🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh hùng Đông A, Dựng cờ bình Mông - Tập 4 Ebooks Nhóm Zalo Q U Y Ể N IV Hồi thứ ba mươi mốt Sứ giả nhà trời. Thiết Mộc Chân đưa mắt cho Bác Nhĩ Truật. Bác Nhĩ Truật nắm lấy tay Thủ-Huy : – Không nói dấu gì phò mã. Khi chúng tôi đón được Tuyên-uy đại tướng quân Lý Long-Phi sang Mông-cổ, tuy chúng tôi khâm phục người, mà chỉ khâm phục về võ công, nên chúng tôi xin người dạy võ cho tướng sĩ, mà không nhờ người luyện quân. Phải đợi cho đến khi đi sứ Đại-Việt, tôi được phò mã cho xem hai hiệu Thiên-tử binh Ngự-long, Quảng-vũ thao diễn, lại được xem hiệu Kỵ-binh Phù-đổng tập trận. Tôi như người mù được mở mắt. Trở về Mông-cổ, tôi thuật cho Đại-hãn nghe. Bấy giờ Đại-hãn mới nhờ Long-Phi luyện quân cho. Mông-cổ hùng mạnh từ ngày ấy. Thiết Mộc Chân trịnh trọng cắt một miếng thịt nướng, bưng một bát rượu trao cho Thủ-Huy để bầy tỏ một cử chỉ kính trọng. Chờ Thủ-Huy ăn thịt, uống rượu xong, ông mới nói : – Tôi được biết mười hai hiệu Thiên-tử binh, hiệu Kỵ- binh Phù-đổng, hiệu Ngưu-binh Hoa-lư, đội võ sĩ Long-biên, Côi-sơn, đều do một tay phò mã đào tạo ra. Khi nghe Bác Nhĩ Truật ca tụng hiệu binh Phù-đổng, tôi tuy khâm phục, nhưng vẫn có ý coi thường. Cho đến mấy hôm nay, được thấy đội võ sĩ Long-biên xuất chiến, tôi mới tự thẹn rằng Kị- binh của mình chỉ là một bầy cừu trước bầy sư tử. Bây giờ… Ông nói chậm lại : – Nếu như phò mã giúp chúng tôi, huấn luyện được khoảng vài chục đội kị mã như đội Long-biên, thì những cái gọi là Đại-kim quốc hùng mạnh, Nãi-man sấm sét, Tây-hạ vô địch, Đại-vương quốc Khắc liệt… kia tôi có coi ra gì. Thấy Thiết Mộc Chân hết sức cầu khẩn, Thủ-Huy đáp bằng lời lẽ thành thực : – Hiện tôi không thể trở về Đại-Việt, trượng phu bốn bể là nhà, Đại-hãn đã đem lòng của kẻ sĩ ủy thác, thì tôi nhận lời. Tuy nhiên tôi xin thưa trước, muốn huấn luyện xong hai mươi đội, phải cần thời gian là bốn tháng. – Chỉ bốn tháng thôi sao ? Trước tôi nghe nói, phò mã phải huấn luyện trong 18 tháng mơiù xong kia mà ? – Trước kia tôi cần 18 tháng, vì những người được tuyển chưa từng biết cỡi ngựa, chưa từng biết bắn cung, cũng chưa từng sử dụng vũ khí. Lại nữa, về ngươì huấn luyện, bấy giờ ngoài tôi ra, chỉ có năm vị sư thúc của tôi là Đại-Việt ngũ tuyệt mà thôi. Còn bây giờ binh sĩ của Đại-hãn đã thành đội ngũ, phối hợp tác chiến thành thạo. Họ là những kị mã, tiễn thủ đại tài rồi. Trong khi đó, tôi có tới ba chục trưởng toán võ sĩ Long-biên, ba đội trưởng cùng huấn luyện thì mau lắm. Thiết Mộc Chân suy nghĩ một lúc rồi hỏi các tướng : – Từ trước đến giờ, tổ chức các đội quân của vùng thảo nguyên này thường không giống nhau. Nguyên do chỉ vì mỗi tộc có quân số không đồng đều, mỗi tộc trưởng có một sáng kiến riêng. Từ sau khi Lý Long-Phi cùng phu nhân giúp chúng ta, thì người tổ chức các đội quân theo Đại-Việt. Năm người thành một ngũ, năm ngũ thành một lượng, năm lượng thành một đội. Mỗi đội là một đơn vị độc lập. Bây giờ tôi thấy các võ sĩ Long-biên lại tổ chức hơi khác. Mười người là một thập (10), mười thập là một bách (100). Năm bách thành một đoàn (500). Vậy chúng ta nên giữ nguyên tổ chức cũ hay theo đoàn Long-biên ? Bác Nhĩ Truật từng sang Đại-Việt, từng xem Thủ-Huy thao diễn cho xem. Ông trình bầy : – Binh đội Đại-Việt chia ra làm Thiên-tử binh, Thủy-binh, Kỵ-binh, Ngưu-binh với hai đội võ sĩ Long biên, Côi-sơn. Sáu loại binh đoàn, đều có tổ chức khác nhau. Lối tổ chức mà tiên-sinh Long-Phi luyện cho ta là theo Thiên-tử binh. Còn tổ chức đội võ sĩ Long-biên, Côi-sơn thì là một sáng kiến của huynh trưởng Trần phò mã là Thần-nông sứ Trần Lý. Mục đích của hai đội võ sĩ này không phải để tác chiến, mà để chọc thủng phòng tuyến địch bắt chúa tướng địch và bảo vệ chúa tướng mình khi đối diện với địch quân. Tốc Bất Đài khen : – Tôi thấy lối tổ chức của đội Long-biên hợp với chiến trường vùng thảo nguyên. Vậy ta nên cải tổ toàn bộ các binh đội của ta theo đội Long-biên thì hơn. Nhưng nay, vì chiến trường cần tới đội quân độc lập lớn hơn, ta chia ra thập, bách và thiên. Với một đơn vị biệt lập nghìn người mới có thể thi hành những nhiệm vụ lớn. Thiết Mộc Chân đưa mắt nhìn Thủ-Huy với tất cả khẩn cầu : – Phò mã ! Trời đã đem tiên sinh Long-Phi cho Mông-cổ. Bây giờ trời lại đem phò mã cho Mông-cổ nữa. Trước kia chúng tôi chỉ có những đội quân ô hợp. Sau khi tiên sinh Long-Phi giúp chúng tôi huấn luyện binh đội, thì chúng tôi có hai loại binh. Loại ô hợp cũ gọi là binh đội bộ tộc. Loại có tổ chức huấn luyện, gọi là chính binh. Bây giờ phò mã giúp chúng tôi luyện quân theo đội Long-biên, thành ra chúng tôi có ba loại binh là binh bộ tộc, chính binh, và loại mới. Cái loại binh mới nên đặt tên là Lôi-kị. Không biết phò mã nghĩ sao ? – Lời Đại-hãn luận thực phải. Có điều đây chỉ là tạm thời. Tương lai, Đại-hãn phải huấn luyện lại tất cả các binh chủ lực thành Lôi-kị hết. Lại cũng phải luyện binh bộ tộc theo lối luyện Hoàng-nam của Đại-Việt. Thế rồi Thiết Mộc Chân rút quân về vùng núi non miền Đông, giáp giới với Kim. Ông truyền binh tướng Mông-cổ gọi Thủ-Huy, Đoan-Nghi, Tử-Kim là Thiên-sứ, tức khách trời ban cho Mông-cổ. Đích thân ông cùng các tướng điều động việc huấn luyện, trang bị cho kỵ binh. Thủ-Huy trao việc huấn luyện bắn cung, phi ngựa, tác chiến cho các trưởng toán, đội trưởng. Còn chính mình, Đoan-Nghi, Thúy-Thúy, Tử-Kim luyện võ cho họ. Sau hơn ba tháng thì việc huấn luyện cá nhân hoàn tất. Công bắt đầu cho huấn luyện tác chiến, phối hợp tác chiến cấp thập-phu (10 người), bách-phu (trăm), thiên-phu (nghìn). Một tháng sau qua đi, công việc hoàn tất. Mông-cổ đã có một lực lượng chín Thiên-phu phối hợp tác chiến nhịp nhàng, không thua đội võ sĩ Long-biên làm bao. Bên cạnh đó, có chín Thiên-phu nữa đang trong vòng thụ huấn phối hợp tác chiến. Cuối cùng là việc cử tướng chỉ huy các Thiên-phu, khiến cho Thiết Mộc Chân phân vân ! Ai sẽ là Thiên-phu trưởng ? Bởi cử người này, thì người khác không hài lòng. Cuối cùng ông nhờ Thủ-Huy. Thủ-Huy căn cứ vào phép tuyển tướng thời vua Trưng, thời vua Lý Thánh-tông, Nhân-tông, trình bầy cho ông. Sau khi ông bàn với Thủ-Huy ba ngày liền, rồi quyết định . Chính Thiết Mộc Chân với Thủ Huy tổng chỉ huy chín đại tướng. Mỗi đại tướng chỉ huy một Thiên-phu : Bác Nhĩ Truật chỉ huy đệ nhất Thiên. Tốc Bất Đài chỉ huy đệ nhị Thiên. Mộc Hoa Lê chỉ huy đệ tam Thiên. Xích Lão Ôn chỉ huy đệ tứ Thiên. Gia Luật Mễ chỉ huy đệ ngũ Thiên. Triết Biệt chỉ huy đệ lục Thiên. Bác Nhĩ Hốt chỉ huy đệ thất Thiên. Dược Sơ Đài chỉ huy đệ bát Thiên. Bác Khô La chỉ huy đệ cửu Thiên. Thiết Mộc Chân gọi chín đại tướng là Cửu đại sơn điêu. Ông truyền lấy quốc kỳ mầu anh. Trên quốc kỳ, ông truyền vẽ hình con chim ưng bay ngang mặt trời, tượng trưng cho cái tên Thiên hỏa điêu đế của ông. Phía dưới quốc kỳ móc chín cái đuôi trâu, tượng trưng cho Cửu đại sơn điêu. Còn chín Thiên-phu đang thụ huấn, khi tác chiến sẽ là lưc lượng trừ bị với mục đích khi Thiên-phu chính bị tổn thất, thì sẽ dùng người của chín Thiên-phu trừ bị bổ xung. Chín Thiên-phu này trao cho Trần Tử-Kim chỉ huy gọi là Thân-binh. Chín người được cử chỉ huy gồm Lý Long-Tùng ; ba em của Thiết Mộc Chân là Biên Gô Đài, Cát Xa, Tê Mô Gu ; bốn người con là Truật Xích, Oa Khoát Đài, Sát Hợp Đài, Đà Lôi ; con rể là Đô Gu Sa.(1) Trong thời gian ấy, Thiết Mộc Chân sai mật sứ đi liên lạc với các tộc trưởng trung thành, thuyết phục các tộc trưởng bị Khắc-liệt đàn áp. Tin tức tế tác báo : Tang Côn cho rằng việc bình định Mông-cổ đã xong, y trở mặt với Tống. Y sai sứ sang Kim, xin Kim cùng ra quân tiến váo các bộ tộc miền Đông để tận diệt Mông-cổ. Lập tức Thiết Mộc Chân sai sứ sang Kim cáo việc Tống giúp Khắc-liệt đánh Mông-cổ. Khi Mông-cổ không còn nữa, thì Khắc-liệt sẽ liên binh với Tống đánh Kim. Trước Kim đã được tin này, nhưng cho rằng chưa chính xác. Bây giờ trước những tin tức xác thực, Kim chúa nổi giận. Một mặt ừ hự hứa cùng ra quân với Khắc-liệt, một mặt ngầm giúp Mông-cổ. Tang Côn tưởng Kim sẽ ra quân, y cho các tộc trưởng đem quân về. Y chỉ giữ lại năm vạn quân cơ hữu đóng rải rác làm năm doanh, chờ Kim cùng xuất quân. Quân Khắc-liệt phải đóng ở vùng xa đất của mình gần hai nghìn dặm (1000 Km), tiếp tế khó khăn, chúng tràn vào các bộ tộc gần nơi đóng quân cướp bóc. Các tộc trưởng phẫn uất, nhưng phải cắn răng nín nhịn. Họ âm thầm cử sứ giả đến xin Thiết Mộc Chân xuất binh. Thiết Mộc Chân bèn tổ chức đại hội các Hãn, Khả-hãn, tộc trưởng, tướng lĩnh để nghị việc xuất quân. Ông lên tiếng trước : – Bây giờ sắp vào Thu rồi. Nếu ta không phục hồi lại lãnh thổ, mùa Đông đến, dân chúng, binh tướng phải sống lang thang, thì e rằng không chịu nổi cái lạnh kinh khủng. Vậy anh em nghĩ sao ? Tổng Đạo-sư Cốc Chu cau mặt lại tỏ vẻ bất mãn. Vì thông thường những buổi họp như thế này, bao giờ y cũng là người lên tiếng trước. Thế mà bây giờ Thiết Mộc Chân lại dành mất cái danh dự đó. Lão Muôn Lịch (ghi chú, ông này là bạn của thân phụ Thiết Mộc Chân, cũng là bố ghẻ của Thiết Mộc Chân), bàn : – Hiện ta mới tổ chức được 18 Thiên-phu Lôi-kỵ. Quân số một vạn tám nghìn của ta tuy hùng mạnh, liệu ta có thể địch lại mười vạn quân của Tang Côn, với mười vạn của các bộ tộc quy phục y không ? Gia Luật Mễ bác ý kiến Muôn Lịch : – Bàn về quân số thì lúc khởi đánh ta, Khắc-liệt có mười vạn quân. Khi ta rút chạy, y thu thập quân của các bộ tộc theo ta đầu hàng thêm mười vạn nữa. Nhưng sau khi ta rút chạy thì y đã đem năm vạn chính binh về trấn ở đất của ta, vì sợ dân nổi dậy. Còn mười vạn quân của các bộ tộc, thì y mang năm vạn trở về, rải ra một vùng dài trên ba nghìn dặm, rộng trên hai nghìn dặm. Rút lại, ngay trước mặt ta, y chỉ có năm vạn chính binh do Tang Côn chỉ huy, năm vạn quân bộ tộc ô hợp do Trác Mộc Hợp chỉ huy, cách ta tám trăm dặm. Nếu ta tung quân đánh Tang Côn, thì chỉ phải đối phó với năm vạn chính binh mà thôi này mà thôi. Tổng Đạo-sư Mông-cổ là Cốc-Chu, con của Muôn-Lịch lên tiếng : – Như Gia Luật Mễ nói, ngay trước mặt ta có năm vạn quân tinh nhuệ của Tang Côn. Trong khi ta chỉ có lực lượng một vạn tám nghìn. Nếu ta xuất quân, thì vừa dàn trận đã bị bị năm vạn của Tang Côn tiêu diệt rồi. Ta không thể xuất quân trong lúc này. Bần đạo đã hỏi nhà trời, Thượng-đế mặt trời truyền rằng Hãy im lặng chờ đợi. Khi chưa tới Mông-cổ, Thủ-Huy Đoan-Nghi đã được Long-Tùng, Đoan-Thanh cho biết : Ở Đại-Việt, Phật-giáo là quốc giáo. Quốc-sư nhận sắc phong của Hoàng-đế, được tôn kính cực kỳ. Quốc-sư là những vị thông kim bác cổ, võ công tuyệt thế. Nhưng Quốc-sư ít khi can thiệp vào việc triều chính. Tăng chúng trong nước cũng không phải phục tùng Quốc-sư. Quốc-sư luôn là người đạo cao đức trọng, chỉ chú ý đến việc giáo hóa dân chúng. Hầu hết các Quốc-sư đều ngày đêm lo bảo vệ đất nước, trấn Bắc, bình Nam. Ngược lại, tại vùng thảo nguyên, vốn không có văn tự. Kiến thức về thần linh của họ rất nông cạn. Một số người học văn tự Thổ-phồn, Trung-quốc, đọc mấy sách ma trâu, đầu rắn của các nước này, rồi trở thành Đạo-sư. Hiện nay, mỗi bộ tộc có một Đạo-sư. Mỗi nước có một Tổng Đạo-sư. Đạo-sư là người đầy uy quyền, chỉ thua có Khả-hãn, Hãn, tộc trưởng trong một số lãnh vực mà thôi. Đạo-sư chủ tọa tất cả các cuộc hội họp quý tộc, quân sự, kể cả các cuộc xử án. Trong các buổi họp đó, bao giờ đạo sư cũng lên tiếng trước, rồi các nhà quý tộc, tướng lĩnh mới dám bàn luận. Đạo-sư không phải tuân thủ bất cứ luật lệ nào, không uy quyền nào có thể bắt Đạo-sư phải khuất phục. Ngược lại đạo sư có quyền thay đổi, đặt ra luật lệ. Tổng Đạo-sư Mông-cổ Cốc Chu là người có uy quyền ngang với Khả-hãn Thiết Mộc Chân. Y còn rất trẻ, là con trai của Muôn-Lịch. Y có tám anh em, đều có võ công thâm hậu. Trong tám người thì hết bốn người làm Tổng Đạo-sư. Trên hết y làm Tổng Đạo-sư của toàn lãnh thổ Mông-cổ, coi như là giáo chủ. Dưới quyền y, em kế tên Thát Minh làm Tổng Đạo-sư của Thát-đát ; Miệt Hác làm Tổng Đạo-sư của Miệt-nhi ; Ngột Thai làm Tổng Đạo-sư của Diệt-xích-ngột. Trong lãnh thổ thuộc quyền, các em y thống lĩnh các Đạo-sư của những bộ tộc trong vùng. Các Đạo-sư đều có một đoàn tùy tùng trang bị như chính binh. Bọn này coi như một thứ quân nhà trời. Khi Đạo-sư kết tội ai, thì sai chúng đi bắt về xử. Nếu tội nhân bị xử tử hình, thì cũng chính bọn này làm đao phủ. Ba vùng Thát-đát, Miệt-nhi, Diệt-xích-ngột là ba nước lớn nhất bị Mông-cổ thu tóm.. Vì vậy, thế lực của gia đình Cốc Chu ngày càng thịnh. Thịnh đến độ, anh em y lấn át cả các em, các con Thiết Mộc Chân. Cả tám anh em y đều là những cao thủ bậc nhất Mông-cổ. Không biết anh em y học võ với ai, thuộc môn phái nào. Có người thắc mắc về nguồn gốc võ công của anh em y, thì y nói rằng : Chúng ta học võ ở trên trời. Vì làm Tổng Đạo-sư, địa vị cực tôn quý, nên không ai dám đấu với anh em y. Họ chỉ thấy y hiển lộ võ công trong trận đánh với Diệt-xích-ngột. Trong trận này, một mình một ngựa, y xông vào trận địch trên vạn quân, chém tướng rồi ra khỏi vòng vây dễ dàng. Y có thể ngồi trên tuyết luyện công hằng tháng mà không thấy lạnh. Mỗi người trong anh em y thu dụng một trăm đệ tử, đó là những tiểu đạo sư. Các tiểu đạo sư đều có võ công khá cao. Là cha của bốn Tổng Đạo-sư, Muôn Lịch cùng các con mình lấn dần sang quyền hành của các Đại hãn. Chúng muốn nắm quyền cai trị luôn các nước mà chúng làm Tổng Đạo-sư. Vì vậy trong khi Thiết Mộc Chân chinh phạt các nước Miệt-nhi, Ong-gút, Thát-đát, Diệt-xích-ngột sát nhập vào Mông cổ thành một nước lớn ; thì Muôn Lịch lại muốn Mông-cổ chỉ là một nước hùng mạnh, giữ nguyên các nước nhỏ, các nước nhỏ phải quy phục mà thôi. Y muốn Thiết Mộc Chân cho các con y làm Khả-hãn các tiểu quốc, rồi dần dần sẽ đi đến chỉ các đạo sư mới được làm tộc trưởng, Hãn, Khả-hãn, Đại-hãn. Mưu đồ của y, Thiết Mộc Chân biết hết, ngặt vì thế lực cha con Muôn Lịch quá mạnh, khiến ông cứ phải im lặng. Nhưng các em, các con Thiết Mộc Chân thì ra mặt chống đối. Họ thường nêu tội trạng của gia đình cha con Muôn-Lịch ra để làm giảm uy thế của chúng. Tội nặng nhất họ thường nêu ra : Muôn Lịch là bạn thân của cha Thiết Mộc Chân. Khi Dã Tốc Cai hấp hối, ủy thác con côi cho y. Thế nhưng khi ông qua đời rồi thì y đem cả bộ tộc bỏ theo Thát-đát là kẻ thù của Mông-cổ. Trong thời gian ở với Thát đát, bốn con y được truyền chứcĐạo-sư, được học võ, thì cái danh Đạo-sư, cũng như võ công đó là của Thát-đát ban cho. Khi Thát-đát bị Thiết Mộc Chân diệt, ông không truy cứu tội trạng của y, mà lại thu nhận bộ tộc của y, cho y ngồi vào hàng quý tộc như vậy là không xứng đáng. Tuy vậy, các em, các con của Đại-hãn vẫn chưa dám lật đổ gia đình Muôn Lịch, vì bà U-Luân là vợ của y, hơn nữa trong các em, các con Đại-hãn không ai đủ võ công đánh lại các con của y. Cũng vì thế lực của Muôn Lịch mạnh, mà Thiết Mộc Chân gả mẹ mình là bà U-Luân cho y, khiến y trở thành người thân nhất với ông. Bây giờ giữa lúc chư tướng bàn xuất quân, thì Cốc-Chu lại nhân danh người nhà trời cản trở. Cái mục đích cản trở, Thủ-Huy đã nhìn rõ : Y biết rằng ra quân kỳ này, tất Mông-cổ thắng. Mà Mông-cổ thắng thì sẽ gồm thâu cả Khắc-liệt, bấy giờ Thiết Mộc Chân quyết không chịu để tình trạng lãnh thổ dưới quyền mình chia thành nhiều nước, dễ sinh nội loạn. Từ ngày Thủ-Huy, Đoan-Nghi tới Mông-cổ, thì cha con Muôn-Lịch giữ thái độ dè dặt, nhũn nhặn, tránh né tiếp xúc cũng như đụng chạm. Thủ-Huy nghĩ thầm : – Mình chỉ là khách du lịch Mông-cổ, nhân cảm tấm lòng Thiết Mộc Chân mà giúp ông, thì việc gì phải tranh dành với người ? Vì vậy công mỉm cười, mặc Cốc Chu với các tướng tranh luận. Tốc Bất Đài hùa theo Gia Luật Mễ : – Thưa Đạo-sư, tôi thì tôi nghĩ khác. Ta có một vạn tám ngàn người đây là những võ sĩ, là Lôi-kỵ chứ không phải binh sĩ bình thường. Ngoài ra, tổng số chính binh của ta còn hơn năm vạn. Chính binh của ta đã được Lý tiên sinh cùng phu nhân từ Đại-Việt sang huấn luyện, chỉ cần một thiên có thể thắng một vạn quân Khắc-liệt. Cạnh chính binh, ta còn năm vạn quân của các bộ tộc kia mà ? Vì vậy, tôi thấy rõ ta nên xuất quân ngay bây giờ. Bởi Tang Côn tưởng ta không ngóc đầu dậy được nữa nên y đã cho di chuyển vợ con tướng sĩ về sống chung. Nếu ta ra quân thình lình, thì binh tướng của y mải lo bảo vệ gia đình, ta có thể thắng dễ dàng. Thiết Mộc Chân hỏi Thủ-Huy : – Xin phò mã cho biết ý kiến. Thủ-Huy nghĩ thầm : Cái thế ta đứng ngoài không được nữa rồi. Đại-hãn đã hỏi, tức là đem mạng sống của cả nước Mông-cổ trao vào tay ta. Ta phải trả lời thực sự. Mà thức sự thì rõ ràng ta phải gạt cái tên Cốc Chu nàøy ra ngoài. Công đứng dậy nói : – Ta có ba thế tất thắng. Tang Côn có ba thế tất bại. Ta nên ra quân. Nếu ta ra quân lúc này, tất thắng. Các tướng vỗ tay hoan hô. Cốc Chu bực mình : – Ý kiến phò mã lại sáng suốt hơn Thượng-đế mặt trời ư ? Thủ-Huy chưa kịp trả lời Cốc Chu, thì nghe tiếng Thiết Mộc Chân dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai : – Phò-mã ! Tôi khẩn thiết xin phò mã làm cách nào giảm uy tín của anh em Cốc Chu. Chỉ cần sao uy tín anh em y xuống thấp, chứ đừng làm mất cái danh Tổng Đạo-sư của chúng. Tôi còn phải nhờ chúng nhân danh sứ giả nhà trời, thu phục nhân tâm. Nghe Thiết Mộc Chân nói, Thủ-Huy nhũn nhặn trả lời Cốc Chu : – Thưa Tổng Đạo-sư ! Điều tôi sắp bàn đây, mới là ý của Thượng-đế ! Cốc Chu quát lên : – Hôm qua tôi bay lên trời, nghe Thượng-đế phán : Hãy bảo Đại-hãn Thiết Mộc Chân án binh chờ đợi ! Nghe Cốc Chu nói, một số các Khả-hãn, Hãn, tộc trưởng cúi đầu xuống tỏ vẻ tôn phục. Thủ-Huy nghĩ thầm : – Cái tên ngu dốt này bịp bợm ai, ta cũng mặc kệ y. Nhưng y đem cái bịp bợm đó mà dọa ta, lấn át ta thì y chết. Nghĩ vậy công hỏi : – Thưa Tổng Đạo-sư, từ trước đến nay Tổng Đạo-sư vẫn khẳng định rằng Đại-hãn Thiết Mộc Chân là con của Thượng-đế Mặt-trời có đúng không ? – Dĩ nhiên là đúng. Thủ-Huy cười lớn : – Như vậy cái vụ mà Tổng Đạo-sư nói rằng, hôm qua Tổng Đạo-sư bay lên trời hỏi Thượng-đế là không đúng. Chắc Tổng Đạo-sư nằm mơ rồi tưởng là thực ! Cốc Chu vận nội lực quát : – Mi không được vô phép. Câm cái mồm lại. Thủ-Huy cười nhạt : – Này Tổng Đạo-sư ! Tôi là khách phương xa. Tôi tới đây do lời mời của Đại-hãn. Tôi không cần biết Tổng Đạo-sư. Tổng Đạo-sư không có quyền gì với tôi. Cốc Chu ra lệnh cho đệ tử : – Bắt trói nó cho ta ! Mười đệ tử của y rời chỗ ngồi, rút đao bao vây Thủ-Huy. Thoáng nhìn, Thủ-Huy giật mình đến thót một cái, vì từ chiêu thức cho tới thân pháp của chúng, đều là võ công Đông A. Thấy sư phụ bị kiềm chế, các Thiên-phu, Bách-phu do Thủ-Huy huấn luyện cùng rút vũ khí, định nhập cuộc bênh sư phụ, thì bóng hồng thấp thoáng, rồi những tiếng loảng xoảng phát ra, cùng ánh thép lấp lánh. Mười thanh đao bay đến trước mặt Cốc Chu, cắm thành một hàng ngay thẳng. Còn mười tiểu đạo sư, thì nằm dài dưới đất thành vòng tròn quanh Thủ-Huy, không biết còn sống hay chết. Mọi người nhìn lại, thì ra Thúy-Thúy đã ra tay. Miệt Hác tung người lên, y dùng một thức hổ trảo chụp Thúy-Thúy. Thúy-Thúy trầm người tránh khỏi, rồi trả lại bằng chiêu Hoa-sơn chưởng. Muôn ngàn lần Cốc Chu không thể tin rằng Thúy-Thúy dám chống lại một Tổng Đạo-sư như em mình. Miệt Hác phát chiêu đỡ chưởng của Thúy-Thúy. Bùng một tiếng cả hai lảo đảo bật lui, làm mọi người kinh ngạc không ít. Các tướng Mông-cổ kinh ngạc vì xưa nay họ tin rằng Miệt Hác là người nhà trời, phép tắc vô cùng, mà vừa rồi, đối chưởng với giai nhân tuyệt thế này, dường như chỉ ngang tay. Còn Thủ-Huy cũng ngạc nhiên vì Miệt Hác đã sử dụng võ công Đông A chính tông từ chiêu thức cho tới nội công. Chiêu vừa rồi chính là chiêu Phong-ba hợp bích. Thấy Thiết Mộc Chân không lên tiếng can gián, Thủ-Huy biết rằng ông muốn mình làm tới nữa để giảm uy tín của bọn Đạo-sư. Công cũng mặc cho Thúy-Thúy đấu với Miệt-Hác để dò xem y đã học võ công với ai ? Bản lĩnh võ công của y tới đâu ? Hai người đấu với nhau trên dưới trăm hiệp, thì Cốc Chu , chỉ tay vào mặt Thúy-Thúy nói với các tướng : – Các người thấy không ? Con nhỏ kia, dám chống lại với Thiên-sứ, thì chỉ lát nữa y thị sẽ bị hộc máu miệng ra mà chết ! Nghe y nói, Thủ-Huy nghĩ thầm : – Cứ như lời tên này nói thì dường như chúng được học cả Bức-mạch công của nhà mình, cho nên y mới đe dọa đánh Thúy-Thúy hộc máu ! Hà, bản lĩnh tên này không tầm thường, dường như ngang với Vỵ-xuyên ngũ tiên! Nghĩ vậy công dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Thúy-Thúy : – Thúy-Thúy ! Coi chừng Miệt-Hác dùng Bức-mạch chưởng. Vậy Thúy-Thúy hãy vận Cổ-loa tâm pháp đề phòng. Nhưng đừng sử dụng, chỉ đỡ thôi. Nếu thấy tôi can thiệp, bảo Thúy-Thúy ngừng tay, Thúy-Thúy vờ như không tuân lệnh cứ tiếp tục giao chiến ! Nghe Thủ-Huy nhắc, Thúy-Thúy tỉnh ngộ, vội vận Cổ-loa tâm pháp, thì cũng đúng lúc đó Miệt-Hác đánh ra chiêu Phong-hoa suy lạc. Y đã vận Bức-mạch chưởng. Bình một tiếng, cả hai cùng lảo đảo bật lui lại. Thủ-Huy lách mình một cái, công nắm lấy tay Thúy-Thúy ném nàng lên không : – Không nên dùng võ công trước mặt Đại-hãn ! Trong khi nói, công nhả mộït ít Hàn-băng nội lực vào tay nàng. Thúy-Thúy lộn người trên không hai vòng. Ở trên cao, lưng nàng uốn cong, y phục bay phất phới như tiên nga múa vũ khúc Nghê thường, đẹp không thể tưởng tượng được. Cao nhất là Thiết Mộc Chân, xuống tới bọn vệ sĩ hiện diện đều suýt xoa. Vừa rơi xuống đất, nàng phóng một chiêu Hoa-sơn chưởng vào người Miệt-Hác. Y lại phát chiêu đỡ. Bùng một tiếng, rồi nhảy lài lại cười lớn : – Con tiện tỳ kia,bao nhiêu mạch máu trong người mi vỡ hết rồi. Trong ta đếm bảy tiếng thì mi sẽ chết. Rồi y đếm : – Một. Thúy-Thúy cười lớn : – Chú bé bịp bợm ơi ! Sau khi chú đếm bẩy tiếng mà chị không chết, thì chú không phải là sứ giả nhà trời. Ngược lại chú đau đớn đến chết, thì rõ ràng chú bị trời phạt. – Hai ! Ba ! Thúy-Thúy vẫn cười. – Bốn ! Năm. Thình lình Miệt-Hác cảm thấy như có con dao đâm vào ngực, đau thấu tâm can, rồi người lạnh kinh khủng. Y cố không phát ra tiếng kêu, đếm : – Sáu ! Bẩy ! Mi chết này…Ái ! Ái ! Y hét lên như con lợn bị thọc huyết. Rồi lăn lộn trên mặt đất. Thát Minh, Ngột Thai cùng phát chưởng đánh vào hai bên Thúy-Thúy, vì sợ nàng giết Miệt-Hác. Thấy chưởng phong đối thủ cực kỳ hùng hậu, Thúy-Thúy dùng cả hai chưởng quay một vòng rồi nhảy lùi về sau hai bước. Vô tình nàng đứng trước mặt Thủ-Huy. Anh em Thát Minh, Ngột Thai quyết giết cho bằng được Thúy-Thúy. Cả hai cùng xê dịch theo, đẩy vào người nàng hai chưởng. Thúy-Thúy nghiến răng đỡ. Lúc đầu Thủ-Huy chỉ muốn để cho Thúy-Thúy làm giảm uy tín của anh em Cốc Chu. Bây giờ thấy chúng quá đê tiện, dùng hai người đánh một. Công vờ cúi xuống, dùng tay phải nắm lấy chân Thúy Thúy rồi truyền nội lực sang. Thúy-Thúy đang miễn cưỡng đỡ chưởng của Thát Minh, Ngột-Thai trong tuyệt vọng, bỗng thấy một luồng nội lực mạnh như bài sơn, đảo hải tràn vào người mình. Bình, bình ! Hai em của Cốc Chu bị bật tung lên, bay ra khỏi lều, nằm thẳng cẳng, hai mép ri rỉ tuôn máu ra. Muôn Lịch vội đứng lên, sai tùy tòng đỡ ba con, đem ra khỏi lều. Mặt Cốc Chu tái đi vì giận. Thúy-Thúy chỉ theo ba em Cốc Chu : – Đại-hãn là con trời. Bởi ba Tổng Đạo-sư dùng võ công trước mặt Đại-hãn là hành vi cực kỳ vô lễ nên trời phạt. Chứ người con gái như tôi, đâu đủ phép tắc thắng ba Tổng Đạo-sư ! Thủ-Huy thấy như vậy cũng đủ bịt miệng Cốc Chu rồi, công nói với y bằng giọng ôn tồn : – Như Tổng Đạo-sư nói : Đại-hãn Thiết Mộc Chân là con của Thượng-đế, tôi mới khẳng định Tổng Đạo-sư nằm mơ. Tại sao ? Vì Đại-hãn là con của Thượng-đế, mà Đại-hãn không nghe thấy Thượng đế phán về việc xuất quân này, có nghĩa là Thượng-đế đã sai con người giáng thế, thì chư sự do Đại hãn đưa ra mới chính là ý của Thương-đế. Tục ngữ Mông-cổ ta có câu : Của cha là của con, trong việc cai trị dân thì ý cha là ý con, ý con sở dĩ có là do là ý cha dạy dỗ. Ý của Đại-hãn muốn xuất binh, thì chính là ý của Thượng-đế. Các em, các con của Thiết Mộc Chân, các tướng, các đệ tử củaThủ-Huy vỗ tay hoan hô. Mông-cổ không có văn tự. Cha con Muôn-lịch nhờ học văn tự Thổ-phồn, đọc được một số sách của nước này, nên có một ít tư tưởng về thần linh, mà trở thành Đạo-sư. Bây giờ y bị Thủ-Huy, một bác học đa năng, thâm cứu toàn bộ tư tưởng chủ đạo tộc Việt, cùng Cửu-lưu, Tam-giáo, Bách-gia chư tử của Trung-hoa, thì cái mớ kiến thức hủ lậu của anh em Cốc Chu đấu sao lại ? Cốc Chu cúi mặt xuống không nói được lời nào. Thủ-Huy tiếp : – Tang Côn tưởng ta bị diệt rồi, binh tướng chỉ lo hưởng thụ sa đoạ, tranh dành của cải với nhau, không luyện tập, không đề phòng, lại đóng dàn ra một diện tích quá lớn. Đó là thế tất bại thứ nhất của y. Trong khi đó, ta luyện được một vạn tám nghìn Lôi-kỵ. Khi đối trận, chiến đấu đơn độc thì một võ sĩ của ta chỉ có thể thắng năm hay mười binh sĩ của họ. Nhưng nếu chiến đấu thành đội ngũ, thì mười người của ta có thể thắng hai trăm địch. Một trăm của ta không phải thắng một nghìn địch, mà có thể thắng năm nghìn địch. Hiện ta đã luyện tập, mỗi Thiên Lôi-kỵ của ta là một đơn vị chiến đấu độc lập, lúc cần thì tập trung thực nhanh, phân tán cũng thực nhanh, lưu động thần tốc, trang bị đặc biệt… Khi tấn công thì như sét nổ, không vướng vít gia đình, người người đều hận thù ngút trời…Có thể thắng hai vạn địch. Đó là thế tất thắng thứ nhất của ta. Các tướng cùng vỗ tay hoan hô lời kiến giải của Thủ-Huy. Mặt cha con Muôn Lịch tái đi vì giận. Thủ-Huy tiếp : – Từ khi đánh bại ta, Tang Côn kiêu căng, coi các tộc trưởng, tướng sĩ như tôi tớ, cai trị độc đoán. Họ đều bất mãn, các tộc trưởng rút quân về lãnh thổ của họ. Nếu ta xuất quân, đánh tan chủ lực của Tang Côn, y có sai sứ gọi các tộc trưởng đem quân về cứu viện, tất họ không tuân. Đó là thế tất bại thứ nhì của Tang Côn. Ngược lại các tộc trưởng của ta, phải quy phục Tang Côn trong cái thế không quy phục không được. Đại-hãn đã sai sứ liên lạc với họ. Họ hứa khi ta khởi binh, là họ sẽ đem quân đánh bọc hậu Tang Côn. Đó là thế thắng thứ nhì của ta. Các tướng lại vỗ tay. Cốc Chu quắc mắt nhìn các tướng, tỏ vẻ bực mình khi họ tán thành ý kiến của Thủ-Huy. – Khi đánh ta, Tang Côn dùng các võ sĩ Tống để khống chế chư tướng, làm rối loạn hàng ngũ ta. Nay thì võ sĩ Tống bất mãn vì Tang Côn bỏ lời ước quy phục Tống, đánh Kim. Võ sĩ Tống tuy vẫn còn đó, nhưng họ hứa sẽ làm nội ứng cho ta. Vì vậy họ trở thành mối đe dọa cho Tang Côn, hơn là trợ thủ. Đó là cái thế tất bại thứ ba của Tang Côn. Ngược lại, vợ chồng tôi, Thúy-Thúy, Tử-Kim cùng đội võ sĩ Long-biên đến trợ giúp Mông-cổ. Khi lâm trận, chúng tôi xung vào trận địch, khống chế tướng Khắc liệt, làm tan nát hàng ngũ quân Khắc-liệt. Đó là thế thắng thứ ba của ta. Cốc Chu hừ một tiếng, im lặng. Trong khi Thiết Mộc Chân cùng chư tướng vỗ tay hoan hô. Thiết Mộc Chân tiếp lời Thủ-Huy : – Ta ra quân lần này không phải để phục hồi Mông-cổ không thôi đâu, mà phải diệt Khắc-liệt. Có như vậy trong tương lai Mông-cổ mới sống còn. Tôi với Trần phò mã đã có kế hoạch bí mật diệt Khắc-liệt chỉ trong vòng một tháng. Nhưng sợ địch biết, chúng tôi dấu kín. Đợi khi khởi sự tấn công, sẽ mới công bố. Cốc Chu hỏi Thiết Mộc Chân : – Đại-hãn nhất định xuất quân ư ? Nhất định Đại-hãn làm trái với ý trời ư ? Thiết Mộc Chân im lặng tỏ vẻ bực tức thì em là Cát Xa nổi cáu : – Ý của Đại-hãn là ý trời. Ý trời muốn cho ta diệt Khắc-liệt lúc này, nên Đại-hãn mới ra quân. Đạo-sư nói sai ý trời rồi. Cốc Chu đập tay xuống bàn : – Ta truyền cho người phải im lặng. Người chống lại lời ta là chống với trời. Nhìn các tướng, các Khả-hãn, các Hãn, các nhà quý tộc đều cúi đầu cung cung, kính kính tỏ ý tuân phục Cốc Chu. Thủ-Huy dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Tốc Bất Đài mấy câu. Tốc Bất Đài lên tiếng : – Thưa Đại-hãn. Đại-hãn là con của Thượng-đế Mặt-trời thì ý của Đại-hãn phải hơn Tổng Đạo-sư sứ giả Cốc Chu chứ? Vì con bao giờ cũng hiểu ý cha hơn là sứ giả! Không biết bao giờ thì ta khởi sự ? – Hôm nay là ngày 20 tháng 8, ta sẽ tấn công vào đêm mùng 1 tháng 9 là đêm trời tối. Muôn-Lịch, cùng các con đỏ mặt đứng dậy, bỏ ra khỏi lều . Cốc Chu còn cố nói vọng lại : – Đại-hãn không tuân lệnh Thượng-đế Mặt-trời, xuất quân trong lúc này sẽ bị đại bại. Chiều hôm đó, Thiết Mộc Chân, Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài âm thầm tới lều của Thủ-Huy Đoan-Nghi. Phân ngôi chủ khách xong, Thủ-Huy hỏi : – Phải chăng Đại-hãn cùng các vị đến đây vì ba người em của Cốc Chu bị trúng Hàn-băng nội lực ? Tốc Bất Đài chỉ Thúy-Thúy : – Tôi có thắc mắc xin hỏi phò mã. Mấy hôm trước, trong khi luận võ với tiểu cô nương đây. Người nói, chỉ có phò mã, công chúa là có Hàn-băng nội lực thôi. Thế mà sáng nay, tôi không thấy phò mã ra tay, mà sao Miệt Hác lại bị trúng loại độc chưởng này ? Thủ-Huy giảng giải bí mật cho mọi người nghe. Bác Nhĩ Truật hỏi : – Nếu như phò mã không trị cho chúng, liệu chúng có chết không ? – Chết ! Chúng sẽ chết sau 49 ngày. Nhưng tôi không cứu y vội, vì tôi muốn tìm hiểu xem, ai là người đã dạy võ công Đông A nhà tôi cho chúng ? Luật lệ phái Đông A nhà tôi rất nghiêm, cấm không được dạy võ công cho người ngoài môn phái. Vậy ai đã làm cái công việc này ? Đó là một vấn đề. Vấn đề thứ nhì, tôi cũng phải giám sát, không thể để Thúy-Thúy giết chúng, vì môn quy nhà tôi cũng cấm không được hại người cùng phái, không để người ngoài giết đồng môn trước mặt mình. Tôi sợ , là sợ anh em Cốc Chu là để tử một cao nhân nào trong phái Đông A, mà tôi để y chết vì Hàn-băng nội lực của mình, thì dù ông tôi có là chưởng môn, tôi cũng bị xử tử hình để đền mạng cho chúng. Bác Nhĩ Truật cũng nghi ngại : – Từ trước đến giờ, chúng tôi chỉ biết các con của Muôn Lịch có võ công cao, mà không bao giờ thấy chúng sử dụng. Hôm nay nhờ Thúy-Thúy, chúng tôi mới biết y đã học một cao nhân nào của phái Đông A. – Tôi đoán, với bản lĩnh của chúng, chúng có thể đấu ngang tay với Tốc Bất Đài, Bác Nhĩ Truật thì ít ra chúng đã luyện tập trên mười năm. Tôi nhả nội lực vào bàn tay Thúy-Thúy, rồi Thúy-Thúy truyền vào người chúng. Như vậy bắt buộc chúng phải đi tìm sư phụ để nhờ người đẩy Hàn-băng độc ra khỏi người chúng. Bây giờ Đại-hãn cứ sai người âm thầm theo dõi chúng thì tìm ra tông tích người này. Thế nhưng, trong suốt bẩy ngày, thân binh của Thiết Mộc Chân hết sức theo dõi, cũng không thấy anh em Cốc Chu tiếp xúc với ai khác lạ. Mỗi chiều, ba tên Thát Minh, Miệt Hác, Ngột Thai bị lên cơn, người rét run trong vòng một giờ thì hết. Bẩy ngày sau. Trong căn lều da cực lớn của Thiết Mộc Chân. Các tướng, các tộc trưởng, bộ tham mưu của Mông-cổ đều tề tựu. Tổng cộng có đến hơn trăm người, mà không một tiếng động. Đạo-sư Cốc Chu lên tiếng trước : – Các người không tuân theo ý trời, nhất định xuất quân ư ? Cát Xa cáu : – Đạo-sư nói sai ý trời. Chúng ta cứ xuất quân. Nếu ta bại thì tôi xin nộp đầu. Còn ta thắng, thì đúng là Đạo-sư nói sai ý trời. Chúng tôi xin chờ lệnh Đại-hãn. Thiết Mộc Chân đứng dậy dõng dạc nói : – Chúng ta uống hận ẩn thân bấy lâu chỉ để chờ phục hồi cố thổ. Hôm nay chúng ta xuất quân, một là chiếm lại đất cũ, hai là trả hận. Từ trước đến giờ tôi quen lối chỉ huy dàn trận, chứ chưa bao giờ dùng tới lối đánh kỳ mưu. Vì vậy, trận này, tôi đã mời những vị khách mà trời đem đến cho ta tổng chỉ huy. Nói rồi ông trịnh trọng chỉ vào Thủ-Huy : – Xin kính mời Trần phò mã. Thủ-Huy đứng dậy đưa mắt nhìn cửu tọa một lượt, rồi nói : – Chúng tôi với quý vị là chỗ thâm giao hơn mười năm trước. Khi vợ chồng tôi cáo quan về điền dã, thì Đại-hãn nhớ tình cố cựu, mời tôi lên đây săn bắn nhân mùa Xuân hoa nở. Không ngờ khi tôi lên đây thì là lúc mà Mông-cổ bị cái vạ quốc phá. Người Việt tôi có câu : Cùng đi trên chuyến đò cũng là nghĩa. Huống hồ giữa Đại-hãn với chúng tôi. Giữa chúng tôi với các vị có cái tình gắn bó cứu mạng nhau bấy lâu. Hôm nay, được Đại-hãn trao cho cái vinh dự này. Tôi xin nhận lĩnh. Công ngừng lại chờ cho các tướng vỗ tay dứt, rồi tiếp : – Khắc-liệt hiện đóng quân làm ba khu vực chính. Khu thứ nhất, gần chúng ta, là lãnh thổ cũ của Thát-đát, có năm vạn quân, nhưng chỉ có hai vạn ngựa, do Trác Mộc Hợp cùng Đa Di Đài chỉ huy. Đây là quân ô hợp của các tộc lẻ tẻ. Cách chúng ta hơn năm trăm dặm, là lãnh thổ của Diệt-xích ngột do Tang Côn chỉ huy với hơn năm vạn quân. Đây mới là lực lượng chính của Vương-hãn. Tại Long-lý hà, lãnh thổ của Mông-cổ chúng ta, do chính Vương-hãn chỉ huy với năm vạn quân. Nhưng chỉ có hai vạn tập trung, còn lại thì đóng rải rác. Ta cũng chia quân làm ba, tiến đánh cùng một lúc. Các tướng cùng im lặng. Thủ-Huy hướng Bác Nhĩ Truật : – Đạo thứ nhất lĩnh nhiệm vụ cực quan trọng. Bất cứ giá nào cũng không được thất bại. Bởi đạo thứ nhất thất bại, thì đạo thứ nhì, thứ ba sẽ thất bại theo. Đạo này do ba tướng tài ba bậc nhất của ta là Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài, Triết Biệt chỉ huy. Phụ cho ba đại tướng có hai vương tử Truật Xích, Oa Khoát Đài và Trần Tử-Kim. Lực lượng gồm có ba Thiên-phu Lôi-kỵ, ba Thiên-phu Thân-binh trực thuộc, và sáu Thiên-phu chính binh. Sáu tướng đứng dậy chờ lệnh. – Tổng chỉ huy đạo này là Bác Nhĩ Truật. Bác Nhĩ Truật hỏi : – Chúng tôi được trao nhiệm vụ gì ?Xin phò mã ban lệnh ! – Vương-hãn cũng như Tang Côn tiến đánh chúng ta, bao nhiêu quân tinh nhuệ mang đi hết. Họ chỉ để lại trên lãnh thổ họ những đội quân của các tộc trưởng. Nếu như ta đi vòng xuống Nam, đánh úp kinh đô của Khắc-liệt rồi khống chế vợ con của họ…thì Vương-hãn, Tang Côn mất đường về đã đành, mà tướng sĩ, quý tộc, tộc trưởng của họ hiện đang theo trong quân cũng phải đầu hàng. Từ Thiết Mộc Chân cho tới chư tướng đều tưởng rằng khu vực quan trọng nhất là tổng hành dinh của Tang Côn. Họ tuyệt không ngờ, không nghĩ tới việc đánh kinh đô Khắc-liệt. Thủ-Huy tiếp : – Chiếm kinh đô Khắc-liệt rồi, thì các vị hết sức bảo vệ gia đình tài sản của các tướng sĩ, tộc trưởng. Sau đó ba chánh tướng Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài, Triết Biệt đem theo đội võ sĩ Long-biên tiến về vùng Hàn-thủy. Còn kinh đô Khắc-liệt thì trao cho vương tử Truật Xích cùng các phó tướng trấn đóng, bình định. Sông Hàn-thủy, nằm giữa đường Khắc-liệt đi kinh đô Hoa-lâm của Mông-cổ. Các vị dàn quân ra tại đây chờ bại quân Vương Hãn rút về, thì chặn đánh. Lúc đi, các vị lựa chọn trong vợ con các tướng, tộc trưởng Khắc-liệt, mỗi gia đình một người đem theo. Khi thấy quân Vương-hãn dàn ra, thì các vị thả đám người này về với chồng, cha họ. Họ sẽ thuật cho biết, gia quyến, thành trì đã bị ta khống chế. Họ không ngần ngại gì đem thiện ý chiêu hàng của ta nói, như ậy ắt các tướng, sĩ tộc trưởng Khắc-liệt sẽ bỏ Vương-hãn ngay. Bấy giờ các vị mới xua quân tấn công. Vương-hãn bỏ chạy thì các vị đuổi theo bất kể ngày đêm, cố bắt hoặc giết cho được y mới thôi. Bác Nhĩ Truật hỏi : – Kinh đô Khắc-liệt đóng trong một vùng khá rộng. Tại đây có mười bộ tộc thân tín của Vương-hãn. Họ sống trong những lều trại, rất dễ đánh. Tuy nhiên vợ con của Vương-hãn, Tang Côn cũng như các tộc trưởng thì ở trong những căn nhà bằng gỗ. Những căn nhà này nằm trong một thành bằng đá. Trước đây Nãi-man đem quân đánh Khắc-liệt, đã hy sinh tới năm vạn người, mà không phá nổi thành này. Phò mã thử nghĩ xem, chúng tôi có thành công hay không ? Thủ-Huy mỉm cười chỉ vào Tử-Kim : – Huynh đừng lo. Huynh cùng chư tướng đảm trách nhiệm vụ đánh các bộ tộc kế cận kinh đô Khắc liệt. Còn việc đánh thành đá này, tôi đã trao cho sư đệ Trần Tử-Kim. Tử-Kim sẽ hạ thành đá trong vòng một giờ. Các tướng cùng ngơ ngác không hiểu với đội võ sĩ Long-biên năm trăm người, sao Tử-Kim có thể đánh thành đá trong một giờ ? Thiết Mộc Chân giải thích : – Anh em ngạc nhiên ư ? Trong buổi hội trước đây tám ngày, Trần phò mã với tôi đã từng nói rằng, chúng tôi có kế hoạch diệt Khắc-liệt trong một tháng, nhưng vì bảo mật nên chưa nói ra. Hôm nay tôi xin nói. Ông ngừng lại cho cử tọa suy nghĩ một lát rồi tiếp : – Trần phò mã từng là người tổng chỉ huy quân đội Đại-Việt. Mà quân Đại-Việt có một vũ khí làm cho Tống kinh hồn táng đởm là Thần-nỏ và Lôi-tiễn. Khi sang đây, phò mã với tôi bí mật chế Thần-nỏ, Lôi-tiễn, rồi cho đội võ sĩ Long-biên huấn luyện được năm mươi đội, thực tập trong rừng sâu. Bí mật đến độ vợ, con tôi cũng không biết. Bây giờ ta đem ra dùng, thì quân Khắc-liệt sẽ kinh hồn táng đởm. Các tướng chưa từng nghe đến Thần-nỏ, Lôi-tiễn, họ ngơ ngơ, ngác ngác nhìn nhau. Biết ý họ, Thủ Huy đưa mắt cho Tử-Kim. Tử-Kim giải thích sơ lược : Thần-nỏ do Cao-cảnh hầu Cao Nỗ chế ra từ thời Aâu-lạc có thể bắn một lúc từ một tới hàng nghìn mũi tên. Tầm sát hại xa gấp đôi tên bắn bằng sức người. Rồi các đời sau sửa đổi đi, càng hiệu nghiệm hơn. Đến thời vua Lý Nhân-tông, thì Long biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt, một lần nữa biến chế đi chế ra Lôi-tiễn với những mũi tên to bằng bắp tay đến bắp dùi, có thể phát nổ trên không, có thể rơi xuống đất rồi phát nổ ngay, có thể phát nổ sau khi rơi xuống mục tiêu hai ba giờ. Thiết Mộc Chân tiếp lời Tử-Kim : – Khi chúng ta đánh vào một dinh trại địch, thì giỏi lắm chúng ta có thể bắn tên lửa vào những căn lều gần hàng rào, không gây ảnh hưởng đến tinh thần địch làm bao. Với Lôi-tiễn, ta có thể bắn phá, đốt kho tàng, dinh thự, lều trại ở giữa khu đóng quân địch. Ta lại có thể bắn vào giữa đội hình địch. Đội võ sĩ Long-biên phụ trách đánh úp thành đá của Khắc-liệt. Nếu thành công thì thôi. Bằng như địch biết trước mà đề phòng, Tử-Kim nã Lôi-tiễn vào trong thành, thì chỉ một giờ sau thì nhà, lều trong thành biến thành than, còn người thì bị nướng sạch. Chư tướng vỗ tay hoan hô. Thủ-Huy tiếp : – Đạo quân thứ nhì gồm các tướng Mộc Hoa Lê, Xích Lão Ôn, Gia Luật Mễ. Phụ có hai vương tử Sát Hợp Đài, Đà Lôi, phò mã Đô Gu Sa. Đề phòng cao thủ Tống xuất hiện, tôi cử công-chúa Đoan-Nghi chỉ huy Lý Long-Tùng, Lý Đoan-Thanh theo trong quân. Đạo này phụ trách đánh úp đạo quân của Vương-hãn, chiếm lại kinh đô Hoa-lâm. Quanh Hoa-lâm có 36 bộ tộc trung thành của Mông-cổ. Đại hãn đã sai sứ liên lạc với họ. Họ hẹn, khi Đại-hãn đem quân về, họ sẽ nổi dậy đánh Khắc-liệt. Thủ-Huy đưa mắt cho Thiết Mộc Chân : – Đạo này phi Đại-hãn không ai đương nổi. Vì quân của Vương-hãn quá đông, Đại-hãn chỉ cần dùng Lôi-tiễn, Thần-nỏ đánh bất ngờ, xung vào trung quân bắt Vương-hãn. Trong lúc kinh hoàng, ắt Vương-hãn bỏ chạy về kinh đô của y. Đại-hãn không cần đuổi theo, mà lo chỉnh đốn lại Hoa-lâm. Khi Vương-hãn về đến Hàn-thủy sẽ bị phục binh của Bác Nhĩ Truật. Thủ-Huy quay lại phía các tướng Bác Khô La, Dược Sơ Đài, Bác Nhĩ Hốt : – Đạo thứ ba do ba vị thống lĩnh, phụ có ba vương đệ là Biên Gô Đài, Cát Xa, Tê Mô Gu. Đạo này chính tôi sẽ chỉ huy. Thiết Mộc Chân kinh ngạc hỏi Thủ-Huy : – Thế còn đạo quân của Trác Mộc Hợp đóng gần đây nhất. Ta không tiến đánh y ư ? – Thưa Đại-hãn, có chứ ! Trác Mộc Hợp không có lãnh thổ. Khi Vương-hãn chiêu mộ y. Y ra điều kiện rằng Vương-hãn đánh được Mông-cổ thì trao cho y cai trị lãnh thổ cũ của Thát-đát. Lúc ta bị thua rồi, thì Tang Côn tuy có cho Trác Mộc Hợp cai trị đất Thát-đát cũ thực, nhưng y vẫn đóng quân bên cạnh để kiềm chế. Nay thình lình ta đánh Tang Côn trong đêm, Trác Mộc Hợp chẳng dại gì mà đem quân cứu. Ta đánh xong Tang Côn, Vương Hãn rồi, thì các bộ tộc của Trác Mộc Hợp sẽ bỏ y, đầu hàng mình. Những bọn còn lại, tôi xin nhường cho các vị tộc trưởng bị Trác Mộc Hợp đè nén bấy lâu. Các vị chỉ đánh một trận, thì phá được y. Thiết Mộc Chân nói lớn : – Nào bây giờ cá vị chuẩn bị lên đường. Đêm ngày mồng một tháng chín sang đêm mùng năm, đúng nửa đêm cùng khởi sự. Trời bắt đầu tối. Trong căn lều da lớn, Thủ-Huy tập họp các tướng Bác Nhĩ Hốt, Dược Sơ Đài, Bác Khô La, Biên Gô Đài, Cát Xa, Tê Mô Gu, cùng các Hãn của những bộ tộc Mông-cổ và Thát-đát. Trong bốn anh em Cốc Chu, thì Miệt Hác đã theo đạo quân Bác Nhĩ Truật, Ngột Thai theo đạo quân của Thiết Mộc Chân. Chỉ còn y với Thát Minh ở lại. Vì nơi đóng quân là lãnh thổ của y. Cốc Chu ngồi chủ tọa. Y lên tiếng trước : – Hôm nay chúng ta hội đây để nhận lệnh xuất quân. Trước mặt ta có đến năm vạn quân của Tang Côn, năm vạn của Trác Mộc Hợp ! Các người không theo ý của trời, chỉ có sáu nghìn quân, mà tiến đánh mườ vạn quân thì không khác gì tự tử. Thủ-Huy đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Cốc Chu, rồi cười nhạt. Công coi như không có y, tay chỉ lên tấm da vẽ bản đồ khu đóng quân của Tang Côn : – Tất cả các trại đều dựa vào chân một ngọn đồi, chia làm năm khu. Bốn khu Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi khu có khoảng một vạn quân. Binh tướngï ở trong các lều cùng vợ con, gia thuộc. Khu trung ương của Tang Côn với các tướng, các tộc trưởng cũng một vạn người. Đêm nay chúng ta cùng dàn quân tấn công vào doanh trung ương. Khi chúng ta khởi sự, thì Vương Cương-Trung, Mao Khiêm, Hàn Dũ-Linh với các võ sĩ Tống sẽ làm nội ứng, giết chết Tang Côn, cùng bọn quý tộc Khắc-liệt. Bây giờ chúng ta chờ trời tối sẽ lên đường. Cốc Chu nổi cáu : – Tưởng người có mưu hay gì, hóa ra chỉ biết dàn quân tấn công ! Ngày mai là ngày các người phải chết. Nói rồi y dẫn Thát Minh cùng các đệ tử rời khỏi súy lều. Đợi y ra khỏi, Thủ-Huy gọi mấy đệ tử thân tín mang từ Thiên-trường qua, truyền dàn ra quanh lều, không cho bất cứ ai vào cũng như ra. Mọi việc xong xuôi, công xoa tay vào nhau nói : – Cốc Chu muốn giữ uy tín, tôi e y sẽ báo kế hoạch của ta cho Tang Côn. Ngặt vì mấy ngày qua hoàng đệ Cát Xa canh gác kỹ quá, y không kịp hành động. Bây giờ ta mới thả lỏng y. Y có lên đường, cấp báo cho Tang Côn, thì dù Tang Côn có tổ chức phòng bị cũng không kịp nữa. Mà y có phòng bị kịp, thì cũng phòng bị theo kế hoạch giả mà tôi truyền lệnh ban nãy. Các tướng vỗ tay hoan hô. – Ta tấn công Tang Côn, chỉ sợ bọn võ sĩ Tống can thiệp mà thôi. Nếu như Thát Minh báo với Tang Côn rằng bọn Tống sẽ làm nội ứng, thì ắt Tang Côn phải dùng đội thân binh khẩn cấp trừ bọn Tống. Như vậy ta loại được bọn Tống ra ngoài. Ấy là không kể bọn Tống với Tang Côn giết lẫn nhau trong lúc ta đánh từ bên ngoài. Các tướng vỗ tay. Thủ-Huy cười : – Bây giờ mới là kế hoạch thực sự của ta. Công chỉ vào một ngọn đồi trọc nằm sát doanh phía Đông: – Ngọn đồi này trên đỉnh bằng phẳng, lại nằm giữa năm doanh. Từ phía sau có con đường lên đi lên. Tang Côn cho rằng ta bị tê liệt, nên không canh phòng phía sau. Vậy hoàng đệ Biên Gô Đài đem Thiên-phu Thân-binh trực thuộc, thêm Thiên-phu chính binh, hộ tống bốn đội Lôi-tiễn, âm thầm leo lên đỉnh đồi. Sau khi đặt Lôi-tiễn, thì dàn quân xung quanh bảo vệ cẩn thận, đề phòng địch thấy nguy có thể chiếm đồi. Khi thấy pháo lệnh thì Vương Thúy-Thúy sẽ nã Lôi-tiễn vào khu doanh trung ương của địch. Lúc doanh trung ương bốc cháy, tôi sẽ tung pháo lệnh, bấy giờ huynh cho ba đội Lôi tiễn nã khu Nam, Bắc, Đông. Tuyệt đối không rời khỏi ngọn đồi. Biên Gô Đài hỏi : – Thưa phò mã, thế sao không nã vào doanh phía Tây ? – Quân số của địch tới năm vạn, mà ta chỉ có sáu nghìn Lôi-kỵ, hơn vạn chính binh, thì sao có thể trực diện tấn công ? Vì vậy, đầu tiên tôi dùng Lôi-tiễn đốt doanh trưng ương, để các tướng, các tộc trưởng cùng gia đình bỏ chạy sang bốn doanh lánh nạn. Khi mà chư tướng cùng vợ con, kẻ chết, người bị thương, tài sản bị mất, họ phải chạy sang lánh nạn ở các doanh bên cạnh, thì tinh thần rối loạn, kéo theo binh tướng bốn doanh rối loạn theo. Bấy giờ ta nã vào các doanh này tấn công, thì chúng chỉ lo chạy. Chúng chạy đâu ? Thấy doanh phía Tây bình an, chúng chạy vào đó mà ẩn thân. Bấy giờ ta mới dàn đại lực lượng ở trước doanh Tây, tất chúng bỏ chạy. Khi chúng chạy, hàng ngũ hỗn độn, ta cứ đuổi phía sau mà chém giết. Thủ-Huy chỉ vào khu vực phía Tây doanh trại Tang Côn, nơi có con sông nhỏ : – Chỗ này có con sông nhỏ, mang tên Ngưu-ẩm. Hai hoàng đệ Cát Xa, Tê Mô Gu đem hai Thiên-phu Thân-binh, hai Thiên-phu chính binh phục tại đây. Hai vị chuẩn bị cho ngựa nghỉ ngơi, ăn no, uống nước đầy bụng chờ đợi. Đêm nay Tang Côn thua tất rút chạy. Tới sông Ngưu-ẩm ắt y dừng quân cho ngựa uống nước. Các vị xua phục binh ra đánh vào ngang hông. Địch đông mặc địch đông, cứ dùng Thần-nỏ mà bắn. Mấy khắc sau, thì hai Thiên-phu của Bác Nhĩ Hốt, Bác Khô La đuổi kịp. Hai Thiên phu đó sẽ để ngựa đói, khát, mệt lại ; dùng ngựa no, khỏe của các vị đuổi địch. Công nói với Bác Nhĩ Hốt, Dược Sơ Đài, Bác Khô La : – Bác Nhĩ Hốt phụ trách đánh doanh trại phía Đông. Dược Sơ Đài đánh doanh trại phía Bắc. Bác Khô La đánh đoanh trại phía Nam. Mỗi vị mang theo một Thiên-phu Lôi-kỵ với hai Thiên-phu chính binh. Ta để trống khu phía Tây cho Tang Côn chạy. Tôi sẽ đi theo cánh quân của Dược Sơ Đài huynh. Các vị đem quân âm thầm tiến tới gần doanh trại dàn sẵn. Khi thấy Lôi-tiễn nã thì tiến sát tới hàng rào. Đợi Lôi-tiễn ngừng nã, thì đồng tấn công. Bấy giờ Tang Côn ắt bỏ chạy về phía Tây. Bác Nhỉ Hốt, Bác Khô La huynh xua quân đuổi theo, bất chấp phía sau y còn nhiều đội quân. Những đội quân này để cho huynh Dược Sơ Đài thu thập. Nào chúng ta lên đường ! Đêm hôm ấy, trên vùng thảo nguyên vắng lặng, các đạo quân lầm lũi lên đường. Ngựa Thủ-Huy đi song song cạnh ngựa Dược Sơ Đài tiến đến doanh phía Bắc của Khắc-liệt. Công ngửa mặt lên trời nhìn những vì sao lấp lánh, lòng thổn thức nhớ quê hương : – Không biết hồi này ông nội mình ra sao ? Bố mẹ mình thế nào ? Anh chị Thủ-Lý vợ chồng Tô Trung-Từ, Phúng Tá-Chu giờ này đang làm gì ? Lại còn chuyện triều đình ? Nghĩ đến triều đình, Thủ-Huy nghiến răng ken két : – Muốn cho nước giầu dân mạnh, thì phải có một triều đình gồm vua minh mẫn, các đại thần là những người một lòng với giang sơn. Nhưng vua lại luôn bị các bà hậu cung kiềm chế. Bọn quan lại thích cúi đầu trước các bà thái hậu ngu dốt để hưởng thụ thì còn mong gì ? Chỉ có cách giết hết bọn quan lại ù lỳ, bọn hậu cung… Như vậy thì phải thay đổi triều đại ! Ừ nhỉ, giả như ông nội hay bố mình làm vua, trong cung có những bà hoàng hậu như mẹ mình… thì đất nước sẽ hùng mạnh biết bao. Công đang liên miên nghĩ, thì thình lình thấy trong doanh trung ương đèn đuốc đốt lên sáng rực, rồi có tiếng ngựa hý, tiếng người ra lệnh. Dược Sơ Đài chỉ vào trong trại Khắc-liệt : – Tại sao đêm khuya mà đèn đuốc trong doanh trung ương lại sáng rực thế kia ? Trong khi doanh phía Bắc này lại im lìm ? Để tôi sai một tên tế tác tới gần thám thính xem sao ? Thủ-Huy cũng nhận ra thế, công gật đầu. Lát sau tên tế tác trở lại báo : – Khắp doanh trung ương, ngoài hàng rào, binh sĩ ngồi vào vị trí phòng thủ. Giữa sân thì các kỵ mã dàn sẵn như chuẩn bị phản công ! Dược Sơ Đài nắm tay Thủ-Huy : – Cốc Chu, Tang Côn mắc mưu phò mã rồi. Chắc tên Thát Minh đã báo cho Tang Côn, nên y đề phòng. Còn doanh này thì y chưa kịp thông báo nên vẫn im lìm. Ta phải ra tay cho mau. Dược Sơ Đài dàn quân thực mau. Lớp đầu ba trăm Lôi-kỵ, sáu trăm chính binh, dàn làm hai hàng. Lớp thứ nhì ba trăm Lôi-kỵ, sáu trăm chính binh nữa, cũng dàn làm hai hàng. Lớp sau cùng bốn trăm Lôi-kỵ với tám trăm chính binh, dàn làm ba hàng. Thủ-Huy nhìn vào doanh Bắc Khắc-liệt : Đèn đuốc tắt hết, lấp lánh vài ngọn lửa của mấy gia đình đang nướng thịt ăn khuya. Thình lình có tiếng quát tháo, tiếng la hét, từ doanh trung ương đưa lại. Nhanh chóng Thủ-Huy, Dược Sơ Đài tung mình lên ngọn cây cao nhìn vào : Trong doanh trung ương đang có cuộc giao chiến. Một bên là đội võ sĩ Tống, một bên là đội thân binh Khắc-liệt. Đội thân binh Khắc-liệt đông gấp bội, được chỉ huy bởi hơn chục cao thủ, bao vây đội võ sĩ Tống vào giữa. Đội võ sĩ Tống tuy ít người, nhưng có ba đại cao thủ Mao Khiêm, Vương Cương-Trung, Hàn Dũ-Linh đứng đầu, vừa đánh, vừa lùi ra phía cổng doanh. Đội thân binh Khắc-liệt bị đánh dạt ra. Cứ mỗi chiêu của bọn Mao Khiêm đánh ra là đầu một thân binh Khắc-liệt rơi xuống. Trong không đầy một khắc, mà xác thân binh Khắc-liệt nằm la liệt trên đất. Đoàn võ sĩ Tống đã ra gần tới cửa doanh. Bỗng có tiếng tù và rúc lên, một đội võ sĩ trang phục theo lối đệ tử Đạo-sư, hơn trăm người, cầm đầu bởi một Đạo-sư , và một cao thủ, xung vào chặn mất đường rút lui của đội võ sĩ Tống. Trong ánh lửa chập chờn, Thủ-Huy, Dược Sơ Đài nhận ra Đạo-sư đó chính là Thát Minh, em Cốc Chu. Cao thủ đó là Mao Khiêm. Dược Sơ Đài hỏi Thủ-Huy : – Tại sao vậy ? – Tôi đoán thế này ! Tên Cốc Chu muốn giữ uy tín, y phải làm sao cho ta thất bại. Y sai tên Thát Minh dẫn võ sĩ sang mật báo kế hoạch cho Tang Côn. Cho nên Tang Côn kịp đề phòng. Tang vớí bọn Tống vốn nghi kị nhau đã lâu . Ngay trong đám võ sĩ Tống cũng chia làm hai phe. Một phe là đám Hoa-sơn do Vương Cương-Trung cầm đầu, một phe do Mao Khiêm cùng bọn Trường-bạch cầm đầu. Có lẽ bọn Tang Côn nghe Thát Minh cáo rằng bọn Tống làm nội ứng cho ta.Y với Tang Côn sai thân binh vây bắt bọn Tống, nên mới có cuộc chém giết lẫn nhau. Ta cứ án binh bất động đợi chúng giết nhau chán mới ra tay. Dường như Vương Cương-Trung, Hàn Dũ-Linh bị trúng độc hay bị thương thì phải, vì bước đi của họ không vững. Chợt Thủ-Huy bật lên tiếng à : – Từ mấy hôm nay, tôi cứ phân vân mãi, không biết anh em Cốc Chu học võ với ai trong bản phái. Thì ra y học với tên Mao Khiêm ! Sau trận này ta phải cáo với Đại-hãn điều tra xem Mao dậy anh em Cốc Chu từ bao giờ ? Không biết anh em y làm gian tế cho Mao Khiêm qua Tang Côn hay làm gian tế cho Tống ? Đến đây, bọn thân binh Khắc-liệt lùi trở lại. Vòng vây mở rộng, rồi đội cung thủ Khắc-liệt tiến lên, dương cung, chĩa tên vào trong. Một tướng Khắc-liệt cầm đao hướng vào trong nói gì, nhưng Hàn Dũ-Linh lắc đầu, rồi tung mình lên cao. Thấp thoáng một cái bà đã đến trước mặt viên tướng Khắc liệt. Ánh thép lóe lên, đầu y bay khỏi cổ. Lập tức đội cung thủ cùng buông tên. Đám võ sĩ Tống reo hò, lao người vào vòng vây. Thế là hai bên lẫn lộn với nhau. Thủ-Huy suýt xoa : – Bọn võ sĩ Tống được quá ! Nếu như hai bên không lẫn vào nhau, thì bị cung thủ bắn chết hết. Dược Sơ Đài nhắc Thủ-Huy : – Xin phò mã ban lệnh tấn công ! Thủ-Huy rút trong bọc ra một cái pháo lệnh ra đốt, rồi dùng nội lực tung lên trời. Pháo nổ một tiếng đùng, trên không hiện ra hình một con chim ưng. Lập tức từ ngọn đồi phía Nam, hơn ba chục vệt lửa xanh-tím-đỏ vọt lên không, rồi phát nổ như những tiếng sấm. Mấy chục quả cầu lửa chụp xuống doanh trung ương Khắc-liệt. Mỗi quả cầu hóa thành hằng muôn nghìn vệt lửa phủ lên các căn lều trại. Tiếp theo, hơn trăm quả khác. Phút chốc doanh trại trung ương Khắc-liệt biến thành một biển lửa. Lẫn trong tiếng nổ, có muôn nghìn tiếng gào thét, kêu khóc, tiếng thú vật tru tréo. Người, thú đạp lên nhau, chạy ra khỏi biển lửa. Đến đây Thủ-Huy không thấy hình bóng bọn võ sĩ Tống đâu nữa. Khắp doanh trung ương, lửa bốc lên cao ngút trời. Nhiều người cháy như một cây đuốc. Các tướng lĩnh, quý tộc cùng vợ con, kẻ chết, người bị phỏng, cố thoát khỏi biển lửa, chạy ra bốn doanh xung quanh. Họ vừa kinh hãi, vừa luyến tiếc, đứng nhìn tài sản bị thiêu rụi, mà không ai hiểu sấm sét ở đâu đánh xuống đầu họ. Đợi khi những cái lều cuối cùng của doanh trung ương bốc cháy, Thủ-Huy lại tung lên trời một cây pháo thăng thiên. Bây giờ Lôi-tiễn lại chụp xuống ba trại Đông, Nam, Bắc. Hơn khắc sau ba khu này cũng bốc cháy. Người người lại ùn ùn chạy sang doanh phía Tây là nơi không bị thần hỏa bao phủ. Thủ-Huy hỏi Dược Sơ Đài : – Huynh chuẩn bị xong chưa ? – Xong rồi. Thủ-Huy tung lên trời một cây pháo thăng thiên nữa. Lập tức Lôi-tiễn ngừng nã. Dược Sơ Đài cầm tù và rúc liên tiếp ba tiếng, tất cả thiên phu cùng giật cương ngựa. Ngựa hí, người rú tạo thành một âm thanh khủng khiếp, rồi lớp đầu lao vào trại địch. Họ không cần phân biệt thú hay người, cứ thấy sinh vật là vung đao chặt. Bốn mũi này xung tới trung ương trại, không gặp một sức kháng cự nào. Tù và lệnh rúc hai tiếng nữa, lập tức đội hình lớp đầu biến đổi thế trận. Mỗi bên hai bách đánh quặt sang hai phía phải, trái. Trong khi đó bốn mũi lớp thứ nhì xuyên về trước thay lớp thứ nhất. Thủ-Huy, Dược Sơ Đài tiến vào theo lớp thứ nhì cùng với một bách trừ bị. Cuộc chém giết diễn ra khoảng hơn một giờ thì trong trại không còn một người nào sống sót. Suốt một vùng đất rộng, nào vật dụng, nào xác người, nào xác ngựa nằm ngổn ngang. Một vài chỗ , lửa vẫn bốc lên ngùn ngụt. Theo đúng kế hoạch dự trù, thì tất cả các Thiên-phu Lôi-kỵ cũng như chính binh sẽ tiến đến doanh phía Tây để bao vây, làm áp lực, khiến tàn quân Tang Côn bỏ chạy. Nhưng vì biến cố đám võ sĩ Tống vơí thân binh Khắc-liệt chém giết nhau, Thủ-Huy quyết định đổi thế trận : Bác Khô La, và Bác Nhĩ Hốt dẫn quân mã trực thuộc tiếp tục tiến lên về phía doanh Tây, Dược Sơ Đài dẫn quân sĩ trực thuộc trở lại lục soát doanh trung ương, để tìm vết tích bọn Tống, bọn Thát Minh. Bác Khô La, Bác Nhĩ Hốt dàn hai Thiên-phu Lôi-kỵ, sáu Thiên-phu chính binh trước đoanh phía Tây. Doanh này không bị Lôi-tiễn nã, quân sĩ thức giấc, họ đã dàn ra phía trong, đốt đuốc chờ đợi. Trong ánh lửa chập chờn, khoảng hơn năm chục người ngồi trên mình ngựa, được quân sĩ hộ vệ. Bác Khô La chỉ cho Thủ-Huy biết tên từng viên tướng, từng tộc trưởng của Khắc-liệt. Bác Nhĩ Hốt than : – Sao không thấy Tang Côn ? Không lẽ y chết vì Lôi-tiễn rồi ? Thủ-Huy nói nhỏ vào tai Bác Khô La mấy câu. Bác Khô La cầm loa hướng vào đám người quý tộc nói lớn : – Các người có thấy không ? Vì Thiết Mộc Chân là con của thần mặt trời nên trời sai sấm sét đốt hết doanh trại, binh tướng của Vương-hãn. Nếu các người đầu hàng thì sẽ được bảo toàn tính mệnh của mình và gia thuộc. Còn như các người chống lại, thì tất cả sẽ chết uổng. Tiếng loa vừa dứt thì một loạt tên từ trong bắn ra. Thủ-Huy tung lên trời một cái pháo thăng thiên. Lập tức hai Thiên-phu cùng rú lên, đổi tiền đội ra hậu đội, rồi lui về sau hơn một dặm. Binh tướng Khắc-liệt cười rộ, cho rằng quân Mông-cổ sợ hãi. Ngay lúc đó, Lôi-tiễn rút lên những tiếng kinh khủng nổ chụp lên đầu địch. Lều trại trong doanh phía Tây bốc cháy ngùn ngụt. Thủ-Huy, Bác Khô La leo lên một ngọn cây quan sát : Trong trại Khắc-liệt, lửa cháy khắp nơi. Cứ mỗi mũi Lôi-tiễn nổ trên không, lại chụp xuống hàng nghìn, hàng vạn viên lửa. Binh sĩ Khắc-liệt kinh hoàng, họ không còn tuân lệnh các tướng nữa. Những người độc thân thì ôm đầu lên ngựa chạy khỏi trại. Kẻ có vợ con, thì lo dắt díu vợ con bỏ chạy về phía Tây. Thủ-Huy ra lệnh cho Bác Nhĩ Hốt : – Tôi đồ chừng Tang Côn chạy theo đám tàn quân. Vậy huynh đem bản bộ quân mã đuổi theo. Đến sông Ngưu-ẩm thì đổi ngựa, rồi đuổi tiếp, không cho Tang Côn ngừng lại để có thể tập trung quân phản công. Lại ra lệnh cho Bác Khô La : – Huynh đem bản bộ quân mã chặn tất cả những ngõ, ngách, bắt hết tàn quân địch. Tuyệt đối không nên giết chúng. Trời dần sáng. Bác Khô La, Dược Sơ Đài, Biên Gô Đài đã tập trung quân lại trên bãi đóng quân của Khắc-liệt. Bọn tù binh, hàng binh được lùa vào ngồi thành mấy trăm hàng dài. Lát sau, Cát Xa, Tê Mô Gu cũng đem quân, cùng tù binh về phục mệnh. Cát Xa báo cáo : – Sau khi ngừng nã Lôi-tiễn, Thúy-Thúy cô nương dẫn mười đệ tử Đông A với một Bách-phu Lôi-kỵ về hướng Tây, nói rằng để thi hành mật lệnh của phò mã, nên không về cùng với chúng tôi. – Đúng vậy ! Thủ-Huy nói với Biên Gô Đài : – Chủ lực của Tang Côn đã bị tan rã. Giờ này y đang bị tướng Bác Nhĩ Hốt truy kích. Dù y chết hay sống, thì cũng thế thôi. Việc quản trị tù binh, bình định là quyền của huynh. Cốc Chu cùng đám bộ hạ đã đến. Y nói với Thủ-Huy : – Biên Gô Đài là một Thiên-phu trưởng. Y chỉ có nhiệm vụ đánh giặc. Bây giờ giặc tan, thì việc tập hợp dân chúng, thu thập chiến lợi phẩm, tổ chức cai trị phải ta điều động các nhà quý tộc đảm trách. Phò-mã không thể trao quyền cho y. Thủ-Huy chắp tay : – Thưa Tổng Đạo-sư, tôi là khách ! Tôi không có quyền gì cả. Đại-hãn nhờ tôi chỉ huy đánh Tang Côn. Nay quân Tang Côn bị quân của ta đánh tan. Bây giờ y bị đuổi khỏi vùng Thát-đát này, thì coi như lãnh thổ đã trở về với Mông-cổ ta. Những việc làm sau đó thuộc thẩm quyền quý vị. Quý vị tự giải quyết với nhau. Nhưng Biên Gô Đài không coi Cốc Chu ra gì. Y cứ sai quân gom tù binh lại, kiểm điểm tài vật của địch bỏ tịch thu được. Lại ra lệnh cho các tộc trưởng bị cầm tù cũng như đầu hàng bắt tập trung bộ tộc, binh lính thuộc quyền, cho trở về đất của họ. Cốc Chu bực mình, hò hét, bắt các quý tộc, các Hãn của những bộ tộc thuộc Mông-cổ hiện diện, cũng như của Khắc-liệt đầu hàng làm theo lệnh mình. Nhưng khốn nỗi, không ai có thể cãi lại lệnh của Biên Gô Đài, vì sức mạnh của đao-thương, cung-tên trong tay y. Biên Gô Đài sai các tộc trưởng thuộc các nước Diệt-xích -ngột, Miệt-nhi, Ong gút, Thát-đát theo Tang Côn mới đầu hàng đi chiêu dụ các tộc trưởng đang theo Trác Mộc Hợp. Cốc Chu cùng đám đệ tử hét lên : – Các người làm trái luật nhà trời ! Có bao giờ mấy tên tướng võ lại cai trị dân ? Các Khả-hãn, các Hãn cũng như chư tướng nghe y hét đều run sợ. Họ tỏ vẻ bất mãn với Thủ-Huy, với Biên Gô Đài. Đến đây Thúy-Thúy đã trở về. Thủ-Huy hỏi : – Tình hình ra sao ? – Hoàn toàn tốt đẹp. Đã trao cho tướng Dược Sơ Đài. Thủ-Huy cười nhạt, ra hiệu cho Dược Sơ Đài. Ông ta hỏi Cốc Chu : – Thưa Tổng Đạo-sư, theo luật của nhà trời, thì một kẻ đầu hàng địch quân mang bí mật hành quân báo cho địch thì bị tội gì ? – Y sẽ bị bỏ vào cái túi, rồi để kỵ binh dẵm lên cho đến chết. – Tôi có bắt được một tên tướng của ta, trước giờ khai mạc trận đánh đã chạy sang báo kế hoạch cho Tang Côn. Y bị bắt cùng với toàn bộ thuộc hạ của y. – Tên đó là đứa nào ? Dược Sơ Đài hô : – Đem vào ! Thân binh giải một tên tù, toàn người y bị chụp một cái túi vải. Y bị đẩy đến trước mặt Cốc Chu cùng các tướng. Cốc Chu hét lên : – Pháp-binh đâu! Đem y bỏ vào cái túi, rồi cho ngựa dẵm lên trên. Nói dứt y lột cái túi vải chụp trên người tên tù binh. Tất cả ử tọa cùng la hoảng, bởi y chính là Thát Minh. Cốc Chu chết điếng người đi. Y chưa biết phản ứng sao, thì Lôi-kỵ giải vào chín mươi ba tù binh nữa. Các tướng nhận diện được, bọn này chính là các tiểu đạo sư, đệ tử của Thát Minh. Mặt Cốc Chu tái xanh. Y hỏi : – Tại sao các người lại bắt trói Tổng Đạo-sư ? Các người không sợ trời giết chết ư ? Dược Sơ Đài chắp tay : – Tôi đã lấy cung từ của các Khả-hãn, Hãn của Khắc-liệt bị bắt. Họ khai rằng Thát Minh đã lén sang dinh Khắc-liệt báo hết kế hoạch của ta cho Tang Côn. Sau khi Tang Côn bỏ chạy, chính Thát Minh dẫn đám này chạy theo Tang Côn. Y bị cô nương Vương Thúy-Thúy đuổi theo, bắt tại trận. Xin Tổng Đạo-sư ra lệnh xử tử ngay tại đây ! Cốc Chu run run : – Ta không tin em ta phản bội. Biên Gô Đài cười nhạt : – Tôi phải giải Thát Minh cùng chín mươi ba tên này về Hoa-lâm cho Đại-hãn xử tử. Năm ngày sau thì Bác Nhĩ Hốt trở về. Ông báo cáo : Đã đuổi Tang Côn đến tận biên giới Thổ-phồn. Y xua tàn quân vào nước này. Vì Thổ-phồn là một nước hùng mạnh, nên ông truyền quân ngừng lại, giao cho hai tộc trưởng thuộc Mông-cổ dùng quân cơ hữu dàn giữa biên giới hai nước, hễ thấy y trở lại thì bắt giết. Thủ-Huy họp chư tướng, Đạo-sư, các Khả-hãn, các Hãn, các nhà quý tộc, nghị việc đánh Trác Mộc Hợp, thì Biên Gô Đài dẫn hai mươi chín tộc trưởng theo Trác Mộc Hợp, được chiêu dụ đã kéo bộ tộc đầu hàng Mông-cổ. Họ cho biết, Trác Mộc Hợp đươc tin chỉ một đêm, năm vạn quân nòng cốt của Tang Côn bị đánh tan, các bộ tộc bỏ theo Mông-cổ gần hết. Y đã dẫn các bộ tộc trực thuộc cùng hơn vạn quân bỏ chạy về hướng Nam. Thủ-Huy ra lệnh cho Dược Sơ Đài, Bác Khô La : – Chúng bỏ chạy cùng với gia đình, thì xe, ngựa, đàn bà, trẻ con cồng kềnh, nên rất chậm. Hai huynh đem bản bộ quân mã, mỗi kỵ binh mang theo thêm một ngựa, đuổi theo bất kể ngày đêm. Khi đuổi kịp, mà chúng bỏ chạy thì dùng Lôi-tiễn nã lên đầu chúng để uy hiếp tinh thần. Còn nếu chúng dàn quân nghinh chiến thì dùng Thần-nỏ mà bắn. Hai tướng tuân lệnh lên đường liền. Ba ngày sau, Dược Sơ Đài, Bác Khô La trở về, dẫn theo chín tộc trưởng cùng dân chúng đầu hàng. Biên Gô Đài tiếp nhận, xếp đặt cai trị. Dược Sơ Đài báo cáo : – Thưa phò mã, khi chúng tôi đuổi kịp, dùng Lôi-tiễn nã lên đầu bọn Trác Mộc Hợp. Y kinh hoàng dẫn quân bỏ chạy, để các tộc trưởng với dân chúng lại. Các tộc trưởng xin hàng. Tôi để Bác Khô La tiếp quản, rồi dẫn quân đuổi theo. Trác Mộc Hợp dẫn quân tràn vào Nãi-man ẩn thân, vì vậy chúng tôi mới kéo quân về. Cát Xa tổ chức khao quân cực kỳ to lớn. Trong buổi lễ khao quân, chư tướng cũng như các tộc trưởng, các Hãn đều cúi đầu bái phục Thủ-Huy. Họ tin rằng trời đã đem Thủ-Huy lại cho họ. Hơn tháng sau, sứ giả của Đại-hãn Thiết Mộc Chân tới xin vào ra mắt Thủ-Huy. Sứ giả chính là Tốc Bất Đài, bạn thân với Thủ-Huy . Vừa thấy Thủ-Huy, y nói trước : – Đệ tới đây báo tin mừng cho đại ca biết. Cả hai đạo quân đánh kinh đô Khắc-liệt lẫn Hoa-lâm đều thành công. Đại-hãn, các Khả-hãn, các Hãn, các nhà quý tộc đều hết lòng khâm phục phò-mã, công chúa. Ai cũng nói, hai vị mới là sứ giả mà trời sai xuống giúp Mông-cổ. Anh em Đạo-sư Cốc-Chu mất hết uy tín. Các Khả-hãn của Khắc-liệt trên trăm năm qua đều hân hoan theo Mông-cổ. Lãnh thổ Khắc-liệt nay thuộc ta. Y thuật lại trận đánh kinh đô Khắc-liệt : Đạo quân của Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài, Triết Biệt âm thầm đi vòng xuống Nam, tiến đánh kinh đô Khắc-liệt. Trên đường đi, không gặp một đội quân tuần phòng nào của Tang Côn. Tất cả tới vùng lân cận kinh đô vào lúc trời chập choạng tối. Sáu Thiên-phu Lôi-kỵ, Ba Thiên-phu Thân-binh, sáu Thiên phu chính binh chia làm sáu mũi, thình lình tấn công vào 18 bộ tộc. Bị bất ngờ, hơn nữa hầu hết quân sĩ của các Hãn đã theo Tang Côn chinh tiễu xa. Các quý tộc, các Hãn đầu hàng. Họ kinh ngạc vô cùng khi quân Mông-cổ không bắt dân đem đi làm nô bộc. Cũng không cướp gia súc. Họ chỉ bắt các Hãn theo làm con tin, bắt trai tráng thuộc hàng quý tộc theo để khuân vác quân dụng. Vương trưởng tử Truật Xích chiêu mộ các Hãn, quý tộc, truyền cho họ tuyên thệ bỏ Khắc-liệt theo Mông-cổ. Họ vui vẻ tuân hành, vì họ biết rằng từ nay bộ tộc của họ được sống dưới quyền cai trị của Thiết Mộc Chân sẽ hạnh phúc hơn sống dưới quyền Tang Côn. Công việc hoàn tất trong đêm. Sáng hôm sau, Bác Nhĩ Truật cho tiến quân vào trung ương kinh đô, khu vực 10 bộ tộc của các thân vương Khắc-liệt, thì chỉ thấy lều trại, nhà cửa trống không. Người cũng như quân trú phòng đều rút vào trong ngôi thành đá. Đây là ngôi thành dài, rộng tới 10 dặm (5km), cao 8 trượng (4m). Trên mặt thành có chỗ núp cho quân trú phòng. Người trấn thủ kinh đô Khắc-liệt là em ruột Vương-hãn tên Gia Gam Bu. Hôm trước tuy bị bất ngờ, bị Mông-cổ chiếm mất 18 bộ tộc, song y là người mưu trí, thiện chiến. Ngay trong đêm, y kịp thời suất lĩnh quân đội, tráng đinh của 10 bộ tộc thân vương, rút vào trong thành đá phòng thủ. Y bàn vơí các Hãn, các thân vương, quý tộc : – Mông-cổ chỉ có một vạn hai nghìn quân, trong khi ta có tới một vạn quân phòng thủ với hai vạn quân bộ tộc. Thành của ta cao, xây bằng đá, làm sao bọn Bác Nhĩ Truật có thể đánh nổi ? Trước đây hùng mạnh như Nãi-man, đã hy sinh năm vạn quân, mà cũng không vào được thành. Bây giờ ta cứ để cho Bác Nhĩ Truật tấn công hai ba ngày, quân số hao hụt, mệt mỏi, bấy giờ ta phản công, thì tiêu diệt được bọn này. Trong khi đó bên ngoài, Bác Nhĩ Truật họp các tướng lại bàn kế đánh. Vương trưởng tử Truật Xích đưa ra ý kiến : – Dàn bốn Thiên-phu Lôi-kỵ tại bốn cửa thành với các dàn Thần-nỏ. Hai Thiên-phu Lôi-kỵ cùng bốn Thiên-phu Thân-binh, sáu Thiên-phu chính binh phục trên các ngả đường rút quân. Rồi đợi nửa đêm nã Lôi-tiễn đốt hết nhà cửa, kho lẫm . Ta nướng chả Gia Gam Bu , tận diệt bọn thân vương, bọn quý tộc Khắc-liệt cùng vợ con chúng. Đệ nhị vương tử Oa Khoát Đài không đồng ý. Y lý luận : – Nếu như đánh Khắc-liệt để trả thù thì nên hành động như vậy. Còn bây giờ ta diệt Vương-hãn, thu dân Khắc-liệt về với ta, ta phải làm sao tránh cái chết cho dân chúng, để thu phục nhân tâm. Trước hết ta gửi sứ giả vào nói với các thân vương, các Hãn, các nhà quý tộc rằng Tang Côn, Vương-hãn bị đánh tan. Nếu họ đầu hàng, thì địa vị vẫn được giữ nguyên. Còn như chống lại thì sẽ bị giết sạch. Dĩ nhiên họ không đầu hàng, vì chưa biết lợi hại của Lôi-tiễn. Bấy giờ ta mới nã Lôi-tiễn, trong thành ngập lửa, ắt sẽ có nhiều Hãn mở cửa thành ra đầu hàng, hoặc Gia Gam Bu tung quân đánh ra, ta dùng Thần-nỏ tiêu diệt. Các tướng đồng ý đường lối hành động của Oa Khoát Đài. Một Hãn thuộc Khắc-liệt đầu hàng được cử đi sứ. Gia Gam Bu cùng các thân vương không tin lời của sứ giả rằng Vương-hãn với Tang Côn bị đánh bại. Họ cũng không tin Mông-cổ có Lôi-tiễn, Thần-nỏ. Biết không đừng được, Trần Tử-Kim chỉ huy đội võ sĩ Long-biên mở những bó gỗ ráp thành cái đài cao 8 trượng (16m), đưa một dàn Thần-nỏ đặt trên đài rồi mời Bác Nhĩ Truật, Truật Xích cùng lên quan sát tình hình bên trong. Bác Nhĩ Truật chỉ cho Tử-Kim, chỗ nào là dinh thự của các thân vương, chỗ nào là kho tàng. Tại bốn cửa thành, các kị mã dàn thành hàng. Oa Khoát Đài chỉ kị mã nói : – Tình hình thế kia, thì Gia Bu Gam sẽ mở cửa thành đánh úp ta ngay đêm nay. Ta phải chuẩn bị sẵn để chờ đón y. Bác Nhĩ Truật xuống đài, bố trí bốn Thiên-phu bốn cửa thành. Hai Thiên-phu khác chặn các ngả rút quân chờ đợi. Lại đặt các dàn Thần-nỏ vào những vị trí chờ đợi. Trong khi Tử-Kim ra lệnh cho bốn đội trưởng Lôi-tiễn rằng khi có lệnh thì nã vào khu vực sát các cổng thành, nơi quân Khắc-liệt tập trung. Đúng nửa đêm, Bác Nhĩ Truật leo lên đài hỏi Tử-Kim : – Huynh đệ ! Liệu huynh đệ có thể bắn một mũi Lôi-tiễn vào ngôi lâu đài cao bốn tầng kia không ? Đó là cung điện của Vương-hãn đấy ! – Được ! Thủ-Huy cho dương cung. Đây là cây cung cực lớn, phải cần đến hai võ sĩ mới dương nổi, rồi đặt một ống Lôi-tiễn vào. Tử-Kim đánh lửa trao cho Truật Xích : – Xin vương tử khai nỏ. Truật Xích châm lửa vào đầu Lôi-tiễn, lửa gặp dầu cháy bùng lên. Tử-Kim hô : – Bắn ! Mũi Lôi-tiễn vọt đi, thành một vệt lửa đỏ-xanh-tím, vừa tới nóc dinh thự thì phát nổ. Tiếng nổ vang rền như sấm. Tiếp theo, một trái cầu lửa chụp lên trên nóc dinh. Dinh bốc cháy ngùn ngụt. Dân chúng trong thành la hoảng, trong khi quân ngoài thành cùng hú lên tỏ ý reo mừng Mũi Lôi-tiễn đó là lệnh khai hỏa. Các dàn Lôi-tiễn cùng bắn một lượt. Không đầy một khắc cả thành biến thành một biển lửa. Trong biển lửa , tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng thú rống lên lẫn lộn vào nhau. Quân sĩ phòng vệ trên mặt thành quẳng vũ khí đi cứu hỏa, mặc cho các tướng hò hét, quát tháo. Trong ánh lửa chập chờn, Bác Nhĩ Truật nhìn rõ Gia Gam Bu tập họp binh sĩ gần bốn cửa thành. Rồi bốn cửa thành cùng mở tung. Các đoàn kị mã Khắc-liệt từng Bách-phu ào ạt xung ra ngoài. Khi Bách-phu thứ nhì vừa rời cổng thành, thì Nỏ-thần tác xạ. Chỉ một loạt, hai trăm người bị trúng tên lộn xuống ngựa. Người nào may mắn thoát khỏi, thì bị phục binh bắn hạ. Ngựa không người điều khiển, con chạy vào thành, làm các Bách-phu sau bị ùn lại. Cũng có con chạy tỏa ra ngoài, thì bị bắt. Trong khi đó Lôi-tiễn vẫn chụp lửa lên đầu đội hình các đội quân còn ở trong thành. Mặc sự hỗn loạn ở các cổng. Các tướng Khắc-liệt vẫn hô kị mã xông ra khỏi thành. Nhưng ra bao nhiêu bị bắn gục bấy nhiêu. Sau khi mỗi cổng xua hơn mười Bách-phu xông ra, đều bị bắn ngã, xác người nằm chồng chất giữa cửa thành. Quân bên trong không ra được nữa, mà Lôi-tiễn vẫn nổ trên đầu. Gia Bu Gam ra lệnh đóng cổng thành. Y kiểm điểm lại, với một vạn hai nghìn quân, bị chết khi đánh ra mất bốn nghìn. Hơn ba nghìn chết vì Lôi-tiễn, còn lại, hầu hết bị phỏng do Lôi-tiễn gây ra. Dinh thự, lều trại bị cháy mất một phần ba. Phân nửa các Khả-hãn, Thân-vương, Hãn, quý tộc bị chết, bị thương. Bác Nhĩ Truật ra lệnh ngừng nã Lôi-tiễn, cho rút quân ra xa hơn hai dặm, rồi sai sứ vào chiêu hàng, với lời hứa : Các Khả-hãn, Thân-vương, các Hãn đều được giữ nguyên lãnh thổ, của cải, vợ con. Được đối xử bình đẳng như các Hãn trực thuộc Mông-cổ. Tuy nhiên quân sĩ, thì phải đặt thống thuộc Mông-cổ. Họ quyết định xin hàng. Duy Gia Bu Gam, biết rằng khi đầu hàng thì tính mệnh y khó bảo toàn. Y cùng một đội vệ sĩ mở cửa thành phá vòng vây chạy ra ngoài. Y bị Triết Biệt bắn chết. Chiếm được Kinh-đô Khắc-liệt xong. Bác Nhĩ Truật trao việc bình định mấy trăm bộ tộc còn lại cho vương trưởng tử Truật Xích, Oa Khoát Đài, rồi cùng Tốc Bất Đài, Triết Biệt đem quân đi phục kích bắt Vương-hãn. Đạo quân của Đại-hãn tiến đánh bản doanh Vương-hãn thì gặp sức chống trả mãnh liệt. Tuy có Lôi tiễn, Thần-nỏ yểm trợ, mà Gia Luật Mễ đánh doanh trung ương của Vương-hãn phải trọn đêm mới thành công. Khi Vương-hãn bỏ chạy, thì các bộ tộc Mông-cổ cùng nổi dậy đánh đuổi các đội quân của Vương-hãn đóng kiềm chế họ. Hiện lãnh thổ Mông-cô đã được phục hồi. Còn Vương-hãn cùng tàn quân chạy về Khắc-liệt, đi đến giữa đường thì lọt vào trận phục kích cuả Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài. Toàn quân tan vỡ. Ông ta dẫn một số cận thần tràn vào lãnh thổ Nãi-man ẩn thân. Thủ-Huy cùng Tốc Bất Đài về Hoa-lâm. Thiết Mộc Chân dàn hơn một vạn quân kỵ ra, rồi chính ông cùng Đoan-Nghi, dẫn các con, các em, các tướng đi đón Thủ-Huy. Vào doanh trung ương, ông thân cắt thịt nướng, tay bưng rượu trao cho Thủ-Huy, rồi hỏi : – Phò mã ! Trước đây, Vương-hãn vừa là chúa, vừa là cha nuôi, cũng chưa từng được đón tiếp trọng thể như vậy. Hồi đệ lục hoàng tử Kim là Hoàng Nhan Hồng Liệt sang phong chức tước cho tôi, cũng không được tiếp đón nồng hậu như thế này. Không biết như vậy đã làm phò mã vui lòng chưa ? Thủ-Huy đáp không suy nghĩ : – Chưa ! Tất cả mọi người đều sửng sốt. Thiết Mộc Chân hỏi : – Phải như thế nào phò mã mới vui lòng ? Hay tôi cắt đất Khắc-liệt, mời phò mã làm Khả-hãn nước đó ? – Bao nhiêu công lao của vợ chồng chúng tôi, của Vương Thúy-Thúy của Trần Tử-Kim đã lập được với Mông-cổ, chỉ xin Đại-hãn ban cho ba đặc ân. Cả một doanh có đến hơn nghìn người đều im lặng nghe năm điều mà Thủ-Huy xin. Thủ-Huy trịnh trọng nói : – Điều thứ nhất tôi xin là Khả-hãn hãy lên ngôi Thành Cát Tư Hãn, lĩnh mệnh trời, đem lại hạnh phúc cho dân thảo nguyên. Vì nếu vùng thảo nguyên có một vị chúa tể, thì không còn chia năm sẻ bẩy, không còn chém giết nhau, dân chúng không còn khổ sở. Khi Mông-cổ là nước thống nhất thảo nguyên, thì các nước xung quanh như Thổ-phồn, Nãi-man, Tây-liêu, Đại-kim, Đại-Tống còn bắt các tộc trưởng quy phục, còn xui các bộ tộc chém giết nhau nữa ! Điều mà Thủ-Huy đề nghị, chính là ước mơ thầm kín bấy lâu của Thiết Mộc Chân, mà không bao giờ ông dám hé lộ. Vì chỉ cần ông hé lộ thôi, thì Khắc-liệt, Nãi-man, Tây-liêu sẽ xúm vào diệt ông ngay. Trong nội bộ, các Khã-hãn cũng tách ra chống ông. Bây giờ trong lúc chiến thắng Khắc-liệt, lại có đội quân hùng mạnh trong tay, ông cũng có ý đó. Ông chưa nói ra mà chính người khách ở xa đến, nhân danh hạnh phúc của dân chúng đề nghị lên với ông. Đến nằm mơ ông cũng không ngờ tới. Khả-hãn Đa Di Đài là người theo Mông-cổ từ lâu, gần đây, y theo Khắc-liệt đánh Mông-cổ. Bây giờ y bị Bác Khô La bắt sống, được Thiết Mộc Chân ân xá. Nghe Thủ-Huy đề nghị, y kinh hoàng hỏi : – Theo phò mã đề nghị, như vậy từ nay bãi bỏ hết các Hãn, Khã-hãn hay sao ? Câu hỏi của Đa Di Đài cũng là câu hỏi của tất cả các lãnh chúa mấy trăm tộc hiện diện. Thủ-Huy xua tay : – Tôi chưa nói hết ý ! Truyền thống tổ chức của Thảo- nguyên vẫn duy trì chứ đâu có bỏ. Đa Di Đài hỏi : – Vậy thì. ! ? ! ? – Tổ chức lãnh thổ của Mông-cổ như sau. Mỗi tộc có một tộc trưởng. Tộc trưởng cũ vẫn cai trị tộc mình theo lối cha truyền con nối. Các tộc trưởng phải được Hãn của tộc bổ nhiệm. Các tộc trưởng thở phào ra, như thoát một tai ách ghê gớm nhất đời. Thủ-Huy tiếp : – Nhiều tộc thành một bộ tộc. Mỗi bộ tộc có một Hãn cai trị. Các Hãn này do cha truyền con nối. Các Hãn phải được Khả-hãn của tiểu quốc tấn phong. Nhiều bộ tộc lập thành một tiểu quốc, trên có một vương tước hay Khả-hãn cai trị. Các Khả-hãn phải được Đại-hãn của nước mình tuyên phong. Nhiều tiểu quốc lập thành một nước, trên có một Đại-hãn cai trị. Nhiều nước lập thành một Đại Mông-cổ do một Thành Cát Tư Hãn cai trị. Thành Cát Tư Hãn ban sắc chỉ phong cho các Đại-hãn. Thiết Mộc Chân hỏi các tướng, các Đại-hãn : – Xin cho biết ý kiến ? Tổng Đạo-sư Cốc Chu, cùng ba Tổng Đạo-sư Thát Minh, Miệt Hác, Ngột Thai cùng đứng lên nói lớn: – Chúng ta đã bay lên trời. Thượng-đế Mặt-trời phán rằng Thiết Mộc Chân là con của người, phải lên ngôi Thành Cát Tư Hãn, cai trị dân chúng dưới gầm trời này. Thế là toàn thể cử tọa hô lớn: – Thành Cát Tư Hãn muôn năm! Các tướng, các Đại-hãn, Khả-hãn cùng reo hò. Thiết Mộc Chân hỏi : – Ước nguyện thứ nhì của phò mã là gì ? – Trước đây chỉ vì tập tục Mông-cổ phân biệt ra nhiều loại dân, đến nỗi Thành Cát Tư Hãn phải chia tay với Trác Mộc Hợp mà tạo thành một thế lực thù hận bấy lâu. Bây giờ Đại-hãn đã lên ngôi Thành Cát Tư Hãn. Đương nhiên sau này người sẽ cắt đất phong cho các em, các con, các tướng làm Đại hãn cai trị các nước. Vậy ngay bây giờ xin Thành Cát Tư Hãn hãy bỏ những tập tục bắt dân các nước bị thua trận làm nô lệ, cho họ được bình đẳng với dân Mông-cổ, để tránh tạo thành những Trác Mộc Hợp khác. Thiết Mộc Chân dơ tay thề : -Tôi xin tuân lời dạy dỗ của phò mã. Xin phò mã cho biết điều ước nguyện thứ ba. Thủ-Huy ghé miệng vào tai Thiết Mộc Chân nói một lúc. Không ai biết công nói gì, chỉ thấy Thiết Mộc Chân gật đầu liên tiếp.(2) Ghi chú của thuật giả : (1) Các sử gia Trung-quốc, Liên-sô, Đức, Iran, Iraq, Ba-lan, Hung-gia-lợi, Afghanistan đương thời cũng như sau này chỉ biết rằng Mông-cổ có chín đại tướng, được Thành Cát Tư Hãn coi như chân tay, trao cho chỉ chỉ huy chín binh đoàn. Sau được phong thân vương. Lại được ông ban cho vinh dự biểu hiệu trên quốc kỳ. Nhưng không sử gia nào biết rằng đầu tiên họ chỉ là Thiên-phu trưởng. Rồi dần dần theo nhu cầu chiến trường, các Thiên-phu thành Vạn-phu, rồi Vạn- phu thành Binh-đoàn (Binh-đoàn tương đương với ngày nay là quân-đoàn). Họ lại càng không biết ai đã huấn luyện, đã tuyển chọn các tướng này cho Mông-cổ. Chỉ độc giả Anh-hùng Đông A mới biết rõ mà thôi. (2) Thành Cát Tư Hãn, theo ngôn từ vùng thảo nguyên thì có nghĩa là ông vua lớn nhất, uy quyền nhất dưới gầm trời. Tây-phương phiên âm thành Gengis Khan. Kể từ ngày Thiết Mộc Chân lên ngôi Thành Cát Tư Hãn đến nay, trải qua 700 năm, không sử gia nào biết rằng cái tên này phát xuất trong trường hợp nào? Ai đã đặt ra? Chỉ độc giả Anh-hùng Đông A là biết rõ mà thôi. Hồi thứ ba mươi hai Ai hay vĩnh quyết là ngày chia ly (Đoạn-trường tân thanh) – Bắn! Mũi tên xé gió hướng vào con thỏ đang chạy phía trước. Bị trúng tên, con thỏ lật ngược, bốn chân hướng lên trời, dãy loạn xạ. – Cháu tôi bắn giỏi quá! Thúy-Thúy cất tiếng khen: Thôi đủ rồi. Hôm nay Thủ-Độ của cô bắn được hai con thỏ, một con ngỗng trời, giỏi quá! Giỏi hơn con chó Quít nữa. Thủ-Độ nhảy xuống ngựa, cầm lấy con thỏ, bỏ vào cái túi bên hông, rồi nó tung mình lên cao, tà tà đạp xuống lưng con tuấn mã mầu đen tuyền. Nó gò cương cho ngựa đi song song song với Thúy Thúy, rồi hỏi: – Cô ơi! Ở quê mình có thỏ, có ngỗng không? – Có chứ! Thỏ ở quê mình không nhiều bằng ở đây, nhưng ngỗng thì nhiều hơn. – Thế quê mình có beo không? – Beo ở quê mình nhiều hơn ở đây. Nó chỉ vào cánh đồng đầy hoa hỏi: – Thế quê mình có nhiều hoa không? – Nhiều, nhiều lắm. Quê mình có nhiều trái ngọt, mà ở đây không có. Những trái thơm ngọt như mít, như dứa thì ở đây chả có trái nào có thể so sánh. Kỳ này về quê, con tha hồ mà ăn. – Bố nói, về quê con sẽ được gặp ông bà nội, gặp bác Lý, gặp cô Kim-Ngân, gặp anh Thừa, anh Khánh. Mẹ bảo, về quê con được gặp bà ngoại. Con có ba người cậu. Một người là vua, còn hai người là vương. Con sẽ được gặp nhiều em, con của các cậu. Chúng nó với con tha hồ chơi đùa. Cậu sẽ phong tước cho con. Ông nội sẽ dậy võ. Võ công con sẽ cao bằng bố … Tại sao cô không về với con? – Vì cô không thể về được! Cô mà về thì sẽ bị giết. Đến đó, bốn con ngựa cùng phi như bay tới. Trên lưng ngựa là bọn thiếu niên ngang tuổi, bạn thân của Thủ-Độ. Đây là đám con cháu của Thành Cát Tư Hãn với con của các Đại-hãn, Thân-vương. Chúng rủ Thủ-Độ đi săn lần cuối, trước khi lên đường về Đại-Việt. Trong đám trẻ đó, Thành Cát Tư Hãn đã sắp xếp thứ tự như sau: Đứng đầu là con của Thái-tử Oa Khoát Đài tên Hốt Tất Liệt. Thủ-Độ đứng thứ nhì. Thứ ba là Ngột Lương Hợp Thai, con của Tốc Bất Đài. Thứ tư đến Bạt Đô, con của Bác Nhĩ Truật. Cuối cùng là A-lý Hải-nha, con của quân sư A-lý Hải. Ông gọi năm trẻ bằng mỹ danh Thảo Nguyên Ngũ Điêu (Năm con chim điêu bằng thép của thảo nguyên). Ngột Lương Hợp Thai dơ lên một con trĩ: – Này anh em! Tôi bắn được con trĩ, lát nữa chúng ta nướng lên, tiễn Thủ-Độ về nước. Hốt Tất Liệt cũng đưa ra một con chồn hương: – Này Thủ-Độ coi! Hơn năm nay, loại chồn hương tưởng tuyệt giống, không ngờ ta bắn được một con. Trước đây ông nội ta bắn được con chồn hương, ai cũng bảo đó là đềm người sẽ lập ra một nước hùng mạnh. Sau quả đúng như thế. Bây giờ chúng ta tiễn Thủ-Độ về, mà bắn được chồn hương này. Biết đâu Thủ-Độ về Đại-Việt không lập ra một nước lớn. Năm trẻ cười nói, đầy hỉ khí. Chúng rong ngựa, vừa đi, vừa đùa vơí nhau. – Anh Thủ-Độ này. Ngột Lương Hợp Thai chỉ Thúy-Thúy: Nghe sư phụ nói, ở Đại-Việt có nhiều hoa thơm, trái ngọt, lại có nhiều sông hồ. Dưới sông tôm cá nhúc nhúc. Trên rừng có không biết bao nhiêu loại thú mà kể. : Hay là anh nói với công chúa, công chúa mang cả năm đứa chúng mình về Đại-Việt chơi đi. A-lý Hải-Nha reo lên: – Phải đấy. Thúy-Thúy can thiệp: – Các con có biết đường từ đây về Đại-Việt xa diệu vợi không? Vừa đi vừa về cũng mất ba tháng. Đời nào Thành Cát Tư Hãn cho các con đi nhỉ! Đám trẻ xịu mặt xuống. Bạt Đô quay sang Thủ-Độ: – Như vậy anh hai đi bao lâu thì về? – Mẹ nói, ít ra là ba năm! – Ái chà! Nhìn lên trời, thấy vầng kim ô đã ngả về Tây, Thúy-Thúy nhắc bọn trẻ: – Ta về thôi! Dễ thường gần Ngọ rồi. Đám trẻ ngoan ngoãn: – Tuân lệnh sư mẫu. Thủ-Độ ra roi quát lên một tiếng: – Mau! Năm con ngựa vọt lên như tên bắn. Thúy-Thúy vội phi ngựa theo. Nàng ngửa mặt nhìn về chân trời xa xa, bất giác buông một tiếng thở dài! Cho đến hôm nay Thúy-Thúy theo Thủ-Huy Đoan-Nghi lên vùng thảo nguyên đã sáu năm, Trần Thủ Độ đã sáu tuổi. Sau khi Thủ-Huy giúp Thiết Mộc Chân thắng Khắc-liệt, không những khôi phục lại lãnh thổ, mà còn chiếm luôn lãnh thổ của Vương-hãn, nước Mông-cổ trở thành rộng lớn bao la, dân chúng đông đúc hơn ba nước láng giềng là Nãi-man, Thổ-phồn, Tây-liêu, chỉ thua có Tây-hạ với Đại kim mà thôi. Thiết Mộc Chân ngỏ ý muốn dựng cho Thủ-Huy một dinh thự theo ý muốn của công. Công nhờ Thúy Thúy vẽ lại điện Uy-viễn là nơi đặt Khu mật viện, để làm nơi nghị sự. Lại vẽ cung Long-thụy là nơi nhà vua ngủ, để làm chỗ ở. Cả hai dinh thự xây bằng đá, mái cong, lợp ngói xanh, xung quanh trồng kỳ hoa dị thảo. Thiết Mộc Chân cấp cho Thủ-Huy đủ mọi tiện nghi như một Đại-hãn. Dinh thự của Thủ-Huy Đoan-Nghi nằm cạnh dinh thự của Tử-Kim, Long-Tùng, Đoan-Thanh. Trần Tử-Kim được phong cấp đại tướng, ngang hàng với bọn Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài, phụ trách toàn bộ việc luyện quân của Mông-cổ. Đoan-Nghi gả Đoan-Thanh cho Tử-Kim. Lễ cưới lớn chưa từng có. Một trong những điều khó khăn của Thủ-Huy là Thúy-Thúy. Ngay từ hôm gặp nhau đầu tiên, Long Tùng đã say mê nàng đến điên đảo thần hồn. Thúy-Thúy biết thế, nhưng nàng rửng rưng. Một lần Đoan-Nghi nói thẳng với nàng. Nàng đáp : – Tấm lòng của thế-tử Long-Tùng tiểu tỳ đã biết từ lâu. Tiểu tỳ đâu phải gỗ đá mà không cảm động? Công chúa lại có lòng tốt, xây dựng lại cuộc đời cho tiểu tỳ. Tiểu tỳ thâm cảm vô cùng. Nhưng…nhưng… trong tâm tiểu tỳ không còn chỗ nào để nhận đóa hoa hải đường của thế tử cả. Theo đề nghị của Thủ-Huy, Thành Cát Tư Hãn phong cho Thúy-Thúy làm thảo nguyên tiên-tử. Nàng được kính trọng bằng một đại tướng quân. Hoàng-hậu Bật Tê nhờ nàng dạy chữ, luyện võ cho con cháu các Đại-hãn, Thân-vương. Các võ sĩ thuộc đội Long-biên được phong cấp Thiên-phu trưởng. Mỗi người đều được cấp quân hầu, nô lệ. Trong cuộc đánh chiếm Khắc-liệt, các chiến lợi phẩm thu được không biết bao nhiêu mà kể. Trong số đó có trên năm nghìn thiếu nữ xinh tươi. Thiết Mộc Chân truyền lệnh tặng cho các võ sĩ Long-biên, mỗi người mười mĩ nữ, tùy ý lựa chọn. Song Đoan-Nghi chỉ cho mỗi người chọn một mĩ nữ làm vợ mà thôi. Người nào cũng có nô lệ, tỳ nữ, lều trại sang trọng. Họ được chia thành mười đội, mỗi đội năm chục người, gửi đến các bộ tộc, huấn luyện binh -tướng cho các Đại-hãn. Sau khi bị Khắc-liệt đánh phá, khi phục hồi lãnh thổ, Thiết Mộc Chân cùng các con, em, các tướng phải làm việc ngày đêm để kiến thiết lại, lại cũng phải lo tổ chức cai trị Khắc-liệt. Trước chiến thắng, trước thành công, nhưng các Đại-Hãn, các tướng vẫn thấy Thiết Mộc Chân thường đăm chiêu, lo lắng, mất ngủ. Hơn nữa hay gắt gỏng. Ông thường đóng cửa, ngồi một mình, đôi khi nói lảm nhảm. Ngự y cắt thuốc cho ông uống, ông ừ hự rồi đổ thuốc đi. Chín đại tướng, ba người em, bốn người con của ông tìm đến dinh Thủ-Huy Đoan-Nghi để vấn kế. Phân ngôi chủ khách xong, Mộc Hoa Lê lên tiếng: – Thành Cát Tư Hãn thình lình lâm bệnh. Tôi nghe sư phụ nói rằng, cách đây gần trăm năm, Thánh tăng Minh-Không có chế ra một loại thần dược mang tên Kiên não định thần hoàn hay Định tâm hoàn, Chúng tôi xin phò mã sai chim ưng về Đại-Việt xin ít viên để trị cho người. Thủ-Huy mỉm cười: – Bệnh của Thành Cát Tư Hãn tôi e Định-tâm hoàn cũng vô phương. Cát Xa kinh hãi: – Thưa phò mã, không lẽ cứ để anh tôi trong tình trạng này ư? – Bệnh nao cũng có căn. Nếu ta trừ đươc cái căn của nó, thì khỏi ngay. Hồi ở Đại-Việt tôi cũng học qua y lý. Tôi xin trị cho người. Tuy nhiên, dược liệu hơi khó tìm đấy. Nếu như mọi người trong chúng ta cùng cố gắng thì khó gì. Tốc Bất Đài chắp tay: – Đại huynh, dù khó khăn đến mấy, chúng tôi cũng xin cố gắng. – Vậy thì được. Chúng ta hãy đến dinh của người. Nghe chồng nói, Đoan-Nghi ngẩn người ra, nàng dùng Lăng-không truyền ngữ hỏi chồng: – Từ hồi nào đến giờ, em có nghe nói anh học y đâu, mà đòi trị bệnh? Anh đừng có đùa như vậy! – Em yên tâm. Thủ-Huy Đoan-Nghi thay y phục, cùng mọi người đến căn lều vĩ đại của Thành Cát Tư Hãn. Viên trưởng toán cận vệ ngăn lại: – Thành Cát Tư Hãn có lệnh, tuyệt đối không cho ai vào. Người không được khỏe. Cát-Xa ra lệnh: – Người vào báo rằng có phò mã, công chúa đến thăm. Tên đội trưởng ngần ngừ một lát rồi trở vào. Lát sau y ra, mở rộng cửa doanh, mời mọi người nhập đại doanh. Bên trong, Thành Cát Tư Hãn đứng chờ khách. Quanh ông, ngoài chánh cung Bật Tê còn có mười hai sủng phi chầu chực hầu hạ. Lại có cả Tổng Đạo-sư Cốc Chu với các em đang ngồi trước bàn thờ Thượng-đế Mặt-trời, để xin ngài chữa bệnh cho Tư-hãn. Tư-hãn nói bằng âm thanh trầm trầm, dáng mệt mỏi cùng cực: – Phò mã, công chúa! Tôi không được khỏe, đâu dám phiền các vị phải giá lâm. Ông nói với các tướng: – Anh em đừng quá lo nghĩ cho sức khỏe của tôi. Nào mời các vị ngồi. Bác Nhĩ Truật đứng dậy: – Thành Cát Tư Hãn khó ở khiến chúng tôi không yên. May mắn thay, Trần huynh đệ nói rằng người biết rõ căn bệnh huynh trưởng, nên chúng tôi mới thỉnh đại giá người tới đây. Tổng Đạo-sư Cốc Chu gạt ngang: – Rõ ràng Thượng-đế Mặt-trời bảo rằng Tư-hãn phải bị bệnh trong một năm. Nay mới được bẩy tháng, thì ai mà chữa được? Không lẽ Trần Thủ-Huy lại hơn cả Thượng-đế? Cát Xa nổi cáu: – Tư-hãn lâm bệnh hơn nửa năm qua. Lúc đầu Đạo-sư nói rằng đã xin Thượng-đế trị cho người chỉ trong vòng mười ngày thì khỏi. Rồi sau lại nói một tháng! Bây giờ lại nói một năm! Rõ ràng Đạo-sư nói dối. Cốc Chu quát: – Người không được hỗn. Cát Xa cũng quát lại: – Tôi nhắc lại, Đạo-sư nói láo chứ không phải nói dối. Trong trận đánh Vương-hãn, Tang Côn, Đạo sư luôn miệng nói rằng Thượng-đế truyền án binh bất động, ra quân tất bại. Thế sao chúng tôi ra quân lại thắng??? Tư-hãn bảo Cát Xa, Cốc Chu: – Hãy ngừng tranh luận! Để phò mã thử nói căn bệnh của tôi xem sao? Ông hỏi Thủ-Huy: – Phò mã đã biết cái căn bệnh của tôi. Tôi xin nghe cái căn mà phò mã cho rằng nó tạo thành bệnh của tôi. Thủ-Huy đưa mắt nhìn các tướng, các em, các con của Thiết Mộc Chân rồi nói: – Bệnh của Tư-hãn có ba cái căn. Căn thứ nhất gọi là Tâm hư. Tâm-hư đây chẳng qua do lo nghĩ quá độ mà sinh ra. Y-kinh nói rằng: Tâm tàng thần, tâm chủ thần trí. Khi tâm hư, thì thần không định, chí không kiên, do vậy mới sinh ra mất ngủ, người mề mệt. Thành Cát Tư Hãn ngồi nhỏm dậy: – Phò mã đã nói đúng căn bệnh của tôi. Vậy thì phải dùng thuốc gì mà trị? – Muốn trị căn bệnh của Tư-hãn, phải dụng lối Dĩ loại bổ loại. Nghĩa là muốn bổ tim thì phải ăn tim. Nếu như người thường bị bệnh thì chỉ cần ăn tim ngựa, tim heo, tim cừu, tim trâu và tim bò là đủ. Nhưng Tư-hãn là con nhà trời thì dùng tim thú trị sao cho khỏi? Phàm muốn cứu mạng của một người mệnh lớn như Tư-hãn đây, thì cần tới năm trái tim của năm người làm vị thuốc chính . – Năm người? Vậy thì đâu có gì khó! Cát Xa nói: Ta bắt năm tên nô lệ, giết đi lấy tim làm thuốc. – Khó chứ không dễ đâu. Người thế mạng cho Tư-hãn gồm năm loại khác nhau. Tim người thường thì không cứu nổi mệnh Tư-hãn được. Hoàng-hậu Bật Tê hỏi: – Thưa phò mã, thế phò mã cần tim của loại người nào? – Người thứ nhất, là một phi tần, mà Tư-hãn sủng ái. Mọi người đưa mắt nhìn mười hai sủng phi của Tư-hãn. Các sủng phi này đều là công chúa, con các Đại-hãn của những tiểu quốc trực thuộc Mông-cổ. Tất cả các nàng đều cúi gầm mặt xuống. Trong căn lều có đến hơn trăm người mà không một tiếng động. Thành Cát Tư Hãn hỏi: – Có nàng nào chịu cho ta trái tim để trị bệnh không? Các phi tần đều cúi gầm mặt xuống. Chánh-cung Bật Tê liếc con mắt lạnh lùng nhìn các sủng phi một lượt rồi nói: – Thưa phò mã, không biết trái tim của tôi có dùng được không? – Thưa nương nương được chứ! – Tôi xin tình nguyện chết cho Tư-hãn sống. Còn bốn trái tim nữa là của những loại nào? – Loại thứ nhì thì phải là một đạo sư. Mà là một đạo sư chưa từng phạm giới. Không biết trong các Đạo-sư đây có đạo sư nào chịu hy sinh cho Tư-hãn sống không? Các Đạo-sư hiện diện đều cúi gầm mặt xuống, không ai dám ngửa mặt lên. Thủ-Huy thở dài: – Nếu như không có vị nào tình nguyện, thì chúng ta cho rút thăm. Bốn anh em Cốc Chu cùng dẫy nẩy lên: – Trái tim chúng tôi dùng e vô ích, vì…vì… chúng tôi đã ngủ với đàn bà, không phải ngủ một lần, mà nhiều lần. Không phải một người mà nhiều người. Cát Xa cười nhạt: – Hừ! Cháy nhà ra mặt chuột. Thì ra các người phạm giới từ lâu! Thủ-Huy nói với Cốc Chu: – Không hề chi! Nếu như các vị đã phạm giới thì phải dùng hai trái thay cho một trái. Lát nữa đây chúng ta sẽ cho các vị rút thăm. Hai đạo sư nào trúng, thì tôi sẽ mổ ngực lấy trái tim ra làm thuốc! Tốc Bất Đài hỏi: – Thế loại người thứ ba là loại nào? – Loại này phải là con của Tư-hãn. Không biết trong bốn vị vương tử đây, vị nào chịu dâng trái tim để cứu phụ hoàng? Trong khi Truật Xích, Sát Hợp Đài, Đà Lôi cúi mặt xuống thì Oa Khoát Đài đứng dậy: – Thưa sư phụ, đệ tử nguyện dâng trái tim cứu phụ hoàng. – Tốt lắm. Bây giờ tới loại thứ tư. Loại này phải là một trong các đại tướng thân thiết của Tư-hãn. Không biết trong chín vị đây, vị nào tình nguyện? Cả chín đại tướng cùng lên tiếng: – Tôi! Tôi tình nguyện. – Hay lắm! Lát nữa tôi sẽ cho rút thăm, xem vị nào sẽ được cái hân hạnh cứu sống Tư-hãn. Bây giờ tới loại thứ năm. Loại này là một trong các em của Tư-hãn! Biên Gô Đài, Cát Xa, Tê Mô Gu cùng lên tiếng: – Tôi! Tôi xin dâng trái tim cứu anh tôi. – Tốt lắm. Nào bây giờ chúng ta cho các Đạo-sư rút thăm trước. Nhưng bốn anh em Cốc Chu nhân lúc mọi người không để ý, đã chuồn mất từ bao giờ. Có tiếng cãi vã ngoài viên môn. Cát Xa đưa mắt cho một vệ sĩ. Tên vệ sĩ chạy ra một lát rồi vào cung tay: – Thưa hoàng đệ. Tiểu Đạo-sư Cô Tô Cô đòi vào yết kiến Trần phò mã, mà viên đội trưởng không cho vào, rồi xẩy ra cuộc cãi vã. Thủ-Huy ra lệnh: – Người dẫn Cô Tô Cô vào đây. Cô Tô Cô vào, quỳ gối trước Thủ-Huy: – Sư phụ! Tất cả các Tổng Đạo-sư đều từ chối không chịu dâng trái tim cứu Tư-hãn. Đệ tử tự biết thân phận nhỏ bé, nhưng giữ giới cẩn thận. Đệ tử đi tu từ năm sáu tuổi, đến nay trải qua 14 năm, đệ tử nguyện dâng trái tim cứu Tư-hãn. Mong sư phụ nhận cho. – Được! Sư phụ nhận sự hy sinh của con. Thủ-Huy đứng dậy nói với Cát Xa: – Xin hoàng đệ giữ lại những ai tình nguyện dâng trái tim cho Tư-hãn trong doanh mà thôi. Còn tất cả phải ra ngoài. Thế là trong doanh còn lại chánh phi Bật Tê, vương tử Oa Khoát Đài, ba hoàng đệ, chín đại tướng, và Cô Tô Cô. Thủ-Huy nói với Tư-Hãn: – Một vị Vạn-thế sư-biểu là Khổng-tử nói rằng: Khi nhà có sự mới biết con hiếu. Khi nước có biến mới biết tôi trung. Làm gì có việc dùng tim người chữa bệnh? Chẳng qua là tôi bịa ra, để Tư-hãn biết ai trung, ai hiếu, ai đễ mà thôi. Tôi biết, Tư-hãn đang thành công, nhưng trước một rừng người, ai cũng tự xưng là người trung thành nhất, thành ra Tư-hãn phân vân, nghi ngờ. Do vậy tôi mới nặn ra việc dùng tim trị bệnh, để giúp Tư-hãn biết người mà thôi. Này! Thưa Tư-hãn, chỉ mấy hôm nữa, Tư hãn phải quyết định chọn ai làm Hoàng-hậu, ai làm Thái-tử, ai được phong Thân-vương. Qua việc này Tư-hãn có thể biết ai trung, ai nịnh mà quyết định đãi ngộ. Thiết Mộc Chân tươi hẳn nét mặt lên: – Nhờ phò mã, mà tôi biết ai là người thực tình với mình. Ông nói với các em, các tướng: – Từ trước đến nay, ta biết giữa các em, các tướng có sự bất hòa với các Đạo-sư. Ta phân vân không biết ai phải, ai trái. Bây giờ thì rõ ràng như ban ngày rằng các em, các tướng hết lòng với ta. Bọn Đạo-sư chuyên bịp bợm. Này Bật Tê! Này chư tướng! Này các em! Này Oa Khoát Đài! Cô Tô Cô! Kể từ nay, chúng ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Ông nắm tay bà Bật Tê: – Hậu là người mà cha ta chọn cho ta. Từ nay, tất cả các phi tần, đều phải dưới quyền cai quản của hậu. Ông chỉ vào Oa Khoát Đài: – Mẹ người có với ta bốn con trai, một con gái. Các phi cho ta mười tám con trai, hai mươi con gái. Qua việc này, ta mới biết con là đứa con có hiếu. Sự nghiệp vĩ đại này, sau ta sẽ trao cho con. Ông vẫy tay gọi Cô Tô Cô: – Con là đứa trẻ mồ côi, ta đem về nuôi. Con xin đi tu, rồi trở thành Tiểu Đạo-sư. Nhờ phò mã, mà ta biết các Tổng Đạo-sư toàn một phường giả dối. Hôm trước, sau trận đánh Khắc-liệt, mới nảy ra vụ anh em Cốc Chu âm thầm học võ công với tên ma đầu Mao Khiêm, mưu lập nó làm Đại-hãn toàn thảo nguyên, và anh em chúng muốn làm Đại-hãn Thát-đát, Miệt-nhi, Diệt-xích-ngột. Vì chúng là Đạo-sư, ta không có quyền xử tội chúng. Nên ta phải nhân vụ này, xin hội đồng quý tộc tước quyền xử án của các Đạo-sư. Ta phân vân không biết cử ai thay ta giữ việc xét xử. Bây giờ ta cử người. Người hãy ghi chép những luật lệ của Mông-cổ thành từng loại, từng chương, từng mục, rồi thiết lập cơ chế xét xử cho công bằng. Sau khi Tư-hãn ngừng nói, ai cũng nhận ra rằng mới đây khi họ vào lều, thì cử chỉ của Thiết Mộc Chân chậm chạp, đôi mắt lờ đờ, tiếng nói rời rạc. Thế mà chỉ qua việc Thủ-Huy đòi lấy năm quả tim trị bệnh, mà tình trạng tâm thần ông thay đổi rất nhanh. Tiếng nói của ông sang sảng, hùng hồn, gẫy gọn, da mặt trở thành hồng hào, ánh mắt chiếu ra sáng ngời, chứng tỏ thần thái linh mẫn, Khi thấy Thủ-Huy nhận lời chữa bệnh cho Thiết Mộc Chân, Đoan-Nghi cho rằng chồng đã làm công việc ngoài tầm tay. Rồi Thủ-Huy còn bầy ra việc lấy năm trái tim… nàng càng lo nghĩ. Bây giờ nàng mới biết Thủ-Huy hiểu rõ trong lòng Thiết Mộc Chân có những ưu tư, chỉ cần giải cái ưu tư là bệnh tự khỏi. Cái ưu tư thứ nhất, là ông phải cắt đất phong thân vương cho các Tổng Đạo-sư vốn có uy tín với đa số quần chúng; hay cho các em, các tướng? Ông lại càng không biết trong năm loại người thân: Phi tần, huynh đệ, con cái, tướng sĩ, Đạo-sư…giới nào, người nào trung thành với ông? Trong các con, ông phải đặt người nào vào ngôi trừ quân, để khi ông qua đời còn thay thế ông. Vì những lý do đó, ông sinh ra chứng ưu-tư, uất kết. Thủ-Huy hiểu thấu tâm tư ông, công bầy ra việc lấy tim trị bệnh, giúp Thiết Mộc Chân hiểu các bà vợ, hiểu các em, hiểu các con, hiểu các tướng và nhất là biết rõ sự thực về các Đạo-sư, hằng vỗ ngực trung thành với ông. Thiết Mộc Chân là người thông minh tuyệt đỉnh. Chỉ qua việc dùng năm quả tim trị căn, ông biết rằng Thủ-Huy đã hiểu rõ tâm can ông. Ông hỏi: – Như phò mã nói, bệnh của tôi có ba cái căn. Căn thứ nhất, phò mã trị xong rồi. Vậy còn căn thứ hai, thứ ba? Thủ-Huy hỏi cử tọa: – Các vị tìm ra chưa? – !!!???!!! – Căn thứ nhì là Tâm-ưu, khiến Tư-hãn tư lự lo lắng, phập phồng. Y-kinh nói: Tư thương tỳ. Phàm tư lự quá, làm tỳ bị tổn thương. Tỳ bị tổn thương thì ăn vào đầy ứ, bụng chướng, đầu nặng, vùng ngực căng trướng. Xích Lão Ôn hỏi: – Xin phò mã giảng rõ ràng hơn. – Hiện Vương-hãn, Tang Côn, Trác Mộc Hợp vẫn còn sống, đang lưu vong ở Nãi-man, Thổ-phồn. Họ nhờ mấy nước này giúp đỡ để trở về chiếm lại lãnh thổ. Cái căn này thực nguy hại vô cùng, nhưng Tư-hãn không biết giải quyết sao cho ổn, nên ngày đêm lo lắng, làm tổn thương tỷ vị, thành căn Tâm-ưu. – Thực là phò mã đọc được tim gan tôi. Thế còn căn thứ ba? – Căn thứ ba là Tâm-phiền. – ??? – Căn thứ ba, là mấy nghìn tộc, mấy trăm bộ tộc thuộc Khắc-liệt, tuy đầu hàng quy phục, nhưng chúng vẫn chân trong, chân ngoài, chờ Vương-hãn, Tang Côn trở về. Tư-hãn nghĩ không ra phương thức trấn an, lôi kéo được các Đại-hãn, Khả-hãn, Hãn trung thành với mình! Hơn nữa, Mông-cổ đang từ một nước nhỏ. Sau khi chiếm Khắc-liệt bỗng biến thành cường quốc, trở thành mối lo cho các nước Đại-kim, Thổ-phồn, Tây-hạ, Tây-liêu, Nãi-man. Cả bốn nước đều muốn ra quân dưới danh nghĩa giúp Vương-hãn phục quốc. Trong khi đó thì Mông-cổ mới trải qua một năm chiến tranh, nhân tâm chưa yên, quốc sản khánh kiệt. Quân đội không đủ sức chống với binh lực bất cứ nước nào trong năm nước trên. Vì nghĩ không ra kế, trong lòng phiền táo, đứng ngồi không yên, giấc ngủ chập chờn, gọi là Tâm-phiền. Có phải thế không? Thành Cát Tư Hãn run run: – Ba căn bệnh của tôi, phò mã nêu ra đều đúng cả. Căn đầu phò mã đã trị rồi. Không biết phò mã có thể trị được hai căn sau không? Thủ-Huy cười hỏi các tướng: – Chư vị nghĩ sao? Các tướng đều lắc đầu: – Xin phò mã cứu chúng tôi một phen nữa. Thủ-Huy đứng dậy: – Trước hết tôi giúp Tư-hãn lấy cái đầu của Vương-hãn với Tang Côn đã. Lấy được hai cái đầu này rồi, thì không nước nào có thể nhân danh giúp Khắc-liệt phục quốc mà ra quân nữa. Các Đại-hãn, Khả-hãn, Hãn của Khắc-liệt không còn chân trong, chân ngoài nữa, họ yên tâm, dốc lòng vơí Mông cổ. Thế là ta giải được căn hai, căn ba một lúc! – Nhưng làm sao lấy được đầu Vương-hãn, Tang Côn? – Vương-hãn hiện đang ở Nãi-man. Tang Côn ở Thổ-phồn. Cả hai người cùng với đám tàn quân được hai nước ấy cho trú đóng trong một khu rừng, để chiêu tập binh tướng bị thất lạc. Nghe nói, Vương hãn sai sứ về mật liên lạc với các Đại-hãn của Khắc-liệt. Đặt vấn đề, suốt mấy trăm năm qua, Khắc liệt với hai nước này ở vào thế thù nghịch nhau, tại sao bây giờ họ lại cưu mang cha con Vương-hãn? Dễ hiểu! Vì họ muốn giúp Vương-hãn phục hồi cố thổ, với nhiều điều kiện. Bây giờ ta phải làm gì để mượn tay hai nước này giết cha con Vương-hãn? Mộc Hoa Lê đưa ý kiến: – Ta sai người sang Nãi-man, Thổ-phồn, với lễ thực hậu, xin họ trao cha con Vương-hãn cho ta! – Không ổn! Ta làm thế, thì Thổ-phồn, Nãi-man càng ra sức giúp Vương-hãn để đòi nhiều lợi lộc hơn. Oa Khoát Đài hỏi: – Thưa sư phụ, vậy ta phải làm gì? – Ta làm ngược lại. – Nghĩa là??? – Ta sai sứ mang trọng lễ sang, xin yết kiến Vương-hãn, xin tạ tội, rồi khẩn khoản mời về làm vua Khắc-liệt. Tư-hãn vẫn là nghĩa tử của ông, Mông-cổ vẫn thần phục Khắc-liệt. Dĩ nhiên tin này tới tai triều đình Nãi-man, thì tôi e từ hoàng đế Thái-Dương cho đến quần thần đều sợ hãi đến rụng rời chân tay. Phản ứng tự nhiên, họ phải giết Vương-hãn ngay. Oa Khoát Đài ngồi nhổm dậy: – Trí của sư phụ thực siêu phàm. Vì từ trước đến giờ Nãi-man vẫn nơm nớp sợ Khắc-liệt. Thế mà bây giờ nghe tin ta đưa Vương-hãn về, lại phụ thuộc Khắc-liệt, thì họ phải giết ông ta. Thành Cát Tư Hãn thở phào nhẹ nhõm, bao nhiêu ưu tư biến mất. Chỉ năm ngày sau, ông bình phục như thường. Lập tức ông cho thi hành kế hoạch của Thủ-Huy. Quả nhiên hơn tháng sau, có tin đưa về: Thổ-phồn giết chết Tang Côn. Nãi-man giết chết Vương-hãn. Thành Cát Tư Hãn mở đại hội các Hãn, rồi phong bà Bật Tê làm chánh cung Hoàng-hậu, Oa Khoát Đài làm Thái-tử. Chín đại tướng đều được phong thân vương. Thế rồi vùng thảo nguyên yên tĩnh được mấy năm. Thủ-Huy Đoan-Nghi, Tử-Kim, Thúy-Thúy tiếp tục huấn luyện chính binh Mông-cổ, thành Lôi-kỵ. Trước kia, đơn vị chiến đấu biệt lập là Thiên-phu, bây giờ là Vạn-phu. Chín đại tướng, được phong làm chín Vạn-phu. Bác Nhĩ Truật được cử làm tư lệnh chín Vạn-phu này. Ngoài ra còn chín Vạn-phu trừ bị, gọi là Thân-binh đang trong vòng huấn luyện, do Lý Long-Tùng chỉ huy. Hai Vạn-phu nữ do Đoan-Thanh chỉ huy. Hôm ấy, Thiết Mộc Chân cùng các tướng chỉ huy Vạn-phu đang ngồi nghe Thủ-Huy giảng về binh pháp của Phù-đổng Thiên-vương, của công chúa Thánh-thiên, thì thân binh vào báo: – Thưa phò mã, có một đoàn chín người, xưng là sứ thần của Đại-Việt xin vào yết kiến phò mã với công chúa. Thành Cát Tư Hãn ra lệnh: – Sứ của Hoàng-đế Đại-Việt ban chỉ cho phò mã ắt là chuyện quốc gia đại sự. Chúng ta tạm lui, để phò mã tiếp sứ. Thủ-Huy xua tay: – Tôi tuy là phò mã Đại-Việt, từng là Phụ-quốc Thái-úy của Đại-Việt…Nhưng khi tôi lên đây, Tư-hãn cùng các bạn đã lấy lòng mà đãi nhau, coi tôi như ruột thịt. Tôi cũng đem tâm huyết ra để giúp Tư hãn cùng các vị. Tất cả những cơ mật của Mông-cổ tôi đều biết hết. Vậy thì những gì cơ mật của tôi, tôi cũng phải để Tư-hãn cũng như các bạn biết. Công bảo thân binh : – Người ra mời sứ đoàn vào bái kiến Tư-hãn trước đã. Thành Cát Tư Hãn vội cho thiết triều. Sứ thần là một viên quan trẻ cùng sứ đoàn vào hành lễ. Thành Cát Tư Hãn truyền mời sứ đoàn ngồi, ân cần hỏi thăm sức khỏe hoàng đế Đại-Việt. Đoan-Thanh làm thông dịch. Đoan-Nghi hỏi chánh sứ : – Người báo danh đi. – Khải điện hạ thần là Vũ Khải, lĩnh Tham-tri bộ Lễ. – Hiện giờ bên Đại-Việt là niên hiệu gì? – Khải, vẫn là Thiên-tư Gia-thụy. Năm nay là năm thứ 15 ( DL.1200, Canh Thân). – Tình hình triều đình ra sao? – Thái-phó Ngô Lý-Tín hoằng. Binh-bộ thượng thư Đàm Dĩ-Mông thăng lên Thái-sư coi việc văn. Lấy quốc trượng Đàm Thì-Phụng làm Thái-úy coi việc võ. Trong triều, thế lực của họ Đàm lại lên cao như họ Đỗ hồi Đỗ Anh-Vũ cầm quyền. Trong cung thì An-toàn hoàng hậu Đàm thị lũng đoạn. Họ Đàm lộng hành hơn bọn Đỗ Anh-Vũ, Đỗ An-Di hồi trước. – Thế hai vương Kiến-khang, Kiến-bình đâu ? – Hai vương bị gọi về triều, không được giữ một chức vụ gì. Một số thân vương, hoàng tộc lên tiếng về việc này. Đàm hoàng hậu với Đàm Dĩ-Mông giả chiếu chỉ giết cả nhà. Chưa bao giờ hoàng tộc bị giết nhiều như thời gian này ! – Thế Đỗ Thụy-Châu đâu, mà để cho anh em họ Đàm lộng quyền như vậy ? – Chiêu-thiên chí lý hoàng thái hậu băng lâu rồi. Nghe nói Hoàng-thượng đã biết rõ người không xuất ra từ Đỗ thái hậu, mà xuất ra từ Tuyên-phi Vương Thụy-Hương. Người cật vấn Thái-hậu, ngay đêm đó Thái-hậu uống thuốc độc tự tận. Thủ-Huy than : – Tiếc rằng ta không đích thân chặt đầu con dâm phụ này. Còn gì lạ không ? – Hoàng-thượng sủng ái một đạo cô, tôn làm sư phụ. Người phong cho đạo cô làm Nam-thiên huyền quân, truyền sửa cung Ngọc-lan cho ở. Đạo cô là người phụ chính cho Hoàng-thượng. Đạo-cô nhận thấy cái nguy họ Đàm, người đích thân thu dụng đệ tử, truyền thụ võ công, rồi trao cho những chức vụ trọng yếu ! – À ! Bọn này có khá không ? – Tương đối khá hơn bọn họ Đàm. Trước hết là Lĩnh-Nam ngũ hổ tướng gồm Đoàn Văn giữ chức Tổng-lĩnh thị vệ cấm quân. Thứ nhì là Nguyễn Dư, giữ chức An-phủ kinh-lược sứ Kinh-Bắc. Thứ ba là Phạm Bỉnh-Di, giữ chức Vũ-kỵ thượng tướng quân, lĩnh An-phủ kinh lược sứ Trường-yên. Thứ tư là Phạm Du lĩnh Tả Kim-ngô thượng tướng quân Tổng-trấn Thăng-long. Thứ năm là Quách Bốc giữ chức Hổ-uy đại tướng quân, quản Khu mật viện. – Lý lịch đạo cô ra sao ? – Khắp triều, ngoài Đàm Dĩ-Mông, Đàm Thì-Phụng và Đàm hậu ra không ai biết. Dường như đạo cô có lý lịch không minh bạch. Cho nên bề trong Đạo-cô âm thầm chống họ Đàm, nhưng bề ngoài vẫn không dám ra mặt. – Thế là triều đình có hai thế lực tranh dành nhau ? – Thưa phò mã không phải hai, mà là ba ! – Ba ? ! ? ! ? ! – Thế lực thứ ba gồm hai vương Kiến-khang, Kiến-bình, Tiên-yên quốc công Phùng Tá-Chu, cùng Hoàng tộc. Thế lực này tuy không nắm đại quyền, nhưng có phái Đông A đằng sau, thành ra hai thế lực kia chỉ hằm hè, mà không dám mó tay vào cái hang cọp này. Thái-sư Đàm Dĩ-Mông… Thủ-Huy cau mặt: – Cứ mỗi lần nhắc đến tên mặt bột luộc này, là ta lại buồn nôn. Bộ người Việt chết hết rồi hay sao mà dùng tên này? Mấy trăm năm nay rồi, cái nạn gà mái gáy trong hậu cung không bao giờ hết. Bất cứ bà Hoàng-hậu, Thái-hậu nào cũng có thể giết anh em, chú bác của nhà vua. Phải thay đổi hết! Phải giết hết bọn quan lại ù lỳ thì xã tắc mới ngóc đầu dậy được. Biết chồng quá phẫn hận, Đoan-Nghi hỏi sang việc khác: – Hoàng thượng đã có hoàng nam chưa? – Khải, có rồi. Tuyên-phi sinh ra hoàng tử Long-Thẩm, Hoàng-thượng định lập làm thái-tử. Thái-phó Đàm Dĩ-Mông can, xin đợi mấy năm nữa, biết đâu Đàm hậu không sinh hoàng nam. – Dĩ nhiên tên họ Đàm này phải làm thế. Khi cháu y sinh hoàng nam, được phong Thái-tử, thì họ Đàm mới nắm được quyền chứ! – Hai năm sau, Đàm hoàng hậu sinh ra hoàng tử Long-Sảm, lập tức được phong làm Thái-tử ngay. Thủ-Huy hỏi: – Tình hình võ lâm ra sao? – Từ sau vụ Côi-sơn song ưng giết cả nhà Đỗ An-Di, Mạc Hiển-Tích thì triều đình ban chỉ cấm các võ phái không được thu đệ tử, cũng tước quyền không cho các phái cử người làm giám khảo trong các cuộc tuyển võ. – Thế các phái có tuân chỉ không? – Bề ngoài thì tuân, còn thực sự vẫn như cũ. Thủ-Huy chửi đổng: – Cũng vẫn do bọn ngoại thích, mà xẩy ra cái nạn này. Đoan-Nghi không muốn chồng chửi triều đình. Nàng hỏi: – Triều đình sai người lên đây có việc gì? – Hoàng thượng được tin phò mã cùng điện hạ đang săn bắn trên vùng thảo nguyên. Người sai thần lên đây khẩn khoản mời phò-mã cùng điện hạ trở về để trao trọng quyền. Vì từ võ lâm cho tơí sĩ dân đều nghĩ rằng chỉ phò mã với công chúa mới đủ tài an định thiên hạ. Thủ-Huy cau mày : – Thế có chiếu chỉ không ? – Thưa không ! Chỉ có thư riêng thôi. Nói rồi y trình ra một phong thư. Thủ-Huy bóc thư, công liếc qua, rồi nói với Đoan-Nghi : – Đúng là thủ bút của Long-Trát. Công chúa đọc lên, Đoan-Thanh dịch cho chư vị cùng nghe. Đoan-Nghi đọc lớn : « Đứa em út cô độc Long-Trát thư cho người chị khả kính là Đoan-Nghi. Từ khi anh chị rời Đại-Việt ra đi, em cảm thấy cô độc vô cùng. Tuy cạnh em có Long-Ích, Long Tường, nhưng không thể nào bằng anh chị. Việc triều chính em không chủ trương được gì cả. May sao, vừa rồi Côi-sơn song ưng ra tay, em mới nắm được quyền bính. Nghi tin anh chị đang đi săn ở Mông-cổ, em sai sứ lên mời anh chị về giúp em, lập lại thời thịnh trị của đức Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông, Nhân-tông ». Sứ thần lại đưa ra một phong thư : – Đây là thư riêng của Bùi thái phi cho điện hạ. Đoan-Nghi mở ra đọc : « Mẹ bị bệnh không biết sẽ qua đời lúc nào. Mẹ nhớ con quá. Nếu con có còn tưởng nhớ đến mẹ thì mang Thủ-Độ về cho mau, may ra thấy mặt mẹ lần cuối ». Đoan-Nghi bật lên tiếng khóc, rồi nói với Thành Cát Tư Hãn : – Đa tạ Tư-hãn. Đa tạ các bằng hữu đã tin tưởng chúng tôi, lấy lòng đãi chúng tôi. Việc thống nhất các nước trong vùng thảo nguyên đã xong. Bây giờ chúng tôi xin cáo từ Tư-hãn trở về Đaiï-Việt. Thủ-Huy xua tay : – Khoan ! Chúng ta ở đây đã sáu năm có dư. Khi đi thì em với anh đã họp Tử-Kim, Thúy-Thúy cùng các võ sĩ trong đoàn Long-biên tham khảo ý kiến. Nay Tử-Kim là đại tướng cầm quân nghiêng nước của Mông-cổ, các võ sĩ Long-biên đều giữ chức Thiên-phu trưởng. Họ đâu có thể bỏ đi được ? Bỏ đi ngang xương như vậy thì còn gì là đạo lý nữa ? Bây giờ chúng ta hãy trở về dinh, họp anh em để hỏi ý kiến họ đã. Đoan-Nghi nghe chồng nói, nàng sa sầm mặt xuống. Nhưng nàng chợt nhớ rằng từ Tử-Kim cho đến các võ sĩ Long-biên đều là đệ tử phái Đông A, họ chỉ giúp triều Lý chứ không ăn lương, lĩnh bổng. Nàng không có quyền gì với họ. Thủ-Huy Đoan-Nghi trở về dinh, công phát lệnh sai mã khoái đi khắp nơi triệu tập các võ sĩ Long biên lại. Hai hôm sau họ có mặt đầy đủ. Thủ-Huy mời thái tử Oa Khoát Đài tham dự buổi họp. Sau khi khai mạc, Đoan-Nghi mang thư của Đại-Việt hoàng đế ra đọc. Rồi nàng yêu cầu mọi người cho biết ý kiến. Thúy-Thúy nói : – Khải điện hạ ! Khi đoàn Long-biên lên đường là do chỉ dụ của triều đình, đem cống cho Tống để đánh Kim. Rồi điện hạ với phò mã quyết định dẫn họ lên đây. Như vậy theo quân luật thì họ vi chỉ, bị tội giết cả nhà. Nay Hoàng-thượng viết thư cho điện hạ, người nhân danh ông em viết thư mời anh rể chị gái về, chứ không nói gì đến bọn họ cả. Nếu như bọn họ về, thì không khỏi bị giết. Tử-Kim phát biểu : – Bọn thần xả thân vì triều đình quá nhiều. Triều đình phụ bọn thần cũng quá nhiều. Người xưa nói nam nhi đại trượng phu bốn bể là nhà, khi lên đây, bọn thần được Mông-cổ hậu đãi. Lại lấy vợ, sinh con vùng thảo nguyên, thì xin lấy Mông-cổ làm quê hương thứ nhì. Oa Khoát Đài vỗ tay hoan hô. Các võ sĩ Long-biên cũng vỗ tay theo. Đoan-Nghi tái mặt hỏi Thủ-Huy : – Vậy thì chỉ có vợ chồng chúng ta về mà thôi. Đành vậy. Phải mau mau lên đường, bằng không thì không còn thấy mặt mẫu thân, em sẽ ân hận suốt đời. Thủ-Huy nắm tay Đoan-Nghi : – Em về thì em cứ về. Anh thấy trong vụ này có điều gì không ngay thẳng. Chúng ta âm thầm lên đây. Tại sao Long-Trát biết ? Chúng ta sinh Thủ-Độ đến bố mẹ anh cũng chưa biết, tại sao mẫu thân lại biết ? Tại sao triều đình không ban chỉ ? Anh không về đâu. – Anh cho rằng cái không ngay thẳng từ đâu mà ra? – Từ Tống! Giai-phi cho chúng ta biết rằng Vân-đài Trịnh Nam-Phương, Công-chúa Vương Thụy Hương trở về Đại-Việt làm gian tế từ lâu. Mới đây vô tình chúng ta phá vụ Tống phong cho Mao Khiêm làm vua vùng thảo nguyên, phong các con của Muôn-lịch làm Khả-hãn bốn nước Thát-đát, Mông-cổ, Miệt-nhi, Diệt-xích-ngột. Nhất định Mao Khiêm, Vương Cương-Trung tấu về triều. Khu mật viện Tống ban chỉ cho Nam-Phương, Thụy-Hương. Hai người này, bằng cách nào đó khiến Long-Trát viết thư gọi chúng ta về. Họ cho rằng nếu Mông-cổ không có chúng ta, thì bọn Mao-Khiêm, Muôn Lịch với các Tổng Đạo-sư có thể chiếm được vùng thảo nguyên. Nói thực, anh là kẻ sĩ có tâm huyết, đem tấc lòng son ra khuông phò xã tắc. Phụ hoàng sủng ái anh, trao quyền cho anh. Anh đã làm không biết bao nhiêu lợi ích cho triều Lý. Nhưng hỡi ơi! Quả núi Tiêu-sơn đã hết phúc, nên trong cung thì cái họa gà mái gáy nối tiếp nhau. Tại triều, thì bọn quan lại toàn một lũ ăn hại, chỉ mong chui đầu vào váy mấy mụ phi tần ngu xuẩn, tham dâm. Vì vậy, những gì anh xây dựng, đều bị phá nát hết. Công nắm tay vợ trước cử tọa: – Một là vì tình, hai là vì nghĩa, anh khẩn thiết xin em đừng về. Anh biết khi em về, thì mẫu thân, cũng như em sẽ bị hại. Bấy giờ, anh sẽ về khởi binh giết sạch bọn quan lại ù lỳ, bọn hậu cung dơ bẩn, và lập một triều đại mới ít ra cũng nhẹ nhàng, cũng vì dân như triều đại Mông-cổ đây. Vậy em về thì coi như triều Lý không còn ! – Còn ước tính của anh sai, khi em trở về, rồi triều đình ban chỉ mời giữ trọng quyền…Thì sao? – Anh sẽ về! Anh sẽ đi bằng tay từ bến Tiềm-long vào điện Càn-nguyên. Đoan-Nghi biết chồng quá căm hận họ Lý nhà mình. Nàng nghĩ thầm : – Aâu là ta cứ về trước, rồi nói với triều đình ban chỉ ân xá cho Thủ-Huy, Tử-Kim, cùng đoàn võ sĩ Long-biên sau. Như vậy ắt họ sẽ trở về. Tin Đoan-Nghi dẫn Thủ-Độ về Đại-Việt truyền rất nhanh. Đám bạn của Thủ-Độ xin Thúy-Thúy cho chúng cùng đi săn với nhau trước khi xa cách. Hôm ấy, đích thân Thành Cát Tư Hãn, dẫn Hoàng- hậu Bật Tê, bốn vương tử, ba vương đệ, các công chúa, phò mã cùng chư tướng dàn ba vạn người ngựa, tiễn công chúa hồi hương. Chín phát Lôi-tiễn tiễn được bắn lên trời. Đoàn hộ vệ công chúa từ Hoa-lâm đến biên giối Kim gồm hai Thiên-phu nữ, do Đoan-Thanh chỉ huy. Thành Cát Tư Hãn sai lấy da điêu, ngọc, vàng, sâm chất đầy hai xe, gọi là chút lễ tặng Đại-Việt hoàng đế. Ông cùng hoàng hậu Bật Tê, các em, các con, các tướng theo tiễn hơn trăm dặm mới trở về. Bốn đứa trẻ Hốt Tất Liệt, Bạt Đô, Ngột Lương Hợp Thai, A-lý Hải-nha cỡi ngựa đi cạnh Thủ-Độ suốt lộ trình trăm dặm. Bây giờ phải chia tay, chúng bịn rịn không muốn quay về. Hốt Tất Liệt tặng Thủ Độ một con dao, cán bằng vàng. Ngột Lương Hợp Thai tặng Thủ-Độ cái cung với mười mũi tên đầu bịt bạc. A-lý Hải-nha tặng Thủ-Độ cái túi bằng da điêu. Bạt Đô tặng Thủ-Độ cái khánh ngọc. Thấy năm trẻ bịn rịn không nỡ rới nhau, Đoan-Nghi an ủi: – Thủ-Độ chỉ về nước một thời gian, rồi lại sang. Các con sẽ lại gặp nhau. Suốt dọc đường từ Hoa-lâm đến Vạn-lý trường thành, Thủ-Huy Đoan-Nghi không nói với nhau một lời. Cũng may Thủ-Độ luôn miệng hỏi cha hỏi mẹ về Đại-Việt, làm giảm cái không khí căng thẳng. Đoàn người ngựa đi trong hơn hai mươi ngày thì tới Vạn-lý Trường-Thành. Tất cả ngừng lại qua đêm, để sáng hôm sau sẽ vượt cửa ải vào đất Trung-quốc. Sáng hôm sau, tất cả đoàn người tiễn đưa phải ngừng lại cách quan ải hai mươi dặm. Chỉ có Thủ-Huy, Đoan-Thanh, Thúy-Thúy đi theo đến tận quan ải. Thủ-Hay nắm tay vợ : – Nếu em là một cô gái nông thôn, thì chắc vợ chồng mình hạnh phúc lắm. Em thử nghĩ xem từ khi chúng mình thành vợ chồng, ngày đêm cần lao chính sự, ít có khi được hưởng lấy nửa ngày hạnh phúc. Rồi những biến cố xẩy ra liên miên. Chỉ từ ngày lên Mông-cổ chúng ta mới hoàn toàn sống cho nhau. Thời gian sáu năm qua thực thần tiên. Bây giờ em tin vào hai bức thư kia mà trở về nước. Anh cảm thấy có nhiều nguy nan đợi chờ, nên anh không muốn em về vội, chờ anh viết thư sai chim ưng mang về hỏi anh chị Lý, hỏi Tá-Chu, Trung-Từ đã. Nhưng em không nghe ! Thôi anh đành chịu thua. Em ráng bảo trọng lấy thân. Đoan-Nghi thở dài : – Em sẽ dùng chim ưng liên lạc với anh thường trực. Em trở về, nếu mọi sự quả như thư nói em sẽ yều cầu triều đình sai sứ mang chỉ lên mời anh về. Còn nếu có gì gian dối, với kiếm trong tay, em sẽ làm cỏ bọn gian thần ! Anh yên tâm. Thủ-Huy dặn con : – Bố đã dạy con căn bản nội công phái Đông A. Về ngoại công con đã học được bộ Đông A trường quyền, bộ Đông A kiếm pháp. Bộ Đông A chưởng pháp tuy bố đã dạy, nhưng con chưa đủ nội công luyện. Vậy khi về nước, ông nội sẽ dậy con. Nhớ xiêng năng đừng để ông bà buồn. Đoan-Nghi Thủ-Độ cùng sứ đoàn vào trong quan ải. Thủ-Huy đứng nhìn cho đến khi họ khuất vào sau hai cánh cửa, công mới cùng Đoan-Thanh, Thúy-Thúy quay ngựa trở lại. Khi công về cách Hoa lâm năm trăm dặm thì gặp Thành Cát Tư Hãn dẫn các em đi đón. Gặp lại nhau, Tư-hãn nắm tay Thủ Huy : – Phò mã ! Đúng là trời đem người đến cho ta. Người là thầy ta, là thầy của các em, các con ta. Nay người quyết định ở lại với ta, thì thực là phúc cho Mông-cổ. Hôm nay Đoan-Nghi dậy sớm. Nang đang ngồi trong thuyền dạy Thủ-Độ học, thì viên chánh sứ Vũ Khải vào cung tay : – Khải điện hạ, thuyền đã bắt đầu ngược giòng Hồng-hà, chỉ nội chiều nay sẽ tới Thăng-long. Đoan-Nghi bảo Thủ-Độ : – Con ngừng học, húng ta lên nóc thuyền nhìn đất nước Đại-Việt của ta. Từ hôm rời Mông-cổ, tuy phải xa chồng nhưng lòng Đoan-Nghi rộn lên, vì sắp về tới quê hương. Nàng sẽ gặp mẫu thân, sẽ gặp những người thân trong hoàng tộc, trong phái Đông A. Nàng sẽ được nhìn lại Thăng-long nhìn lại hồ Tây, nhìn lại đền thờ vua Trưng, nhìn lại Văn-miếu. Nàng sẽ được ăn các món ăn Đại-Việt…Bất giác chân tay nàng run lên. Nàng chỉ cho Thủ-Độ nhìn những làng, xóm dọc hai bên sông. Hai mẹ con nói chuyện với nhau suốt ngày. Mãi khi hoàng hôn buông xuống thì thuyền về tới Thăng-long. Con thuyền áp vào bến Tiềm long. Viên chánh sứ Vũ Khải cung tay nói với Đoan-Nghi : – Khải điện hạ, bây giờ sang giờ Thân, các cổng thành đều đóng cửa. Vậy xin điện hạ nghỉ tạm tại thuyền, mai hãy vào yết kiến hoàng thượng. Xa quê hương lâu, Đoan-Nghi muốn nhìn lại đất nước mình, nàng ban chỉ : – Người thắng cho ta một cái xe ngựa, để ta với Thủ-Độ lên bờ cho dãn gân, dãn cốt. – Khải điện hạ có cần ai theo hầu không ? – Chỉ cần một người đánh xe. Đoan-Nghi dắt Thủ-Huy lên xe ngựa. Xe rời bến Tiềm-long hướng Gia-lâm rồi đi dọc theo bờ sông. Bấy giờ là thịnh thời, không chiến tranh, nên hàng quán mở cửa cho đến nửa đêm. Khi xe đi vào địa phận hồ Tây, Đoan-Nghi chỉ một tửu lầu phía trước, ra lệnh : – Người ngừng lại cho ta. Thủ-Độ chưa từng thấy thành phố của vùng định cư bao giờ, cái gì nó cũng hỏi, cũng thắc mắc. Đoan-Nghi cứ phải giảng cho con đến mỏi miệng. Nó nhìn cái bảng hiệu, đọc : – Anh-hùng quán. Tửu bảo thấy một thiếu phụ xinh đẹp, dẫn đứa con trang phục quá lạ lùng, nó mở to mắt ra nhìn. Chợt nhận ra Đoan-Nghi, Thủ-Độ đeo đầy người ngọc vàng thì đoán đây là một phu nhân ở biên cương về. Y cúi rạp người xuống, rồi đưa hai mẹ vào một cái bàn gần cửa. Sáu năm liền, bây giờ Đoan-Nghi mới được ăn những món ăn Đại-Việt. Nàng gọi liên tiếp năm món liền. Nhưng chỉ mình nàng ăn mà thôi. Còn Thủ-Độ thì nó ăn theo người Mông-cổ đã quen, nên nó chỉ ăn có mấy miếng bún chả rồi ngồi ngắm thành phố. Bên ngoài, trên một bãi đất trước tửu lầu có đoàn người mãi võ kiếm tiền. Họ gồm một người đàn bà, một gã lực lưỡng và một lão già. Lão già chắp tay vái xung quanh một vòng, rồi nói : – Nào, xin các ông, các bà coi nào ! Người bạn tôi đây sẽ đi một bài quyền. Nếu quý vị thấy hay xin ban thưởng. Gã thanh niên lực lưỡng bước ra bái tổ, rồi đi bài quyền. Bài quyền chấm dứt, dân chúng vỗ tay hoan hô. Người đàn bà mang cái rổ đi một vòng xin tiền. Khi đến trước mặt Thủ-Độ, mụ hỏi nó : – Tiểu công tử thưởng chúng tôi cái gì nào ? Thủ-Độ móc túi lấy đồng tiền Mông-cổ bằng bạc trao cho người đàn bà. Thình lình gã mãi võ chụp Thủ-Độ vác lên vai, rồi rẽ đám đông bỏ chạy. Lão già với người đàn bà cũng chạy theo. Thủ-Độ kinh hãi hét lớn bằng tiếng Mông-cổ: – Mẹ ơi ! Đoan-Nghi đang ăn, nghe tiếng con kêu, nàng tung mình ra khỏi tửu lầu, trong khi lơ lửng trên không, tay nàng rút kiếm, miệng quát lớn : – Dừng lại ! Chỉ nhấp nhô mấy cái, nàng đã đuổi kịp ba người kia. Lão già với người đàn bà rút đao đeo bên hông ngừng lại, xả vào người Đoan-Nghi. Đoan-Nghi quay kiếm gạt, thì cả hai lại lộn một vòng lăn ra xa. Không cần truy kích đối thủ, nàng đuổi theo gã bắt Thủ-Độ. Không đầy nửa khắc nàng đã đuổi gần kịp. Nàng gọi Thủ-Độ bằng tiếng Mông-cổ : – Con rút dao ở ngang lưng đâm vào cổ nó đi. Thủ-Độ nghe mẹ hô, vội rút dao đâm vào cổ tên lực lưỡng. Con dao tuy nhỏ, nhưng cũng xuyên thủng vào cổ y. Y đau quá ngã lộn đi hai vòng. Thủ-Độ dùng thân pháp Đông A tung mình lên chạy lại bên mẹ. Đoan-Nghi hỏi con : – Con có sao không ? – Không ! Nàng bồng con, dùng khinh công trở về tửu lầu. Thình lình có tiếng keng, keng, keng. Rồi tên từ hai bên đường bắn ra. Biết bị trúng kế phục binh, Đoan-Nghi kinh hoảng, dùng Long-biên kiếm pháp quay tròn, bao nhiêu tên bị gạt đi hết. Nhưng những loạt tên khác lại bay ra, trong khi trời nhá nhem tối. Đoan-Nghi bồng con, tay quay kiếm, tung mình ra khỏi vòng vây. Chỉ mấy chiêu kiếm vung lên, bọn tiễn thủ hơn mười người bị bay đầu. Thoáng thấy lão già, nàng vọt người tới bên hắn. Hắn đưa đao đỡ, nhưng không kịp, đầu hắn đã bay khỏi cổ. Lại thêm hai gã lực lưỡng nữa là ba gã, với người đàn bà vung đao bao vây nàng. Một tay ôm con, một tay sử dụng kiếm, Đoan-Nghi vừa chống đỡ với bốn người. Nàng nhận ra người đàn bà dùng Hoa-sơn kiếm pháp trong Vô-trung kinh. Còn ba gã lực lưỡng thì dùng một thứ võ công rất lạ. Công lực cả ba đều cao thâm. Dù Đoan-Nghi đã sử dụng hết khả năng của Long-biên kiếm pháp mà cũng không kiềm chế nổi bốn người. Thình lình mụ đàn bà quát lên, rồi xả kiếm vào ngực Đoan-Nghi. Đoan-Nghi tung mình lên cao, thoát khỏi chiêu kiếm của mụ, thì bị ba gã lực lưỡng chùng chĩa kiếm vào người. Trong lúc cực kỳ nguy hiểm, Đoan-Nghi nghĩ rất nhanh: – Khi chúng phục kích ta, thì chúng đã biết ta là ai. Dù ta có giết hết bọn nãy, sẽ có bọn khác xuất hiện. Đằng nào ta cũng chết, ta không nên giết bốn đứa cầm đầu này. Ta cần ghi vào người chúng mấy vết thương, để sau này ta có thể truy lùng ra kẻ đứng sau chúng. Nếu ta chết, thì phái Đông A còn biết kẻ hại ta mà trả thù. Nghĩ vậy, nàng chuyển kiếm, chỉ hai chiêu nàng đã chặt cụt tay trái một gã thanh niên rồi cắt đứt tai trái người đàn bà, rạch trên mặt ả mỗi bên má hai vòng tròn. Cả bốn kinh hãi nhảy lùi lại, rồi hô lớn : – Buông tên. Một đội tiễn thủ khác từ bên đường lại buông tên. Đoan-Nghi vọt người tới, quay kiếm như sao sa. Được một lát, nàng quá mệt mỏi, chiêu thức bắt đầu hỗn loạn. Nàng cảm thấy đau nhói ở bụng, rồi lưng. Biết bị trúng tên, nàng không còn nghĩ đến sống chết nữa, tay bồng con nàng nhảy vào giữa đội cung thủ. Chỉ thấy ánh thép lóe lên mấy cái, đội cung thủ bị giết hết. Ba gã lực lưỡng với người đàn bà hô lên một tiếng rồi vọt mình lên ngựa ra roi chạy vào bóng đêm. Đoan-Nghi dùng khinh công hướng về Đông A vãng lai khách xá, nơi mà trước đây Thủ-Huy dùng làm phủ Thái-úy. Nhưng vừa cất bước, thì máu ra nhiều quá, kiệt lực. Nàng bồng con nhảy đại vào một khu vườn hoang ẩn thân. Thủ-Độ tuy còn nhỏ nhưng nhờ sống gần cha mẹ quen với chinh chiến, nên nó cảnh giác không lên tiếng. Nó ghé miệng vào tai mẹ : – Mẹ bị thương có đau không ? – Đau lắm. Để mẹ rút tên ra đã. Nàng tự điểm vào mấy yếu huyệt cho bớt đau rồi rút hai mũi tên ra. Tuy biết mình khó qua khỏi cái chết, nàng vẫn xé áo buộc vết thương lại, rồi nằm chờ. Nàng hy vọng tên phu xe không thấy nàng trở về, y sẽ báo cho viên thuyền trưởng, viên thuyền trưởng sẽ cầu cứu với viên đô đốc thủy quân sai người đi tìm nàng, thì Thủ-Độ thoát chết. Màn đêm buông xuống. Tiếng dế nỉ non canh khuya, pha với tiếng cú rúc não nùng. Quá đau đớn, Đoan-Nghi mê mê tỉnh tỉnh, nhưng nàng vẫn nắm chặt tay con. Phần Thủ-Độ tuy có sợ hãi nhưng mệt quá, nó cũng ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Bây giờ Đoan-Nghi mới cảm thấy hối hận rằng mình đã u mê, ương ương, bênh vực họ Lý quá đáng, đến độ chồng nói gì, bàn gì nàng cũng cho là cực đoan, nên mới ra nông nỗi này. Giả như Thủ-Huy cùng về với nàng, thì có lẽ cả hai cùng chết tức tưởi. Không biết bao nhiêu lâu có tiếng ngựa hí, tiếng chân người đi rầm rập ngoài đường. Có tiếng nói : – Đây rồi, chắc công chúa giao chiến với bọn gian tại đây. Có hai mươi bốn tiễn thủ bị giết bằng kiếm. Chắc chúng chết vì kiếm công chúa. – Không biết công chúa đi đâu ? Đoan-Nghi chợt tỉnh dậy. Nàng thều thào nói với con : – Con ra đường, dùng tiếng Việt gọi họ vào. Thủ-Độ đứng dậy, nó chạy ra đường gọi : – Công chúa ở đây này ! Bọn quan quân reo lên chạy vào trong vườn, thì Đoan-Nghi lại mê man. Họ đem cáng chở nàng với Thủ-Độ đi. Về đến thuyền, y sĩ thủy quân đến cầm mạch cho Đoan-Nghi. Ông ta lắc đầu : – Hết hy vọng rồi. Công chúa bị hai mũi tên, một mũi trúng phế, một mũi trúng gan. Máu ra nhiều quá. Làm sao bây giờ ? Viên chánh sứ Vũ Khải hỏi : – Đại-phu, có thuốc nào cho công chúa tỉnh dậy, để công chúa cho chúng ta biết bọn sát nhân là ai không ? – Cũng có đấy ! Thuốc đó tên Bổ-trung ích khí hoàn. Nhưng sau khi tỉnh lại một khắc thì chết. Nói rồi ông ta lấy một bình thuốc, bóp nhỏ hai viên, bỏ vào miệng Đoan-Nghi, đổ nước cho nàng uống. Khoảng hơn khắc sau, Đoan-Nghi từ từ mở mắt ra, nàng thều thào ban chỉ : – Ta tự biết khó qua khỏi. Vậy… các người hãy lui ra để ta dặn con ta mấy câu. Mọi người rời khoang thuyền . Đoan-Nghi nói với con bằng tiếng Mông-cổ: – Con nghe mẹ dặn đây ! Con đã biết, trên đời này gian dối cạm bẫy quá nhiều. Vậy những gì mẹ dặn, con chỉ được nói với năm người mà thôi. Dù người ta tra khảo, dọa giết, con cũng không được khai. Nhớ không ? Tuyệt đối không tin ai, không nghe ai! Thủ-Độ tuy kinh hoảng cùng cực, nhưng được cha huấn luyện từ năm ba tuổi, nên nó cực can đảm, lại thông minh. Nó hỏi : – Nhưng nếu nó cứ khảo, bắt con khai thì sao ? – Con khai rằng, mẹ dặn « Mẹ dấu một kho tàng gồm rất nhiều ngọc ngà, vàng bạc dưới cái hầm trong thư phòng của bố ». Nhớ không ? – Con nhớ. Còn sự thực con chỉ được nói với năm người mà thôi. Họ là ai ? – Một là bố con. Hai là ông bà nội. Ba là bác Lý, cô Ngân. Con nhắc lại mẹ nghe nào ? – Năm người là bố, ông bà nội, bác Lý, cô Ngân. Thế nói gì ? – « Kẻ gian không hề muốn bắt cóc con. Nó dùng con để phục kích giết mẹ. Muốn biết kẻ gian là ai, thì cứ tìm người đàn ông cụt tay trái. Người đàn bà có vết sẹo tròn trên hai má, mất một tai ». Đoan-Nghi bắt con nhắc lại câu đó, rồi bảo : – Sau khi mẹ chết, con phải giả ngây, giả dại, như người mất trí, cho đến khi gặp năm người mẹ dặn mới thôi. Con ra ngoài gọi họ vào đây. Đám sứ đoàn cùng đám võ quan thủy quân vào trong khoang. Viên chánh sứ Vũ Khải hỏi : – Thưa công chúa ! Ác nhân là ai ? – Từ đầu đến cuối ta không nhận được mặt chúng. Lại cũng không biết võ công chúng sử dụng là võ công gì ? Có lẽ là bọn cướp chúng thấy Thủ-Độ đeo nhiều vàng bạc trên người, định bắt cóc, cướp của. Đến đây nàng mệt quá nói nhỏ như tơ : – Ngày mai… Ngày mai… các người vào chầu, tâu với mẫu thân…ta. Xin…người tha tội cho…ta… Đến đây Đoan-Nghi trợn ngược mắt, rồi nghẹo đầu sang một bên. Thủ-Độ hét lên bằng tiếng Mông-cổ : – Mẹ… Mẹ chết rồi à ! Thành Cát Tư Hãn nói, con người ta ai sinh ra cũng phải chết. Người chết là hết. Người sống không được khóc. Mà lo làm những việc mà người chết bỏ dở, và trả thù cho họ. Ta nhất định không khóc. Nói rồi nó ôm xác mẹ, mở to hai con mắt căm hờn nhìn mọi người xung quanh. Mệt quá, nó ngủ đi lúc nào không hay. Khi Thủ-Độ tỉnh giấc, thì thấy mình nằm trên một cái giường rất lạ. Cạnh có một người con gái đang quạt cho nó. Người con gái thấy nó tỉnh thì lên tiếng : – Tâu Thái-phi. Công tử tỉnh rồi. Một người đàn bà xinh đẹp quần áo sang trọng, dáng người xanh ao, vàng vọt, đang nằm dài trên dường, cố ngồi dậy, lê chân chạy lại sờ đầu nó rồi hỏi : – Cháu có đau đớn gì không ? Thủ-Độ hỏi : – Bà là ai ? Người đàn bà bế nó vào lòng, rồi rưng rưng nước mắt : – Bà là bà của con. Bà là mẹ của mẹ con. Thủ-Độ nhớ lời cha dạy khi ta không biết người, mà người nhận là họ hàng thân thuộc với ta, thì phải hỏi lại đã. Đừng tin vội. Nó hỏi: – Thế tên con gái của bà là gì nào ? Bà nói trúng tôi mới tin. Người đàn bà ghé miệng vào tai nó nói nhỏ : – Bùi Chiêu-Dương. – Không phải tên đó ! Mẹ nói, bà tôi còn một tên mà chỉ mẹ tôi biết mà thôi. Bà có nhớ tên đó không ? Thái-phi Bùi Chiêu-Dương nghĩ thầm : – Đoan-Nghi lưu vong nơi hải ngoại, nó dậy con cẩn thận như vậy cũng phải. Bà nói nhỏ : – Tên đó là Cái Nhớn. Thủ-Độ ôm lấy cổ Thái-phi Bùi Chiêu-Dương : – Bà ngoại ! Bà ngoại ơi, mẹ chết rồi. Mẹ bị người ta bắn chết rồi. Thái-phi bồng cháu vào lòng : – Trước khi chết mẹ có dặn gì không ? Nhớ lời mẹ, nó nói dối : – Mẹ dặn, mẹ chôn vàng ngọc trong thư phòng của bố. Có vậy thôi. Nó nghĩ thầm : – Trước khi chết mẹ bảo ta giả ngây thì ta giả ngây. Trong trí nó nhớ lại, hồi ở Mông-cổ, có rất nhiều trẻ mồ côi, mà cha mẹ bị quân Mông-cổ giết, chúng trở thành ngây ngây dại dại. Thủ-Độ vội bắt chước, nó mở mắt thao láo, nhìn vào quãng không, rồi giả bộ nằm vật xuống dường, nhắm mắt lại. Thái-phi kinh hoảng lay gọi : – Cháu ! Cháu ! Khổ quá. Bà ban chỉ : – Mau đi mời Ngự-y. Lát sau Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh tới. Bà hành lễ với Thái-phi, rồi cầm mạch Thủ-Độ. Nó mở mắt nhìn bà như người mất hồn. Bà cau mặt lại suy nghĩ một lúc rồi hỏi : – Tâu thái phi đứa trẻ này là ai ? Thái-phi thuật vắn tắt những việc xẩy ra một lượt. Phương-Thanh suy nghĩ một lát rồi tâu : – Thần bắt mạch thì thấy hồng-đại, tức là mạch của một đứa trẻ khỏe mạnh. Tại sao bề ngoài lại có vẻ của một đứa trẻ mất trí? – Cứ theo Vũ Khải tâu, thì trong suốt ba tháng hải hành, Thủ-Độ cực kỳ thông minh. Mẹ nó giảng cho nó nghe về sử Đại-Việt, chỉ một lần là nó nhớ, kể lại vanh vách. Sở dĩ nó bị thế này, có lẽ nó quá sợ hãi khi bị bắt cóc, sau lại chứng kiến cảnh mẹ nó giao chiến với bọn cung thủ rồi bị giết mà thành thế này chăng ? – Thần không tin thế. Tuy nhiên thần cũng xin trị cho tiểu công tử bằng châm cứu. Nói rồi bà lấy kim thực nhỏ, châm vào huyệt Nhân-trung, Giản-sử, Phong-trì. Châm xong, rút kim ra ngay. Tuy bị châm đau, nhưng Thủ-Độ được huấn luyện thành người can đảm cùng với bọn con nhà quý tộc Mông-cổ, nên nó không kêu, cũng không dãy dọn. Ngự-y Phương-Thanh gật đầu : – Có lẽ tiểu công tử bị kinh hoảng thực. Bà châm vào huyệt Can-du, Thái-xung, Dương-lăng-tuyền của nó, lưu kim một khắc, rồi rút kim ra. Bà tâu : – Về thuốc, thì xin Thái-phi cho tiểu công tử uống Định-tâm hoàn là được rồi. Định tâm hoàn là thần dược do Thánh-y Minh-Không chế ra đã trên một trăm năm. Thuốc này có hiệu năng an thần, định tâm, kiên não, ích trí. Thủ-Độ vốn thông minh, nhớ dai. Bây giờ nó giả ngây lại được uống thuốc bổ não, nhờ vậy tuy xa cha, mẹ chết, nhưng thần trí của nó không bị khủng hoảng. Trái lại nó thông minh khác thường. Hơn nữa tại Mông-cổ trẻ con quý tộc thường được huấn luyện trở thành người trầm tư giống Thành Cát Tư Hãn. Nên nay nó trầm tư, thì Thái-phi tưởng nó kinh hoảng, chưa khỏi bệnh. Hằng ngày nó lấy sách, rồi tìm chỗ vắng ngồi đọc. Thái độ đó của nó vô tình giống một người điên. Nó sống cô độc, an nhàn trong cung với Thái-phi được hơn tháng. Tuy Thái-phi thương yêu nó cùng cực, nhưng bà đang bị bệnh hành hạ đau đớn đến chết đi sống lại, nên mọi việc chăm sóc nó đều do cung nga phụ trách. Hôm ấy thình lình bệnh Thái-phi trở thành trầm trọng. Viên Thái-giám hầu cận bà vội phi báo cho nhà vua. Chiều hôm ấy nhà nhà vua cùng Đàm hoàng-hậu dẫn hai đứa trẻ ngang tuổi với Thủ-Độ vào cung vấn an Thái-phi. Đi theo nhà vua còn có Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh. Lễ nghi tất. Thái-phi nằm trên dường, chỉ hai đứa trẻ nói với Thủ-Độ : – Đây là Long-Thẩm, Long-Sảm. Cả hai với con đều là con cô con cậu. Các con thân thiện với nhau đi. Trên đường từ Mông-cổ về Đại-Việt, Thủ-Độ đã được mẹ giảng cho biết về những liên hệ trong hoàng tộc. Nó biết mình có ba ông cậu còn tại thế. Ông cậu lớn nhất là Long-Ích, tước phong Kiến Khang Vương. Ông cậu nhỏ nhất là Long-Tường, tước phong Kiến Bình Vương. Hồi thơ ấu, cả hai ông đều được bố mẹ nó nuôi nấng, dạy văn luyện võ cho. Riêng Long-Tường, còn là đệ tử của ông bà nội nó. Còn một ông cậu, ở giữa hai ông ấy, chính là Đại-Việt hoàng đế. Ông cậu này sở dĩ còn sống còn ngồi trên ngai vàng, là do bố mẹ nó phò tá. Nó cũng được mẹ cho biết, nhà vua có hai con trai là Thái-tử Long-Sảm, hoàng tử Long-Thẩm. Long-Sảm bằng tuổi Thủ-Độ, Long-Thẩm lớn hơn Long Sảm hai tuổi. Nhưng vì Thẩm làm con một thứ phi sinh ra, nên không được phong Thái-tử. Suốt mấy tháng trên mặt biển, nó mơ màng rằng khi về Đại-Việt, thì sẽ gặp lại đám anh em con cô con cậu. Nó tưởng tượng ra rằng, các cậu đều nhờ ân đức của cha mẹ nó, thì đám anh em cô cậu với nó sẽ thân thiện với nó hơn đám con của Tốc Bất Đài, Bác Nhĩ Truật. Quen với tục lệ của các thiếu niên Mông-cổ, mỗi khi anh em, bạn hữu găp nhau là ôm lấy nhau. Nó chạy lại ôm lấy Long Sảm. Không ngờ Long-Sảm co chân đá vào ngực nó một cái. Tuy có căn bản võ công, nhưng muôn ngàn lần Thủ-Độ không ngờ rằng mình bị đá, nó không đề phòng, nên bị ngã lăn lông lốc. Trong khi Long-Sảm hỏi : – Thằng mọi này là ai mà mi dám ôm ta ? Thủ-Độ ngồi dậy, phóng con mắt hận thù nhìn Long-Sảm, không nói không rằng. Trong khi nhà vua quát Long-Sảm : – Thủ-Độ là con cô con cậu với con. Nó là vai anh con. Con không được đánh nó. Nhà vua ban chỉ : – Long-Sảm, con mau lại xin lỗi anh Thủ-Độ đi. Long-Sảm vùng vằng : – Phụ hoàng đánh chết con, con cũng không nhận thằng điên này là anh em đâu. Hoàng-hậu can thiệp : – Long-Sảm hành sự đúng lễ nghi. Dù Long-Sảm là em nhưng danh phận là trừ quân. Dù Thủ-Độ là anh nhưng danh phận là bầy tôi. Xưa nay chưa từng có lễ nghi nào mà tôi lai ôm lấy chúa bao giờ ? Nhà vua ngượng ngập tâu với Thái-phi : – Chuyện trẻ con, xin Thái-phi chẳng nên quan tâm. Thái-phi bảo Thủ-Độ : – Thôi, con ra ngoài vườn chơi đi. Thủ-Độ phóng con mắt ghê tởm nhìn anh em Long-Sảm, rồi ra ngoài. Nó thẩn thơ nhìn trời, nghiến răng : – Nhất định ta không khóc ! Khóc là hèn. Dù chưa gặp mặt, nhưng qua lời giáo huấn của mẹ, Thủ-Độ dành ra biết bao tình cảm cho quê hương, cho anh em con cô, con cậu, con chú, con bác trong mấy năm qua… Bây giờ, vừa về đến Đại-Việt thì mẹ bị giết, nó bị Long-Sảm làm nhục ; trong tâm nó nảy một mối nghi ngờ, rồi từ nghi ngờ biến ra hận thù. Nó nghĩ thầm : – Ta phải trả thù cho mẹ ! Ta phải rửa cái nhục hôm nay. Nghĩ vậy, nó núp sau cửa sổ, ghé mắt nhìn vào bên trong. Thái-phi đã mệt mỏi lắm rồi, bà hỏi nhà vua : – Hoàng nhi đã điều tra ra vụ ám toán Đoan-Nghi chưa ? Nhà vua tâu : – Khu mật viện đã đúc kết điều tra. Thần nhi xin kính tâu lên Thái-phi tường. – Vụ này ra sao ? Nhà vua thuật lại vụ Vũ Khải đem thư lên Mông-cổ Thủ-Huy, Tử-Kim không chịu về, vì không có chiếu chỉ. Dọc đường ra sao. Đoan-Nghi lấy xe dạo phố ra sao, rồi bị ba tên cướp giả mãi võ bắt Thủ Độ ra sao. Công chúa đuổi theo. Phần kết luận, nhà vua trao cho viên thái giám hầu cận đọc : « Phu xe là một lính Thủy-quân. Y chờ mãi không thấy công chúa về, thì vội trở lại báo với Vũ Khải. Vũ Khải cáo với viên đô đốc Thủy-quân. Viên đô đốc sai một tốt binh sĩ theo giúp Vũ Khải, thì tìm thấy công chúa bị thương nặng. Cạnh đó có 26 xác chết. Y đoán rằng đó là những xác bọn cướp bị công chúa giết chết. Y hoảng hốt mang công chúa về thuyền trị bệnh. Sáng hôm sau viên đô đốc báo cho phủ thừa Thăng-long. Phủ-thừa Thăng-long đến phạm trường điều tra, thì 26 xác chết không thấy đâu nữa. Vũ khí, y phục cũng biến mất. Trong lúc lâm chung, công chúa có di ngôn với Vũ Khải rằng : Bọn cướp thấy Thủ-Độ mang nhiều vàng, ngọc. Chúng định bắt cóc để lấy của. Công chúa không nhận được võ công bọn chúng là võ công nào. Kết lại : Vụ này do bọn cướp gây ra. Nhưng chúng bị chết hết rồi, không thể điều tra thêm gì được nữa ». Thái-phi thều thào : – Hoàng nhi phải sai sứ báo cho phái Đông A với Thủ-Huy ngay… Khổ lắm ! Đoan-Nghi là đứa con dâu mà đại hiệp Tự-Hấp sủng ái nhất…Tin này mà đến với ông, thì cả môn phái Đông A rúng động. Họ ắt tung người đi điều tra. Không biết sẽ có bao nhiêu người chết nữa đây ? Lại còn Thủ-Huy nữa. Nó không về, thì có nghĩa là nó nghi triều đình. Bây giờ Đoan-Nghi chết tức tưởi thế này, đời nào nó ngồi im ? Đến đây bà mệt quá, nắm tay nhà vua : – Hoàng nhi ! Nếu Hoàng-nhi không vì tình huyết tộc, thì cũng…cũng tưởng nhớ…công lao cha nó, mà… đưa nó về Thiên-trường cho…ông nội nó nuôi dạy nó… Đến đây, bà nhắm mắt lại : – Ta sắp về với Tiên-đế ! Nghĩ lại, ta nhập cung, được Tiên-đế sủng ái, sinh ra ba người con anh hùng là Kiến-Ninh vương, Kiến-Hòa vương và Đoan-Nghi. Nhưng, nay thì…tay không ! Chúng đều đi trước ta cả rồi… Hỡi ơi ! Ta tưởng gọi Đoan-Nghi về để mẹ con thấy mặt nhau lần cuối. Không ngờ… Không ngờ… Đến đây, bà nhắm mắt lại. Ngự-y Phương-Thanh kinh hãi, bắt mạch Thái-phi. Bà lắc đầu : – Tâu bệ hạ, Thái-phi băng rồi. Nhà vua than : – Trẫm vì muốn kiến tạo lại thịnh thời của bốn vị Tiên-đế mà bàn với Thái-phi viết thư mời công chúa Đoan-Nghi, phò mã Thủ-Huy về phò tá. Không ngờ Thủ-Huy nghi trẫm thiếu thành tâm, mà ở lại đất khách. Còn Đoan-Nghi vừa về thì bị ám toán. Vụ này e có loạn chứ không giản dị đâu. Nếu như Thái phi còn tại thế thì người có thể nói một lời với Thủ-Huy với phái Đông A dùm trẫm. Bây giờ Thái-phi lại băng, làm sao ? Phải làm sao ? Đàm hoàng hậu đề nghị : – Hay ta dấu nhẹm việc công chúa hoằng đi. Coi như công chúa chưa về tới Đại-Việt. Sau này, Thủ Huy, hay phái Đông A cho người đi điều tra, thì ta cứ nói là thuyền chở công chúa Đoan-Nghi bị đắm trên biển Đông. Còn Thủ-Độ nó kinh hoảng quá, đến mất trí, thì cứ nói dối rằng nó là đứa trẻ mồ côi, ta đem về nuôi. Ta cải họ, đổi tên cho nó. Khi nó lớn lên, ta cho nó tĩnh thân làm thái giám. Bây giờ ta tạm cho nó vào trường Quốc-tử giám học cùng với Long-Sảm. Nhà vua tán thành : – Đành vậy. Ta cải họ Trần của nó thành họ Đàm, còn tên thì giữ nguyên. Hồi thứ ba mươi ba Lời nguyền Chân-giáo Đám tang Thái-phi Bùi Chiêu-Dương qua đi thực giản dị. Còn Thủ-Độ thì Đàm hoàng hậu trao cho một cung nga già tên Thụy-Nga trông coi với chỉ dụ : “Tuyệt đối không được tiết lộ thân thế của nó với bất cứ ai. Ngay cả Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh cũng không được vào thăm bệnh nó. Ai hỏi, nói dối rằng nó là cháu xa đời của ta, mồ côi cả cha lẫn mẹ, ta đem về nuôi.” Thủ-Độ được ở ngay trong cung của thân mẫu hồi chưa lấy chồng. Hơn tháng sau, chợt nhà vua nhớ đến nó. Ông cậu cho triệu hồi nó đến để hỏi han tình hình sức khỏe. Nó biết rằng nếu mình tỏ ra tỉnh táo, thì khó mà toàn mạng. Vì vậy gặp nhà vua, nó mở mắt thao láo nhìn, không nói không rằng, rồi thình lình méo miệng cười một mình. Nhà vua ôm nó vào lòng : – Cháu ! Cháu có nhớ bố cháu tên gì không ? Thủ-Độ nhe răng, mở to mắt, rồi cười sằng sặc : – Bố à ! Bố là gì ? – Tên cháu là gì nào ? Nó lắc đầu tỏ vẻ không biết. Nhà vua tin rằng đó là thằng điên. Nhà vua hỏi cung nga già Thụy-Nga về cuộc sống hàng ngày của nó. Người cung nga tâu rằng tuy nó ít nói, nhưng lại rất chăm đọc sách. Nhà vua truyền cho nó vào trường Quốc-tử giám học. Ba hôm sau, Thủ-Độ được đưa vào trường Quốc-tử giám. Trường này thành lập từ thời vua Thánh tông. Trường dành cho các hoàng tử, các thế tử, con các đại thần. Nếu còn chỗ thì nạp thêm những sĩ tử giỏi của các trấn, các huyện. Ngày đầu tiên Thủ-Độ phải qua một kỳ sát hạch để biết trình độ học vấn. Vị Kinh-diên quan tuổi còn trẻ, tên Phạm Kính-Ân. Ông trao cho Thủ-Độ bộ Văn-lang giản sử bảo nó đọc. Quyển này nó đã được Đoan-Nghi giảng rất kỹ trong ba tháng lênh đênh trên mặt biển. Nó chắp tay : – Thưa thầy bộ này con đọc rồi. Kính-Ân kinh ngạc, ông hỏi : – Con đã học, vậy học với ai ? – Con tự đọc. – Vậy con có hiểu không ? – Con hiểu rất kỹ. Kính-Ân không tin : – Nếu con đọc rồi, vậy thầy hỏi con một câu: Văn minh thời Văn-lang có ba đặc tính vượt Trung quốc. Đó là những đặc tính gì ? – Thưa thầy, thứ nhất, về Lịch-số ta bỏ xa Trung-quốc. Nên vua Hùng đã sai chép phép làm lịch vào lưng một con rùa, rồi sai sứ sang tặng Trung-quốc. Vua Trung-quốc sai quan Thái-sử lệnh chép lại. Vì vậy lịch đó gọi là Quy-lịch. – Giỏi ! Thế đặc tính thứ nhì là gì ? – Thưa là thuật luyện kim. Bằng cớ vào thời này Trung-quốc chưa biết đúc đồng. Thế mà ta đã đúc trống đồng. Trên trống đồng khắc hoa văn rất tinh xảo ! – Đúng ! Thế còn đặc tính thứ ba ? – Đặc tính thứ ba, là Trung-quốc chỉ có chữ tượng hình, học rất khó, lại rất lâu. Trong khi ta có văn tự Khoa-đẩu tượng thanh. Học rất dễ, rất mau. Kính-Ân kinh ngạc về trí thông minh, về tài ứng đối nhanh chóng của Thủ-Độ. Ông ta nghĩ thầm : – Đứa trẻ này là con của ai ? Theo như trong sổ ghi, thì nó là đứa con mồ côi thuộc họ xa của Đàm hoàng-hậu. Nó bị bệnh ngẫn ngờ. Ngẫn ngờ mà sao lại thông minh thế này ? Ta phải tìm hiểu mới được. Kính-Ân lấy quyển binh pháp Kinh-Nam vương ra trao cho nó. Bộ này Thủ-Độ đã thấy bố nó mang ra giảng cho các tướng Mông-cổ nhiều lần. Nó ngồi cạnh, cũng hiểu được mấy phần. Nó mở ra trúng chương chín. Đó là chương nói về việc luyện kỵ binh. Nó cất cao giọng đọc. Nó vừa đọc xong, thì Kính-Ân hỏi nó : – Trong phép dùng kỵ binh, thì những điều kị nhất là gì ? – Có ba điều phải tránh. Thứ nhất tránh đồng lầy. Thứ nhì tránh rừng núi. Thứ ba tránh nơi có nước dơ bẩn. Như thế đủ rồi, Kính-Ân thấy Thủ-Độ quá thông minh, lại có căn bản vững vàng. Ông đề nghị với quan Quốc-tử giám tế tửu cho nó học cùng nhóm với Thái-tử Long-Sảm. Ngay buổi học đầu, vừa trông thấy Thủ-Độ, lập tức Long-Sảm nhảy dựng lên : – Thưa thầy, trong chín người cùng học với con, năm đứa chúng con là Gia Thụy Ngũ Anh, ngoài ra còn bốn người đều là những học trò giỏi nhất của các trấn. Tại sao thầy cho thằng khùng này cùng học ? Kính-Ân hỏi : – Gia Thụy Ngũ Anh là những ai vậy ? – Thưa thầy đứng đầu là con, thứ nhì là em Long-Thẩm của con. Thứ ba là Đoàn Thượng, con của Tổng-lĩnh thị-vệ Đoàn Văn. Thứ tư là Nguyễn Dư, con của quan Kinh-lược sứ Kinh-Bắc Nguyễn Nộn. Thứ năm là con của Vũ-kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh-Di tên Phạm Bỉnh-Du. – Có phải Đoàn Thượng, Nguyễn Dư, Phạm Bỉnh-Du là Thiện-nhân không ? – Dạ. Kính-Ân biện luận : – Xin điện hạ cứ coi Đàm Độ như một hình bù nhìn. Y có theo kịp hay không cũng không cần biết. Thấy qua việc trắc nghiệm, mình đã để lộ chân tướng ra nhiều quá, Thủ-Độ tự nhủ : – Đã vậy thầy giảng, ta cứ im lặng nghe, để không ai chú ý đến ta. Thể lệ của trường Quốc-tử giám, là sau mỗi tháng, các Kinh-diên quan họp nhau lại để cùng nhận xét về các học sinh. Khi bàn về nhóm học cùng với Thái-tử, thì họ tranh cãi đến hết một buổi mà không hiểu nổi Thủ-Độ. Vì khi thầy giảng, hầu hết học trò hiểu thì gật đầu. Không hiểu thì chau mày. Còn Thủ-Độ thì trầm tư không tỏ ra hiểu hay không. Ngược lại, khi làm bài thì bài của Thủ-Độ bao giờ cũng được chấm ưu. Chữ viết rất đẹp. Trong sáu Kinh-diên quan, thì ba người cho rằng Thủ-Độ điên khùng. Còn ba người thi lại cãi rằng nó là đứa trẻ thông minh. Phạm Kính-Ân là người đứng về phía cho rằng Thủ-Độ thông minh. Một hôm, ông gọi riêng Thủ-Độ vào thư phòng, đóng cửa lại, rồi ông hỏi nó : – Con có tin rằng thầy yêu thương con không ? – Thưa thầy con tin. – Vậy thầy hỏi câu nào con phải nói thực câu đó. – Vâng ! – Hoàng hậu bảo rằng con là cháu của người. Con là đứa trẻ mất trí, khật khùng. Thầy không tin. Vậy nguồn gốc con ra sao ? Thủ-Độ nghĩ : – Ông là thầy ta, không thụ một chút ân huệ nào của cha mẹ ta, mà ông yêu thương ta còn hơn các ông cậu bà mợ của ta. Ta chẳng nên nói dối ông. Nghĩ vậy, nó nói : – Thưa thầy, con họ Trần tên Thủ-Độ. Cha con trước đây là Phụ-quốc Thái-úy phụ chính đại thần Trần Thủ-Huy. Mẹ con là Trường Công Chúa Đoan Nghi Kính-Ân kinh ngạc : – Ái chà ! Thế hiện thời phò mã với công chúa ở đâu ? Thủ-Độ tường thuật chi tiết vụ bố mẹ nó bị đem cống cho Tống, rồi bỏ lên Mông-cổ, giúp Mông-cổ lập quốc ra sao. Cuối cùng mẹ nó vì nghe lời nhà vua, về giúp nước mà bị giết. Nó phải giả khùng để tránh bị họa sát thân. Hai giọt nước mắt chảy trên gò má, Phạm Kính-Ân than : – Thì ra thế . Thủ-Độ hỏi : – Thưa thầy, cứ như minh kiến của thầy thì ai đã sát hại mẹ con ? Kính-Ân giảng giải : – Khu mật viện cũng như Phủ-thừa Thăng-long tâu rằng bọn trộm cướp đã ra tay. Ta phải gạt cái lý luận ngớ ngẩn này ra ngoài. Việc công chúa bị ám hại, không thể do bọn cướp. Bọn cướp lớn đến mấy cũng không có khả năng mạnh đến như vậy. Để có thể làm việc này, phải là một thế lực uy quyền bao la. Tại sao ? Một là trộm cướp không thể biết rõ việc công chúa về nước. Hai là không biết ngày giờ công chúa về tới Thăng-long. Ba là điều động hai đội tiễn thủ phục sẵn gần bờ hồ Tây. Chỉ một thế lực lớn lao mới có khả năng đó. Chúng lại cũng đoán ra rằng công chúa xa quê hương lâu ngày. Khi về Thăng-long vào lúc trời tối ắt không kiềm chế nổi lòng rộn rực, người sẽ lấy xe dạo chơi. Dạo chơi thì phải ăn uống. Chúng cũng biết công chúa kiếm thuật thần thông, chúng không đủ sức ám toán. Cho nên chúng mới bầy ra bọn mãi võ để bắt cóc con, rồi dẫn dụ công chúa vào trận loạn tiễn. Thủ-Độ như người mù được mở mắt ra. Nó hỏi : – Theo thầy, thì kẻ nào đứng chủ trương ? – Thầy đoán như thế này : Kẻ nào đó biết rõ Thái-phi, Hoàng-thượng thỉnh công chúa hồi hương. Khi công chúa hồi hương bình an, ắt phò mã sẽ về. Phò mã với công chúa sẽ được Hoàng-thượng trao đại quyền, lập lại thịnh trị như hồi các vị Tiên-đế. Bấy giờ bọn chúng sẽ mất hết quyền hành, hay gặp nguy hiểm. Chúng bàn với nhau bầy mưu ám toán công chúa. Một là chúng dùng quyền lực đe dọa, hai là chúng mua chuộc sứ đoàn với thủy đoàn. Khi công chúa về đến lãnh hải Đại-Việt, sứ đoàn, thủy thủ đoàn báo cho chân tay bọn sát nhân biết. Bọn này phi ngựa khẩn cấp về Thăng-long trình lên chánh phạm. Chánh phạm mật ra lệnh cho thủy thủ đoàn ghìm sao để thuyền tới Thăng long vào giờ cổng thành đóng. Rồi chúng cho người giả làm bọn mãi võ, đưa công chúa đến chỗ chúng phục tiễn thủ . – Không lẽ Thái-phi hay Hoàng-thượng làm việc này ? – Thầy nghĩ Thái-phi không thể nào giết con. Hoàng-thượng muốn thỉnh công chúa về, thì người đâu có hại công chúa ? Thái-phi, Hoàng-thượng sai Vũ Khải thỉnh công chúa, phò mã mà triều đình không biết gì. Người ngoài duy nhất được biết là viên sứ thần Vũ Khải. Nhân viên sứ đoàn cũng không biết nốt. Vậy chỉ cần điều tra viên sứ thần Vũ Khải với thủy thủ đoàn thì ra manh mối. Kính-Ân nắm tay Thủ-Độ : – Con giả ngây như vậy cũng phải. Ở đây là chốn miệng hùm, nọc rắn. Con liệu mà trốn về Thiên trường với ông nội con càng sớm càng tốt. Từ đấy, Kính-Ân không bao giờ nghị tới việc Thủ-Độ điên hay tỉnh nữa. Trên toàn Đại-Việt có năm trường dạy võ của triều đình, do Lĩnh-Nam ngũ hổ tướng trự tiếp điều động. Trường lớn nhất, mở trong Hoàng-cung. Trường này dành riêng cho hoàng tử, thế tử và con các đại thần.. Người phụ trách dậy võ là quan Tổng-lĩnh thị vệ Đoàn Văn. Thủ-Độ được vào học lớp này. Chỉ nhìn cảnh thầy dậy trò tập, Thủ-Độ thấy ngay, họ là những con vua, cháu chúa. Học chỉ để làm cảnh. Cho nên sau khi học buổi đầu, nó đóng kịch, uể oải múa may loạn xạ, rồi lên cơn điên nói lảm nhảm. Thái-tử Long-Sảm nói với anh là Long-Thẩm : – Anh xem ! Thằng mọi này vốn bị bệnh điên, mà đi học văn với bọn mình nên thành điên thêm. Bây giờ lại học võ thì chỉ có chết non. Tuy vậy mỗi buổi chiều Thủ-Độ cũng phải học võ. Nó cứ đóng kịch, múa may không ra bài bản gì. Nhưng tối tối, nó đóng cửa lại, tự luyện nội công. Ôn lại bộ quyền, chưởng mà bố nó dạy nó. Vì không có việc gì khác, cũng như không được chạy nhảy, đùa nghịch ; Thủ-Độ chăm chỉ luyện công không ngừng. Hai năm dài qua đi, Thủ-Độ đã luyện hết yếu quyết nội công Đông A mà bố nó dạy nó. Trong thời gian này, nó nghe người ta nói nhiều về những việc mà trước đây bố mẹ nó đã làm, ai cũng tỏ vẻ kính phục. Nó lại nghe các ông thầy dạy võ nói nhiều về phái Đông A của bố nó. Trong óc nó lóe lên một ý nghĩ : – Không ngờ danh tiếng ông bà ta lại lớn như vậy ! Hay là ta thử về Thiên-trường tìm ông bà nội, tìm bác Lý, tìm cô Ngân của ta, ta sẽ nói với ông bà ta những lời mẹ ta trối trăn lúc lâm chung, rồi xin các người đưa ta trở về Mông-cổ gặp bố ta. Nhưng những tàn nhẫn của Đàm hoàng hậu, của anh em Long-Sảm, Long-Thẩm lại khiến nó suy nghĩ : – Biết đâu bác Lý, cô Ngân cũng như con của họ lại giống Đàm hoàng hậu vơi các con bà ? Hôm ấy là ngày rằm tháng tám, nhà vua cùng Hoàng-hậu, phi tần, thân vương mở tiệc trung thu trong Hoàng-thành để khoản đãi các thân vương, công chúa. Trong buổi tiệc này, nhà vua sẽ cho các thiếu niên trong hoàng tộc đấu võ. Ai thắng giải nhất sẽ được thưởng một thanh kiếm, chuôi nạm vàng. Ai thắng giải nhì, sẽ được thưởng một cái roi da, chuôi bằng bạc. Ai thắng giải ba, sẽ được thưởng một cây cung, với ba mũi tên đầu bịt bạc. Thủ-Độ bị coi như đứa trẻ ngẫn ngờ, không được tham dự. Nhưng nó vẫn phải cùng các bạn đồng học, ngồi xếp hàng trước võ đài xem tranh giải. Ngồi trước võ đài, mà trong tâm Thủ-Độ nghĩ tới những ngày ở Mông-cổ với cha mẹ, phi ngựa với bọn Ngột Lương Hợp Thai, bọn Bạt Đô, bọn A Bát Xích trên đồng cỏ mênh mông. Khi nhà vua cùng chư vương đến, nó mới trở về thực tại. Nhìn lên đài, thấy hai vương Kiến-khang, Kiến-bình ngồi cạnh nhà vua, trong lòng nó chua chát : – Ba ông cậu kia, đều là em của mẹ ta. Hai ông thì do cha mẹ ta dậy dỗ nuôi nấng. Một thì chết đến ba lần, đều do cha mẹ ta mà còn sống đến nay. Thế nhưng, họ bắt ta cải họ, giam giữ ta như thế này đây ! Ta phải cố tranh sống. Sau này ta mà ngóc đầu lên được, thì ta cũng không nghĩ đến tình cậu cháu nữa. Ai đấu với ai, Thủ-Độ cũng không cần để ý. Cho đến khi phát thưởng nó mới biết, người đoạt giải nhất là Đoàn Thượng, con trai của quan Tổng-lĩnh thị vệ Đoàn Văn. Người đoạt giải nhì là Nguyễn Dư, con trai quan An-phủ sứ Đăng-châu Nguyễn Nộn. Người đoạt giải ba là Phạm Bỉnh-Du, con trai của Vũ-kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh-Di. Sau khi nhà vua trao thưởng cho ba thiếu niên, thì Kiến Khang Vương hỏi Thái-tử Long-Sảm : – Thế nào ? Cháu luyện võ đến đâu rồi ? Cháu thử đi một bài quyền cho chú xem nào ? Long-Sảm vâng lệnh, bước ra bái tổ, hành lễ với cử tọa, rồi đi một bài quyền. Thủ-Độ nhận ra đó là một bài quyền của phái Hoa-sơn. Bất giác nó nảy ra ý khinh bỉ, trán hơi nhăn lại, rồi quay đầu nhìn đi chỗ khác. Hành động của nó không qua được mắt Đàm hoàng hậu. Bà vẫy tay gọi nó : – Đàm Độ, người hãy lên đài. Thủ Độ không đừng được, nó phải lên đài, cung tay hành lễ. Hoàng hậu bảo Long-Sảm : – Đàm Độ học võ cùng với con. Vậy con hãy đấu với nó mấy chiêu cho phụ hoàng cùng các hoàng thúc xem nào. Long-Sảm dạ một tiếng rồi đứng đối diện với Thủ-Độ. Đoàn Văn hô : – Xuất chiêu! Long-Sảm tung vào người Thủ-Độ một chiêu Hoa-sơn quyền. Thủ-Độ giả như người không biết võ, nó ôm đầu trầm người xuống tránh. Long-Sảm đánh vào quãng không. Xấu hổ, Long-Sảm lại dùng tay phải đành thẳng vào ngực Thủ-Độ trong khi tay trái chém ngang vào cổ nó. Thủ-Độ trầm người xuống, rồi bước ra sau Long-Sảm. Long-Sảm đánh hụt, người lảo đảo suýt ngã. Tức giận y quay người về sau, trong khi chân đá vòng vào bụng Thủ-Độ. Thủ-Độ không tránh kịp, nó đành vận công chịu đòn. Bộp một cái, Long-Sảm có cảm tưởng như mình đá phải cái cột gỗ, chân y đau đớn , mặt nhăn nhó cực kỳ khó chịu. Thấp thoáng một cái, Kiến Bình Vương đã nhảy ra giữa đài, ông túm áo Long-Sảm, Thủ-Độ ném hai trẻ ra xa rồi nói : – Đàm Độ ! Phàm khi đấu võ thì không kể đến chúa tôi, thầy trò. Cháu phải trả đòn đi chứ ! Nói dứt ông hô : – Phát chiêu. Long-Sảm lại dùng Hoa-sơn quyền tấn công Thủ-Độ. Vốn đã chủ tâm, Thủ-Độ cứ giả như người không biết võ, nó xuyên bên Đông, lách bên Tây, khiến Long-Xưởng không sao đánh trúng được nó. Nhưng sau mười tám chiêu, thì nó lùi đến mép đài. Long-Sảm dùng cả hai tay thúc vào ngực nó, mong đẩy nó xuống đài. Không đừng được, Thủ-Độ phải chụp hai vai Long-Sảm, rồi lộn một vòng trên không, nó tung mình đáp xuống giữa đài. Vô tình nó đã sử dụng chiêu Kình-ngư thuận phong một chiêu trong Đông A chưởng pháp. Khán giả vỗ tay hoan hô. Long-Sảm quá xấu hổ, nó rút trong bọc ra một thanh trủy thủ vung tay đâm vào ngực Thủ-Độ. Kinh hoảng, Thủ-Độ xuống đinh tấn, tay trái gạt tay phải Long-Sảm, rồi tung mình lên cao, quay một vòng, chân phải đá vào vai phải Long-Sảm. Đó là một chiêu trong Đông A quyền pháp. Binh một tiếng, Long-Sảm bay tung xuống đài, nằm thẳng cẳng, không bò dậy được nữa. Có nhiều tiếng la thét : – Võ công Đông A chính tông. Biến cố đột ngột xẩy ra, ngoài sự tưởng tượng của mọi người, Phạm Bỉnh-Di nhảy ra túm tóc Thủ Độ, tát nó hai cái, rồi quát : – Mi học đâu những võ công sát nhân này ? Kiến Bình Vương nhảy ra can thiệp : – Bỏ đứa trẻ này xuống. Vương đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Bỉnh-Di: – Võ công mà đứa trẻ này dùng là võ công thuộc danh môn chính phái. Người liệu mà giữ mồm, bằng không thì cả nhà người sẽ bị tru diệt, cả đến con gà, con chó cũng không thoát chết đâu. Phạm Bỉnh-Di tái mặt, y lùi lại góc đài, chân tay y phát run. Kiến Bình Vương xoa má cho Thủ-Độ rồi hỏi : – Cháu là con của vị quan nào trong triều ? Đàm hoàng hậu trả lời thay Thủ-Độ : – Nó là đứa trẻ mồ côi, bị bệnh điên trong họ tôi. Tôi mang về nuôi trong Hoàng-thành. Lời nói của Hoàng-hậu, cũng như những chiêu thức hỗn loạn của Thủ-Độ không qua mắt được Kiến Bình Vương. Bởi quan sát cuộc đấu, ngay từ đầu, ông thấy rõ Thủ-Độ giả không biết võ, ra chiêu lộn xộn, nhưng những chiêu đó đều bao hàm những sát thủ kinh nhân của võ công Đông A. Ông biết ngay Thủ-Độ đã đươc huấn luyện căn bản cực kỳ tinh vi. Như vậy nó phải học võ với những người ngang hay cao hơn ông một vai. Ông hỏi Thủ-Độ : – Cháu là đệ tử của cao nhân nào trong phái Đông A ? Thủ-Độ không dám nói thực, nó trả lời : – Cháu học võ trong Hoàng-thành. Vừa rồi cháu gặp nguy hiểm, thuận tay múa loạn lên, chứ có ai dạy cháu đâu ? Kiến Bình Vương hỏi Phạm Bỉnh-Di: – Phải chăng tướng quân chỉ dạy võ công Hoa-sơn cho đám trẻ này ? – Khải vương gia vâng. Kiến Bình Vương càng áy náy. Ông nói với Hoàng-hậu: – Thưa nương nương, việc này không giản dị đâu. Ngày mai, thần xin phép nương nương cho đón đứa trẻ này đến tệ phủ, để tìm hiểu rõ sự thực. Hoàng-hậu đáp bằng giọng run run: – Hoàng thúc cứ tự tiện. Long-Sảm chỉ bị ngã đau, chứ không bị thương. Nó đã lên đài, định xông vào đánh Thủ-Độ nữa. Kiến Bình Vương tuyên bố : – Trận vừa rồi Long-Sảm thua, Đàm Độ thắng. Trận đấu chấm dứt. Thế là cuộc đấu võ xong. Nhà vua tuyên bố ban tiệc cho các thiếu niên. Vì Thủ-Độ không phải là tôn thất, cũng không phải là con quan, nên nó không được dự tiệc Trung-thu. Nó chỉ được gói quà, gồm một quả hồng, một quả na, một gói ngô rang và một cái bánh dẻo. Nó ngồi ăn bên cạnh những đứa trẻ mà cha mẹ làm những nghề hèn hạ trong Hoàng-thành như cắt cỏ, gánh phân, chăn ngựa. Ăn xong, nó thui thủi trở về chỗ ngủ. Vừa về đến nơi, thì trước mặt nó, bọn Gia Thụy Ngũ Anh đã dàn hàng ngang đứng chờ. Không nói không rằng, cả năm xông vào tấn công nó. Thủ-Độ kinh hoàng, không kịp phản công, thì bị đánh ngã. Sau khi nó ngã, Nguyễn Dư, Đoàn Thượng khóa tay nó, còn Long-Sảm thì chân đấm, tay đá vào khắp người nó. Nó nghiến răng chịu đau, không kêu, không khóc cho đến khi ngất đi mới thôi. Long Sảm bảo đồng bọn : – Chúng ta đái vào đầu nó cho bõ ghét. Cả bọn xúm vào đái khắp người Thủ-Độ, rồi cười khoái trá, kéo nhau đi. Thủ-Độ tuy đau đớn, nhưng vốn có nội công thâm hậu, chỉ lát sau, nó đã đứng dậy đi được. Nó vào nhà tắm rửa, thay quần áo rồi nghĩ thầm : – Tình thế này, ta không thể ở đây được nữa. Nhân đêm Trung-thu, các cổng thành đều mở cả đêm, ta phải trốn đi, rồi tìm đường về Thiên-trường mới hy vọng sống sót. Nghĩ vậy, nó lấy quần áo cho vào cái túi da, mà nó mang từ Mông-cổ về, cùng với mấy di vật của mẹ, rồi lết ra khỏi Hoàng-thành. Nó thẫn thờ đi gữa kinh thành rực ánh trăng. Bấy giờ Đại-Việt đang lúc thời bình, biên cương không ngoại xâm, trong nước không loạn. Dân chúng Thăng-long lũ lượt kéo nhau ra đường chơi trăng Trung-thu. Chỗ này một đoàn xiếc biểu diễn. Chỗ kia một đoàn hát chèo. Chỗ khác, trai, gái chia toán hát Trống-quân. Trai thanh, gái lịch cười đùa, tưởng như thiên cung. Trong cái không gian vui vẻ ấy, đứa trẻ mồ côi Thủ-Độ lầm lũi lê bước, khắp thân thể đau đớn cùng cực. Bất giác nó ngửa mặt nhìn trời : – Trăng đẹp thế kia, người vui thế nọ, còn ta ? Trời đất mênh mông, ta đi về đâu ? Hỡi ơi ! Thình lình mây đen kéo đến che khuất mặt trăng, rồi sấm, chớp rung động trời đất. Cơn mưa đổ ụp xuống. Người người bỏ chạy. Thủ-Độ ẩn thân vào dưới một mái hiên. Được một lát, gió thổi ào ào, mưa tạt khắp người nó. Nó cố nép mình vào tường, nhưng cũng bị ướt. Tuy ướt, nhưng vốn sinh trưởng ở vùng băng tuyết, nó không cảm thấy lạnh. Gió lại thổi, mưa lại tạt vào người, cảm thán nó làm bài thơ cổ phong: Trung-thu vọng nguyệt ! Vũ như cương la ! Ta hồ, thống khổ ! Thùy khả tri tâm ! Không gian vô tận hà vi tiểu ? Bất nghi nhất thốn khả dung thân ! Rồi nó tự dịch sang tiếng Việt : Trung-thu ngắm trăng, Mưa như lưới giăng : Than ôi, đau đớn ! Ai hiểu ta chăng ? Vô tận không gian sao hẹp quá ? Không đầy một chỗ để dung thân.(1) Trời tạnh, Thủ-Độ lại lê bước lầm lũi đi trong đêm. Đau quá, kiệt lực nó ngã sóng soài trên vũng nước. Giữa lúc đó một chiếc xe ngựa bon bon chạy tới. Có tiếng thiếu nữ kêu thét lên: – Ai chết giữa đường. Dừng xe lại ! Người đánh xe ghì cương khẩn cấp. Con ngựa hý lên một tiếng dài, cất cao hai vó. Trên xe có một thiếu phụ nhan sắc diễm lệ ngồi cạnh một thiếu nữ. Người phu xe tung mình xuống đất. Y sờ tay lên đầu Thủ-Độ, rồi tỏ vẻ mừng rỡ: – Là một đứa con trai, thương tích đầy người. Nó chưa chết. Thiếu nữ cuống lên: – Mẹ! Mẹ! Mình có cứu nó không? – Cứu chứ. Mau đem nó lên xe. Gã phu xe bồng Thủ-Độ để nằm ở ghế sau, rồi ra roi cho ngựa chạy. Tới bờ sông Hồng, thiếu phụ ra lệnh: – Đem nó vào khoang chính cho ta. Nói rồi bà với cô gái leo lên tấm ván làm cầu, xuống con thuyền cực lớn. Thủ-Độ được đặt nằm dài trên cái ổ rơm. Thiếu phụ cởi áo Thủ-Độ ra xem, rồi nói: – Cứ như y phục, thì đứa trẻ này không phải là ăn mày. Nó bị năm đứa trẻ khác dùng võ công Hoa sơn đả thương, rồi lại đái trên người. Song nó chỉ bị ngoại thương thôi. Bóp rượu thuốc vài lần thì khỏi. Thủ-Độ đã tỉnh, nó rên lên mấy tiếng. Thiếu phụ bảo gã phu xe: – Người đem nó đi tắm, ta sẽ dùng rượu thuốc trị các vết thương cho nó. Trong khi thuyền phu đưa Thủ-Độ ra phía sau thuyền múc nước sông tắm cho nó, thì thiếu nữ giặt quần áo rồi hơ khô. Thiếu-phụ, thiếu nữ cùng dùng rượu thuốc thoa bóp cho Thủ-Độ. Khoảng một khắc sau, nó cảm thấy bớt đau. Thiếu phụ hỏi: – Cháu tên là gì? Bố mẹ cháu là ai? Thấy thái độ từ ái của thiếu phụ, Thủ-Độ không muốn nói dối. Nó nói thực: – Mẹ cháu chết rồi. Còn bố cháu thì ở xa…xa lắm. Cháu ở với cậu mợ cháu. – Ai đã hành hung cháu thế này? – Cháu bị hai đứa em con cậu cùng ba đứa bạn nó xúm vào đánh cháu. – Thương thế của cháu rất trầm trọng. Ta muốn đưa cháu về nhà ta, rồi mời thầy lang trị bệnh cho cháu. Ngặt vì luật nước rất nghiêm, chỉ người trong gia tộc mới có quyền nuôi trẻ. Vì vậy, ta mà đưa cháu về nhà ta, thì cậu mợ cháu sẽ kiện ta về tội dụ dỗ trẻ con. Vậy nhà cháu ở đâu, để sáng mai ta đưa cháu về ? Thủ-Độ nói dối: – Nhà cháu ở phố hàng Trống. Bấy giờ Thủ-Độ mới chú ý đến thiếu nữ. Nàng ngang tuổi với nó. Nó đã từng thấy biết bao nhiêu người đẹp mà Thành Cát Tư Hãn bắt từ các nước đem về, thưởng cho các tướng. Nó cũng biết mẹ nó là công chúa đẹp nhất Đại-Việt. Thời gian ở trong Hoàng-thành, nó từng thấy Hoàng-hậu, Phi-tần, người nào cũng đẹp… nhưng thiếu nữ này có sắc đẹp diễm ảo, như có, như không. Đôi mắt nàng đen, to, thực nhu mì. Nhưng khi nàng nhìn thẳng vào nó thì chiếu ra tia hàn quang cực mạnh. Mỗi cử chỉ, mỗi hoạt động của nàng như muôn nghìn đóa hoa đang nở. Thiếu nữ hỏi nó : – Này ! Người tên gì vậy ? – Tôi…tôi tên Độ ! Độ là bến đò. – Thế còn họ ? – Tôi họ Đàm. – Họ Đàm hả. Vậy người có bà con gì với Thái-sư Đàm Dĩ-Mông, Thái-úy Đàm Thì-Phụng không ? – Không. – Người đói rồi đây. Để ta lấy cái gì cho người ăn nhe. Thiếu nữ vào khoang thuyền sau, lát sau nàng mang ra một bát cơm nóng, với cá bống mít kho. Thủ-Độ ngồi dậy, nhưng nó vừa cử động, chạm đến vết thương, đau thấu tâm can. Nó lại rên lên một tiếng, rồi nằm xuống. Thiếu nữ an ủi : – Người nằm đó đi. Ta…Ta đút cho người ăn. Thiếu nữ lau tay rồi bốc cơm, nắm thành viên nhỏ, đút cho Thủ-Độ. Tuy đau đớn khắp người nhưng được thiếu nữ tuyệt sắc đút cơm. Thủ-Độ ăn ngon lành. Nó ăn hết hai bát cơm. Thiếu nữ lại lấy nước vối cho nó uống. Thiếu nữ nói với thiếu phụ : – Mẹ ơi ! Y đau đớn quá thế này, thì sao ngủ được ? – Con cho y uống hai viên Định-tâm hoàn. Thiếu nữ lấy thuốc bỏ vào miệng Thủ-Độ, rồi cầm bát nước kê lên môi nó. Nó hớp một hớp, hai viên thuốc trôi xuống bao tử. Thiếu nữ nói với mẹ : – Phải chi mẹ đem y về nhà mình nuôi. Con sẽ chăm sóc y, rồi dẫn y đi trồng hoa, nuôi cá thì vui biết bao. Thiếu nữ nói với Thủ-Độ : – Độ ơi ! Để ta ru người ngủ nhe. Nàng cất tiếng hát : Ạ ời ơi. Phượng hoàng đậu chốn cheo leo, Gặp khi bão táp a à a phải theo đàn gà. Ạ ời ơi. Bao giờ mưa thuận á à gió hòa. Thay lông đổi cánh…ạ à lại ra phượng hoàng. Ạ ời ơi. Thủ-Độ tỉnh giấc thì mặt trời đã lên cao. Thiếu nữ thấy nó thức thì reo lên : – Tỉnh rồi ! Độ tỉnh rồi. Này Độ ơi ! Mẹ ta có việc phải vào thành. Mẹ bảo ta ở lại để chăm sóc người. Người thử ngồi dậy xem nào ! Thủ-Độ cố gắng ngồi dậy, thiếu nữ reo : – Khá lắm ! Để ta lấy cháo cá cho người ăn. Thiếu nữ bưng ra bát cháo, nói : – Cháo cá quả đấy. Ngon lắm, người ăn đi. Thủ-Độ ăn liền một lúc ba bát. Nó hỏi : – Cô nương phương danh quý tính là gì ? – Ta ấy à ! Ta họ Trần tên Kim-Dung. Kim là vàng, Dung là cái bông hoa… À, tại sao mấy đứa con cậu của người lại đánh người ? – Một trong năm đứa đanh nhau vơí tôi bị thua, rồi chúng kéo cả năm đứa đánh tôi để trả thù. – Trước khi đi mẹ ta dặn rằng, sau Ngọ mẹ chưa về, thì ta đưa người về. Bây giờ quá Ngọ rồi, ta đưa người về thôi. Thiếu nữ dắt Thủ-Độ lên khỏi con thuyền. Nàng chỉ chiếc xe ngựa : – Người lên xe đi. Ta đưa người đến phố hàng Trống. Bây giờ chúng ta tạm chia tay. Sau này có dịp về Thăng-long, chúng ta lại đánh ngựa đi chơi khắp nơi. Nghe thiếu nữ nói, Thủ-Độ mất tự nhiên : – Đó …là điều tôi… ước mong. Hai người vừa lên xe, thì Thủ-Độ bóp miệng hí lên mấy tiếng. Đó là tiếng của loài ngựa mà nó học đươc khi còn ở Mông-cổ. Con ngựa vỗ móng chạy về phía trước. Thiếu nữ kinh ngạc : – Đàm Độ này ! Người biết nói tiếng ngựa đấy à ? – Tôi học được mấy trăm tiếng mà thôi. – Người thử bảo nó quẹo phải xem nào ! Thủ-Độ hí lên một tiếng. Con ngựa từ từ quẹo phải. – Người bảo nó quẹo trái đi ! Thủ-Độ lại hí, ngựa quẹo trái. Hai trẻ cho ngựa chạy khắp phố phường. Kim-Dung tỏ ra thông thạo đường lối. Mỗi khi qua một ngôi chùa mộït ngôi đền nàng lại giảng giải cho Thủ-Độ nghe. Khi xe đang chạy qua khu Văn-miếu, thình lình phía trước có tiếng la hét náo loạn. Dân chúng tránh dạt ra hai bên. Giữa đường có chiếc xe bốn ngựa phi như bay. Thoáng nhìn Thủ-Độ đã nhận ra bọn Gia Thụy Ngũ Anh ngồi trên xe. Nó vội kéo cái nón che mặt, rồi ra lệnh cho ngựa ép sát vào bên đường. Khi hai xe giao nhau, gã Đoàn Thượng nhìn thấy Kim-Dung thì reo lên : – Trời ơi ! Người đâu mà đẹp như tiên thế kia. Quay xe lại. Gã phu xe gò cương cho bốn ngựa dừng lại, rồi quay đầu. Thủ-Độ quát liền ba tiếng, ngựa vọt lên như tên bắn. Phía sau gã Đoàn Thượng ra lênh cho mã phu : – Đuổi thực gấp. Phút chốc chiếc xe bốn ngựa đã đuổi gần kịp chiếc xe của Thủ-Độ. Thủ-Độ quay lại phía sau hí lên một tiếng ra lệnh cho bốn ngựa dừng lại. Bốn con ngựa đang phi, nghe hiệu lệnh, chúng cất cao vó trước lên rồi ngừng lại. Nhưng tên mã phu lại giật cương, ra roi. Bốn con ngựa sải bước đuổi theo ngựa Thủ-Độ. Khi hai xe chạy song song với nhau, Long-Sảm vẫy tay nói với Kim-Dung : – Xin tiên tử ngừng xe lại, ta có mấy lời muốn nói. Kim-Dung nhoẻn miệng cười : – Người muốn nói gì thì nói đi ! – Tôi muốn thỉnh tiên tử sang xe bên này, rồi chúng ta cùng đi Cổ-loa chơi. – Không được đâu. Mẹ tôi bảo tôi phải về trước giờ Thân. Tôi mà đi như vậy, e mẹ đánh què. – Phu nhân là ai ? Để tôi đến thưa chuyện với phu nhân. Kim-Dung hỏi ngược lại : – Công tử là ai ? Mẹ tôi khó lắm, không phải ai cũng xin gặp được đâu. Long-Sảm cười lớn : – Cô nương cứ đưa tôi đến yết kiến phu nhân. Cam đoan phu nhân nghe tên tôi, người sẽ cho cô nương theo tôi trọn đời. – Công tử nói lớn lối quá vậy ? Công tử là ai ? Nghe Kim-Dung đối đáp với Long-Sảm, Thủ-Độ nổi cơn ghen, nó hí lên một tiếng dài, con ngựa của nó cất cao vó, thế là chiếc xe tứ mã vọt lên trước, chiếc xe của nó ở phía sau. Nó lại hí một tiếng, chiếc xe của nó quẹo sang trái, rồi vọt lên như tên bắn. Nó khoái trá cười ha hả. Kim-Dung thấy trò chơi của Thủ-Độ, nàng cực kỳ cao hứng, hướng chiếc xe bốn ngựa vẫy tay : – Non xanh chưa hết củi, sông dài chưa cạn nước. Sẽ có ngày tái ngộ. Gã đánh xe cho Long-Sảm là một mã phu giỏi nhất của Kỵ-binh Đại-Việt, thoáng một cái, y đã cho ngựa quay đầu lại, đuổi theo xe Thủ-Độ. Đến đây, gió thổi bay mất cái nón. Long-Sảm đã nhận ra Thủ-Độ. Nó hét lên : – Anh em ơi ! Thằng khùng đây rồi. Chiếc xe bốn ngựa đã đuổi kịp xe Thủ-Độ. Long-Sảm ra lệnh cho Nguyễn Dư : – Hãy tung người sang bắt lấy nó. Nguyễn Dư nhảy sang xe Thủ-Độ. Khi y còn lơ lửng trên không, thì Kim-Dung vung roi ngựa một cái, chiếc roi cuốn lấy cổ y. Kim-Dung co tay một cái, Nguyễn Dư rơi tõm xuống cái hồ bên cạnh. Từ Thủ Độ cho tới bọn Long-Sảm đều kinh ngạc, vì không ngờ võ côngKim-Dung lại cao như vậy. Mặc Nguyễn Dư bơi lóp ngóp dưới hồ, Long-Sảm vẫn hò hét bắt phu xe ra roi cho ngựa đuổi theo xe Thủ Độ. Hai xe đã chạy song song. Long-Thẩm cười ha hả : – Thằng khùng ! Mày có chạy lên trời ! Đoàn Thượng, Bỉnh-Du cùng phi thân sang bắt Thủ-Độ. Kim-Dung lại vung roi ngựa, hai đứa bay trở lại chiếc xe tứ mã, rơi trên đầu tên mã phu. Lập tức chiếc xe tứ mã chạy chậm lại. Kim-Dung hỏi Thủ-Độ : – Có phải năm đứa ban nãy nó đánh anh hôm qua không ? – Đúng đấy. Kim-Dung cầm lấy dây cương, nàng đánh xe. Xe chạy một lúc thì tới hàng Trống, nàng gò cương cho ngựa dừng lại : – Tôi chỉ có thể đưa anh tới đây thôi. Tôi phải đem xe đi rước mẹ tôi. Nếu chúng ta có duyên thì sau này gặp lại. Thủ-Độ bước xuống xe. Kim-Dung ra roi cho ngựa chạy, nàng quay đầu lại : – Mong tái hồi. Chiếc xe quẹo sang phải, khuất vào cuối phố. Thủ-Độ tần ngần đứng nhìn theo. Nó ngơ ngẩn như người mất hồn. Thình lình có ai nắm tóc nó nhắc bổng lên : – Mày chạy đằng trời con ạ. Thì ra tên thị vệ Đông-cung chuyên theo hầu cận Long-Sảm tên Cao Kinh. Cao Kinh lấy dây trói Thủ Độ, rồi ném nó lên xe. Xe chạy tới đền Trấn-võ, thì đã có bọn Gia Thụy Ngũ Anh đang chờ. Cao Kinh cởi trói cho Thủ-Độ, túm tóc nó ném xuống đất. Long-Sảm hô : – Tẩm quất đi anh em ơi. Thế là cả năm tên xúm vào tay đấm, chân đá cho đến khi Thủ-Độ ngất đi mới thôi. Thủ-Độ mơ mơ tỉnh tỉnh, khi trời gần sáng thì nó ngồi dậy được. Nó cố lê bước đi trong đêm. Khi tới một ngôi chùa, nhìn tấm bảng trước chùa, nó bật lên tiếng kêu nhỏ : – Thì ra chùa Chân-giáo. Mẹ ta nói chùa này ông ngoại ta là vua Anh-tông mới cho trùng tu. Ta vào đây qua đêm, rồi mai lên đường. Nó vào sân chùa. Sân lát gạch, nên tuy trời mưa, mà không bị nước đọng. Trong chùa không có ai. Nó nằm dài ra dưới một gốc cây mà ngủ. Suốt đêm cơn đau hành hạ, nó lên cơn sốt, mê mê, tỉnh tỉnh. Khi trời gần sáng, đau quá, nó ngồi dậy, ngửa mặt nhìn lên, thì thấy mình nằm dưới gốc một cây đề lớn. Nó nghiến răng, ngửa mặt lên trời mà khấn: ” – Xin thần linh Đại-Việt chứng cho. Tôi là Trần Thủ-Độ, cha tôi là Trần Thủ-Huy, mẹ tôi là Lý Đoan Nghi. Cụ tôi, ông bà tôi, bố mẹ tôi, chú bác tôi, cô dì tôi, đều đem hết tâm can ra để phù trợ họ Lý. Cha mẹ tôi đã cứu mạng Lý Long-Trát ba phen… Tất cả những công ơn ấy, họ Lý trả ơn bằng cách đem cha mẹ tôi cống cho Tống. Bây giờ họ còn đánh lừa, gọi mẹ tôi về để giết chết. Tôi không thù, không oán với anh em Lý Long-Sảm, Lý Long-Thẩm, mà chúngï khinh miệt, hành hạ, đánh đập tôi đến như thế này. Xin thần linh phù hộ cho tôi. Nếu như quả họ Lý hết phúc, may mà tôi sống được, tôi thề sẽ giết tuyệt giòng họ Lý để trả cái hận này. Hôm nay, tôi bị Long-Sảm đánh đến chết đi sống lại, phải nằm đây, thì sau này Long-Sảm sẽ phải chết tại chỗ này. Kể từ khi cha tôi rời Thiên-trường về Thăng-long đến nay là 26 năm, thì đúng 26 năm nữa họ Lý sẽ tuyệt tử tuyệt tôn, Long-Sảm cũng chết tại đây”. Khấn xong, thì trời sáng. Nó thấy dường như trên thân cây đề có chữ khắc vào đã lâu, vỏ hằn lên những nét sâu. Nó mở to mắt ra đọc: ” Thiên địa huyền hoàng, Cương la mang mang. Dĩ oán báo đức, Thập bát tử thành. Long sa thử địa, Ty thằng u hoang Ta hồ! Thống khổ, Nhụ tử đoạn trường”. Nó cau mặt lại suy nghĩ, nhưng không hiểu ý nghĩa bốn câu đó.(2) Trên người Thủ-Độ đầy những vết thương thâm tím, có chỗ chảy máu. Nó nằm co ro dưới gốc cây đề sau chùa, không ai để ý đến nó. Khoảng giờ Ngọ, khi chuông chùa đổ, nó mới giật mình thức giấc. Trong cơn mơ mơ tỉnh tỉnh, nó bật lên tiếng kêu: – Khát nước! Xin cho uống nước! Một phụ nữ lớn tuổi làm công quả trong chùa, nghe tiếng kêu, phát hiện ra nó. Bà chạy lại sờ trán nó, thấy trán nó nóng bỏng, bà vội dụt tay lại. Bà lên tiếng gọi: – Sư bác ơi! Có thằng bé ăn mày bị ốm sắp chết! Xin sư bác cứu nó! Một vị tăng còn trẻ chạy đến. Không nề quản đứa trẻ dơ bẩn, ông ta bồng nó đưa vào tăng phòng, đặt lên dường. Sau khi quan sát sơ sài ông ta hỏi nó: – Con là ai? Tại sao lại bị đánh đòn thế nay? Ai đã đánh con? Thủ-Độ đau quá, chỉ thều thào được mấy câu: – Đau! Khát. Ông là ai ? – Ta pháp danh là Chân-Minh ! Chân-Minh lấy nước đổ vào miệng Thủ-Độ, rồi gọi một thiếu niên: – Con ra phường Yên-hoa mời Đại-phu Vũ Phòng-Phong, nói rằng: Thầy khẩn khoản thỉnh Đại-phu giá lâm, cứu mạng một đứa trẻ sắp chết. Nghe Chân-Minh nói, Thủ-Độ chợt nhớ lại rằng cha nó có năm người sư tỷ tên Hoàng-Anh, Bạch-Hạc, Huyền-Mi, Thanh-Tước, Hồng-Yến được võ lâm tặng cho mỹ danh là Vỵ-xuyên ngũ tiên. Vỵ-xuyên ngũ tiên có thời đã cùng cha mẹ nó đi sứ Kim, rồi qua Mông-cổ chơi. Vỵ-xuyên ngũ-tiên kết hôn với Hồng-sơn ngũ đại-phu, học trò của Nam-phương Thần-y Lê Thúc-Cẩn. Trong năm đại phu đó, vị thứ nhì tên là Vũ Phòng-Phong, kết hôn vơí Bạch-Hạc. Nó nghĩ thầm: – Không biết ông Phòng-Phong này có phải ông Phòng-Phong kết hôn với cô mình là Bạch-Hạc không? Xung quanh mình biết bao cạm bẫy, mình phải cẩn thận, chẳng nên nhận người thân vội. Long-Sảm, Long-Thẩm chẳng là máu thịt của mẹ ta ư? Thế mà chúng muốn giết ta! Biết đâu ông Phòng-Phong này chẳng giống bọn chúng? Thiếu niên đi rồi, thấy Thủ-Độ đã tỉnh hẳn, vị tăng nói với nó: – Đây là cửa Phật, không một quyền lực nào có thể ức chế con. Con đừng sợ hãi gì cả! Ai đã đánh con thế này ? Đã mấy năm nay, bây giờ là lần đầu tiên Thủ-Độ mới được nghe mấy lời từ ái. Bao nhiêu uất ức chồng chất, như cái bong bóng căng thẳng nổ tung ra. Nó bật lên tiếng khóc. Nhà sư Chân-Minh vẫn ngọt ngào: – Dường như con đói lắm rồi thì phải, để thầy lấy lộc Phật cho con hưởng. Ông đứng lên, lấy hai bát chè bột sắn, một đĩa xôi lớn, một nải chuối để trước mặt nó. Không khách sáo, Thủ-Độ trộn xôi với chè rồi ăn. Nó vừa ăn xong, thì Đại-phu Vũ Phòng-Phong tới. Ông hành lễ với sư Chân-Minh, rồi bảo Thủ-Độ nằm xuống cho ông chẩn mạch. Sau khi xem các vết thương, mặt ông tái đi, hiện ra nét hoảng hốt như gặp một sự gì khủng khiếp lắm. Ông hỏi Thủ-Độ: – Có phải cháu họ Trần không? Bố mẹ cháu là ai? Thấy thái độ từ ái của Phòng-Phong, Thủ-Độ không muốn nói dối ông. Nó nắm lấy tay ông: – Thưa Đại-phu! Đại-phu cứu mạng cho cháu, thì cháu muôn vàn cảm tạ. Nhưng xin Đại-phu đừng hỏi nai nịch cháu. Tong tâm cháu có điều khổ nắm, phải rấu ní nịch. Nên cháu không nói ra được. Cháu cũng không muốn nói rối Đại-phu. Phòng-Phong bảo thiếu niên đi thỉnh ông ban nãy: – Cháu trở về nhà ta, gọi phu nhân của ta đến đây, bảo rằng dù bận gì cũng phải đến ngay. Ông quay lại nói với nhà sư Chân-Minh: – Thưa thầy, đứa trẻ này khoảng tám, chín tuổi. Tiên-thiên khí của nó cực mạnh, chứng tỏ cha, mẹ nhiều đời luyện võ. Nó lại được nuôi dưỡng bằng thịt, rất ít rau đậu, cũng chẳng ăn cá. Khi nói, có nhiều giọng lơ lớ, thì ắt nó không phải là người sinh trưởng ở Đại-Việt. Chắc nó mới tới Đại-Việt ta không quá hai năm. Thủ-Độ nghĩ thầm: – Ông Đại-phu này thực là thần y. Ông chỉ chẩn đoán qua, mà biết rất rõ về ta. Phòng-Phong tiếp: – Tuy nó sinh ở ngoài Đại-Việt, nhưng chắc bố mẹ nó là người Thiên-trường, vì tiếng lai lịch, nó nói ra là nai nịch; lắm thành nắm; lý lịch thành ní nịch; dối thành rối; trong thành tong. Chân-Minh gật đầu công nhận Phòng-Phong lý giải đúng. Phòng-Phong tiếp: – Mông của nó hơi chai cứng, hai chân bành ra, thì nó được luyện thuật kỵ mã từ hồi ba bốn tuổi. Thuật kỵ mã này không phải của Trung-nguyên, cũng chẳng phải của Chiêm-thành, Đại-lý mà của phái Sài-sơn nhà tôi. Về nội công, thì căn bản nội công của nó là nội công Đông A chính tông, mà chỉ con cháu trực hệ họ Trần mới được học. Hôm qua, nó đã đấu vơí người của phái Hoa-sơn, rồi nó bị đến năm người xúm vào đánh nó, vì tôi thấy có đến năm vết chân tay khác nhau. Hiện lá lách, gan, bọng đái của nó bị thương. Trong khi khu huyệt Tâm-du, Đản-trung bị chấn thương. Nói rồi ông lắc đầu : – Lá lách, can, bọng đái bị thương thì còn hy vọng cứu sống. Chứ khu Đản-trung, Tâm-du bị thương, thì tâm mạch bị chấn động, bị nghẽn, e nó không thể sống quá một năm nữa. Nói rồi ông lấy ra một hộp kim, châm vào các huyệt Công-tôn, Nội-quan, Đản-trung, Tâm-du, Khuyết-âm-du, Túc Tam-lý , Dương-lăng-truyền và trên những chỗ bầm. Ông kinh ngạc vô cùng khi không thấy Thủ-Độ tỏ vẻ đau đớn như tất cả các bệnh nhân được trị bằng châm cứu. Lưu kim hơn khắc, ông rút kim ra, thì Thủ-Độ ngồi dậy được. Nó ọe một tiếng, mửa ra một búng máu bầm. Nó chắp tay: – Đa tạ Đại-phu đã cứu cháu. – Chưa xong đâu cháu. Phòng-Phong nói vơí nó bằng cử chỉ thực dịu dàng: Mấy huyệt đó chỉ để tạm thông máu mà thôi. Ta sẽ dán cao trên các vết thương. Vì cháu bị đánh bầm khắp người, nên vừa trị bằng châm cứu, vừa trị bằng cao, cũng ít ra là mười ngày mới khỏi các viết ngoại thương. Còn nội thương thì phải trị bằng thuốc, bằng khí công. Ông mơ màng nhìn trời : – Nhưng muốn trị được lá lách, can, tâm, thì phải cần đến hai người có nội công thượng thừa liên thủ mới thành công. Sư Chân-Minh hỏi : – Hai người đó là ai ? – Một người luyện nội công dương cương của phái Đông A và một người luyện nội công âm nhu của phái Mê-linh. Nội công dương cương của Đông A thì không khó. Còn nội công âm nhu của phái Mê linh e bắc thang lên trời còn có thể làm được, chứ tìm nội công này thực vô phương. Sư Chân-Minh kinh ngạc : – Ý Đại-phu muốn nói ? – Trong phái Đông A hiện có tới gần trăm cao thủ luyện nội công tới mức thượng thừa. Còn nội công âm nhu của phái Mê-linh, thì chỉ có một người luyện thành. Mà người ấy với chúng ta nghìn trùng cách biệt, biết đâu mà tìm ? Ông móc trong bọc ra một cuộn vải. Cuộn vải này một mặt trắng, một mặt trát cao đen. Thủ-Độ nhận ra đó là Hổ-cốt Phòng-phong cao, mà bố mẹ nó thường trị cho các đệ tử bị ngã, bị bầm chân tay. Phòng-Phong giảng giải: – Cao này được chế ra từ thời Minh-Không bồ tát. Thành phần gồm Hổ-cốt, để trị trật đả, đau xương. Phòng-phong, Đinh-hương, Quế-chi để hoạt huyết. Xạ-hương để cho có mùi thơm. Nói rồi ông cắt miếng vải miết cao thành những mảnh nhỏ, vừa bằng các vết thương, hơ vào cây nến, rồi dán lên người Thủ-Độ. Ông vừa dán xong, thì một thiếu phụ xinh đẹp tới. Ông thuật lại tất cả những gì liên quan đến Thủ-Độ, rồi nói với thiếu phụ: – Bạch-Hạc! Em thử bắt mạch xem, có phải nội công của nó là nội công Đông A chính tông không? Bạch-Hạc cầm tay Thủ-Độ, bà dùng chân khí phóng vào người nó, thì thấy nội tức của nó có sức chống trả rất mạnh, rất quang minh chính đại. Bà mở to mắt nhìn nó, rồi rùng mình: – Cháu! Ta tự giới thiệu, ta là vợ của Đại-phu đây. Ta là đệ tử của phái Đông A như cháu. Cháu đã được luyện nội công Đông A chính tông, thì nhất định cháu không là đệ tử thì cũng là con cháu họ Trần thuộc trực hệ. Vậy cha mẹ cháu là ai? Nếu không, ai đã dạy nội công này cho cháu? Khi thấy Thủ-Độ sử dụng võ công, nội công Đông A, thì Phòng-Phong cho rằng nó là đệ tử của một người ngang vai với vợ mình. Ông cực kỳ quan tâm, vì môn quy của phái Đông A rất nghiêm, bất cứ ai, ức chế, đánh đập đệ tử của phái này, thì dù thủ phạm có chạy lên trời, môn phái cũng phải tìm cho ra để trả thù. Bây giờ thấy Thủ-Độ bị năm người đánh đến bị thương tích khắp người. Nên ông phải gọi vợ đến, để bà tìm hiểu xem đứa trẻ này thuộc giòng nào, chi nào của phái Đông A? Ai đã đánh đập nó tàn nhẫn như vậy? Thủ-Độ nhất định dấu lý lịch, nó trả lời: – Cháu mồ côi mẹ, phải đi ăn mày kiếm sống. Trong lúc ăn xin, cháu gặp một bà rất xinh đẹp, bà bị người ta phục kích dùng loạn tên bắn bị trọng thương. Cháu cứu bà đem vào nhà băng bó vết thương cho bà. Bà cảm động, dạy cháu ít bản sự. Sau đó một tháng bà kiệt lực mà chết. Khi chết bà có di chúc ít điều, nhờ cháu nói lại với năm người. – Bà ấy tên là gì? – Cháu không dám nói. Bởi bà ấy dặn, cháu chỉ được nói tên bà với năm người mà thôi. – Cháu có thể cho ta biết tên năm người ấy không? Thủ-Độ ghé miệng và tai Bạch-Hạc nói nhỏ : – Năm người đó là ông bà Trần Tự-Hấp, ông Trần Trần Lý, bà Trần Kim-Ngân và ông Trần Thủ-Huy. Bạch-Hạc giật bắn người lên. Bà bảo nó : – Ta là con ông bà Tự-Hấp, là chị Trần Lý, Thủ-Huy, Kim-Ngân đây. Thủ-Huy hiện ở rất xa. Vậy cháu có thể về nhà ta nghỉ dưỡng bệnh một vài ngày, đợi bệnh của cháu thuyên giảm, ta sẽ sai người đưa cháu đi Thiên-trường gặp những người mà cháu muốn. Thủ-Độ tin chắc người đối diện là chị nuôi, anh rể của bố mình. Nó không nghi ngờ, nhận lời : – Vậy, cháu xin theo bà. Nó móc trong bọc ra sợi dây bằng vàng, đeo một cái khánh ngọc xanh biếc, khắc hình con nai trong tư thế nhìn trời, trịnh trọng trao cho Phòng-Phong: – Thưa Đại-phu, cháu xin tạ Đại-phu vật này, gọi là chút lòng thành, kỷ niệm Đại-phu đã cứu mạng cháu. Phòng-Phong cầm lấy cái khánh ngọc, quan sát sơ qua, mặt ông tái xanh, giọng ông run run hỏi nó: – Cái khánh này ở đâu mà cháu có? Ông gọi vợ: – Bạch-Hạc, em xem này! Bạch-Hạc cầm cái khánh ngọc, mặt bà trở thành nghiêm trọng. Bà nói bằng giọng cực kỳ thiết tha: – Côi-sơn song ưng! Cháu là người thế nào của Côi-sơn song ưng? Nguyên cái khánh ngọc đó có lai lịch rất đặc biệt. Côi-sơn nam hiệp là hoàng trưởng tử của vua Lý Thần-tông với sủng phi Hồng-Hạnh. Khi ông sinh ra, phụ hoàng truyền lấy ngọc khắc hình con hươu, rồi ban cho, đặt tên là Thiên-Lộc, phong làm Thái-tử. Tuy ông là trưởng tử, nhưng mẹ xuất thân là dân dã, lại là thứ phi, nên khi phụ hoàng băng hà, ông không được truyền ngôi. Ông mất chức Thái tử, được phong tước Minh-Đạo đại vương. Cảm-Thánh thái hậu gian dâm với Đỗ Anh-Vũ, sợ bóng sợ gió ông, rồi vu cho ông mưu phản. Vốn là đệ tử của đại hiệp Tự-Kinh phái Đông A, mẹ là đệ tử phái Tản-viên. Hai mẹ con cùng bỏ đi giang hồ, xưng là Côi-sơn song ưng, dùng ba thước gươm tru diệt bọn tham quan, bọn hại dân, bọn cường hào. Khắp hoàng tộc nhà Lý cho tơí các đại thần, sĩ dân, võ lâm khi thấy cái khánh đó, thì coi như thấy Côi-sơn song ưng. Trong ngày Thủ-Huy Đoan-Nghi đang trên đường sang Tống, lúc tới Quảng-châu, thì sứ giả của Song-ưng mang đến tặng, với ngụ ý rằng ” Ta trao cái nhiệm vụ Côi-sơn song ưng cho cháu”. Khi Thủ-Độ lên đường về nước, Thủ-Huy đeo vào cổ cho con. Song ông không nói lai lịch cái khánh đó ra sao. Bây giờ vợ chồng Phòng-Phong thấy cái khánh này, hỏi sao không giật mình? Phòng-Phong run run hỏi: – Cái khánh này ở đâu mà cháu có? Thủ-Độ sợ nói rằng của bố cho, thì nó sẽ bị lộ tông tích. Nó nói dối: – Cái này…Cái này của bà dạy võ cho cháu, bà í cho cháu. Lúc đầu nghe Thủ-Độ khai rằng, nhân nó cứu một người đàn bà, rồi được đạy võ, thì Bạch-Hạc nghi người đàn bà đó là đệ tử hoặc con cháu của nhân vật nào trong phái Đông A. Bây giờ nhìn di vật của Côi-sơn song ưng, hai người nghĩ rằng, người đàn bà bị giết có thể là Ưng-sơn nữ hiệp, hoặc đệ tử, hoặc con của Minh-Đạo vương, bị người ta phục kích dùng loạn tên giết chết… Thì vấn đề trở thành lớn lao vô cùng. Côi-sơn song ưng, cũng như phái Đông A sẽ truy lùng địch thủ, rồi cuộc trả thù sẽ cực kỳ thảm khốc! Phòng-Phong Bạch-Hạc dẫn Thủ-Độ ra khỏi chùa, lên xe, ra roi cho ngựa chạy. Đến một trang trại, có tấm bảng đề Hồng-lĩnh đệ nhị y viện, thì cho xe chạy vào. Bạch-Hạc lên tiếng gọi, lập tức có hai nữ đệ tử chạy ra với một tấm ván. Hai người sẽ đỡ Thủ-Độ lên tấm ván, rồi đưa vào trong một căn phòng. Họ lại nhẹ nhàng đỡ nó nằm trên một chiếc dường, nệm cỏ. Phòng-Phong dặn nó: – Đây là y viện của vợ chồng chúng ta. Y viện này vừa là nơi dạy học, vừa là nơi trị bệnh. Thương thế của cháu có hai phần. Phần ngoại thương chỉ cần phải trị trong năm tới mười ngày thì khỏi. Còn nội thương của cháu, thì ta bó tay. Cháu chỉ có thể sống được một năm nữa mà thôi. Vậy ta khuyên cháu phải đi Thiên-trường để nhạc phụ ta dùng nội công dương cương làm lành các vùng bị sưng. Biết đâu, sau này cháu tìm được người có nội công âm nhu… Đừng tuyệt vọng. Bạch-Hạc nắm tay Thủ-Độ : – Cháu cứ an tâm ở đây. Sau khi ngoại thương khỏi, ta sẽ sai phu xe đưa cho cháu đi Thiên-trường, để cháu gặp ông bà Tự-Hấp, cùng Trần Lý, Kim-Ngân … cháu sẽ được trị bệnh bằng nội công dương cương. Rồi cháu chuyển di ngôn của kẻ xấu số cho song thân ta, cho em Lý, em Ngân của ta. Từ đấy, hằng ngày Phòng-Phong dùng châm cứu trị cho Thủ-Độ. Đúng như Phòng-Phong liệu, sau năm ngày thì các vết thương đều đóng vảy. Những chỗ bầm hết sưng. Sau mười ngày thì các vết ngoại thương của nóù hoàn toàn bình phục. Nhưng hằng ngày, vùng ngực, lưng của nó vẫn hành hạ nó. Nó biết đó là tâm mạch bị tổn thương gây ra. Vùng hông trái lên cơn thì nó lại buồn nôn, nó biết đó là lá lách bị thương hành hạ. Vùng hông phải căng trướng, đau lan tới vai, nước mắt dàn dụa, nó biết là gan bị thương. Nó nghĩ thầm : – Theo Đại-phu thì ta chỉ còn sống được có một năm nữa mà thôi. Ta phải tìm cách đưa tin cho ông bà nội, bác Lý, cô Ngân biết để trả thù cho mẹ ta. Sau đó ta đi Mông-cổ báo cho bố ta biết mọi biến cố. Bà Bạch-Hạc sai một mã phu già của y viện, đưa nó đi Thiên-trường. Khi nó khởi hành, bà trao cho nó một phong thư : – Phu xe sẽ đưa cháu về Thiên-trường. Cháu đưa phong thư này cho bố mẹ ta là ông bà Trần Tự Hấp. Gặp ông bà rồi, cháu có thể kể hết nguồn cơn cho ông bà biết. Ông bà có thể dùng nội công thượng thừa trị bệnh cho cháu. Nhưng… – Thưa bà nhưng sao ? – Ba trong năm tạng của cháu là tâm, can, tỳ đều bị thương. Cháu có thể tự chữa bệnh bằng cách luyện nội công dương cương của Đông A với nội công âm nhu của phái Mê-linh. Nội công Đông A cháu đã biết rồi, cháu cứ luyện trong một năm nữa thì sẽ đạt tới năm thành hỏa hầu, là xong. Tuy nhiên nội công âm nhu, thì chỉ phái Mê-linh mới có. Tiếc rằng gần hai chục năm trước, vị chưởng môn phái này mất tích, nội công âm nhu cũng thất truyền. Trên thế gian hiện chỉ có một người biết nội công này mà thôi. Người đó là… Hiện người đó ở một chỗ bí mật, không ai biết.Tuy nhiên, khi gặp cha mẹ ta người có thể tiết lộ chỗ ở của người ấy, rồi xin người ấy dạy cháu, thì mạng cháu được bảo toàn. – Thưa bà, người ấy là ai vậy ? – Là em dâu ta. Là vợ của một người, mà cái bà bị giết muốn nhờ cháu báo tin cho đó ! – Là bà Trần Lý ? – Không ! Là vợ Thủ-Huy. Thủ-Độ bật lên một tiếng ái chà đầy tuyệt vọng. Nó nghĩ thầm : – Mẹ ta chết rồi, thì trên thế gian này, không còn ai biết nội công âm nhu nữa ! Thế là ta phải chết. Sáng hôm sau, Bạch-Hạc gọi gã phu xe, thắng chiếc xe song mã, cho Thủ-Độ đi Thiên-trường. Phu xe là một người già, y báo danh là Ba Huy. Vừa lên xe, Thủ-Độ quên mất mình đang ở Đại-Việt, nó hí lên hai tiếng đặc biệt của loài ngựa, mà nó học hồi ở Mông-cổ, để ra lệnh cho ngựa khởi hành. Hai con ngựa vọt mình lao về phía trước. Ba Huy kinh ngạc đưa mắt nhìn trộm nó. Xe rời Thăng-long, hướng Nam khởi hành. Mỗi khi xe tới ngã rẽ, hay nghẽn đường phải ngừng lại, không đợi phu xe giật cương, Thủ-Độ lại dùng tiếng của loài ngựa, ra lệnh. Ngựa tuân lệnh nó răm rắp. Gã phu xe nghĩ thầm: – Thằng bé này khai nó là ăn mày, ta e nó nói dối. Cứ như việc nó dùng tiếng nói, sai khiến ngựa, thì ít ra nó phải được huấn luyện đặc biệt lắm! Lạ thực, trên toàn cõi Đại-Việt chỉ có phái Sài-sơn là thông thạo về việc nuôi ngựa, cỡi ngựa, mà cũng không biết tiếng loài ngựa. Vậy thằng bé này do ai dạy nó? Xe đi khoảng hai giờ, thì có một chiếc xe ngựa khác vượt qua xe nó. Nó đưa mắt nhìn. Trong xe có hai thiếu niên, khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, lớn hơn nó đến sáu bẩy tuổi. Trong hai thiếu niên, thì một người mặc quần áo xanh, một người mặc quần áo tím. Khi xe vượt qua xe nó, thiếu niên áo xanh dơ tay vẫy nó. Nó cũng vẫy lại. Thủ-Độ phóng mắt nhìn về phía trái, xa xa hiện ra một dẫy núi. Nó chợt nhớ lại trong những lúc nhàn rỗi, bố mẹ nó thường nhắc lại kỷ niệm thời thơ ấu. Bấy giờ bố nó đánh xe đi từ Thăng-long về Thiên-trường. Trên xe có ông bà nội nó với bác Lý, cô Ngân, gặp anh của mẹ nó là Thái-tử Long Xưởng bị Nghi-tàm song ma đuổi bắt. Bố nó đánh Song-ma cứu Long-Xưởng. Rồi từ cơ duyên đó đưa đến bố nó với mẹ nó kết hôn. Nó nói với phu xe: – Ông Ba Huy này! Dường như ta sắp tới ngã ba đi Trường-yên, Thiên-trường thì phải. Ông ngừng xe lại quán Bích-động ta ăn trưa đi. – Vâng! Ba Huy càng kinh ngạc. Rõ ràng từ sáng đến giờ, Thủ-Độ cứ ngồi lầm lỳ trên xe, ngơ ngơ ngác ngác nhìn cảnh trí, tỏ ra nó chưa bao giờ đi qua vùng này. Thế mà bây giờ thình lình, nó lại hỏi quán Bích động, biết rõ quán đó nằm trên ngã ba Trường-yên, Thiên-trường, Thăng-long. Y im lặng theo dõi đứa trẻ kỳ bí. Chiếc xe đi vào dẫy phố, khi thấy tấm bảng có chữ Bích-động, Thủ-Độ hú lên một tiếng, hai con ngựa dừng lại. Một tửu bảo chạy ra, cầm lấy cương ngựa, cột vào gốc cây. Một đứa khác cúi rạp người xuống mời khách. Thủ-Độ cùng Ba Huy lên lầu, thì đã thấy hai thiếu niên đi cùng chiều ban nãy đang ngồi quanh một bàn. Nó cúi đầu chào, làm quen: – Tiểu đệ kính chào nhị vị đại huynh. Cả hai thiếu niên, cùng gật đầu đáp lại. Lên lầu, Ba Huy hỏi Thủ-Độ: – Cháu muốn ăn gì nào? – Cháu muốn ăn thịt gà nướng với xôi nếp. Ba Huy nghĩ thầm: – Trong mười ngày dưỡng bệnh, tại sao thằng bé này lại chỉ thích cái món thịt nướng? Sườn nướng, thịt gà nướng, chim nướng! Nó không hề ăn tôm, cá? Hai người vừa cầm đũa, thì có tiếng nhạc ngựa, rồi tiếng quát tháo bên dưới. Chủ quán lên lầu cung tay: – Thưa quý khách! Xin quý khách giữ yên lặng, vì hôm nay thiểm quán có cái hân hạnh tiếp đón năm công tử, con các đại thần trong triều giá lâm. Bọn tửu bảo nhanh chóng dọn một bàn lớn, trang trí bốn bình hoa tươi. Chúng lại đem bát đĩa bịt vàng, đũa ngà bầy ra. Chúng vừa bầy xong, thì hai gia nhân lực lưỡng, trang phục theo lối dân dã, lên lầu kiểm soát xung quanh bàn, cũng như quan sát các thực khách rất chi tiết. Nhìn hai gia nhân, Thủ-Độ nhận ra đó là hai tên thị vệ, tên Cao Kinh, Cao Giới hầu cận Long-Sảm. Kinh hãi, nó vội đổi chỗ ngồi quay lưng lại . Có tiếng chân người bước lên thang. Thủ-Độ liếc nhìn, quả nhiên là năm tên trong Gia Thụy Ngũ Anh. Bọn Long-Sảm coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Chúng cười nói oang oang. Trong câu chuyện, Thủ-Độ biết rằng ba tên Đoàn Thượng, Nguyễn Dư, Phạm Bỉnh-Du được triều đình phong chức Thiện-nhân của anh em Long-Sảm. Thủ-Độ hỏi Ba Huy: – Thưa bác, chức Thiện-nhân là chức gì vậy? – À, chức này là chức thuộc Hoàng-cung. Kể từ khi đức Thái-tổ lập ra triều Lý, thì khi một hoàng tử lên năm, sáu tuổi, triều đình tìm những thiếu niên ngang tuổi, đức hạnh, học giỏi, để làm bạn với các hoàng tử. Nghe Ba Huy giảng giải, Thủ-Độ nhớ ra rằng, mẹ nó đã kể, xưa kia cha nó từng được phong chức Thiện-nhân của Thái-tử Long-Xưởng. Từ lúc thấy bọn Gia Thụy Ngũ Anh, thiếu niên áo xanh đã cau mặt khó chịu, vì chúng mới ở tuổi mười tới mười lăm, cái tuổi phải rèn luyện văn võ, thì lại kéo nhau vào cao lâu rượu chè…Thiếu niên áo xanh đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Long-Sảm. Nội công của thiếu niên áo xanh đã tới trình độ cao thâm, nên tia hàn quang chiếu ra làm Long-Sảm rùng mình phải lui lại. Y cùng cả bọn uống rượu như những người lớn. Sau khi ăn xong, Ba Huy bảo Thủ-Độ: – Ta đi thôi! Nói rồi ông đứng lên. Bất đắc dĩ Thủ-Độ cũng phải đứng dậy theo ông. Nó gật đầu chào hai thiêu rồi cúi gầm mặt, lui xuống lầu. Khi nó vừa tới đầu cầu thang, thì tên Phạm Bỉnh-Du đã nhận ra nó. Y đứng bật dậy, chặn trước mặt Thủ-Độ, rồi túm tóc nó nhắc lên. Phản ứng tự nhiên, Thủ-Độ xuống trung bình tấn, tay phải nắm bàn tay túm tóc của Phạm Bỉnh-Du vặn ngược. Lập tức Phạm Bỉnh-Du phải nghiêng người đi. Thủ-Độ túm ngực y nhắc bổng y lên, rồi ném y xuống sàn gỗ. Ầm một tiếng, Phạm Bỉnh-Du nằm dài trên sàn gỗ. Trong lúc phản ứng, Thủ-Độ đã dùng một thức nhu quyền của phái Mê-linh mà mẹ nó dạy nó. Thực ra võ công Phạm Bỉnh-Du cao hơn Thủ-Độ nhiều, nhưng y khinh thường, thành ra bị đánh ngã. Y tung người dậy như con cá, roi phóng chưởng tấn công. Thủ-Độ chỉ đỡ được đến chiêu thứ ba thì lảo đảo muốn ngã. Tay trái Bỉnh-Du túm tóc Thủ-Độ nhắc lên, tay phải tát vào mặt nó. Thiếu niên áo xanh cầm cái tăm búng mạnh. Cái tăm trúng vào huyệt Đại-trùy của Bỉnh-Du, làm người y mất hết kình lực, đúng lúc Thủ-Độ dùng hai tay xỉa vào ngực y. Binh một tiếng, y ngã sóng xoài trên sàn nhà. Thiếu niên áo xanh hỏi thiếu niên áo tím : – Tự-Thừa, anh có nhận ra chiêu số của thiếu niên này không ? – Nội công hơi giống nội công nhà mình. Còn ngoại công, thì là nhu quyền của phái Mê-linh. Bỉnh-Du bị đánh ngã, lập tức cả bốn tên còn lại của Gia Thụy Ngũ Anh cùng hét lên: – A, phải giết thằng mọi điên! Bọn Long-Sảm đứng dậy bao vây lấy Thủ-Độ. Thủ-Độ cười nhạt: – Uổng cho chúng bay là con vua, cháu chúa, tự thị học võ, mà bốn tên vây đánh ta. Nếu chúng bay là con người, thì hãy lấy một chọi một! Long-Sảm chỉ Nguyễn Dư: – Người dậy nó một bài học! Nguyễn Dư lớn hơn Thủ-Độ hai ba tuổi, cao hơn nó một cái đầu. Nguyễn Dư bước ra hất hàm: – Mi nhỏ hơn ta! Mi phát chiêu trước đi. Thủ-Độ nhảy vọt lên cao, chân nó phóng một phi cước vào ngực Nguyễn Dư. Dư coi thường, y trầm người xuống, rồi chụp hai chân nó, định ném nó xuống lầu. Thình lình thiếu niên mặc áo xanh, cầm cái hột đào trên bàn búng một cái. Hột đào trúng huyệt Khúc-trì của Nguyễn Dư, làm tay y bị mất hết công lực. Thế là y bị trúng hai cước của Thủ-Độ, người y bay lại phía sau, nằm thẳng cẳng. Cả thực khách trên tửu lầu đều reo hò chế diễu Nguyễn Dư. Y nổi giận, tay rút kiếm xả một chiêu định xẻ Thủ-Độ làm hai. Thủ-Độ lách mình một cái, tránh chiêu kiếm, rồi nhảy lùi lại. Thiếu niên áo xanh lại bắn hạt đào nữa, trúng huyệt Đại-trùy Nguyễn Dư, làm toàn thân y tê liệt. Y đứng như trời trồng, giữa lúc đó Thủ-Độ phóng chiêu Vân-hoành Tần-lĩnh của phái Hoa-sơn vào ngực y. Binh một tiếng, y bay ra xa, nằm ngửa mặt lên trời, chân tay dơ lên, coi rất ngộ nghĩnh. Đoàn Thượng vác cái ghế đập vào đầu Thủ-Độ. Nó kinh hoảng, vội lộn hai vòng ra phía sau. Đoàn Thượng đập hụt, cái ghế trúng bàn ăn, thực phẩm bay tung lên, túa vào người anh em Long-Sảm. Thiếu niên tên Thừa bảo thiếu niên áo tím : – Tự-Khánh ! Em ra tay đi, bằng không thiếu niên này nguy mất. Thiếu niên áo tím vung tay một cái, mảnh xương gà túng huyệt Kiên-ngung ĐoànThượng. Lập tức cánh tay Đoàn Thượng bị tê liệt, cái ghế trên tay rơi xuống. Thấp thoáng một cái, Thủ-Độ đã điểm vào huyệt Đản-trung Đoàn Thượng. Y lại tê liệt toàn thân. Long-Sảm, Long-Thẩm hô lên một tiếng. Hai tên thị vệ rút đao đeo ở phía sau lưng ra, bao vây Thủ Độ vào giữa. Một tên quát: – Đứng im chịu trói, bằng không ta băm mi ra như băm chả ngay lập tức. Thủ-Độ chụp đại cái ghế đưa lên đỡ đao của anh em họ Cao. Chỉ hai hiệp, cái ghế bị vỡ tan. Kinh hoảng, Thủ-Độ phóng mình chạy, nhưng anh em họ Cao còn nhanh hơn, chúng xả hai đao vào người nó. Tự-Khánh lại vung tay, hai cái xương gà trúng huyệt Khúc-trì anh em họ Cao. Cánh tay chúng bị tê liệt. Thấp thoáng một cái, Thủ-Độ đã di chuyển thân hình ra phía sau Cao Kinh, rồi chĩa ngón tay phải điểm vào huyệt Kiên-ngung của y. Tay trái nó đã đoạt được đao. Cao Giới đâu biết rằng anh em Tự-Thừa, Tự-Khánh trợ giúp Thủ-Độ. Y tưởng rằng võ công Thủ-Độ cao hơn chúng nhiều. Y hô lớn: – Xin chủ nhân mau chạy thoát thân! Anh em Long-Sảm bỏ chạy xuống lầu, rồi vọt mình lên ngựa, ra roi , miệng quát: – Đi! Nhanh nhẹn, Thủ-Độ mở bọc lấy cây cung, nạp tên, bắn theo. Hai mũi tên xé gió bay theo, cắt đứt cương ngựa. Hai con ngựa không cương điều khiển, chúng cất cao vó hí lên mấy tiếng, rồi đứng ỳ ra. Thủ-Độ biết võ công của mình thua xa ba tên Nguyễn Dư, Đoàn Thượng, Phạm Bỉnh-Du cùng hai tên thị vệ. May nhờ anh em Tự-Thừa ám trợ mà thắng. Song nó nhớ lại cái hận anh em Long-Xưởng đánh đập, đái lên đầu nó. Nó chạy xuống lầu, vung tay lôi Long-Sảm xuống khỏi ngựa, thì nó bị ai đó túm tóc nhắc bổng lên, rồi điểm huyệt, ném xuống đất. Nó nhìn lại, thì ra quan Tổng-lĩnh thị vệ Đoàn Văn. Cả bọn Gia Thụy Ngũ Anh, hai tên Cao Kinh, Cao Giới reo hò, vây quanh Thủ-Độ, chân đấm tay đá. Thình lình, có bóng tím xen vào giữa, một người từ ngoài lách mình vào. Người này phẩy tay một cái, Thủ-Độ bật tung lên, bay ra xa, trong khi lơ lửng trên không, huyệt đạo của nó đã đươc giải. Nó đáp xuống đất như tự nhảy lên, đứng xuống vậy. Bóng tím đó là Tự-Khánh. Thấy võ công của Tự-Khánh cao thâm, Đoàn Văn hỏi : – Thằng oắt con, mi là ai? Tự-Khánh không trả lời, chàng đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Đoàn Văn rồi chĩa tay phóng một chỉ. Choang, thanh kiếm đeo sau lưng Đoàn Văn bị cắt đứt bay bổng lên cao. Tự-Khánh bắt lấy, rồi chống xuống đất, miệng mỉm cười tỏ ý khinh khiến. Đoàn Văn chột dạ, y buông lời khách khí: – Phải chăng thiếu hiệp là người của phái Đông A? Xin thiếu hiệp cho biết cao danh quý tính? – Đúng vậy! Tôi họ Trần, tên Tự-Khánh. Đoàn Văn cũng như hai tên thị vệ đều bật lên tiếng úi chà. – Thì ra thiếu hiệp là con thứ của Thần-nông sứ Trần Lý trong phái Đông A đấy ! Bản chức là Đoàn Văn, hiện lĩnh Tổng-lĩnh Thị-vệ. Nghe đối đáp giữa Đoàn Văn với hai thiếu niên, Thủ-Độ nghĩ thầm : – Tại sao lại có sự trùng tên thế này nhỉ? Bác Lý của ta cũng có con tên Thừa, Khánh. Hay đây là hai con của bác ta? Trong khi Đoàn Văn đối đáp vơí Tự-Khánh, thì Ba Huy thuật qua hành trạng của Thủ-Độ cho anh em Tự-Thừa nghe. Rồi y cau mày tỏ ý khó chịu nói với Đoàn Văn : – Tôi không rõ năm vị tiểu công tử đây danh phận thế nào, mà hôm trước, năm người xúm vào đánh đứa trẻ này trọng thương. Chủ nhân chúng tôi phải trị trong mười ngày mới khỏi. Ban nãy, năm người với hai vị gia nhân đây đấu vơí y, bị bại. Rồi đại nhân bắt y cho họ đấm đá. Đạo lý luật pháp để đâu? Long-Sảm chỉ Thủ-Độ: – Tên này là gia bộc của ta! Ta đánh hay giết nó là quyền của ta. Người không nên, và không có quyền can thiệp vào. Người có biết rằng mười hôm trước, nó ăn cắp vàng bạc của ta, rồi bỏ trốn đi. Chúng ta theo dấu tìm bắt nó về… Đó là việc của nhà ta. Luật thời Lý, cho phép những vương hầu, quan lại, phú gia được bỏ tiền ra mua người làm nô bộc. Họ dùng chàm thích chữ trên trán nô bộc để khi chúng trốn đi, thì dễ nhận diện. Khi nô bộc phạm tội, chủ nhân toàn quyền đánh đập, ra hình phạt. Chỉ cấm không được giết mà thôi. Khi nô bộc bỏ trốn, thì chủ nhân có thể trình quan bắt về. Tự-Thừa hỏi Thủ-Độ: – Những người này nói thực hay dối? – Họ nói dối. Tôi không hề là tôi tớ của họ. Trái lại, họ với tôi còn có tình máu mủ . Tôi là anh con cô con cậu với họ. Tự-Thừa kéo Thủ-Độ lại bên cạnh, rồi coi khắp trán, bàn tay của nó. Chàng nói bằng giọng nghiêm nghị của một người lớn : – Này ! Thiếu niên kia, người nói dối rồi! Nếu như đứa trẻ này là gia nô của người, sao không thấy thích chữ trên trán? Long-Sảm chỉ anh em Tự-Khánh, Tự-Thừa : – Khắp thần dân Đại-Việt này đều là tôi tớ của nhà ta, thì ta cần gì phải thích chữ? Cả hai người cũng là tôi tớ của ta. Y nói chỉ vào Tự-Thừa, Tự-Khánh : – Cả hai người, cũng là thần dân của ta. – Người là ai ? Bộ người là Ngọc-Hoàng đại đế chăng? Long-Sảm hất hàm cho Đoàn Văn : – Người nói cho y biết ta là ai đi ! Đoàn Văn trịnh trọng chỉ bọn Long-Sảm : – Vị này không phải là Ngọc-Hoàng đại đế, thì cũng là con trai của Ngọc-Hoàng đại-đế! Người là Đông-cung thái tử. Vị này là hoàng tử Long-Thẩm. Còn đây là ba mệnh quan, hiện lĩnh chức Thiện nhân của Đông-cung. Tự- Thừa gọi em : – Các đời trước của họ Lý với tiền nhân chúng ta đều là chỗ thông gia. Triều đại Tiêu-sơn có không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt. Thế mà nay lại nảy ra những thứ này đây ! Khánh, đi thôi ! Không nên dây với hủi làm gì ! Nói rồi chàng cầm thanh kiếm của Đoàn Văn trở cán trao cho y. Đoàn Văn vừa cầm lấy, thì y cảm thấy như bàn tay bị ngoặm một miếng, đau thấu tâm can, một luồng nội lực mạnh như bài sơn đảo hải đẩy y ngã ngồi xuống đất. Hai anh em Tự-Thừa lên xe, ra roi cho ngựa chạy. Phạm Bỉnh-Du chửi đổng: – Mẹ cha quân chó đẻ hách quá ! Đến đó có nhiềâu tiếng vó ngựa, rồi một đội thị vệ hơn trăm người cỡi ngựa đi tới. Long-Sảm ra lệnh trói Thủ-Độ lại, bỏ lên một cái xe, rồi cả đoàn hướng về Thăng-long, không coi anh em Tự-Thừa, Tự Khánh ra gì cả. Ngồi trên xe, Thủ-Độ than thầm : – Phen này nhất định chúng sẽ giết ta đây. Nghĩ cuộc đời thực khó mà lường được. Khi nghe mẹ kể chuyện triều đình, người tỏ ra cực kỳ quan tâm tới nhà vua, tơí các vương Kiến-khang, Kiến-bình. Mỗi lần ta nghe mẹ nói, mà lòng cứ mơ tưởng sẽ gặp các em, con của cậu, anh em yêu thương nhau ghê lắm ! Không ngờ, chẳng có lý do gì, mà chúng hành hạ ta thế này ? Hỡi ơi, những đứa bạn ở Mông cổ không một chút máu mủ thì lại tốt với ta quá ! Xe đi vào một dinh thự. Thủ-Độ nhận ra đó là Đông-cung. Tên Cao Kinh nhắc bổng Thủ-Độ lên, trói nó vào cây cau ở sân. Long-Sảm hỏi đồng bọn : – Nào ! Có ai nghĩ ra cách gì hành hạ cho thằng ôn con này thực thảm khốc không nào ? Đoàn Thượng đề nghị : – Không biết nó học võ với ai ? Học bao giờ, mà lại có bản lãnh thắng được chúng ta ? Thái-tử, thần đề nghị dùng tre kẹp tay cho nó đau, đến phải kêu cha gọi mẹ lên cho bõ ghét. Cả bọn reo hò, tỏ vẻ khoái trá. Bọn thị vệ Đông-cung đã đem ra bốn thanh tre. Long-Sảm cầm lấy hai thanh, kẹp vào năm ngón tay phải Thủ-Độ. Mặc dù đau thấu tâm can, đau đến vãi đái ra, nhưng Thủ-Độ nhất định nghiến răng không kêu khóc, không rên siết. Kẹp một lúc mỏi tay, Long-Sãm chán nản, nó buông hai thanh tre ra, rồi lắc đầu : – Trò chơi này không mấy thú vị. Phạm Bỉnh-Du đề nghị : – Ta lấy mật đổ lên người nó, cho kiến bu vào mà đốt xem nó có rên siết không ? Thị vệ đem mật tưới lên người Thủ-Độ. Bọn Long-Sảm chờ một lúc, quả nhiên kiến kéo đến leo lên người Thủ-Độ ăn mật. Dù bị kiến đốt, nhưng Thủ-Độ cương quyết nghiến răng chịu đựng cho đến khi ngất đi, không biết gì. Nguyễn Dư bàn : – Ta trói chân nó, rồi ném vào chuồng ngựa, cho nó ngủ với ngựa, rồi bỏ đói, thì chỉ hai ngày nó phải van xin ta. Thủ-Độ bị ném vào một cái chuồng ngựa hôi thối. Nằm trong chuồng ngựa, hai bàn tay sưng nhức cực kỳ, nó chợt nghĩ đến tâm pháp nội công mà bố nó dạy nó để chống lại cơn đau đớn. Nó hít hơi, luyện thử. Không khó khăn, chân khí trong người nó lưu thông dễ dàng. Khoảng hơn khắc, bao nhiêu cái đau đớn biến mất. Suốt đêm đó, nó luyện công. Cho đến sáng, mệt quá nó ngủ đi lúc nào không hay. Sáng hôm sau, tên Cao Giới lôi nó lên nghị sự đường trước mặt bọn Gia Thụy Ngũ Anh. Long-Sảm chỉ mặt nó : – Hôm Trung-thu mày làm nhục tao giữa chỗ đông người. Rồi hôm ở quán Bích-động, mày ỷ có bọn Trần Tự-Thừa, Trần Tự-Khánh, mày làm nhục tao. Kể từ nay, tao giam giữ mày ở đây, cho đến khi nào mày dùng võ công chân chính thắng bọn tao, thì tao thả mày ra. Mỗi lần đấu võ mà mày bị thua thì tao đánh mày mười roi mây. Cao Giới đem đến sợi xích sắt khóa chân Thủ-Độ lại cùng với mấy cái lục lạc. Y ra lệnh cho nó : – Từ nay mỗi buổi sáng mày phải rửa chuồng ngựa. Buổi trưa phải gánh mười thùng phân bón hoa, tưới rau. Buổi chiều phải tắm mười con ngựa. Nếu mày trễ nải thì bị phạt đánh hai mươi roi. Tuy thằng Giới ra lệnh như vậy nhưng mỗi khi bọn Gia-thụy thấy hứng lại lôi nó ra bắt đấu võ. Thường chỉ được mươi hiệp là nó bị đánh ngã. Long-Xưởng lại dùng roi mây đánh đập làm trò tiêu khiển. Chỉ mấy tháng sau, nó ngẫm ra rằng, hôm mới vào đây, bọn Long-Sảm đánh đòn, nó còn thấy đau, bây giờ gần như nó không cảm thấy khó chịu nữa. Nó biết, sở dĩ có tình trạng đó là do kết quả của thời gian cần cù luyện công. Nhưng hằng ngày vùng tim, vùng gan, vùng lá lách vẫn hành hạ nó cực kỳ khổ sở. Nó tự an ủi: – Ta phải cố sống! Lão già Ba Huy đánh ngựa thấy ta bị bắt, ắt y trở về báo với cô Bạch-Hạc. Cô Bạch-Hạc thế nào cũng tìm cách cứu ta ra, đưa ta về Thiên-trường. Ta sẽ thuật cho ông nội ta biết về cái chết của mẹ ta. Từ hôm nhập Đông-cung, nó có một thắc mắc là tại sao cái chuồng ngựa lại quá đẹp. Tường bằng gạch nung đỏ, cột bằng gỗ lim, mái lợp ngói đỏ. Trong chuồng lại trải gạch hoa ? Có lần nó hỏi một viên thái giám già quản lý Đông-cung là Đỗ Viện về sự lạ lùng ấy. Viên thái giám nói sẽ vào tai nó : – Cái chuồng ngựa này được xây vào thời vua Anh-tông. Bấy giờ Thái-tử Long-Xưởng được cho ra ở Đông-cung, đã xây thêm để làm phòng luyện võ. Khi Long-Xưởng bị cách, Đông-cung bỏ hoang. Từ lúc Long-Sảm được ra đây ở, thì không thiết tập võ, mới dùng làm chuồng ngựa. Ghi chú của thuật giả : (1) Về nguồn gốc bài thơ này, trong gia phả các chi họ Trần chép không giống nhau. Chi hai, thuộc giòng Hưng-Nhượng vương chép : « Thủa thiếu thời mồ côi mẹ, Thái-sư Thượng-phụ, Hóa-thiên, Trung-vũ, Long-công, Liệt đức, Từ huệ, Đại-vương, bị Huệ-Quang đại sư làm nhục, đánh đập thương tích đầy người đến chết đi sống lại, phải ăn mày ở Thăng-long, làm thơ này ». Trung-vũ Đại-vương là chức tước của Trần Thủ-Độ. Huệ-Quang đại sư là pháp danh của vua Lý Huệ-tông. Còn gia phả của con cháu Chiêu Quốc Vương Trần Ích-Tắc lại chép là ông làm trong lúc hàng Mông-cổ. Vua Mông-cổ phong cho ông làm An-nam quốc vương, sai quân đưa về nước, bị quân Trần đánh tan, phải bỏ chạy dưới trời mưa tầm tã. Xét văn phong cùng thi tứ của Chiêu Quốc Vương, vốn điêu luyện bậc nhất đương thời, dù trong lúc chạy …chí chết, ông cũng không thể làm một bài thơ quá mộc mạc như trên. Thơ khô khan, mộc mạc như bài này, chỉ có thể là của Trung-vũ Đại-vương Trần Thủ-Độ. Vả lại, trong hai gia phả thì gia phả của giòng Hưng-Nhượng vương đáng tin hơn, vì người khởi chép là con trai của vương, một thi sĩ đương thời. Còn gia phả của Chiêu Quốc Vương, khởi chép từ con của vương là Trần Hữu-Lượng, lưu vong ở Trường-sa bên Trung-quốc. (2) Bài sấm này, tôi lấy trong gia phả của Chiêu Quốc Vương Trần Ích-Tắc. Sấm-ký vào thời Lý-Trần rất thịnh. Khi một bài sấm truyền ra, đương thời rất ít ai hiểu nổi. Phải chờ đến khi sự việc diễn ra xong, người ta mới vỡ lẽ. Bài sấm này, xuất hiện vào năm Thiên-tư Gia-thụy thứ năm (DL.1194, Giáp Dần) khắc vào cây đề ở sau chùa Chân-giáo trong thành Thăng-long. Bấy giờ quan Thái-phó Lý Kính-Tu sai chép lại, rồi giải đoán, nhưng không ra. Phải chờ cho đến niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Trần Thái-tông (DL.1226, Bính Tuất), khi vua Lý Huệ-tông thắt cổ trên cây ổi này chết, người ta mới hiểu rõ nghĩa. Sự thực nghĩa tám câu này như sau: Trong khoảng trời đất mênh mông này, lưới trời lồng lộng. Kẻ lấy oán thù mà báo đức của trăm họ chính là triều Lý (chữ thập, chữ bát, chữ tử thành chữ Lý). Rồng sẽ sa ở đây, bởi sợi dây tơ oan nghiệt vào lúc mặt trời lặn. Than ôi, Đau khổ biết bao! Thương thay đứa trẻ khổ sở, đến đứt ruột ra được. Lời nguyện của Thủ-Độ vào đúng giờ linh, tại nơi có bài sấm định mệnh. Nên sau này Long-Sảm lên ngôi vua, tức Lý Huệ-tông, bị mất ngôi vua về họ Trần. Rồi sau 26 năm, vua Lý Huệ-tông treo cổ tại cây ổi này mà chết.(Ty là tơ, thằng là giây, u hoang nhật là mặt trời lặn, nghĩa là chữ sảm). Chân-giáo là ngôi chùa nằm trong thành Thăng-long, được kiến tạo vào tháng 9 niên hiệu Thuận thiên thứ mười lăm, đời vua Lý Thái-tổ (1024) để hằng ngày vua ra đó niệm Phật. Đến niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 7 thời vua Lý Anh-tông (1169), vua đã cho trùng tu lại. Thành ra ngôi chùa này gần như dành cho Hoàng-tộc đến lễ Phật, nghe kinh. Hôm ấy, tuy là ngày mười sáu, nhưng từ sáng sớm, các bà phi, cung nga, phu nhân đã tấp nập đến lễ bái. Ngoài cổng chùa, tiếng ngựa hí, tiếng người chào hỏi nhau ồn ào. Ăn mày xếp hàng chờ thập phương bố thí. Trong chùa tăng chúng chia nhau ra đón khách. Hồi thứ ba mươi tư Bóng ma Long-thành Một buổi trưa, Thủ-Độ rửa chuồng ngựa, rồi dùng khăn lau mấy cái cột. Lớp bụi bám trên cột tróc ra, nó thấy trên cột xuất hiện những chữ li ti. Tò mò nó đọc, bất giác tim nó đập thình thình, vì rõ ràng đây là yếu quyết luyện công. Nó đọc qua, thì thấy dường như trái với tâm pháp Đông A mà bố nó dậy nó. Nó nghĩ thầm: – Tâm pháp gì đây mà lại có 99 câu? Trong khi ta không biết gốc tích, thì cứ gọi là Tâm-pháp Chuồng-ngựa vậy. Vốn thông minh, nó nhẩm hơn nửa buổi thì thuộc làu. Sau khi kiểm lại, nó dùng dao, cạo xóa hết những chữ trên cột chuồng ngựa: – Cứ như mẹ ta nói, các đời trước, họ Lý có không biết bao nhiêu anh hùng, tài trí. Tâm pháp võ công này, ai đã khắc vào đây? Rõ ràng là tài sản của anh em Long-Sảm, thế nhưng chúng không thèm biết tới, thì ta hủy đi cho đỡ tủi vong linh người quá cố. Chiều hôm đó, nằm trong chuồng ngựa ngủ, Thủ-Độ lên cơn đau gan. Người nó nóng như cục than hồng. Nó nghiến răng vận công chống đau, nhưng cơn đau vẫn làm nó gập đôi người lại. Trong lúc mơ mơ hồ hồ, nó vận công theo Tâm-pháp Chuồng-ngựa, thì thấy cái đau đớn giảm đi rất nhiều, nhiệt độ hạ xuống rất mau. Không cần biết có nguy hiểm hay không, nó cứ tiếp tục vận công, lát sau, thì người nó cảm thấy rét run. Rét kệ rét, nó tiếp tục vận công cho đến khi ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, tiềm thức thúc đẩy, nó vận công tiếp. Sáng hôm sau thức dậy, nó cảm thấy bụng phình lên đầy nước tiểu, nó phóng ra một hơi dài, rồi suốt ngày, nó cứ đi tiểu đều đều. Đến chiều thì bụng nó không còn chướng lên như cũ nữa. Người nó cảm thấy mát mẻ dễ chịu kỳ lạ. Nó án tay vào vùng gan, vùng tim, vùng lá lách, thì thấy cảm giác đau đớn chỉ còn hơi hơi mà thôi. Nó nghĩ thầm: – Không cần biết Tâm-pháp Chuồng-ngựa là tâm pháp nào, ta luyện, mà thấy khỏi bệnh, thì ta cứ luyện. Từ đấy, ngoài những lúc tắm ngựa, quét dọn, nó tiếp tục luyện Tâm-pháp Chuồng-ngựa. Bọn Gia Thụy Ngũ Anh lôi nó ra đấu võ, nó không trả đòn, cứ để mặc chúng muốn đấm, muốn đá gì nó chỉ vận công chịu trận. Sau đó chúng dùng roi, dùng gậy đánh nó, nó không còn thấy đau nữa. Ít lâu sau chúng chán nản, không hành hạ Thủ-Độ nữa. Từ hôm chia tay với Kim-Dung, hình bóng của người thiếu nữ ôn nhu, văn nhã luôn hiện lên trong tâm nó. Những lúc nhớ nhung quá, không chịu nổi, nó lại ra thuê xe ra bến sông Hồng, nơi con thuyền neo, mà bà mẹ Kim-Dung đưa nó xuống trị bệnh. Nhưng lần nào cũng như lần nào, nó chỉ thấy nước sông đỏ ngầu, cuồn cuộn trôi về cuối giòng mịt mờ. Còn bóng hồng thì tuyệt vô âm tín. Thời gian một năm trôi qua. Thủ-Độ đã luyện xong 99 câu quyết. Nó nhẩm tính, cái thời hạn một năm mà Vũ Phòng-Phong bảo nó chết đã qua rồi. Nó định bụng hôm nào có dịp sẽ trốn ra ngoài thành thăm ông, để xin ông chẩn bệnh lại cho nó. Hôm ấy, như thường lệ, Cao Kinh mở khóa, mở xích chân Thủ-Độ, rồi ra lệnh rằng nó phải dẫn đoàn ngựa ra ngoài Ngự-xạ đài ở ngoài thành Thăng-long, thả ngựa phi, để khỏi bị mỡ đọng ở bụng. Ngựa vừa tới nơi, thì một con giật dây cương, phi nước đại. Lập tức chín con khác cũng phi theo. Thủ-Độ bật cười, nó dùng tiếng loài ngựa gọi chúng lại, nhưng chúng vẫn hí inh ỏi rồi thi nhau phi. Thủ-Độ chờ chúng phi hết một vòng sân, khi chúng phi ngang trước mặt nó, nó nhảy theo, chụp dây cương con đầu đàn. Con ngựa này hí lên, lách sang một bên, khiến Thủ-Độ chụp hụt. Nó lao mình vọt theo đàn ngựa, thì lạ lùng chưa, chỉ nửa khắc nó đã đuổi kịp. Đàn ngựa thấy có đồng bạn mới, chúng càng ra sức sải bước, thế nhưng Thủ-Độ vẫn theo kịp. Phi khoảng mười vòng Ngự-xạ đài, thì đàn ngựa từ từ phi chậm lại, rồi ngừng hẳn. Thủ-Độ cũng ngừng lại. Nó kinh ngạc: – Tại sao khinh công ta lại mau thế này? Hồi ở Mông-cổ, khinh công cao nhất là mẹ ta, mà cũng chỉ có thể chạy ngang với ngựa trong vòng 50 dặm mà thôi. Cái vòng sân này, mỗi vòng tới 20 dặm, mà ta chạy tới mười vòng, thì trải qua 200 dặm mà ta không hề mệt mỏi là tại sao? Sau khi dẫn ngựa ra bờ sông tắm, rồi lùa bầy ngựa trở về. Trên đương đi, thấy có một lò rèn nó ngừng lại hỏi: – Ông ơi, ví thử tôi có cái khóa, mà mất chìa, thì ông có thể làm cho tôi cái chìa khác không? Người thợ rèn mở to mắt nhìn Thủ-Độ, gật đầu: – Dĩ nhiên là được. Vậy khóa của cậu đâu? – Tôi sẽ mang ra sau. Trưa hôm ấy, Thủ-Độ trở về Đông-cung thì Cao Giới dùng xích khóa chân nó như thường lệ. Đợi Cao Giới cũng như bọn Gia Thụy Ngũ Anh đi rồi, Thủ-Độ trốn ra gặp người thợ rèn, xin làm chìa khóa. Không đầy hai khắc, người thợ rèn đã làm xong hai cài chìa khóa. Thủ-Độ không về Đông-cung, nó đến Đệ nhị y viện Hồng-lĩnh tìm y sư Phòng-Phong. Sau hơn một năm xa cách, Thủ-Độ đã lớn lên, nhưng Phòng-Phong, cũng nhận ra nó. Ông kinh ngạc: – Đàm Độ! Từ hồi ấy đến giờ cháu đi đâu? Ông lên tiếng gọi vợ: – Em ra mà xem này! Thằng bé đó còn sống này! Bà Bạch-Hạc từ sau vườn chạy lên, thấy Thủ-Độ, bà reo: – Từ hồi ấy đến giờ cháu ở đâu? – Cháu bị tù khổ sai. – Khổ sai? Ta không tin! Bạch-Hạc kể: Sau khi cháu và Ba Huy đi rồi, thì ta không được tin tức gì của cháu cả. Hơn tháng sau, ta trở về Thiên-trường thăm song thân, người kinh ngạc vô cùng, vì không thấy cháu cũng như Ba Huy về. Trong câu chuyện, hai đứa con của em Lý ta là Tự-Thừa, Tự-Khánh thuật lại một việc: Cũng ngày hôm đó, ba đứa từ Kinh-Bắc về Thiên-trường. Khi qua ngã ba Thăng-long, Trường-yên, Thiên trường chúng gặp một thiếu niên, đấu võ với bọn Gia Thụy Ngũ Anh. Ta đoán ngay ra là cháu. Thái tử Long-Sảm truyền bắt giam cháu, vì cháu là nô bộc của y, phạm tội ăn cắp rồi bỏ trốn. Tự-Thừa không cho Tự-Khánh can thiệp vào chuyện của triều đình, nhất là dây dưa với nô bộc của họ. Hơn nữa, nô bộc phạm tội ăn cắp. Song thân ta, cũng như vợ chồng Lý đều không quan tâm tới vụ này, bởi ai cũng tưởng cháu là tội phạm của triều đình. Nhưng có một điều lạ lùng ta không hiểu: Ba Huy đi đâu mà không thấy y trở về? Thủ-Độ hỏi lại: – Ông Ba Huy không về đây, vậy ông í đi đâu? Không lẽ ông ta bị bọn Long-Sảm bắt giam. – Không chừng như vậy! Phòng-Phong vẫy tay cho vợ im lặng, rồi ông bắt mạch Thủ-Độ. Trán ông cau lại tỏ vẻ đăm chiêu. Cuối cùng ông nói: – Cháu đã muốn dấu thân thế, để giữ lời hứa với người dạy võ công cho cháu, thì ta cũng không muốn cật vấn cháu. Bây giờ ta chỉ luận về bệnh của cháu mà thôi. Ông nói với vợ: – Năm trước, anh nói, muốn trị nội thương của Đàm Độ, thì phải có hai người luyện nội công tới trình độ thượng thừa. Một người luyện nội công âm nhu, một người luyện nội công dương cương, hỗ tương cứu nó. Nội công dương cương, thì trong phái Đông A nhà ta không thiếu. Còn nội công âm nhu thì chỉ có Đoan-Nghi. Thế nhưng trong năm qua, không biết cơ duyên nào đưa đến, mà cháu nó lại luyện trọn vẹn tâm pháp của phái Đông A, rồi lại luyện nội công âm nhu chính tông của phái Mê linh nữa. Không những bệnh của cháu khỏi hẳn, mà công lực của nó bây giờ hiếm người so sánh! Bạch-Hạc nắm lấy tay Thủ-Độ bắt mạch. Muốn thăm dò công lực nó, bà dồn chân khí vào người nó. Một nguồn nội lực âm-dương hỗ tương hợp với nhau chống trả rất mãnh liệt. Thấy vậy, bà dồn thêm chân khí sang, thì nội lực của nó càng chống lại mạnh hơn, rồi thình lình một nguồn nội tức mạnh không thể tưởng tượng nổi phản ứng, khiến bà không tự chủ được, người bật tung lại sau đến hơn trượng. Bà phải dùng thiên cân trụy mới đứng vững. Phòng-Phong hỏi vợ: – Em thấy thế nào? – Nội lực của nó mạnh quá. Có lẽ chỉ sư phụ mới luyện tới mức này mà thôi. Cũng may đây là phản ứng tự nhiên, chứ nếu nó dùng công lực tấn công, thì em đã bị thương rồi. Phòng-Phong suy nghĩ một lúc, người ông đờ ra: – Ta thấy dù cháu nó có luyện cả nội công âm nhu, dương cương, thì ít ra phải mười năm mới thành công. Với tuổi của nó chưa thể luyện đến trình độ này. Nhưng trên thực tế, thì lại có… Ông nói một mình: – Trong lịch sử võ lâm Đại-Việt, chỉ có hai người hợp được cả âm dương, thì một là Vạn-tín hầu Lý Thân. Hai là Bắc Bình Vương Đào Kỳ. Nhưng đó chẳng qua là truyền thuyết. Chứ thực tế, xưa bác học như tổ Tự-An, Thông-Mai, Tự-Mai của phái Đông A cũng không thể làm được! Ông hỏi Thủ-Độ: – Cháu tìm đâu ra tâm pháp nội công âm nhu? Thủ-Độ thuật lại vụ nó tìm ra trong trường hợp nào, tại chuồng ngựa! Phòng-Phong, Bạch-Hạc cùng lắc đầu không hiểu. Phòng-Phong, Bạch-Hạc, Thủ-Độ không hiểu là phải. Nguyên nội công âm nhu do Vạn-tín hầu Lý Thân tìm ra từ thời vua An-Dương. Đến thời Lĩnh-Nam chỉ có Bắc Bình Vương Đào Kỳ, Tể-tướng Nguyễn Phương-Dung, công chúa Phật-Nguyệt là luyện thành. Sau khi Lĩnh-Nam bị Hán đô hộ, thì nội công này bị tuyệt tích. Đến thời vua Lý Thái-tổ, công chúa Bình-Dương tìm được bia đá do công chúa Trần Năng để lại, rồi luyện thành. Sau công chúa Bình-Dương truyền cho đệ tử là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Linh-Nhân hoàng thái hậu chép vào cái áo hồ cừu. Hai mươi năm trước, Thái-tử Long-Xưởng chép từ áo hồ cừu vào cái cột ở phòng luyện võ Đông-cung, để dạy cho công chúa Đoan-Nghi, quận chúa Từ Thụy-Hương. Nhưng chỉ mình Đoan-Nghi luyện thành. Bây giờ vô tình Thủ Độ tìm ra, rồi luyện thành. Vấn đề khúc mắc như vậy, thì ai hiểu nổi? Phòng-Phong hỏi: – Ví dù công chúa Đoan-Nghi có truyền tâm pháp âm nhu cho cháu đi. Nhưng, làm sao cháu có thể tổng hợp cương nhu làm một! Hà! Cháu đã gặp may trong trường hợp nào? Cháu nên nhớ từ bao nhiêu năm nay, các đại tôn sư đều mơ màng, sao có thể hợp được hai loại nội công cương, nhu, song vô ích. Thủ-Độ thuât lại chi tiết việc nó tìm thấy nội công chuồng ngựa, rồi trong lúc lên cơn đau đớn, nó dùng để chống lại cơn đau gan, tỳ, tâm, do bọn Long-Sảm đánh nó. Phòng-Phong à lên một tiếng: – Ta hiểu rồi! Trường hợp của cháu cũng giống như Bắc Bình Vương Đào Kỳ khi xưa! Âu là cái duyên. – Thưa đại-phu Bắc Bình Vương đã luyện thành trong hoàn cảnh nao ? – Cháu nên nhớ, âm dương là hai thể tố được hình thành do trời đất, hỗ tương xung khắc nhau, hỗ tương kiềm chế nhau, hỗ tương sinh ra nhau mà tồn tại. Trong âm có dương, trong dương có âm. Mặt trời, ánh sáng, đàn ông, ban ngày, phía trên, hoạt động, phía sau, bên phải, phía trên là dương. Mặt trăng, bóng tối, đàn bà, ban đêm, phía dưới, tĩnh chỉ, phía trước, bên trái, phía dưới là âm. – Cháu không hiểu thế nào là âm sinh ra dương ; dương sinh ra âm cũng như trong âm có dương, trong dương có âm. – Để ta cho cháu một tỷ dụ. Âm sinh ra dương là gì ? Như khi ta ăn uống. Thức ăn là vật chất, thuộc âm. Ta ăn vào, trong cơ thể sinh ra khí. Khí là dương. Thế có phải âm sinh ra dương không ! Hay cụ thể hơn, bà mẹ là âm, sinh ra đứa con trai là dương ! – Thế còn dương sinh ra âm ? Ông bố là dương, có thể sinh ra con gái là âm. Trong cơ thể, khí là dương, tuần lưu khiến cho can, tỳ sinh ra huyết. Huyết là âm. Còn như trong âm có dương, trong dương có âm… Thủ-Độ reo lên : – Cháu hiểu rồi ! – Cháu thử nói ta nghe xem có đúng không nào ? – Như đại phu nói, phía trước là âm phía sau là dương. Phía trên là dương phía dưới là âm. Như vậy lưng là dương. Nhưng chia lưng làm hai phía trên là dương, phía dưới là âm. – Giỏi. Cháu đã học về Âm-Dương rồi à? – Vâng! Thầy Phạm Kính-Ân dạy cháu về học thuyết Âm-Dương Ngũ-hành trong kinh Dịch. Phòng-Phong vồ tay reo: – Hay! Còn như cháu luyện nội công dương cương từ nhỏ. Bây giờ trong lúc ngủ, nội tức dương cương chạy về đơn điền. Ttong cơ thể của cháu trống rỗng. Vì đau đớn, tiềm thức làm việc, luyện nội công âm nhu. Thế là âm nhu, dương cương hợp với nhau, thành một thứ nội công tổng hợp. – Giỏi. Còn một điều cháu không biết nữa, là phàm khi luyện nội công dù dương hay âm, khi nội tức sinh ra mười phần thì chỉ lưu lại cơ thể có một phần thôi. Khi cháu luyện thành âm-dương hòa hợp, thì lúc luyện nội công âm-nhu sinh ra bao nhiêu chân khí, sẽ hợp với chân khí dương cương, thành nội lực của cháu. Ngược lại, cháu luyện nội công dương cương, bao nhiêu chân khí dương cương sinh ra sẽ hợp với chân khí âm-nhu thành nội lực của cháu. Thành ra cháu chỉ luyện một năm bằng người ta luyện mười năm. Phòng-Phong nắm tay Thủ-Độ : – Phép luyện công của các phái trong thiên hạ, hoặc là cương, hoặc là nhu. Ít khi có phép luyện cương nhu hợp nhất. Thiền-công là thứ cương nhu hợp nhất. Trong các môn phái của Đại-Việt, thì nội công của phái Sài-sơn, Tản-viên, Mê-linh hoàn toàn gốc từ tổ tiên để lại. Duy phái Tiêu-sơn thì gốc do Bồ-tát Tỳ-ni Đa-lưu-chi truyền Thiền-công vào, rồi các tổ Đại-Việt sửa đổi, phát minh thêm mà thành. Nội công phái Đông A phát xuất từ Thiền-công Tiêu-sơn, rồi các đời sau tục gia hóa đi…Thế nhưng cương, hay nhu đều là nội công thuộc dương tính cả. Duy phái Mê-linh là có pho nội công âm-nhu, gồm 99 câu tâm pháp, rất ít người luyện được trọn vẹn. Thế hệ nào đông nhất, thì cũng chỉ có đâu mươi người là cùng. Còn nhưng luyện được cả âm lẫn dương thì từ sau Bắc Bình Vương Đào Kỳ đến giờ, mới có mình cháu. Ngài có thời thơ ấu hơi giống cháu. Ngài học võ với cha mẹ. Cả cha lẫn mẹ đều luyện nội công dương cương. Khi phải xa bố mẹ , ngài mới có mười tuổi, công lực dương cương không làm bao. Rồi cơ duyên đưa đẩy, ngài lại được lão đại hiệp Nguyễn Phan truyền nội công âm nhu cho. Rồi ngài cũng luyện trong lúc ngủ, mà hòa hợp làm một. Nghe Phòng-Phong nói, trong tâm Thủ-Độ nghĩ : – Cứ như lời vị y sư này, với công lực của ta hiện thời, ta thừa sức thắng bọn Gia Thụy Ngũ Anh. Ta muốn trả hận lúc nào cũng được. Ta không cần đi Thiên-trường nhờ ông bà ta, bác ta truy tầm thủ phạm trả thù mẹ nữa. Ta có thể tự làm lấy, mà không cần nhờ vả ai. Bạch-Hạc hỏi Thủ-Độ: – Bây giờ cháu có về Đông-cung nữa không? Hay cháu đi Thiên-trường? – Hiện cháu còn một vài việc phải làm, nên cháu cần phải trở về Đông-cung. Sau đó cháu sẽ đi Thiên-trường. Bạch-Hạc vuốt má Thủ-Độ: – Mừng cho cháu. Bây giờ với công lực này, thì võ lâm thiên hạ không mấy người bằng cháu. Thế thì cái bọn bị thịt Gia Thụy Ngũ Anh không còn bắt nạt cháu được nữa. Hôm trước chúng nói, cháu là tôi tớ của chúng. Vậy cha mẹ cháu bán cháu cho chúng chăng? Nghe Bạch-Hạc nói, Thủ-Độ mừng lắm. Nó nghĩ thầm: – Bây giờ ta đã biết chắc bà này là chị của bố ta. Bà là cô ta. Ta cũng đã thấy các anh Thừa, Khánh. Họ là những người hiệp nghĩa, chứ không ác độc như bọn Long-Sảm. Ta cần xuất hiện để nhận họ hàng, để tìm ra thủ phạm đã sát hại mẹ ta. Ta cũng chẳng cần dấu diếm thân phận nữa. Nghĩ vậy nó nhìn Bạch-Hạc bằng con mắt thiện cảm: – Thưa cô, bố mẹ cháu là những người có thân phận cực lớn, lại có thâm tình vơí cô. Hiện bố cháu ở xa. Còn mẹ cháu thì qua đời rồi. Cái người mà cháu nói rằng bà qua đời, nhờ cháu chuyển di chúc cho năm người… là nói dối. Người qua đời chính là mẹ cháu. Mẹ cháu bị người ta dùng loạn tên bắn chết. Trước khi chết, mẹ cháu dặn cháu chuyển di chúc cho năm người, để truy lùng thủ phạm, trả thù cho mẹ cháu! Nó nghiến răng: – Còn bọn Gia Thụy Ngũ Anh, thì hai đứa thuộc loại thâm tình của cháu. Không thù, không oán, chả hiểu sao mà từ khi mới gặp nhau, chúng đã tỏ ra ác độc với cháu. Cháu đâu có là gia bộc của chúng? Thế mà, trên đường đi Thiên-trường, chúng bắt cháu về, rồi hành hạ vô cùng tàn nhẫn. Thủ-Độ thuật lại tất cả những phương cách Long-Sảm hành hạ nó một lượt. Nghe Thủ-Độ kể, muôn ngàn lần Bạch-Hạc không thể tưởng tượng nổi nó là con của Thủ-Huy với Đoan-Nghi. Căn cứ vào câu Long-Sảm, Long-Thẩm với nó là chỗ thâm tình, nàng lại tưởng nó là cháu của Minh-Đạo vương. Bà rùng mình, than: – Xưa, Thái-tổ nhà Lý là Công-Uẩn, nhân vua Ngọa triều ác độc, mà được thiên hạ. Vì vậy khi lên ngôi vua, ngài lấy đức từ bi, hỷ xả của nhà Phật mà trị dân. Bây giờ trong triều thì Thiên-gia Bảo-hựu hoàng đế vô đạo, hoang chơi, dâm dật. Tất cả việc triều chính phó cho Đàm Dĩ-Mông. Y vốn vô tài, mà lại muốn chuyên quyền, vì vậy những người có tâm huyết bỏ đi hết. Quyền hành lại vào tay họ Đàm. Hai vương Kiến-khang, Kiến-bình không được trao quyền. Tương lai, khi nhà vua băng, thì Đàm hậu lại chuyên quyền, cái tệ gà mái gáy có cơ trở lại. Đàm hậu chọn cho Long-Sảm ba Thiện-nhân, đều là những đứa trẻ vô học bất thuật, xúi Long-Sảm làm những việc ác độc còn hơn vua Ngọa triều… Bà thở dài: – Hỡi ơi! Trước đây gần hai chục năm, em ta là Thủ-Lý đã sớm nhìn ra. Y trình với ông nội ta, phụ thân ta sớm rút chân ra khỏi vũng lầy của triều đình. Còn Thủ-Huy thì muốn giết tuyệt bọn quan lại vô lương, giết tuyệt bọn ngoại thích. Vì chỉ có thế mới thay đổi được cục diện của xã tắc. Làm thế thì có khác gì thay đổi triều đình? Ta nghe em ta hiện ở nước Mông-cổ xa xôi, gác kiếm không lý gì đến triều đình Đại-Việt. Tình dân, thế nước như vậy, nên trong triều, ngoài dã, ai cũng mong Thủ-Huy trở về cầm quyền. Bà nắm tay Thủ-Độ: – Con đang gọi ta là bà, thình lình đổi cách xưng hô, gọi ta là cô, ắt phải có nguyên do. Khi con không phải là tôi tớ của Long-Sảm, thì con có thể bỏ đi khỏi Đông-cung, mà không ai nói năng gì được. – Vâng. Con đoán, hung thủ giết mẹ con ắt thuộc bọn quyền quý ? Con con chưa tìm ra hung thủ, con phải ở lại Đông-cung ít lâu nữa. – Vậy, con cần dấu thân phận kỹ hơn nữa. Khi bọn Gia Thụy Ngũ Anh thách đấu, con đừng vận công chống trả, cũng đừng phản công. Như vậy hung thủ khinh thường con, con mới có thể dò ra tung tích chúng… À, con đã học được những võ công gì của Đông A? – Bố con dạy con tất cả tâm pháp nội công. Còn ngoại công thì chỉ mới có quyền pháp, chưởng pháp, kiếm pháp. – Tuy ta không biết rõ song thân con là ai, ta vẫn dạy con một pho võ công liệt vào hàng trấn môn, đó là Cương-la thập bát thức. – À! – Con đã nghe nói về Cương-la thập bát thức rồi à? – Vâng. – Pho võ công này là tâm huyết của cả đời thái sư phụ ta đã chế ra. Muốn học bộ võ công này, trước nhất phải luyện hết phần căn bản võ công bản phái, lại phải thông Dịch-lý. Phần căn bản thì con đã học rồi. Vậy từ mai, con cố gắng tìm dịp ra đây, ta sẽ giảng Dịch-lý cho con trước. – Thưa cô, con đã học kinh Dịch rồi. Con học rất kỹ. – Con học ở đâu? Ai đã dạy con? – Con học ở Quốc-tử giám. Thầy dậy con là Kinh-diên quan Phạm Kính-Ân. – Vậy thì con có thể học ngay từ ngày hôm nay. Bạch-Hạc dẫn Thủ-Độ ra sau y viện. Vừa trông thấy khu vườn rộng ước hơn mẫu (3600 mét vuông ngày nay), trồng hoa, cỏ. Cạnh đó có cái ao khá lớn. Thủ-Độ bật lên tiếng kêu: – Chà! Cô trồng cỏ thành hình Cửu-cung Bát-quái đẹp quá. Muốn thử Thủ-Độ, Bạch-Hạc hỏi: – Trong hai khu trồng cỏ này, một khu theo hình Tiên-thiên, một khu theo hình Hậu-thiên. Vậy trước hết cháu hãy đi theo hình Hậu-thiên. Khởi đầu bằng quẻ Càn. Thủ-Độ tung mình vào khu hình vuông, đặt chân vào sáu vạch liên tục, đứng chờ. Bạch-Hạc hô: – Thiên-phong cấu. Thủ-Độ vừa di chuyển, thì Bạch-Hạc hô tiếp: – Cung Cấn , Địa Thiên-thái. Sau hơn hai khắc, Bạch-Hạc bắt Thủ-Độ di chuyển suốt 64 quẻ. Nó cảm thấy chân khí cuồn cuộn lưu thông khắp cơ thể, người nó nhẹ nhưng bông. Bạch-Hạc chỉ lên một bức tường. Trên tường treo đủ các dụng cụ đánh cá như: Cụp, vó, rọng, te, nơm, lưới, chài, lờ, đó. Bà giảng: – Tổ tiên của giòng họ Đông A nhà ta tại vùng Khúc-giang, xuất thân làm nghề đánh cá. Nay thuộc Quảng-Đông bên Trung-quốc. Thời vua An-Dương, viễn tổ Trần Tự-Minh được phong tước Phương chính hầu, lĩnh chức tể tướng. Khi vua Thủy-Hoàng nhà Tần, sai Đồ Thư mang năm mươi vạn quân sang đánh Âu-lạc. Vua An-Dương truyền rút khỏi ba quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. Ba chi của họ Trần bất khuất, bỏ Khúc-giang di chuyển xuống vùng Lục-hải. Con có biết Lục-hải hiện nay là vùng nào không? – Là vùng bờ biển từ Tiên-yên tới Thanh-hóa. Như vậy tổ tiên giòng họ Trần ở Thiên-trường với Khúc-giang là một. – Rời Khúc-giang, tổ tiên ta vẫn giữ nghề đánh cá. Vì vậy, cho nên môn phái Đông A rất giỏi thủy chiến, đấu võ trên thuyền, dưới nước. Dĩ nhiên đứng đầu thiên-hạ về việc dùng dụng cụ đánh cá làm vũ khí… Cho nên thái sư phụ của ta mới chế ra Thiên-la thập bát thức. Thiên-la là lưới nhà trời, ở đây vũ khí là cái chài. Bà lấy cái chài ra trao cho Thủ-Độ: – Cái chài có nhiều mắt lưới, nhỏ, to, rộng hẹp tùy theo loại. Chài đan theo hình cái nơm, gồm tám múi. Mỗi múi ngăn cách với nhau bằng một sợi giây lớn gọi là cương. Một đầu tám sợi giây buộc chặt vào một sợi giây cái, rất lớn, dài từ một tới ba trượng. Một đầu được buộc vào một sợi giây cương nữa. Sợi giây này hình tròn. Trong tám múi, mỗi múi móc tám viên chì hình trám. Tổng cộng 64 viên chì mang tên 64 quẻ Tiên-thiên. Khi đánh cá, ngư phủ cầm chài vung ra, tỏa thành hình tròn bát quái, úp xuống nước. Trong phạm vi vòng tròn, bao nhiêu tôm cá bị úp vào trong. Ngư phủ cầm sợi giây kéo lên thuyền, gỡ tôm cá ra. Giảng xong, Bạch-Hạc cầm cái chài đến bờ ao. Bà vung tay lên, cái chài xòe ra, chụp xuống mặt nước đến rào một tiếng. Chờ cho chài chìm xuống nước, Bạch-Hạc cầm sợi giây cái kéo lên. Trong chài, hàng chục con cá lớn nhỏ mắc vào. Thủ-Độ reo lên, nó gỡ những con cá ném xuống ao. Bạch Hạc nghĩ thầm: – Đứa nhỏ này có bản tính hiền hậu đây.