🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh hùng Đông A, Gươm thiêng Hàm Tử - Tập 1 Ebooks Nhóm Zalo Q U Y Ể N I Tựa Đôi lời với quý độc giả Quý vị đang cầm trên tay bộ : Anh hùng Đông a, gươm thiêng Hàm tử (GTHT) Đây là bộ lịch sử tiểu thuyết thuật cuộc bình Mông của tộc Việt lần thứ 2 và 3 vào thế kỷ thứ 13. Trong chữ Hán, chữ Đông với chữ a thành chữ Trần. Cho nên các văn gia trong lịch sử Việt Nam, gọi triều Trần là triều Đông a. Khi thuật chiến công của các anh hùng triều Trần, trong việc bình Mông, tôi đặt tên là: Anh hùng Đông a. Tôi chia Anh hùng Đông a làm hai giai đoạn : – Giai đoạn 1, mang tên : Anh hùng Đông a, dựng cờ bình Mông(DCBM) Thuật cuộc xâm lăng Đại việt của Mông cổ lần thứ nhất. – Giai đoạn 2 mang tên : Anh hùng Đông a, gươm thiêng Hàm tử (GTHT) Thuật cuộc xâm lăng Đại việt của Mông cổ lần thứ 2, và 3. Anh hùng Đông a, dựng cờ bình Mông, gồm 50 hồi, chia làm 5 tập, mỗi tập khoảng trên dưới 500 trang. Tổng cộng 2566 trang. Nội dung thuật cuộc bình Mông lần thứ nhất. Khởi đầu từ năm 1150 ; khi vua Lý Anh Tông lên ngôi vua, Cảm Thánh thái hậu nhiếp chính. Bà để cho tình nhân là Đỗ Anh Vũ nắm quyền. Trong nước rối loạn. Bao nhiêu kỷ cương bị xóa bỏ. Cuối cùng các anh hùng phải làm cái truyện xóa bỏ triều Lý lập ra triều Trần. Năm 1257, Mông cổ mang 10 vạn kị binh, 10 vạn hàng binh Đại lý sang đánh Đại việt, bị thất bại. Bộ sách này do Đại nam Hoa kỳ xuất bản năm 1999. Do nhà xuất bản Trẻ, tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2003. Năm 1999, khi xuất bản bộ Anh hùng Đông a, dựng cờ bình Mông, tôi hứa rằng sẽ cho ra đời giai đoạn 2 của cuộc bình Mông 3 năm sau. Nhưng nghề sinh nhai lối dọc đường ngang không cho tôi giữ đúng lời hứa. Nguyên do : Khi tiền nhân đặt chương trình viết lịch sử tiểu thuyết (LSTT) cho tôi đã căn dặn hai điều : Một là : Khi viết là phải khai chiến với không biết bao nhiêu ma quỷ bị giết khi chúng xâm lăng VN. Lại phải khai chiến với Ma-sống, Quỷ-sống chúng đã, đang muốn bán nước(mà không có nước để bán). Vì vậy cần chế chỉ tâm thần. Hai là :Hết sức tránh không thể để bị lạc lối. Muốn viết gì, làm gì, cũng phải chờ khi hoàn tất chương trình viết LSTT đã. Vì vậy trong thời gian viết bất cứ bộ LSTT nào, tôi cũng tự giam mình trong hào quang Liệt-tổ Đai Việt. Cứ sau khi một bộ ra đời, thì tôi lại nghỉ 6 tháng. Theo đúng chương trình, thì cuối năm 2002, tôi cho xuất bản bộ Anh-hùng Đông-a Gươm thiêng Hàm-tử (GTHT), tiếp theo bộ Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông (DCBM). Trong bộ thứ hai này, tôi dùng hành trạng của Trấn bắc đại-tướng quân Hoài-văn vương Trần Quốc Toản làm chủ động. Hay nói giản dị hơn, là thỉnh ngài làm nhân vật chính. Nhưng khi mọi sự chuẩn bị, thì một du học sinh tại Trung-quốc gửi cho tôi mấy trang gia phả của một dòng họ Trần bên Trung-quốc, cùng hình ngôi mộ. Gia phả, cũng như mộ chí thuật rằng : sau khi thắng Mông-cổ lần thứ ba, Hoài Văn vương theo vương phi nguyên là công-chúa Tống về Trung-quốc kháng chiến chống Mông-cổ. Vì vậy tôi ngừng lại. Năm 2002 tôi sang Trung-quốc tìm hiểu chi tiết này. Nên nội dung bộ bộ GTHT phải sửa lại toàn bộ. Nhưng rồi những biến cố dồn dập tới khiến cho bộ GTHT bị chậm trễ. Kể từ năm 1977 là năm tôi bắt đầu dạy học, tôi cố gắng chế chỉ tâm thần, không cho in, không cho xuất bản những bài giảng của tôi về vấn đề Vu sơn học ( Sexology). Vì tôi không viết về Y thì có hằng nghìn người viết. Nhưng năm 2000, do yêu cầu của Viện Pháp á (IFA = Institut Franco Asiatique) và Hội nghiên cứu y học Á châu (ARMA= Association pour la recherche de la Médecine asiatique), tôi phải biên tập tất cả những bài giảng về Sexology, cho xuất bản (làm sách giáo khoa). Do vậy việc viết LSTT của tôi phải tạm ngừng. Bộ Giảng Huấn Tình Dục Bằng Y Học Trung-quốc (The Chinese medical Sexology),đã do tvvn.com, California, USA, xb 2002, gồm 3 quyển. Tổng số trang nếu là khổ tiểu thuyết lên tới 2500 ! Tôi bị bắt buộc phải đi lạc hướng ! Tiếp tục, tôi phải biên tập xuất bản bộ Giảng huấn tình dục nữ bằng y học Trung quốc (The Chinese medical Sexology for Womens) cũng khoảng 2500 trang năm 2004 mới xong. Đã hết đâu, cũng năm 2004, ARMA, IFA yêu cầu tôi tập hợp những bài giảng về Khí-công, Tiểu đường, Phong thấp để xb. Thế là tôi phải mất 3 năm biên tập ba bộ Dịch cân kinh,. Tiểu đường, Phong thấp. Bộ Dịch cân kinh do nhà Đại-Nam, CA, USA xb (2004) khoảng 390 trang. Nội dung gồm : – Dịch Cân Kinh, – Thập thức bảo kiện pháp, – Đào hoa trường xuân pháp, – Liên hoa pháp, – Tổng giải về Khí-công. Hai bộ Tiểu đường, Phong thấp do ARMA xb. Thế là tôi mất 5 năm 2001,2002, 2003, 2004,2005! Đây là thời gian sung sức, minh mẫn nhất trong đời. Tôi bị bắt buộc đi lạc hướng. Đã vậy, tôi lại tự đi lạc hướng, tiếp xúc với báo chí, truyền thanh, truyền hình, Internet, mất rất nhiều thời giờ. Không biết do liệt tổ Đại-Việt linh thiêng, hay ông cha trợ giúp, mà một người thân của tôi, thân lắm lắm tuy ngàn trùng cách biệt, mà đã E-Mail cho tôi đến 5 lần, yêu cầu tôi ngừng hết, để trở về với con đường đang đi: LSTT. Thế là năm 2006 tôi trở lại với bộ Anh hùng Đông a Gươm thiêng Hàm tưû (GTHT). Bộ này nối tiếp bộ AHĐA DCBM gồm 61 hồi, chia làm 6 tập, mỗi tập trên dưới 500 trang; bắt đầu từ hồi 51, đến hồi 111. Đến nay, tháng 12- 2009 mới xong, hơn 3185 trang. Nội dung bộ Gươm thiêng Hàm tử thuật lại hai cuộc xâm lăng Đại việt lần thứ nhì, thứ ba của Mông cổ, mỗi lần 50 vạn quân. Bị đánh tan. Cái hài hước là vị trừ quân Nguyên, Tổng tư lệnh lực lượng xâm lăng phải chui vào ống đồng trốn chạy để tránh bị ném đá, bị bắn tên chết. Suốt trong chiều dài lịch sử 5 nghìn năm của Trung quốc, chưa bao giờ một tướng Tư lệnh bị nhục như vậy. Tại Việt Nam, 724 năm qua, khi tuổi trẻ tộc Việt đọc sử, hoặc nghe giảng đến truyện này đều cười lăn, cười lộn. Thời gian của bộ GTHT từ năm 1257 đến năm 1289, trong khoảng 32 năm. Trong 32 năm đó, ngoài chiến công lừng lẫy, văn hóa Đại việt nở rộ ra bốn kho tàng: – Chữ Nôm, – Hát Xẩm, – Hát chèo, – Điệu múa Bài bông. Về chữ nôm, tôi có đủ tài liệu, đủ kiến thức thuật. Nhưng ba bộ môn văn nghệ kia, tôi chỉ biết nguồn gốc, cơ cấu hình thành. Còn điệu ca, các thể loại thì mù tịt. Tôi đành trở về Hà nội tìm kiếm. Tôi đến Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt nam, bấy giờ trụ sở tại 75 hàng Bồ, quận Hoàn kiếm, Hà nội. Tháng 4-2008 trung tâm dời đến đình Hào nam, địa chỉ 32/32, Hào nam, quận Đống đa. May mắn tôi gặp nghệ sĩ ưu tú Thanh Ngoan, một nghệ sĩ đa tài, sắc nước hương trời, yêu nghệ thuật hơn yêu chồng, yêu con. Nếu nói ngoa một chút thì cô yêu nghệ thuật hơn yêu chính mình. Thanh Ngoan là cuốn tự điển về âm nhạc VN. Tôi hỏi gì Thanh Ngoan giảng như mưa tuôn, như thác chảy. Khi tôi hỏi câu: – Hát Xẩm gồm có những thể loại thơ văn nào? Thanh Ngoan trả lời: – Bất cứ thể loại thơ văn nào, bất cứ điệu ca nào cũng có thể biến ra hát Xẩm được cả. Nói rồi Thanh Ngoan cất tiếng hát một bài theo thể lục bát, tiếp theo các thể song thất lục bát, hát nói (ca trù), chầu văn. Chỉ cần ba buổi làm việc với Thanh Ngoan, tôi đã có cái vốn hiểu biết rất chính xác về ba loại nghệ thuật trên để viết sách. Vậy tôi xin ghi ở đây lòng tri ơn với Thanh Ngoan và tình cảm chân thành với nghệ sĩ Thúy Ngần, Thu Yên, Thu Phương; nhạc sĩ Thao Giang. Nội dung bộ GTHT chia làm 2 giai đoạn rõ rệt : Giai đoạn đầu (1257-1280) Các nhân vật chính là : Vũ Uy vương Trần Nhật Duy và vương phi Trần Ý Ninh. Vũ Uy vương trong ĐVSKTT, VSL có chép, song rất ngắn, rất ít. Nhưng trong sử Trung quốc, sử Mông cổ, gia phả chép rất nhiều. Vương phi Trần Ý Ninh thì trong sử Việt không thấy chép, nhưng trong các gia phả, trong các cuốn phổ thì chép nhiều hơn vương. Nhiều vô cùng. Vương là con trưởng của vua Trần Thái tông và Tuyên phi Mai Đông Hoa. Nhưng vì Tuyên phi xuất thân là ca kĩ, nên dù vương là người tài trí bậc nhất trong 8 anh em, công lao với xã tắc cao ngất trời nhưng không được lập làm Thái tử. Mà ngôi Thái tử truyền cho em thứ 3 của vương là Hoảng, sau là vua Trần Thánh tông. Nguyên do : theo lẽ chính thông của nho gia. Vua Trần Thái tông được truyền ngôi vì là phò mã của vua Lý Huệ tông, thì vua Trần Thái tông phải truyền cho cháu ngoại của vua Huệ tông là hoàng tử Hoảng, con của công chúa Thuận Thiên. – Thời Nguyên phong (1257), trong lần bình Mông thứ nhất, vương là Tổng trấn Bắc cương, đã đánh Ngột Lương Hợp Thai những trận kinh thiên động địa tại Thảo lâm, Bình lệ Nguyên, Phù lỗ, Cụ bản. – Vương là người nhã lượng cao trí, khuất thân cầu hiền, nên nhân tài trong nước tụ về trong vương phủ của vương rất nhiều. Sau trận giặc năm 1257, vua Thái tông muốn nhường ngôi cho thái tử Hoảng, để làm Thái thượng hoàng. Nhưng vì sau trận giặc 1257, uy tínVũ Uy vương lên cực cao, vương nắm binh quyền trong tay, văn võ quan đều hướng về vương. Bấy giờ Mông cổ đòi triều đình Việt phải nhận 6 điều : ▪ Một là đích thân quốc vương phải vào chầu, ▪ Hai là đem trưởng nam làm con tin, ▪ Ba là kê biên dân số, ▪ Bốn là phải chịu quân dịch, ▪ Năm là phải nộp thuế, lương thảo. ▪ Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) . Vua Thái tông mượn cớ đó sai vương đi sứ Mông cổ, làm con tin. Vì vương là con trưởng, để có thể truyền ngôi cho thái tử Hoảng mà không sợ vương đem quân về làm chính biến; như Đường Thái tông đã giết anh là thái tử Kiến Thành, em là Nguyên Cát.Như các con vua Lê Đại Hành, các con vua Lý Thái tổ. Trong sứ đoàn vương đem theo 5 nhân vật lừng danh lịch sử: Thiên trường ngũ ưng là : – Dã Tượng Trần Quốc Kinh, – Yết Kiêu Trần Quốc Vỹ. – Nguyễn Đại Hành, – Cao Mang, – Nguyễn Địa Lô. Thêm 7 giai nhân sắc nước hương trời, được danh sĩ Long thành tặng danh hiệu Tô lịch thất tiên, đó là 7 nhân vật trong tôn giáo, gia phả, huyền sử : Hoàng Hoa, khuê danh Lê Thị Phương Dung, sau là thứ phi của Ngột Lương Hợp Thai. Bạch Hoa, khuê danh Đặng Thị Anh. Sau là Tuyên phi của Hốt Tất Liệt. Huyền Hoa, khuê danh Vương Hoài Linh. Sau là Nguyên phi của vua Mông cổ là A Lý Bất Ca Thanh Hoa, khuê danh Tô Kim Huệ. Sau là Tuyên phi của đại hãn Mông Ca. Hồng Hoa, khuê danh Vũ Nguyệt Hương.Sau là hoàng hậu của Bắc Liêu vương Tháp Sát Nhi. Tử Hoa khuê danh Cao Đại Nhu. Sau là vương phi của Cáp Thiết Sáp Nhi. Lan Hoa, khuê danh Cao Thiếu Nhu. Sau là thái tử phi của Ngọc Mộc Hốt Nhi. Đó là 7 kĩ nữ, từ chỗ xấu xa cùng cực, đem thân cho thiên hạ mua cười; biết dùng nhan sắc, dùng tài ca hát giúp nước, làm rung động giang sơn Đại Việt, Mông cổ, Tống, Liêu, Kim, Đại lý. Đúng công trạng, các bà phải được phong là Quốc mẫu. Nhưng đời Trần, tước Quốc mẫu chỉ được phong 1 lần, cho 1 người là bà Trần Kim Dung, hoàng hậu của vua Lý Huệ tôn, sinh mẫu của vua Lý Chiêu Hoàng, cuối cùng là vợ của Thái sư Trần Thủ Độ. Vì vậy 7 bà được triều đình phong tước Thánh mẫu. Khi thác, các bà rất linh thiêng, thường nhập đồng, nên trong tôn giáo, kính trọng 7 bà thường gọi là Đông a Thất vị thánh mẫu. Ngoài ra, vương còn mang theo 5 nhân vật trong văn nghệ, trong huyền sử, trong tôn giáo, trong gia phả là Đông hoa ngũ tiên: Hồng Nga, khuê danh Phạm Thúy Hồng. Sau là vương phi của A Truật, 1 trong các khai quốc công thần của Nguyên. Thúy Hồng, khuê danh Lý Thúy Hồng. Sau là phu nhân của Dã Tượng. Về già ngộ đao đi tu, đắc quả Bồ tát. Ngài là một tổ Mật tông Đại việt. Thúy Nga, khuê danh Hà Thị Thúy. Sau là vương phi của thân vương A Lan Đáp Nhi, tể tướng Mông cổ. Thanh Nga, khuê danh Nguyễn Thị Thanh Nga. Sau là vương phi của Trung nghĩa vương Đại Việt. Thúy Trang, khuê danh Cao Thúy Trang. Sau là hoàng hậu Nãi man. Một đại quốc đối kháng với Nguyên. – Với tài trí, với nhã lượng, ôn nhu, biết xử dụng Thiên trường ngũ ưng, Tô lịch thất tiên, Đông hoa ngũ tiên ; trong khi đi sứ Vũ Uy vương đã kết thân với anh hùng Đại lý, Thổ phồn, Sơn đông Trung quốc, Cao ly, Hồi Cương thành lập thế Quần lang chiến hổ. Chống lại Mông cổ. – Vương dùng tài trí giúp Tống chống Mông cổ, ép Tống trả lại 3 châu Khâu bắc, Chiêu dương, Văn sơn bị Trung quốc chiếm từ thời Lĩnh nam (44 sau Tây lịch), mà Tống đang dung dưỡng cho bọn Thổ phỉ Thân Long cai trị như một nước riêng. Ba châu này nằm giữa Đại lý, Tống và Đại Việt. – Vương tổ chức, dùng mỹ nhân kế, gây chia rẽ giữa vua Mông cổ là Mông ca với em ruột là thân vương Hốt Tất Liệt. Bấy giờ Hốt Tất Liệt đang nắm quân nghiêng nước đánh Tống. Với tài trí của Hốt Tất Liệt thì việc diệt Tống chỉ trong một hai năm. Diệt Tống xong Hốt Tất Liệt sẽ đánh Đại Việt. Kết quả Mông Ca thu binh quyền của Hốt Tất Liệt. Các cánh quân đánh Tống, tạm ngừng. Uy tín Vũ Uy vương trấn động Hoa, Việt, Cao ly, Hồi cương, Đại ly, Thổ phồn. – Hốt Tất Liệt bị thu binh quyền, Mông ca thân chinh đánh Tống. Tống lâm nguy cầu cứu với Đại Việt. Bấy giờ vua Thái tông đã nhường ngôi cho vua Thánh tông. Vua Thánh tông chưa nắm được triều đình. Vua Thái tông lên làm Thái thượng hoàng, nhưng vẫn nắm quyền. Sợ Vũ Uy vương có thể cướp ngôi vua của em. Vua Thái tông sai vương đem quân trợ Tống. Mục đích cho vua Thánh tông nắm được binh quyền, nắm được nền cai trị. Vũ uy vương, vương phi đem theo Thiên trường ngũ ưng, Tô lịch thất tiên, Đông hoa ngũ tiên, với 5 vạn quân trợ Tống. Vương đánh các trận kinh thiên động địa là Thành đô, Điếu ngư, Ô Giang, Trường thảo, giết chết Đại hãn Mông cổ là Mông Ca. Gây ra cuộc chiến tranh tương tàn giữa anh em Hốt Tất Liệt, A Lý Bất Ca. Tuy mặt trận Tứ xuyên, Mông Ca tử trận, nhưng mặt trận Tương dương, Phàn thành, Hốt Tất Liệt đã vượt Trường giang, chiếm 11 châu, 41 thành của Tống. Hốt Tất Liệt vội ký hòa ước với Tống, chịu trả 11 châu, 41 thành, lập ra triều Nguyên để quay về chính quốc tranh ngôi vua với A Lý Bất Ca. Vũ Uy vương lợi dụng dịp này khích động các lãnh tụ chư hầu Mông cổ tách ra làm 5 nước đối kháng với Nguyên : – Nãi man, – Sơn đông, – Bắc liêu, – Kim trướng, – Mông cổ. Sau khi chiến thắng, Tống phong cho Vũ Uy vương tước Hành sơn vương. Lãnh thổ gồm các vùng phía nam Trường giang như Trường sa, Hồ nam, Quý châu, Quảng đông, Quảng tây. Nghĩa là trọn vẹn phần lãnh thổ của tộc Việt thời cổ bị Trung quốc chiếm từ thời Tần Thủy hoàng, thời Hán, Đường. Cuộc nội chiến Mông cổ cực kỳ khốc liệt. Cuối cùng Hốt Tất Liệt thắng A Lý Bất Ca, quân lực Mông cổ bị kiệt quệ. Nhờ vậy mà Tống được yên trong hơn 20 năm. Đaị Việt không sợ cái họa Mông cổ nữa.Vìø cuộc nội chiến, tinh lực Mông cổ bị tan nát. Thế hệ thanh niên từ 18 đến 40 gần như chết hết. Giai đoạn hai (1281-1289) Sau 20 năm yên ổn, với thiên tài của Hốt Tất Liệt, tinh lực vùng Thảo nguyên phục hồi. Hốt Tất Liệt huấn luyện lớp thanh niên mới từ 18 tới 30 tuổi, tạo thành những đội binh thiện chiến như thời Thành Cát Tư Hãn. Ông ta cũng huấn luyện thanh niên Trung quốc vùng Hoa bắc, vùng Tứ xuyên, lập những đội kị binh như Mông cổ. Ông ta xua binh vượt Trường giang đánh Tống. Nhờ biết dùng Hán pháp cai trị Trung quốc, tổ chức triều chính, dùng quan lại Trung quốc. Nên dân Hán không coi Hốt Tất Liệt là Hung nô, là Thát đát. Ông ta hết sức chiêu mộ, trọng đãi nho sĩ, nhân tài Hán, nên đánh đến đâu, quan, quân Tống đầu hàng đến đó. Nguyên thắng Tống như chẻ tre. Cuối cùng triều đình Tống bị phục kích ở Nhai sơn. Đế Bính cùng thái hậu, hậu cung, triều đình cùng đường nhảy xuống biển chết đến 20 vạn người. Trong khi đó vùng trấn nhậm Kinh hồ của Vũ Uy vương, Nguyên không dám đánh, mà gửi sứ chiêu hàng. Vũ Uy vương hỏi ý kiến triều đình Việt. Thượng hoàng Thánh tông trả lời : « Vương làm vua vùng Kinh hồ cho Tống, mà Tống không còn nữa. Vậy vương hãy xem ý dân vùng Kinh hồ, nếu họ còn tưởng nhớ đến Tống triều, thì vương suất lĩnh quân dân chống giặc. Còn như họ không còn nhớ đến Tống nữa thì có chống cũng vô ích. Chỉ gây ra vạ núi xương, sông máu mà thôi ». Sau khi Vũ Uy vương tham khảo ý kiến các tướng lĩnh, các quan Kinh lược sứ, quận huyện Tống, họ đều muốn hàng. Vương trao đất cho Nguyên, rồi lên đường về Đại đô làm con tin cho Đại Việt. Hốt Tất Liệt kính trọng tài năng của vương, phong cho vương chức Tổng trấn miền Tây Mông cổ gồm các nước Tây hạ, Hoa Thích Tử Mô, Afganistan, Iran, Irak ngày nay. Khi Vũ Uy vương rời Kinh hồ thì là lúc Hốt Tất Liệt sai Toa Đô đem quân sang đánh Chiêm. Triều đình Đại Việt biết âm mưu của Nguyên là đánh Chiêm, để chuẩn bị một mũi dùi đánh vào nam Đại việt. Nên quyết định gửi 5 vạn binh, 500 chiến thuyền viện Chiêm ; cử Hưng Nhượng vương làm tư lệnh mặt trận viện Chiêm. Thời gian này, Vũ Uy vương sinh một thế tử đặt tên là Trần Quốc Toản. Theo hội điển sự lệ triều Trần, khi một thế tử con tước vương sinh ra thì được phong tước hầu. Triều đình phong cho Quốc Toản tước Hoài Văn hầu, ấp phong là Hàm tử, dù Quốc Toản còn bế ngửa ở Trường sa. Thượng hoàng ban cho Quốc Toản một thanh kiếm. Vương, vương phi lên đường sang Nguyên, thì Quốc Toản đã 11 tuổi. Phi gửi Quốc Toản về nước cho bà nội là Tuyên cao thái phi Mai Đông Hoa nuôi. Những giai nhân Vũ Uy vương cống cho Nguyên, được sủng ái như Bạch Liên là sủng phi của Hốt Tất Liệt, Hồng Nga là sủng phi của A Truật đã khám phá ra có 2 thân vương Đại Việt âm thầm làm gian tế cho Nguyên, mong được Nguyên phong cho tước An Nam quốc vương. Nhưng Hốt Tất Liệt hết sức giữ kín, y đánh dấu vào hồ sơ hai tên gian vương này bằng dấu hiệu hình vuông và tròn. Vũ Uy vương đã phúc trình về Đại Việt. Nhưng trong họ Đông a có đến hơn trăm tước vương. Triều đình đành im lặng để giữ tình đoàn kết trong họ. May thay một giai nhân trộm được một bức thư của gian vương gửi cho Nguyên. Vương phi Ý Ninh lấy bức thư đó nhét vào chuôi kiếm của Quốc Toản, rồi dặn con : khi về nước, yết kiến Thượng hoàng, thì lấy bức thư dấu ở chuôi kiếm ra trình, Thượng hoàng căn cứ bào bút tự, tìm ra một gian vương. Khi Quốc Toản về tới Tiên yên thì bị gian nhân bắt cóc, đó là bọn Trần Di Aùi, Trần Tú Hoãn, Trần Văn Lộng, Trần Quang Kiện. Chúng khám trong hành lý tìm bức thư chứng cớ, nhưng không thấy. Chúng phao rằng Tế tác (gián điệp) Nguyên bắt cóc Quốc Toản, giết chết, rồi cho một thiếu niên giả Quốc Toản. Chúng giam Quốc Toản vào một cái giếng cạn, rất sâu, rất rộng, thông với một hầm đá. Không ngờ hầm đá đó là nơi cuối đời bồ tát Minh Không nhập diệt. Hầu tìm được các thẻ đồng chép bộ Lĩnh Nam vũ kinh, bảo quốc trấn bắc, bình nam của bồ tát Minh Không.Hầu luyện thành bản lĩnh vô địch. Trong khu rừng chỗ giếng khô bọn gian còn giam một con vượn. Con vượn này trước đây bồ tát Minh Không nuôi nó, dậy Thiền cho nó, nên công lực nó rất cao. Có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất, Quốc Toản thoát khỏi giếng khô, thì gặp một thiếu niên, đó là Hoài Nhân vương Trần Quốc Kiện, con của vua Trần Thánh tông. Vương cũng là nạn nhân của bọn Trần Di Aùi, Trần Quang Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tù Hoãn. Vương được phụ hoàng Thánh tông trao cho bọn này dạy dỗ. Nhưng chúng không dậy gì cho vương, mà cáo với vua rằng vương không học văn, luyện võ, lười biếng. Thế là Quốc Toản dạy võ cho Hoài Nhân vương. Anh em vô tình khám phá ra Trần Di Aùi chính là gian vương Tròn. Đó là lý do y cùng các con bắt giam Quốc Toản, để có thể làm áp lực với Vũ Uy vương. Hai anh em về Thăng long, đúng lúc triều đình cử Trần Di Aùi đi sứ Nguyên, thay vua sang chầu Hốt Tất Liệt. Anh em tố cáo âm mưu của cha con Trần Di Aùi với Thượng hoàng. Nhưng bấy giờ sứ đoàn đã sang tới lãnh thổ Nguyên. Quốc Toản nhận ấp phong Hàm tử. Hầu được Trung Thành vương huấn luyện thanh niên nam nữ, tổ chức thành hiệu binh Hàm tử. Thượng hoàng sai Quốc Kiện, Quốc Toản làm Khâm sứ viện Chiêm. Trên đường đi, hai người trợ giúp một thiếu nữ bị Tuyên phủ ty Nguyên đuổi bắt. Đó là công chúa Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la (Sri Harivarman) Nang Tiên. Nang Tiên cảm động, thế là trai tài, gái sắc gặp nhau. Nang Tiên với Hoài Nhân vương kết thành tình thanh mai, trúc mã (sau này thành vợ chồng). Quốc Toản, Quốc Kiên, Nang Tiên phối hợp liên quân Việt Chiêm, đánh tan các đội quân Nguyên tại Chiêm. Hai vị trở về Thăng long, giữa lúc triều đình được tin Nguyên phong cho Trần Di Aùi làm An Nam quốc vương, sai Sài Thung hộ tống về nước. Triều đình quyết định cử Quốc Toản, Quốc Kiện đem quân đi đánh Sài Thung, bắt Trần Di Aùi. Trong buổi triều hội này xưởng chế vũ khí, đúc 2 thanh kiếm rất sắc bén. Thượng hoàng đặt cho thanh lớn là Trấn bắc, thanh nhỏ là Bình nam. Ngài treo thanh Trấn bắc tại cửa bắc thành Thăng long, treo thanh Bình nam ở của nam thành Thăng long, và ban chỉ : – Bất cứ thân vương, hầu, tướng sĩ nào đi qua cửa, mà kiếm dao động, sẽ được ban cho thanh kiếm đó. Quốc Toản qua cửa bắc thanh kiếm rung động, nên hầu được ban kiếm, phong chức Trấn bắc đại tướng quân. Phạm Ngũ Lão qua cửa nam thanh kiếm rung động, được ban kiếm phong chức Bình nam đại tướng quân. Quốc Toản, Quốc Kiện chỉ huy lực lượng Cần vương Tống bắn mù mắt Sài Thung, diệt trọn vẹn một thiên phu kị binh Mông cổ, bắt sống Trần Di Ái và bọn Lê Tuân, Lê Mục. Hốt Tất Liệt nổi giận, lập An Nam chinh thảo hành tỉnh (Bộ tư lệnh quân đội đánh An Nam)sai hoàng tử thứ chín là Thoát Hoan, thuộc loại người văn mô vũ lược, đem 50 vạn quân sang đánh Đại việt bằng ba mũi : thứ nhất tràn từ bắc sang. Thứ nhì do Vân Nam vương tiến theo đường phía tây. Toa Đô đánh từ Chiêm thành vào phía nam (1285). Quốc Toản, Quốc Kiện chiến thắng trở về, giữa lúc triều đình họp đại hội Bình than, nghị kế chống giặc. Hai người bị Chiêu Quốc vương Trần Ich Tắc không cho dự. Quốc Toản giận quá, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không hay. Hầu trở về kéo hiệu binh riêng tên Hàm tử, trên cờ viết 6 chữ Phá cường địch, báo hoàng ân. Tiếp theo đại hội Bình than, theo đề nghị của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, triều đình tổ chức đại hội mời các bô lão về điện Diên hồng dự yến để hỏi ý kiến xem nên chịu nhục, khuất phục, mở cửa cho quân Nguyên vào nước, chịu 6 điều do Nguyên đưa ra hay chống giặc. Tất cả các bô lão đều bầy tỏ ý kiến : chiến. Thế là sau đại hội, các bô lão trở về xuất lĩnh dân chúng : nam nữ, già trẻ quyết tâm giữ làng chống giặc. Triều đình cử người về từng thôn, từng ấp, huấn luyện dân chúng thành Nghĩa dũng binh chống giặc, tổ chức mỗi làng thành một đồn lũy, phòng giặc. Đó là lý do quân Nguyên tuy đông, nhưng khi đánh chiếm được vùng nào, sau khi đi qua, vùng đó lại vẫn thuộc về triều đình. Thế rồi quân Nguyên ba mặt tấn công Đại việt. Quân Việt theo sách lược của Hưng Đạo vương chỉ chống cự qua loa, rồi ẩn vào dân chúng, chờ cho giặc vào sâu trong nước, trải quân rộng rồi phản công. Không ngờ Chiêu Quốc vương Trần Ich Tắc, tổng trấn Thăng long, Quản khu mật viện hàng giặc, nảy ra vương chính là gian vương Vuông. Vương cung cấp tất cả kế hoạch phòng thủ Đại việt cho giặc, vì vậy những căn cứ phòng vệ chính đều bị Nguyên chiếm. Thoát Hoan chiếm Thăng long, tự cho rằng đã bình định được Đại việt. Y sai đúc một ống đồng, bắt chước Mã Viện trồng cột đồng trụ. Trên ống đồng khắc một bài minh ghi chiến công của mình. Giữa lúc y hân hoan sai chở ống đồng ra hồ Tây dựng lên thì quân Việt phản công. Y phải chui vào ống đồng bỏ chạy. Trong khi đó Toa Đô, Ô Mã Nhi từ Thanh hóa theo đường biển tiến dọc sông Hồng, định bắt tay với lực lượng của Thoát Hoan. Y không biết Thoát Hoan chạy trốn rồi. Khi đạo binh của y tới Hàm tử thì bị Hoài Văn hầu đánh tan, chém đầu. Thoát Hoan bị thua nhục nhã, Hốt Tất Liệt nhất định dốc quân nghiêng nước sang đánh trả thù (1287)ø. Cũng 50 vạn quân thủy, bộ, kị kéo qua. Lần này không còn đạo binh đánh vào Nam thùy nữa, mà thay vào đó với một lực lượng thủy quân hùng hậu. Nhưng Hốt Tất Liệt phạm vào một lỗi lầm quan trọng, khi không chú ý đến thủy quân Đại việt : Thủy quân Việt dùng tới 4 loại thuyền khác nhau : – Đại chu là loại lớn có thể chở được từ 300 đến 500 quân. Dùng để chuyển quân, chuyên chở lương thảo. – Trung chu, có thể chở được từ 100 đến 200 quân, dùng để tác chiến trên sông lớn, trên biển. – Tiểu chu là loại có thể chở từ 20 đến 100 quân, dùng để tác chiến trên tất cả sông lớn, sông nhỏ. – Thần tốc chu, là loại nhỏ nhất, chở được từ 4 người đến 15 người. Loại này là lực lượng chủ yếu tác chiến trên sông, di chuyển cực nhanh. Đây là loại thuyền gây thiệt hại cho Nguyên nhiều nhất. Lần trước đạo binh Vân nam chỉ là một cánh quân yếu. Lần này đạo binh Vân nam cực kỳ hùng hậu. Hốt Tất Liệt chú ý đến bọn phản quốc Trần Ich Tắc. Y gọi chúng về Đại đô, làm lễ tấn phong cho Ích Tắc lĩnh An Nam quốc vương. Con Ích Tắc được phong hầu. Lại phong chức tước cho bọn Trần Văn Lộng, Trần Tú Hoãn. Rồi sai chung theo Thoát Hoan về nước. Cũng như lần trước khi quân Nguyên vào sâu trong nước, bị muỗi đốt, bị lam chướng, quân Việt phản công. Các đường tiếp tế lương thực bị chặn đánh. Đoàn thuyền chở lương bị nhận chìm ở Vân đồn. Tuyệt vọng, Thoát Hoan đành ra lệnh lui binh. Tất cả các cánh quân, trên đường rút về, bị quân Việt phục kích, chết, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Cánh rút theo đường thủy bị chặn đánh tại sông Bạch đằng. Toàn bộ chu sư bị bắt, bị đánh chìm. Ô Mã Nhi, Phàn tiếp bị bắt sống. Thoát Hoan bại binh trở về, bị Hốt Tất Liệt đuổi ra Dương châu, suốt đời không nhìn mặt, không cho về triều. Hốt Tất Liệt chuẩn bị báo thù, xâm lăng lần thứ 4. Nhưng chưa kịp ra quân thì băng hà. Thế là một hoàng đế vĩ đại nhất Trung quốc, ba lần mang quân nghiêng nước, đánh một nước Đại Việt nhỏ bé, bị thảm bại. Đại đế tức mà chết, chết rồi còn tức. Bây giờ xin Quý độc giả cùng tôi ngước mắt nhìn về 7 trăm năm trước xem các vị Anh hùng Đông a, giết giặc Nguyên như thế nào, để tự hào là con cháu các ngài. Paris ngày 31 tháng 12 năm 2009 Nhằm ngày 16 tháng 11 năm Kỳ sửu. Hồi thứ năm mươi mốt Sách lược trấn Bắc Bấy giờ là niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 (1258) đời vua Thái Tông nhà Trần. Tháng 12, thái sư Mông cổ Ngột Lương Hợp Thai thống lĩnh 20 vạn quân, gồm 10 vạn Lôi kỵ, 10 vạn hàng binh Đại lý tiến đánh Đại việt. Hưng Đạo vương thiết kế: “ Binh tướng Mông cổ đều là Kị binh, thiện chiến, hung dữ. Vũ khí chính của họ là cung-tên. Từ tướng dến quân của họ đều sống trên vùng Thảo nguyên cực bắc, đồng cỏ mênh mông. Khí hậu vùng cực Bắc quanh năm lạnh đến xé da, cắt thịt. Người ngựa đều chịu lạnh rất giỏi. Chiến thuật của họ sở trường về dàn quân trên những vùng đất khô, trên cánh đồng rộng. Gần đây sau khi đánh sang Tây vực, họ chế ra máy bắn đá phá thành. Vì vậy họ tung hoành khắp Kim, Liêu, Tống, Tây hạ, và mấy chục nước Tây vực không nơi nào đương nổi. Trong lần thiết triều, hồi họ mới tới Bắc cương, thái sư (Trần Thủû Độ) đã giảng giải rất kỹ về lịch sử, phong tục, tồ chức chính trị, luyện quân cùng chiến² thuật của họ. Chúng ta đều thuộc nằm lòng rồi. Chính sách của Thái Tổ Hốt Tất Liệt là: mỗi khi đánh vùng, một thành, họ kêu gọi quan lại, tướng sĩ, dân chúng đầu hàng. Nơi nào tuân theo thì họ cấm quân sĩ tuyệt đối không được hãm hiếp, giết người, cướp của, đốt nhà. Quan lại, binh tướng họ vẫn cho tồn tại. Họ sẽ dùng binh tướng đầu hàng làm tiên phong đánh các vùng khác. Quan lại, tăng lữ phải đốc thúc dân chúng cung ứng lương thảo, cùng người lao dịch cho họ. Vì vậy họ không cần tiếp vận lương thảo từ Mông cổ sang. Bây giờ họ sang đánh ta, ta phải đối phó ra sao? “Vô hiệu sở trường của họ.Biến sở trường của họ thành sở đoản. Dùng sở trường củata.Biến sở đoản của ta thành sở trường.” Ta phải áp dụng bẩy điều: Một là, về chiến thuật, tuyệt đối ta không dàn quân đánh với họ. Nếu ta cũng dàn quân đối địch với họ là đem sở đoản của mình, đấu với sở trường của họ. Địa thế của ta, đường của ta từ Bắc cương về Thăng long nhỏ hẹp, chỉ cho phép kị binh đi hàng một, đi chậm, không thể phi nhanh. Trên đường có nhiều cầu nhỏ, kị binh không thể qua. Aáy là không kể nhiều đoạn lầy lội, ngựa bị lún chân. Địa thế khiến kị binh của họ không còn tung hoành được. Hai là, khí hậu của ta thấp nhiệt, muỗi, vắt, sâu, bọ nhiều. Người ngựa của họ vốn sống ở Thảo nguyên lạnh lẽo, không thể chịu nổi khí hậu, đầy đặc lam chướng của ta. Người của họ chỉ ăn thịt, nay sang ta phải thì thịt hiếm, họ phải ăn cơm, cá, tôm, rau, đậu. Họ không có khả năng dánh cá, bắt tôm. Người, ngựa của họ ăn rau, đậu, cỏ của ta, đầy sâu bọ, kiến ruồi. Cả người, ngựa uống nước có cung quăng, đỏng đảnh độc. Chỉ cần mươi ngày, chậm lắm là một tháng thì không cần đánh, thời khí, lam chướng, bệnh tật… giết giặc giùm ta. Ba là, hiện ta không có những thành cao, hào sâu, đóng quân trấn giữ. Sở trường phá thành, công kiên của họ một lần nữa trở thành vô dụng. Trong khi đó, toàn quốc, mỗi làng-ấp của ta ngoài có hào sâu, trong có lũy tre bao bọc. Kị binh của họ không thể dàn ra tấn công, sở trường của họ trở thành sở đoản. Khi kị binh phải rời ngựa, thì sức chiến đấu thua bộ binh, lại càng thua nông dân của ta vốn lội bùn, bơi sông rất giỏi. Bốn là, với thói quen, Mông cổ đi đến đâu dùng quan lại, dân chúng cung đốn lương thảo. Lương thảo 20 vạn người ngựa do vua quan Đại lý mới đầu hàng cung đốn chỉ có giới hạn. Họ nghĩ rằng đánh sang ta, họ sẽ dùng quan lại đầu hàng ép dân chúng cung đốn, hoặc cướp lấy. Nhưng lương thảo của ta đều cất rải rác ở làng xã. Vì vậy ta cần kéo dài thời gian, lẩn tránh, đợi lương thảo của họ cạn; muỗi, ruồi, lam chướng, sốt rét đánh binh tướng của họ bệnh tật, mệt mỏi; ta thắng họ dễ dàng. Năm là, ta dẫn dụ cho họ vào sâu trong lãnh thổ, họ phải dàn quân ra đóng đồn phòng vệ. Còn, ta phân tán tướng sĩ về các trang, ấp, huấn luyện dân chúng, cùng dân chúng chiến đấu giữ làng. Ta biến cả nước là thành, toàn dân là binh. Rồi ta quan sát, thấy địch đi lẻ lẻ thì tấn công. Tấn công xong lại phân tán. Giặc không biết ta ở đâu. Như vậy kị binh trở vô dụng. Sáu là, đợi cho giặc mệt mỏi, ta xuất quân bao vây đánh các đoàn quân đóng bảo vệ đường từ biên giới về Thăng long. Chính sách bắt hàng quan cung đốn lương thảo không thành. Đem quân đi cướp lương của dân thì gặp phải sức kháng cự của làng xã. Lương tiếp viện hoặc bị cạn, hoặc đường vận chuyển bị chặn. Lương tuyệt thì quân tan. Thứ bẩy, Mông cổ không quen thủy tính, ta dùng Thủy quân lưu động chuyển quân, đánh cắt đường tiếp vận; hoặc tập trung quân tấn công. Ngựa của họ không thể lội ruộng. Ta dùng ngưu binh đánh kị binh. Đó là dùng sở trường của ta, đánh sở đoản của họ”. Sách lược định rồi, triều đình, hậu cung, quan lại, vợ con tướng sĩ … phân tán vào các làng xã. Triều đình lại truyền lệnh cho dân chúng di tản khỏi Thăng long. Nhưng vì một là dân chúng tiếc của, hai là trì nghi, ba là chậm chạp. Vì vậy khi giặc tới Thảo lâm, mà dân Thăng long vẫn còn phân nửa chưa di tản. Hưng Đạo vương lệnh cho: – Vũ Uy vương Nhật Duy trấn nhậm vùng Bắc cương, bao gồm từ biên giới tới Kinh bắc. Nhiệm vụ chính giai đoạn đầu là làm chậm bước tiến của giặc. Giai đoạn hai là phục binh đánh viện quân, cùng các đoàn tiếp vận lương thảo. – Nhân Huệ vương Khánh Dư trấn nhậm vùng tây Thăng long. – Khâm Thiên đại vương Nhật Hiệu trấn nhậm vùng đông nam Thăng long. – Hưng Ninh vương Quốc Tung tổng lĩnh lực lượng phản công. – Để khích cho giặc khinh địch, chính Nguyên Phong hoàng đế cùng tướng quân Lê Tần, dàn thủy, bộ, kị, ngưu binh tại Bình lệ nguyên ngăn giặc. Trận đánh phải làm sao đạt ba nhiệm vụ: Thứ nhất đánh cho giặc biết binh tướng Đại việt can giảm, thiện chiến, nhưng quân ít, nên phải thua. Thứ nhì, cần bảo tồn lực lượng. Thứ ba, đánh thực mau, rút thực nhanh, phân tán vào làng xã. – Lập hai phòng tuyến tại Phù lỗ, Cụ bản, mục đích làm chậm bước tiến của giặc, để triều đình đủ thời gian di tản dân chúng khỏi Thăng long. Diễn tiến các trận đánh đúng như kế hoạch, duy một biến cố xẩy ra: Khâm Thiên đại vương không tuân lệnh Hưng Đạo vương, dàn quân tại cánh đồng Văn chống giặc. Đại bại! Ba hiệu quân tinh nhuệ bị đánh tan. Khi quân Mông cổ vào Thăng long, một số dân chúng cưỡng lệnh triều đình, không di tản, bị giặc tàn sát khủng khiếp. Ngột Lương Hợp Thai ra lệnh đốt sạch cung điện, nhà cửa. Cũng như khi dánh sang các nước phương tây, y sai tập trung dân lại từng khu, lựa lấy những thợ giỏi, những nghệ nhân, những đàn bà con gái đẹp. Còn bao nhiêu chúng giết sạch. Thăng long biến thành bãi đất hoang! Nhưng dân chúng, quan lại trên toàn quốc vẫn không kinh sợ, cương quyết chống giặc. Quân dân thấy giặc tập trung đông thì phân tán; thấy giặc đi lẻ lẻ thì tập trung tấn công. Quân dân Việt cứ như những bóng ma, đặt đạo quân Lôi kị thiện chiến của Mông cổ trong thế bị động. Sau hơn tháng, thấy người, ngựa Mông cổ, phần bị tiêu hao trong các trận đánh nhỏ, phần thì bệnh do thời khí, lam chướng, phần vì mệt mỏi do muỗi, mòng, vắt. Hưng Đạo vương quyết định phản công. Mặt trận Bắc cương, Vũ Uy vương đánh chiếm tất cả các đồn từ biên giới tới Kinh bắc. Bốn căn cứ chính Thảo lâm, Bình lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản là nơi đồn trú lương thảo, bị quân dân Đại Việt tràn ngập. Tại Thăng long, Hưng Ninh vương thách Ngột Lương Hợp Thai quyết chiến tại Đông bộ đầu. Mông cổ chỉ có Lôi kị, trong khi quân Việt phối hợp nhịp nhàng kị binh, bộ binh, ngưu binh, thủy binh. Trận đánh diễn ra thực kinh khủng. Một bên là đạo quân tinh nhuệ từng sải vó ngựa khắp vùng Thảo nguyên, đánh tan những đạo binh tinh nhuệ nhất của Kim, Liêu, Tống, Tây hạ, Đại lý; từng đại phá những đạo binh thần thánh của Thập tự quân, những đạo quân Thánh chiến Hồi giáo quyết tử. Một bên là dân-quân Việt hiền hậu, nhưng lâm đường cùng lấy cái chết để bảo vệ đất tổ, bảo vệ làng xã, bảo vệ bố mẹ, anh em, vợ con và chính bản thân mình. Trận đánh từ giờ thìn (7-9 giờ), tới giờ dậu (15-17 giờ), trên bờ kị binh, bộ binh hai bên bất phân thắng bại. Nhưng về chiều, Mông cổ bị thủy quân đánh vào hông trái, Ngưu binh vượt đồng lầy đánh vào hông phải. Mông cổ bị bại, lập trận cố thủ trong những ngôi nhà dân chúng. Đúng lúc đó tin báo: mặt trận phía Đông Nam, thái tử Hoảng phá giặc, chiếm lại những vùng đất bị giặc đặt quan cai trị, rồi tái chiếm Thăng long. Đạo binh hùng mạnh nhất thế giới bị tuyệt nguồn tiếp vận lương thảo, tiến lên thì không đủ sức, mà rút thì không đường. Thống lĩnh đại binh là Thái sư Ngột Lương Hợp Thai. Giám quân là phò mã Hoài Đô. Con trai Ngột Lương Hợp Thai là đại tướng A Truật (Aju). Tất cả đều khuất thân xin Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ nghĩ tình huynh đệ, mở vòng vây cho cha con, tướng lĩnh, cùng tàn quân rút về Trung nguyên.(1) Thái sư Trần Thủ Độ, nghĩ lại những tình cảm thời thơ ấu sống tại Thảo nguyên với Ngũ thiết điêu, cũng muốn mở vòng vây tha cho người xưa Ngột Lương Hợp Thai cùng đám bại binh. Tuy uy quyền ông lớn hơn Nguyên Phong hoàng đế, mà không thể tự chuyên: vì tướng thống lĩnh binh mã Bắc cương là Vũ Uy vương, tính khí hào hiệp, nhưng không dễ gì vương đồng ý việc này. Tướng trấn thủ Kinh bắc là Nhân Huệ vương, một vị vương vốn thù ghét Mông cổ tận xương tủy, thì hy vọng gì vương tha cho chúng? Chỉ tướng bao vây Đông bộ đầu là Hưng Ninh vương, người có tâm Bồ tát thì hy vọng. Cái khó khăn nhất của thái sư là phải nói sao với Hưng Đạo vương, người cầm quyền Tiết Chế, mà từ trước đến giờ thái sư luôn nghi ngờ, chèn ép vương? Tóm lại cả bốn vị vương đó khí phách đều khác phàm, mỗi người một tư cách, một hành trạng. Thái sư không thể ra lệnh cho bất cứ vị vương nào. Ông đành xin thiết triều để triều đình quyết định. Nguyên Phong hoàng đế thiết triều trên một chiến thuyền của hạm đội Thần phù ở bến Chương dương. Vì toàn quốc trong thời kỳ chiến tranh, nên mọi lễ nghi đều tiết giảm. Đầu tiên Trung vũ đại vương Trần Thủ Độ trình bầy về tình bạn giữa Thảo nguyên ngũ điêu với vương. Vương xin triều đình một đặc ân là mởû vòng vây cho nghĩa đệ Ngột Lương Hợp Thai cùng bại binh rút khỏi Đại Việt. Vương nhấn mạnh về Ngột Lương Hợp Thai: “ Y là một đại tướng đại tài của Mông cổ. Hồi Thành Cát Tư Hãn xua quân sang đánh các nước phương tây, y theo đạo binh của cha là Tốc Bất Đài. Chỉ với 35 nghìn quân, đạo binh này truy sát đại đế Mộ Hợp Mễ khắp đế quốc của ông. Thế mà nay y thống lĩnh 20 vạn quân, bị ta phá trong thời gian không đầy một tháng. Truyền thống của Mông cổ là khi bị bại ở bất cứ mặt trận nào, họ sẽ dốc quân nghiêng nước sang đánh cho kỳ thắng mới thôi. Vì vậy già này xin thiết triều khẩn cấp, để bệ hạ cùng chư vị đại thần định kế sách đối phó”. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư cương quyết: – Mông cổ là bọn tàn ác không thể tưởng tượng nổi. Khi vào Thăng long chúng đốt phá cung thất đã đành, chúng còn giết hết dân chúng, đốt sạch nhà cửa. Đàn bà thì chúng hãm hiếp xong rồi lột quần áo ném vào lửa. Trẻ con thì chúng cho ngựa dẵm lên. Thần nghĩ, chúng hung ác, dữ hơn beo, hơn cọp, độc hơn rắn rết. Ta có bắt được cọp, beo, rắn rết, thả chúng ra, chúng cũng vẫn là beo, là cọp, là rắn, là rết. Huống hồ bọn ác quỷ Mông cổ? Như Thái sư nói, tương lai chúng sẽ còn sang báo thù. Chúng báo thù thì ta đánh. Ta há sợ chúng sao? Hình ảnh những xác chết trẻ con bị cháy đen thui, đám thiếu nữ 12-13 tuổi bị những tên lính Mông cổ khổng lồ đè ra hiếp dâm, hiếp xong chúng chặt chân, chặt tay, nhìn nạn nhân lăn lộn kêu khóc giữa tiếng cười man rợ của bọn ác quỷ hiện ra. Vương nghiến răng: – Vậy bây giờ ta bao vây tiêu diệt hết bọn tàn ác này. Đối với tù binh, ta đem đốt chết, hay xẻo thịt. Có như vậy bọn sau tới, thấy cái gương bọn đi trước, chúng sẽ kinh sợ không dám tàn ác nữa. Thái sư Thủ Độ đưa mắt nhìn người cháu gọi bằng ông chú (em của ông nội): mới ngày nào còn là cậu bé mà ông nuôi trong dinh như con, bây giờ thành một nam tử hùng vĩ, khí phách hiên ngang, dám chống lại ông. Ông lắc đầu thở dài. Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung đưa ý kiến: – Mông cổ từng chiến thắng Kim, Liêu, Tống, Đại lý và không biết bao nhiêu nước vùng Tây vực. Bây giờ họ đánh ta với mục đích dùng hàng binh, dùng tài nguyên của ta đánh phía sau Tống. Họ ước tính rằng ta sẽ đầu hàng dễ dàng như Đại lý. Họ đâu ngờ bị ta đánh bại? Thần đề nghị mình dùng đức cảm hóa chúng. Ta mở vòng vây, chu cấp lương thảo, dùng lời ngọt dẫn dụ chúng rằng trước đây tiền nhân ta là Lý Long Phi, Trần Thủ Huy, Trần Thủ Độ từng giúp Mông cổ dựng nước. Thế mà Mông cổ lại sang cướp nước ta, như thế là làm mất cái hào khí của Thành Cát Tư Hãn. Ta nhất định không thù oán, ta vẫn duy trì tinh thần của tiền nhân Đại Việt với Mông cổ. Trước cuộc chiến, Mông cổ sai sứ đòi Bệ hạ phải tuân theo sáu điều kiện: Một là đích thân quốc vương phải vào chầu, Hai là đem trưởng nam làm con tin, Ba là kê biên dân số, Bốn là phải chịu quân dịch, Năm là phải nộp thuế, lương thảo. Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) (2) Chúng ta bác bỏ, không tuân theo bất cứ điều gì. Thế thì bây giờ nếu Mông cổ muốn, ta sẵn sàng gửi một hoàng tử có tài nghiêng trời lệch đất sang làm con tin, cũng để giúp họ, nối lại tình xưa. Sau đó ta lại dùng hậu lễ nhún nhường, chịu tuế cống. Như vậy tránh được chiến tranh thì là điều đại phúc cho trăm họ Hoa, Việt. Thái tử Hoảng tỏ ra đồng ý với Hưng Ninh vương: – Tâu, sách lược của Nhân Huệ vương, bao vây giết hết giặc, xử tử bọn tù binh thì làm cho dân chúng, tướng sĩ hả dạ. Mông cổ nghe tin sẽ căm thù ta ghê gớm. Nay cái thế của Ngột Lương Hợp Thai: Lôi kị tuy bị bại, bị giết, bị cầm tù trên năm vạn; họ còn gần năm vạn. Quân Đại lý cũng còn sáu vạn . Nếu bây giờ bao vây diệt hết 11 vạn quân của họ, thì ít ra ta cũng tổn thất vài ba vạn người. Binh thư nói: đạo làm tướng sao cho toàn quân là thượng sách, phá quân là điều không thể, và không nên dùng. Hưng Ninh vương dùng lòng dạ từ bi, quảng đại của một Bồ tát đưa ra đề nghị ấy thực hợp với tình thế hiện nay. Con xin phụ hoàng xét thuận lời tâu của vương, may ra tránh được chiến tranh. Hoặc giả kéo dài thời gian báo thù của Mông cổ càng lâu càng tốt, để ta có đủ thời gian chỉnh bị binh mã, lương thảo. Nguyên Phong hoàng đế hỏi Vũ Uy vương: – Còn con! Con thống lĩnh binh mã vùng Bắc cương, con nghĩ sao về vụ này? Vũ Uy vương là con đầu lòng của nhà vua, văn mô, vũ lược. Vương hòa thuận với tất cả các em đã đành, vương còn tìm đủ cách kết hợp thâm tình với hoàng tộc lẫn văn võ bách quan. Từ năm 13 tuổi, vương được phong vùng Tây Bắc cương làm lãnh thổ riêng. Miền Bắc cương Đại Việt hồi ấy được chia làm hai: Đông cương và Tây cương. Đông cương thuộc Ngũ yên, được phong cho An Sinh vương Trần Liễu, anh ruột nhà vua. Tây cương được phong cho Vũ Uy vương, lấy con sông Hồng hà làm ranh giới Đông-Tây. Đông cương, phía Bắc giáp Quảng Tây, Quảng Đông của Tống. Tây cương giáp Quảng Tây, Đại lý, Lão qua. Vương tâu: – Chúng ta có hai đường lối hành động. Một là của Nhân Huệ vương. Hai là của Hưng Ninh vương và Thái tử. Ta phải chọn đường lối nào có lợi cho Đại Việt. Thực hành đường lối của Nhân Huệ vương ta được gì? Mất gì? Của Hưng Ninh vương ta được gì? Mất gì? Vương ngừng lại để cử tọa suy nghĩ. Trong soái thuyền, thân vương, hoàng tộc bách quan triều Nguyên Phong đều là những người chính khí dọc ngang trời đất, trí tuệ chói lòa. Nay đứng trước quyết định một kế sách giữ nước trong hoàn cảnh cực kỳ quan trọng. Ai cũng trầm tư suy nghĩ. Khoang thuyền có hơn trăm người, mà không một tiếng động. Chỉ có tiếng gió heo may thổi vi vu ngoài song cửa, tiếng sóng vỗ rì rào vào mạn thuyền. Đâu đó tiếng vạc ăn đêm kêu lạc lõng trong bầu trời đông. Chiêu Minh vương Trần Quang Khải phá tan cái không khí tịch mịch ấy bằng câu hỏi Vũ Uy vương: – Theo anh, cả hai đường lối, chúng ta có một cái gì chung chung, không thể bỏ qua chăng? – Chú Quang Khải hỏi câu này, thực phải. Vũ Uy vương trả lời: Thời Lý, tiền nhân Lý Long Phi từng giúp Mông cổ. Tổ tiên ta là Phò mã Thủ Huy và Công chúa Đoan Nghi, rồi ông trẻ Thủ Độ từng là những người tạo ra nước Mông cổ. Việc đó tuy trải gần trăm năm, nhưng ân đức của bốn vị vẫn được nhắc tới. Vậy trong dịp này, ta tha cho Ngột Lương Hợp Thai, Hoài Đô, A Truật cùng đám bại binh về, rồi triều đình gửi người sang làm con tin, làm quan tại triều Mông cổ giúp họ. Như vậy nhất cử nhất động của Mông cổ ta đều biết. Hiện con cháu của Thành Cát Tư Hãn được cắt đất cai trị. Phía Tây vực là một nước, khu Tây hạ là một nước, vùng Kim-Liêu là một nước, vùng Bắc Trung nguyên là một nước. Tất cả lãnh chúa các nước không ai chịu tuân lệnh Đại hãn. Họ đang hầm hè nhau. Người của ta sẽ tìm cách gây cho họ có nội chiến. Khi có nội chiến thì tinh lực không còn. Họ cũng khó mà diệt nổi Tống. Như vậy ta sẽ không lo họ xâm lăng nữa. Vương đưa mắt nhìn Thái sư Thủ Độ: – Vấn đề phân chia lãnh thổ của Thành Cát Tư Hãn thế nào? Tình hình các bộ tộc Mông cổ ra sao, thì không ai biết rõ bằng ông trẻ. Mong ông trẻ ban cho những tin tức chính thức. Thái sư Thủ Độ mỉm cười tiếp lời Vũ Uy vương: – Khi Thành Cát Tư Hãn sắp băng hà, đã chia lãnh địa rộng mênh mông cho bốn người con. Các lĩnh địa này gọi là Hãn địa (Ulus), vua Hãn địa gọi là Vương hãn. Bạt Đô là con Truật Xích lĩnh vùng Kim trướng, tức cực Tây-Bắc (nay thuộc Đông Âu, kể cả Đức, Liên sô, Na uy, Đan mạch, Thụy điển.Trung Đông ngày nay: Iran, Irak, Syrie, Jordanie. Đông Âu, gồm cả Liên sô, Đức). Vương hãn Sát Hợp Đài lĩnh vùng Tây liêu, Thổ phồn, Tây hạ về Tây Nam (Turkestan, đế quốc Khorezm, Afganistan, Pakistan). Vương hãn Oa Khoát Đài lĩnh vùng Đông Bắc Thảo nguyên, Kim, Liêu. Vùng lãnh địa Thảo nguyên, chính quốc Mông cổ cho con út là Đà Lôi. Ông để di chúc cho Oa Khoát Đài thừa kế ngôi Đại hãn. Khi Oa Khát Đài băng, hoàng hậu Nãi Mã Chân chuyên quyền, cho nên đại hội gần đây bên bờ sông Long lý hà, các lãnh chúa tôn Mông Ca (Mongka) con trưởng của Đà Lôi lên ngôi Đại Hãn. Từ sau chiến cuộc lão tướng Trần Tử An được phong tước Tây Viễn vương. Vương tiếp lời Thái sư Thủ Độ: – Tuy Mông Ca được tôn làm Đại hãn, nhưng y không có đủ uy quyền như Thành Cát Tư Hãn. Khi cất quân đánh Tống, y trưng binh của các vương hãn. Các vương hãn chỉ gửi một vài đạo quân tượng trưng. Hiện các vương hãn đang có nhiều xung đột, bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra nội chiến. Ngay trong ba con của Đà Lôi cũng có những mâu thuẫn. Mông Ca tuy được tôn làm Đại hãn, nhưng tài trí thua xa Hốt Tất Liệt. Vì vậy y nghi ngờ em. Cho nên y sai Hốt Tất Liệt viễn chinh, để giảm uy tín. Nhưng không ngờ Hốt Tất Liệt lại thành công, khiến anh em đang có mầm móng chia rẽ, căng thẳng. Còn người em thứ ba là A Lý Bất Ca lại rất được lòng bọn quý tộc, tướng lĩnh gốc Mông cổ. Y nắm một lực lượng quân sự rất lớn ở Thảo nguyên. Thôi để Thái sư tiếp. Thủ Độ đứng lên giảng giải tiếp : – Mông Ca diệt Kim, Liêu rồi đánh Tống. Nhưng khi đến Tương dương, Phàn thành thì bị cản lại. Mông Ca muốn mở mặt trận thứ nhì, từ Nam, đánh vào sau lưng Tống, y sai một thân vương, người em ruột tài nhí nhất, tên Hốt Tất Liệt (Qubilai), mở mũi dùi này. Hốt Tất Liệt đánh chiếm Hồi cương, Tây tạng, Tứ xuyên của Tống. Từ Tứ xuyên y vượt Kim sa giang đánh Đại lý. Vua Đại lý là Đoàn Hưng Trí hèn mạt, không dám chống lại, mở cửa thành đầu hàng. Hốt Tất Liệt bắt Đoàn Hưng Trí cung ứng lương thảo, rồi lại dùng hàng binh Đại lý đánh Đại Việt ta. Hốt Tất Liệt tưởng đâu Đại Việt cũng dễ uy hiếp như Đại lý, y sai Ngột Lương Hợp Thai dàn quân tại Bắc cương, rồi sai sứ sang bắt ta đầu hàng. Không ngờ ta không chịu khuất phục. Y truyền Ngột Lương Hợp Thai tràn vào đánh ta. Ngột Lương Hợp Thai thất bại. Thế là mưu kế dùng tù hàng binh Đại Việt, Đại lý đánh vào Ung châu, Liêm châu, Quảng châu bị ta phá tan. Nguyên Phong hoàng đế đưa mắt nhìn Hưng Đạo vương, như hỏi ý kiến. Vương suy nghĩ một lát rồi tâu: – Ý kiến của Vũ Uy vương thực là diệu pháp giữ nước, không thể không xử dụng. Đó là kế chính. Tuy nhiên ta không tha bọn chúng dễ dàng. Hiện giờ thì Mông cổ chỉ mới chiếm được một phần lãnh thổ phía Tây-Bắc của Tống. Họ còn đang giao chiến với Tống dằng dai ở mặt trận Trường giang. Họ định đánh ta để lấy tù, hàng binh, lương thực đánh phía sau Tống, nhưng họ bị bại. Vậy ta phải làm ba việc: – Sao cho họ bỏ ý định đánh ta mà dùng hết sức đánh phía Bắc của Tống. – Ta lại giúp Tống, để Tống tồn tại. – Trong khi ta tìm cách cho Mông cổ có nội chiến. Nội chiến giữa các vương hãn thì khó, vì các nước ấy ở quá xa, ta không biết rõ tình hình, lại ngôn ngữ phong tục bất đồng. Nhưng ta có thể gây cho ba anh em Mông Ca, Hốt Tất Liệt, A Lý Bất Ca tranh dành nhau, chém giết nhau. Tốt nhất là cho cả ba đánh lẫn nhau. Hay ít nhất là hai trong ba người này huynh đệ tương tàn. Vương nhấn mạnh: – Bây giờ ta mở vòng vây, không phải là ta tha cho bọn ác quỷ; mục dích của ta là dùng chính bọn chúng làm vũ khí tâm chiến. Bọn chúng được thả về sẽ kể cho đồng đội nghe về khí hậu của ta đầy lam chướng, địa thế của ta lầy lội, dân quân ta một lòng, binh tướng ta anh hùng. Thế là ta đánh tan cái kiêu hãnh của tướng binh Mông cổ: bọn người tuy thắng Liêu, Kim, Tống, chinh phục khắp Tây vực; thế mà khi bọn mi đánh Đại Việt ta thì bị bại. Đại Việt ta tuy dân ít, đất hẹp, nhưng dân ta anh hùng, ta đủ sức đánh đuổi bọn người. Tướng quân Lê Tần góp thêm ý: – Tuy nhiên ta cần dọa thêm cho tù hàng binh, cho tàn binh kinh sợ thêm. Khi về nước, mỗi khi nghĩ đến Đại Việt, họ lại rùng mình. Cả triều đình đều đồng ý. Hưng Đạo vương tâu: – Được! Ta mở vòng vây cho chúng rút quân. Ta lại phục quân ở Phù lỗ, Cụ bản, Bình lệ nguyên, Thảo lâm… dọa cho chúng khiếp sợ đến phiêu hồn bạt vía. Hưng Ninh vương đặt vấn đề: – Khi chúng vừa rút khỏi, là ta dùng cương. Rồi ta lại dùng nhu. Nếu như ta gửi người sang làm con tin ở Mông cổ, thì ai có thể đi được? Sứ đoàn đi theo cần bao nhiêu người? Là những loại người nào? Thái sư Thủ Độ đưa tờ chiếu thư của Mông cổ ra: – Mông cổ từng đánh chiếm Kim, Liêu, Tây hạ, Tống. Vì vậy họ hiểu rất kỹ văn hóa của các nước Đông phương: con cả sẽ là người kế vị vua cha, nên trong chiếu thư họ đòi ta phải cho con trai trưởng sang làm con tin. Mông cổ có truyền thống là khi một con tin có tài thì họ tin dùng, phong chức tước, trao quyền hành cho, còn không tài thì phải tự xây nhà ở Hoa lâm. Mọi chi phí ăn ở đều phải tự túc. Nếu như ta gửi người tài trí võ công cao sang, họ phong cho chức tước, nhất cử nhất động của họ ta đều biết, sẽ lợi cho Đại Việt vô cùng. Cử tọa đều đưa mắt nhìn Vũ Uy vương. Nguyên Phong hoàng đế ban chỉ: – Nhật Duy con! Trong tất cả thân vương, hoàng tộc lẫn võ tướng, thì chỉ mình con có thể đáp ứng vào việc cực kỳ hệ trọng này. Vì con là trưởng nam của ta, con sang làm con tin thì Mông cổ không còn gây rắc rối được nữa. Hiện võ công của con chỉ thua có Quốc thượng phụ (Trần Thủ Độ) mà thôi. Tính con lại thâm trầm, điềm đạm, nhiều mưu trí, thì khi gặp sự khó, con sẽ vượt qua dễ dàng. Con mới cưới vợ, chưa có con, không vướng vít con cái. Vợ con là đệ tử đắc ý nhất của Vô Huyền Bồ Tát. Trước hôm cưới, vợ con được Bồ Tát dốc túi truyền pho kiếm thuật trấn môn của phái Mê linh, thì vợ con trở thành đệ nhất kiếm thuật Đại Việt rồi. Về võ công hai con như vậy đủ áp chế triều đình Mông cổ. Mông cổ trọng dụng, trao chức tước cho như tiền nhân Lý Long Phi đời Lý, hoặc Tổ Trần Thủ Huy, Công chúa Đoan Nghi, nhất là được như Quốc Thượng phụ (Trần Thủ Độ) thì lợi cho biết mấy. Ta cần gửi một người hiểu rõ phong tục, tập quán, ngôn ngữ Mâông cổ theo giúp con. Nhà vua nhìn Vũ sơn hầu : – Xét trong các quan, phi Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, không ai đương nổi. Hầu là thầy dạy Mông cổ học cho con, gửi hầu theo giúp con, thì thầy trò tha hồ tương đắc. Lời phán của Nguyên Phong hoàng đế khiến Tạ Quốc Ninh tuy tuổi đã cao, mà trong lòng cảm kích không bút nào tả siết. Thời phong kiến, một đại thần được hoàng đế tin tưởng về tài năng, đức độ thì không phần thưởng nào to lớn hơn. Ông bước ra định hành đại lễ, để đền ơn tri ngộ, thì Nguyên Phong hoàng đế sẽ phất tay, kình lực khiến hầu không thế quỳ gối. Hầu cung tay: – Thần muôn vàn cả tạ đại đức của bệ hạ ban cho. Thần nguyện đem hết sở tri ra báo đáp bệ hạ. Nhà vua hỏi hầu: – Thế nào? Khanh có được tin tức gì của phu nhân không? – Tâu, thần đã hỏi cung tất cả tù nhân Mông cổ, chúng đều trả lời không nghe, không biết gì cả. Cả vương phi của Nhân Huệ vương (Trần Khánh Dư) cũng không. Trước khi Mông cổ đánh Đại Việt, toàn quốc bừng lên một phong trào mở Quán văn, là nơi cho vương tôn, đại thần, phú gia, danh sĩ, họp nhau bàn luận thế sự, ngâm thơ, bình văn, tụng phú; nhất là nghe hát. Cái thú thanh nhã tràn ngập khắp các trấn, các lộ, cho tới các xã. Tại Thăng long có đến hơn trăm Quán văn. Trong đó có năm quán nổi tiếng là Tây hồ, Văn miếu, Ngọc thụy, Nghi tàm, Tô lịch. Quán Tô lịch nằm ngay bờ sông, mà quanh năm đều có hoa nở. Quán chủ là một văn gia nổi tiếng giao thiệp rộng. Từ khi ông chiêu mộ được bẩy hoa khôi về đây ca hát, thì quán trở thành nơi thu hút hầu hết giới tao nhân mặc khách của đất nghìn năm văn vật. Bẩy nàng được danh sĩ tặng cho mỹ danh Tô lịch thất tiên. Khi các nàng mới tới, đều có nghệ danh riêng. Trong một dịp hội hoa, bẩy nàng ôm bẩy bó hoa, bẩy mầu khác nhau, văn giới Thăng long nhân đó tùy mầu đặt mỹ danh cho các nàng. Các nàng đều mang tên Hoa, chỉ khác chữ đầu thôi: Hoàng Hoa, Bạch Hoa, Huyền Hoa, Thanh Hoa, Hồng Hoa, Tử Hoa, Lan Hoa. Tuy nổi tiếng, nhưng 7 nàng đều treo cao giá ngọc. Có không biết bao nhiêu vương tôn, đại thần, công tử, phú gia cầu thân, nhưng các nàng đều không để ai vào mắt xanh. Tiếng tăm bẩy nàng sắc nước hương trời, đàn hát, thi văn vang tới Trung nguyên. Thế rồi Trung thu năm trước, 7 nàng treo bảng tuyển phu trong 10 ngày. Hoàng Hoa tình tình trầm tĩnh, nàng đòi trượng phu phải là người bác học đa năng, có huân công với Xã tắc; Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh là người bác văn, cường trí, giữ trọng trách tại Khu mật viện, coi về Mông cổ. Hầu nói, viết giỏi văn tự Thổ phồn, Tây vực là những văn tự chính thức của Mông cổ. Là một người nhã lượng cao trí, hầu giao hữu với tất cả văn gia Thăng long, Tống. Hầu trúng cách nàng Hoàng Hoa. Nàng Bạch Hoa dáng người ẻo lả, nàng ước trượng phu võ công cao cường, lại phải là người hoàng tộc; Nhân Huệ vương Trần Khành Dư trúng cách. Huyền Hoa, Thanh Hoa lại ước một trượng phu văn hay, chữ tốt, một danh sĩ; Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu lọt vào mắt xanh Huyền Hoa; Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm, được nàng Thanh Hoa. Hồng Hoa lại ước một đại tướng quân, thế là Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách trúng cách. Hai nàng Tử Hoa, Lan Hoa thì đòi người trượng phu phải là cao nhân võ học, hơn nữa tinh thông âm nhạc, cuối cùng hai đệ nhất cao nhân phái Sài sơn là Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn lọt vào mắt xanh hai nàng. Bẩy đám cưới cùng tổ chức một ngày, dân Thăng long gọi là ngày hoa đăng. Đám cưới được một tuần trăng thì quân Mông cổ chiếm Thăng long. Tạ Quốc Ninh đem Hoàng Hoa cùng 6 người bạn về Nghi tàm ẩn thân. Nhưng trong đám gian nhân người Việt theo Mông cổ có tên Trịnh Ngọc và con là Trịnh Long từng nghe tiếng Tô lịch thất tiên. Y chỉ điểm chỗ ẩn của bẩy nàng. Mông cổ cử một Bách phu Lôi kị tới Nghi tàm bắt. Truyền thống của Mông cổ là khi chiếm được vùng nào là chúng cho bắt tất cả phụ nữ đẹp, không phân biệt công chúa, quận chúa, tiểu thư hay ca kĩ; cũng không phân biệt khuê nữ hay gái có chồng. Không ai hiểu tại sao Ngột Lương Hợp Thai lại đối xử với bẩy nằng quá đặc biệt: bẩy nàng được ở trong hậu cung của vua Trần, cử tỳ nữ hầu hạ, sai những đầu bếp giỏi nhất nấu cho bẩy nằng ăn. Chính Ngột Lương Hợp Thai thu dụng Hoàng Hoa làm tỳ thiếp. Hoài Đô dành Bạch Hoa. A Truật giữ Huyền Hoa. Còn bốn nàng Thanh, Hồng, Tử, Lan thì không cho ai đụng chạm đến. Nhưng chỉ mười ngày sau, không ai thấy các nàng đâu cả. Sau khi Mông cổ đại bại, Vũ sơn hầu thẩm vấn mấy trăm tù binh, cũng không ai biết tung tích Tô lịch thất tiên ra sao? Cho rằng vợ đã bị giết chết, hầu khóc hết nước mắt, làm một tuần chay cho Hoàng Hoa. Thái sư Thủ Độ tiếp lời Nguyên Phong hoàng đế: – Hộ tống sứ đoàn, ta phải mang theo một toán kị mã võ công cao, cung thủ thực giỏi. Ta đã có sẵn 10 toán Thần tiễn Long biên. Ta cử một toán theo sứ đoàn. Toán này cần một tướng trẻ, trí dũng, được triều đình tin dùng chỉ huy. Xét trong các thiếu niên thần thấy chỉ có Thiên trường ngũ ưng là xứng đáng. Tây Viễn vương thắc mắc: – Thiên trường ngũ ưng là những ai vậy? Thái sư Thủ Độ tỏ ra cực kỳ cao hứng: – À là năm thằng cháu. Nói về tài nghệ, thì mỗi cá nhân đều có một tuyệt nghệ bậc nhất Đại Việt. Nói về xuất xứ thì mỗi người có một xuất xứ lạ lùng. Nói về tính tình thì mỗi cá nhân đều có những ưu việt hiếm có. Nhưng tất cả đều giống nhau ở một điểm nhã lượng, cao trí, anh hùng, hào sảng. Chúng kết làm huynh đệ theo thứ bậc Dã Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành, Địa Lô. Trong thời gian chống giặc vừa qua, chúng gần gũi huynh nhiều, nên huynh hiểu chúng. Chúng gọi huynh là Ông trẻ, huynh gọi chúng là Thiên trường ngũ ưng. Thái tử Hoảng tâu: – Trong năm người thì Địa Lô họ Nguyễn, nhỏ tuổi nhất, dáng người thanh nhã, mặt đẹp như ngọc, xuất thân phái Sài sơn, tài kị mã siêu việt; học văn rất uyên bác, cử bút thành văn, bẩy bước thành thơ, có tài phục dược. Lô được danh sĩ Thăng long tặng cho cái tên Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử. Hiện Địa Lô lĩnh chức Trưởng sử trong phủ của thần nhi. Thủ Độ tiếp: – Thứ tư là Đại Hành. Trong một lần huynh làm lễ cầu siêu cho vong linh tử sĩ ở chùa Chiêu thiền (Láng), huynh bố thí lộc Phật cho kẻ khó. Trên đường về huynh gặp một thiếu niên nằm bên đường tay ôm phẩm oản, với ba quả chuối. Gia tướng đỡ thiếu niên mang về phủ của huynh. Y sĩ chẩn mạch cho biết y rất khỏe mạnh, sở dĩ bị xỉu vì đói quá. Gia tướng đem cơm, thịt gà cho ăn. Y chỉ ăn cơm, còn thịt thì gói lại. Huynh hỏi: tại sao trong tay có oản, chuối mà không ăn để đến nỗi xỉu nằm bên đường. Thiếu niên thưa rằng y có mẹ già ở nhà, hai ngày qua bị đói, không có gì bỏ bụng, nên khi được bố thí oản chuối, y mang về cho mẹ. Nhưng đi giữa đường kiệt lực, ngã xuống. Huynh lại hỏi: Tại sao không ăn thịt gà, mà lại dấu vào túi? Y trả lời rằng mẹ y thường ước ao được ăn một miếng thịt gà mà chưa bao giờ toại nguyện. Vì vậy hôm nay y dấu mang về cho mẹ. Huynh cảm thương đứa trẻ có hiếu, thu nhận làm mã phu trong phủ. Ngày nào cũng như ngày nào khi ăn cơm, có miếng gì ngon y lại dấu mang về cho mẹ. Trong một lần con chiến mã của huynh xổ chuồng chạy, mã phu cỡi ngựa chiến đuổi theo mà không bắt lại được. Y hú lên một tiếng, đuổi theo bắt được ngựa về. Huynh cải thu nhận y làm gia tướng. Hiện y mang hàm Đô thống, y gọi huynh là ông nội, huynh gọi y là Đại Hành, vì y chạy giỏi. Tây Viễn vương hỏi: – Thế còn Cao Mang, Yết Kiêu, Dã Tượng? Vũ Uy vương chỉ Hưng Đạo vương: – Dã Tượng, Yết Kiêu là nghĩa tử của Hưng Đạo vương. Cao Mang là một tiểu hòa thượng tại gia. Cao Mang, Dã Tượng là Ngưu tướng. Cả hai đều cùng mang hàm Đô Thống. Dã Tượng là thống lĩnh Ngưu binh, Cao Mang là phó thống lĩnh. Cao Mang có tài bắn tên bách phát bách trúng. Yết Kiêu là Ngạc tướng, hàm Đô thống, thống lĩnh Ngạc binh. Hưng Đạo cho gọi Thiên trường ngũ ưng vào. Cả năm định quỳ gối hành lễ. Lẽ quan hô: – Miễn lễ. Hưng Đạo vương nhìn Ngũ ưng với tất cả yêu thương: – Các con được triều đình tín nhiệm chọn một trong các con theo sứ đoàn sang Mông cổ. Vậy ai tình nguyện đi? Cả năm đều xin đi. Nhà vua hỏi Vũ Uy vương: – Trong năm Ưng, con định chọn Ưng nào đi theo? – Con xin chọn Địa Lô với Dã Tượng. Dã Tượng, Địa Lô hành lễ: – Đa ta vương gia đã chọn hai thần nhi. Hưng Đạo vương bảo Dã Tượng: – Con trao quyền thống lĩnh Ngưu binh cho phó tướng Cao Mang. Nhiệm vụ của con , với Địa Lô sẽ được Khu mật viện hướng dẫn. Khi rời khoang thuyền lên bờ, Tây Viễn vương lĩnh Phiêu kỵ Đại tướng quân Trần Thủ An cầm tay Vũ Uy vương như muốn nói điều gì, rồi ông ngập ngừng suy nghĩ. Cuối cùng ông nói: – Khi con lên đường ta sẽ có ít lời dặn con. Buổi thiết triều chấm dứt. Theo tinh thần buổi thiết triều: Hưng Ninh vương truyền lệnh mở vòng vây Đông bộ đầu, Thái tử Hoảng mở vòng vây Thăng long, Nhân Huệ vương cho mở vòng vây Kinh Bắc. Triều đình chu cấp lương thảo, chữa trị cho thương binh, chiến mã, tiễn họ lên đường. Thái sư Trần Thủ Độ thân dẫn Ngột Lương Hợp Thai cùng tướng sĩ Mông cổ vượt sông Hồng sang Gia lâm. Ông sai bầy một tiệc rượu tiễn nghĩa đệ tại phủ đường Gia lâm. Hưng Đạo vương sai sứ mật lệnh cho tướng sĩ tại Cụ bản, Phù lỗ, Bình lệ nguyên. Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách, Phá lỗ thượng tướng quân Trần Trữ, Hoài hóa thượng tướng quân Trương Đình được lệnh, phục binh tại Phù lỗ. Khi tướng Mông cổ là A Truật, con trai Ngột Lương Hợp Thai, dẫn tiền quân rút qua đây thì bị ba tướng đổ quân ra vây như thành đồng vách sắt. Giữa lúc binh tướng Mông cổ kinh hồn lạc phách, thì Vũ Sơn hầu Tạ Quốc Ninh cầm lệnh bài tới, ban lệnh cho ba tướng mở vòng vây. Ba tướng vui vẻ tha cho A Truật, lại còn dùng lời ngọt ngào đãi rượu với gà rừng quay. Thoát vòng vây Phù lỗ, binh tướng Thiên triều chưa hoàn hồn, thì khi tới Cụ bản, nơi diễn ra hai trận đánh kinh thiên động địa. Trận thứ nhất Mông cổ tấn công chiếm chiến lũy. Sau đó Mông cổ đóng binh tại đây để bảo vệ đường tiếp viện lương thảo. Mới mấy hôm trước Cụ bản bị quân Việt tái chiếm. Nay dân chúng đã trở về, đang dọn dẹp, tái thiết chiến lũy. Thình lình ba tướng Lê Phẩm, Phạm Long, Nguyễn Bích phát pháo, làm binh tướng Mông cổ rụng rời chân tay. Nhưng không có quân bao vây mà ba tướng sai người khiêng rượu thịt ra tiễn quân Thiên triều. Nào đã hết đâu, lúc Ngột Lương Hợp Thai tới Bình lệ nguyên lại bị Thủy binh, Ngưu binh, Kị binh dàn ra như đe dọa, Thái sư Trần Thủ Độ phải đích thân can thiệp, vòng vây mới được mở. Khi chia tay tại biên giới, Ngột Lương Hợp Thai xin Thái sư Trần Thủ Độ thả hơn vạn tù hàng binh Mông cổ, Đại lý. Thái sư Trần Thủ Độ can thiệp với Vũ Uy vương. Vũ Uy vương đưa điều kiện: “ Có hơn nghìn người của võ lâm Trung nguyên theo quân Mông cổ sang đánh Đại Việt. Để họ phải trung thành, quyết tâm với Mông cổ, Mông cổ sai quản chế vợ con họ. Trong trận đánh Thăng long, đứng trước việc quân Mông cổ tàn sát Hoa kiều, họ đã phản Mông cổ, hàng Đại Việt, cứu Hoa kiều. Vậy nay xin Thái sư Ngột Lương Hợp Thai đem vợ con họ trao đổi lấy tù binh”. Ngột Lương Hợp Thai đành chấp nhận. Đại Việt vừa trải qua một cuộc chiến tranh, tuy chỉ trong vòng hơn tháng, nhưng cực kỳ khủng khiếp. Đất nước không bị tán phá nhiều, chỉ có bẩy nơi diễn ra trận đánh bị thiệt hại: Thảo lâm, Bình lệ nguyên, Cụ bản, Phù lỗ, Thăng long, Đồng văn, và Đông bộ đầu. Triều đình Nguyên Phong hô hào toàn quốc cùng giúp các nơi này kiến thiết lại. Sức sống của dân chúng phục hồi rất mau. Sứ đoàn bao gồm Vũ uy vương Nhật Duy, vương phi Ý Ninh, Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, Dã Tượng, Địa Lô và đoàn kị mã Long biên 30 người, thêm 25 người phục dịch, 10 xe song mã. Tất cả 55 kị mã cũng như người phục dịch đều là nhữõng cao thủ, võ công thuộc loại thượng thừa, thông minh, biết nói tiếng Hoa, tiếng Mông cổ. Họ lại được Khu mật viện giảng giải tất cả tổ chức triều đình, lãnh thổ, quan chế, phong tục của Mông cổ cặn kẽ; huấn luyện về phương pháp trinh sát, thu nhặt tin tức tình báo, cùng phòng bị đối phương khai thác tin tức mình. Lại cấp cho sứ đoàn mười con chó Ngao để canh phòng dưới đất, mười con chim ưng để đưa thư, canh phòng trên không. Cuộc giảng giải này phải mất hơn tháng mới xong. Vũ Uy vương bàn với Tạ Quốc Ninh: – Thưa thầy, trước hết trong sứ đoàn cần chính danh. Không lẽ lúc nào Địa Lô, Quốc Kinh cũng gọi con là vương gia, xưng thần? Trong huyết tộc thì phụ hoàng là chú ruột Hưng Đạo vương. Quốc Kinh là con của vương, thì gọi con bằng chú. Như vậy trên đường đi sứ Đia Lô, Quốc Kinh cứ gọi con bằng chú cho thêm thân mật. Kinh chỉ mới học chữõ, xin thầy nhận Kinh làm học trò; dọc đường thầy dạy văn cho Kinh. Kinh gọi thầy bằng thầy. Thầy dậy tất cả sứ đoàn nói tiếng Mông cổ, như vậy Địa Lô cũng gọi thầy bằng thầy. Tạ Quốc Ninh vui vẻ: – Đa tạ vương gia đã cho tôi hai người học trò uy vũ quán thế. Địa Lô, Quốc Kinh vái Quốc Ninh bốn vái: – Con xin bái lạy thầy. Vương hỏi Dã Tượng: – Về võ công, con đã học được những gì? Ai là sư phụ của con? – Con chưa bái sư chính thức. Vương kinh ngạc, vì vương từng thấy Dã Tượng xử dụng võ công trong suốt bẩy trận đánh. Vương hỏi: – Chính mắt chú thấy cháu xử dụng những chiêu võ kỳ ảo. Tỷ dụ: chiêu thứ nhất, khi xuất trận, bọn Lôi kị sở trường thúc chân vào bụng cho ngựa chồm lên đầu một bộ binh, rồi xung vào phá tuyến đầu trận địa. Một Lôi kị đã dùng chiêu số này với cháu. Cháu xuống đinh tấn, hai tay chụp chân ngựa vặn tréo, ngựa bị ngã lộn đi hai vòng. Tên Kị mã cũng ngã lăn theo, cháu phi thân đến đá vỡ ngực y. Chiêu thứ nhì: hai Kị mã phi song song vào trận địa Ngưu binh. Cháu nhào tới, hai tay ấn vào đầu hai chiến mã, rồi vọt lên cao, lộn một vòng, đáp ra phia sau, hai tay cháu chụp đuôi hai chiến mã kéo lùi một hai bước, rồi buông ra. Hai chiến mã ngã lộn xuống đất, vật hai Lôi kị theo. Cháu phi thân phóng hai cước vào đầu chúng. Dã Tượng kính cẩn đáp: – Thưa chú, trong thời gian huấn luyện Ngưu binh, cháu cùng các Ngưu tướng tự chế ra các chiêu thức chống với Lôi kị. Tất cả 9 lộ. Hồi theo Hưng Ninh vương đánh trận Đông bộ đầu, vương bảo cháu diễn lại từ đầu cho vương xem. Vương giúp cháu chỉnh khuyết điểm, biến hóa mỗi lộ ra 9 chiêu, cộng 81 chiêu, rồi vương đặt tên là Đảo mã cửu lộ thức. Vương khen: – Các chiêu số đều thuần nhất, chất phác, nhưng khắc chế với kị binh. Có điều cả chín lộ đều dùng sức của một mục đồng, nên không ảo diệu. Nếu người xử dụng có công lực cao, thì uy lực sẽ vô cùng dũng mãnh. Dã Tượng không có tên, hồi mới ra đời, phong tục hồi đó thường không đặt tên cho con, mà chỉ gọi bằng những tên bình dân. Như con trai thì mang tên Cu, Chó, Trâu. Con gái thì mang tên Hĩm, Cái. Khi đứa trẻ 12-13 tuổi, vượt khỏi cái tuổi bị chết về bện đậu mùa mới làm lễ gia tiên đặt tên cho. Bà nội của Dã Tượng thấy cháu bụ bẫm dễ thương, bà đặt cho cháu cái tên Cu Chó. Năm bẩy tuổi, Cu Chó mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nó phải đi ở, chăn trâu cắt cỏ cho một ngôi chùa vùng Thiên trường. Sư trưởng của chùa là người nhân từ, ông đối xử với Cu Chó bằng tất cả tấm lòng từ bi. Ngoài việc chăn trâu của chùa, Cu Chó không phải làm công việc gì khác. Khi các chú tiểu trong chùa học văn, kinh Phật, ông cho Cu Chó cùng học. Trời cho Cu Chó một thân thể hùng vỹ, thông minh, lại thâm nhiễm đạo lý nhà Phật. Ba năm trước khi giặc Mông cổ ngấp nghé ngoài Bắc cương, triều đình ban chỉ cho xã ấp tập trung trẻ chăn trâu lại, huấn luyện tổ chức thành đội ngũ Ngưu binh. Vốn thông minh, có sức khỏe siêu việt, tính tình trầm tĩnh, Cu Chó được cử làm Ngũ trưởng (chỉ huy 5 người), rồi Lượng trưởng (chỉ huy 20 người). Trong lần duyệt binh, nó lĩnh chức Vệ úy (tương đương với ngày nay là Đại úy), chỉ huy một vệ Ngưu binh. Cu Chó biểu diễn đẩyngã một con trâu mộng. Nguyên Phong hoàng đế ban cho Cu Chó cái tên Dã Tượng. Thời xưa, một người được vua ban cho mỹ danh, là điều hãnh diện vô cùng. Trong dịp này Hưng Đạo vương nhận Dã Tượng làm con nuôi, ngài đặt tên Dã Tượng là Trần Quốc Kinh. Nhưng không ai gọi cái tên này cả, mà chỉ gọi là Dã Tượng. Ngay hôm được nhận Dã Tượng làm con nuôi, Hưng Đạo vương cho chàng vào cung bái kiến Tuyên minh thái hoàng thái hậu. Dã Tượng được bà dạy cho hai bộ võ công trấn môn của phái Đông A là Đông A chưởng pháp và Thiên la thập bát thức. Sau trận Bình lệ nguyên, tài năng chỉ huy Ngưu binh của Vệ úy Dã Tượng làm cho Lôi kị Mông cổ kinh hoàng, chàng được thăng lên Tá lĩnh chỉ huy 10 Vệ Ngưu binh. Rồi sau các trận Cụ bản, Phù lỗ, Đông bộ đầu, Dã Tượng được thăng lên Đô thống, tổng chỉ huy Ngưu binh toàn quốc. Thời gian theo quân trong các trận Thảo lâm, Bình lệ nguyên, Dã Tượng được Vũ Uy vương dạy căn bản võ thuật phái Đông A. Trong trận Cụ bản, Dã Tượng gặp Tuyên minh thái hoàng thái hậu, vương phi Kiến Quốc đại vương, vương phi Hưng Nhân vương. Ba bà yêu thương Dã Tượng cực kỳ. Cả ba đem hết tâm huyết dậy đứa cháu nuôi. Hồi về Thăng long dự trận Đông bộ đầu, Dã Tượng lại được Hưng Ninh vương dạy võ công Trúc Lâm yên tử.(3) Vương nói với Địa Lô: – Còn cháu, cháu là học trò của chưởng môn phái Sài Sơn, thì Nho, Y, Lý, Số, Xạ, Ngự, Thư, Họa đều thông. Ta yên tâm. Quốc Ninh đề nghị: – Dọc đường, đối với đội kị mã Long biên, ta vẫn để họ trang phục kị binh. Còn sứ đoàn , để giữ quốc thể, ta cứ mặc y phục nông dân Đại Việt cho phải lẽ. Trước khi lên đường, Vũ Uy vương cùng vương phi vào Hoàng thành vấn an sinh mẫu của vương là Tuyên phi Mai Đông Hoa. Vũ Uy vương Nhật Uy với vương phi Ý Ninh mới kết hôn chưa quá một năm, đám cưới diễn ra ngay sau trận Phù lỗ, quân Mông cổ đang tiến về Thăng long, chiến cuộc diễn ra khủng khiếp. Vì vậy mọi lễ nghi đều hủy bỏ. Hai vợ chồng bái tạ phụ hoàng, hướng về Thiên trường lễ vọng tổ tiên, rồi lên đường trấn ngự Bắc cương. Vì vậy vương phi chưa được diện kiến sinh mẫu của vương. Phi hỏi vương: – Anh ơi, chúng mình cưới nhau trong khi khói lửa mịt mờ! Cho đến nay em cũng không biết phụ hoàng có bao nhiêu hoàng nam. – Để anh cho em biết. Trong các con của phụ hoàng, nếu tính theo tuổi thì Tĩnh Quốc vương Khang lớn nhất, thứ đến anh. Cả hai cùng tuổi Đinh Dậu (1237). Thái tử Hoảng nhỏ hơn anh ba tuổi, chú ấy tuổi Canh Tý (1240) . Tiếp đến là Chiêu Minh vương Quang Khải. Sau tới Vũ Minh vương Quang Húc, Chiêu Quốc vương Ích Tắc, Chiêu Văn vương Nhật Duật, cuối cùng là Chiêu Hòa vương Quốc Uất. Tổng cộng 8 người. – Phụ hoàng có nhiều hoàng nam, hầu hết đều văn mô, vũ lược, có tài đế vương. So về tuổi thì chú Hoảng là con trai thứ ba, nguyên do nào chú lại được lập làm Thái tử, rồi sẽ được truyền ngôi vua? Vương giảng giải: – Theo thể chế các triều đại Hoa-Việt xưa, khi một hoàng tử đến tuổi 13 thì được phong tước vương, được gọi là thân vương, được trao cho nhiều chức vụ. Thường thì gồm cả chức văn lẫn võ, được cho mở phủ đệ riêng. Mỗi phủ đệ có nhiều chức quan do triều đình ấn định. Các thân vương cũng có quân túc vệ riêng. Việc này dẫn đến các vị vương dùng binh tướng của mình làm loạn như triều Lê. Khi vua Lê Đại Hành băng, các hoàng tử kéo quân về tranh ngôi vua, chém giết nhau không hề nghĩ tình ruột thịt. Cuối cùng Lê Long Đĩnh giết hết các anh-em, lên ngôi vua, tức Lê Ngọa triều. Bởi vậy khi Lê Ngọa triều băng, trong triều, ngoài trấn không còn thân vương nào nữa, đưa đến triều Lê mất về họ Lý. – Em cũng đã biết như thế. Vương phi trình bầy: Này nhé, sang triều Lý, vua Lý Thái tổ đã từng thấu hiểu những cay đắng của triều Lê. Nhà vua không cho phủ đệ của thân vương tổ chức quân đội riêng. Nhưng các hoàng tử đều là những người có tài cầm quân. Vua trao cho bốn con bốn chức vụ lớn. Một người lĩnh Đô đốc thủy quân, một người thống lĩnh Kị binh, một người thống lĩnh Thiên tử binh, một người thống lĩnh Ngự lâm quân, Thị vệ. Ngài ban chỉ dụ: ngôi trừ quân bỏ trống, các hoàng tử đều được phong làm thái tử. Người nào nhiều công trạng, có tài nhất sẽ được lập làm trừ quân. Nhưng ngài băng hà thình lình, khi chưa chỉ định người kế vị, vì vậy đưa đến chư vương nổi loạn. Các đại thần quyết định theo cơ chế cổ, con trưởng sẽ được kếù vị. Con trưởng của vua Lý Thái tổ là Khai Thiên vương. Các tướng giúp Khai Thiên vương, dẹp chư vương, rồi tôn lên ngôi vua tức vua Lý Thái tông. – Huynh đệ tương tàn là điều đau đớn nhất của các triều trước. Vũ Uy vương than thở: Vì thế khi vua Lý Thái tông lên ngôi, ngài ban chỉ không cho thân vương, hoàng tộc giữ các nhiệm vụ Thái úy, Quản Khu mật viện, Đô đốc Thủy quân,Tổng lĩnh Thiên tử binh, Tổng lĩnh Kị binh.(4) – Anh nói lạ! Thế sao sau này ngài Lý Thường Kiệt cũng từng được trao cho trao chức Thái úy? Vương cười lớn: – Em không nhớ kỹ sử mất rồi; ngài Thường Kiệt nguyên họ Ngô, được ban quốc tính, chứ ngài không phải họ Lý. – Em quên! Chính sách này giúp cho suốt triều Lý, không bị các nạn hoàng tộc chém giết nhau vì tranh ngôi vua. Sử chép Tô Hiến Thành, Đàm Thì Phụng, Đàm Dĩ Mông từng giữ chức Thái úy. Cuối cùng trong lúc rối loạn, chức Thái úy do tổ Trần Tự Khánh nhà ta nắm rồi đi đến triều Lý mất về họ Đông A nhà mình. Vương nhìn thẳng vào khuôn mặt thanh tú của vương phi, giảng giải: – Phụ hoàng đã thấy các vết xe đổ của triều Lê, triều Lý. Người ban hành luật: Khi chú Hoảng là Thái tử đã đủ lớn, thì được truyền ngôi, người sẽ lui về làm Thái Thượng hoàng. Có lẽ sang năm tới. Như vậy tránh được tình trạng tân quân bỡ ngỡ khi mới lên ngôi, tránh tình trạng các con tranh giành ngôi vua chém giết nhau. Tổ chức cai trị chia ra làm hai: chức vụ trong triều, cũng như ngoài trấn thì trao cho các quan. Còn các vương, hầu hoàng tộc thì ai về đất phong của người ấy. Đất phong như một tiểu quốc riêng, có tiểu triều với đầy đủ quan chức, quân đội. Mỗi tháng các vương hầu đều về Thăng long dự buổi thiết đại triều, bàn quốc sự. Xong việc lại trở về lãnh địa của mình. Vừa rồi, Mông cổ kéo đại binh sang, Hưng Đạo vương hội quân, các vương hầu kéo quân bản bộ về cùng nhận lệnh đánh giặc. Chính anh, anh kéo quân Bắc cương về chịu lệnh. Vương phi vẫn không chịu: – Theo lẽ chính thống thì bao giờ các vua chúa Hoa, Việt cũng truyền ngôi cho con trai trưởng, là người lớn tuổi nhất. Nếu không phải con trưởng thì cũng phải là người con thứ có nhiều công trạng hoặc tài đức vượt xa các anh em, như Đường Cao tổ truyền ngôi cho con thứ là Tần vương Lý Thế Dân. Nhưng tại sao chú Hoảng, tài không hơn anh, công lao lại càng thua xa anh. Theo tuổi tác, chú là con thứ ba lại được lập làm Thái tử? – Chú ấy được phong làm Thái tử, vì tuân theo cái lẽ chính thống của Nho gia. Với nguyên tắc chính thống thì anh không thể lên ngôi vua. Anh mà lên làm vua, sĩ dân không phục, rồi nước sẽ loạn to! – Em không hiểu. – Này nhé, phụ hoàng nhờ là phò mã của vua Lý Huệ Tông, là chồng của vua Lý Chiêu Hoàng, mà được nhường ngôi. Phụ hoàng có hoàng hậu, nhiều phi tần, cung nga, sinh nhiều hoàng nam. Nhưng người kế vị phải là cháu ngoại của vua Lý Huệ Tông mới hợp lẽ chính thống, dân chúng, sĩ dân mới phục. Hoàng hậu Chiêu Hoàng không có hoàng nam, bị phế xuống làm công chúa, thì chỉ con của phụ hoàng với công chúa Thuận Thiên, chị của vua Chiêu Hoàng mới đủ tư cách kế vị. Điều này anh bị loại, vì anh là con một cung nga. Mẫu thân mình xuất thân là con hát được đưa vào cung. Như anh vừa nói, so về tuổi thì anh Quốc Khang với anh lớn nhất. Ngược lại so về vai vế thì Thái tử Hoảng lớn nhất, thứ đến Quang Khải, vì cả hai là con của hoàng hậu Chiêu Thánh. Tiếp đến Quang Húc, Ích Tắc là con của Tây cung quý phi đứng thứ ba, thứ tư; Nhật Duật là con của Hoàng phi đứng thứ năm. Anh với Quốc Uất là con của một Tu Dung, đẳng cấp thấp nhất đứng thứ sáu, thứ bẩy. Anh Quốc Khang không phải con của phụ hoàng, nếu kể cả anh ấy thì phụ hoàng có 8 hoàng nam. – Em hiểu rồi. Trong cuộc chiến vừa qua, anh lập công lớn, phụ hoàng lấy lý tử quý, mẫu vinh (con quý thì mẹ vinh), mẫu thân anh được cải phong lên bậc Tuyên phi. Do vậy dù anh lớn tuổi nhất trong các hoàng nam của Phụ hoàng, dù anh là người văn mô vũ lược, lại từng thống lĩnh binh mã Bắc cương, chiến thắng Mông cổ, vẫn không được phong làm Thái tử. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì sự việc này như sau: Hồi vua Trần Thái Tông còn thơ, được tuyển vào cung hầu hạ nữ hoàng đế Lý Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng ưng ý tuyển làm chồng, rồi truyền ngôi cho năm 1225. Thái Tông phong Chiêu Hoàng tước Chiêu Thánh hoàng-hậu. Niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), hoàng-hậu Chiêu Thánh đã 19 tuổi mà chưa có hoàng nam, tông thất nhà Lý rục rịch đòi lại ngôi vua. Thái-sư, Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ ép vua giáng Chiêu Thánh xuống làm Thiên Cực công-chúa, lập vương phi của An Sinh vương Liễu là công-chúa Thuận Thiên, cũng là con của vua Lý Huệ Tông làm hoàng-hậu, vì bà đã có thai ba tháng. Thủ Độ nghĩ: ông có thể lý luận với tông tộc nhà Lý rằng: Đứa trẻ sinh ra là con của Thuận Thiên, thì cũng là cháu của vua Huệ Tông. Cháu vua Huệ Tông cũng nghiễm nhiên được nối ngôi. Bị làm nhục, An Sinh vương Liễu cất quân làm loạn. Sau nhờ Linh Từ quốc-mẫu Trần Thị Kim Dung, bà là: – Cô của vua Trần Thái Tông, An Sinh vương Liễu, – Hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông, – Hiện là vợ của Thái-sư Trần Thủ Độ, – Bà cũng là mẹ của công chúa Thuận Thiên và Chiêu Hoàng, Bà đứng ra dàn hòa, cuộc chiến tương tàn mới êm. Người đương thời cũng như các sử gia đều cho rằng Thái sư Trần Thủ Độ là người thất học, làm càn. Ông nặn ra việc Trần Cảnh, Lý Chiêu Hoàng có tình ý với nhau, rồi cho hai người kết hôn. Sau lại bắt vua Trần Thái tông bỏ Chiêu Thánh, đem vương phi An Sinh vương Liễu là công chúa Thuận Thiên ép làm hoàng hậu. Các sử gia đều kết tội Thái sư Trần Thủ Độ. Nguyên do, Thái sư Thủ Độ đã căn cứ vào những sự kiện lịch sử Hoa-Việt mà người xưa gọi là chính thống rồi hành động. Cái lý chính thống của Thái sư Trần Thủ Độ thế là thế nào? Sử, cũng như chính sự các đời đều ca tụng ba vua Nghiêu, Thuấn, Vũ là những vị vua thánh. Vua Nghiêu gả hai công chúa là Nga Hoàng, Nữ Anh cho phò mã là một nông dân, rồi nhường ngôi, phò mã trở thành vua Thuấn. Vua Thuấn lại nhường ngôi cho phò mã, thành vua Vũ. Đây là hình thức khuôn mẫu cho các đời sau, gọi là chính thống. Dẫn chứng sử Trung hoa, con rể nối ngôi cha vợ cho hợp với chính thống e dài quá, xin dẫn chứng sử Việt Nam: Một là, khi anh hùng Dương Diên Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám hại, con rể là Ngô Quyền, lên thay quyền, diệt kẻ ác, rồi làm vua. Hợp với lẽ chính thống, nên tường sĩ, dân chúng qui phục ngài, vì vậy ngài mới thắng giặc Nam Hán, lên làm vua. Hai là, vua Đinh Tiên hoàng, tuy có tài dẹp các sứ quân, nhưng ngài cũng cố tìm ra cớ gì hợp với chính thống? Vì vậy ngài phải phong cháu Dương Diên Nghệ là Dương Vân Nga, làm hoàng hậu, để qui phục nhân tâm: Con rể kế ngôi nhạc phụ, như vậy mới có chính nghĩa, hợp với lẽ chính thống. Ba là, khi vua Lê Ngọa Triều băng, tuy con còn thơ dại, nhưng vẫn còn đến ba hoàng tử em vua Ngọa Triều lĩnh tước vương, đang trấn ngự bên ngoài. Nhưng tiều đình tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, sau là Lý Thái tổ. Tại sao? Vì ngài là phò mã của vua Lê Đại Hành. Bốn là, khi vua Lý Thái tổ lên ngôi, ngài có nhiều con, tất cả các con đều được phong là Thái tử, ngụ ý rằng ngôi trừ quân chưa định. Thái tử nào có tài, có đức sẽ được truyền ngôi. Tuy Thái tử Lý Long Bồ tước phong Khai Quốc vương là người tài trí, đức độ trùm Hoa Việt, nhưng cuối cùng vua Lý Thái tổ truyền ngôi cho Thái tử Phật Mã tước phong Khai Thiên vương; dù vua biết rằng vương là người mà tài, đức thua Khai Quốc vương xa, lại khệnh khạng, hình thức. Nguyên do chỉ vì Phật Mã là con của hoàng hậu Tá quốc, Long Bồ là con của hoàng hậu Lập nguyên. Mà hoàng hậu Tá quốc là công chúa con vua Lê Đại Hành. Như vậy, cháu ngoại vua Lê lên ngôi vua, thì chính thống mới sáng tỏ. Trần Thủ Độ muốn lấy ngôi vua từ họ Lý sang họ Trần, ông phải xếp đặt cuộc hôn nhân Trần Cảnh–Lý Chiêu Hoàng, cho hợp với chính thống. Đến khi Chiêu Hoàng chưa có con, hoàng tộc nhà Lý rục rịch muốn yêu cầu vua Trần Thái tông nhận một đứa trẻ con của một thân vương triều Lý làm thái tử, rồi truyền ngôi cho. Vì vậy ông mới đem vương phi của An Sinh vương ép vào ngôi hoàng hậu, để đứa trẻ đó sau lên nối ngôi thì là cháu ngoại của vua Lý Huệ tông, cháu ngoại lên nối ngôi ông, cho hợp với chính thống. Thuận Thiên hoàng hậu sau có với vua Thái tông hai hoàng tử, kể cả đứa con oan nghiệt vốn là bào thai của An Sinh vương Liễu là ba. Đứa trẻ đó sau là Tĩnh Quốc đại vương. Tĩnh Quốc đại vương không được nối ngôi vì là con An Sinh vương Liễu, mà ngôi vua về thái tử Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Còn hoàng hậu Chiêu Thánh bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa. Thiên Cực trốn khỏi hoàng cung, đi tu, pháp danh là Vô Huyền. Đương thời truyền tụng bà đắc đạo thành Bồ Tát, nên gọi ngài là Vô Huyền bồ tát. Vô Huyền bồ tát là sư phụ của vương-phi Ý Ninh. Trần Thủ Độ không tìm được tông tích của Chiêu Thánh, sợ Chiêu Thánh trốn ra các trấn hô hào phục hưng triều Lý, bèn đem một cung nga có dáng giống Chiêu Thánh, tên Thục Anh giả làm ngài để trấn an dư luận. Nếu Chiêu Thánh khởi binh thì Thủ Độ có thể tuyên bố rằng đó là Chiêu Hoàng giả. Còn Thục Anh mới là Chiêu Hoàng. Sau chiến thắng Mông Cổ, vua Trần Thái tông thấy việc ép cung nga Thục Anh này sống cô quạnh, thì động lòng trắc ẩn mới đem gả cho Lê Phụ Trần. Bấy giờ Thục Anh đãù 36 tuổi. Sử chép rằng Công-chúa Thiên Cực được gả cho Lê Phụ Trần, sau sinh ra nhiều con. Lý này không vững, vì năm ấy (1258) Chiêu Thánh đã 43 tuổi, với tình độ y học ngày nay một phụ nữ tuổi 43 cũng khó có thể sinh con; huống hồ y học đời Trần. Vì vậy chúng tôi thuật theo gia phả. Vả người chép gia phả là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Vương là con của vua Thái tông, thì vương chép về phụ hoàng, mẫu-hậu không sai được. Vũ Uy vương tuy là người văn võ toàn tài, lớn tuổi nhất trong các con của vua Thái tông, lại có công trong cuộc phá Mông Cổ lần thứ nhất (1258), nhưng vì là con một cung phi bậc thấp, nên không được truyền ngôi vua. Vả tính tình vương khoáng đạt, cùng vương phi trấn ngư biên cương, không nghĩ đến tranh dành ngôi vua. Vương phi Ý Ninh vẫn không chịu: – Thế Tĩnh Quốc Vương Khang ! Anh ấy chẳng là con của Phụ hoàng với Hoàng hậu đấy ư ? Dường như anh ấy với anh bằng tuổi nhau thì phải. – Em hỏi thế thực phải. Em nên nhớ Tĩnh Quốc vương Khang, lớn tuổi hơn hoàng tử Hoảng. Vương cũng là con của mẫu hậu Thuận Thiên, tức cũng là cháu ngoại của vua Lý Huệ tông. Nhưng thực sự, vương không phải là con của phụ hoàng. Vì khi mẫu hậu Thuận Thiên có thai ba tháng với An Sinh vương Trần Liễu, thì bị Thái sư Trần Thủ Độ ép vào cung, rồi sinh ra vương, thì vương là con của An Sinh vương. Vả tư chất của anh ấy đần độn, học văn không thông, luyện võ không thành; như vậy không thể được lập làm thái tử, không thể được truyền ngôi vua. – Bây giờ em mới hiểu hết những uẩn khúc trong cung đình nhà mình. Theo chiếu thư Mông cố thì họ đòi phụ hoàng phải gửi con trưởng sang làm con tin. Sao phụ hoàng cũng như triều đình không gửi anh Quốc Khang mà lại gửi anh? Ghi chú, (1) Ngột Lương Hợp Thai, là tên Hán Việt. (phát âm theo Mông cổ là U ri ang khai đai, Uriyangqadai), con trai của đệ nhất thân vương, đệ nhất khai quốc công thần Mông cổ Tốc Bất Đài . Hoài Đô, tên Hán Việt ( phát âm theo Mông cổ là Khai Đu, Qaidu). Luật từ thời Thành Cát Tư Hãn, mỗi đạo quân có một tướng tư lệnh chịu trách nhiệm chỉ huy, quyết định tác chiến. Ngoài ra còn một người trong hoàng tộc quyết định về cai trị dân chúng, kiểm soát binh, tướng.Hoài Đô lĩnh nhiệm vụ này. (2)Mông cổ đặt tại mỗi nước chư hầu một số chức quan hơi giống như hồi 1884 – 1945 người Pháp đặt tại Việt Nam. Trên cao nhất là một viên Toàn quyền. Phủ Toàn quyền có nhiều chức quan như một nước nhỏ kiểm soát triều đình. Mỗi tỉnh một viên Công sứ kiểm soát việc cai trị. Chức quan của Mông cổù gọi là Đa gu ra tri, dịch sang tiếng Hán là Đạt lỗ hoa xích. (3) Tuyên minh thái hoàng thái hậu, nhũ danh Tô Phương Lan. Bà là vợ của Trần Lý, bà nội của Nguyên Phong hoàng đế . Vương phi Kiến Quốc đại vương nhũ danh Phan Mỹ Vân, vợ của Trần Tự Khánh chú ruột Nguyên Phong hoàng đế, khai quốc công thần Trần triều. Vương phi Hưng Nhân vương, nhũ danh Trần Kim Ngân, là vợ của Phúng Tá Chu, em gái Trần Lý. Về hành trạng của ba bà, xin xem AHĐADCBM. (4) Thái úy, tương dương với ngày nay là Tổng tư lệnh quân đội. Khu mật viện, tương đương với ngày nay bao gồm bộ Công an, Cục tác chiến, Cục quân báo, Cục phản gián.Tổng cục 2. Đô đốc Thủy quân, tương đương với ngày nay là Tư lệnh Thủy quân. Tổng lĩnh Thiên tử binh, tương đương với ngày nay là Tư lệnh lục quân. Tổng lĩnh Kị binh, tương đương với ngày nay là Tư lệnh Thiết giáp binh. Hồi thứ năm mươi hai Văn nghệ thời Đông A – Có lẽ phụ hoàng cũng như triều đình sợ anh ấy nghĩ mình cũng là cháu vua Lý Huệ tông. Anh ấy sẽ vận động với Mông cổ, xin phong vương rồi về tranh dành ngôi vua với Thái tử Hoảng. – Em thì em nghĩ khác. – Nghĩa là? – Phụ hoàng cũng như triều đình thấy anh là người trung hậu, không thích quyền hành, mà chỉ nghĩ đến Xã Tắc, nên cử anh đi mà không sợ Mông cổ phong cho anh làm An Nam quốc vương, rồi về tranh ngôi vua. Lại nữa, triều đình Mông cổ không thiếu gì văn quan, võ tướng là tinh hoa của Tống, Liêu, Kim, Tây hạ, Tây vực. Nếu cử anh Quốc Khang sang làm con tin, thì anh chỉ là một cục bột, ngồi ở Hoa lâm mà thôi. Vì vậy người mới cử anh sang, Mông cổ sẽ trọng dụng tài của anh. Anh làm quan cho Mông cổ thì Đại Việt mới có lợi. Vương suy nghĩ một lát rồi tiếp: – Vả chú Hoảng vốn có chân mệnh đế vương từ nhỏ. Truyện như thế này. Năm chú Hoảng bẩy tuổi bị bệnh sốt mê man, mắt trợn ngược. Hoàng hậu cùng phi tần tưởng hoàng tử sắp hoăng, hậu nhờ Huệ Túc phu nhân là người bút mặc văn chương đề bài chủ để thờ. Huệ Túc phu nhân xem số Tử vi của hoàng tử rồi quẳng bút từ chối rằng: “ Thần tính số của Hoảng, thấy sống rất thọ, không thể chết non. Hơn nữa đây là một vị minh quân của Đại Việt sau này. Hiện Hoảng đang gặp hạn Bạch hổ ngộ Kị, thì chỉ bệnh nặng mà thôi”. Thuận Thiên hoàng hậu hỏi: “ Bao giờ thì Hoảng khỏi?”. “ Tâu, ngày mai giờ Ngọ”. Phụ hoàng cầm áo long bào để bên chú Hoảng, rồi tuyên: “ Nếu tỉnh dậy thì cho áo này. Sau sẽ được truyền ngôi” Quả nhiên giờ Ngọ hôm sau hoàng tử Hoảng tỉnh dậy. Phụ hoàng mới lập làm Thái tử. Hơn nữa chú Hoảng từng cầm quân thắng Mông cổ ba trận lớn, trong đó có trận tái chiếm Thăng long. Vì vậy phụ hoàng mới truyền ngôi cho chú ấy. Vương phi Ý Ninh à lên một tiếng, rồi hỏi tiếp: – Em nghe mối tình của Phụ hoàng với mẫu thân đẹp vô cùng. Các danh sĩ không tiếc lời ca tụng. Sư phụ nói: mối tình đã làm thay đổi toàn bộ luân lý Đại Việt. Họ còn nói, mốitình của phụ hoàng với mẫu thân, khiến cho toàn quốc rộ lên phong trào thượng tôn văn học, đàm văn, luận phú, quý trọng ca xướng. Sở dĩ các lộ, các trấn, các phủ, các huyện dĩ chí các xã đều cho mở quán văn, là do mối tình này. Anh thuật cho em nghe đi. Vũ Uy vương khoan thai thuật: – Mẫu thân anh họ Mai, tên Đông Hoa, xuất thân làm con hát ở phường Tây hồ. Vua Thái tông gặp bà Mai Đông Hoa trong trường hợp nào? Đây là mối diễm tình được ca tụng đẹp nhất triều Đông A , được huyền thoại cho đến nay. Tra trong các bộ sử thì không hề thấy nói đến, nhưng gia phả các chi họ Trần thì chép đầy đủ. Nguyên hồi Chiêu Thánh hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng 19 tuổi vẫn chưa có hoàng nam. Thái sư Trần Thủ Độ ép nhà vua phế hoàng hậu xuống làm công chúa, rồi đem vương phi của An Sinh vương Trần Liễu vào cung vì vương phi đã có thai ba tháng (1237). Nhà vua buồn rầu, thường giả làm nho sinh, cùng viên thái giám thân tín tên Đại Lực trốn ra ngoài thành Thăng long thăm dân cho biết sự tình. Một lần người tới phường Tây hồ chơi, vào một Quán văn. Chủ quán thấy một thiếu niên anh tuấn, thân thể hùng vỹ, cùng một gia nhân theo hầu, thân thể to như ông hộ pháp. Cả hai đi ngựa, trang phục như nho sinh, thì biết đây là giới tao nhân mặc khách. Ông vội vàng ra mời vào. Trong quán có một kệ xếp rất nhiều sách. Giữa quán một lư hương khói tỏa hương thơm ngát. Khách khá đông, hơn trăm ghế ngồi gần như kín hết. Tất cả đang nghe một thầy đồ giảng sách. Thầy đồ say xưa thuật đoạn bà Trưng Nhị cùng cùng các nữ tướng Hồ Đề, Trần Năng, Phật Nguyệt, và nam tướng Lạiï Thế Cường đánh chiếm Trường sa. Đến chỗà bà Trần Thiếu Lan tử trận, thầy ngừng lại: – Hôm nay xin ngừng ở dây. Ngày mai tôi sẽ thuật tiếp đọan vua Trưng cùng 162 anh hùng họp nhau tại Mê linh tuyên bố khởi nghĩa. Thính giả vỗ tay hết tràng này, đến tràng khác. Thầy đồ chỉ tay vào chủ quán: – Xin giới thiệu với chư vị, đây quán chủ. Quán chủ họ Lý tên Tín, là thầy đồ dạy học tại trường huyện Thọ xương. Lý Tín chắp tay vái khách: – Thưa chư vị hiền nhân quân tử. Sau mục kể truyện anh hùng, thiểm quán kính mời quý khách thưởng thức âm nhạc. Một toán sáu người từ phòng trong bước ra, gồm ba nam, ba nữ. Tất cả đều còn trẻ. Người đàn ông lớn tuổi nhất đánh trống mảnh. Hai người đàn ông còn lại, một người vỗ trống cơm, một người thổi sáo. Hai người đàn bà, một người kéo nhị, một người gảy đàn. Ca nhi là một cô gái, bên trong mặc áo cánh nhiễu tím, khoác ngoài áo tứ thân kết hai mầu hồng nhạt, xanh lá mạ non, dây lưng cũng hai mầu như áo; váy lụa đen dài che lấp chân. Khăn mầu tím, đuôi gà dài phía sau gáy. Cả toán nghiêng mình chào khách, rồi ngồi lên chiếc sập. Vừa trông thấy đào hát, nhà vua dã choáng váng, đó là một thiếu nữ tuổi khoảng mười sáu, mười bẩy, dáng người thanh lịch, nhan sắc diễm lệ. Mặc dù trong cung, nhà vua đã có hoàng hậu, nhiều phi tần là tiểu thư con các quan; triều đình còn lệnh cho các phủ huyện tuyển những thiếu nữ đẹp nhất đem vào cung làm cung nga. Thế nhưng lần này nhà vua thấy một thiếu nữ có nhan sắc diễm ảo, như có như không; lại hát hay, thì ngài rung động mãnh liệt. Nhà vua than thầm: – Tại sao trong hậu cung mình không có những mỹ nữ như cô gái này? Tại sao trong ban nhạc Cung đình của mình không có những ca nhi giọng hát tuyệt vời như thế này? Nhà vua nhìn cô gái như ngây, như dại. Giọng cô gái trong, nhuyễn như nhung. Cô vừa hát, vừa liếc mắt, nghiêng nghiêng đầu, sóng mắt long lanh. Thỉnh thoảng cô lại mỉm cười. Sau bản hát, cô cầm cái rá đi một vòng xin tiền. Người người đều cho tiền. Thường thì mỗi người cho một đồng, hai đồng. Thỉnh thoảng có người cho ba đồng. Khi cô gái tới trước nhà vua, nhà vua sờ tay vào túi, nhưng có bao giờ nhà vua tiêu tiền đâu mà mang theo? Cô gái thấy nhà vua móc hết túi ngày đến túi khác mà không có tiền thì mỉm miệng cười chờ đợi. Cô cất tiếng hát: “ Tây hồ sóùng vỗ lăn tăn, Quân tử như ánh trăng rằm đêm thâu”. Nhà vua quýnh quá, ngài tháo sợi dây chuyền bằng vàng đeo trên cổ, có mang tượng Quán Thế Âm bằng ngọc đỏ chói. Ngài nắm lấy tay nàng, đặt vào: – Tiên cô ơi! Đây là kỷ vật của tôi, được một vị cao tăng tặng, với lời cầu nguyện rằng tôi luôn được đức Bồ Tát phù hộ. Nay tôi biếu tiên nga, cũng ước mong tiên nga được Quán Thế Âm che chở. Xung quanh có hằng trăm người, ai cũng mở to mắt nhìn viên nho sinh hào phóng. Sợi dây ít ra đến hai lượng vàng, với tượng Phật bằng ngọc, rẻ ra cũng trên năm lượng nữa. Thời bấy giờ giá một lượng vàng là hai trăm quan tiền. Mỗi quan là sáu trăm đồng. Cô đi hát cả tháng may ra mới được một quan tiền. Bây giờ cô gặp một nho sinh hào phóng cho cô món quà quá lớn. Cô nhìn nho sinh: dáng người hùng vĩ, mặt đẹp như ngọc, tiếng nói uy nghiêm mà đầm ấm. Cô gái còn đang ngỡ ngàng, thì nhà vua đã đeo sợi dây vào cổ cô, rồi hỏi: – Cô ơi, cô có thể cho tôi biết khuê danh được không? – Dĩ nhiên là được! Đa tạ nhã lượng quân tử, em họ Mai, tên Đông Hoa. Để đáp lại tri âm em xin hát một bài nữa mong công tử ban cho nhất cố Chu Lang. Tiếng nói của Đông Hoa thanh tao, nàng còn biết dùng điển nhất cố Chu Lang, chứng tỏ nàng cũng thuộc giới bút mặc văn chương. Điển này như sau: thời Tam quốc bên Trung nguyên, Đại Đô đốc Ngô là Chu Du. Du lĩnh chức đô đốc khi còn trẻ, tính khí hào phóng, nhã lượng, cao trí, lại là một mỹ nam tử; Du rất giỏi âm nhạc. Tại tư dinh Du có một đội nhạc đến hơn trăm người, xử dụng đủ mọi thứ nhạc khí. Với hơn trăm âm thanh cùng vang lên, mà mỗi khi một người tấu lạc nhịp, hoặc sai, là Du biết ngay ai, ngồi chỗ nào, Du đưa mắt nghiêm khắc về phía người đó. Người nào tấu xuất sắc, Du hướng mắt về người ấy mỉm cười tỏ ý khen ngợi. Vì vậy sau này giới bút mặc văn chương dùng điển nhất cố Chu Lang để chỉ tri âm, tán thưởng. Nhà vua vốn là người tinh thông âm luật, không nhạc khí nào mà không xử dụng thành thạo. Nhà vua cầm ống tiêu đưa lên môi thổi. Âm thanh cao vút như hòa vào những sợi tơ trời. Đông Hoa cương: “Em là con gái Thăng long, Em nghiêng nghiêng nón, ấy y a, nước sông dạt dào”. Đông Hoa mời nhà vua về nhà chơi. Cha mẹ nàng vốn là nghệ nhân, nếp sống không khép kín như những gia đình khác. Cả hai tiếp nho sinh với tất cả thịnh tình. Ông bà hỏi lý lịch, nhà vua xưng là nho sinh học trường Quốc tử giám tên Nhật Duy. Từ đấy khi thì hai ngày, khi thì ba ngày, nhà vua lại ra nhà Đông Hoa tấu nhạc cho nàng hát. Cạnh nhà Đông Hoa có một thầy đồ dạy học ở trường huyện Thọ xương tên Lý Tín. Thầy Tín rất uyên bác, đứng chủ trương quán văn Tây hồ. Thấy Đông Hoa hát hay, thông minh, lại có nhan sắc, ông dạy riêng Đông Hoa học tại nhà. Vì Đông Hoa đẹp, hát hay, nên nhiều khách đa tình thường lai vãng tới quán văn Tây hồ cầu thân. Nhưng khi tiếp xúc với họ, ông thấy đó chỉ là những gã nhà giầu, hoặc công tử văn không thông, võ không thành. Bây giờ thấy nho sinh Nhật Huy gần như thường trực tới quán văn Tây hồ dự các buổi giảng sách, nghe nhạc. Nhật Duy rất hào phóng với các thầy đồ giảng sách, cũng như những con hát. Nhật Duy lại hay tới nhà Đông Hoa chơi. Ơâng cho rằng Nhật Duy cũng thuộc phường tham dâm, hiếu sắc mà thôi, chứ không phải học sinh trường Quốc tử giám. Không chừng một công tử nào đó muốn bỏ tiền ra mua Đông Hoa. Nhưng sau những lần gặp nhau, thầy Tín thấy dung quang Nhật Duy khác phàm, kiến thức bao la, hai người thường đàm đạo quốc sự, văn chương, thi phú cho đến kinh Phật. Nhật Duy luận như mây trôi, nói như suối tuôn. Lý Tín khâm phục nho sinh Nhật Duy uyên bác. Ông khuyên cha mẹ Đông Hoa chiêu Nhật Duy làm rể. Một bên là một ca nhi sắc nước hương trời, thuộc nòi tình, hưởng tính lãng mạn của cha mẹ. Một bên tuy làm vua, đang độ 20 tuổi; nhưng từ bé bị giáo huấn trong lễ giáo khắt khe. Bây giờ được mang lốt nho sinh, bao nhiêu sợi dây luân lý ràng buộc bị cắt đứt. Đông Hoa mang thai. Giữa lúc đó nhà vua bận quốc sự hơn ba tháng không ra quán văn Tây hồ cũng như đến nhà thăm nàng. Thời bấy giờ con gái chưa chồng mà mang thai, như một tin trấn động, như ngọn núi lửa nổ tung. Bố mẹ nàng sẽ bị làng xã bắt khoán, nhục nhã vô cùng. Thầy Lý Tín cho rằng Nhật Duy là phường hoa bướm, con nhà giầu, chơi hoa rồi vứt bỏ. Ông dẫn cha mẹ Đông Hoa đến trường Quốc tử giám kiện nho sinh Nhật Duy. Nhưng quan Quốc tử giám tư nghiệp tra danh sách, không có một học sinh nào tên Nhật Duy cả. Ông ra lệnh cho phủ thừa Thọ xương truy bắt Nhật Duy về hai tội: giả học sinh Quốc tử giám và thông dâm với gái chưa chồng mang thai. Một buổi tối, nhà vua cùng viên Thái giám Đại Lực ra phường Tây hồ gặp Đông Hoa. Khi vừa tới sân nhà nàng, thì một Ngũ (5 người) lính dàn ra bao vây. Tất cả được võ trang đoản đao. Thầy đồ Tín, bố mẹ Đông Hoa và nàng cùng ra sân xem. Hai người lính vung đao bắt chéo nhau trước mặt nhà vua. Phản ứng tự nhiên, thái giám Đại Lực chĩa ngón tay chỏ điểm một cái. Hai thanh đao vuột khỏi tay hai người lính, bay lên cao, cắm vào thân cây muỗm. – Không được vô phép! Viên thái giám quát lên rồi vung tay một cái nữa, hai người lính bay ra xa ước hơn hai trượng, rơi xuống như tự nhảy lùi vậy. Thấy thủ pháp của Đại Lực, viên Ngũ trưởng biết dù cả Ngũ của y cũng không địch nổi người này. Tuy vậy y cũng hô lên một tiếng, cả Ngũ phu vung đao vây quanh nhà vua. Y hỏi: – Trong hai người, ai là nho sinh Nhật Duy xưng là học trò Quốc Tử Giám? Đại Lực chỉ nhà vua: – Là chủ nhân của tôi. Giọng viên Ngũ trưởng có vẻ khách khí: – Trông phong thái hai vị đều là người có lai lịch, sao lại đả thương binh lính của đức vua! Đại Lực hỏi đám binh: – Này các em, ta có làm em nào bị thương đâu mà Ngũ trưởng của các em bảo ta đả thương các em? Y hỏi viên Ngũ trưởng: – Người là Ngũ trưởng của Vệ Thọ xương, người phải biết luật chứ? Luật của đức vua rất nghiêm, khi muốn bắt một học sinh trường Quốc tử giám thì ít nhất phải có sự chứng kiến của một vị Kinh diên quan! Các người đi bắt chủ nhân tôi, mà không có Kinh diên quan chứng kiến thì là một điều sai luật. Các vị chưa xác định cái người mà người định bắt có đúng là tội nhân mà quan trên muốn bắt không mà đã dùng đao đe dọa là hai điều sai luật. Vì vậy tôi phải chống lại. Nói rồi Đại Lực vung tay lên liên tiếp, không ai nhìn rõ y ra chiêu gì, kình lực ra sao, mà mỗi chiêu một người lính bay ra đường. Người nào cũng như bị nhắc lên rồi đặt xuống vậy. Trong khi Đại Lực biện luận với viên Ngũ trưởng, thì nhà vua vào nhà Đông Hoa. Nhìn sắc mặt cha mẹ nàng, Lý Tín, nhà vua thấy dường như họ có điều gì lo lắng. Còn chính Đông Hoa thì đang ôm mặt khóc. Nhà vua hỏi: – Hoa! Cái gì đã xẩy ra? Đông Hoa thuật lại thảm trạng trong ba tháng mà nàng phải chịu đựng, nồi nàng chỉ ra sân: – Bây giờ Đại Lực lại đánh lính của phủ Thọ xương thì tai họa sẽ vô cùng lớn lao! Đại Lực trở vào đứng sau nha vuà. Y nhìn Đông Hoa mỉm cười: – Cô ơi! Tất cả những gì cô nương coi là khổ ải, chủ nhân tôi sẽ giải quyết. Tôi nói thực cho cô nương biết một điều: hiện tất cả giai nhân trong nước đều ước mơ diện kiến chủ nhân tôi, dù chỉ một lần, mà không bao giờ toại nguyện. Còn cô nương, cô nương được sủng ái cùng cực, mà cô nương không biết. Đông Hoa vẫn không yên tâm: – Trước mắt, tôi đang bị làng bắt khoán, vì gái chưa chồng mà chửa. Tiền đâu tôi nộp cho làng? Bây giờ làng xóm chê cười, tôi làm khổ cha mẹ tôi… Đến có tiếng trống, thanh la dẹp đường, rồi bốn thị vệ hộ tống một vị văn quan ngồi trên kiệu tới. Ngũ binh cũng trở lại. Viên quan hỏi Ngũ trưởng: – Người xưng là Nhật Duy, học sinh trường Quốc tử giám đâu? Viên Ngũ trưởng chỉ vào trong nhà: – Bẩm Thái phó, cái người trẻ quay lưng lại kia là Nhật Duy, còn cái người khoanh tay đứng hầu sau Nhật Huy đã đánh bọn tiểu nhân. Viên Kinh diên quan vừa trông thấy Đại Lực thì thất kinh: – Đại… đại… Lực Tổng Công công! Sao, sao? Đại Lực xua tay ra hiệu, ngụ ý xin đừng nhiều lời, rồi chỉ vào nhà vua, lên tiếng: – Kính chào Phạm sư phó. Chủ nhân của tiểu nhân là Nhật Duy, đang bị lính của phủ thừa Thọ xương bắt tội. Sư phó là thầy của chủ nhân, xin sư phó phát lạc vụ này cho. Vị Kinh diên quan đó là Phạm Kính Ân, hiện là Quốc tử giám tế tửu, lĩnh chức Thái phó, thường giảng sách cho nhà vua. Tước của ông tới Công. Vì ra vào hoàng cung thường ngày, nên ông đã gặp quan Tổng Thái giám Đại Lực. Theo quan hàm thì tước Công, lĩnh hàm Thái phó, kiêm Quốc tử giám tế tửu của ông cao hơn tước Hầu, Tổng thái giám năm bậc. Nhưng quan xa, không bằng lính gần. Đại Lực luôn hầu cận nhà vua, nên được nể nang hơn. Hôm nay ông nghe báo có một người xưng là học sinh Quốc tử giám, thông dâm với con gái lương dân, lại dám chống lại lính của phủ thừa Thọ xương. Ông phải đích thân bắt người giả học trò Quốc tử giám ấy. Không ngờ tới đây, chỉ cần thấy Đại Lực, thì ông biết người xưng là nho sinh Nhật Duy chính thị đức vua. Trong những lần giảng sách cho nhà vua, ông từng nghe nhà vua thuật lại nhiều lần ra ngoài Kinh thành thăm dân cho biết sự tình. Vốn cực kỳ thông minh, ông biết ngay người xưng nho sinh Nhật Duy, chính là nhà vua. Ông vẫy tay cho bốn viên thị vệ, cùng Ngũ lính Thọ xương: – Các người lui ra, canh gác bên ngoài! Mọi việc ở đây do ta phát lạc. Nhà vua chỉ Đông Hoa rồi vái Phạm Kính Ân: – Thưa thầy, con với tiểu cô nương đây quả có chút duyên giai ngẫu. Mong thầy tác thành cho. Phạm Kính Ân biết nhà vua là người quang minh, thượng tôn luật pháp, ngài muốn ông xử vụ này như xử học sinh Quốc tử giám thực. Ông chỉ nhà vua: – Vị này là một quý nam tử, học trò của tôi, địa vị tôn quý, không phải phường tham dâm, hiếu sắc. Con gái ông bà không chọn lầm người đâu. Ông vẫy một viên thị vệ: – Người gọi Đại tư, Câu đương xã Thụy hương đến gặp ta gấp.(1) Viên Thị vệ vừa quay ra thì Đại tư, Câu đương xã Thụy hương đã tới. Hai người thấy Phạm Kính Ân thì vái dài: – Tiểu nhân xin ra mắt Thái phó. Phạm Kính Ân cho hai người ngồi, rồi ông chỉ nhà vua với Đông Hoa: – Tôi lĩnh Quốc tử giám Tế tửu. Tôi tới đây vì mối lương duyên của một học sinh với giai nhân xã Thụy hương. Tôi xin đứng ra tác thành cho mối lương duyên này. Tuy nhiên Nhật Duy với Đông Hoa đã phạm lỗi, vì chưa cheo cưới mà đã gần nhau đến mang thai. Phép vua, thua lệ làng, vậy Đại tư cho biết, xã sẽ phạt như thế nào? Đại tư chắp tay: – Về cô gái, sẽ bị bắt khoán 15 quan tiền, bị đánh 20 roi mây giữa chợ. Nếu cô gái có tiền nộp thêm 5 quan thì miễn đánh đòn. – Vậy còn người con trai? – Nếu là con trai trong xã phải làm việc công 20 ngày. Nếu có tiền nộp thay thế thì phải 10 quan. Còn con trai xã khác, bắt buộc nộp phạt 20 quan tiền. Kính Ân tuyên án : – Nho sinh Nhật Duy đã trên 20 tuổi, nhà lại khá giả, phải nộp khoán cho mình và cho Đông Hoa. Tổng cộng 40 quan tiền. Nhưng vì là học trò giỏi bậc nhất trường Quốc tửû giám, nên phải nộp khoán gấp đôi, tức 80 quan tiền. Tổng Thái giám Đại Lực móc trong túi ra một lượng vàng trao cho Đại tư : – Thôi thì tôi xin nộp một lượng vàng thay chủ nhân. Một lượng ăn 200 quan tiền. Như vậy dư ra 120 quan. Trong xã Thụy hương có đền thờ thánh Chèm, tôi xin gửi 120 quan nhờ xã tu bổ đền thờ ngài. Đại tư tiếp vàng, lòng mừng chi siết kể. Phạm Kính Ân hỏi bố mẹ Đông Hoa : – Sự cố của con gái ông bà quả có làm ông bà phiền lòng, nhưng đây là mối lương duyên giai ngẫu giữa danh sĩ với giai nhân. Thời Lý, vua Thánh Tông chẳng từng thăm dân rồi gặp một gai nhân, sau ngài phong cho giai nhân ấy tước Ỷ Lan phu nhân đó sao ? Ỷ Lan sinh ra vua vua Nhân Tông, vua tôn mẫu hậu là Linh Nhân hoàng thái hậu. Truyện cũ sáng như trăng rằm. Bây giờ Nhật Duy với con của ông bà như ván đã đóng thuyền, gạo đã thổi thành xôi, ông bà có bằng lòng gả Đông Hoa cho Nhật Huy không ? Đền thờ thánh Chèm (Lý Thân) tại xã Thụy Hương, Hà nội (Hình VN santé) – Đa tạ sư phó tác thành cho. – Ông bà có đòi dẫn cưới gì không ? – Được rể quý, tôi xin cho không cháu Hoa. – Đông Hoa đẹp đến như thế kia, lại đàn ngọt, hát hay thì đáng xây nhà vàng cho ở ; cho không thế nào được. Lễ dẫn ít ra nghìn lượng vàng, nghìn tấm lụa, trăm thúng gạo, chục trâu bò. – Dạ quá… lớn, sợ phúc đức nhà tôi không tới. Phạm Kính Ân bấm đốt ngón tay : – Ngày 3 tháng sau là ngày tốt. Ông bà đợi Nhật Duy chuần bị, dẫn cưới rồi sẽ xin rước dâu. Tối hôm đó nhà vua về Hoàng thành. Ngài biết Thái hậu ( bà Trần Thừa) không thể chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nhà vua tìm đến cung Tuyên minh thái hoàng thái hậu (bà Trần Lý, bà nội nhà vua), thú thực về truyện Đông Hoa. Tuy uy quyền của Thái hậu hiện tối cao trong cung, nhưng bà chỉ có thể đón Đông Hoa về, cho ở chung trong cung của bà, lĩnh chức Tu dung, một đẳng cấp rất thấp chỉ trên cung nữ một bậc. Thân phận Đông Hoa trong hoàng cung qúa nhỏ bé, song nàng được nhà vua sủng ái cùng cực. Nàng được trao cho cai quản đội nhạc cung đình. Ít tháng sau, Đông Hoa hạ sinh một hoàng nam. Hài nhi da trắng, môi hồng, mười phần tươi đẹp. Toàn hậu cung vui mừng. Nhà vua lấy tên Nhật Duy trong kỷ niệm mối tình với Đông Hoa đặt tên cho con. Tuy nhiên không ai dám bàn truyện lập Nhật Huy làm thái tử. Ba năm sau Thuận Thiên hoàng hậu sinh hoàng nam, nhà vua đặt tên là Nhật Hoảng, phong làm Thái tử. Rồi nhà vua có thêm nhiều hoàng nam. Nhờ được Tuyên minh thái hoàng thái hậu dậy văn, luyện võ, nên võ công của Nhật Huy cao nhất trong các anh em. Năm Nhật Duy 13 tuổi, được mở phủ đệ riêng, được phong tước Thái tử thiếu bảo, Đồng bình chương sự, Phụ quốc thượng tướng quân, tước Vũ Uy vương, trao cho trấn ngự Tây Bắc cương. Sau trận đánh với Ngột Lương Hợp Thai, công lao của vương chỉ thua có Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương. Nguyên Phong hoàng đế lấy cớ tử quý mẫu vinh (con quý thì mẹ vinh hiển) thăng Tu dung Đông Hoa lên hàm Tuyên phi, tức vượt 18 bậc. Tuyên phi được nhà vua sủng ái nhất trong tất cả các phi tần. Bởi ngoài tình vợ chồng, giữa nhà vua với phi còn là tri kỷ, tri âm. Khi phi hát thì nhà vua kéo nhị, đánh trống mảnh, trống cơm; lại có khi nhà vua thổi sáo. Hồi mới nhập cung, phi được nhà vua truyền xây cho một cung riêng. Nhưng tính giản dị, lại sống trong dân đã quen, phi xin Bộ Công cất cho ngôi nhà tranh, đỡ tốn công nho, tốn sức của dân. Nhà vua muốn có nơi cùng phi thưởng thức âm nhạc, ngài ban chỉ dựng một cái chòi gỗ bốn mái lợp tranh. Phi lấy tên làng của mẹ là Thụy khuê đặt cho ngôi nhà. Vì vậy trong hậu cung gọi ngôi nhà đó là cung Thụy khuê. Dù bận quốc sự, dù có nhiều phi tần khác, nhưng ít nhất ba ngày một lần nhà vua cũng đến cung Thụy khuê nghe hát, tấu nhạc. Từ khi Đông Hoa nhập cung, được nhà vua sủng ái, tiếng đồn ra ngoài. Trên toàn quốc nảy ra phong trào lập Quán văn. Từ kinh đô tới các trấn, các phủ, huyện nơi nơi đều lập Quán văn. Quán văn là nơi mà các văn nhân, thi sĩ, danh sĩ, tài tử, tới để cùng nhau xướng họa, ngâm vịnh. Quán văn cũng là nơi cho những tiểu thư, giai nhân đến treo bảng tuyền phu. Mặt khác Quán văn thường trực có những danh kĩ đến hát. Vũ Uy vương, vương phi nhập cung giữa lúc nhà vua kéo nhị, Tuyên phi vừa hát vừa đánh trống mảnh. Cả hai vị như bị âm thanh đưa lên mây, nhập vào thế giới khác, đến nỗi con trai, con dâu đến bái biệt mà không biết. Đối với Vũ Uy vương, tình trạng này, vương từng thấy từ hồi còn thơ ấu. Duy vương phi, phi chỉ thấy phụ hoàng ngồi trên lưng ngựa xung vào trận tuyến Mông cổ, hay uy nghiêm thiết triều giữa hai hàng văn võ đại thần. Bây giờ phi mới được thấy con người nghệ sĩ trong một hoàng đế. Bản nhạc dứt, Nguyên Phong hoàng đế chợt thấy hai con, ngài chỉ ghế: – Các con ngồi đó đi. Ngày mai hai con lên đường, lĩnh trọng trách vô cùng trọng đại. Như hôm qua, trong buổi thiết triều đã định: các con được toàn quyền hành động, miễn sao đạt được mục đích: Thứ nhất, gây chia rẽ trong hoàng tộc Mông cổ, khiến các Hãn đem quân tàn sát nhau. Gây chia rẽ giữa ngoại thích với hoàng tộc. Gây chia rẽ giữa triều đình với hậu cung. Gây thù hận giữa quân Mông cổ với dân chúng. Thứ nhì, giúp Tống chống với Mông cổ, khiến cuộc chiến Mông-Tống kéo dài, càng dài càng tốt. Thứ ba, ngăn cản, tiêu diệt những kẻ chủ xâm lăng Đại Việt. Điều khẩn cấp làm sao cho Mông cổ bỏ ý định đánh Đại Việt. Nhà vua hỏi Vũ Uy vương : – Bắc cương chia làm hai khu vực. Khu Đông thuộc Ngũ yên giáp biển, và Quảng Tây. Trước đây là đất phong của An Sinh vương. An Sinh vương hoăng thì Hưng Ninh vương, Hưng Đạo vương kế nhậm. Ta yên tâm. Khu Tây do con trấn nhậm mấy năm qua. Khu này phía Tây giáp với Lão qua, không có gì đáng ngại. Duy khu Bắc, một phần giáp với Quảng Tây lộ của Tống, một phần giáp với Đại lý. Giữa khu ba biên giới có nhiều Bạc dịch trường (chợ biên giới). Đây là cửa thông giữa ta với Đại lý mang tên cửa Lê hóa, phủ Thiện xiển. Các khu đất này khi Tống mạnh thì Tống thu thuế. Khi ta mạnh thì ta thu thuế. Khi Đại lý mạnh, thì Đại lý thu thuế. Vậy hiện ra sao? – Tâu phụ hoàng, khi lên trấn nhậm, con thấy Tống yếu quá. Còn Đại lý thì bị Mông cổ chiếm. Bọn Mông cổ không để ý đến những khu đất mà dân không đông, tài nguyên chẳng có gì. Thần nhi nhân đó tiến quân vào, đặt đồn lũy kiểm soát, bổ nhiệm quan cai trị. – Ta có đọc tấu chương của con. Trước đây Tống mạnh, họ cắt những khu đất hoang ở vùng ba biên giới cho bọn trôm cướp. Con phải nhân dịp ta mạnh, chống Mông cổ ở phía Nam cho Tống, đặt vấn đề với Tống, bắt Tống buông chúng, nhân đó ta tiến quân vào giết bọn tướng cướp, lập thành khê động phiên dậu cho ta. – Con đã làm được một phần, đang làm một phần. Những châu, trang, động đó, con cho họ tự trị. Con chỉ kiểm soát tổng quát mà thôi. Vì vậy trong trận đánh vừa qua, Mông cổ tràn về Thăng long, coi thường các trang, động nàyï. Chúng đâu ngờ họ chính là những đội quân gây cho Mông cổ muôn vàn khó khăn ; đường tiếp vân của Mông cổ không qua vùng đất của họ được. Mông cổ muốn đánh các trang động này, còn khó hơn đánh vào các xã ấp của ta. Khu mật viện Bắc biên luôn cho Tế tác thu lượm tin tức đầy đủ. Khi hội với Tống, con sẽ chiếm được thượng phong. Nguyên Phong hoàng đế ngồi thẳng dậy, ngài ban chỉ bằng giọng nói hết sức tha thiết : – Có ba khu vực, mà thời Lĩnh Nam thuộc cương thổ Việt, bây giờ một thuộc Đại lý, hai thuộc Tống. Khu vực tiếp giáp với Bắc cương của con là châu Chiêu dương. Khi anh hùng Tượng quân nổi lên lập ra nước Đại lý thì châu Chiêu dương thuộc Đại lý. Hiện dân chúng khu này bẩy phần Việt, ba phần Hán. Con phải nhân Đại lý hàng Mông cổ. Mông cổ không có quân đóng ở đây ; mà tiến quân tái lập nền cai trị thành cương thổ Đại Việt. – Con sẽ hết sức làm. – Hai khu thuộc Tống gai góc nhất là châu Văn sơn, Khâu Bắc. Hai châu này nằm ở Bắc Chiêu dương, cách xa Bắc cương của con đến hơn 200 dặm (100 km). Thời Lĩnh Nam thuộc Giao chỉ. Khi vua Trưng tuẫn quốc, thì Hán cho thuộc Tượng quận, rồi bây giờ thuộc Quảng Tây lộ của Tống. – Aáy a ! Khó , quá khó ! Vì hai châu này được coi như một nước, chịu sắc phong của Tống. Hiện chúng hàng Mông cổ. Mông cổ có một Thiên phu đóng ở đây. – Khó cũng phải làm cho được. Hai châu này đất đai trù phú. Trước kia là đất hoang. Tống đã cho bọn thổ phỉ họ Thân khai hoang, xưng láo là giòng dõi vua Lý Nhân Tông. Chúng lập thành triều đình, gửi người về nước chiêu dụ con cháu họ Lý, chiêu dụ bọn vong mạng, bọn đầu trộm đuôi cướp lập hai khu thành một vương quốc. Dân số hiện lên tới hai mươi vạn người. Quân bộ của chúng tới năm vạn, quân kị năm nghìn. Trong trận đánh vừa rồi, bọn này gửi tới hơn vạn thổ phỉ theo giúp Mông cổ. Nhà vua nhấn mạnh : – Khi điều đình với Tống, ta đang ở thế mạnh : ta nói cho họ biết bọn giặc họ Thân được Tống cưu mang bấy lâu mà bây giờ chúng phản Tống, theo Mông cổ. Chúng như thanh gươm kề vào hông Tống. Ta yêu cầu Tống nhắm mắt để ta đánh bọn thổ phỉ cho Tống. Ta hứa trao cho họ hơn nghìn cao thủ võ lâm, ta lại đang tập hợp Hoa kiều thành một hiệu binh gửi sang trợ Tống. Dù Tống đồng ý hay không, ta cũng tiến quân vào diệt bọn thổ phỉ, sau đó ta sát nhập hai châu trở về với cương thổ Đại Việt. – Thần nhi sẽ làm hết sức mình. Tuyên phi chỉ vương phi Ý Ninh : – Con có người vợ thế này thì con phải hứa với phụ hoàng rằng con sẽ thực hiện được việc thu hồi đất tổ ; chứ không thể hứa làm hết sức mình. – Thần nhi tuân chỉ của mẫu thân. Tuyên phi tháo sợi giây chuyền có mang tượng Quan Thế Âm, mà nhà vua ban cho phi trong buổi gặp mặt đầu tiên đeo vào cổ con dâu: – Đây là bảo vật phụ hoàng ban cho mẹ trong buổi sơ giao. Mẹ cho con, để vạn dặm trên đường bảo quốc, con sẽ được Quan Âm phù hộ. Hôm nay mẹ đã làm cơm cho các con ăn. Cơm chẳng có cao lương mỹ vị gì đâu: cà pháo mắm tôm, canh cua nấu với rau đay, rạm rang và chả rươi. Phi dặn Vũ Uy vương : – Vừa rồi Mông cổ vào Thăng long, chúng truy lùng bắt đi rất nhiều danh ca. Quán văn Tây hồ bị bắt 4 người. Quán Văn miếu mất 11 người. Quán Ngocï thụy bị 3 người. Quán Nghi tàm bị 8 người. Quán Tô lịch đau xót nhất, Tô lịch thất tiên bị bắt rồi mất tích. Khi con đi sứ hãy để tâm nghe ngóng xem có tin tức gì không. Nếu có, tìm mọi cách cứu các nàng đem về. Sứ đoàn chính thức gồm năm người, Vũ Uy vương Trần Nhật Duy, vương phi Trần Ý Ninh, Vũ Sơn hầu Tạ Quốc Ninh đi bằng ngựa. Đoàn tùy tùng do Đô thống Trần Quốc Kinh ( Dã Tượng), Nguyễn Địa Lô chỉ huy 30 Thiết kị Long biên hộ tống, 25 mã phu, đầu bếp, mười xe song mã chở y phục, vật dụng, lương thảo. Tất cả hướng bến đò Bắc ngạn. Giữa lúc sứ đoàn dang chuẩn bị lên đường thì chú của Nguyễn Địa Lô từ trần. Vũ Uy vương cho Lô về chịu tang, rồi lên đường sau. Vương phi Ý Ninh xin phép vương đi Thiên trường, đến chùa Thần quang bái biệt sư phụ là Bồ tát Vô Huyền. Ngựa dừng vó ở cổng chùa, đã có một nữ đệ tử đón : – Sư tỷ. Sư phụ đang chờ sư tỷ ở bảo điện. Ý Ninh trở lại nơi nàng từng tu, từng học mấy năm liền. Từ hồi tuân chỉ sư phụ, cùng anh trấn thủ Phù lỗ, phải rời chùa, thấm thoát đã hơn năm. Bây giờ trở lại đất cũ : cảnh vẫn như xưa. Lòng tưởng nhớ sư phụ, phi rảo bước đến bảo điện, đẩy cửa bước vào. Sư phụ ngồi trên tấm bồ đoàn bằng rơm rất dầy. Phi quỳ gối đỉnh lễ : – Đệ tử bái kiến sư phụ. Vô Huyền chỉ chiếc bồ đoàn nhỏ bên cạnh ngài : – Con ngồi đó đi. Có phải triều đình sai Nhật Duy đi làm con tin Mông cổ không ? – Dạ ! Đúng như sư phụ dạy. – Có phải Mông cổ đòi Đại Việt phải chịu sáu điều không ? Sáu điều đó ra sao ? – Trình sư phụ sáu điều là : Một là đích thân quốc vương phải vào chầu, Hai là đem trưởng nam làm con tin, Ba là kê biên dân số, Bốn là phải chịu quân dịch, Năm là phải nộp thuế, lương thảo. Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) . Bồ tát cười: – Bọn Mông cổ ngông cuồng thực. Vừa bị đánh tan tác, mà chúng còn muốn dương oai. Ta chắc lão Thủ Độ sẽ không chịu bất cứ điều nào. Còn triều đình cử Nhật Duy với con đi với mục đích khác phải không? – Sư phụ thực minh kiến. – Triều đình cử một sứ đoàn đông đảo như vậy, chi tiêu tốn kém lắm. Riêng con, lúc ta cho con xuất chùa, trong túi có không quá hai quan tiền. Tiền đó, chỉ đủ cho con ăn quà không quá một tháng. Vậy từ hồi ấy đến giờ con lấy gì mà chi tiêu? – Hồi trấn thủ Phù lỗ con không có dịp tiêu tiền. Sau khi rời Phù lỗ, con với anh Duy yết kiến phụ hoàng trên con thuyền. Người ban chỉ cho chúng con thành vợ chồng. Chúng con bái lậy phụ hoàng, hướng về Thiên trường bái lậy liệt tổ Đông A, bái lậy sư phụ, rồi rời thuyền, lăn xả vào cuộc chiến 10 ngày, 11 đêm ngăn không cho giặc về Thiên trường. Nên cũng không có dịp tiêu tiền. Vô Huyền bật cười: – Trong lịch sử Đại Việt chưa từng có một cặp trai gái nào lấy nhau kỳ lạ như vợ chồng con. Không bái thiên địa, cũng chẳng lễ Tơ Hồng. Không một chung rượu, chẳng một miếng thịt cho lễ cưới. Ta chắc động phòng ít ra vài ngày sau! – Dạ, 18 ngày sau, khi chúng con tái chiếm núi Côi! – Khi một hoàng tử cưới chánh phi, thì triều đình ban cho vàng ít ra ngàn lượng, còn ngọc, ngà, châu báu. Ta chắc con không được gì! – Trong lúc phụ hoàng ban chỉ chúng con thành vợ chồng trên con thuyền, người chẳng còn gì! Hết giặc, quốc khố trống rỗng. Cho đến lúc này người cũng không còn gì mà ban cho. – Con phải nhớ nhé: Con không chê cha khó, Chó không chê chủ nghèo. Con với Nhật Duy đừng vì không được ban vàng ngọc mà oán phụ hoàng. – Dạ! – Khi rời ta đi trấn Phù lỗ, ta thấy con có đeo hoa tai, kiềng, vòng ngọc. Thế sao bây giờ trên người con không còn gì? – Dạ! ?Nữ trang đó con ban thưởng cho mấy nữ tướng ngưu binh rồi! – Từ cổ chí kim, ta chưa từng thấy một vương phi nào, trên người không một chút nữ trang. Thế phụ hoàng phong cho con tước gì? – Dạ Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Cho hưởng 300 mẫu ruộng. – Thế ruộng ấy con thu tô ra sao? – Thưa! Con không thu tô, cho tá điền nghèo cấy. – Đức con cao quá! Xứng đáng học trò của ta. Còn chồng con? – Từ hồi Tổng trấn Bắc cương anh ấy được phong: Thái tử thiếu bảo, Đồng bình chương sự, Phụ quốc thượng tướng quân, Tước Vũ Uy vương, trao cho trấn ngự Bắc cương. Thực ấp Vạn hộ. Nhưng anh ấy thu thuế rất nhẹ, dùng tiền để trả lương cho các quan phủ Vũ Uy. Vợ chồng con chi tiêu bằng bổng Phụ quốc thượng tướng quân. – Bổng đó thì ăn uống dè sẻn lắm mới đủ. Thôi hôm nay ta cho con ít vàng, để trên đường đi sứ không túng thiếu. Ngài gọi một ni sư: – Con xuất cho Ý Ninh 100 nén vàng (1 nén=10 lượng). Ý Ninh lậy tạ sư phụ. Vô Huyền ban chỉ : – Con đi kỳ này sẽ có nhiều khó khăn. Sư phụ đã chuẩn bị cho con một đội Mê linh kiếm trận, gồm 6 nam, 6 nữ. Chúng đều biết làm bếp. Chúng sẽ giả làm đầu bếp của sứ đoàn. Ý Ninh bái biệt sư phụ, cùng 12 sư đệ, sư muội lên đường. Thời Trần, thành Thăng long có năm cửa, bởi vậy trong bài ca dao Đố ai đã đặt câu hỏi : Thành nào năm cửa chàng ơi ? Do ảnh hưởng của ca dao, sau này thi sĩ Vũ Hoàng Chương lầm cửa ô với cửa thành, ông có câu thơ nhắc lại Hà nội có năm cửa ô như năm cánh ngôi sao. Hồi 1954, Văn Cao lại cũng lầm lẫn cửa ô với cửa thành trong bài hát Tiến về Thủ đôcó câu Năm cửa ô đoàn quân tiến về. Tại bốn cửa chính của thành Thăng long có tượng bốn vị thần trấn thủ. Hướng Bắc gọi là Kinh bắc, ngày nay bao gồm Bắc ninh, Bắc giang cho tới Lạng sơn, Cao bằng. Trấn đông gồm Hồng châu thượng, Hồng châu hạ, nay là vùng Hải dương, Hưng yên, Hải phòng. Trấn nam gồm Sơn nam thượng, Sơn nam hạ, nay là Nam định, Hà nam, Thái bình. Trấn đoài gồm Hà đông, Hưng hóa, Hòa bình, Sơn tây. Kinh thành có 24 cửa ô, là cửa ngõ có đường thông ra bốn trấn. Ngày nay chúng ta còn nghe nhắc tới những tên như cửa ô Yên hoa (nay là Yên phụ), cửa ô Thạch khối (nay là Thạch tân), cửa ô Quan chưởng.v.v. Bến đò Bắc ngạn nối Thăng long với Gia lâm, nằm trên bờ sông Hồng. Nay ở phía Nam và Bắc cầu Long biên Hà nội. Bến đò cắt ngang con đường Cái quan, giao thông giữa Thăng long với Kinh Bắc; giữa miền Nam với miền Bắc Đại Việt. Cho nên dọc hai bên bờ, hàng quán, nhà trọ nối dài đến hai ba dặm (1 km- 1,5km), cung ứng nhu cầu ăn uống, chuyên chở, giải trí cho khách đi đường xa; và cũng là nơi bán các sản vật địa phương. Bến Bắc ngạn quanh năm nhộn nhịp, dưới sông có hằng mấy trăm con đò chở người, chở vật sang sông. Lại có những bang hội vận tải, chở khách từ Thăng long đi nội địa như Thiên trường, Kinh bắc, Tiên yên, Thanh hóa, Nghệ an và sang Trung nguyên, Chiêm thành. Trên mỗi con thuyền lớn chở khách sang sông, đều có những nghệ nhân tấu nhạc, ca hát giúp vui. Các nghệ nhân này sống nhờ tiền tặng của thính giả. Gọi là Xẩm. Sứ đoàn không qua sông bằng dân thuyền, mà được vận chuyển bằng hai chiến thuyền của Thủy đội Thăng long. Với 59 người ngựa thêm hàng chục xe song mã cần tới 10 lượt. Cuộc vượt sông ít ra phải nửa buổi. Vũ Uy vương ra lệnh cho Dã Tượng chỉ huy đoàn tùy tùng vượt sông trước. Còn sứ đoàn sẽ sang sau. Vừa hết chiến tranh, mà khu Bắc ngạn đã phục hồi. Mấy tháng trước, Kị binh Mông cổ không thể nào qua sông, vì dân chúng tuân theo lệnh triều đình, dấu ghe thuyền vào các kinh lạch. Nhưng nào ngờ tám bang hội Hoa kiều theo giặc, chúng tình nguyện chở quân sang sông. Chúng còn hiến kế cho giăc: dùng cường lực đến từng nhà chủ đò bắt chở quân qua sông, bằng không sẽ đốt cháy hết các dẫy nhà hai bên bờ. Biện pháp này quả thực hiệu nghiệm, quân Mông cổ qua sông, vào Thăng long, do vậy nhà cửa hàng quán Bắc ngạn còn nguyên. Giặc vừa rút khỏi Thăng long, thì các cửa hàng buôn bán lại mở cửa đón khách nhộn nhịp hơn xưa. Quân dân đời Trần rất gần nhau. Người dân thấy đoàn người-ngựa, gươm-đao, giáp-trụ sáng choang, hằng chục xe song mã qua sông; họ hướng mắt nhìn bằng vẻ thân thiết, rồi tránh sang vệ đường vẫy tay chào. Đám trai tráng còn bỏ công việc hàng quán, ra giúp quân, phụ mã phu đẩy những cỗ xe nặng nề. Sứ đoàn đi sau đội Kị binh. Vũ Uy vương, Dã Tượng mặc quần áo nâu như nông dân. Tạ Quốc Ninh mặc như một nho sĩ. Vương phi mặc võ phục của đệ tử phái Mê linh. Người ngoài cuộc tưởng bốn người với đội hộ vệ là hai nhóm người khác nhau. Những đứa trẻ chào mời khách thấy bốn người cỡi ngựïa thì ào tới nắm dây cương: – Các ông ơi mua mía đi, mía ngọt lắm. – Các chú ơi, mua bánh gai đi. Bánh gai Thiên trường vừa thơm vừa ngọt. Cô bán bún chả tuổi khoảng hai chục, tay quạt, tay trở những xâu thịt: – Mời khách quan xơi bún chả đi. Bún chả Thăng long thơm ngát, béo ngậy đi. Một bà tuổi trên dưới bốn chục, ngồi trong quán đon đả: – Chả rươi Thiên trường đi, rươi tươi làm với trần bì chính tông, thơm ngon tuyệt trần. Không ngon, không lấy tiền. Ngay sát mé sông là một Quán văn với tấm bảng sơn son thiếp vàng có bẩy chữ: Thiên Thư thính văn tụng phú quán, (Quán sách trời, nơi đọc văn, tụng phú) Nét chữ sắc như gươm. Trước quán bầy mươi cành đào, mấy chậu cúc Vạn thọ, mấy chậu quất trái vàng óng ánh, hai ba cái vại lớn thả cá chép vàng. Giữa quán có một bàn thờ giản dị, một bài vị với bẩy chữ: Liệt tổ Đại Việt chi linh vị, Cạnh bài vị, một lư hương, khói bốc nghi ngút. Trên bàn thờ bầy la liệt sách, có khổ lớn, có khổ nhỏ, có sách dầy, có sách mỏng. Trong quán có hốn hàng ghế, mỗi hàng năm ghế. Mỗi ghế ngồi được năm người. Khách khoảng gần trăm, đủ loại già, trẻ, nam nữ đang uống trà, nghe thầy đồ kể truyện. Trên một vách ngang treo khá nhiều bút thiếp, vách đối diện treo hai cây cung của Mông cổ, một thanh đao, một thanh kiếm. Lại có chiếc sập, với năm nhạc công, một ca nhi ngồi chờ tấu nhạc. Một trung niên nam tử, trang phục như nho sĩ, dường như là chủ quán, đứng trước cửa, tay cầm cành đào, hoa nở đỏ rực: – Hoa đào Thụy khuê đây. Đào nở mừng chiến thắng Đông bộ đầu này. Mời quý khách vào quán trước xin xâm đầu năm, sau nghỉ chân, ngắm hoa, nghe thơ, thưởng thức âm nhạc. Thấy sứ đoàn, anh ta mở to mắt nhìn, chau mày phỏng đoán, phân biệt xem bốn người là loại người nào? Nhưng dường như anh ta không đoán ra được. Vương phi Ý Ninh thấy vui vui hỏi anh ta: – Này anh! Anh mời chúng tôi mua hoa đào hay nghe âm nhạc? Anh cho biết cao danh quý tính đi! Thấy một phụ nữ trẻ lưng đeo kiếm, mặc võ phục, anh ta trả lời với ngôn ngữ khách khí: – Thưa phu nhân kẻ hèn này chỉ là một nho sinh, thì làm gì có danh mà cao, có tính mà quý. Xin phu nhân cứ gọi là Nho Lâm đi. Kính mời phu nhân vào quán xơi nước, trước nghe hát, sau mua đào. – À! Thì ra anh cũng thuộc hàng tao nhân, mặc khách đấy. Tôi hỏi anh câu này nhé: hoa đào là hoa đào, cứ xuân đến thì đào nở, tại sao anh bịa ra rằng hoa đào nở mừng chiến thắng Đông bộ đầu? Anh nói điêu rồi. Tất cả khách trong quán thấy có cuộc trao đổi thanh nhã, đều im lặng hướng mắt ra ngoài theo dõi. Nho Lâm chắp tay vái dài: – Thưa phu nhân, mọi năm phải cuối tháng giêng thì đào mới nở. Thế mà hôm nay là ngày rằm, đào đã trổ hoa rực rỡ thế này đây! Như vậy là hoa nở để chào mừng chiến thắng, thực rõ ràng. Giá ba đồng một cành. Tôi không hề nói điêu. Vương phi móc túi trao cho Nho Lâm ba đồng, rồi tiếp lấy cành đào: – Ừ thì anh không nói điêu. Nhưng anh nói sai rồi. Đại Việt chúng ta chiến thắng bẩy trận: Thảo nguyên, Bình lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản, Thăng long, Đông bộ đầu, Đồng văn. Trong đó Đông bộ đầu chỉ là một trận thôi. Vậy đào nở để mừng chiến thắng toàn quốc mới phải chứ! Nho Lâm mỉm cười cố cãi: – Dạ thưa phu nhân, trong bẩy trận, thì sáu trận lúc đầu ta thua, sau mới thắng. Chỉ duy trận Đông bộ đầu là ta toàn thắng mà không bại. Đây là Thăng long mà, Đông bộ đầu thuộc Thăng long nên thần sông Tô lịch, Thần hồ Tây, thần Trấn quốc sai đào nở sớm mừng chiến thắng Nam quốc sơn hà Nam đế cư đấy. Có phải không phu nhân? Còn một loại đào nở mừng chiến thắng toàn quốc nữa kia! Đó là đào Nguyên Phong. Vũ Uy vương thấy Nho Lâm nói năng văn vẻ thì cùng vương phi, Tạ Quốc Ninh, Dã Tượng vào quán. Một tiểu đồng bưng nước mời khách, nó chỉ một ghế trống: – Kính mời quý khách an tọa. Quý khách xơi nước muồng đi. Nước muồng vừa thơm, vừa dễ ngủ. Vương phi thấy tiểàu đồng dễ thương qúa, phi tát yêu nó rồi tặng cho mười đồng tiền: – Cô mừng tuổi cho con này! Trong quán con có những nước gì? Tiểu đồng khoanh tay cúi đầu: – Thưa cô có các loại nước sau đây: Nước vối hơi đắng ngủ ngon, dễ tiêu. Nước chè tươi tỉnh trí, lợi tiểu. Nước gạo rang với gừng khô ấm bụng. Nước pha con lấy trong giếng đấy. Chứ nước sông Hồng thì hôi, tanh lắm. – Sao thế? – Dạ cách đây hơn tháng, trong trận Đông bộ đầu, người ngựa Mông cổ bị quân ta giết, xác trôi dầy sông. Nước sông dơ bẩn, cho đến nay cũng chư sạch. Vương hỏi Nho Lâm: – Đào Nguyên Phong nở mừng chiến thắng toàn quốc đâu? Nếu anh có loại đào đó đưa ra đây tôi xin mua hết! – Xin khách quan giữ lời hứa nhá! Cả quán cùng ồ lên một tiếng, theo dõi. Nho Lâm phất tay. Tiếng nhạc vang lên. Một cô gái tuổi khoảng 17-18, áo cánh nâu, váy lụa đen cất tiếng hát. Cô có đôi môi hồng, làn da trắng mịn, ánh mắt sáng ngời, hai má lủng đồng tiền đỏ au. Tay cô cầm căp chũm chọe, vừa hát vừa đánh, đầu gật gù, cái đuôi gà càng thêm duyên dáng. Cạnh cô, là năm nhạc công. Một người đàn ông đánh trống cái, một người khuya chiêng, một người kéo nhị, một người thổi sáo. Một người đàn bà trung niên bật trống cơm. Mọi người im lặng thưởng thức bản nhạc. Đó là bản nhạc chiến thắng mới được sáng tác ngay trong đêm vây Mông cổ tại Đông bộ đầu. Tay bưng bát nước muồng nóng, vương lắng tai thưởng thức âm điệu hùng tráng. Khi thì như tiếng gươm, tiếng giáo chạm nhau choang choảng. Khi thì như muôn ngàn tiếng quân reo, ngựa hí. Khi thì rầm rập như vó ngựa phi. Tất cả cử tọa đều bị tiếng đàn, tiếng hát khiến máu trong người chạy rần rật. Rồi không ai làm chủ được mình, tay múa, chân dậm, hò hét theo. Công lực cao thâm, thần trí cực mạnh như Vũ Uy vương, vương phi, Tạ Quốc Ninh, Dã Tượng mà cũng hòa theo, hát với thanh âm hùng tráng. Từ hồi thơ ấu vương từng được nghe đội nhạc Hoàng cung tấu, được nghe mẫu thân hát đủ mọi điệu hát dân gian cũng như cung đình. Vương còn được học xử dụng tất cả các nhạc khí Đại Việt, vì vậy vương nhận ra năm nghệ nhân đều là những người tài hoa khó kiếm. Bản nhạc dứt, cô gái ngừng hát, ngừng múa, mồ hôi lấm tấm trên trán, sắc mặt đỏ tươi, càng tăng thêm vẻ đẹp của cô. Người người rừng rực như vừa uống một chung rượu. Vương phi Ý Ninh hỏi: – Này cô em! Bài hát vừa rồi rõ ràng là bài Đông bộ đầu trảm Thát đát (Giết Thát đát tại Đông bộ đầu). Sao nhịp điệu lại thay đổi đi khá nhiều vậy? – Dạ, quả là bản nhạc đó, nhưng em đổi đi một chút cho thêm hùng khí. Chợt vương phi Ý Ninh thấy sau chỗ cô gái ngồi có mấy chữ Nôm: “Thanh Nga, mười tám mùa xuân, tìm người cùng tát biển Đông”. Phi đưa mắt nhìn vương rồi dùng lăng không truyền ngữ nói với vương: – Anh có chú ý giòng chữ không? Thì ra cô gái này tên Thanh Nga, 18 tuổi. Cô không phải con hát, mà ra đây tuyển phu. Chú giải, (1) Quốc tử giám, Đại học Hoàng gia, được thành lập đầu tiên vào thời vua Lý Nhân Tông (1070), để dạy con, cháu nhà vua, con các đại thần. Trường cũng dành cho những học sinh ưu tú ngoài dân dã vào học, chuẩn bị thi Thái học sinh (Tiến sĩ). Học chế đời Trần như sau: mỗi làng, xã đều có thầy đồ dạy học hoặc ăn lương vua, hoặc không. Những học sinh xuất sắc làng-xã được tuyển vào học tại trường phủ-huyện. Mỗi phủ-huyện có một hay hai học đường. Học đường thiết lập ngay trước nha môn (văn phòng huyện). Nhà vua ban sắc chỉ bổ nhiệm những nho sĩ có văn tài lĩnh chức Huấn đạo phụ trách học đường. Chức Huấn đạo uy quyền rất lớn, ngang với quan phủ-huyện. Thầy dạy tại học đường song song với vị Huấn đạo, còn có rất nhiều các thầy của làng xã. Vị Huấn đạo ngoài việc phụ trách giảng dạy học sinh, còn trách nhiệm trông coi việc thi hành giáo dục dân chúng, bảo vệ luân lý, lễ nghi, phong tục trong quản hạt. Những học sinh phủ-huyện giỏi, được tuyển vào Quốc tử giám học, chuẩn bị thi Thái học sinh. Học sinh học Quốc tử giám được triều đình nuôi, đài thọ ăn ở. Khu Quốc tử giám nay là khu Văn miếu Hà nội. Quốc tử giám tế tửu, tức Viện trưởng Đại học hoàng gia. Thường thì quan Thái phó kiêm nhiệm. Kinh diên quan, giáo sư trường Quốc tử giám. Vị này còn phụ trách giảng sách cho nhà vua. Tức ông thầy của vua. Đại tư, chức quan đời Trần, do dân một xã bầu lên, rồi được triều đình ban sắc công nhận. Tương đương với ngày nay là chủ tịch hội đồng nhân dân xã. Hưởng lương xã. Câu đương, chức quan đời Trần coi về phòng vệ, an ninh xã. Chức này do quan phủ hay huyện bổ nhiệm. Tương đương với ngày nay là chỉ huy dân quân xã. Hưởng lương xã. Hồi thứ năm mươi ba Anh-hùng Lĩnh-Nam Vương dùng Lăng không truyền ngữ hỏi lại: – Sao em biết cô ấy tuyển phu? – Anh không thấy sao? Cô ấy tìm người cùng tát biển Đông, chữ này lấy ý trong câu tục ngữ: Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. – Anh chưa học chữ Nôm thành ra đọc không hết 12 chữ kia. Anh đọc được chữ thanh, còn chữ Nga thì nào có biết! Em thử hỏi xem cô ca nhi này có đúng tên Thanh Nga không? Biết đâu Thanh Nga là người khác, không có mặt ở đây thì sao? Vương phi hỏi cô gái: – Này cô em! Bây giờ em hát một bài nhẹ nhàng đi. Cô gái đưa mắt cho ban nhạc, một người đánh trống mảnh, một người kéo nhị, một người thổi sáo, một người đánh đàn bầu. Người đàn bà vẫn bật trống cơm. Cô gái gõ phách, rồi cất tiếng hát. Mở đầu là bốn câu thơ lục bát, cô hát theo điệu ru em mượt mà. Hết bốn câu, cô đổi sang điệu hát rất lạ, rất êm dịu. Bản nhạc hết, vương phi Ý Ninh hỏi: – Em ơi! Bài hát vừa rồi theo điệu gì vậy? Tôi chưa từng nghe qua. Cô gái nhoẻn miệng cười, đôi mắt có đuôi càng thêm duyên dáng: – Thưa đó là điệu hát Xẩm đấy ạ. Phi khen: – À, xung quanh tôi người ta nói đến hát Xẩm hoài, bây giờ tôi mới được nghe em hát. Em hát hay thực, bỏ xa các ca nhi mà tôi từng được nghe. Này em, hát Xẩm là điệu hát dành cho người nghèo, xin tiền. Em có nghèo đâu mà cũng hát Xẩm? Em đẹp lồ lộ, tươi thắm như hoa đào, hoa lý (mận) thì phải gọi là hát Đào hoa, hoa Lý hoa mới đúng. Cô gái cười, ánh mắt lung linh như nước hồ thu, chắp tay vái vương phi: – Thưa phu nhân, hát Xẩm là điệu hát dân gian, không biết ai là tác giả, có từ bao giờ. Thế nhưng người ta cứ phong cho Trương Chi là tác giả. Trương Chi là nhạc sĩ tài hoa thời vua Hùng. Nếu đúng như thế thì hát Xẩm có từ thời vua Hùng. Tạ hầu xen vào: – Tuy đến nay sử sách không ghi rõ ràng, nhưng trong bộ Lĩnh Nam mật sử , phần Bắc bình vương thế gia chép rằng hồi niên thiếu, khi vương qua bến đò đi Cổ loa thì gặp một cặp vợ chồng hát Xẩm tên là Chu Thổ Quan. Như vậy hát Xẩm ít nhất có vào thời vua Trưng (39-43 sau Tây lịch).(1) Dã Tượng thấy cô gái quá trẻ, xinh đẹp mà kiến thức rộng, chàng hỏi: – Cô ơi, tại sao tại các con đò qua sông, trước các đền chùa, nhất là ngày mùa, tôi thấy người hát Xẩm đều nghèo, đi xin ăn. Mà ở đây cô cũng là Xẩm, vậy cô là Xẩm giầu, Xẩm đẹp sao? Cô đẹp thế kia mà đi hát Xẩm thì nên gọi là Xẩm tiên nga mới đúng. – Anh đặt câu hỏi như vậy thì anh từng nghe hát Xẩm nhiều rồi. Em đâu phải Xẩm. Xẩm chỉ là một điệu hát thôi. Còn em, em biết hát tất cả các điệu hát Đại Việt như Quan họ, Đò đưa, Ả đào, Sa mạc. Lại còn hát Lý, hát chăn trâu. Xuất thân là mục đồng chăn trâu, rồi thành tướng Ngưu binh, Dã Tượng thuộc hàng trăm bài hát Nghêu, hát đồng, hát ghẹo, hát gọi, hát đố. Chàng rút ống sáo đeo trước ngực ra thổi theo điệu Hát Nghêu. Lập tức cô gái cất tiếng hát theo: Hôm nay trời nắng, gió êm, Cỡi trâu, gõ sừng, ấy a, ta quên nhọc nhằn. Dã Tượng khen: – Giọng cô tốt quá. Thế tôi hỏi cô câu này nghe: tại sao thì Xẩm hầu lại gồm tất cả các điệu Quan họ, Ả Đào, Hát lý, Hát trống quân? – Anh ơi, Hát Xẩm là diệu hát dân gian . Vì vậy Hát Xẩm rất phong phú có thể dùng tất cả thể loại thơ văn biến ra. Như bài hát Đông bộ đầu giết Thát đát, từ nguyên tác em có thể biến thành điệu hát Xẩm, nhưng không còn hùng tráng nữa. Bây giờ em xin hát một bài hát Ả Đào, mời anh nghe. Nàng phất tay, rồi gõ phách, các nhạc công cùng tấu nhạc hòa lẫn vào nhau, nàng cất tiếng hát: Lĩnh-Nam là đất anh hùng, Vua Bà ngự trị, một lòng thương dân. Mê-linh khởi nghĩa, Ánh trăng soi, lửa chiếu đến ngang trời. Vua Bà cầm bảo kiếm, quyết một lời: Thề đem sức, giúp đời dành tự chủ. Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếm hãn thanh.(2) Khi đuổi giặc, rồi thì đất tổ thái bình, Đem tất cả hùng tài dựng lại nước. Tài không thiếu, đức cũng đủ, dư thừa phương lựơc, Chỉ hiềm vì, thế nước đã suy vi, Cẩm-khê sóng cả bốn bề, Anh hùng gieo xuống, hồn về cõi tiên. Nghìn năm lịch sử ghi tên. Tạ hầu cười: – Cô ơi! Cô hát hay quá. Nhất là hai câu mưỡu cô lên cao đến như vậy, tôi chưa từng nghe qua. Điệu hát vừa rồi là điệu hát Ả Đào còn gọi là Ca trù. Còn nội dung bài hát là nói về cuộc khởi binh của vua Trưng. Đâu phải hát Xẩm? Cô gái lại gõ phách, năm nhạc khí lại tấu lên, cô biến bài Ca trù thành điệu hát Xẩm. Dã Tượng chắp tay xá cô gái: – Tuổi cô còn trẻ, mà tài thì lại cao, nhất là cô làm chủ một tấm nhan sắc tươi như hoa, thanh thoát như cỏ non đầu xuân. Xin bái phục. Vương phi Ý Ninh móc trong bọc ra một nén bạc, nắm lấy tay ca nhi, bỏ vào, mỉm cười: – Chị biếu em đấy. Em hát hay, lại xinh đẹp thế này. Nếu chị là trai, chị quyết xung vào đội quân Bắc cương đánh giặc lập công. Đức vua ban cho chức tước gì chị cũng không nhận. Chị chỉ xin cưới em làm vợ thôi. Được làm chồng em, thì lệnh vua bảo chị xung vào trăm nghìn đao kiếm, vạn vạn mũi tên chị cũng sẵn sàng. Nói rồi tay trái phi nâng cằm cô gái, tay phải sẽ tát yêu một cái. Một nho sinh khá lớn tuổi ngồi trong hàng ghế đầu tiếp lời: – Nhưng nay giặc bỏ chạy rồi, thì dù có muốn làm anh hùng giết giặc cũng không dễ. Tôi e phải sang Mông cổ tìm giặc. Một trung niên nam tử mặc võ phục cấp Tá lĩnh xen vào: – Biết đâu giặc bị thua chạy về, chúng sẽ kéo cả ổ sang trả thù thì sao? Thấy Nho Lâm đang ngây người ra nhìn cử chỉ từ ái của phi. Vương hỏi y: – Anh nói đào Nguyên Phong. Đâu? Đào mừng chiến thắng toàn quốc mang tên Nguyên Phong của anh đâu? Anh ta chỉ vào hai má cô gái hây hây hồng: – Thưa quan khách đây là hai chùm đào chiến thắng thời Nguyên Phong đấy ạ. Anh ta lại chỉ vào vương phi : – Hai chùm đào chiến thắng của phu nhân mới thực là đẹp. Tôi e xuất hết kho vàng thiên hạ cũng không mua được. Tuy kiếm thuật thần thông, tuy được phong tước Hồng Đức, Trang Duệ, Vũ Thắng công chúa ; rồi trở thành vương phi, địa vị cực cao quý. Nhưng giữa Quán văn, được một nho sĩ ca tụng sắc đẹp của mình, phi cũng không dấu được nét hãnh diện, vẻ e thẹn. Người phi nóng bừng lên, càng tăng thêm vẻ diễm kiều. Phi hỏi cô gái : – Em ! Em tên gì ? – Thưa phu nhân, em tên Thanh Nga. – À thì ra em đến đây treo bảng tuyển phu đấy. – Sao phu nhân biết? Phi chỉ vào tấm bảng có 12 chữ Thanh Nga mười tám mùa Xuân tìm người cùng tát biển Đông: – Thì chị đọc tấm bảng này chứ đâu! Một người trang phục như thương gia hỏi phi: – Trên tấm bảng này tôi chỉ đọc được có mấy chữ thanh, xuân, đông. Còn 9 chữ kia tôi không đọc được. Đó là những chữ gì vậy? – À đấy là chữ Nôm. Toàn bảng là Thanh Nga 18 mùa Xuân tìm người tát biển Đông. Thanh, xuân, đông là chữ Hán, còn lại 9 chữ là chữ Nôm. – Chữ Nôm à? Tôi chưa từng học qua. Nho Lâm giảng giải: – Thời Lĩnh Nam về trước, người Việt mình có chữ Khoa đẩu, tượng thanh. Sau khi Mã Viện chiếm Lĩnh Nam, triều Hán sai thu tất cả sách viết bằng chữ Khoa đẩu gồm mấy vạn bộ: kinh, sử, tử, tập, lại cấm dân chúng học chữ Khoa đẩu. Thế là bao nhiêu văn minh, văn học, kinh điển Việt không còn nữa. Hiện nay trong nước không ai đọc được chữ này nữa. Gần đây các thức giả chế ra chữ mới gọi là chữ Nam, đọc trại đi thành chữ Nôm. Chữ Nôm dùng chữ Hán ghép lại mà thành. Hiện các khóa sinh đều thi nhau học, nhưng chữ Nôm chưa có cấu trúc đầy đủ. Đã có rất nhiều danh tác bằng chữ Nôm. Thanh Nga góp ý: – Thưa quý khách, em nghĩ chữ Nôm phải có ít ra mấy trăm năm. Vì sử từng nói đến Bố Cái đại vương. Đại, vương là chữ Hán. Còn bố là chỉ cha, cái để chỉ mẹ là tiếng Việt. Lại nữa bài hát Ả Đào vừa rồi bằng chữ Nôm, được làm vào thời vua Lý Thái tổ (1010 – 1028). Vậy thì vào thời này chữ Nôm phải thịnh lắm rồi. Dã Tượng trở lại với lời rao bán hoa đào. Chàng chỉ vào cành đào cắm trong bình, nở đỏ tươi hỏi Nho Lâm : – Dĩ nhiên nhánh đào trên má Thanh Ngoan thì đẹp hơn cành đào này rồi. Nhưng sao anh lại bảo đào trên má thím tôi với đào trên má Thanh Ngoan là đào chiến thắng Nguyên Phong ? Nguyên Phong là tên của đức vua mà. – Này quan khách ơi ! Nếu như các trận vừa rồi ta bại hết, thì các bà, các cô sợ xanh mặt ra, sao má có thể nở hoa ? Vì ta toàn thắng các bà các cô mới vui. Vui thì má đỏ au lên, tươi thắm hơn bao giờ cả. Còn tại sao danh sĩ trên toàn quốc gọi giai nhân mùa xuân này là đào Nguyên Phong ? Thưa quan khách, giai nhân khắp trời Nam mình, hỏi ai không là con của đức vua ? Anh ta chỉ vào mấy thiếu nữ ngồi trong quán: – Các cô này đều là con đức hoàng đế Nguyên Phong cả đấy! Vũ Uy vương mỉm cười , móc túi trao cho anh ta một lượng bạc, rồi chỉ vào cành đào lớn nhất : – Giỏi ! Tôi xin mua cành đào Đông bộ đầu này. Dã Tượng chỉ vào ca nhi Thanh Nga : – Tôi muốn mua hai cành đào trên má giai nhân này, anh bán bao nhiêu ? Tất cả cử tọa cùng cười ồ lên. Một người đàn bà dường như trên sáu mươi tuổi nói với Dã Tượng: – Cành đào này nghìn vàng chưa dễ mua được. Cậu về đúc nhà vàng đi rồi rước giai nhân cũng chưa muộn. Thấy một thiếu niên thân thể hùng vỹ, nét mặt xạm đen, nhưng khôi ngô, hỏi câu đó, tim Thanh Nga đập thình thịch, muốn nghẹt thở. Nàng e thẹn cúi đầu xuống, đôi má đỏ rực lên, trông càng đẹp hơn. Nàng ước thầm: – Giả như mình được làm vợ người này thì không uổng tấm hồng nhan. – Hai cành đào trên má Thanh Nga này đẹp nhất Thăng long đấy cậu ạ. Nho Lâm nói với Dã Tượng : kẻ phàm phu tục tử thì nghìn vàng cũng không bán. Còn người nào muốn rước hai cành đào trên má Thanh Nga phải thuộc loại ba có và ba không. Tạ Quốc Ninh bật lên tiếng a lớn : – Thì ra cô Thanh Nga ra Quán văn này để tuyển phu đấy. Hèn gì quán mang tên Thiên Thư. Chữ Thiên Thư lấy trong bài thơ đánh Tống của ngài Thái úy Lý Thường Kiệt thời Anh vũ Chiêu thắng (1075-1076). Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư . Tên quán đã có ý nghĩa chiến thắng, mà tên giai nhân còn có ý nghĩa hơn. Trong lịch sử ca nhạc của Đại Việt, kể từ đời Lý đến nay người ta thường lấy nghệ danh khởi đầu bằng chữ Thúy, Thanh, Hồng, Huyền. Quán văn phường Tây hồ có Thanh Hương, Thanh Hoài, Thanh Thúy, Hồng Yến. Quán văn Thụy khê, Thụy Hương có Thúy Hoa, Thúy Uyên, Thanh Thanh. Đó là những danh kỹ đời nay. Tôi biết từ xưa đến giờ ít ra mười người lấy nghệ danh là Thanh Nga. Mà Thanh Nga nào cũng khiến cho các danh sĩ thầm yêu, trộm nhớ. Nếu bây giờ cô tuyển được một đấng anh hùng cùng tát biển Đông thì trăm năm sau, nghìn năm sau không thiếu danh kỹ lấy tên Thanh Nga. Nói đến đó trong lòng hầu lại quặn đau, tưởng nhớ lại năm trước hầu từng đến Quán văn Tô lịch dự tuyển phu của đệ nhất danh kỹ Hoàng Hoa, rồi nàng trở thành vợ của hầu. Giữa lúc vợ chồng đang hưởng tuần trăng mật, tình yêu mặn nồng, dạt dào thì Mông cổ tràn vào Thăng long. Hoàng Hoa bị chúng bắt đi mất, cho đến nay vẫn không có tin tức gì. Nho Lâm chỉ vào mấy thiếu niên trẻ, trong đó có viên Tá lĩnh: – Bẩy vị này cũng đã ứng tuyển, nhưng không đủ điều kiện đấy. Qua đối đáp của Tạ Quốc Ninh với Nho Lâm, Vũ Uy vương chợt nhớ lại truyện tình của phụ hoàng với vương mẫu. Trước kia, người Thăng long thường khinh khi những nghệ nhân, gọi họ là bọn xướng ca vô loài. Nhưng từ sau khi vương mẫu gặp phụ hoàng, rồi tiến cung, thì những người hát rong không còn bị coi rẻ nữa. Họ kết nhau lại thành phường, lập ra những Quán văn. Trên toàn quốc, các trấn, các phủ, danh sĩ thi nhau lập Quán văn. Một luồng gió Văn học, Văn nghệ như trăm hoa đua nở. Chủ quán thường là nho sĩ, hoặc các thầy đồ. Họ mượn những thiếu nữ xinh đẹp, hằng ngày đọc sách cho khách nghe. Văn nhân, danh sĩ thường đến các Quán văn nghe thiếu nữ đọc sách. Họ còn cùng nhau xướng họa thi phú, cùng đàm đạo thế sự, nghe hát. Những cô gái có nhan sắc đua nhau đi học hát, đến các Quán văn đọc sách, ca hát cho khách nghe, với ước mong tìm được người có văn học làm chồng. Nhiều cô treo bảng tuyển phu. Rất nhiều cô gái thuộc hàng dân dã, nhờ Quán văn mà một sáng, một chiều trở thành phu nhân, hay vợ những học sinh trường Quốc tử giám. Từ đấy Quán văn mọc lên khắp các phường, nghiễm nhiên trở thành nơi để các giai nhân tuyển phu. Cô bé Thanh Nga này không phải ca nhi bình thường, mà là người có lý lịch hẳn hoi, ra đây tuyển phu. Tạ hầu hỏi lại Nho Lâm : – Này anh ! Anh ra điều kiện tuyển phu cho Thanh Nga là ba có, ba không. Thế ba có là có gì ? Ba không là ba không gì ? – Thưa quý khách! Trước hết hãy nói ba không. Một là không có vợ. Hai là không bệnh tật. Ba là không trốn việc xung quân giữ nước. Hầu mỉm cười gật đầu: – Hay! Trong đoàn của tôi, thì tôi đã có vợ, hơn nữa nhiều vợ; lại có nhiều con, nhiều cháu. Thế thì tôi bị loại rồi. Tiếc quá, cô đẹp thế này, để tôi nhận cô là cháu nội, rồi dẫn lên Bắc cương gả cho một anh hùng bình Mông. Cô biết không, trong trận vừa qua, tại Bắc cương có hơn vạn trai tráng được đức vua khen thưởng đã lập công giết giặc đấy. Cô tha hồ mà chọn. Người xưa nói: Trai khôn tìm vợ chợ đông, Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân. Lập tức Thanh Nga biến hai câu ca dao thành điệu hát Trống quân. Tất cả khách trong Quán văn cùng vỗ tay tán thưởng. Hầu nhìn Vũ Uy vương, rồi chỉ vương phi: – Vị này vừa cưới vợ xong. Như vậy cũng bị loại mất rồi. Thanh Nga được vương phi tỏ cử chỉ từ ái, nàng muốn kiếm lời đẹp để tạ lòng phi, mà chưa có dịp. Bây giờ nhân câu nói của Tạ Quốc Ninh, nàng xen vào: – Kể ra trai năm thê bẩy thiếp là sự thường. Khách quan đây có thể tuyển thêm bốn thê nữa cho đủ năm, rồi tuyển bẩy bà nữa làm thiếp cũng cứ được đi. Nhưng đại phàm khi có chính thê rồi, mà chính thê già, xấu, thì mới tuyển thiếp. Phu nhân đây tuổi còn quá trẻ. Nhan sắc thì e người đẹp như Tể tướng Phương Dung thời vua Trưng cũng không hơn. Em nghĩ khách quan phải sủng ái phu nhân đến chết. Chết rồi còn sủng ái e cũng chưa đủ. Quan khách vỗ tay hoan hô câu nói khéo léo của Thanh Nga. Thanh Nga chỉ vào thanh kiếm của phi: – Vả phu nhân trang phục thế này thì là đệ tử phái Mê linh, luôn đeo kiếm trên lưng, ắt kiếm thuật thần thông. Khi chính thất là kiếm khách thuộc đệ tử danh môn, hỏi cô gái nào có gan bằng trời cũng không dám làm thiếp của khách quan. Ai mà làm thiếp của khách quan này thì phải có một trăm cái đầu. Vương phi Ý Ninh lại tát yêu Thanh Nga như tán thưởng câu nói ý nhị, rồi hỏi Nho Lâm: – Anh đã ra điều kiện ba không. Vậy ba có là có gì? – Một là phải có huân công trong trận bình Mông vừa qua. Vương phi Ý Ninh tủm tỉm cười chỉ vào vương, Tạ Quốc Ninh với Dã Tượng: – Ba vị này đều xung tên, đụt pháo; trăm phần chết, chỉ có một phần sống trong trận giặc vừa qua. Như vậy cả ba đều trúng cách Phi lại hỏi : – Hai có là có gì? – Hai là phải có sức khỏe. Mông cổ tuy đã bỏ chạy, nhưng rồi chúng sẽ sang báo thù. Người trượng phu của Nga phải khỏe để cầm Đao quất, Khiên mây đuổi giặc. Dã Tượng thấy vui, vui chàng thắc mắc : – Anh nói sức khỏe thì chung chung quá. Khỏe đến bậc nào kia chứ ? Ví như vật ngã voi, đấm vỡ mười viên gạch hay múa Đao quất chẳng hạn. – Cậu hỏi thực phải. Khi treo bảng tuyển phu cho Thanh Nga, tôi đã định rồi. Anh ta chỉ cây cung Mông cổ treo trên vách : – Muốn được làm chồng Thanh Nga, phải dương được cây cung kia. Cung Mông cổ bằng thép, cánh cung to, dây cung bằng gân bò, phải người có nội lực thâm hậu mới dương nổi. Vương phi dùng Cầm long công phẩy tay một cái, cây cung rời vách bay lại phía Dã Tượng. Dã Tượng bắt lấy. Cả quán cùng vỗ tay hoan hô thủ pháp của phi. Họ không thể ngờ một thiếu phụ 20 tuổi lại có nội lực siêu phàm như vậy. Phi chỉ Thanh Nga : – Cháu dương cung cho Thanh Nga xem cháu có xứng đáng cùng nàng tát biển Đông không ? Dã Tượng đứng theo dương cung tấn, nạp tên, kéo mạnh. Cây cung uốn cong như ánh trăng mùng ba, rồi chàng buông tên. Mũi tên xé gió rít lên, bay sang bên kia đường trúng vào cây gạo. Bộp một tiếng mũi tên ngập tới hơn gang. Cử tọa vỗ tay hoan hô hết tràng này đến tràng khác : – Cậu này khỏe thực, lại to lớn thế kia thì giết Mông cổ dễ như chơi. – Ôi ! Vừa khỏe, vừa đẹp thế kia thì xứng làm chồng Thanh Nga. Có nhiều tiếng la hoảng: – Ôi con ngựa điên xổ chuồng. – Tránh ra! Tránh ra! Chết!!! Một con ngựa không yên cương lao vào đám đông, tiếng người la hét inh ỏi. Dã Tượng tung mình ra đón trước đầu ngựa. Người ta hét: – Tránh ra! Chớ dại! Ngựa dẵm chết bây giờ. Con ngựa chồm hai vó trước bổ vào đầu Dã Tượng. Người người nhắm mắt lại, không dám nhìn chàng bị ngựa đạp chết. Dã Tượng dùng lộ thứ nhì trong Đảo mã cửu lộ, tên Mã hung bất kham. Chàng xuống trung bình tấn, chụp hai chân trước ngựa, rồi giữ cứng. Con ngựa hí inh ỏi, dặm chân sau, quẫy đuôi. Nó hí thêm mấy tiếng, cũng không thoát khỏi tay Dã Tượng. Dã Tượng buông chân nó ra. Nó hí râm ran rồi nhảy tới. Dã Tượng chụp đuôi nó ghì chặt. Nó cố sức cào chân xuống đất, vọt đi, nhưng vô ích. Sau nửa khắc, nó đứng im thở phì phò rồi vẫy đuôi cúi đầu tỏ ý phục tùng. Có hai kị mã phi từ xa tới, thấy Dã Tượng đã kiềm chế được con ngựa thì mừng lắm: – Cảm ơn dũng sĩ. Vương phi ra khỏi quán, dùng lời lẽ vương giả trách cứ hai kị mã: – Phải chăng con ngựa hung dữ này thuộc quyền hai anh? Nó đạp ba người đàn bà bị thương, làm đổ nồi bún ốc của cô gái. Anh tính sao đây? Hai kị mã thấy một thiếu phụ nhan sắc khuynh quốc, lưng đeo kiếm, thì biết đây là người có lai lịch. Một người cung tay: – Xin nữ hiệp dung thứ. Cách đây hơn tháng, chúng tôi mua con ngựa hoang này từ trấn Lạng sơn, đóng cũi mang về. Chủ của nó nói rằng, họ gặp nó khi đi săn. Họ đặt bẫy bắt được. Trong năm tháng liền, những kị mã giỏi nhất cũng không chinh phục được nó. Suốt hai tháng qua, chúng tôi dùng đủ phương pháp trị mã, mà nó vẫn không thuần. Sáng nay, nó vượt hàng rào bỏ chạy. Chúng tôi phi ngựa đuổi mà không kịp. Một kị mã khác nói: – Chúng tôi xin bồi thường cho cô hàng bún ốc, lại xin chữa trị thương tích cho người bị hại. Một kị mã nói với Dã Tượng: – Thưa tráng sĩ, những con ngựa chứng, rất khó khuất phục nó. Khi một người khuất phục được nó thì chỉ người ấy làm chủ nó được thôi. Chúng tôi xin tặng tráng sĩ con ngựa này. Dã Tượng định chối, thì Vũ Uy vương phẩy tay: – Con cảm ơn nhị vị cho ngựa đi. Dã Tượng chắp tay: – Đa tạ! Một kị mã lấy bộ yên cương của ngựa mình đang cỡi nói với Dã Tượng: – Nó đã khuất phục tráng sĩ. Chỉ tráng sĩ mới đặt yên cương lên nó được mà thôi. Dã Tượng lĩnh yên cương, đặt lên con hoang mã, rồi vọt mình lên lưng nó. Nó hí lên một tiếng, hướng theo con đường cái quan lao như bay. Hơn khắc sau Dã Tượng trở về, chàng vuốt lưng con ngựa, rồi nói với vương phi: – Xin thím đặt tên cho nó. – Cháu được ngựa trên bến Bắc ngạn vậy thím đặt cho nó tên là Bắc mã. Nho Lâm suýt xoa: – Thanh Nga treo bảng tuyển phu đã sáu ngày, trước sau có hơn ba mươi người ứng tuyển, mà không ai có nội lực như tráng sĩ đây. Mọi người trở vào trong quán văn Thiên thư. Vương phi chỉ vào vương, Tạ Quốc Ninh: – Hai vị này là sư bá, sư phụ của tráng sĩ, dĩ nhiên công lực mạnh hơn y nữa. Coi như cả ba người đều trúng cách. Thế còn có thứ ba? Nho Lâm chỉ lên bàn thờ. Cạnh lư hương, có bức tranh thêu Hai bà Trưng cỡi voi đang đuổi Tô Định, dưới bức tranh có cuốn sách, gáy mạ vàng óng ánh, bìa viết chữ triện rất đẹp Lĩnh Nam mật sử, và một cái hộp. Nho Lâm cầm cuốn sách : – Có thứ ba là phải thông hiểu quốc sử. Đây là bộ sử chép về cuộc khởi binh của vua Trưng và 162 anh hùng. Trong hộp này có 162 lá xâm. Ứng sinh rút xâm, mỗi xâm sẽ có câu nói về hành trạng một anh hùng. Sau khi rút xâm ứng sinh phải trả lời câu hỏi trong xâm ấy. Lệ ở đây, mỗi người xin xâm phải nộp năm đồng. Tiền này dùng để tu bổ đền thờ Ngài. Vương phi Ý Ninh thấy cuộc tuyển phu thực ý nghĩa, thực rõ ràng. Phi mỉm cười: – Hay! Hồi còn theo học ở Thần quang tự, chị em chúng tôi thường dùng bộ sách này để xin xâm, linh ứng kỳ lạ. Để tôi xin một quẻ. Phi cầm 5 đồng tiền bỏ vào chiếc hộp gỗ có khóa. Hai tay phi cầm bộ sử đưa lên ngang mày, khấn: – Tấu lạy vua Bà! Tấu lạy chư vị anh hùng Lĩnh Nam. Con là Trần Ý Ninh. Nay con đang mang trên người trọng trách, không biết thành bại thế nào. Xin các ngài ban cho con một quẻ. Phi bốc một xâm trong hộp, rồi mở ra, trong có bốn câu thơ: Sinh vi lương tướng, tử vi thần, Vạn cổ cương thường hệ thử nhân. Loa địa song đôi, thu nguyệt ảnh, Anh hùng liệt nữ tướng quân phần. Thanh Nga cầm phách gõ, các nhạc công cùng tấu nhạc, nàng ngâm bốn câu thơ xong, chuyển sang hát chầu văn bằng tiếng Việt: Sống là tướng giỏi, thác làm thần, Vạn đại cương thường nặng tấm thân. Hai bóng thành Loa trăng thu sáng. Anh hùng liệt nữ mộ nghìn năm. Nho Lâm hỏi: – Quý khách có biết xuất xứ hai câu thơ trên không? Ý Ninh mỉm cười: – Nếu tôi trả lời đúng, thì tôi có được Thanh Nga không? Thanh Nga xinh thế kia, tôi là gái không làm chồng nàng được thì tôi tuyển làm con, rồi tìm anh hùng mà gả. Một bà già cười : – Coi tướng mạo, hành trạng của phu nhân thì phu nhân thuộc người có lai lịch. Nhưng tuổi của phu nhân e chưa quá hai mươi, sao phu nhân có thể là mẹ Thanh Nga đã 18 tuổi. Không lẽ 2 tuổi phu nhân đã sinh con ? Cả quán vỗ tay cổ võ cho lời của bà già. – Vậy thì tôi nhận làm em gái cũng chả sao ! Nhưng Thanh Nga lễ phép chắp tay hướng bà già : – Thưa bà xưa nay chữ cha-mẹ có nhiều ý nghĩa. Người sinh ra ta là cha mẹ về thể xác. Người không sinh ra ta, nhưng có công dưỡng dục thì là cha mẹ chín chữ cù lao. Người cứu thoát ta trong hoạn nạn chín chết một sống là cha mẹ tái tạo. Người đem tâm não ra, truyền hiểu biết cho ta là cha mẹ trí tuệ, còn gọi là thầy. Theo Tam cương thầy đứng thứ nhì sau đức vua. Phi mỉm cười, giảng : – Bốn câu thơ này chép trong truyện của Bắc bình vương Đào Kỳ, ngài lĩnh ấn Đại tư mã và vương phi Nguyễn Phương Dung, lĩnh chức tể tướng triều Lĩnh Nam. Hiện đền thờ hai vị vẫn còn tại Cổ loa. Mặt Nho Lâm không vui : – Cứ như quẻ này thì phu nhân và trượng phu đang trên đường mưu đại sự cho nước. Công sẽ thành, danh sẽ toại. Nhưng cuối cùng sự nghiệp không trọn vẹn. Vương hỏi : – Không trọn vẹn, có nghĩa là mưu sự không thành ? – Ý tôi không nói vậy. Ý tôi muốn nói rằng quý khách và phu nhân sẽ thành công. Nhưng cuối cùng cả hai sẽ tuẫn quốc như Bắc bình vương và vương phi. Hai vị sống làm tướng giỏi, chết thành thần. Anh linh vạn vạn năm sau dân chúng còn thờ kính, tưởng nhớ huân công. Vũ Uy vương là một đại anh hùng thời Đông A, nghe Nho Lâm đoán quẻ xâm như vậy hùng khí bốc dậy, vương nhìn vương phi : – Trước trận giặc vừa qua, Huệ Túc phu nhân từng tính số Tử vi rằng Phạm Cụ Trích, Trần Tử Đức sẽ vị quốc vong thân. Hai người từng hãnh diện mà ra trận. Nay hai người đã thành thần. Làm trai Đại Việt, chỉ sợ không có tài, không có dịp xả thân cứu nước mà thôi. Sau này chúng ta có vị quốc vong thân thì là điều cầu mà không được. Nho Lâm hướng Tạ Quốc Ninh : – Xin mời tiên sinh xin một quẻ. Hầu sửa y phục ngay ngắn, bỏ tiền vào hộp, rồi cầm bộ sách lên khấn : – Tấu lạy Hoàng đế bệ hạ. Kính chư vị anh hùng Lĩnh Nam. Thần là Tạ Quốc Ninh, thần đang tuân chỉ đấng quân phụ, vạn dặm mưu truyện xẻ núi lấp sông. Sự thành bại thế nào, xin cho thần một quẻ. Ông rút ra một xâm. Ông không muốn đọc, ông trao cho Thanh Nga. Thanh Nga cầm phách đánh nhịp, nàng cất tiếng hát, lập tức năm nhạc công cùng hòa theo: Nhất thi khảng khái anh hùng lệ, Bách chiến sơn hà, cố quốc tâm. Hết hai câu thơ Hán, nàng ca sang tiếng Việt: Anh hùng khẳng khái đôi giòng lệ, Bách chiến một lòng với nước non. Tạ Quốc Ninh khen: – Cô hát đã hay, lại học giỏi. Cô dịch sát ý, giọng hát còn tiết ra được tình ý sâu sa của tác giả. Nho Lâm hỏi: – Quý khách có biết xuất xứ hai câu thơ trên không? Tạ Quốc Ninh gật đầu : – Hai câu thơ này xuất xứ trong truyện Hổ Nha đại tướng quân. Tên thực của ngài là Đào Hiển Hiệu. Khi ngài vừa cưới vợ được ba ngày thì phải lên đường tòng chinh Trung nguyên. Phu nhân của ngài là Lê Hồng Thanh đã làm hai câu thơ trên trong lúc ngậm ngùi chia tay. Ngài Đào Hiển Hiệu có ba anh em đều là đại công thần thời Lĩnh Nam. Ngài là anh cả lĩnh chức Hổ nha đại tướng quân tước phong Khúc dương công. Em kế là Đào Quý Minh, lĩnh chức Vân uy đại tướng quân, tước phong Ký hợp công. Thứ ba là Đào Phương Dung, tước phong Đăng châu công chúa lĩnh ấn Trấn Nam đại tướng quân. Đển thờ ba ngài tại Thăng long, thôn Thổ quan, ngõ Oáng lệnh (Nay 2001 vẫn còn). Nữ tướng Đào Phương Dung nổi tiếng hét ra lửa, mửa ra khói thời Lĩnh Nam. Sau khi tuẫn quốc bà hiển linh kỳ lạ. Trong giới đồng bóng, người ta gọi ngài là cô Sáu. Khi cô Sáu bắt một cô gái làm lính, thì không cách gì khất được. Thanh Nga, cầm dùi gõ phách. Các nhạc công tấu nhạc, nàng hát chầu văn bài Cô Sáu. Nho Lâm giải: – Cứ như quẻ này thì quý khách cùng phu nhân vừa làm lễ vừa thành hôn xong, thì do quốc sự phải phân ly. Hiện nay quý khách đang giữ trọng trách đức vua trao cho. Chiến thắng đang chờ đón quý khách. Quý khách chỉ gặp lại phu nhân trong lúc tử biệt sinh ly như ngài Đào Hiển Hiệu và phu nhân Đinh Hồng Thanh. Ngày về trong vinh quang không xa. Nghe Nho Lâm giải, Tạ Quốc Ninh đau nhói trong tim. Hình ảnh Hoàng Hoa tươi như hoa, trong nụ cười lại hiện ra. Ông nghĩ thầm : – Nếu mình được ôm nàng một lần trong tay như ngài Đào Hiển Hiệu ôm phu nhân Đinh Hồng Thanh, rồi cách biệt âm dương cũng thỏa lòng. Vũ Uy vương bảo Dã Tượng: – Con cũng xin một quẻ, dù không được Thanh Nga, ít ra cũng biết tương lai ra sao? Dã Tượng móc trong túi ra một xâu tiền, chàng bỏ cả vào thùng, rồi cầm bộ sử đưa ngang mày khấn: – Tấu lậy vua Bà, tấu lậïy chư vị anh hùng Lĩnh Nam, con là Trần Quốc Kinh, con theo chú con lĩnh trọng trách trong người. Đất nước đang bị Mông cổ đe dọa, con chưa muốn vướng vít thê nhi. Con không muốn làm chồng Thanh Nga, bởi chinh chiến ít ai trở về. Nếu cưới nàng làm vợ, e nàng phải ở góa thì uổng phí tấm hồng nhan. Xin các ngài ban cho con một quẻ, dạy cho biết sự nghiệp sau này ra sao, chuyến đi này thế nào? Chàng thò tay vào hộp bốc một thăm, mở ra, trong thăm có hai câu thơ, Dã Tượng đọc được, nhưng không hiểu hết ý nghĩa, chàng đưa cho Thanh Nga. Thanh Nga đọc : Đức bác thánh văn truyền Việt địa, Uy dương thần vũ trấn Nam thiên. Thanh Nga gõ phách, các nhạc công cùng tấu lên. Thanh Nga ca hai câu thơ Hán rồi bắt sang ca hai câu bằng tiếng Việt: Trời Nam đức trải khắp nơi, Oai danh vạn đại cùng người Việt linh. Dã Tượng là đấng anh hùng thời Đông A, chàng không hề xấu hổ việc mình ít học. Chàng chắp tay vái Thanh Nga: – Quốc Kinh này mồ côi cha mẹ từ thủa nhỏ, không được học. Lớn lên đi chăn trâu, cắt cỏ. Gần đây được một vị danh vọng cực lớn nhận làm con nuôi. Vì phải theo cha nuôi đuổi giặc, nên không thuộc quốc sử. Tôi không biết hai câu thơ này ai làm, làm trong trường hợp nào. Tôi xin chịu thua. Vương phi Ý Ninh chỉ vào Tạ Quốc Ninh an ủi Dã Tượng: – Con không nên nói lời bi phẫn như thế! Anh hùng đâu quản xuất thân. Trước con chưa được học quốc sử thì nay con đang học mà. Con đã có thầy rồi. Thầy sẽ dạy con. Chú thím sẽ dạy con. Huống hồ con đã lập đại công với Xã tắc. Con cưới công chúa cũng xứng, chứ đừng nói là Thanh Nga. Dã Tượng chắp tay hướng vương phi: – Đa tạ thím đã cho con lời vàng ngọc. Vương phi giảng: – Hai câu thơ này nói về công nghiệp của đức thánh Văn thành, Võ đức Long biên công. Tục danh của ngài là Nguyễn Tam Trinh. Ngài là một trong Tam công triều Lĩnh Nam. Ngài cũng là sáng tổ môn vật. Khi ngài được lệnh trấn thủ khu chiến Trường sa, hồ Động đình; Mã Viện đem đại quân tràn ngập, ngài tử chiến. Hai câu thơ trên là hai câu đối tại đền thờ ngài ở thôn Mai động, phủ Thọ xương, ngoài thành Thăng long.(Nay 2001 vẫn còn) – Đa tạ thím dã giảng cho con. Hồi còn chăn trâu, cắt cỏ bọn con thường đến lễ ở ngôi đền nay. Nhưng con không biết đền thờ vị thánh nào. Nho Lâm cầm bộ sử, nhìn Dã Tượng: – Cứ như quẻ xâm này, thì sự nghiệp của tráng sĩ sẽ thực vĩ đại: dùng thần võ trấn Nam thiên, trăm họ đất Việt được nhờ huân công của tráng sĩ. Người người cúi đầu bái phục, mà trăm năm sau, nghìn năm sau được thờ kính. Tôi nghĩ, tráng sĩ nên tòng quân giữ nước ngay từ bây giờ thì vừa. Sứ đoàn nhìn nhau như cùng nhủ thầm: Nho Lâm giải quẻ xâm này thực hay. Đến đó một Kị mã bước vào khoanh tay hành lễ với Dã Tượng: – Trình Đô thống, tất cả xe, ngựa đều đã sang sông. Xin Đô thống cho lệnh. – Được rồi, chúng ta sẽ độ giang ngay. Từ Nho Lâm, Thanh Ngoan đến mọi người trong quán đều kinh ngạc: thì ra tráng sĩ này đã ở trong quân ngũ, hàm tới Đô thống. Chợt nhớ ra điều gì, Nho Lâm hỏi vương phi Ý Ninh: – Thưa phu nhân, tiểu nhân nghe nói trong trận giặc vừa qua có hai mươi Ngưu tướng, mười tám Ngạc tướng. Tất cả đều là thiếu niên, làm cho Lôi kị Mông cổ kinh hồn táng đởm. Sau khi giặc tan, Nguyên Phong hoàng đế phong cho tất cả các Ngưu tướng, Ngạc tướng lĩnh chức Vệ úy, hàm Tá lĩnh. Riêng tướng có công nhất trong Ngưu tướng được đức vua ban cho mỹ danh Dã Tượng. Tướng có công nhất trong Ngạc tướng dược ban mỹ danh Yết Kiêu. Cả hai được phong hàm Đô thống, lại được Hưng Đạo vương nhận làm con nuôi. Ngài cho Dã Tuợng tên Trần Quốc Kinh, Yết Kiêu tên Trần Quốc Vĩ. Vị Đô thống có thể lực vĩ đại này hẳn là Dã Tượng đây? – Đúng như anh nói. Vương phi đáp. Tất cả mọi người trong quán đều đứng dậy chắp tay hướng Dã Tượng: – Chúng tôi quả có phúc, hôm nay được bái kiến anh hùng Đại Việt. Thảo nào từ lúc các vị vào đây, chúng tôi thấy dung quang khác thường, cử chỉ hùng tráng mà thanh nhã. Dã Tượng đáp lễ: – Không dám. Khi nước có giặc thì già, trẻ, trai, gái đều phải lăn mình vào chốn gươm đao, tên đạn; hy sinh mạng sống bảo vệ dất tổ. Nho Lâm nói với Dã Tượng: – Thưa tráng sĩ, kính Đô thống, bái người là anh hùng thời Đông A! Huân công của Đô thống trong bẩy trận vừa qua, quả thực vỹ đại, khắp đất nước này ai cũng khâm phục. Hôm nay anh hùng qua đây, dự cuộc tuyển phu của Thanh Nga. Chúng tôi vô cùng hãnh diện thưa rằng chỉ cần chiến công một trận Bình lệ nguyên, anh hùng cũng xứng đáng làm chồng Thanh Nga rồi. Tuy là ca nhi lừng danh, từng tiếp xúc với hằng mấy chục người trẻ xin ứng tuyển, nhưng những lời nói của Nho Lâm, cũng làm cho Thanh Nga cúi đầu e thẹn, liếc mắt nhìn Dã Tượng, lòng xao xuyến. Dã Tượng hiên ngang chỉ vương, vương phi nói với Thanh Nga: – Nếu Dã Tượng tôi tìm vợ, thì e trên thế gian này không ai hơn Thanh Nga. Đúng lý, tôi phải nhất bộ, nhất bái tới nhà Thanh Nga cầu xin. Nhưng Thanh Nga ơi, đất nước mình vừa sạch bóng quân thù. Thế nhưng giặc vẫn dang ngấp nghé tại biên cương. Dã Tượng này đang theo chú thím vì dân làm truyện vá trời, ngắn thì ít ra vài năm, dài có khi hàng chục năm. Biết đâu cả đời. Nên nào dám nghĩ truyện thê nhi. Vì vậy xin đa tạ chùm hoa đào Thanh Nga tặng cho tôi. Nho Lâm chắp tay: – Thưa Đô thống, chỉ mong Đô thống đính ước một lời với Thanh Nga cũng đủ. Thanh Nga mới 18 tuổi mà. Thanh Nga sẽ đợi Đô thống, cho đến khi Đô thống đeo gươm chiến thắng trở về. – Một lời hứa như đinh đóng cột. Vì vậy tôi không dám hứa. Thanh Nga xinh đẹp thế này, lỡ ra tôi đi rồi vị quốc vong thân thì tội cho nàng quá. Thanh Nga ngửa mặt nhìn lên bầu trời xuân, từng cụm mây trắng đang trôi lang thang. Nàng cất tiếng hát: Con cò bay lả bay la, Bay ra ruộng lúa, bay vào Đồng đăng. Đồng đăng có phố Kỳ lừa, Có nàng Tô thị, có chùa Tam thanh. Ai lên phố Lạng cùng anh, Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em. Tay cầm bầu rượu nắm nem, Mải vui quên hết lời em dăn dò, Gánh vàng đi đổ sông Ngô, Đêm đêm tơ tưởng đi mò sông Thương. Bài hát hết mà Thanh Nga như người lên đồng, nàng nhập vào lời ca, nét hoa hiện rõ vẻ buồn man mác. Dã Tượng cũng cảm thấy cái buồn theo nắng xuân nhập vào người. Chàng hỏi Vũ Uy vương phi: – Thưa thím bài hát này con được nghe Xẩm hát trong những đêm đập lúa vụ mùa vừa qua. Nhưng con không hiểu hết ý nghĩa. Vương phi đưa mắt nhìn Tạ Quốc Ninh, hầu giảng: – Đây là bài hát bình dân, xuất hiện vào thời Anh vũ chiêu thắng (1075-1077) đời vua Lý Nhân Tông, thuật lại mối diễm tình của một chinh phụ họ Tô tại trấn Lạng sơn. Bấy giờ vua còn nhỏ, mới chín tuổi, Linh Nhân hoàng thái hậu ( Ỷ Lan) cầm quyền. Bên Trung nguyên vua Tống Thần Tông dùng Tân pháp của Tể tướng Vương An Thạch, làm cho nước giầu, dân mạnh. Nhà vua cùng Thạch chuẩn bị đánh ta, nào luyện quân, nào tích trữ lương thảo. Linh Nhân hoàng thái hậu thấy vậy, ngài quyết định: ngồi chờ giặc sao bằng tìm giặc mà đánh. Ngài sai Thái úy Lý Thường Kiệt cùng Long thành ẩn sĩ Tôn Đản mang quân vượt biên đánh vào các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch, phá thành trì, cầu cống, đốt hết các kho tàng Nam biên của Tống. Trong 12 đạo binh đánh Tống, đạo Ngự long do Long nhương thượng tướng quân Phạm Dật cùng phu nhân Lê Kim Liên chỉ huy. Đạo này có một tướng trẻ hai mươi tuổi, vợ họ Tô. Hai người mới có một con trai đầu lòng chín tháng. Khi tướng trẻ lên đường thì vợ hỏi bao giờ sẽ về? Chồng an ủi vợ rằng sớm thì nửa năm, muộn thì ba năm. Thế rồi đôi lứa thiếu niên bịn rịn rời nhau. Nào ngờ trong trận Hỏa giáp, đánh chặn viện binh Tống, tướng trẻ tuẫn quốc. Trong khi người chinh phụ Tô thị ngày ngày bế con lên núi nhìn về phương Bắc chờ chồng. Thế rồi chiến tranh hết, chờ đợi đã ba năm, nhưng vẫn không thấy chồng đâu. Nàng đau khổ, cùng đứa con hóa đá. Dân gian làm bài ca trên để thương tiếc nàng.(3) Hình chụp tượng Tô thị, tại Lạng sơn Tháng 8 năm 2001 Dã Tượng reo lên: – Hồi năm trước con chỉ huy Ngưu binh đuổi giặc ở trấn Lạng sơn, con đã thấy tượng này. Chàng nói với Thanh Nga: – Chuyện xưa còn đó, tượng đá chưa mòn. Bài hát bình dân mà Thanh Nga biến thành hát Xẩm thực là thảm thiết. Tôi có thể sẽ là viên tướng trẻ một đi không về. Tôi quyết không để Thanh Nga hóa thành nàng Tô thị thứ nhì. Nghe Dã Tượng nói lòng Thanh Nga như giá băng. Nàng chưa biết nói sao thì Nho Lâm kéo mọi người ra khỏi mối vạn cổ sầu Tô thị, y chỉ Vũ Uy vương hỏi Dã Tượng: – Thế còn hai vị đây là? Dã Tượng đáp: – Đây là Vũ Uy vương, trấn nhậm Bắc cương và vương phi. Vương phi nhũ danh Ý Ninh, từng đánh trận Phù lỗ vang danh thiên hạ. Mọi người hướng vương, vương phi bái lậy. Dã Tượng chỉ Tạ Quốc Ninh: – Vị này là Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, minh sư của tôi. Nho Lâm bái Quốc Ninh: – Tôi từng nghe danh Quy đứùc thượng tướng quân Tạ Quốc Ninh, được phong Vũ sơn hầu, lĩnh hàm Thái tử thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ, Đồng tri Khu mật viện là một danh sĩ Thăng long. Năm trước đây đệ nhất hoa khôi, đệ nhất danh kỹ Thăng long tên Hoàng Hoa treo bảng tuyển phu, người trúng cách. Hôm nay thực vinh hạnh cho chúng ta được gặp người tài hoa. Tất cả mọi người hiện diện đều hướng hầu hành lễ. Thanh Nga vốn cực kỳ thông minh, nàng nghĩ: – Một đời được mấy anh hùng? Hôm nay mình may mắn gặp đấng anh hùng này, mà để chàng đi mất thì chẳng hóa ra một tuồng hư ảo ư? Mình phải làm cách nào theo sứ đoàn để được gần chàng! Ở đây vương phi là ngươi ôn nhu, văn nhã, mình có thể xin vương phi để được đi theo. Nàng chắp tay vái vương phi Ý Ninh: – Hồi nãy phi hứa nhận em làm em nuôi. Vậy phi nói đùa hay thực? Phi nắm lấy tay Thanh Nga: – Chị sinh ra là tiểu thư Ý Ninh, chị là đệ tử của Vô Huyền Bồ Tát; là Hồng Đức, Trang Duệ, Vũ Thắng công chúa, là vương phi Vũ Uy. Chị không nói đùa. Hôm nay chị nhận em làm em. Chị sẽ nuôi, dạy em trở thành anh hùng Đại Việt. Nhà em ở đâu, để chị đến có vài lời với cha mẹ em, rồi chị đem em theo. Thanh Nga hướng vương, vương phi lạy bốn lạy: – Nghĩa huynhï! Nghĩa tỷ. Vương phi sửa: – Để chị dạy cho. Phàm cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi đều là cha mẹ. Con đẻ, con nuôi đều là con, không thể và không nên phân biệt con đẻ hay con nuôi. Em nhắc lại: anh, chị ! Má Thanh Nga ửng hồng, nở nụ cười: – Dạ! Anh, chị. Vương phi tháo chuỗi ngọc trai trên cổ, đeo vào cho Thanh Nga: – Chị cho em chuỗi ngọc này, gọi là quà diện kiến. Dã Tượng móc trong bọc ra một con chim ưng bằng vàng dát năm viên ngọc đỏ chói, đeo lên tóc nàng: – Thanh Nga là em của chú thím thì là cô của tôi. Ấy à! Cô vượt lên trên tôi một bậc rồi. Vương can thiệp: – Dã Tượng là cháu của chú thực. Còn Thanh Nga là em của thím. Hai bên đều không có tý huyết tộc nào, vậy cả hai cứ theo tuổi mà xưng hô. Năm nay cả hai cùng 18 tuổi. Dã Tượng sinh tháng giêng, Thanh Nga sinh tháng chạp. Vậy Thanh Nga gọi Dã Tượng là anh. Dã Tượng vui vẻ: – À! Có cô em xinh đẹp đàn ngọt, hát hay thì là điều ai cũng ước mơ. Anh cũng tặng em món quà này. Đây là chiến lợi phẩm anh thu được trong trận Đông bộ đầu đấy. Hai người đứng cách nhau không xa, hơi thở ấm áp của Dã Tượng, mùi khét khét mồ hôi của đàn ông làm Thanh Nga như người say rượu. Tạ Quốc Ninh nhắc: – Dã Tượng! Con phải nói rõ, con có báu vật này trong trường hợp nào cho Thanh Nga nghe. – Dạ, con quên. Theo quân luật, phàm tất cả những gì thu được trên chiến trường như lừa, ngựa, vũ khí, vàng bạc, phải xung vào công khố. Trong trận Đông bộ đầu, một bách phu trưởng Mông cổ bị bắt làm tù binh. Đói qúa, y đưa con chim ưng này ra xin đổi lấy con vịt nướng của anh với cặp bánh chưng. Sau trận đánh anh nộp cho Hưng Ninh vương. Vương phán: đây không phải chiến lợi phẩm, mà là việc buôn bán giữa anh với viên bách phu trưởng. Vương ban cho anh được giữ làm của riêng. Nhà Thanh Nga nằm trong khu Bắc ngạn, vương phi nhờ Nho Lâm mời bố mẹ nàng tới. Vũ Uy vương cùng vương phi gặp riêng bố mẹ nàng, nói rõ thiện ý của mình. Ông bà nghe tin con gái được một vị tước vương nhận làm em nuôi thì mừng chi siết kể. Ông bà vái dài tạ vương. Qua câu truyện mẫu thân từ con hát, trở thành Tuyên phi, qua vụ Thanh Nga tuyển phu, Vũ Uy vương chợt nảy ra sáng kiến: – Tại sao mình không mang theo những ca nhi xinh đẹp, có thể cần dùng tới. Vương hỏi Thanh Nga: – Em biết xử dụng những nhạc khí nào? – Dạ, em được bố mẹ gửi tới phường Đông hoa học hát, học nhạc. Em được học bẩy nhạc khí căn bản: kéo nhị, thổi sáo, bật trống cơm, đánh trống mảnh, gõ phách, đánh đàn tranh, đàn bầu. Vương phi Ý Ninh vốn cực kỳ thông minh, nghe chồng hỏi Thanh Nga, phi biết ý chồng: – Em à! Trong chuyến đi này chúng ta cần một toán ca hát theo để dùng vào quốc sự. Trong đám bạn học của em, có người nào tài ngang với em mà còn là khuê nữ không? – Dạ có. Bọn em gồm năm đứa tài sắc, tuổi ngang nhau. Cả năm đều còn con gái. Nhà chúng nó đều ở gần đây. Thúy Hồng gốc Kinh Bắc, Thúy Nga gốc Thiên trường, Thúy Trang ở Thụy khuê, Hồng Nga gốc Nghi tàm. Vương lại nhờ Nho Lâm mời cha mẹ cùng bốn ca nhi tới. Cả cha mẹ, lẫn bốn cô nghe Vũ Uy vương ngỏ ý mang theo sứ đoàn vì nước lập công thì mừng chi siết kể. Tuy vậy vương cũng ban cho mỗi cô mười lượng vàng, coi như bổng của triều đình, để các cô dâng bố mẹ tạ ơn sinh thành. Vương hỏi tuổi năm cô gái rồi nói với vương phi: – Em ơi, trong năm đóa hoa này, chúng học cùng trường, cùng thầy, là chị em đồng môn. Nay đi theo mình thì tình chẳng khác như ruột thịt. Vậy ta hãy theo tuổi, định thứ bậc cho chúng. Lớn nhất là Hồng Nga, thứ đến Thúy Hồng , thứ ba là Thúy Nga, Thanh Nga thứ tư, nhỏ nhất là Thúy Trang. Vương bảo năm nàng: – Từ nay các em phải coi nhau như chị em, cùng chúng ta làm việc nước. Theo thứ tự thành chị em cùng nhà. Trong khi các em theo ta, thì cha mẹ ở nhà được lĩnh bổng như một Vệ úy, được cấp phát công điền. Hy vọng các em lập đại công, ta sẽ tâu xin phụ hoàng phong cho các em mỹ hiệu. Nay ta tạm gọi các em là Long thành ngũ phụng. Vương phi vui vẻ: – Ta đặt cho năm em một cái tên văn vẻ: Ban nhạc đào hoa Đông bộ đầu. Dã Tượng lắc đầu: – Thưa thím cái tên này dài quá, con xin thu ngắn lại cho dễ gọi. Thúy Nga tính ưa vui, ưa đùa, nàng hỏi: – Anh định đè vai bọn em cho lùn lại đấy à? Anh thu ngắn như thế nào? – Cái cô này đẹp thì thực đẹp. Hát thì thực hay, nhưng miệng thì dẻo như kẹo kéo. Các cô xinh đẹp thế kia, thì dù bọn ác quỷ Mông cổ cũng không nỡ làm các cô đau, huống hồ anh là đồ tử đồ tôn của vua Đinh Tiên Hoàng. Anh muốn thu ngắn 7 chữ của thím còn ba chữ: Ban Đông hoa! Quốc Ninh tán thưởng: – Hay! Thu ngắn như vậy mới dễ gọi. Sứ đoàn vừa sang sông, thì một kỵ mã trang phục như một võ quan Mông cổ từ phía trước phi đến như bay. Khi tới trước ngựa Vũ Uy vương thì y ngừng lại. Viên kỵ mã nhảy xuống ngựa dơ tay vẫy vương. Vương nhìn kỹ thì ra Tây viễn vương lĩnh Phiêu kỵ Đại tướng quân Trần Tử An. Vương vội xuống ngựa hành lễ: – Cháu xin ra mắt ông trẻ. Tử An gọi vương phi, Tạ Quốc Ninh, Dã Tượng lại gần rồi nói nhỏ: – Ta có một điều cơ mật muốn nói với các cháu. Đúng ta thì ta phải nói từ khi các cháu chuẩn bị lên đường. Nhưng ta sợ nói sớm có thể bị lộ. Hồi theo quân của Hốt Tất Liệt đánh Tống ta có để lại người vợ và đứa con trai tại Hoa lâm. Ta đặt cho nó cái tên Mông cổ là Ngột A Đa hay còn tên khác là Thoát Nhân. Vợ chồng ta dạy A Đa nói tiếng Việt cũng như văn hóa Việt rất giỏi. Nó được Đại hãn Mông cổ là Mông Ca tin dùng. Gần đây ta nghe tin rằng nó mới được trao cho chức vụ Tham tri chính sự. Vậy khi sang Mông cổ, các cháu bí mật liên lạc với nó, nó sẽ âm thầm giúp Đại Việt mình. – Không biết chú Ngột A Đa có biết võ không? Vũ Uy vương hỏi: chú ấy có biết văn tự Trung quốc không? – Võ công của nó do ta truyền thụ. Bản lĩnh của nó không thua gì ta. Công lực của nó có phần hơn ta vì nó còn trẻ. Về văn học Trung quốc, nó rất uyên thâm. Trước khi ra đi, ta đã cùng nó ước hẹn khi sai người liên lạc, sẽ làm như thế…như thế để nhận nhau. Vậy các cháu nên cẩn thận để tránh gà nhà đá gà nhà. Tây viễn vương rút trong bọc ra con dao nhỏ dài hơn gang tay, ông trao cho Vũ Uy vương: – Hồi đánh Tây vực, Thành Cát Tư Hãn được dâng hai con dao bằng thép, do người Tây phương đúc, sắc bén vô cùng. Tư Hãn ban cho ta. Ta trao cho Ngột A Đa một con, còn một con ta cho cháu. Khi gặp Ngột A Đa, nếu nó còn nghi ngờ thì cháu cứ đưa con dao này ra là nó tin ngay. Thôi các cháu lên đường. Chúc các cháu thành công. Ông đưa mắt nhìn Long thành ngũ phụng, rồi ngửa mặt lên trời cười, nheo mắt với Ý Ninh. Vương phi Ý Ninh nghĩ thầm: – Không xong rồi, vị thái thúc (ông trẻ) này kinh lịch khắp Mông cổ, Tây vực, Trung nguyên, kiến thức ông không tầm thường. Không chừng ông đoán được ý vợ chồng mình cũng nên. Vương phi cũng tủm tỉm cười: – Ông trẻ biết chủ ý của chúng cháu rồi ư? – Dĩ nhiên. Ông nói trầm giọng : – Một người con gái ngồi, đứng, thì dù có nhan sắc cũng khó mà cột chân anh hùng. Nếu như cô gái đó đi lại, thướt tha, hoặc múa hát, thì anh hùng sẽ ngã ngựa ngay. – Ông trẻ hiểu rõ cháu đến cùng kỳ cực rồi vậy. –Trên đời này, cái gì lạ cũng quý. Con người cũng vậy. Con gái Mông cổ thân thể cục mịch, đi đứng cứng ngắt, nói năng ồn ào, mắt ty hí; không thể so với con gái Việt, dáng đi nhẹ nhàng, mềm mại, nói năng khoan thai, thanh thoát, mắt không lá liễu thì cũng giống mắt bồ câu. Năm con bé này, thuộc loại sắc nước hương trời, thì bọn Mông cổ sao thoát khỏi bị chúng nó giam vào trong những đôi mắt đẹp. Con gái Mông cổ thích mặc áo da, hay vải thô, trông cứng như gỗ. Nay cho năm con bé này mặc quần áo Việt bằng lụa, bằng nhiễu, gió bay phất phới thì anh hùng đến mấy cũng phải gác kiếm, cung tay. – Đa tạ ông trẻ. Rồi sao nữa? – Tuy nhiên Ý Ninh phải giảng giải hằng ngày về nhiệm vụ cao cả của chúng. Bằng không, chúng chỉ là những đứa con gái thiếu kinh nghiệm trong tình trường, thì nguy tai! Ông gọi năm nàng ban Đông hoa lại: – Ông cho các cháu mấy bảo bối trước khi lên đường. Năm nàng khoanh tay: – Chúng cháu xin ghi vào lòng. – Bảo bối thứ nhất: “ Trên đời này có nhiều loại hạnh phúc. Hạnh phúc nhất cho những ai được hy sinh thân mình cho Xã tắc. Đất nước này là đất nước của vua Hùng, vua An Dương, vua Trưng để lại, nếu cần bảo vệ thì dù hy sinh thân mình, gia đình mình là điều hãnh diện nhất”. – Dạ, bọn con nhớ rồi. – Bảo bối thứ nhì: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan” nghĩa là anh hùng hô một tiếng trăm nghìn người chết, thành đổ, núi nghiêng, nhưng trước người đẹp chỉ là con nai ngơ ngác. – Dạ, bọn con hiểu. – Bảo bối thứ ba: ‘Sự nghiệp vạn dặm không chứa đầy đôi mắt giai nhân”. – Dạ! Chúng con hiểu. – Là gái Việt, tức là con cháu vua Trưng. Không bao giờ khuất phục bọn đàn ông, để họ sai như mèo, như chó. – Dạ chúng con hiểu. Thình lình vương quát lớn rồi vọt mình lên lưng ngựa, phút chốc đã khuất vào cánh đồng xanh. Ghi chú, (1) Bắc bình vương Đào Kỳ là đại anh hùng trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng. Ngài lĩnh chức Đại tư mã tương đương với ngày nay là Tổng tư lệnh quân đội. Vương phi là Nguyễn Phương Dung lĩnh chức Tể tướng triều Lĩnh Nam. Hiện (2001) đền thờ hai vị còn tại Lộc hà, Hội phụ, Lê xá, Thị thôn thuộc Cổ loa Hà nội. Xin xem Anh hùng Lĩnh Nam, Động đình hồ ngoại sử, Cẩm khê di sự, cùng tác giả. (2) Người ta sinh ra, ai mà không phải chết, nhưng phải sao lưu chút lòng son với đời sau (thẻ tre). (3) Xin đọc Nam quốc sơn hà, cùng tác giả. Hồi này thuật đại cương về tình hình Văn nghệ thời Đông a, và sự phát triển của hát Xẩm. Thời Đông a là thời kỳ xuất phát một số công trình Văn hóa lớn. 1. Một là chữ Nôm. Chữ Nôm chắc có từ trước. Nhưng người có công xếp đặt thành hệ thống, có căn bản là ông Nguyễn Thuyên. Ngay lập tức các danh sĩ, văn nhân thi nhau học, sáng tác thơ, văn. Nay còn lưu truyền. 2. Hai là điệu múa Bài bông, tác giả là ba vị vương từng là đại tướng chiến thắng Mông cổ : Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Trọn vẹn điệu múa có 9 màn, lưu truyền đến cuối thế kỷ thứ 20. (1945). Hiện (2008) trong nước đang cố gắng phục hồi. Lời ca bao gồm : Hát nói (Ca trù, hay hát Ả Đào), hát Xẩm, Hát Ví, hát Nghêu, hát Trống quân, hát Quan họ, hát Chầu Văn. 3. Ba là hát Xẩm, khi tôi viết những dòng này, thì trong nước phong trào Hát Xẩm như hoa xuân rực nở. Tại chợ Đồng Xuân Hà nội, mỗi tối thứ bẩy, những nghệ nhân danh tiếng cùng hát Xẩm cho du khách nghe. Hát Xẩm chắc có từ lâu, đến đời Trần mới thực sự có căn bản, mà người có công đầu lại là một cặp đại anh hùng : Vũ Uy vương và vương phi Ý Ninh. Trước đời Trần thì Hát Xẩm chưa đành cho người mù. Trong những hồi sau, độc giả sẽ biết chi tiết tại sao các nghệ nhân hát Xẩm hầu hết đều mù. Hát Xẩm là điệu hát bình dân nhất trong những diệu hát bình dân. Vì vậy khi vừa khôi phục là được quần chúng đón nhận, và sống dậy rất mau. Những người có công đầu làm sống dậy là nhạc sĩ Thao Giang, nghệ sĩ nhân dân Xuân Hoach, nghệ sĩ ưu tú Thanh Ngoan, Văn Ty, Đoàn Thanh Bình, Thúy Ngần, Mai Tuyết Hoa v.v. Họ là nghệ sĩ nhân dân, là nghệ sĩ ưu tú, nghĩa là họ thuộc loại thành danh, nhưng đã bỏ ra ngoài cái hào quang, để đi về từng thôn, từng xóm xa xôi, sưu tầm, biên tập lại những di sản hát Xẩm. Rồi họ còn can đảm, trải chiếu ra chợ Đồng Xuân hát như những nghệ nhân hát Xẩm hồi trước 1945. Công lao của họ được đền đáp : quần chúng hoan hô nhiệt liệt. Trong đại hội y khoa châu Âu, tháng 10, năm 2006, tổ chức tại hotel Novotel, thuộc quận 14 Paris, tôi được mời diễn giải về Văn hóa hát Xẩm. Cử tọa hoan hô nhiệt liệt. Hồi thứ năm mươi tư Ánh mắt như gươm treo Vương phi Ý Ninh nhắc nhở: – Ba bảo bối của Tây Viễn vương, các em phải thuộc nằm lòng. – Dạ! Dã Tượng cho Long thành ngũ phụng đi trên một xe song mã. Dọc đường ra Bắc biên, cứ hai chục dặm sứ đoàn lại nghỉ. Vương phi lại huấn luyện các nàng những phương cách bắt anh hùng như bắt thỏ non, mà Tây Viễn vương dạy. Mỗi khi nghỉ, dân chúng tụm nhau chào đón. Ban Đông hoa lại có dịp ca hát, tấu nhạc. Năm cô dạy Dã Tượng hát. Dã Tượng từng là mục đồng, từng hát nghêu, thổi sáo, nên học rất mau. Nhạc khí Dã Tượng thích nhất là gõ trống mảnh. Bốn cô biết giữa Dã Tượng với Thanh Nga có tình ý, nên cứ để Thanh Nga dạy chàng. Tối đến, Tạ Quốc Ninh lại dạy văn, dạy tiếng Mông cổ cho Dã Tượng với năm cô. Cả năm cô gái đều đẹp như hoa nở, đàn ngọt, hát hay. Dã Tượng đối xử với các cô hết sức lịch sự từ lời nói, đến cử chỉ. Nhưng chàng vẫn giữ cung cách là người anh. Còn Thanh Nga thì cứ nghĩ: dù có biến cố gì chăng nữa chàng cũng là chồng mình. Sứ đoàn đi tới vùng Siêu loại, thì thấy hơn mười người ngựa đang đứng chờ ven đường. Vương phi nhìn kỹ : Nhân huệ vương Trần Khánh Dư, Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu, Vũ kỵ thượng tướng quân Lý Tùng Bách, Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm, Sài sơn song kiệt Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn. Vũ Uy vương, vương phi cùng xuống ngựa, hành lễ : – Không biết các vị có điều gì cần dậy dỗ Duy này mà chờ ở đây ? Tạ Quốc Ninh nói với vương : – Sáu vị này với Ninh cùng có nỗi khổ tâm, ngày đêm khóc chảy máu mắt. Vì vậy họ đón đường vương gia, xin vương gia hứa cho một vài lời ! Vũ Uy vương còn đang bỡ ngỡ thì vương phi đã nói : – Các vị yên tâm. Vụ Tô lịch thất tiên bị Mông cổ bắt đi, đến nay cũng không có chút tăm hơi nào. Có hai trường hợp xẩy ra : một là họ bị Mông cổ giết chết rồi. Hai là họ bị Mông cổ đem về Trung nguyên. Trong chuyến đi này chúng tôi sẽ hỏi trực tiếp Ngột Lương Hợp Thai. Dù tình trạng xấu, hay tốt, chúng tôi cũng dùng chim ưng báo cho các vị biết. Sau ba ngày đi trên con đường cái quan gập ghềnh, sứ đoàn tới Phủ Tổng trấn Bắc cương. Theo truyền thống của Hoa-Việt, khi một hoàng tử tới tuổi 12-13 thì được phong tước. Tước thường khởi từ Quận vương, Quốc vương, cuối cùng là Đại vương. Chức thì tùy theo tài năng, thường gồm cả chức văn lẫn võ. Duy triều Trần, các vương, hầu thuộc hoàng tộc không giữ chức vụ chủa triều đình. Mỗi vị cai trị đất phong của mình như một nước nhỏ. Thảng hoặc mới có người giữ chức vụ như Trần Thủ Độ lĩnh chức Thái sư, Hưng Đạo vương lĩnh chức Tiết Chế (Tổng tư lệnh quân đội). Hoàng tử Trần Nhật Duy vì có đại tài nên khi 13 tuổi đã được phong tước Vũ Uy vương, được trao cho trấn thủ Bắc cương. Chức tước của vương là : Thái tử thiếu bảo, Đồng bình chương sự (Hàm Tể tướng), Phụ quốc thượng tướng quân (Cấp bậc cao nhất trong hàng võ quan), tước Vũ Uy vương, Lĩnh chức vụ Tổng trấn Bắc cương. Tòa Tổng trấn Bắc cương cũng là phủ đệ VũUy vương. Sứ đoàn nghỉ tại Tòa Tổng trấn trong năm ngày, để vương sắp xếp mọi sự, ủy quyền cho văn võ quan trực thuộc trong những ngày vương đi sứ. Biên giới Đại lý- Đại Việt hồi đó, lùi lên phía Bắc thuộc tỉnh Vân Nam ngày nay hơn 70 cây số. Phương sách của Mông cổ là khi đánh chiếm nước nào, họ cũng duy trì ngôi vua, hệ thống quan lại bù nhìn để thi hành luật pháp của họ. Vì vậy tuy Đại lý đầu hàng Mông cổ, nhưng Mông cổ vẫn duy trì ngôi vua cho Đoàn Hưng Trí với hệ thống quan lại, binh tướng. Khi thấy sứ đoàn tới biên cảnh, viên quan trấn thủ Đại lý loan báo cho viên Bách phu trưởng Mông cổ đóng gần đó. Viên Bách phu trưởng này gốc người Hán, tên Võ Kim. Hồi Mông cổ sang đánh Đại Việt, y chỉ là chứùc Thập phu trưởng. Vì viên Bách phu trưởng bị giết trong trận Phù lỗ, y được đôn lên thay thế. Nhìn thấy sứ đoàn với cây cờ trên có hàng chữ: Đại Việt Đông A Vũ Uy vương, Võ Kim đã từng thấy Vũ Uy vương trong trận Thảo lâm, y vái dài: – Tiểu nhân tham kiến vương gia. Không biết vương gia giá lâm có việc gì? – Võ tướng quân. Xin tướng quân báo với Thái sư Ngột Lương Hợp Thai, hoặc Phò mã Hoài Đô rằng tôi xin cầu kiến, để trao trả tù binh Mông cổ, Đại lý. – Khải vương gia, Thái sư với Phò mã hiện đóng quân tại Côn minh. Tiểu nhân kính thỉnh vương gia tạm nghỉ nơi đây. Tiểu nhân sẽ sai người đi báo cho hai vị đại nhân. Sứ đoàn được đóng bên bờ suối, nằm trong Bạc dịch trường Tây biên (chợ biên giới Hoa Việt). Bạc dịch trường này được thành lập vào thời vua Lý Thái tông bên Đại Việt. Đó là ba châu thuộc đất Việt, ba châu thuộc Đại lý, nay là vùng Văn dương bên Vân Nam (Trung quốc). Đây là nơi giao thương giữa Đại lý, Đại Việt. Đại lý hồi đó nói tiếng Thái, lẫn tiếng Việt. Dã Tượng ban lệnh cho kị mã, lẫn người phục dịch: – Các người được ra Bạc dịch trường mua sắm, nhưng phải mặc y phục Việt. Không được mặc quân phục. Không được nói tiếng Mông cổ, tiếng Hán, để giặc yên tâm không đề phòng. Yêu cầu của chúng ta là: tìm hiểu những điều bí ẩn của Mông cổ. Chàng phát cho mỗi người một ống tre, giảng: – Đây là pháo thăng thiên, lúc nào cũng phải mang theo bên mình. Khi gặp hung hiểm thì tay phải cầm thân ống tre, đầu có sơn đỏ hướng lên trời, rồi cầm sợi giây cuối ống tre giật mạnh, pháo sẽ vọt lên không ít ra là 3 trượng (6 m ngày nay) rồi nổ tung. Ưng binh sẽ bay tới, rồi báo cho tôi. Tôi sẽ tiếp cứu. Hai ngày sau, vào buổi tối, Vũ Uy vương sai mở cũi thả 4 con Ngao cẩu ra canh phòng khu đóng trại, lại thả 10 Thần ưng ra canh phòng trên trời, rồi họp mọi người trong ngôi lều của vương. Tạ Quốc Ninh kiểm điểm lại nhân số, thì thiếu Thanh Nga. Hầu hỏi Thúy Trang: – Con có thấy Thanh Nga đi đâu không? – Hồi trưa năm đứa chúng con cùng ra Bạc dịch trường Tây biên… ăn quà. Aên xong, Thanh Nga bị đau bụng, xin về trước. Lúc chúng con trở về đến giờ không thấy Thanh Nga đâu. Dã Tượng kinh hoảng, bảo Tá lĩnh chỉ huy đội Kỵ mã Long biên La An : – Em sai tất cả 10 Ngao binh tìm khắp doanh trại một lượt xem. La An tuân lệnh rời lều. Hơn khắc sau y trở lại, lắc đầu: – Ngao binh xục xạo khắp trại, không còn một người nào. Nhìn nét mặt kinh hoàng của bốn cô gái ban Đông hoa, Tạ Quốc Ninh an ủi: – Các cháu đừng sợ hãi. Trước khi khởi hành ta từng dặn các cháu rằng dù gặp tình huống xấu đến đâu cũng phải bình tĩnh mới mong thoát khỏi. Tỷ như Thanh Nga có mệnh hệ nào, thì thực là một điều danh dự, khi tuổi 18 đã vị quốc vong thân, sẽ được phong thặng. Cha mẹ được triều đình phủ tuất, làng xóm kính trọng, hân hạnh biết bao! Dã Tượng đặt vấn đề: – Thanh Nga vắng mặt có thể xuất phát từ bốn nguyên do: một là đi lạc, hai là nhớ nhà trốn về, ba là bị quan quân Đại lý bắt giam, bốn là bị bắt cóc. Chàng hướng Thúy Nga: – Em kể cho anh nghe chi tiết về việc chị em ăn quà ra sao. Thanh Nga bị đau bụng từ trước hay sau khi ăn mới đau? Thúy Nga mở to mắt, chớp chớp mấy cái, cau mày để nhớ lại rồi thuật: – Em nhớ rõ lắm, sáng nay cả năm đứa cùng ra Bạc dịch trường ăn món ăn Việt. Cửa hàng do người Việt làm chủ. Chúng em cùng ăn bún ốc. Aên xong chúng em định kéo nhau đến khu bán y phục, thì Thanh Nga kêu đau bụng, rồi xin về trước. Như vậy là đau sau khi ăn. Dã Tượng phất tay: – Thưa chú, từ Bạc dịch trường về đây không quá hai dặm, đường lại thẳng, không thể có việc Thanh Nga đi lạc. Vậy thì phải xét xem Thanh Nga có nhớ nhà trốn về không? Hồng Nga xua tay: – Từ hôm rời Thăng long đến giờ, Thanh Nga vô cùng hồ hởi vì đang từ một cô gái ca hát, bỗng được lên đường làm việc quốc gia trọng đại, được hưởng danh dự của một Vệ úy. Nó nói với em rằng, biết đâu nó không thành anh hùng như công chúa Gia Hưng Trần Quốc thời vua Trưng. Hoặc như công chúa Kim Thành, Trường Ninh thời Lý. Nàng mỉm cười: – Vả anh là người trúng cách tuyển phu của nó, thì dù dao kề cổ nó cũng không rời sứ đoàn đâu. Thế thì không thể có việc nó trốn rồi. Dã Tượng tính toán: – Thanh Nga có thẻ bài chứng nhận theo sứ đoàn thì quan quân Mông cổ, Đại lý muốn bắt nó thì nó phải phạm tội nặng như cướp của giết người. Tuy nhiên họ khi bắt rồi họ phải báo cho ta ngay. Vậy thì có thể nó bị bắt cóc. Vậy ai bắt nó? Bắt nó để làm gì? Vũ Uy vương phân tích: – Nếu Thanh Nga bị bắt cóc thì phải do một thế lực lớn chủ trương. Thế lực này muốn dùng Thanh Nga để mặc cả với chúng ta điều gì đây. Như vậy thì Thanh Nga không gặp hung hiểm đâu. Kẻ bắt cóc sẽ tự tìm đến ta. Vương phi dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai vương, Tạ Quốc Ninh, với Dã Tượng: – Tôi nói gì mặc tôi. Xin lờ đi như không biết. Rồi phi lên tiếng: – Thôi bây giờ La An cho Ngao binh, Ưng binh canh phòng doanh trại thực cẩn thận. Ta đi ngủ, ngày mai ắt bọn bắt cóc sẽ tìm đến. Cuộc họp giải tán. Phi vẫy Tạ Quốc Ninh, với Dã Tượng về lều mình. Dã Tượng mỉm cười: – Thím định dùng bốn cô bé Đông hoa còn lại để làm mồi nhử bọn bắt Thanh Nga phải không? – Đúng vậy. – Thế thì ngày mai cháu sẽ sai bọn nó ra ngoài, đứa thì mua trái cây, đứa thì mua bánh kẹo … Trong khi đó cháu thả Ưng binh bay theo quan sát. Chỉ cần một đứa bị bắt cóc, Ưng binh sẽ theo dõi, rồi dẫn đường cho ta đến chỗ giam Thanh Nga. Hôm sau, Dã Tượng, sai thả 10 Thần ưng bay lên trời tuần phòng, truy tìm tung tích Thanh Nga, rồi đến lều Đông hoa giữa lúc bốn cô đang tập hát. Thấy ông anh khổng lồ, nhưng dễ tính đến, bốn cô cùng ngừng hát. Thúy Nga hỏi: – Này ông anh voi đồng quê! Có tin tức của Thanh Nga chưa? – Chưa! – Coi chừng bọn Mông cổ bắt Thanh Nga làm thịt, nướng chả ăn mất rồi cũng nên. Anh tha hồ khóc: Em ơi! Em ở đâu? Em nỡ bỏ anh, anh tìm đâu ra người đẹp như em? Dã Tượng cười: – Thanh Nga xinh đẹp như vậy, nếu Mông cổ bắt thì chúng sẽ đem nàng về Hoa lâm dâng cho Mông Ca. Nhất định Mông Ca sẽ phong làm hoàng hậu. Trường hợp này thì anh muốn khóc cũng không được. Thúy Nga gật gật đầu: – Nếu đúng như thế thì ta khỏi cần làm gì hết. Thanh Nga sẽ xui Mông Ca bỏ đánh Đại Việt, dồn quân đánh Tống. Nguyên Phong hoàng đế sẽ phong cho bố mẹ Thanh Nga tước hầu, tước bá không chừng. Nhưng anh bị mất cô vợ xinh đẹp, tối tối anh sẽ ôm mặt khóc. Nàng cất tiếng hát theo điệu hát Xẩm: Em ơi chua ngọt đã từng, Non xanh, đất đỏ xin đừng quên nhau. Dù là anh hùng từng xông vào đội quân Lôi kỵ của Mông cổ như chỗ không người, nhưng trước câu nói đùa của Thúy Nga, Dã Tượng cũng ngượng ngùng. Dã Tượng làm nghiêm: – Thôi không đùa nữa! Thúy Nga ra Bạc dịch trường mua cho anh mấy quả chanh. Trưa nay đầu bếp cho chúng mình ăn nhộng rang, mà quên mua chanh. Nhộng có độc tố, ăn nhộng mà không có chanh thì đau bụng. Thúy Nga rùng mình: – Em không đi đâu! Lỡ em đi rồi bị bắt cóc như Thanh Nga thì sao? Rồi Mông cổ cắt thịt em nướng chả thì sao? Từ hôm lên đường Dã Tượng thấy Thúy Nga là cô gái yêu đời, lúc nào cũng đùa. Chàng trêu ngược lại: – Thì anh đến trại Mông cổ nói với chúng: này thịt Thúy Nga vừa thơm vừa bổ, cho tôi xin vài miếng về nấu canh. – Ừ anh cứ ăn thịt em đi. Ở trong bụng anh, em sẽ cấu, cắn, đạp cho đứt ruột ra cho mà coi. Tuy miệng nói vậy, nhưng Thúy Nga cũng đứùng dậy ngửa tay hỏi: – Anh cho em tiền chứ? Tiền mua chanh thêm tiền ăn quà. Dã Tượng trao tiền cho Thúy Nga, lại dưa cho một ống tre, rồi dặn: – Em mang pháo thăng thiên theo. Lỡ có sự thì báo cho anh biết. Con gái Trưng vương gì mà Thanh Nga mới mất tích, không rõ sự tình ra sao mà đã sợ. Nghe Dã Tượng nhắc đến chữ con gái Trưng vương, Thúy Nga cảm thấy mình có một sức mạnh trong tâm bừng bừng dâng lên. Nàng mỉm cười rồi ra khỏi trại. La An sai một Thần ưng bay theo Thúy Nga phòng vệ. Nhưng trái với dự đoán, hơn khắc sau Thúy Nga trở về. Vô sự. Dã Tượng định trình với vương phi, thì một căp chim ưng từ phương Bắc bay về, cả hai kêu lên hai tiếng. Đó là ký hiệu báo có thư. La An gọi cặp chim ưng xuống, trong ống đựng thư cả hai con không có thư mà chỉ thấy cái châm bằng vàng. Chàng lấy châm trao cho Dã Tượng: – Anh coi không có thư mà chỉ có vật này. Dã Tượng tần ngần nhìn cái châm rồi hỏi bốn cô em: – Các em xem, liệu cái châm này có phải của Thanh Nga không? Hồng Nga reo: – Đúng rồi. Cây trâm này của Thanh Nga đây. – Như vậy thì chim ưng đã tìm ra Thanh Nga. Thanh Nga gọi nó xuống, gửi châm về báo cho ta. – Được rồi, các em về lều, để ta trình với chú thím. Chàng cầm cây châm đến lều Vũ Uy vương. Vương phi tiếp cây châm, mỉm cười: – Thím tưởng con bé Thanh Nga chỉ đẹp thôi, không ngờ nó thông minh quá, biết gửi châm về báo cho bọn ta. Bây giờ chờ trời tối, ta theo chim ưng dẫn đường đi tìm nơi giam giữ Thanh Nga. Trời chập choạng tối, vương hạ lệnh cho Dã Tượng: – Con ở nhà giữ trại, để chú thím với thầy Quốc Ninh, đi cứu Thanh Nga. Ngoài cặp ưng dẫn đường, con cho một đôi Thần ngao theo chú thím. Hôm đó là ngày 16, trăng sáng vằng vặc, bốn người nai nịt, lưng dắt bảo kiếm theo cặp ưng dẫn đường, lại xua hai con Thần ngao đi trước. Thần ưng dẫn đường băng qua khu đồng hoang về hướng Bắc. Khoảng năm dặm thì tới con sông nhỏ. Vương tần ngần không biết con sông nông sâu ra sao. Vương phi chỉ vào bụi chuối: – Ta dùng thân chuối vượt sông được rồi. Phi vung kiếm lên, hai cây chuối đổ xuống. Vương cắt mấy cành cây, kết bốn khúc chuối thành cái bè con, đẩy bè ra giữa sông. Phi ôm một con Thần ngao, tung mình đáp xuống bè, rồi vọt mình lên, phi đã sang bên kia sông. Vương cũng ôm một Thần ngao rồi làm theo phi. Khinh công Quốc Ninh, không cao, hai người vọt mình xuống bè, cái bè nghiêng ngửa, suýt nữa cả hai ngã. Cố gắng giữ thăng bằng, hai người vọt mình một lần thứ nhì mới lên được bờ. Thần ưng dẫn đường tới một trang trại khá lớn, tuy nhiên hàng rào không mấy cao. Hai Thần ngao theo một lỗ nhỏ chui vào trong. Lát sau cả hai chui ra vẫy đuôi, đó là ký hiệu bên trong không có ai. Bốn người tung mình vượt rào, vừa đáp xuống, một cảnh tượng làm cả bốn choáng váng: thì ra đó là một khu đóng quân của Mông cổ với hàng trăm chiến mã cột thành mười hàng. Quốc Ninh quan sát một lượt rồi nói nhỏ: – Đây không phải là nơi đóng binh, mà là một trang trại của phú gia, Mông cổ cướp làm nơi ở cho một quan chức lớn. Khu nhà lớn kia kiến trúc theo lối Đại lý: ba gian theo hình tam giác. Các gian có hàng hiên thông với nhau. Viên quan này được một bách phu (đơn vị Mông cổ gồm 100 quân) hộ tống. Ta cần khống chế tên binh canh gác. Vương phi huýt sáo, hai Thần ngao vẫy đuôi dẫn đường. Không xa, tới cổng; một tên lính Mông cổ lưng đeo cung, sườn đeo hai ống đựng tên, tay cầm đao đang đi đi, lại lại. Vương xẹt tới như tên bắn, tên lính vừa thấy có bóng người, y định quát hỏi, thì đã bị điểm huyệt Á môn, giữa lúc y há miệng. Miệng y cứng đơ không mở ra được. Vương lại điểm huyệt Đại trùy. Đại trùy là huyệt tổng hội các kinh dương trên cơ thể, người y tê liệt hoàn toàn. Thấy góc vườn có ngôi nhà nhỏ, dường như là nơi chứa củi hay dụng cụ làm vườn. Vương nhắc bổng tên lính đem vào đó. Vương phi rút kiếm kề vào cổ y. Tạ Quốc Ninh nói tiếng Mông cổ: – Mi biết điều thì không được lên tiếng, ta sẽ giải huyệt cho, bằng không thanh kiếm này sẽ cắt đầu mi. Vương giải huyệt Á môn cho y. Tạ Quốc Ninh hỏi: – Mi thuộc binh đoàn nào? Tên là gì? – Tôi tên là A Qua thuộc đội Thị vệ của Đại hãn, tôi theo hộ tống A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình và Ngột A Đa. Ngột A Đa còn có tên là Thoát Nhân. – A Lan Đáp Nhi lĩnh chức gì? – Là Tả Thừa tướng hành Trung thư tỉnh. – Còn Lưu Thái Bình, Ngột A Đa? – Đều là Tham tri chính sự. Nhưng Lưu Thái Bình không có mặt trong trại này. – Hai người này tới đây với mục đích gì? – Điều tra tội trạng của Thân vương Hốt Tất Liệt. – Tại sao Hốt Tất Liệt là em của Đại hãn Mông Ca, được Mông Ca trao cho thống lĩnh đại quân đánh Tống, mà lại bị điều tra? – Tôi không biết. – Mi có biết ai trong đoàn đã bắt một cô gái ở chợ hôm qua không? – Tôi không thấy, không biết. Vương điểm huyệt Á môn A Qua khiến y không kêu cứu được, lại điểm huyệt Nhĩ môn cho y không nghe được. Vũ Uy vương chỉ vào ngôi nhà lớn có ánh đèn chiếu ra: – Người bắt Thanh Nga ắt phải là một đại cao thủ võ lâm. Bây giờ chúng ta đột nhập vào đó, khống chế mấy tên đầu sỏ thì biết chúng giam Thanh Nga ở đâu. Tạ hầu thám thính gian phải, em thám thính gian trái, anh thám thính gian sau sau. Vương xách A Qua trở lại, để y dựa vào cánh cổng, người ngoài nhìn tưởng y đứng canh. Bốn người tung mình tới khu nhà chính. Vương phi, tới gian trái, bên trong ánh sáng chiếu ra, có tiếng người nói, rõ ràng là tiếng Việt. Vương dùng tay chấm nước bọt, sẽ chọc thủng giấy dán ở cửa sổ, ghé mắt nhìn vào. Cảnh tượng làm hai người kinh ngạc: bên trong có ba người đàn ông, một người đàn bà ngồi trước bàn tiệc. Người đàn bà ngồi quay lưng lại. Trong ba người đàn ông thì một người trang phục theo đại quan Mông cổ, một người trang phục như quý phái Tống, và một người trang phục như nông dân Việt. Người trang phục như nông dân Việt còn rất trẻ, ngồi đối diện với người đàn bà. Thân thể y hùng vĩ, nhưng da mặt sạm đen đang dùng tiếng Việt nói với quý nhân Tống, rồi y lại dùng tiếng Mông cổ nói truyện với đại quan. Vương phi tuy có học tiếng Mông cổ, nhưng cứ mười tiếng, phi chỉ hiểu được ba tiếng. Người trang phục nông dân nói với quý nhân Tống: – Nếu đúng như thế, thì Đại hãn sẽ phong cho Thái tử làm An Nam Quốc Vương. Ông sẽ được phong làm Tể tướng. – Nhưng Ngột Lương Hợp Thai mới bị bại, biết bao giờ binh Thiên triều lại nhập Việt? – Ngột Lương Hợp Thai là chân tay của Hốt Tất Liệt. Mà Hốt Tất Liệt sắp bị thu binh quyền rồi. Ông không nên theo chúng nữa. – Vâng! Tiểu nhân hiểu. – Vừa rồi Thái tử có gửi gần năm nghìn người trợ chiến với Ngột Lương Hợp Thai. Khi vào Thăng long, trong khi đại binh Mông cổ phải chiến đấu, thì quân của Thái tử chuyên lo bắt gái đẹp. Nghe nói quân của Thái tử bắt được bẩy cô gái sắc nước hương trời. Nay Thái tử giữ họ ở đâu? – Bẩy người đó do Ngột Lương Hợp Thai bắt, rồi gửi Thái tử đem về Văn sơn trước. Vì vậy khi Mông cổ bị bại, bẩy người đó không bị Đại Việt bắt lại. Hôm qua người của Ngột Lương Hợp Thai đã đem bẩy cô gái đi, nghe nói đưa về Côn minh. Ngột Lương Hợp Thai định dùng bẩy cô gái ấy dâng cho Hốt Tất Liệt để xin tha tội bại binh. Qua câu truyện, phi hiểu lờ mờ rằng: “Quý nhân trang phục Tống có gốc Việt. Y là bộ hạ của một người nào đó tự xưng Thái tử. Cái người đó từng mang năm nghìn quân trợ giúp Mông cổ. Y cầu xin Mông cổ phong cho chức An Nam Quốc Vương. Vừa rồi quân Mông cổ vào Thăng long, mải chiến đấu thì đám quân này lo đi bắt gái. Chính Ngột Lương Hợp Thai cũng bắt 7 cô gái đẹp, giữ ở Văn sơn. Hiện Ngột Lương Hợp Thai đang đem 7 cô gái về Côn minh, cống cho Hốt Tất Liệt mong được tha tội bại binh ở Đại Việt”. Phi chợt nhớ lại chỉ dụ của phụ hoàng: Tống đã chứa chấp bọn vong mạng, bọn trộm cướp bị triều đình truy lùng. Họ cấp đất cho chúng. Chúng lập thành châu động rồi xưng là hậu duệ của vua Lý. Trong tất cả bọn này thì bọn con cháu Thân Lợi mạo xưng con vua Lý Nhân Tông mạnh nhất. Chúng cát cứ Văn sơn, Khâu Bắc. Hiện tên Lý Long Vân đang là lãnh chúa hai châu này. Đây chắc là tên Tể tướng của Long Vân đây. Phi biết bẩy cô gái này là Tô lịch thất tiên, mà Hoàng Hoa là vợ của Tạ Quốc Ninh. Suốt hơn năm qua, cả bẩy ông chồng ra công tìm kiếm, bây giờ đã thấy tông tích: Tô lịch thất tiên vẫn còn sống, do Ngột Lương Hợp Thai giam giữ. Người nông dân Việt ngừng lại nói với người đàn bà bằng tiếng Việt: – Cô bé ơi! Liệu Vũ Uy vương nhận được châm của cô, vương có đi cứu cô không? – Nhất định vương sẽ đi tìm em. Vương là anh của em mà, vương yêu thương năm đứa em lắm. Không chừng giờ này vương đến rồi cũng nên. Tiếng người đàn bà nói làm phi rúng động tâm tư, thì ra người đàn bà đó là Thanh Nga. Phi tự hỏi: rõ ràng Thanh Nga bị bắt cóc, mà sao lại được ngồi dự tiệc với bọn quý phái Mông cổ? Tại sao cái người trang phục như nông dân Việt lại ngồi ngang với tên quan Mông cổ? Người trang phục Việt lại nói: – Trong khi chờ vương đến, em hát cho anh nghe một bài nữa đi. – Không! Ban nãy nể anh lắm em đã hát một bài cho anh nghe. Đợi bao giờ vương đến, em xin phép vương rồi em sẽ hát nữa. Em sẽ rủ cả năm đứa cùng hát, bấy giờ anh muốn nghe bao nhiêu bài cũng được; chứ hát bây giờ mà không có nhạc đệm thì sao lột được tinh hoa của nhạc Việt. – Thôi! Em ngoan một tý đi. Hát cho anh nghe đi. Thanh Nga dỗi: – Anh bắt em đến đây thế này là không tử tế rồi, em không hát nữa. – Thôi mà! Anh mời em đến đây là vì quốc sự, chứ đúng ra anh phải đến cửa nhà em chắp tay: tôi là gã con trai thô lỗ, nhưng yêu thương em, tôi đến để cầu hôn. – Em cũng không hát. Nói cho mà biết, em từng đi hát chầu văn cô Bơ, cô Đệ Tứ Khâm sai về đồng. Em là con cháu Trưng vương. Em cứng đầu lắm. Muốn gì thì chiều em, chứ bắt buộc thì không được đâu. Con gái Việt chứ không phải con gái Mông cổ hay Tống đâu. – Cô Bơ là ai vậy? Cô Đệ Tứ Khâm sai là ai? Liệu cô có đẹp bằng em không? – Đẹp gấp vạn lần. Cô Bơ là tiếng nói trại của tiếng cô Ba. Cô là một nữ đại công thần thời vua Trưng, đệ tử thứ ba của anh hùng Đào Thế Kiệt. Khuê danh Hoàng Thiều Hoa. Cô từng chỉ huy nghĩa quân đánh chiếm Luy lâu. Cô từng chỉ huy liên quân Việt-Thục đánh trận Trường an. Còn cô Đệ Tứ Khâm sai khuê danh Phùng Vĩnh Hoa, cô lĩnh chức Tư đồ triều Lĩnh Nam. Cô là một bác học thời bấy giờ. Cô từng trấn Tượng quận, đánh nhau với quân Hán những trận kinh thiên động địa. – Nếu em không hát cho anh nghe, thì anh sẽ đem em về Mông cổ, rồi bắt em làm vợ. Bao giờ chúng mình có 10 con anh mới cho em về thăm nhà. – Như vậy anh là đạo tặc rồi. Em thà tự tử chết chứ không làm vợ đạo tặc đâu! Nói cho anh biết. Hồi còn ở trong nước, em treo bảng tuyển phu. Một anh hùng Đại Việt đã trúng cách. Như vậy em là gái có chồng. – Em đẹp thế này, thì dù làm đạo tặc mà được em anh cũng cứ làm. Em có chồng thì kệ có chồng. Em đang ở cạnh anh, anh không chịu để em vuột mất đâu. Có tiếng nói thanh thoát: – Không nên! Không thể làm như vậy! Vương phi Ý Ninh đã đánh tung cánh cửa, đứng giữa nhà. Thanh Nga thấy vương phi thì chạy lại núp sau: – Chịï ơi! Anh này bắt cóc em đấy! Nhưng anh ấy tử tế với em. Chịï đừng chặt đầu anh ấy. Vũ Uy vương với Tạ Quốc Ninh cũng đã tới. Hầu nói tiếng Mông cổ: – Tạ Quốc Ninh, tước Vũ sơn hầu nước Đại Việt xin tham kiến Tả Thừa tướng hành Thượng thư tỉnh và Tham tri chính sự Mông cổ. Tạ Quốc Ninh nói bằng tiếng Mông cổ, hầu chỉ vào Vũ Uy vương: – Vị này là trưởng tử của Đại Việt hoàng đế, tước Vũ Uy vương. Chúng tôi đang trên đường đi sứ Mông cổ. Vị này là Vũ Uy vương phi. Ông chỉ vào người y phục Việt nói với Vũ Uy vương phi: – Vị này là Ngột A Đa, lĩnh Tham tri chính sự . Lại chỉ vào quý nhân Mông cổ: – Vị này là A Lan Đáp Nhi, Tả Thừa tướng hành Thượng thư tỉnh Mông cổ. A Lan Đáp Nhi, cùng Ngột A Đa chắp tay hành lễ: – Vì sợ tai mắt của Hốt Tất Liệt, chúng tôi bầy kế mời cô nương Thanh Nga đến đây, với hy vọng được bái kiến vương gia. Quả nhiên vương gia giá lâm thực. Xin mời quý vị an tọa. Người đàn ông trang phục quý phái Tống đứng lên cáo lui. Ba người thản nhiên ngồi xuống. A Lan Đáp Nhi chỉ Ngột A Đa: – Thì ra các bậc tài trí trong thiên hạ thường hiểu nhau. Chúng tôi từ Hoa lâm tới đây do chiếu mệnh của Đại hãn. Mọi việc tốt đẹp, duy một điều cực khó là chúng tôi muốn liên lạc với triều đình Đại Việt thì không được, bởi muốn tới Thăng long thì phía trước có quân của Ngột Lương Hợp Thai. Hôm trước nghe có sứ đoàn Đại Việt sang, nghĩa đệ Ngột A Đa nói rằng triều đình Đại Việt toàn những người tài trí nhất thiên hạ, thì người đi sứ không thể ngu đần được. Ta cứ bắt cóc một người của sứ đoàn, giữ vài ngày rồi thả về, kèm theo một mật thư, hẹn gặp nhau. Không ngờ vừa bị bắt, chúng tôi nói rõ ý định với cô nương Thanh Nga. Cô có con mắt tinh đời, nên hiểu chúng tôi không có dối trá. Cô gọi chim ưng xuống rồi gửi châm về làm tin. Quả nhiên vương gia tới. Vương phi hỏi: – Đa tạ Thừa tướng quá khen. Không biết Thừa tướng muốn gặp chúng tôi có việc gì? – Đó là điều cực quan trọng giữa Mông cổ với Đại Việt. Nhưng liệu vương gia có toàn quyền thương thảo với chúng tôi không? Tạ Quốc Ninh xác nhận: – Vương gia đây là trưởng tử của Nguyên Phong hoàng đế. Trước khi đi sứ hoàng thượng ban cho vương gia thay người, được toàn quyền quyết định trong việc bang giao Mông Việt. Trong khi Quốc Ninh nói, Vũ Uy vương chợt nhớ một truyện: khi vương vừa sang sông Hồng, thì Tây Viễn vương Trần Tử An phi ngựa theo dặn rằng: vương có người con tên Ngột A Đa, hiện lĩnh Tham tri chính sự triều Mông cổ. Khi sang tới nơi phải bí mật liện lạc với người này, để được giúp đỡ. Vương lại trao cho con dao làm tin. Bây giờ Ngột A Đa đang có mặt tại đây, vương phải làm cách nào cho y hiểu rằng vương là người có thể tin cậy. Vương nói với A Đa: – Thưa ngài Tham tri, tôi không biết nói tiếng Mông. Vậy ngài Thừa tướng có hiểu tiếng Việt không? – Không. Có lẽ khi vương gia nói phải nhờ Tạ hầu dịch. Vương nói với A Lan Đáp Nhi: – Thưa ngài, phụ hoàng sai chúng tôi đi sứ với ba nhiệm vụ. Một là cử tôi sang Hoa lâm làm con tin, vì tôi là con trai trưởng của người. – Hoàng đế Nguyên Phong thực là người thức thời. Còn nhiệm vụ thứ nhì? – Thứ nhì la sai chúng tôi sang để giúp Mông cổ như các vị tiền bối Lý Long Phi, Trần Thủ Huy, Lý Đoan Nghi, Trần Thủ Độ, Trần Tử An. Nói đến đây vương dùng chân trái, sẽ khều chân phải Ngột A Đa. A Đa dùng chân phải khều lại chân trái vương. Thế là hai người nhận được tín hiệu của nhau. A Lan Đáp Nhi reo lên: – Tuyệt vời. Tôi nghe nói võ công cao như Ngột Lương Hợp Thai, A Truật, Hoài Đô đều bại dưới tay vương gia và vương phi. Vương gia lại là người mưu trí trùm hoàn vũ, như vậy chúa tôi ắt sẽ phong vương gia làm đại tướng đánh Tống. Thế còn nhiệm vụ thứ ba? – Trong cuộc chiến vừa qua, Đại Việt bắt được hơn vạn tù binh vừa Mông cổ, vừa Đại lý. Chúng tôi đem lên trao đổi lấy người nhà những người thuộc võ lâm Trung nguyên hàng Đại Việt. A Lan Đáp Nhi lắc đầu: – Nhiệâm vụ thứ ba của vương gia không liên quan gì đến chúng tôi. Những tướng sĩ mà Đại Việt bắt đều là người của bọn Hốt Tất Liệt. Khi vương gia hội họp với bọn Ngột Lương Hợp Thai, xin đừng cho chúng biết đã gặp anh em tôi. Y quay lại hỏi Ngột A Đa : – Hiền đệ ! Chúng ta bắt đầu được không ? A Đa dùng chân móc chân Vũ Uy vương : – Bây giờ trời về khuya rồi, vương gia phải đi về bằng không sứ đoàn tưởng vương gia gặp sự cố, lại tìm bọn Đại lý hay người của Ngột Lương Hợp Thai thì vỡ lở hết. Trưa mai, chúng ta hẹn vương gia tại đây để tiếp tục nghị sự. Vương phi chỉ Thanh Nga: – Không biết tôi có thể mang Thanh Nga đi không? A Lan Đáp Nhi mỉm cười: – Vương phi mang Thanh Nga về, đối với tôi thì không có gì phiền hà cả. Chỉ duy Ngột A Đa thì hơi buồn mà thôi. A Lan Đáp Nhi đứng lên tiễn khách. Chợt nhớ đến ba bảo bối của Tây Viễn vương, ra tới sân Thanh Nga nhìn Ngột A Đa, nàng mỉm cười: – Hôm nay tạm biệt. Mông cổ, Đại Việt đường xa diệu vợi biết ngày nào gặp nhau? Vậy em tặng anh một chút gì để tưởng, để nhớ. Nàng tháo chiếc khăn lụa trên cổ, lấy son tô môi, rồi in hai môi lên chiếc khăn: – Chiếc khăn này mang dấu hai môi em… Nàng cất tiếng hát: Của riêng một chút làm tin, Trăm năm em đợi, chữ tình anh mang. Xa nhau thương nhớ đoạn trường, Nước non vạn dặm, đò ngang em chờ. Em chờ, ngày nhớ đêm mơ… Ngột A Đa tiếp khăn, người bàng hoàng như say rượu. Trong khoảnh khắc, viên phó Tể tướng Mông cổ như đi trong mơ, liếc nhìn Thanh Nga, tự hỏi: – Phải chăng mình đang nằm mơ? Trong khi Thanh Nga ném cho y nụ cười, ánh mắt liếc nghiêng: – Thôi nhé, như vậy đủ rồi! Đừng bắt cóc em nữa nghe? Ngột A Đa thở dài: – Bây giờ thì chính em bắt anh, bắt công khai, chứ không phải bắt cóc. Ngày mai mình sẽ gặp nhau, em thả hồn anh ra nghe. – Không thả! Giữ luôn. – Em giữ để làm gì? – Để làm gì thì mai em sẽ nói. Khi ra tới cổng, vương phi sẽ vỗ vai A Qua, huyệt được giải, y ngỡ ngàng nhìn mọi người. Bốn người về đến trại thì đã sang canh ba (nửa đêm). Cả trại vẫn còn thức, đang chờ. Thấy Thanh Nga bình yên trở về, bốn cô gái mừng chi siết kể, người người hỏi thăm sự tình. Vương phi vẫy tay ra hiệu: – Khoan! Không nên nhiều lời, đợi vào trong lều rồi sẽ hỏi. Mọi người tề tựu. Tạ hầu bảo Thanh Nga: – Con hãy thuật chi tiết những gì đã xẩy ra từ qua đến giờ, đừng bỏ một chi tiết nào. Như vậy thầy mới hiểu rõ mọi sự. Thanh Nga chớp chớp mắt rồi thuật. Sau khi ăn hết hai bát bún ốc, Thanh Nga cảm thấy bụng sôi lọc ọc, rồi quặn đau, nàng nói với chị em: – Oái , em đau bụng quá, em trở về trại trước nhá! Nói rồi nàng trở gót, khi qua khúc quẹo, có một thanh niên cao lớn, tuổi trung niên, tay cầm cái túi vải, mặc quần áo nâu như nông dân Việt đi ngược chiều hỏi: – Cô ơi, cô cho tôi hỏi thăm tí nào! Tha hương gặp người Việt, Thanh Ngoan không e ngại, nàng dừng bước: – Anh hỏi thăm việc gì? Thanh niên xẹt tới chĩa ngón tay điểm một chỉ, người nàng cứng đơ. Nàng định hét lên, y lại diểm một chỉ nữa, nàng không mở miệng ra được. Y tung cái túi vải lên, nàng bị chụp vào trong. Thanh niên vác cái túi vải lên vai, rồi phi thân chạy. Khoảng nửa giờ sau thì nàng được thả ra khỏi cái túi vải. Mở mắt nhìn quanh, thấy mình đang ở trong một căn phòng cực lớn, trang trí hoa lệ. Thanh niên chĩa ngón tay điểm một cái, chân tay Thanh Nga cử động dược, nàng nghĩ rất nhanh: – Gã này võ công tuyệt cao. Y bắt mình thì y không tử tế gì, mình có chửi bới, la hét cũng vô ích. Nhất định y phải lòng mình y mới làm việc này. Dù gì chăng nữa y cũng là người yêu mình. Phải bình tĩnh. Phải thi hành ba bảo bối của Tây Viễn vương. Gã thanh niên mỉm cười hỏi bằng tiếng Việt, giọng lơ lớ: – Cô nương có biết tôi là ai không? – ?!?!?! – Tôi tên là Ngột A Đa, hiện là đại quan Mông cổ. – Tôi thấy võ công anh không tầm thường, lại là quan chức Mông cổ, tại sao anh lại bắt cóc tôi! Như vậy anh là đạo tặc rồi còn gì nữa! – Tôi không bắt cóc cô, mà vì quốc gia đại sự tôi mời cô về đây. Thanh Nga chưng hửng, vì nàng những tưởng y bắt nàng về đây vì nhan sắc của nàng. Nàng thắc mắc: – Thì ra điểm huyệt, lấy túi chụp người ta là cung cách mời của Mông cổ đấy. – Xin lỗi cô, tôi đã mời cô bằng cách này. Thôi để tôi nói rõ chủ ý của tôi cho cô nghe. Tôi hiện lĩnh Tham tri chính sự tại triều Mông cổ. Cô có biết Tham tri chính sự là chức gì không? – Aáy à, ngài là Phó Tể tướng, xin lỗi tôi đã nặng lời. Tôi hỏi ngài… – Cô đang gọi tôi là anh sao lại đổi anh thành ngài mau như vậy?Cái tiếng ngài nghe chẳng thân mật chút nào. Những lời của Tây Viễn vương lại văng vẳng bên tai, Thanh Ngoan nhủ thầm: Mình cần biến gã Mông cổ này thành con nai, dễ sai khiến, hơn là khăng khăng coi y như cừu thù. – Thôi được rồi, em lại gọi ngài là anh. Này anh, tại sao anh lại nói tiếng Việt lưu loát như vậy? – Tại sao lại có người Việt nói tiếng Hán, tiếng Mông lưu loát? – Vậy anh mời em để làm gì? – Tôi từ Hoa lâm tới đây muốn liên lạc với Vũ Uy vương, nhưng không tiện xuất hiện, vì sợ bọn Đại lý, bọn Ngột Lương Hợp Thai biết, nên phải mời cô. Thấy cô mất tích, Vũ Uy vương sẽ suất lĩnh thủ hạ đi tìm cô. Thế là tôi được gặp người của vương. – À thì ra thế. Anh đã biết gì về Vũ Uy vương chưa? Tôi thấy võ công anh cũng cao đấy, nhưng so với vương thì thua xa. Anh bắt tôi thế này, vương biết thì vương sẽ đánh cho anh một trận đấy. – Tôi giam cô vào trong túi, mồ hôi cô toát ra nhiều quá. Mời cô đi tắm, thay y phục đã, rồi hãy nói truyện. Ngột A Đa sai thị nữ dẫn nàng đi tắm, lấy y phục Đại lý cho nàng thay. Bữa cơm chiều hôm đó y ngồi ăn với nàng. Bũa ăn khá thịnh soạn. Y hỏi thăm nàng về chiến cuộc Mông cổ. Nàng nghĩ thầm: – Y là phó Tể tướng thì tình hình hai bên y phải biết rõ. Ta chẳng nên dấu. Nghĩ vậy nàng cứ sự thực thuật lại. Ăn xong, Thanh Nga đi dạo một mình trong hoa viên, hy vọng Thần ưng đi tìm nàng bay qua, nàng sẽ gọi chúng xuống, gửi tín vật về báo cho La An. Nhưng trời đã chập choạng tối, thấy chim ưng bay qua, tuy nàng vẫy gọi, mà nó không nhìn thấy. Nàng lo nghĩ: – Mông cổ là bọn quỷ sứ, tên Ngột A Đa tuy tử tế, nhưng còn hằng trăm tên khác. Liệu đêm nay chúng có để cho ta yên không? Ta quyết định: ta đã dành tất cả cho Dã Tượng, nếu chúng làm nhục, ta sẽ tự tử để bảo toàn danh tiết với chàng. Bất giác nàng cất tiếng hát: Giang sơn một gánh, đôi vai, Nhục nhằn xá kể, đêm dài tủi thân. – Chà em hát hay thực. Em hát cho anh nghe một bài nữa được không? Thấy A Đa đổi cách xưng hô, từ cô tôi sang anh em. Nàng nhủ thầm: Nai mắc lưới rồi. Nhưng gã Mông cổ ơi! Bản cô nương là cháu vua Trưng, là con bà Triệu, không dễ gì mi thành công đâu: – Dĩ nhiên là được. Nhưng anh phải hứa giúp em một việc. – Việc gì? – Thân gái giữa chốn hang hùm, liệu bọn binh lính của anh có để cho em yên đêm nay không? – Ở đây, đại ca A Lan Đáp Nhi tuy đứng đầu nhưng người không phải là phường dâm đãng. Anh là người quyền hành đứng thứ nhì. Anh hứa với em rằng không có gì xẩy ra, bất cứ đứa nào hỗn với em, anh chặt đầu nó ngay. – Em tin lời anh. Để em hát cho anh nghe. Nàng cất tiếng hát một bài chầu văn, vừa hát nàng vừa nhảy, múa. Ngột A Đa ngây người ra nghe. Bài hát hết, y hỏi: – Điệu hát vừa rồi là điệu gì vậy? – Đó là hát chầu văn. – À anh có nghe nói, nhưng bài hát là bài tụng vị thánh nào thế? – Cô Đệ Tứ Khâm sai. Thế rồi đêm đó qua thực êm ả. Sáng hôm sau nàng ra sân ngóng chim ưng. Quả nhiên chim ưng tìm được nàng. Nàng gọi nó xuống, lấy cây châm bỏ vào ống thơ, rồi tung nó lên trời. Chim vừa bay lên trời thì có tiếng Ngột A Đa khen: – Em gửi châm như vậy, liệu Vũ Uy vương có tin không? Bị khám phá bí mật, Thanh Nga xấu hổ: – Em không chắc cho lắm. – Nhất định tối mai Vũ Uy vương sẽ theo chim ưng dẫn đường tới đây. Trọn ngày hôm sau Ngột A Đa luôn ở cạnh Thanh Nga. Y dạy nàng cỡi ngựa. Nàng tập nói tiếng Mông cổ với y. Thấy y say mê nghe hát, nàng hát cho y nghe các điệu Quan họ, Ả Đào, Trống quân, Xẩm, Lý. Nàng nghĩ thầm: – Tại sao trong hàng ngũ Mông cổ lại có người tử tế như Ngột A Đa! Rõ ràng y say mình, dùng hết cái nhu nhã để chinh phục mình. Y không phải là phường tham dâm hiếu sắc. Bằng không, thì tấm hồng nhan của mình đã hoen ố, tan nát. Tuy trong tâm nàng đã có Dã Tượng, song trước cung cách của y nàng cũng cảm. Nhưng lời vương phi Ý Ninh lại vẳng bên tai: phải cứng bóng vía, bằng không thì sẽ bị biến thành món đồ chơi của bọn tham dâm. Sau khi thuật nàng nhìn Tạ Quốc Ninh: – Thầy có tin mừng! Mừng lắm lắm! – Mừng gì? Mừng con sắp làm phu nhân của Tham tri chính sự Mông cổ ấy à? – Không, của riêng thầy. Con hát cho thầy nghe này: “ Nhớ ai dạ những bồi hồi, Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm. Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai” Tạ hầu hỏi: – Con nói gì thầy không hiểu. – Lúc thầy rình ở khu bên trái, thì khu bên phải này Ngột A Đa nói truyện với cái ông mặc y phục Tống. Ông ta là người Việt. Ông thuộc trang động nào đó, mà động chủ đang muốn được Mông cổ phong cho làm An Nam Quốc vương. Còn ông ta, ông ta muốn làm Tể tướng. Trong câu truyện ông ta tiết lộ rằng Ngột Lương Hợp Thai bắt Tô lịch thất tiên gửi giam trong động của ông ta. Hiện Ngột Lương Hợp Thai đang sai người đem cống cho Hốt Tất Liệt để chạy tội bại binh ở Đại Việt. Nghe Thanh Nga nói, chân tay Tạ Quốc Ninh run lẩy bẩy. Hầu chắp tay vái lên trời: – Đa tạ Trời, Phật, nàng vẫn còn tại thế. Qua cơn xúc động, Tạ Quốc Ninh hỏi Thanh Nga: – Tại sao khi về, con lấy môi in lên chiếc khăn, rồi tặng cho Ngột A Đa? Thanh Nga cười hóm hỉnh: – Ngay lúc đầu gặp hắn, nhìn con mắt của hắn, con biết hắn say con rồi. Vì vậy con tỏ cử chỉ thân thiện, đốt lên ngọn lửa trong lòng hắn để hắn nhớ cái kỷ niệm bắt cóc con. Con thi hành bảo bối của Tây Viễn vương, làm cho y say mê con, tương lai con có thể sai y như con nai, con chó. Nàng liếc nhìn Dã Tượng rồi nghĩ thầm: – Tạ hầu đâu có hiểu lòng ta? Ta nguyện trọn đời ta, ta chỉ yêu thương có cái anh voi đồng quê kia mà thôi. Vương phi bẹo má Thanh Nga: – Em đã thành công, nhưng phải cứng bóng vía, không nên đùa với ái tình. Đùa với ái tình có hai điều nguy hại. Thứ nhất em dễ bị lưới tình làm hỏng đại sự. Em mà đùa nữa, thì chính em vướng vào lưới tình rồi gỡ không nổi đâu. Em phải tỉnh táo mới bắt được con nai này. Thứ nhì nếu lòng dạ em sắt đá quá, Ngột A Đa say mê em, y sẽ dùng tất cả quyền hành, võ công, mưu trí đọat em cho bằng được, cái tai hại của sứ đoàn không tránh được. Em phải luôn cho y nụ cười, khóe mắt. Vương phất tay: – Thôi khuya rồi. Đi ngủ thôi. Mọi người về lều riêng. Vương hỏi vương phi: – Em thấy Ngột A Đa là người thế nào? – Y là con của Tây Viễn vương. Anh với y đã nhận được nhau. Ta cần gặp riêng y để định kế sách. Vương hỏi phi: – Em nghĩ sao về vụ xuất hiện của A Lan Đáp Nhi với A Ngột Đa? – Anh em Mông Ca, Hốt Tất Liệt đang có sự chia rẽ. – Em thử kiến giải xem có giống anh không? – Này nhé, Hốt Tất Liệt đang thắng như trẻ tre, lại là em ruột Mông Ca, thế mà Mông Ca sai A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình với Ngột A Đa đi điều tra, thì rõ ràng là y muốn hạ bệ Hốt Tất Liệt rồi. – Hay! Đúng ý anh. – Xưa nay một thân vương có tài hơn nhà vua thì thế nào y cũng nghĩ tới đoạt ngôi. Dù y không có manh tâm thì bọn cận thần cũng dèm pha cho nhà vua giết thân vương đó đi để tránh hậu họa. – Đúng! – Lại nữa khi một bầy tôi cầm đại quân đang thắng như chẻ tre, ắt bọn cận thần sẽ dèm pha. Nếu nhà vua tin, thì sẽ giết bầy tôi có công, hoặc ít ra cũng nghi ngờ. Đời Hán, công lao, uy tín Hàn Tín vượt quá Hán Cao tổ mà bị giết cả ba họ. Thời Đông Hán, Nghiêm Tử Lăng cầm quân nghiêng nước, uy quán sơn hà mà bị vua Quang Vũ bắt giam. Ngay thời gian gần đây, tổ của chúng ta là Trần Thủ Huy, tài trí vượt xa Thái tử Long Xưởng, lại cầm đại quân, nên bị Long Xưởng hạ bệ. Đại phàm vua nghi ngờ thì bầy tôi chỉ có hai con đường, một là bầy tôi phản vua, hai là bầy tôi bị vua giết. Hốt Tất Liệt là người em tài trí vượt xa anh, đó là một đầu mối khiến Mông Ca nghi ngờ. Hốt Tất Liệt đang cầm đại quân, quyền nghiêng thiên hạ, đó là hai đầu mối khiến Mông Ca nghi ngờ. Hiện binh lực đang nằm trong tay Hốt Tất Liệt, Mông Ca không thể giải trừ binh quyền của em. Y phải kiếm cớ. Vì vậy y mới sai bầy tôi đi điều tra. A Lan Đáp Nhi sẽ tìm cái xương trong qủa trứng gà, chẻ sợi tóc làm tư, tạo ra tội Hốt Tất Liệt. Binh tướng dưới quyền Hốt Tất Liệt đâu có thể ngồi yên nhìn chúa tướng bị hại? Chúa tướng bị hại, họ cũng khó bảo toàn tính mạng. Họ sẽ xui Hốt Tất Liệt phản Mông Ca. – Hay! Mông cổ sắp có nội chiến đến nơi rồi. Ta cố tìm cách xen vào cho họ chém giết nhau thực kinh khủng. Như vậy, sau trận chiến dù phe nào thắng thì tinh lực cũng kiệt quệ. Đại Việt ta nhờ vậy mới được yên. Vừa lúc đó Dã Tượng cầm con dao vào trình với vương: – Có người tới ngoài trại, trao cho cháu con dao này, nói rằng y muốn yết kiến chú. Phi nhìn chồng: – Ngột A Đa đấy. Chúng ta phải đối xử với y ra sao? Xưng hô thế nào? Nếu theo đúng vai vế trong họ thì mình phải gọi y bằng chú. Còn theo tuổi thì y ngang với anh. – Điều này trong tộc Đông A đã định rồi. Nếu trong vòng bốn đời thì xưng hô theo vai vế. Còn trên bốn đời thì theo tuổi. Vậy ta cứ coi như ngang hàng với y. – Còn đối xử? Vì y hiện giữ chức Tham tri chính sự của Mông Ca. Liệu y có còn nhớ đến cố quốc nhỏ bé không? Hay y thiết tha với chức quan lớn của một đại quốc? Vương hỏi phi: – Em định sao? – Mình cứ đưa đẩy câu truyện, rồi sẽ tính. Qua lời Thanh Nga, thì y say mê con bé nhà mình. Y làm tới Tham tri chính sự, không thiếu gì những mỹ nhân xinh đẹp người Hán, người Kim, người Mông. Thế nhưng gặp Thanh Nga y say mê đến điên đảo thần hồn. Còn cái con Thanh Nga nhà mình cũng không vừa, nó đã quyết gửi thân cho Dã Tượng, nhưng nhớ lời Tây Viễn vương, nó quyết bắt A Đa, để làm lợi cho mình. Nóù đốt lên ngọn lửa lòng với A Đa. Em nghĩ: Y yêu Thanh Nga vì tiếng hát, vì cái duyên của cô gái Việt. Để em cho cả năm con bé Đông hoa xuất hiện bắt hồn y luôn, thì tự nhiên con người thực của y sẽ hiện ra. Nếu y thực lòng hướng về cố quốc, y say mê con bé nào, ta gả cho y. – Ý kiến em thực sâu sắc. Kể ra y là con của Tây Viễn vương, thì bất cứ con bé nào của mình làm vợ y cũng đáng hãnh diện. – Anh tiếp y, để em ra ngoài sắp xếp bọn Đông hoa. Em sẽ mời thầy Tạ Quốc Ninh ngồi sau lều theo dõi câu truyện, thầy sẽ giúp ta ý kiến. Vương truyền lệnh cho Dã Tượng: – Dẫn người ấy vào đây. Ngột A Đa vào lều. Lễ nghi tất. Vương bảo Dã Tượng: – Con dùng Ngao binh canh phòng quanh lều của chú. Bất cứ ai cũng không cho vào. Vương lấy con dao của Trần Tử An ra trao cho Ngột A Đa: – Báo cho A Đa biết, phụ thân của anh khi về Đại Việt lập công lớn, được Nguyên Phong hoàng đế phong tước Tây Viễn vương, lĩnh Phiêu kị đại tướng quân. Trước khi tôi lên đường người cho tôi con dao này để làm tín vật khi gặp huynh. Huynh có tin tôi không? – Dĩ nhiên tôi tin anh thì tôi mới tới đây. – Tôi muốn hỏi anh tin tức… – Của Thanh Nga? – Vâng! – Thanh Nga nói với tôi rằng anh là bố cô ấy? Tôi nghĩ các thiếu nữ đều lí lắc, chứ bà vợ anh tuổi cao nhất thì hai mươi là cùng, làm sao có thể có con lớn như Thanh Nga. – Đúng vậy! Thanh Nga là em kết nghĩa của tôi. Thình lình tiếng Tạ Quốc Ninh dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai hầu: “ Qua vài câu nói, thần nhận thấy con người A Đa ít nhất là một đấng trượng phu đa tình. Y yêu thương Thanh Nga thực tình. Như vậy có thể tin y được. Suốt trong lịch sử chiến cuộc giữa các nước với Mông cổ, chưa từng có việc dụng mỹ nhân kế. A Đa không biết mà đề phòng đâu. Xin vương gia cũng tỏ ra thực thà, thuật lại cuộc gặp gỡ giữa vương gia với Thanh Nga cho A Đa nghe”. Vũ Uy vương khoan thai thuật lại kỷ niệm gặp Thanh Nga tại quán văn Thiên Thư cho A Đa nghe. Đến đó vương phi vào: – Anh em nói truyện mãi! Bây giờ khuya rồi, chúng ta cùng đói. Hãy ăn đã. Cửa lều vén lên. Thúy Trang bưng chiếc khay có hai đĩa, một đĩa đựng mươi xâu bún chả Thăng long bốc lên thơm nực, một đựng đĩa rau muống chẻ cong queo với kinh giới. Thúy Nga bưng khay đựng bát, đũa, muỗm, muôi, nước chấm. Hồng Nga bưng khay có nậm rượu với mấy cái chén. Thúy Hồng bưng một liễn lớn đựng riêu cua. Nhanh nhẹn, bốn nàng bầy ra bàn, cùng nhìn A Đa liếc mắt nghiêng mình chào. A Đa gặp Thanh Nga, sắc đẹp thiếu nữõ dậy thì như hoa nở khiến y ngây ngất, nàng lại hát cho y nghe, y đã bị hấp mất hồn, rồi lúc về nàng còn in môi lên chiếc khăn tặng. Từ lúc ấy y cảm thấy như người say rượu. Bây giờ trước mặt y lại xuất hiện bốn thiếu nữ tuyệt sắc, đang độ nở hoa như Thanh Nga. Y ngây người ra nhìn. Vương phi đưa mắt cho Thúy Trang, Thúy Hồng: – Các em mời ngài Tham tri đi chứ, Thúy Trang dùng đũa gỡ thịt ra khỏi que xiên, gắp rau muống chẻ vào một cái bát, múc nước mắm chấm đổ lên trên rồi nghiêng mình để trước mặt A Đa. Tấm thân nàng uốn lượn, chạm vào người y. Hương thơm trinh nữ làm y ngây ngất. Thúy Hồng rót một chén rượu, bưng lên, nàng cất tiếng hát: Rượu thơm, thơm cả tay tiên, Chén quỳnh xin cạn, làm duyên hẹn hò. Cả bốn nàng cùng lui lại, Thúy Hồng kéo nhị, Thúy Trang thổi sáo, Thúy Nga gõ trống mảnh, Hồng Nga vỗ trống cơm. Bốn nàng thay nhau hát những bài tình ca dân gian. Ngột A Đa từng nghe các ca nhi Tây vực, Mông cổ, Trung nguyên tấu nhạc, ca hát. Nhưng lời ca cũng như nhạc cụ không làm y cảm động bằng hôm nay, vì bốn nàng mặc y phục Việt, ca bằng tiếng Việt, làm hồn phách A Đa phiêu phiêu như đi trên mây. Y muốn hỏi Thanh Nga đâu, mà ngượng ngùng không dám mở miệng. Bữa ăn vừa tàn, bốn nàng dọn bát đũa đi. Vương phi ho lên một tiếng, Thanh Nga bước vào. Phi nháy mắt cho Thanh Nga. Nàng cầm nậm rót hết rượu ra một cái chén lớn, đến trước mặt A Đa, một tay bưng chén, một tay vén tay áo, nàng nghiêng mình trao cho y. Nàng cất tiếng hát: Tay tiên rót chén rượu đào, Đổ đi thì tiếc, uống vào thì say. A Đa ngây ngất, một tay đỡ chén rượu, một tay cầm lấy tay Thanh Nga. Thanh Nga để cho A Đa cầm tay, nàng mỉm cười, đầu nghiêng nghiêng, rồi từ từ gỡ tay y ra. Vương phi thấy như vậy cũng đủ bắt hồn phách Ngột A Đa rồi, phi đưa mắt, năm nàng chào A Đa, liếc mắt đưa tình, chân lướt trên đất rời lều. Vũ Uy vương nắm tay Ngột A Đa: – Nào bây giờ chúng ta bàn quốc sự. Này huynh, triều đình Đại Việt đang muốn biết rõ tình hình Mông cổ ra sao. Huynh có thể cho tôi nghe được không? – Được chứ! Tôi tìm đến đây cũng chỉ vì muốn cung cấp đầy đủ tin tức cho Đại Việt mà thôi, rồi chúng ta định kế sách sao cho Đại Việt tránh khỏi tai ách chiến tranh. Ngột A Đa trình bầy: Năm Tân Hợi (1251), bên Đại Việt là niên hiệu Nguyên Phong nguyên niên đời vua Trần Thái tông, Mông cổ tổ chức đại hội các Hãn, bầu Mông Ca, con trưởng của Đà Lôi lên làm Đại hãn. Sau khi lên ngôi, Mông Ca thi hành di chiếu của Thành Cát Tư Hãn phải diệt cho bằng được nước lớn nhất thiên hạ là Tống. Lãnh thổ phía Đông Nam đối với Mông cổ là Liêu, Kim, Cao ly, Hoa Bắc, cả vùng rộng lớn này bị Mông cổ chiếm từ thời Thành Cát Tư Hãn. Chính Thành Cát Tư Hãn để di chiếu cho Hốt Tất Liệt làm vua vùng này. Từ nhỏ Hốt Tất Liệt đã từ chối học văn hóa, văn tự các nước vùng Tây vực, mà thiết tha học chữ Hán. Khi đến 13 tuổi, được phong tước thân vương, Hốt Tất Liệt chủ trương dùng Hán pháp. Hán pháp để chỉ dùng phương sách cai trị, luật pháp, văn minh của Hoa hạ. Các quan trong vương phủ của Hốt Tất Liệt toàn là những nho sĩ tài ba. Khắp lãnh thổ của Hốt Tất Liệt phồn thịnh, dân chúng yên vui, binh lực hùng mạnh. Dân chúng, sĩ phu cảm thấy cuộc sống an ninh, hạnh phúc hơn dưới quyền cai trị của Tống. Hoa Bắc, Liêu, Kim như một lãnh thổ Hán, chứ không phải bị rợ Thát đát cai trị. Vì vậy Mông Ca sai Hốt Tất Liệt lĩnh đại binh đánh Tống. Hốt Tất Liệt chia binh làm hai mũi (1252, bên Đại Việt là Nguyên Phong nguyên thứ nhì đời vua Trần Thái tông) – Mũi chính trực diện dánh từ Bắc xuống Nam qua sông Trường giang. Mũi này quân sĩ là quân hỗn hợp người Hán, Mông. – Mũi thứ nhì chính Hốt Tất Liệt đánh vòng qua phía Tây, rồi tiến về phía Đông, đánh bọc hậu Tống. Hốt Tất Liệt định rõ sách lược: muốn đánh bọc phía Nam của Tống gồm Tứ xuyên, Quý châu, Quảng Tây thì phải bắt đầu từ Cam túc, tiến đánh Tây tạng. Tuy đường xá vất vả, nhưng đạo binh này thành công dễ dàng. Từ Tây tạng Hốt Tất Liệt biết rằng phải tiến đánh Đại lý, Đại Việt, sau đó dùng tù hàng binh, lương thảo hai nước nhỏ, chĩa mũi dùi đánh vào Tứ xuyên, Quảng Tây, nằm ở phía Nam của Tống. Trước hết đánh Đại lý. Đại lý là một nước được thành lập đã trên nghìn năm, lãnh thổ gồm Vân Nam và một phần Tứ xuyên, Quảng Đông ngày nay. Nhờ tài nguyên phong phú, địa thế phía Tây, Nam biệt lập với Tây tạng, Đại Việt bằng những dẫy núi hiểm trở. Lại được con sông Kim sa giang ngăn cách với Tống, vì vậy họ không chịu tổ chức binh bị đề phòng. Hốt Tất Liệt chia binh làm ba mũi: – Mũi thứ nhất đánh từ phía Đông, do Sao Hợp làm chánh tướng, phó tướng là Giả Chỉ Liệt. – Mũi thứ nhì đánh từ phía Tây do Ngột Lương Hợp Thai, Hoài Đô, A Truật, A Tan.