vô lễ. Vương phi Ý Ninh xua tay cho Thị vệ: – Trước tòa, các can phạm được tự do phát bểu ý kiến. Nhược bằng can phạm vô lễ, tòa sẽ căn cứ vào hành vi vô lễ mà xử trị. Không nên ngăn cấm người ta nói. Cổ Mễ Linh quay lại nói với đám người Hồi: – Các con ơi! Các con thực là may mắn được tử đạo. Các con sẽ được lên Thiên đàng. Nào chúng ta hãy đọc kinh cầu xin A La chứng giám cho. Nói dứt y xướng lên trước, tất cả đám người Hồi đọc theo. Trên cao từ Hat San cho tới các can phạm Hồi, mặt người nào cũng hớn hở, tươi tỉnh tỏ ra sảng khoái vô cùng. Không một người nào kinh sợ. Tên Trịnh Ngọc tu lên khóc: – Cha ơi con không muốn chết. Cổ Mễ Linh nạt: – Thằng hèn mạt kia! Mi từ chối lên Thiên đàng sao? Vương phi Ý Ninh hỏi: – Có ai chống án không? Gã Trịnh Ngọc với vợ dơ tay xin chống án. Chiều hôm ấy Vũ Uy vương họp tất cả mọi người, bàn phương cách đối phó với bọn Hồi . Vương nói: – Đám người Hồi này thực là những trang nam nhi can đảm. Họ lại có đức tin vào A La của họ. Họ sẵn sàng chịu chết, cũng như chúng ta thà chết chứ không đầu hàng giặc. Chúng ta phải làm gì ? Địa Lô xuất ra trong bọc một tập sách : – Trong khi khám xét con thuyền lưỡi liềm, thần lượm được tập sách này. Đây là kinh Cổ lăng (Coran) dịch sang Hán văn dùng để giảng đạo cho người Hán. Suốt mấy hôm nay thần đọc rất kỹ, thấy đạo lý của Hồi giáo rất cao siêu, có nhiều điều giống Phật giáo, Khổng giáo. Sách dạy giáo chúng tuân theo đạo đức của A La. Đạo đức không thua gì Phật, Khổng nữa. Tiếc rằng đám giáo sĩ này đi theo Mông cổ, rồi nhân danh A La bắt đệ tử đi vào đường tà. Vương phi Ý Ninh đề nghị : – Cháu cố tìm ra cách nào khuất phục đám này, hơn là giết họ. Ta phải chứng tỏ cho họ rằng quốc giáo Đại Việt là Phật giáo. Nhưng chủ đạo của tộc Việt là : tất cả tôn giáo có truyền thống đạo đức đều được truyền bá. Nguyên thủy chúng ta lấy tôn thờ anh hùng dân tộc, thờ kính tổ tiên, ông bà làm chủ đạo. Sau này Phật giáo truyền vào, chúng ta mở rộng cửa đón đạo vàng của đức Thế tôn. Bây giờ chúng ta cũng sẵn sàng đón rước anhlinh đức A La và chư thánh Hồi giáo. Nhưng dù tăng, dù ni, dù đạo sĩ đều phải tôn trọng luật nước. Kẻ nào phạm pháp đều bị xử tội. – Cháu tìm ra rồi, nhưng hơi bá đạo một chút. – Cháu thử nói xem ! – Người theo đạo Hồi có đức tin mãnh liệt vô cùng. Khi họ được tử vì đạo thì linh hồn sẽ được lên Thiên đàng với đấng A La, thoát khỏi vòng sinh tử, sống lâu bằng trời đất. Họ sẽ được A La thưởng cho 72 mỹ nữ hầu hạ. A La của họ giống như Ngọc Hoàng thượng đế của ta. Nhưng nếu khi chết mà thân thể của họ bị dính máu heo (lợn) thì không được lên Thiên đàng nữa. Vương phi Ý Ninh bật cười : – Thím hiểu rồi. Vậy ta ủy việc này cho Đại đởm đại tướng quân An xuyên hầu Nguyễn Thiên Sanh thi hành bản án. Mục đích khuất phục họ hơn là phải giết họ, ta giữ họ lại, dùng họ làm lợi cho ta. Vũ Uy vương từng chỉ huy Đại đởm đại tướng quân An xuyên hầu Nguyễn Thiên Sanh một thời gian lâu. Vương biết hầu can đảm có dư, tài năng ít ai bằng. Nhưng hầu ít mưu kế. Nên vương cho mời hầu với Địa Lô vào trướng, nói rõ chủ ý của vương : muốn khuất phục bọn Hồi, để biến họ từ người của Mông cổ thành người của mình. Quả nhiên vị tướng này rất thích thú với nhiệm vụ của mình, nhưng mưu kế thì ông không có. Địa Lô thì mưu kế có thừa. Thế là hai người bàn bạc suốt đêm. Hôm sau, giờ mão, Nguyễn Thiên Sanh vào nhà giam nói với tất cả 21 tử tội Hồi : – Các người sắp bị chém đầu. Tôi được chỉ định làm giám trảm. Các người được thong thả ra pháp trường, không bị trói. Đám Hồi thản nhiên : – Tướng quân cứ chém. Chúng tôi không sợ chết đâu. – Mỗi ngày tôi xử tử một người. Tôi rất khâm phục lòng can đảm của các người. Bây giờ tôi để các người được tự do ra ngoài tắm rửa, cầu nguyện. Đến giờ Mùi (13-15 giờ ngày nay) các người cùng rút thăm. Ai trúng sẽ được tử đạo ngày hôm nay. Đám người Hồ vui vẻ kéo nhau ra suối tắm rửa. Buổi trưa họ được ăn một bữa cơm thịnh soạn có thịt cừu, thịt gà. Đến giờ mùi, An xuyên hầu Nguyễn Thiên Sanh sai Đại đởm thập tam kiệt điệu tất cả 21 người ra một bãi đất gần khu nghĩa địa. Có một cái hố đã đào sẵn rất sâu. Đạo sĩ Cổ Mễ Linh tuy trẻ tuổi, nhưng là người có địa vị cao nhất. Y đứng lên tảng đá giảng đạo. Nội dung y khích lệ giáo chúng rằng sắp được tử đạo. « Sau khi bị hành hình, linh hồn sẽ lên thẳng Thiên đàng. Thiên đàng là nơi có trăm vạn hoa thơm cỏ lạ, hằng triệu muông thú xinh đẹp. Con người sống tại Thiên đàng không bao giờ bệnh tật. Tại Thiên đàng, con gái sẽ trẻ mãi không già và xinh đẹp vô cùng. Ai tử đạo đều trở thành thánh, được A La thưởng cho 72 cô gái Hu-mi đẹp như hoa nở » Giảng xong y hô giáo chúng quỳ xuống làm lễ. Lễ mấy trăm lần rồi y đứng dậy nói với Nguyễn Thiên Sanh : – Tướng quân muốn chém ai trước xin ra tay. Thiên Sanh gọi Thúy Trang : – Em cho họ rút thăm. Thúy Trang bưng ra cái hộp, nàng nói, Địa Lô dịch sang tiếng Hồi: – Các vị con cháu của A La nghe đây: trong hộp có 21 cái thăm. Chỉ một cái vẽ hình giáo chủ Mộ Hợp Mễ. Còn lại là 20 thăm trắng. Ai rút trúng thăm có hình giáo chủ sẽ thụ hình ngày hôm nay. Ai trúng thăm trắng chờ ngày mai rút tiếp. Nói xong nàng đưa rổ cho từng người rút. Sau khi người cuối cùng rút, nàng hô lớn: – Mở thăm. Một viên Tế tác tên Mộ Hợp Mễ An Sa Phi (Mohamed Al Safy) reo lớn: – Tôi được lên Thiên đàng hôm nay. Y đưa thăm có vẽ hình thánh Mộ Hợp Mễ cung cung kính kính ngang đầu. Mặt y hiện ra vẻ hớn hở tươi cười. Thiên Sanh điểm huyệt y, rồi để trước hố. Địa Lô đọc bản án bằng tiếng Việt lẫn tiếng Hồi. Mộ Hợp Mễ An Sa Phi reo mừng: – A La! Con sắp được bệ kiến ngài. Nhưng đao phủ chưa xuống tay. Có hai Đại đởm dắt một con lợn ỉn ra. Con lợn đen thui, béo đến đi không nổi. Đám tử tội mở to mắt nhìn, họ tự hỏi: bọn Đại đởm sắp làm gì đây? Tại sao lại đem con vật dơ bẩn ra làm gì ? Con lợn bị đẩy đến trước cái hố. Thiên Sanh hô lớn: – Chém. Môt Đại đởm vung đao lên, đầu con lợn ỉn đứt ngọt, rơi xuống, máu từ cổ lợn phun khắp hố. Một người khác vung chân đá, thân con lợn ỉn văng xuống theo. Lại Đại đởm khác múa đao đưa một nhát, đầu Mộ Hợp Mễ An Sa Phi đứt lìa rơi xuống hố đầy máu heo (lợn). Đao phủ có chân đá một cái, thân hình y cũng rơi xuống. Có bốn Đại đởm xúc đất lấp lại. Biến cố đột ngột, Đại đởm hành sự quá mau, khiến đám Hồi không kịp lên tiếng. Bây giờ chúng mới hò hét phản đối. Nguyễn Thiên Sanh hú lên ba tiếng: – Các người đừng vội la hét. Hãy đợi một lát rồi la hét cũng chưa muộn. Lại hai Đại đởm dắt ra hai con lợn ỉn thực lớn. Hầu chỉ hai con lợn nói: – Ngày mai tôi sẽ cho mổ bụng hai con lợn này ra, lấy bộ lòng băm nhỏ, trộn với huyết. Người nào rút thăm có hình tiên tri Mộ Hợp Mễ, thì bị chặt làm hai, tẩm cơ thể bằng huyết lợn, lòng băm; sau đó nhét xác vào bụng lợn, rồi đem chôn sống. Hầu hú lên một tiếng, hai Đại đởm dắt ra hai con hổ. Hầu chỉ vào hổ nói: – Ngày kia ai rút thăm được thọ hình, thì xác sẽ bị băm nát ra với một con lợn, rồi đem hai ông kễnh này xơi. Đám tử tội Hồi mặt nhìn mặt kinh hãi, nói không lên lời. Địa Lô nói lớn: – Này các tử tội nghe đây! Nếu các người chịu khuất phục, thì sẽ được ân xá. Bằng không các người sẽ bị Đại đởm đại tướng quân xử tội cùng với lợn thì đừng hy vọng gì lên Thiên đàng. Đại đởm thập tam kiệt lùa đám tử tội vào ngôi nhà giam như cũ. Địa Lô núp ở ngoài, ghé mắt nhìn vào trong. Đám người Hồi ngồi thành hàng ngay ngắn. Bốn giáo sĩ ngồi đối diện với 16 giáo chúng. Đạo sĩ Cổ Mễ Linh thở dài hỏi Hat San: – Cái tên sứt môi là ai? Tại sao y lại hành sự lạ lùng như vậy? An Hat San lắc đầu: – Đó là tên tướng can đảm hung dữ vô cùng. Từ tướng tới quân Mông cổ nghe danh y đều kinh hãi. Một giáo chúng nói: – Đạo sư ơi! Làm sao bây giờ? Chúng con sẵn sàng tử đạo. Nhưng tử đạo mà bị chôn với heo thì linh hồn đời đời kiếp kiếp bị sa Địa ngục. Chúng con tử đạo hóa ra vô ích. Hat San đề nghị: – Hay chúng ta gặp Vũ Uy vương, xin đới tội lập công. Tội gì chúng ta phải trung thành với Mông cổ, để chết rồi bị chôn với heo? Cổ Mễ Linh nhìn đám giáo chúng: – Các người hãy yên tâm. Sáng mai ta sẽ giải quyết vụ này. Các người sẽ không bị chôn với heo đâu mà sợ. Đến đó một Đại đởm vào nói: – Kính mời bốn vị đạo sư sang nghỉ tại phòng khác. Bốn đạo sư bị giam riêng. Trong phòng giam có bốn cái giường cho bốn đạo sĩ. Một cái bàn lớn, có bốn cái ghế. Suốt ngày hôm đó đám đạo sĩ không được cho ăn, cũng không được cho uống. Cả ngày hôm sau, họ cũng không được ăn uống gì. Cả bốn người đói quá, chân tay run lẩy bẩy. Buổi chiều Nguyễn Thiên Sanh tới. Hầu hỏi: – Các đạo sư! Thế nào? Sức khỏe có tốt không? Hat San nói với Nguyễn Thiên Sanh: – Chúng tôi đói quá rồi, xin tướng quân cho chúng tôi ăn. – Yên tâm. Hầu chỉ ghế: – Mời các đạo sư ngồi, tôi mời các vị xơi một bữa cơm. Ngày mai không chừng các vị rút thăm trúng, sẽ bị chém đầu chôn với heo. Đầu bếp bưng món ăn vào. Địa Lô giới thiệu: – Trong mâm này có bốn món ăn tuyệt ngon của Đại Việt đãi các vị trước khi lên Thiên đàng. Đĩa thứ nhất là đầu heo luộc, chấm với mắm tôm chanh. Đĩa thứ nhì là chả quế, dĩ nhiên bằng thịt heo. Đĩa thứ ba là thịt heo kho Tầu với trứng vịt. Bát thứ tư là canh lòng heo nấu miến. Mời quý vị xơi. Đám đạo sư hét lên: – Cho tôi ăn cái gì cũng được. Chúng tôi không ăn thịt heo. – Thịt heo là món ăn trân quý của người Việt. Chúng tôi trọng các vị, mới mời ăn, sao các vị chê? Nói rồi hầu cầm đũa gắp một miến thịt kho tầu ăn ngon lành. – Ngon lắm mời các vị xơi đi. Nói rồi hầu cùng mọi người ra khỏi phòng. Cửa khóa lại. Hôm sau khi mặt trời đã lên cao, Thập tam Đại đởm đến nhà tù lùa 19 tử tội Hồi hột ra nghĩa địa. Địa Lô thấy trong phòng giam bốn đạo sĩ, ba đĩa thịt luộc, chả quế, thịt kho Tầu, cũng như bát miến đều hết sạch. Hat San nói: – Đại tướng quân! Đại tướng quân cho chúng tôi yết kiến Vũ Uy vương. Chúng tôi chịu khuất phục, chúng tôi xin làm tai mắt cho Đại Việt. – Yết kiến gì? Khi tòa đã tuyên án thì không thể có cái vụ xử lại. Toà nhân danh Đại Việt hoàng đế thì Vũ Uy vương không thể và không có quyền phá án. Mau ra nghĩa địa, chôn vào bụng heo! Cổ Mễ Linh hô: – Các con cháu A La cùng ngồi xuống. Chúng ta ôm lấy nhau, thì không ai có thể kéo chúng ta ra hố chôn với heo. Nguyễn Thiên Sanh cười nhạt: – À, bọn bay thi gan với ta hẳn? Bọn đầu trộm đuôi cướp đứng đầu Đại Việt ta còn trị được huống hồ chúng bay. Ta mà thua chúng bay thì ta sẽ chui qua háng tụi bay. Đem ra cho ta một con lợn ỉn. Một con lợn ỉn được dẫn ra. Hầu chỉ con lợn nói lớn. Địa Lô dịch lại : – Các dũng sĩ Hồi nghe đây ! Các người là con yêu của A La. Các ngươi tôn thờ A La từ nhỏ. Nếu sau này các ngươi chết sẽ được lên Thiên đàng. Nhưng các người mê muội nghe theo mấy tên đạo sĩ hôi thối, bỏ quê hương ra đi để làm Tế tác cho Mông cổ. Mấy tên đạo sĩ này phục thị cho Mông cổ để được buôn bán, làm giầu, nuôi cho thân béo mập, mỗi đứa có tới 5 con vợ. Trong khi các người chỉ được nuôi đủ ăn. Bây giờ phải tội chết thì các người bị chôn với heo, đời đời kiếp kiếp ở địa ngục. Có đúng thế không ? Đầu bếp lại bưng ra một mâm để trước mặt đám tử tội. Hát San nhận thấy trong mâm có đủ bốn món ăn như hôm qua. Y đưa mắt nhìn ba đạo sĩ đồng bọn như ngụ ý nói : không xong rồi. Địa Lô chỉ mâm thịt hỏi bốn đạo sĩ : – Hôm qua chúng tôi đã đãi bốn vị một mâm như thế này có phải thế không ? Bốn vị đã ăn thịt heo, không những ăn mà còn ăn nhiều. Vậy các vị nghĩ sao ? Một giáo chúng hỏi : – Các đạo sư ăn thịt heo ư ? Nếu vậy thì các vị không còn tư cách làm thầy chúng tôi nữa. Đạo sư Sa Đa Hut San cãi: – Nói láo, chúng ta không hề ăn thịt heo bao giờ! Thiên Sanh nổi cơn điên, nắm áo nhắc Hut San lên : – Được, tao sẽ mổ bụng mày ra cho mọi người xem. Nếu trong bụng mày không có thịt heo, thì tao sẽ tự mổ bụng tao. Còn như trong bụng mày có thịt heo, thì tao chôn mày với heo. Quả nhiên Sa Đa Hut San lắp bắp: – Có! Có. – Có gì ? – Đêm qua, quả bốn chúng tôi có ăn những món thịt heo như trong các mâm kia. Đám tử tội la hét : – Các người không thể xưng là đạo sư nữa ! Người hèn hạ. Các người đánh lừa chúng ta. Đến đó Vũ Uy vương xuất hiện. Vương nói với Nguyễn Thiên Sanh : – An xuyên hầu. Xin hãy ngừng tay. Đạo sư Sa Đat Hut San đã hối hận. Hãy để cho cô gia giải quyết vụ này. Vương cung kính mời tất cả các tử tội Hồi hột vào Khu mật viện Văn sơn. Khi bọn Hồi hột đi rồi, Địa Lô nhìn Đại đởm thập tam kiệt cùng cười rú lên : – Thành công ! Thiên Sanh nắm tay Địa Lô : – Chú em ! Hồi đầu chú em bảo sao anh làm vậy. Không ngờ kết quả lại đẹp thế. Trong đại sảnh Khu mật viện Văn sơn, Vũ Uy vương, vương phi, Dã Tượng, Cao Mang, Địa Lô ngồi chủ vị tiếp bốn đạo sư Hồi giáo cùng 16 giáo chúng. Các đạo sư đều đã ở Đại Việt lâu năm, nên không cần thông dịch. Vũ Uy vương mở đầu : – Các vị đạo sư. Cô gia mời các vị vào đây là mời những người con của A La, là mời những đệ tử của thánh Mộ Hợp Mễ. Đại Việt kính trọng đấng A La, hâm mộ đạo đức của thánh Mộ Hợp Mễ. Vì vậy ngay khi các vị tới truyền giáo, triều đình để quý vị được tư do. Đứng trước án tử hình, bị chôn với heo, bốn đạo sư kinh hoàng như như sét đánh ngang đầu. Bây giờ được Vũ Uy vương tiếp đãi bằng lời lẽ ôn nhu, ngọt ngào. Cả bốn cùng nhìn nhau với vẻ hân hoan, tự hỏi : bọn Việt định làm trò gì đây ? Hat San chắp tay : – Đa tạ Hoàng đế, đa tạ vương gia. – Cô gia hiểu, đất nước các vị bị Mông cổ chiếm đóng, rồi áp chế các vị phải làm Tế tác cho họ. Vì mạng sống của gia đình, của mình, vì sự tồn tại của cơ sở thương mại, mà các vị phải bỏ cái địa vị đạo sư cao quý, làm gian tế cho họ. Việc bị lộ, các vị bị tòa án kết tội tử hình. Thực đáng tiếc. Các vị định sao ? Sa Đa Hút San : – Chúng tôi mười phần chết, mà được vương gia đối xử thế này, thì vương gia dạy chúng tôi phải làm bất cứ điều gì để chuộc tội, chúng tôi cũng làm. Văn sơn Nam Địa Lô đem ra tấm bản đồ : – Đây là Đại Việt. Từ Đại Việt sang Hồi quốc phải đi qua Đại lý, Tứ xuyên. Dường như đã lâu, các vị chưa về quê hương. Các vị cũng không biết rõ tình hình Mông cổ thì phải. Nam trình bầy tình hình phân hóa của Mông cổ chia làm ba bốn khu. Vùng Hồi quốc hiện thuộc Kim trướng, ở về phương tây, gần như biệt lập với chính quốc của Mông Ca. Còn chính quốc thì Mông Ca với Hốt Tất Liệt đang giằng co, chưa biết thắng bại về ai. Vũ Uy vương kết luận : – Các vị làm Tế tác cho Mông cổ là Mông cổ Kim trướng. Các vị cứ tiếp tục. Chúng tôi sẽ giúp các vị lấy tin tức của Mông cổ Hốt Tất Liệt giúp quý vị. Chúng tôi giúp các vị qua lại, buôn bán trong vùng Tây tạng, Địa lý, Trung nguyên. Các vị sẽ thu lượm tin tức của Hốt Tất Liệt cho chúng tôi. Khi các vị làm việc cho Đại Việt, các vị được Đại Việt bảo vệ tính mạng, tài sản. Án tử hình của các vị hủy bỏ kể từ lúc này. Cả bốn đạo sư Hồi hột cùng thụp xuống tạ ơn Vũ Uy vương. Ngay chiều hôm sau, vương phi tổ chức một buổi họp gồm tất cả văn võ bá quan, để nghe đạo sư Sa Đat Hut San giảng về nguồn gốc Hồi giáo, kinh Cổ lăng, đạo đức ý nghĩa của tháng chay Ra ma đăng. Bẩy nàng Tô Lịch cũng được mời tham dự. Các nàng vò đầu bứt trán cũng không hiểu tại sao đám người Hồi đang từ tử tội, lại biến thành khách quý, được tôn trọng. Sau buổi thuyết giảng, nhóm Hồi hột được cho nhà ở, được cấp lương thực, được tự do đi lại trong khu vực Văn sơn. Hơn tháng sau, tòa xử Tô Lịch thất tiên. Chánh thẩm : Vương phi Ý Ninh. Tước phong Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Phụ thẩm : Lý Như Lan tước phong Quang minh, Trang liệt, Hồng anh công chúa, và đô thống Lê Linh Anh tước phong Nghi tàm quận chúa. Chấp cung : Trang văn, Hồng hạnh, Dương xá quận chúa Lý Thúy Hồng. Công tố : Văn bác thượng tướng quân, Văn sơn Nam Nguyễn Địa Lô. Tòa vừa tuyên bố khai mạc, thì Bạch Hoa lên tiếng hỏi vương phi Ý Ninh: – Theo luật Đại Việt khi xử một người có chức quyền, thì chánh thẩm phải là người có hàm cao hơn phạm nhân một bậc. Trong Thất tiên, thì tôi là vương phi, ba người là vợ hầu tước, hai người là vợ của Chưởng môn, phó Chưởng môn một võ phái. Chánh thẩm Ý Ninh chỉ ngang hàng với tôi, vì tôi là vương phi Nhân Huệ vương. Ý Ninh không thể ngồi xử tôi. Tôi không chấp nhận phiên tòa này. Quận chúa Lý Thúy Hồng trả lời: – Này bị cáo. Bị cáo chỉ là một thứ thiếp của Nhân Huệ vương. Bị cáo chưa được triều đình phong cho hàm phẩm gì, sao có thể so sánh với vương phi Ý Ninh. Vương phi từng xung tên đụt pháo, lăn mình vào giữa trận tiền, rồi được phong hàm Hồng đức, Vũ thắng, Trang duệ công chúa. Mới đây lập đại công, được thăng lên Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Như vậy hàm phẩm của chánh thẩm cao hơn bị cáo nhiều. Bạch Hoa vẫn cãi cố: – Dù Ý Ninh được phong hàm, phẩm gì chăng nữa cũng vẫn là chị em dâu với tôi. Hơn nữa năm nay Ý Ninh mới 21 tuổi, còn tôi đã 24 tuổi. Hồi thứ sáu mươi bốn Luật thời Trần Vương phi Ý Ninh thấy Bạch Hoa có lý, đành tuyên bố bãi phiên xử, xin triều đình cử người lên thay thế. Sứ gỉa đang chuẩn bị lên đường thì binh canh báo: – Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu và Linh Từ quốc mẫu giá lâm. Thúy Hồng hỏi Dã Tượng: – Là ai vậy? – Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu là hoàng hậu của Nguyên Tổ hoàng đế (Trần Lý), bà nội của Thượng hoàng, cụ của Vũ Uy vương. Anh phải gọi là Thái tổ mẫu (kị). Còn Linh Từ quốc mẫu là vương phi của Trung vũ đại vương Trần Thủ Độ. Người là Hoàng hậu của vua Lý Huệ tông, là sinh mẫu của vua Lý Chiêu Hoàng và Hiển Từ hoàng hậu. Thúy Hồng hà một tiếng: – Như vậy có thể mời Thái hậu ngồi xử Thất tiên, hoặc nhờ Linh Từ quốc mẫu cũng được. Quốc mẫu ở địa vị cao hơn Bạch Hoa đến hai bậc. Vũ Uy vương hô chư tướng ra đón. Lễ nghi tất. Linh Từ quốc mẫu nói với Vũ Uy vương: – Quốc thượng phụ (Trần Thủ Độ) đã đọc tất cả tấu chương của cháu. Người thỉnh Thái hoàng Thái hậu lên chủ trì vụ này. Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu nắm tay vương phi, ngài tát yêu phi như một đứa trẻ: – Trong các cháu dâu, già này kỳ vọng vào cháu nhiều nhất. Các công chúa, vương phi khác ngồi ở trong vương phủ, kẻ hầu người hạ, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Còn cháu, trời cho một tấm nhan sắc khuynh quốc, nhưng trời cũng cho cháu tấm lòng son đối với đất nước. Trận giặc vừa qua, cháu từng xung tên đụt pháo, lăn mình vào chỗ trăm chết, mới có một sống. Thực xứng đáng là con cháu vua Trưng. Ngài nói với vương: – Khi cháu lên đường, phụ hoàng cháu đã ban chỉ cho cháu phải làm những việc khó khăn vô cùng, thế mà cháu đã hoàn thành. Tuy nhiên ta hỏi: nếu như vợ cháu không phải là Ý Ninh, liệu cháu có thành công hay không? – Tâu không thể. – Cháu biết thế mới xứng là bậc anh hùng trấn ngự biên cương. Phải biết công vợ như biết công một tướng. Nào, chúng ta cùng duyệt lại kết quả. – Tuân chỉ Thái tổ mẫu. Trong căn phòng chỉ có Tuyên Minh, Linh Từ quốc mẫu, Vũ Uy vương, vương phi, Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang, năm nàng Đông hoa. Linh Từ quốc mẫu hỏi Vũ Uy vương: – Khi khởi hành, sứ đoàn có Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh. Bây giờ hầu ở đâu? – Tâu, vì người vợ kế của hầu là Hoàng Hoa phạm tội đại ác, thần nhi không muốn hầu đau đớn khi thấy người vợ phản bội mình. Vì vậy thần nhi để hầu lên đường gặp Hốt Tất Liệt trước. Còn thần nhi với Ý Ninh về đây giải quyết vụ Văn sơn, Khâu bắc, rồi sẽ lên đường sau. – Được! Ý Ninh, cháu trình bầy những chỉ dụ phụ hoàng đã trao cho hai cháu. Hai cháu đã hoàn thành được những gì? Còn những gì chưa hoàn thành. Ý Ninh tâu: – Phụ hoàng ban cho chúng cháu năm chỉ dụ. Chỉ dụ thứ nhất: Gây chia rẽ trong hoàng tộc Mông cổ, khiến các Hãn đem quân tàn sát nhau. Phần này thành công ngoài sức tưởng tượng. Người mà khắp thiên hạ gờm là hoàng đệ Hốt Tất Liệt. Y vừa có tài, lại có đức. Y nắm binh quyền ở Trung nguyên, điều binh đánh Tống hai mặt. Lãnh thổ Trung nguyên thì ba phần tư đã thuộc về Mông cổ: trọn Hoa Bắc, Sơn tây, Hán trung, Đông xuyên, Tây xuyên. Lãnh địa của Hốt Tất Liệt rộng gấp năm lần chính quốc Mông cổ. Dân chúng đông gấp mười. Binh lực của y hùng mạnh hơn binh mực của Mông Ca. Chính y sai Ngột Lương Hợp Thai đánh Đại Việt. Chúng thần đã khiến cho chúa Mông cổ nghi ngờ, thu binh quyền của y. Chân tay của y người thì bị xử tử, người thì bị cách chức. Khắp các mặt trận đều rối loạn. – Giỏi! Vương tiếp: “Bây giờ có hai trường hợp xẩy ra. Một là Hốt Tất Liệt đem quân làm phản. Như vậy toàn thể quân Mông cổ ở Trung nguyên sẽ trở giáo đánh với quân Mông cổ ở chính quốc. Quân Mông cổ ở chính quốc không đông bằng quân Mông cổ ở Trung nguyên. Nhưng Mông Ca có thể trưng binh từ các Hãn ở vùng Tây vực. Cuộc chiến sẽ hết sức thảm khốc, kéo dài ít ra vài ba năm, nhiều có khi tới hàng chục năm. Không chừng Mông Ca chỉ còn uy quyền ở chính quốc. Còn Hốt Tất Liệt sẽ làm vua Trung nguyên. Bấy giờ dù bên nào thắng, thì tinh lực Mông cổ sẽ yếu đi rất nhiều. Trong khi họ tương tàn, thì Tống, Đại Việt sẽ có dịp hợp tác, đánh chúng”. “Hai là y bị tước binh quyền. Tướng sĩ của y sẽ bị Mông Ca sa thải hay xử tử, tinh lực Mông cổ bị mất. Mặt khác người thay thế y không thể điều động được hệ thống tướng sĩ của y ». Ngài nhìn vương hỏi : – Các cháu làm thế nào mà được như thế? Phi trình bầy vụ Câu khảo cục, vụ dùng Thanh Nga, Thúy Nga đưa Tham tri chính sự Ngột A Đa vào lưới tình. Ngột A Đa lại lái A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình theo giúp. Hiện Hốt Tất Liệt đã bỏ mặt trận Đại lý, Đại Việt đang trở về Trung nguyên. Ta được yên. – Giỏi! Các cháu chỉ dùng hai giai nhân mà thành công bằng cả một đạo quân trăm vạn người. Ví dù Thanh Nga cũng như năm con bé có chết chăng nữa mà thành công vĩ đại như vậy ta cũng làm. Xưa kia Việt Vương dùng Tây Thi, mà phá tan một nước hùng mạnh. Tại sao ta không dùng các hậu thế của Tây Thi? Cháu phải nhớ rằng: Gái nước Việt yêu nước hơn yêu chồng. Đấy là nói chồng do cha mẹ kết hợp cho mà đã như thế, huống hồ đối với chồng xứ lạ. Vì sự nghiệp đất nước gái Việt phải lấy chồng ngoại sứ, thì không bao giờ họ bán rẻ đất nước cho mối tình cọc cạch đâu. Khu mật viện đã tâu lên Thượng hoàng. Hưng Đạo vương nhắc lại lệnh cũ: “Hốt Tất liệt là người tài trí. Y dùng Hán pháp mà thành công. Nếu y tiếp tục cầm quân ở Trung nguyên thì y sẽ đánh bại Tống. Bại Tống rồi y sẽ đánh Đại Việt. Vậy cần làm cho y bị thu binh quyền. Mông Ca sẽ thân chinh. Mông Ca không có tài, lại kỳ thị người Hoa, trong khi binh tướng Mông Cổ ở Trung nguyên là của Hốt Tất Liệt toàn người Hoa. Mông Ca không thể bại được Tống”. Ngài hỏi: – Thế Thanh Nga với bốn con bé đâu? Phi chỉ năm nàng Đông hoa: – Năm con bé Đông hoa hiện có mặt ở đây. Năm nàng Đông hoa đứng dậy chắp tay: – Bọn thần xinh kính cẩn bái kiến Thái hoàng Thái hậu. Thái hoàng thái hậu vẫy tay. Năm nàng đến trước mặt ngài. Ngài ngắm từng nàng một: – Thôi, ta muốn các cháu gọi ta là bà, nghe thân thiện hơn. Aáy à! Các cháu đẹp! Đẹp thực. Nói về nhan sắc thì các cháu ngang với Tô Lịch thất tiên. Nhưng Tô Lịch chỉ đẹp thể chất mà thôi. Còn cái đẹp về hồn thì thua các cháu xa. Xa lắm lắm. Nói đến đây, ngài ôm lấy từng người một: – Ta có năm đứa cháu thế này còn hơn có một kho vàng, một núi bạc. Thanh Nga chắp tay: – Chúng cháu còn nhỏ tuổi, không hiểu hết những lời nghị luận cao xa của tổ mẫu. Xin tổ mẫu thương xót chúng cháu mà giảng giải rõ hơn. – Được, các cháu có thấy những giống nhau và khác nhau giữa Tô Lịch với Đông hoa không? Nào Thúy Nga, trước hết cháu nói về những gì các cháu với Tô Lịch giống nhau cho bà nghe nào? Thúy Nga nói không cần suy nghĩ: – Chúng cháu với Thất tiên có ba điều giống nhau. Một là cùng có mỹ danh. Bẩy chị được danh sĩ Thăng long tặng cho tên Tô Lịch thất tiên. Họ tặng danh hiệu vì cả bẩy chị cùng đem nhan sắc cho họ mua vui. Thành ra cái danh tiên nghe mà không thấy hưng phấn. Còn năm cháu được Vũ Uy vương, vương phi Ý Ninh là hai anh hùng trấn ngự biên cương, một Đô thống thống lĩnh Ngưu binh Dã Tượng; cả ba đều oai trấn Hoa Việt ban cho chúng cháu, để khuyến khích, để kết hợp chúng cháu với nhau làm những truyện vá trời. – Giỏi. – Hai là Thất tiên với chúng cháu cùng xuất thân từ những trường dạy ca hát danh tiếng Thăng long. Nghệ thuật đàn ca cùng đạt tới mức tài hoa bậc nhất Đại Việt. – Giỏi. – Ba là Thất tiên với chúng cháu đều được trời ban cho tấm nhan sắc hiếm có. – Giỏi. Ngài nhìn Thúy Trang: – Bây giờ Thúy Trang, cháu hãy nói về những gì các cháu khác biệt với bẩy nàng Tô Lịch. – Dạ. Chúng cháu với Thất tiên có ba điều khác nhau. Thứ nhất năm đứa chúng cháu đều xuất thân trong gia đình gia giáo. Cha mẹ ước thúc chặt chẽ. Chúng cháu học ca hát chỉ muốn trở thành những đấng tài hoa, rồi treo bảng tuyển phu. Còn bẩy nàng Tô Lịch thì học ca hát để trở thành ca kĩ lầu xanh, đem lời ca tiếng hát cho thiên hạ mua vui, bán thân cho bất cứ ai có tiền. – Khá lắm. – Thứ nhì, bẩy nàng Tô Lịch bán thân cho cả bọn Hồi. Sau khi thành vương phi, đại phu nhân mà chưa hết lòng chồng, vẫn còn lang chạ với bọn dơ bẩn này. Khi bị Mông cổ bắt, các nàng không đoái hoài tới liêm sỉ. Đáng lẽ phải tự tử để tạ lòng chồng, thì lại hãnh diện, lấy việc dâng thân xác cho giặc, cho kẻ thù của Đại Việt làm vinh hạnh. Rồi bây giờ bị bắt, bị đem ra xử, lại mặt chai, mày đáù, chua ngoa, đòi được quyền của vương phi, phu nhân. Bọn cháu thì không thế. Chúng cháu đem tiếng hát, câu ca ra chiêu dụ tướng giặc, hóa giải ác tính của tướng giặc, kéo tướng giặc làm lợi cho đất nước. Nếu tương lai có vì đất nước mà kết hôn với tướng giặc thì cũng lợi dụng vị thế phu nhân mà giúp nước. Nếu có con, thì cũng dạy con hướng về đất tổ. Nếu lỡ bị giặc giết, thì trở thành liệt nữ vị quốc vong thân, cha mẹ, tổ tiên được phong tặng, hương đảng kính phục. Điều mà không phải nữ lưu nào cũng làm được. – Hà! Giỏi. – Thứ ba, bẩy nàng đã không lấy việc bán thân cho giặc là nhục nhã, lại còn ganh ghét nhau, hại nhau. Chính mình làm gian tế cho giặc lại đi tố cáo các bạn làm gian tế cho giặc. Chúng cháu thì năm đứa như một, thương yêu nhau, nhất định sẽ là cháu vua Trưng, con bà Triệu, cương quyết sẽ làm được những gì ích quốc lợi dân. – Khá! Bây giờ nếu bà gả các cháu cho người Mông cổ, người Tống. Các cháu có tuân không? Thúy Trang tỏ ra cương quyết: – Bà vì sự an nguy của Đại Việt mà gả chúng cháu cho người nước ngoài, thì cũng giống như bà sai chúng cháu ra trận. Chúng cháu nhất nhất tuân theo. Các nữ mục đồng thúc trâu xông vào muôn nghìn mũi tên, vạn vạn đao kiếm đánh giặc. Không lẽ chúng cháu lại tiếc gì tấm thân? Nhất định chúng cháu không làm xấu mặt con cháu vua Trưng đâu. Nói rồi nàng đưa mắt nhìn Dã Tượng như ngụ ý: – Anh ơi! Thanh Nga yêu anh! Ước mơ được làm vợ anh. Nhưng có một mối tình quan trọng hơn tình vợ chồng, đó là tình yêu nước. Nếu mai này Thanh Nga lấy Ngột A Đa, em chắc vì đại nghĩa dân tộc anh không buồn. Dã Tượng nhìn Thanh Nga mỉm cười tỏ ý hiểu cái nhìn của Thúy Trang. – Thế còn chỉ dụ thứ nhì? Ý Ninh, cháu tâu tiếp đi. – Chỉ dụ thứ nhì là: “Giúp Tống chống với Mông cổ, khiến cuộc chiến Mông-Tống kéo dài, càng dài càng tốt”. Chúng cháu kết thân với Tống bằng việc cứu Vương Kiên. Trong khi đó chúng cháu đề nghị triều đình khích Hoa kiều về nước chống Mông cổ, huấn luyện Hoa kiều thành một hiệu binh, đem hơn nghìn cao thủ võ lâm Trung nguyên về theo. Như vậy mặt trận Quan trung của Tống dư khả năng đánh bại Mông cổ. – Việc này ta cũng biết rất chi tiết. Thế chỉ dụ thứ ba? Vũ Uy vương trình: “Ngăn cản, tiêu diệt những kẻ chủ xâm lăng Đại Việt. Điều khẩn cấp làm sao cho Mông cổ bỏ ý định đánh Đại Việt”. Chúng cháu khích Thừa tướng hành tỉnh của Mông cổ là A Lan Đáp Nhi. Y cam kết: người chủ đánh Đại Việt là Hốt Tất Liệt. Bây giờ y bị giải binh quyền, thì người kế y không đủ khả năng đánh Đại Việt. Vương ngừng lại một lát rồi tiếp: “ Còn chỉ dụ thứ tư, thứ năm là: diệt bọn thổ phỉ họ Thân xưng khống rằng gốc con cháu triều Lý đã lập một nước mà lãnh thổ gồm hai châu Văn sơn, Khâu bắc. Lấy khu đất tam biên thành lập châu Chiêu dương. Sát nhập Văn sơn, Khâu bắc, Chiêu dương vào cương thổ Đại Việt thành Trấn Văn Bắc. Việc này đã xong”. Tuyên Minh ban chỉ: – Cháu đã biết rằng thế của ta với Tống như môi với răng. Môi Tống hở thì răng Việt lạnh. Triều đình nghị sự đưa ra ý kiến ta phải trợ giúp Tống chống Mông cổ. Nhiều vị đề nghị ta nên gửi một hay hai hiệu binh sang giúp Tống. Nhưng khi đi vào chi tiết thì có rất nhiều trở ngại. Một là binh tướng của ta sống ở vùng thấp nhiệt quen, bây giờ sang Tống, chiến đấu ở vùng khí hậu lạnh thì khả tác chiến giảm. Hai là binh tướng của ta không biết nói tiếng Trung nguyên. Ngôn ngữ bất đồng sẽ sinh ra những bất hòa. Ba là ngựa chiến, Kị binh, Ngưu binh ăn cỏ tươi, lúa, rau của ta quen rồi, bây giờ ăn cỏ khô của miền Bắc sẽ bị bệnh. Triều đình thỉnh ý kiến của Hưng Đạo vương. Vương lý luận: từ việc thu hồi trấn Văn Bắc, tổ chức binh, tướng của ba châu thành hiệu Văn Bắc. Tất cả binh lính hiệu này đều nói, viết thành thạo tiếng Hán. Kị mã, Kị binh, Ngưu binh vùng Văn Bắc khí hậu, rau cỏ đều giống như Trung nguyên. Vậy cháu có thể tăng viện hiệu Văn Bắc cho Tống. Vũ Uy vương tỉnh ngộ, vương hỏi: – Không biết hiệu binh Hoa kiều đã huấn luyện xong chưa? – Xong rồi! Ta còn huấn luyện hơn vạn tráng sĩ làm trừ bị, sẵn sàng bổ xung khi tổn thất. Hiệu binh này mang tên Thiệu Hưng. Thiệu Hưng là niên hiệu của vua đầu tiên của Nam Tống. Vương phi Ý Ninh tâu: – Hiện chúng cháu đang gặp trở ngại trong vụ xử Tô Lịch thất tiên. Vụ này đụng chạm quá lớn, vì bẩy người này đều là vương phi, phu nhân của các cột trụ Đại Việt: Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách, Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu, Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm, và hai đại tôn sư Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn. Mong bà xử lý cho. Tuyên Minh xua tay: – Không khó, trước khi lên đây ta đã hội ý với Thượng hoàng, với triều đình. Đối với bẩy con quỷ dâm dục Tô Lịch thất tiên ta không thể, không nên giết chúng, cũng không tha cho chúng. Các cháu phải hiểu rằng, chúng thiếu giáo dục căn bản, cho nên chúng không biết gì về giáo dục dân gian như tam tòng, tứ đức, liêm sỉ. Bởi thế làm sao chúng biết về truyền thống Lạc Long, truyền thống Lĩnh Nam, dĩ chí đến truyền thống vua Lê, vua Lý chúng cũng không biết là lẽ đương nhiên. Bây giờ đem chúng ra xử, thì nhẹ nhất chúng cũng bị voi dầy, ngựa xé. Bố, mẹ, anh em đều bị sát thân. Chồng thì bị xử tử, nhẹ thì bị cách hết chức tước đuổi về dân dã. Việc này làm rúng động đất nước. Ngài ngừng lại một lát rồi tiếp: – Vì vậy ta phải lên đây giải quyết. Ta quyết định, trước đem chúng ra tòa xử cho công minh, để chúng biết tội. Sau ta dùng cha mẹ, anh em chúng mà kiềm chế chúng; rồi đem chúng gả cho bọn Mông cổ. Ta ngồi trong bóng tối điều khiển chúng để biết nội tình Mông cổ. Cũng có thể dùng chúng xúi dục chồng chúng chống đối nhau. Khi chúng đới tội lập công, thì chồng cũ cũng được ân xá. Ngài chỉ Linh Từ quốc mẫu: – Vài hôm nữa, Tòa tổng trấn Bắc cương sẽ thiết lập phiên tòa xử chúng cho thực đúng tội. Ba hôm sau, phiên tòa xử Tô Lịch thất tiên được thiết lập. Chánh thẩm: Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Kim Dung. Phụ thẩm: Vương phi Trần Ý Ninh, tước phong Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Lý Như Lan tước phong Quang minh, Trang liệt, Hồng anh công chúa. Chấp cung: Đô thống Lý Thúy Hồng, tước phong Trang văn, Hồng hạnh Quận chúa và đô thống Lê Linh Anh, Ngưu tướng, tước Nghi tàm quận chúa. Công tố : Văn bác thượng tướng quân, tước Văn sơn Nam, Nguyễn Địa Lô. Bẩy nàng Tô Lịch được đưa ra trước tòa. Bẩy nàng đã từng biết Linh Từ quốc mẫu từ mấy năm trước. Bấy giờ quân Mông cổ phá vỡ phòng tuyến Phù lỗ, Cụ bản đang tràn về Thăng long. Quốc mẫu suất lĩnh nữ binh, di tản toàn thể hậu cung, vợ con tướng sĩ rời Thăng long, để triều đình rảnh tay đối phó với giặc. Nhưng bẩy nàng cãi lệnh, trốn tại Nghi tàm được giặc đón đi. Bây giờ Quốc mẫu ngồi ghế chánh thẩm thì bẩy nàng không thể già mồm được. Cả bẩy cùng cúi mặt xuống. Quận chúa Lý Thúy Hồng đọc bản cáo trạng: “ Bị cáo là Tô Lịch thất tiên gồm bẩy người đàn bà nhan sắc diễm lệ, nức tiếng tài sắc tại Thăng long. Theo thứ tự như sau: Hoàng Hoa, 24 tuổi, nhũ danh Lê Thị Phương Dung, vợ kế của Thái tử thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ, Đồng tri Khu mật viện, Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh. Bạch Hoa, 24 tuổi, nhũ danh Đặng Thị Anh. Thứ thiếp của Phiêu kị thượng tướng quân, Nhân huệ vương Trần Khánh Dư. Huyền Hoa, 24 tuổi, nhũ danh Vương Hoài Linh, kế thất của Thái tử thiếu sư, quản Khu mật viện, Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu. Thanh Hoa, 23 tuổi, nhũ danh Tô Kim Huệ, thứ thiếp của Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm. Hồng Hoa, 23 tuổi, nhũ danh Vũ Nguyệt Hương, thứ thiếp của Vũ kị thượng tướng quân Kiến phong hầu Lý Tùng Bách. Tử Hoa, 23 tuổi nhũ danh Cao Đại Nhu, thứ thiếp của Lê Kim Sơn, chưởng môn phái Sài sơn. Lan Hoa, 23 tuổi, nhũ danh Cao Thiếu Nhu, thứ thiếp của Lê Ngân Sơn, phó chưởng môn phái Sài sơn. Cả bẩy người đều xuất thân từ gia đình nghèo khó, nhan sắc kiều diễm; được các kĩ viện Tây hồ, Ngọc thụy, Nghi tàm mua về từ năm 13 tuổi, rồi cho học ca, nhạc tại những trường danh tiếng Thăng long. Sớm nổi danh tài sắc, treo cao giá ngọc, chỉ đàn hát không bán thân như kĩ nữ, quyết giữ trinh trắng. Thân vương, đại thần, danh sĩ thi nhau quẳng tiền qua cửa sổ để được nghe hát. Chủ Quán văn Tô Lịch bỏ ra nghìn vàng, mua các nàng về quán mình. Một nàng, đã quy tụ được nhiều khách tài tử, huống hồ cả 7. Thế là bẩy nàng được tặng cho mỹ danh Tô Lịch thất tiên. Tiếng đồn sang tới Trung nguyên, Mông cổ, Chiêm thành, Chân lạp. Bọn mặt dơi tai chuột làm gian tế cho Mông cổ hết lời ca tụng bẩy nàng, đẹp hơn Tây Thi khi xưa, đến nỗi vua Mông cổ là Mông Ca, hoàng đệ là Hốt Tất Liệt, A Lý Bất Ca từng ước ao sao đem được một nàng về làm phi tần. Trước hết tôi xin nhắc lại những trọng tội trong bộ Hình luật, có khoản nói về Thập ác. Bất cứ người nào, dù hoàng thân, dù có đại công cũng không được giảm khinh. Đó là: Đệ nhất Mưu phản. Đệ nhị Mưu đại nghịch. Đệ tam Mưu bạn. Đệ tứ Ác nghịch. Đệ ngũ Bất đạo. Đệ lục Đại bất kính. Đệ thất Bất hiếu. Đệ bát Bất mục. Đệ cửu Bất mục. Đệ thập Nội loạn. Trở lại với bẩy nàng nổi tiếng tài hoa, sắc nước hương trời. Nhưng đó là bề ngoài, sự thực vàng, ngọc đã làm các nàng tối mắt lại, bán rẻ cái danh, bán rẻ nét cao sang, cả bẩy nàng đã đem ngọc liên thành bán cho bọn Hồi tại Thăng long. Từ thời Lý, bọn Hồi từng đến Thăng long mở cửa hàng buôn bán. Bọn này da ngăm đen, râu tóc, lông lá như thú vật, khó kiếm được vợ. Chúng thường tới các kĩ viện tìm bọn kỹ nữ. Chúng chi rất rộng, vì vậy bọn gái bán thân thi nhau dâng hiến thân xác cho chúng để kiếm tiền. Trong các lái buôn Hồi thì tên Mộ Hợp Mễ An Hat San làm gian tế cho Mông cổ. Thành công nhất về thương trường, y sẵn sàng vung tiền ra để mua bất cứ kĩ nữ nào mà y muốn. Y đã nhiều lần tới Quán văn Tô Lịch nghe các nàng hát, y say mê các nàng đến điên đảo thần hồn. Y cậy mai mối quyết được gần các nàng với bất cứ giá nào”. Phụ thẩm vương phi Trần Ý Ninh truyền ngừng dọc bản cáo trạng, gọi nhân chứng Hat San vào. Phi hỏi: – Đạo sư Hat San. Đạo sư đã mua nàng nào đầu tiên, trong bẩy nàng Tô Lịch? – Thưa tòa, tôi mua nàng Tô Kim Huệ (Thanh Hoa) đầu tiên. Qua chân tay của cơ sở Thăng long, tôi biết cha mẹ Huệ nghèo khó. Nhà chỉ khá hơn từ khi Huệ về hát cho Tô Lịch. Mỗi tháng Huệ giúp cha mẹ được một hay hai lượng bạc. Người mai mối của tôi nói với cha mẹ nàng rằng nếu nàng chịu tiếp tôi một đêm tôi sẽ biếu cha mẹ nàng 10 lượng vàng. Phụ thẩm, công chúa Lý Như Lan hỏi: – Thông thường nhân chứng đến kĩ viện mua dâm thì trả cho kĩ nữ bao nhiêu tiền khi qua một đêm? – Một lượng bạc. – Một lượng vàng ăn mười lượng bạc. Như vậy nhân chứng trả gấp 100 lần. Thế cha mẹ nàng bằng lòng ngay hay còn treo cao giá? – Cha mẹ nàng vui lắm, nhưng Kim Huệ không chịu, nàng đòi 100 lượng vàng. – Nhân chứng chịu hay xin giảm giá? – Dạ tôi xin y giá, vì chữ trinh đáng giá nghìn vàng. Tôi ra điều kiện Kim Huệ phải xuống du thuyền sống với tôi trong nửa tháng. Ngã giá. Kim Huệ xin phép chủ Quán văn về thăm quê. Trong nửa tháng sống với Kim Huệ, tôi chiều nàng rất mực. Khi rời nhau, tôi tặng nàng chuỗi ngọc trai 120 viên, một đôi xuyến vàng. Từ đấy mỗi khi nàng qua đêm với tôi, tôi lại cho nàng 5 lượng vàng. – Còn lại sáu nàng, nhân chứng mua bằng cách nào? – Cũng giống như Kim Huệ, nhưng giá rẻ hơn. Chỉ trong vòng nửa năm, cả bẩy nàng đều trao thân cho tôi hết. Thế nhưng tất cả danh sĩ đế đô ai cũng tưởng sáu nàng còn trinh trắng cao quý vô cùng. Vương phi Ý Ninh hỏi: – Một mình nhân chứng mà qua lại với bẩy người một lúc ư? – Không! Tôi không muốn giữ cả bẩy người. Tôi chia cho ba đạo sư đồng sự. Khi hẹn một nàng xuống du thuyền, tôi ngỏ ý rằng nàng gần tôi mãi cũng chán. Tại sao không trao thân cho các bạn của tôi? Lúc đầu tôi tưởng các nàng phản đối, không ngờ nàng nào cũng vui vẻ. Trong mấy năm trời bốn anh em chúng tôi tận hưởng hương vị của hoa khôi đế đô, mà không ai biết. – Nhân chứng có cho tất cả các nàng biết rằng những người bạn đều đã bán thân cho nhân chứng với các bạn không? – Không! Nàng nào cũng tưởng bốn chúng tôi sủng ái mình nàng thôi. Hôm nay sự đã xẩy ra như thế này thì cả bẩy nàng đều biết rõ sự bí mật rồi. Không dấu được nữa. Chánh thẩm truyền: – Đọc tiếp cáo trạng. Quận chúa Thúy Hồng tiếp: “ Qua cuộc đối thoại vừa rồi, thì bẩy người bán thân như vậy là phạm vào điều 7 của Thập ác”. “ Sau hơn năm bơi lội trong sắc đẹp của bẩy nàng, bốn đạo sư quanh Hat San kiệt lực do dâm dục quá độ, do tuổi già sức giảm. Hat San thuyết phục các nàng: Thầy đồ già, con hát trẻ. Xưa nay dù Tiên, Phật, Thánh, Thần cũng không tránh được tuổi già. Các nàng tuổi đã trên 20, phải treo bảng tuyển phu, kiếm lấy một đấng trượng phu làm chồng. Hat San hứa: sau khi các nàng có chồng, y sẽ tìm cách tới phủ đệ của các nàng biếu phương vật, quà cáp, truyện phòng the vẫn tiếp tục. Niên hiệu Nguyên phong thứ năm (1255), cả bẩy treo bảng tuyển phu với giá ngọc liên thành: Quan võ phải từ cấp Đô thống, Quan văn phải từ cấp Lang trung, Hoàng tộc từ tước Hầu, Phú gia, danh sĩ muốn dự phải nộp lễ 500 lượng vàng. Sau 10 ngày, bẩy nàng đã tuyển được trượng phu. Cả bẩy nàng được trượng phu sủng ái cực kỳ. Bẩy nàng người thì về vương phủ làm vương phi, kẻ thì về làm đại phu nhân. Hát San ra vào các phủ dễ dàng, vì các nàng nói với chồng rằng y là tay sai của các nàng. Y muốn dựa thế các nàng để dễ buôn bán. Các ông chồng tuyệt không biết rằng tuy đã có chồng, mà các nàng vẫn ngựa quen đường cũ. Bẩy nàng đã phạm vào diều 9 của Thập ác.”. Phụ thẩm, vương phi Ý Ninh hỏi Phương Dung (Hoàng Hoa): – Khi còn ở Quán văn Tô Lịch, thì bị cáo vì tham tiền bán xác cho Hát San có thể hiểu nổi. Thế sao nay thành vợ của đại thần, tiền rừng bạc biển, mà bị cáo còn tiếp tục truyện chó lợn với y? Mặt Hoàng Hoa vẫn tươi như hoa, không chút sợ hãi, cũng chẳng chút ngượng ngùng: – Thưa vương phi, ngay trước hôm tôi lấy chồng. Y xin gặp tôi để tặng một chiếc vòng ngọc bích. Y nói thực rằng y làm Tế tác cho Mông cổ. Y yêu cầu tôi ba việc. Một là khi y cần, tôi phải lấy cớ xin về thăm nhà, rồi tiếp tục chăn gối với y, với bạn y. Y sẽ cho cha mẹ tôi nhiều vàng. Hai là trong cương vị phu nhân, tôi phải thu thập tin tức của Đại Việt cung cấp cho y, y gửi cho Mông cổ. Ba là khi các cơ sở thương mại của y gặp khó khăn, thì bằng mọi giá tôi phải nài nỉ với chồng cứu y. Nếu không tuân ba điều trên, y sẽ tố cáo việc tôi bán trinh, bán thân, làm Tế tác cho Mông cổ. Trường hợp này không những tôi mất địa vị phu nhân, mà bản thân bị tội voi dầy, ngựa xé đã đành cha mẹ, anh em đều bị chết chém. Phụ thẩm công chúa Lý Như Lan hỏi: – Còn sáu bị can! Các bị can bán thân cho Hat San có giống Hoàng Hoa không? – Thưa không khác làm bao. – Các bị cáo đang là một con hát, một bước thành đại phu nhân. Vậy các bị cáo có hãnh diện không? – Lọ là phải nói, tự bản thân chúng tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Cha mẹ, anh em, họ hàng cùng thơm lây. – Thế trong những lúc trốn nhà trao thân cho Hat San, các bị cáo có thấy hối hận không? Có biết như vậy là lỗi đạo với chồng không? – Khi gần chồng tôi cũng vẫn thường nghĩ đến Hat San. Khi gần Hat San tôi cũng nghĩ đến chồng. Cả hai người đều đem cho tôi hạnh phúc riêng, tôi chả bao giờ hối hận, cũng chẳng thấy lỗi đạo với chồng gì cả. Quận chúa Thúy Hồng kết luận: “ Qua thú nhận vừa rồi thì Thất tiên lại phạm vào điều 5, 8, 10 của Thập ác”. (1) Vương phi Ý Ninh hỏi: – Trong bẩy trượng phu của bẩy nàng, người nào cũng từng có vợ, hơn nữa nhiều vợ. Nhất là hai đại sư phái Sài sơn là Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn đều là danh y. Thế mà khi đem các nàng về làm vợ, không lẽ họ không biết các nàng đã mất trinh, hơn nữa từng đã bướm chán ong chường với ít nhất bốn người? Bị cáo Vũ Nguyệt Hương! Bị cáo phải khai rõ đã dùng thuật gì mà dối được chồng! Mặt Vũ Nguyệt Hương (Hồng Hoa) hớn hở, không ngượng ngùng, tỏ ra hãnh diện, thuật: – Chúng tôi nhờ thầy lang Vũ Y. Truyện này lâu ngày quá tôi không nhớ rõ thầy đã làm gì, dạy chúng tôi những gì. Văn bác thượng tướng quân Địa Lô là người giỏi y khoa, xin trả lời tòa: – Thầy lang Vũ Y nức tiếng Thăng long về Vu Sơn. Thầy đã dạy 7 nàng cách lừa chồng. Trong giới bình khang có nhiều thuật qua mặt khách làng chơi. Thường thì khi môt cô gái mất trinh, lúc sắp lấy chồng, sợ chồng biết mình mất trinh rồi, thì họ tìm một thầy lang chuyên về Vu Sơn giúp. Thầy lang dạy cho thân chủ phương pháp Hồi trinh, nghĩa là phục hồi trinh giả. Cô gái phải tuân thủ ba điều: Thứ nhất, một cô gái mất trinh, dù đã giao hoan với nhiều người, nhiều lần, mà chưa sinh con, nếu trong vòng hai tháng không giao hoan với đàn ông, thì cửa mình khép chặt lại như gái đồng trinh. Người chồng không tinh tế khó mà biết được. Vì vậy cả bẩy bị can Tô Lịch mới xin hoãn đám cưới đến hơn hai tháng, để đạt mục đích. Thứ nhì, dùng máu mào gà đực, trộn với nước vỏ lựu đỏ nghiền ra; cất trong cái hũ nhỏ. Đợi khi sắp động phòng thì đổ vào âm hoa. Thứ ba, khi động phòng phải giả vờ e thẹn, giả vờ đau đớn, dẫy dụa, để người chồng mất tinh tế. Sau khi giao hoan, người chồng thấy nước vỏ lựu, máu mào gà chảy ra, lại thấy cửa mình vợ thắt chặt, vợ đau đớn; thì tưởng vợ còn trinh. (2) Vương phi Ý Ninh chán ngán: – À thì ra thế, nên vừa kinh nghiệm vừa giỏi y học như hai đại sư Kim Sơn, Ngân Sơn mà cũng bị lừa. Quận chúa Thúy Hồng tiếp tục đọc bản cáo trạng: “ Hồi Mông cổ sắp nhập biên, triều đình kêu gọi dân chúng rời Thăng long. Linh Từ quốc mẫu tổng chỉ huy hậu cung, vợ con tướng sĩ lánh nạn về Thiên trường. Thất tiên cũng chuẩn bị theo. Nhưng Hat San gặp các nàng thuyết phục rằng: các phu nhân làm Tế tác cho Mông cổ, thì việc gì phải chạy. Mông cổ vào Thăng long, các tướng Mông cổ sẽ tưởng thưởng các phu nhân. Không chừng các phu nhân còn được các vương hầu Mông cổ thu làm vương phi. Nghe lời Hat San cả bẩy người tạm ẩn ở Nghi tàm. Như vậy bẩy người lại phạm trọng tội 1, 2, 3 Thập ác. Khi Ngột Lương Hợp Thai chiếm Thăng long, Hat San mật cáo với y rằng bẩy tiên nữ đẹp nhất Đại Việt hiện ở Nghi tàm. Ngột Lương Hợp Thai sai một Thiên phu đi rước các nàng, đem về cho ở trong cung thất Hoàng thành. Y lệnh cho tên Trịnh Ngọc bắt tỳ nữ hầu hạ, cung phụng ẩm thực cực kỳ chu đáo. Chính y tuyển Hoàng Hoa làm tỳ thiếp. Hoài Đô tuyển Bạch Hoa, A Truật tuyển Huyền Hoa. Còn Thanh Hoa, Hồng Hoa, Tử Hoa, Lan Hoa thì khi một trong ba tên thấy thích thì thu dụng qua một vài lần. Vì vậy giữa các nàng bắt đầu nảy sinh ghen tương, mạ lị lẫn nhau, thậm chí đánh nhau. Sau ít ngày Ngột Lương Hợp Thai thấy tình hình Thăng long bị đe dọa, y sai Lý Long Vân đem bẩy nàng về Văn sơn. Vợ chồng tên Trịnh Ngọc vẫn được cử theo hầu hạ, cung phụng. Bại trận tại Đại Việt, Ngột Lương Hợp Thai sợ bị Hốt Tất Liệt trị tội, y mới nghĩ đến việc đem Thất tiên cống cho chúa tướng. Y sai vợ chồng tên Trịnh Ngọc đem bẩy nàng về Côn minh, nhưng khi đi đường, Tế tác Tống biết được. Tống tưởng các nàng bị cưỡng bức mang đi, họ nhờ Hoa sơn ngũ hiệp cứu bẩy nàng. Chính vì lẽ đó khi bẩy nàng được giải thoát, gặp Dã Tượng, Thúy Hồng mà cả bẩy không hề tỏ vẻ mừng rỡ, vì giữa việc được về Đại Việt sống với chồng, gần cha mẹ, quê hương với việc làm vương phi Mông cổ. Cả hai đều có những cái vui, cái buồn như nhau. Bị mất cống vật, Ngột Lương Hợp Thai sai tên Long Vân đem bộ hạ, vợ chồng tên Trịnh Ngọc đi tìm cách đoạt lại. Cả bọn đến Bồ lăng thì gặp con thuyền của Hat San đang chở hàng từ Kinh châu vào Thành đô. Tên Ngọc trình sự việc cho cha. Hồi ở trong nước mỗi khi Hat San muốn liên lạc với Thanh Hoa, y cùng nàng ước hẹn ghi những ký hiệu trên đường đi. Khi y lên bến Bồ lăng, quả nhiên y thấy kí hiệu của Thanh Hoa ở một vài nơi. Trước hôm đi lễ đền Tam anh, Thanh Hoa âm thầm gặp Hát San báo cho y biết rõ tình hình. Hát San trao thuốc mê cho Thanh Hoa, hẹn rằng: khi đi lễ đền thờ Tam anh xong tất cả đoàn sẽ thụ lộc, nàng phải bỏ vào thức ăn cho cả đoàn mê man. Hat San báo chư sự với Lý Long Vân. Long Vân cho bộ hạ phục ở đền thờ Tam anh, đợi khi tất cả mê man, thì sẽ đem về thuyền của y. Đối với Dã Tượng, y quẳng xuống sông phi tang. Còn Thúy Hường, vì có nhan sắc diễm lệ, y sẽ giữ lại dâng cho Mông cổ. Không ngờ trong đoàn của Lý Long Vân có đại sư Huệ Đăng cùng quận chúa Lý Như Lan. Sư đã âm thầm thu Khâu bắc ngũ hổ tướng làm đệ tử. Tất cả đang chờ dịp là ra tay trừ tên thổ phỉ Long Vân để giải thoát cho 20 vạn dân Khâu bắc, Văn sơn. Thanh Hoa thành công trong việc đánh thuốc độc, nhưng không ngờ Dã Tượng luyện Vô ngã tướng thiền công, bách độc không làm gì được, lại thêm sự xuất hiện của Địa Lô. Thế là Lý Long Vân bị bắt, vợ chồng tên Trịnh Ngọc cũng bị bắt. Thanh Hoa phạm điều 5 tội Thập ác. Tất cả hành vi của Thanh Hoa bị Hoàng Hoa biết. Do ghen ghét, Hoàng Hoa báo cho Dã Tượng với Địa Lô, để nhờ tay hai người trừ đi một tình địch lợi hại. Vì vậy Địa Lô, Dã Tượng mới phục trong đêm, biết rõ Thanh Hoa dùng cưa cứu bọn họ Trịnh. Trên đường đi Giang an, Hat San bơi sang thuyền sứ đoàn thông dâm với Hồng Hoa. Nhờ Hồng Hoa y biết rõ Dã Tượng, Địa Lô rất lợi hại. Hat San sai Hồng Hoa đánh thuốc độc giết Địa Lô, Dã Tượng, thuyền phu, rồi cướp bẩy nàng với Thúy Hồng mang đi Độ khẩu dâng cho Hốt Tất Liệt. Không ngờ trong bóng tối, Địa Lô đã đổi thuốc, thành ra nàng hai lần ra tay, mà không thành công. Lúc thuyền tới Lục bàn thủy, Dã Tượng, Địa Lô, Thúy Hồng thấy quân Lý Long Vân đang giao chiến với quân của sư Huệ Đăng. Ba người lên bờ tiếp viện, thì Thanh Hoa ra lệnh cho Hat San quay thuyền bỏ chạy. Vũ Uy vương đã tiên liệu, lệnh cho Đại đởm thập tam kiệt cùng đội Ngưu binh của Lê Linh Anh tuần tra trên sông Hoành giang bắt lại”. Linh Từ quốc mẫu hỏi bẩy bị cáo: – Bản cung từ có chỗ nào sai không? Các bị cáo có bị ép cung không? Mặt Thanh Hoa lạnh lùng, không hề xuất hiện một chút xấu hổ hay hối hận: – Không có chỗ nào sai cả. Chúng tôi cung khai hoàn toàn tự ý. Chấp cung Lý Thúy Hồng cũng như Lê Linh Anh không hề ép cung. Công tố Văn sơn Nam Nguyễn Địa Lô đứng dậy, chỉ vào mặt bẩy bị cáo: “ Bẩy người này sinh ra là con dân Đại Việt, trời cho tấm nhan sắc khuynh quốc. Lại được nuôi dạy đàn hát, thành đại danh. Đáng lẽ phải giữ tấm thân trinh tĩnh, giữ đạo Tam tòng. Thế nhưng chỉ vì lòng tham, bán tấm nhan sắc cho bọn rợ, làm Tế tác cho ngoại bang, tàn hại đất tổ. Khi đã một bước thành vương phi, thành đại phu nhân, đáng lẽ phải giữ địa vị cao quý của mình, thì lại tiếp tục trao thân cho bọn Hồ. Lúc bị giặc bắt, đáng lý phải tự tử để giữ tấm thân trong sạch, tạ lòng chồng, lại bất cố liêm sỉ coi việc trao thân cho giặc làm hãnh diện. Thực kinh khủng. Bản điều tra rất rõ ràng, tất cả bẩy bị can phạm 12 tội đại hình. Trong đó có 9 tội trong Thập ác phải xử lăng trì; cha mẹ, anh em cũng bị xử trảm, tịch thu điền sản; 5 tội phải cho voi dầy, ngựa xé, 4 tội phải xử trảm. Vậy xin tòa lên một án thực nghiêm khắc để răn đe”. Linh Từ quốc mẫu hỏi: – Các bị cáo có điều gì khai nữa không? Cả bẩy bị can đều òa lên khóc. Thanh Hoa vốn già mồm, thị vừa khóc, vừa nói: – Chúng tôi tự cảm thấy chẳng có tội gì cả. Chúng tôi có nhan sắc thì muốn trao thân cho ai tùy thích. Tại sao tòa lại cấm chúng tôi? Chúng tôi chỉ phạm có một tội là làm Tế tác cho Mông cổ mà thôi. Triều đình kết tội Mông cổ là tàn ác, là khát máu. Thế nhưng những vương hầu, võ tướng Mông cổ nâng niu, chiều chuộng chúng tôi. Còn Đại Việt thì giam chúng tôi như giam lợn, giam chó, rồi đem chúng tôi ra xử. Tôi không phục. Hoàng Hoa thấy Thanh Hoa ngoa ngoét, mụ tỏ ra quật cường, càng già mồm hơn: – Còn như tại sao chúng tôi lại muốn bỏ chồng Việt, lấy chồng Mông cổ? Các tướng Mông cổ là những thân vương của Thiên triều. So với những ông chồng của chúng tôi làm quan ở cái xứ thấp nhiệt, nhỏ bằng hạt vừng hạt đậu này. Hỏi địa vị của ai lớn hơn, oai hơn? Các tướng Thiên triều thân thế cao sang tới trời, mà họ không bao giờ chấp nhất quá khứ chúng tôi bán thân cho các đạo sư, hay quá khứ chúng tôi có chồng Việt. Họ không bắt chúng tôi phải tam tòng, tứ đức hay ngũ, bát đức gì hết. Ở với Mông cổ, chúng tôi được chiều chuộng, về với Đại Việt chúng tôi bị đem ra xử nhục nhã như thế này đây. Thanh Hoa tiếp lời: – Tòa kết tội chúng tôi bán thân cho rợÏ Hồ ư? Hồi còn đi hát ở Quán văn Tô Lịch, mỗi khi các vương hầu thưởng tiền chúng tôi, cao lắm cho chúng tôi một hay hai lượng bạc. Trong khi tất cả các đạo sư Hồi thưởng thì ít nhất một lượng vàng. Xin hỏi tòa như vậy người Hồi tốt hay vương công Việt tốt? Hồng Hoa tiếp: – Da rợ Hồ đen, nhưng bạc của chúng trắng. Người chúng to béo nặng nề, hôi thối, nhưng vàng của chúng không hôi. Chúng tôi được tiếng là đại phu nhân, mà thảng hoặc chồng mới cho một lượng vàng. Còn các đạo sư, mỗi lần chúng tôi trốn chồng trao thân cho họ, họ cho đến năm lượng vàng. Công chúa Lý Như Lan nổi cáu: – Bị cáo Vũ Nguyệt Hương! Bị cáo có chồng, còn đem thân trao cho mọi, mà không biết đó là điều kinh tởm; đã vậy còn lấy đó làm vinh dự sao? Theo bộ Hình thư thì tội có chồng còn lang chạ thì bị ngựa xé. Có chồng còn bán thân thì bị voi dầy. Bị can có biết không? – Tôi không cần biết luật lệ rắc rối đó. Quốc mẫu mắng: – Nếu bị cáo thách thức, ngông cuồng, tòa cho voi dầy tức khắc không cần tuyên án. Ngài quát: – Võ sĩ đâu? Bốn võ sĩ Đại đởm từ ngoài dạ ran vào chờ lệnh. Quốc mẫu chỉ Hồng Hoa: – Đem con điếm già họng cho voi dầy tức thời. Mặt Hồng Hoa tái xanh, im bặt. Hai hàm răng đánh vào nhau lộp cộp. Võ sĩ Đại đởm tâu: – Hiện tại đây chỉ có một thớt voi biết hành hình. Mà thớt voi đó đang diễn tập. Xin Quốc mẫu để ngày mai. Nói rồi võ sĩ mang mụ ra khỏi phòng xử. Linh Từ quốc mẫu ban chỉ: – Các bị cáo có muốn nói gì nữa không? Không thấy bị cáo nào nói nữa, Quốc Mẫu ban chỉ: – Những người này trời cho nhan sắc, nhưng họ chưa được dạy dỗ, thành ra không biết tội mình. Ý Ninh, cháu dạy cho họ biết thế nào là tội phản quốc đi. Vương phi Ý Ninh đứng lên giảng giải về nguồn gốc, chủ đạo tộc Việt từ khi lập quốc đến thời vua An Dương, vua Trưng; người người cùng hy sinh bảo vệ đất tổ. Rồi trải qua các cuộc khởi binh của bà Triệu, tiền Lý; chiến thắng của vua Ngô, vua Lê. Gần đây là những cuộc đánh Tống, bình Chiêm thời Lý. Cuối cùng là cuộc đuổi Mông cổ vừa qua. Tiếp theo, công chúa Lý Như Lan giảng về đạo Tam tòng, Tứ đức cùng đức hạnh mà người con gái phải có. Sau khi nghe giảng, bẩy nàng như người mù được mở mắt. Cả bẩy cùng òa lên khóc, xin tòa xử nhẹ cho phần nào. Linh Từ quốc mẫu tuyên chỉ: – Tòa ngừng xử. Mười ngày sau sẽ tuyên án. Tuy là tử tội, nhưng bẩy nàng vẫn không bị giam, được nuôi ăn chu đáo, lại có người hầu hạ. Mười ngày sau, Thị vệ từ Thăng long giải bố-mẹ, anh-em của Thất tiên lên chờ thọ hình. Thất tiên thấy gia đình thì ào ra hỏi thăm. Mẹ của Huyền Hoa khóc nức nở nói: – Hôm qua, Thị vệ tới đọc bản án bắt cả nhà. Trai từ 15 tuổi, giái từ 13 tuổi. Lệnh bắt nói rằng con phạm tội phản quốc, nên cả nhà sẽ bị chết chém. Của cải xung công. Gia đình các tiên khác cũng thuật tương tự. Vũ Uy vương truyền Thị vệ cởi trói cho gia đình bẩy nàng. Được hội ngộ với con, biết con sắp bị giết, cả nhà bị giết; gia đình kêu gào thảm thiết. Kẻ khóc, người than trước cảnh con gái làm tội, cả nhà bị vạ lây. Bẩy nàng cùng gia đình lên tới 105 người, được tự do trao đổi tin tức trước sân Khu mật viện Văn sơn. Xung quanh sân có một đàn chó canh phòng. Giữa lúc đó có ba tiếng trống, ba tiếng thanh la đánh lên. Mọi tiếng khóc, mọi tiếng than im bặt Quang minh, Trang liệt, Hồng anh công chúa Lý Như Lan đi giữa, bên trái có Đô thống, Nghi tàm quận chúa Lê Linh Anh, bên phải có Đô thống, Trang văn Hồng hạnh Dương xá quận chúa Lý Thúy Hồng; lưng đeo bảo kiếm. Phía sau hai Đại đởm dẫn hai con cọp. Uy thế ngất trời. Công chúa lên một cái đài bằng gỗ cao mười thước (2 m ngày nay). Đô thống Lê Linh Anh cầm loa chỉ vào đôi cọp gọi: – Tất cả im lặng, bất cứ ai lên tiếng, thì sẽ cho cọp vồ ăn thịt liền. Cả sân im phăng phắc. Linh Anh tiếp: – Tất cả quốc phạm quỳ xuống nghe tuyên án. Các tội nhân quỳ gối. Công chúa Lý Như Lan cầm loa đọc bản án. Nội dung bản án nhắc lại tội trạng Tô Lịch thất tiên, y theo đề nghị của công tố. Tất cả bẩy bị can phạm 12 tội đại hình. Trong đó có 9 tội trong Thập ác phải xử lăng trì; cha mẹ, anh em cũng bị xử trảm, tịch thu điền sản; 5 tội phải cho voi dầy, ngựa xé, 4 tội phải xử trảm. Tuy nhiên vì Hoàng đế mới lên ngôi vua, nên không áp dụng cực hình lăng trì, mà chỉ cho voi dầy. Còn lại cha, mẹ, anh, chị em thì tha cho tội chết, mỗi người đàn bà chỉ bị chặt một tay, mỗi người đàn ông bị chặt một chân. Các can phạm được một đặc ân là thượng biểu xin Hoàng đế ân xá hay giảm án. Nếu biểu gửi đi trong một tháng không có chiếu chỉ ân xá, giảm án thì án sẽ thi hành. Trong thời gian chờ đợi, các tử tội vẫn được nuôi ăn, đối xử như tù nhân bình thường. Đô thống Lê Linh Anh tiếp: – Do các bị cáo là quốc phạm, các bị cáo bị tước hết tài sản, tước hết quyền trong gia đình: làm vợ làm mẹ, làm con. Kể từ hôm nay các can phạm trở thành thứ dân, không được quyền xưng là vương phi, phu nhân. Nếu các can phạm còn tiếm xưng thì sẽ bị đánh 20 trượng tại chỗ. Đại đởm thập tam kiệt chia tội nhân thành bẩy khu. Mỗi khu cho một tử tội với gia đình. Thanh Nga nhìn đám tử tội cùng người thân than khóc thảm thiết thì mủi lòng. Nàng rủ bốn người bạn Đông hoa xin vương phi Ý Ninh cho các nàng được an ủi, vĩnh biệt Thất tiên. Năm nàng Đông hoa đem riêng 7 nàng Tô Lịch ra một vườn hoa của điện Long thụy Văn sơn. Hoàng Hoa than: – Các em cùng học một trường với bọn chị, mà nay bọn chị trở thành quốc phạm, thân bại, danh liệt. Nay mai bị voi dầy, thực là nhục nhã. Còn các em thân thể trở thành cao quý. Gia đình các chị thì nhà cửa tan nát, cha mẹ, anh em thành tội đồ. Ngược lại cha mẹ các em thì được ban hàm chức tước, hương đảng kính trọng. Ôi! Đúng là số phận. Thanh Hoa khóc: – Bây giờ muộn quá rồi! Các em ơi! Tại sao các chị đang là những đóa hoa được chiều chuộng rất mực, bỗng chốc trở thành tử tội? Số phận của các chị bây giờ là số phận con rệp. Ước gì các chị có thể đái tội lập công, thì dù phải nhảy vào nước vào lửa các chị cũng nhảy. Hồng Hoa nói với Thanh Nga, Thúy Hồng: – Hai em được Vũ Uy vương phi yêu thương cực kỳ. Hai em có thể năn nỉ với phi giúp các chị được không? Quận chúa Thúy Hồng lắc đầu: – Khi vua tuyên án, thì phi cũng không làm gì được. Hồng Nga chỉ Thanh Nga: – Xét tội các chị, khi Hoàng đế xử, thì dù Linh Từ quốc mẫu có muốn nới cũng không được. Chỉ duy Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu mới có quyền hủy án của Hoàng đế. Em thấy Thanh Nga, Thúy Hồng được Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu yêu thương nhất. Nếu hai chị năn nỉ với ngài thì hy vọng. Thanh Nga là người quá nhiều tình cảm. Thấy hoàn cảnh Thất tiên, nàng cũng mủi lòng: – Hồng Nga ơi! Hồng Nga luôn có ý kiến thông minh. Hồng Nga chỉ cho em tâu như thế nào bây giờ? Tâu phải hợp lý mới được. Hồng Nga mỉm cười: – Thì Thanh Nga cầu cứu với cụ Khổng Minh non Địa Lô, cụ sẽ mách mánh cho. Quận chúa Thúy Hồng tán thành: – Thiên trường ngũ ưng tính khí tuy cương nghị, ngoài cứng mà trong mềm. Các anh ấy coi bọn mình như em gái. Tại sao mình không tìm các anh ấy, rồi làm nũng, thì gì mà không xong? Nhất là cái anh Dã Tượng, dù nói cách nào anh ấy cũng là chồng Thanh Nga. Thanh Nga cứ lấy lý mình là vợ, liếc mắt đưa tình, đá lông nheo, thì gỗ cũng phải động lòng huống hồ anh Dã Tượng. Hồng Nga lại thiết kế: – Anh Dã Tượng thì thích ăn thịt lợn quay. Anh Địa Lô thì thích cá nướng. Anh Cao Mang thì thích gà hấp. Ở đây chúng mình đều có tài làm bếp cả. Chiều nay mình làm ba món đó rồi mời các anh ấy xơi. Khi các anh ấy trót xơi xong, mình mới vấn kế. Thôi các chị đi làm món ăn đi. Em với Thúy Trang mời các anh ấy cho. Hồng Nga, Thúy Trang tìm anh em Dã Tượng, giữa lúc cả ba đang ngồi đọc sách binh thư. Ba người thấy Hồng Nga, Thúy Trang thì ngừng đọc sách. Cao Mang hỏi: – Hai cô em xinh đẹp đi đâu đây? – Bọn em mời ba anh chấm thi. – Thi gì? – Thanh Nga, Thúy Nga, Thúy Hồng làm thịt lợn quay, cá nướng, gà hấp nấm. Cả ba nhờ hai đứa em mời ba anh chấm, xin ba anh đoán xem đứa nào làm món gì. Món gì ngon nhất. Dã Tượng cười: – Chà! Các cô tiên nga mà ra tay thì bọn anh ăn đến nuốt cả lưỡi vào. Nào đi. Ai có ý kiến mời ăn thế này nhỉ? – Dạ, thưa là phu nhân của Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân Trần Quốc Kinh đấy ạ. Thiên trường tam ưng là những anh hùng tài trí bậc nhất thời Đông a, trong khoảnh khắc, họ đâu ngờ năm cô em gài bẫy. Chiều hôm ấy ba người tới căn nhà của năm nàng Đông hoa. Năm nàng mặc y phục rất giản dị: áo cánh mầu tím, quần lụa đen, đầu quấn khăn nhiễu hồng. Dã Tượng thấy Thanh Nga đẹp mộc mạc, đẹp hồn nhiên, thì lòng rúng động: mình trúng tuyển làm chồng nàng, mà không cưới nàng làm vợ kể ra cũng uổng! Thấy Dã Tượng nhìn mình say đắm, tim Thanh Nga đập loạn xạ, liếc mắt đưa tình, nàng cất tiếng hát theo điệu Xẩm: Anh ơi chua ngọt đã từng, Non xanh, đất đỏ xin đừng xa nhau. Thúy Nga trêu Thanh Nga, nàng hát theo điệu Trống quân: Nhớ ai dạ những bồi hồi, Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm. Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai? Giữa căn phòng, một cái bàn bầy ra: một đĩa lớn thịt gà hấp nấm, một đĩa nữa đầy thịt heo quay, da vàng ngậy, mà thớ thịt trắng. Một đĩa đựng ba con cá chép nướng vàng, bốc hơi thơm nực. Năm nàng ngồi xen với ba chàng. Cao Mang hỏi: – Ai là chủ tiệc xin lên tiếng đi chứ? Thúy Nga đánh trống mảnh, Thúy Trang thổi tiêu, Hồng Nga vỗ trống cơm, Thúy Hồng cầm cây nhị kéo, Thanh Nga cất tiếng hát theo điệu Chầu văn: Của thơm, thơm cả bầu trời, Miếng ngon, ngon nhất xin mời quý nhân. Lợn quay em ướp ngũ hương ấy a… Gà rừng em hấp với tương ì a tương, tương Tây hồ. Cá sông, í a cá chép nướng khô, Thỉnh người quân tử i ạ hãy cho… vào mồm. Ý ì a a. Dã Tượng háu ăn, cầm đũa gắp miếng thịt lợn quay nhai dòn rôm rốp: – Ôi thịt lợn thơm ngon thế này thì do Thúy Nga làm đây. – Không đúng. Thúy Nga hỏi: Sao anh đoán do em làm? – Anh chả có tài cán gì đâu. Vì làm thịt lợn quay thì phải ướp. Mà anh thấy tay em còn có mầu phẩm, thì đoán già thôi. – Lầm rồi! Vợ anh làm đấy. Khen vợ một tiếng nữa đi. Dã Tượng đưa mắt nhìn Thanh Nga: – Vợ tôi vừa đẹp như hoa mới nở, hát hay, lại có tài biến hóa ra món ăn ngon thế này thì ra kiếp trước tôi đã làm hòa thượng rồi. Lần đầu tiên được Dã Tượng nhận làm vợ, Thanh Nga bủn rủn cả chân tay: – Hòa thượng? – Ừ! Anh đã gõ thủng 18 cái mõ, nên kiếp này mới được làm chồng em. Thanh Nga cảm động: – Anh à! Từ hôm anh trúng cách trong buổi tuyển phu của em đến giờ đã mấy năm rồi, anh có biết câu tục ngữ: Hoa nở có thì không? Câu trách móc của Thanh Nga làm rộn lên một niềm hối hận trong tâm Dã Tượng. Bất chấp xung quanh có nhiều người, chàng nắm tay Thanh Nga: – Em ơi! Suốt từ ngày ấy đến giờ, chúng mình luôn bên nhau mà. Thời gian đi Bồ lăng, cạnh anh có Thúy Hồng, xinh đẹp, dịu dàng, nhưng bao giờ anh cũng chỉ biết có em mà thôi. Sau cuộc tuyển phu, chúng mình tuy chưa treo cưới, nhưng chú thím tán thành, bạn hữu công nhận thì cũng như cưới rồi vậy. Thúy Nga trêu: – Chưa đủ! Phải có một cái gì gì nữa kia, như mời bọn nay ăn một bữa. Nói rồi nàng chỉ vào đĩa cá nướng. Địa Lô ngửi ngửi cá nướng: – Ôi trời đất, thánh thần ôi! Ai nướng cá theo lối hồ Tây thế này, thơm đến chết mũi thì Ngự trù cũng phải chịu thua. – Cũng vợ anh Dã Tượng đấy. Cao Mang nhìn đĩa thịt gà: – Các em tìm đâu ra những loại nấm tía mà đem hấp với gà rừng, thì người chết có ngửi mùi cũng sống dậy xin ăn. Tám người vừa ăn, vừa hát. Tiệc gần một nửa thì có tiếng nói vọng vào: – Anh em ăn với nhau, mà quên bọn này ư? Như Lan, Hĩm Còi bước vào. Thanh Nga chắp tay: – Hai chị đi chầu hầu Quốc mẫu thành ra chúng em không mời được. Bây giờ mời hai chị cùng ăn với chúng em cho vui. Nàng kéo ghế mời hai người ngồi. Bữa tiệc thành 10 người. Dù họ là anh hùng, dù họ là người tài trí, nhưng họ đều còn trẻ. Họ vừa ăn, vừa ca hát và luôn bàn chuyện đất nước. Ăn gần xong, Hĩm Còi móc trong bọc ra một con dao nhỏ, để lên bàn. Dã Tượng hỏi: – Gì vậy? – Để tất cả chúng ta cùng mổ bụng, trả lại món ăn ngon cho năm nàng tiên Đông hoa. Dã Tượng kinh ngạc: – Em nói? – Chúng mình kinh lược ba châu này thấm thoát đã gần năm. Có bao giờ năm nàng Đông hoa làm bếp cho mình ăn đâu? Thế mà bỗng dưng các nàng làm những món ăn mà ba ông anh đều thích, thì có nghĩa là các nàng muốn ba ông anh làm giúp cho việc gì khó lắm. Nếu như các anh không làm được thì phải mổ bụng trả món ăn cho năm nàng. Cao Hoang mở to mắt: – Cái cô Hĩm Còi này tinh tế thực, bọn anh tuyệt không đoán ra ý thầm kín của năm cô em Đông hoa. Hĩm Còi xứng đáng làm Phó thống lĩnh Ngưu binh. Anh nói thực, nếu anh là tướng Mông cổ chỉ huy kị binh đánh nhau với Ngưu binh của em ắt cũng bị thua. Dã Tượng hỏi: – Năm cô em xinh đẹp! Hĩm Còi nói có đúng không? Cả năm nàng cùng lên tiếng: – Đúng. Dã Tượng giật bắn người lên. Địa Lô hỏi: – Các em muốn ba anh trả tiền ba món ngon này bằng vụ gì? Vào rừng bắt cọp? Xuống biển mò ngọc trai hay……lấy ông sao trên trời ? Thanh Nga thuật lại chuyện Tô Lịch thất tiên nhờ nàng tâu xin Thái hoàng thái hậu ân xá cho họ, nhưng nàng không biết tâu như thế nào? Hĩm Còi là Ngưu tướng, ngoài cứng mà trong mềm. Nàng thở dài: – Kể ra bẩy mụ Tô Lịch quả là những đóa hoa hiếm có trên đời. Nhưng là hoa dại, các mụ không được giáo dục, nên nào có biết mình làm những điều xấu xa, kinh tởm. Bây giờ đem bẩy mụ cho voi dầy thì cũng đáng tiếc. Chị Như Lan ơi, chị đọc thiên kinh vạn quyển chị có cách gì cứu 7 nàng không? Còn ba anh, ba anh có mưu kế gì giúp chị Thanh Nga cứu các nàng không? Như Lan nở nụ cười tươi như hoa hồng ban mai: – Ba anh là người có đại công với Xã tắc. Ba anh xin với Thái hoàng Thái hậu giảm án cho mấy mụ. Nếu ngài chưa quyết, ba anh xin với đại sư Huệ Đăng nói thêm vào nữa, thì gì mà không xong. Ba anh tâu xin giảm tội chết, bắt 7 mụ làm nô tỳ, rồi mỗi anh đem một nàng về hầu hạ. Như vậy các nàng mới dứt được cái kiêu khí tự cao mình đẹp nhất thiên hạ. Thanh Nga nhảy dựng lên: – Em không dại gì mà để mỡ trước mặt mèo đói. Bẩy mụ này từng bán thân, kinh nghiệm phòng the có thừa mà để các mụ ấy ngày đêm cạnh ông chồng em, thì em không thể an tâm. Như Lan kinh ngạc: – Em không tin Dã Tượng à? Dã Tượng là Tả thiên ngưu vệ Thượng tướng quân, tước tới Khâu Bắc bá. Tư cách ít ai bì kịp. Từ hôm gặp nhau đến giờ chị thấy ba ông này là đấng chính nhân quân tử, là đấng anh hùng, đâu thèm ngó tới bọn liễu ngõ hoa tường, bọn đầu đường xó chợ? – Không! Không! Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Em không tin. Mỡ để trước mặt mèo, mà mèo không xơi là mèo mù. Ông chồng em không mù đâu. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Không, em thà nhìn bẩy nàng bị voi dầy chứ không chịu cho các nàng làm nô tỳ cho chồng em đâu. Rồi nàng thuật lại việc Hồng Hoa giả đau bụng, Địa Lô chữa trị cho nàng, bản lĩnh Địa Lô cao như vậy mà cũng chịu không được, phải bỏ chạy mới thoát thân. Địa Lô gật đầu: – Không nên! Không thể gần bẩy mụ này. Nguy hiểm lắm. Nam nói với Thanh Nga, Thúy Hồng: – Việc xin Thái hoàng Thái hậu, phi Thúy Hồng, Thanh Nga e không xong. Sáng mai, hai em chầu hầu Thái hoàng Thái hậu, nhất định ngài sẽ hỏi ý kiến hai em về bẩy con quỷ Tô Lịch. Hai em thưa rằng: xưa nay luật pháp vốn có hai chủ đích. Một là hành tội để làm gương cho kẻ ác. Hai là giáo huấn kẻ lỗi lầm. Giữa việc giết bọn Tô Lịch, với tha cho họ để họ đới tội lập công thì điều nào lợi? Làm tội để người khác coi gương mà sợ thì qua việc xử án, tiếng vang cũng tạm đủ. Bọn mặt dơi tai chuột nghe đồn đã vỡ mật rồi. Vậy thì chi bằng ân xá cho bẩy người, rồi dạy cho họ nghệ thuật chinh phục bọn vương tôn Mông cổ, nghệ thuật khai thác tin tức của Mông cổ. Rồi ta đem bẩy nàng cống cho chúng. Thế là ta có đến 14 cái tai, 14 cái mắt trong tâm triều đình Mông cổ. Ta lại đem cha-mẹ, anh-em bẩy nàng ra an ủi: họ được ân xá. Nếu như con-em họ lập được công, họ còn được ban ân hàm, phong chức tước như cha mẹ Thúy Hồng. Mọi người xuýt xoa. Thanh Nga hỏi: – Tội bẩy nàng quá nặng, liệu Thái hoàng Thái hậu có nghe em không? – Ngài là người tài trí kinh thiên động địa. Gì mà ngài không nhìn rõ điều ích quốc lợi dân này. Năm nàng cùng Địa Lô tấu nhạc, ca hát cho tới canh hai mới giải tán.Trước khi ra về Địa Lô bẹo tai Hồng Nga: – Trong năm cô, chỉ mình cô lắm mưu nhiều mẹo. Mưu làm món ăn ngon nhử các anh thế này ngoài cô không ai nghĩ ra được. Hồng Nga cười khúc khích: – Anh muốn mắng gì em cũng chịu. Mưu này dù hay, dù dở, dù xấu, dù tốt, thì ít ra ba anh cũng được ăn ngon. Đại Việt cũng đặt được tai mắt trong triều đình Mông cổ. – Phụ nhân chân khả úy (Đàn bà thực đáng sợ). Hơn nửa tháng sau triều đình gửi một tấu chương của Hoàng đế lên thỉnh Thái hoàng Thái hậu xử lý vụ Tô Lịch thất tiên. Sứ giả là Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung. Vương mang theo hai Đô thống Yết Kiêu, Đại Hành và một toán 10 người, trong đó có 5 nam, 5 nữ đều không tiết lộ thân thế. Dã Tượng được vương dạy võ công, dạy Thiền công, Bá chưa chính thức bái sư, nhưng trong tâm Bá coi ông như sư phụ. Thấy vương lên, Bá mừng chi siết kể. Vũ Uy vương dẫn tất cả tướng sĩ ra đón vương. Hưng Ninh vương là sứ giả, nhưng Thái hoàng Thái hậu là bà cố (cụ) nội vương. Linh Từ quốc mẫu là thái cô (bà cô) vương. Vương phải tới bái yết, mật tấu với hai ngài trước khi hội ngộ với Vũ Uy vương. Không biết Thượng hoàng, triều đình sai vương truyền chỉ dụ gì cho hai vị. Chỉ thấy hai vị và vương hội với nhau gần nửa ngày mới dứt. Mọi người đều tự hỏi 5 nam, 5 nữ tuổi hơi cao, gương