🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Anh em Nhà Karamazov Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Anh em nhà KaramazovPhần 1Chương 12 Anh em nhà KaramazovPhần 1Chương 3 Anh em nhà KaramazovPhần 1Chương 4 Anh em nhà KaramazovPhần 1Chương 5 Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 1 Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 2 Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 3 Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 4 Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 5 Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 6 Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 7 Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 8 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 102 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 3 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 4 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 5 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 607 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 8 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 9 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 10 Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 11 Anh em nhà KaramazovPhần 4Chương 1 Anh em nhà KaramazovPhần 4Chương 23 Anh em nhà KaramazovPhần 4Chương 4 Anh em nhà KaramazovPhần 4Chương 5 Anh em nhà KaramazovPhần 4Chương 6 Anh em nhà KaramazovPhần 4Chương 7 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 1 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 2 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 3 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 4P1 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 4P2 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 5P1 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 5P2 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 5P3 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 6 Anh em nhà KaramazovPhần 5Chương 7 Anh em nhà KaramazovPhần 6Chương 1 Anh em nhà KaramazovPhần 6Chương 2P1 Anh em nhà KaramazovPhần 6Chương 2P2 Anh em nhà KaramazovPhần 6Chương 2P3 Anh em nhà KaramazovPhần 6Chương 2P4 Anh em nhà KaramazovPhần 6Chương 2P5 Anh em nhà KaramazovPhần 6Chương 3P1 Anh em nhà KaramazovPhần 6Chương 3P2 Anh em nhà KaramazovPhần 7Chương 1P1 Anh em nhà KaramazovPhần 7Chương 1P2 Anh em nhà KaramazovPhần 7Chương 2 Anh em nhà KaramazovPhần 7Chương 3P1 Anh em nhà KaramazovPhần 7Chương 3P2 Anh em nhà KaramazovPhần 7Chương 4 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 1 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 2 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 3P1 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 3P2 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 4 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 5P1 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 5P2 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 6 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 7P1 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 7P2 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 8P1 Anh em nhà KaramazovPhần 8Chương 8P2 (Hết) ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 1Chương 12 Alecxei Fedorovich Karamazov là con thứ ba một địa chủ hạt chúng tôi tên là Fedor Pavlovich Karamazov, người đã có thời làm xôn xao dư luận (mà đến tận bây giờ cũng còn được nhắc đến ở vùng chúng tôi) do cái chết bi thảm và mờ ám của ông ta xảy ra đúng mười ba năm trước, rồi đến một lúc nào đó tôi sẽ kể chuyện này. Còn bây giờ, về ông “địa chủ” đó, người ta gọi ông ta như vậy, tuy suốt đời ông ta hầu như không cư ngụ tại điền địa của mình, tôi chỉ nói rằng đấy là một kẻ thuộc loại người lạ lùng tuy là khá thường gặp, chính là loại người chẳng những đồi bại và trác táng mà còn vô lối biết lo liệu rất khôn khéo mọi việc lắt léo liên quan đến tài sản của mình. Chẳng hạn Fedor Pavlovich bước vào đời gần như là tay trắng, vốn điền sản của ông ta rất nhỏ nhoi, ông ta chuyên đi chực bữa nhà người, khét tiếng là kẻ ăn boóng, vậy mà lúc chết ông ta còn có đến một trăm ngàn rúp tiền mặt. Tuy thế suốt đời ông ta cứ là kẻ ngông cuồng nhất trong hạt chúng tôi. Tôi xin nhắc lại lần nữa: đây không phải là ngu xuẩn; phần lớn những kẻ ngông cuồng ấy khá tinh khôn và ranh mãnh, mà đây là vô lối nhưng là cái vô lối khá đặc biệt, mang màu sắc dân tộc. Ông ta đã hai đời vợ và có ba con trai: con cả, Dmitri Fedorovich, là con người vợ thứ nhất, hai đứa còn lại Ivan và Alecxei, là con người vợ sau. Người vợ đầu của Fedor Pavlovich là con một gia đình khá giàu có và danh tiếng thuộc dòng họ quý tộc Miuxov, cũng là địa chủ vùng chúng tôi. Làm sao một cô gái có của hồi môn, lại xinh đẹp, thêm nữa lại thuộc loại thông minh lanh lợi - loại thiếu nữ không lấy gì làm hiếm trong thế hệ hiện nay, nhưng thời trước cũng vẫn có - mà chịu lấy một gã “còm nhom” (như mọi người hồi ấy vẫn gọi gã) và hèn mọn như thế, điều này tôi sẽ không giải thích rườm rà. Tôi biết một cô gái thuộc thế hệ “lãng mạn” thời trước, sau mấy năm đeo đuổi mối tình bí ẩn với một người danh giá mà cô ta bao giờ cũng có thể rất yên tâm về làm vợ ông ta, nhưng rốt cuộc cô ta lại tưởng tượng ra những trở ngại không thể vượt qua được và một đêm bão bùng, từ mé bờ cao giống như một ghềnh đá cheo leo, cô ta gieo mình xuống dòng sông khá sâu chảy xiết: cô ta chết do tính đồng bóng của chính mình, chỉ cốt để được giống như Ophelia của Shakespeare, thậm chí nếu như bờ đá cheo leo ấy, mà cô đã để ý và ưa thích từ lâu, không được nên thơ như thế, nếu như thay vào đó chỉ là một bờ sông bằng phẳng tầm thường thì có lẽ không làm gì có chuyện tự vẫn. Đấy là việc có thực, và hẳn là trong đời sống Nga của chúng ta, hai hay ba thế hệ gần đây, những sự việc cùng loại đã xảy ra không ít. Cũng tương tự như vậy, hành động của Adelaida Ivanovna Miuxova chắc chắn là hồi âm của những luồng gió nước ngoài dội vào: đồng thời cũng là sự bực tức của tư tưởng bị cầm tù. Có lẽ nàng muốn biểu lộ ý chí độc lập của phụ nữ, đi ngược lại hoàn cảnh xã hội, chống lại sự chuyên chế của họ mạc và gia đình, và trí tưởng tượng hay chiều lòng người khiến nàng tin chắc, dù chỉ trong giây lát rằng Fedor Pavlovich tuy có tiếng là kẻ ăn chực, nhưng vẫn là một người can đảm nhất và tinh quái nhất trong cái thời đại đang chuyển mình theo chiều hướng tốt: nhưng thực ra gã chỉ là một thằng hề độc ác, không hơn không kém. Điều giật gân là sự việc xoay chuyển tới chỗ cô nàng bỏ nhà trốn theo gã và lấy thế làm khoái chí. Còn về phần Fedor Pavlovich thì thậm chí do địa vị xã hội của gã, gã hoàn toàn sẵn sàng thực hiện tất cả những trò vào loại đó, và gã háo hức muốn tiến thân bằng bất kì cách nào: chui luồn được vào một gia đình tử tế và kiếm được món hồi môn, là điều hết sức hấp dẫn. Còn về tình yêu đôi lứa thì hình như hoàn toàn không có, cả nàng cũng như chàng, mặc dù Adelaida Ivanovna rất xinh đẹp. Thành thử có lẽ đấy là trường hợp duy nhất thuộc loại này trong đời Fedor Pavlovich, một kẻ suốt đời háo sắc, sẵn sàng bám ngay lấy bất cứ cái váy nào vẫy gọi gã. Duy chỉ có người phụ nữ này không khơi gợi trong gã một hứng thú tình dục đặc biệt nào cả. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.] Ngay sau khi bỏ nhà theo gã, Adelaida Ivanovna thấy ngay rằng nàng chỉ có thể khinh bỉ chồng, ngoài ra không còn gì khác. Như vậy, hậu quả của cuộc hôn nhân bộc lộ ra nhanh chóng lạ thường. Tuy sau đó khá nhanh, gia đình đành chấp nhận cuộc hôn nhân ấy và cho cô gái trốn nhà theo trai một món hồi môn, nhưng cuộc sống vợ chồng hết sức lục đục và chuyện cãi cọ xảy ra luôn. Nghe đâu cô vợ trẻ tỏ ra thanh tao và cao cả hơn Fedor Pavlovich nhiều, gã này, như về sau được biết, ngay hồi ấy đã nẫng luôn của nàng tất cả số vốn liếng hai mươi nhăm ngàn rúp khi nàng vừa mới nhận được, từ đó, mấy chục ngàn ấy mất tăm luôn. Còn một cái ấp nhỏ và một ngôi nhà khá đẹp ở thành phố cũng là một hồi môn của nàng, thì trong một thời gian dài gã dùng đủ mọi cách sang tên cho mình bằng thủ tục giấy tờ hợp lệ nào đó, và đã đạt được mục đích ấy hẳn là chỉ bằng một thủ đoạn duy nhất: thường xuyên nài ép và van vỉ một ách trơ trẽn khiến nàng khinh bỉ và ghê tởm gã, và chỉ vì mệt mỏi về tinh thần mà nàng đành ưng thuận, cốt sao khỏi bị gã làm rày. May sao gia đình Adelaida can thiệp và kìm tay kẻ chiếm đoạt. Ai nấy đều biết giữa hai vợ chồng thường xảy ra xô xát, nhưng theo lời đồn, người đánh đòn không phải là Fedor Pavlovich, mà là Adelaida Ivanovna, nàng là một phụ nữ nóng nảy, táo bạo, nước da bánh mật, thiếu kiên nhẫn, khỏe lạ thường. Rốt cuộc nàng bỏ chồng trốn đi với một anh chàng chủng sinh nghèo kiết xác, để lại cho Fedor Pavlovich thằng Mitia mới lên ba. Fedor Pavlovich tức khắc lập lên trong nhà cả một hậu cung và ăn chơi nhậu nhẹt bừa phứa. Những lúc tạm nghỉ, y đi lung tung gần khắp tỉnh và gặp ai cũng than vãn thảm thiết về cô ả Adelaida Ivanovna đã bỏ y, thêm nữa y còn kể lể những chi tiết hết sức đáng ngượng về sinh hoạt vợ chồng của y. Đáng kể nhất là y tuồng như thích thú, thậm chí khoái trá trình diễn trước thiên hạ vai trò anh chồng mọc sừng lố bịch của mình và còn tô đậm màu sắc những chi tiết về nỗi nhục của y. “Nom cứ như anh được thăng chức vậy. Fedor Pavlovich ạ. Anh có vẻ hể hả lắm bất chấp tất cả sự đau xót của anh,” - những kẻ nhạo báng nói với y như vậy. Nhiều người còn nói thêm rằng có lẽ y lấy làm vui sướng trong bộ dạng mới của vai hề và để tăng thêm hiệu quả gây cười, y cố ý làm như không nhận thấy tình thế khôi hài của y. Nhưng ai biết được, có thể đấy là sự ngây thơ của y. Cuối cùng y đã tìm ra tung tích cô vợ theo trai. Cô nàng ở Peterburg: nàng đến đấy cùng với anh chàng chủng sinh và ở đó nàng dấn mình vào một cuộc sống hoàn toàn phóng túng. Fedor Pavlovich lập tức tất tưởi sửa soạn đi Peterburg, - để làm gì? - cố nhiên chính y cũng không biết. Của đáng tội, có lẽ y muốn đi thật đấy, nhưng một khi đã quyết như vậy, y cho rằng y có cái quyền đặc biệt lại lao đầu vào cuộc rượu tràn cung mây để thêm hăng hái trước khi lên đường. Nhưng đúng lúc ấy gia đình bên vợ nhận được tin con gái họ đã bạc mệnh ở Peterburg. Nàng chết bất thần trên một gác trang, người thì bảo là do bệnh thương hàn, người thì bảo là chết đói. Fedor Pavlovich biết tin vợ chết giữa lúc đang cơn say. Người ta kháo rằng y chạy ra phố và gào lên, vui sướng giơ hai tay lên trời: “Từ nay Chúa giải thoát cho con”; một số người khác lại nói rằng y khóc rưng rức như đứa trẻ, thậm chí nhìn y mà thương tâm, mặc dù người ta ghê tởm y. Rất có thể là cả hai bên đều đúng, nghĩa là y vừa vui sướng vì được giải phóng, vừa khóc người giải phóng cho mình. Nhiều khi người đời, dù là độc ác, cũng vẫn ngây thơ và chất phác hơn ta tưởng. Vả chăng, chính chúng ta cũng thế. Cố nhiên có thể hình dung được một người như thế có thể làm bố và dạy dỗ con như thế nào. Với người bố ấy, sự việc đã xảy ra đúng như nó phải xảy ra, nghĩa là y hoàn toàn bỏ rơi đứa con sinh ra với Adelaida Ivanovna, không phải vì y thù ghét gì đứa bé hay vì những tình cảm vợ chồng nào đó bị xúc phạm, mà chỉ giản đơn là y quên bẵng đứa con. Trong lúc y làm mọi người phát ớn lên vì cái trò khóc lóc than vãn của y, còn nhà y lại biến thành cái ổ trụy lạc thì thằng bé Mitia lên ba được người đầy tớ trung thành trong nhà là Grigori trông nom săn sóc, nếu thằng bé không được lão chăm sóc thì có lẽ sẽ chẳng có ai thay cho nó lấy một chiếc sơ mi. Lại nữa, bên họ ngoại thời gian đầu dường như cũng quên hẳn nó. Ông ngoại nó, tức là chính ngài Miuxov thân sinh ra Adelaida Ivanovna, đã tạ thế, bà vợ góa của ông, bà ngoại của Mitia, đã về ở Moskva, và ốm yếu quá; các dì nó đã đi lấy chồng, thành thử gần một năm trời nó ở với Grigori trong túp nhà gia nhân của lão. Vả chăng, nếu ông bố có nhớ đến đứa con (thực ra y không thể không biết mình có đứa con) thì hẳn là chính y sẽ tống khứ nó sang túp nhà ấy, bởi vì đứa bé dù sao cũng làm y vướng víu trong cuộc tửu sắc cuồng loạn. Nhưng bất chợt người anh họ của Adelaida Ivanovna, ông Petr Alecxandrovich Miuxov từ Paris trở về, sau này ông lại ra đi sống nhiều năm ở nước ngoài, và suốt đời ông vẫn là người u hóa, còn về cuối đời ông là người theo chủ nghĩa tự do của những năm 40 - 50. Tiếp tục con đường sự nghiệp, ông giao thiệp với nhiều người theo chủ nghĩa tự do triệt để nhất của thời đại mình, cả ở Nga cũng như ở nước ngoài, ông quen biết riêng cả Prudon và Bakunin(1) và vào cuối thời kì bôn ba của mình, ông thích hồi tưởng lại và kể chuyện về ba ngày cách mạng tháng Hai năm bốn mươi tám ở Paris, cố ý cho người ta hiểu rằng suýt nữa thì ông tham gia vào công cuộc đó trên chiến lũy. Đấy là một trong những kỉ niệm sung sướng nhất của ông thời trai trẻ. Ông có tài sản riêng, theo cách tính thời trước là ngót một nghìn khẩu. Cái ấp tuyệt vời của ông ở ngay cửa ngõ thị trấn chúng tôi và tiếp giáp với đất đai của tu viện nổi tiếng của chúng tôi. Ngay từ hồi còn rất trẻ, liền sau khi nhận quyền thừa kế, ông lập tức thưa kiện liên miên với tu viện về quyền đánh cá và đốn rừng gì đó, tôi không biết đích xác, nhưng ông cho rằng, kiện “bọn thầy tu” thậm chí là nghĩa vụ công dân và khai sáng của mình. Được nghe hết mọi chuyện về Adelaida Ivanovna mà dĩ nhiên là ông vẫn nhớ và hồi xưa thậm chí ông đã để ý đến, và được biết vẫn còn thằng bé Mitia bị bỏ mặc, ông liền can thiệp, mặc dù ông căm ghét và khinh miệt Fedor Pavlovich bằng tất cả tâm hồn trẻ trung của mình. Đây là lần đầu tiên ông làm quen với Fedor Pavlovich. Ông nói thẳng với y rằng ông muốn nhận lấy việc dạy dỗ đứa bé. Mãi sau này ông còn kể, coi đó là một nét đặc trưng rằng khi ông nói với Fedor Pavlovich về Mitia thì y ngớ ra một lúc, có vẻ như hoàn toàn không hiểu là nói về đứa trẻ nào, thậm chí dường như y ngạc nhiên rằng y có đứa con trai nhỏ tuổi ở đâu đó trong nhà. Câu chuyện của Petr Alecxandrovich có thể có phần quá đáng, nhưng hẳn là phải có một phần sự thật. Quả thật Fedor Pavlovich suốt đời thích làm điệu làm bộ. Đột nhiên sắm một vai bất ngờ nào đó, mà cái chính là đôi khi chẳng cần gì phải làm như vậy, thậm chỉ có khi còn trực tiếp có hại cho mình, như trường hợp này chẳng hạn. (1) Prudon Pie Jozep (1809-1865) - Người Pháp, nhà xã hội học, kinh tế học, nhà xã hội không tưởng có khuynh hướng vô chính phủ. Bakunin Mikhail Alecxandrovich (1814-1876), người Nga, nhà cách mạng dân túy, nhà lí luận của chủ nghĩa vô chính phủ (N.D). Tuy nhiên, rất nhiều người có đặc điểm ấy, mà là những người rất thông minh, kể chi đến Fedor Pavlovich. Petr Alecxandrovich sôi nổi lo liệu công việc và thậm chí được thừa nhận là người giám hộ đứa bé (cùng với Fedor Pavlovich). Vì người mẹ chết đi vẫn để lại tài sản: một ngôi nhà và trang ấp. Mitia đến ở với ông cậu họ ấy, nhưng ông ta không có gia đình riêng, và bởi vì sau khi thu xếp xong công việc, bảo đảm thu được tiền ở các trang ấp của mình, ông lại vội trở về Paris một thời gian dài, nên ông giao đứa bé cho một bà cô họ quý tộc ở Moskva. Khi đã sống quen ở Paris, ông quên hẳn đứa bé, đặc biệt khi xảy ra cuộc cách mạng tháng Hai(2) làm kinh dị trí tưởng tượng của ông, khiến ông suốt đời không quên được. Bà quý tộc ở Moskva qua đời, Mitia đến ở với một người con gái bà, người này đã lấy chồng. (2) Đây là nói về cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai năm 1848 ở Pháp, dẫn tới kết quả lật đổ nền quân chủ tháng Bảy của nước này (N.D). Hình như sau đó thằng bé còn đổi tổ lần thứ tư nữa. Về chuyện này bây giờ tôi sẽ không rườm lời, nhất là sẽ còn phải kể nhiều về đứa con đầu lòng này của Fedor Pavlovich, còn bây giờ tôi chỉ đưa ra những điều hết sức cần biết về anh ta, không có những cái đó thì tôi không thể bắt đầu bộ tiểu thuyết. Thứ nhất, anh chàng Dmitri Fedorovich này chỉ là một trong ba con trai của Fedor Pavlovich, anh ta lớn lên với niềm tin rằng dù sao mình vẫn có chút tài sản và đến tuổi thành niên(3) anh ta sẽ được tự lập. Thời niên thiếu và thanh niên của anh ta là một quãng đời lộn xộn: anh ta bỏ dở việc học ở trường trung học, sau đó vào một trường võ bị, rồi đến vùng Kavkaz, phục vụ trong quân ngũ, dính vào chuyện thách đấu và bị giáng chức, lại phục vụ trong quân ngũ, ăn chơi hoang tàn, phung phí khá nhiều tiền. Mãi đến tuổi thành niên, anh ta mới được bố gửi tiền cho, nhưng cho đến khi ấy anh ta đã nợ nần chồng chất. Anh ta biết mặt bố mình lần đầu tiên sau khi đến tuổi thanh niên, khi anh ta chủ tâm về nhà để nói chuyện với bố cho rạch ròi về tài sản của anh ta. Hình như ngay hồi ấy anh ta đã không ưa ông bố. Anh ta ở nhà một thời gian ngắn rồi lại vội ra đi, sau khi nhận được một số tiền và giao ước với bố về việc thu lợi tức của điền trang từ nay về sau, điều đáng chú ý là lần ấy anh ta vẫn không làm cách nào được bố cho biết về thu nhập cũng như giá trị tài sản. Ngay từ lần đầu ấy (điều này nên nhớ), Fedor Pavlovich rất hài lòng về việc làm đó, vì y có nhưng tính toán riêng. Y cho rằng gã trẻ người non dạ, bồng bột hăm hở, đam mê, thiếu kiên nhẫn, ham chơi bời, chỉ muốn làm sao chộp luôn được một cái gì là gã yên tâm ngay, tuy tất nhiên là chỉ một thời gian ngắn. Thế là Fedor Pavlovich bắt đầu khai thác tình trạng đó, nghĩa là thí cho gã từng khoản nhỏ, thỉnh thoảng gửi cho một món, và sự thể đã dẫn đến kết cục là bốn năm sau, Mitia mất kiên nhẫn, lại về thị trấn nhà lần nữa để thanh toán với bố cho xong hẳn, nhưng đột nhiên, gã hết sức ngạc nhiên được biết gã chẳng còn gì nữa, thậm chí khó mà tính toán được, gã đã ấy toàn bộ giá trị tài sản của mình bằng tiền mặt, do bố trao cho, có lẽ còn nợ lại bố đằng khác: căn cứ vào những giao kèo này nọ kí kết vào ngày này ngày nọ theo ý muốn của chính gã, gã không có quyền đòi hỏi gì nữa, vân vân và vân vân. Gã trai sửng sốt, nghi ngờ có sự gian dối nổi xung lên, gần như mất trí. Chính hoàn cảnh đó dẫn tới thảm họa, thiên tiểu thuyết đầu của tôi thuật lại chuyện ấy hay đúng hơn, câu chuyện ấy là cái khung bên ngoài của tác phẩm. Nhưng trước khi đi vào tiểu thuyết đó, còn phải nói về hai người con trai còn lại của Fedor Pavlovich, các em của Mitia, cho biết rõ gốc tích của họ. (3) Theo luật Nga thời ấy, tuổi thành niên là 21. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 1Chương 3 Tống khứ được thằng Mitia lên bốn đi rồi, chẳng bao lâu sau Fedor Pavlovich lại lấy vợ. Cuộc hôn nhân lần thứ hai này được tám năm. Người vợ thứ hai này cũng rất trẻ, tên là Xofia Ivanovna, người tỉnh khác, Fedor Pavlovich nhân có một việc kinh doanh nhỏ nhặt ghé qua đây cùng với một người Do Thái. Tuy rằng y chơi bời rượu chè, trác táng, nhưng luôn luôn chăm lo bỏ vốn kinh doanh và làm ăn bao giờ cũng có lời, tuy cố nhiên hầu như bao giờ cũng khá là xỏ lá. Xofia Ivanovna thuộc loại “con nhà mồ côi”, tứ cố vô thân từ bé, nguyên là con gái một viên trợ tế ngu dốt, nàng lớn lên trong gia đình giàu có của một bà quan quyền quý đã già, vợ góa của tướng Vorokhov, bà này là ân nhân của nàng, người nuôi dạy và hành hạ nàng. Tôi không rõ chi tiết, chỉ nghe nói cô con nuôi nhu mì, hiền lành và ngoan ngoãn này đã có lần tự vẫn bằng sợi dây treo vào cái đinh trong nhà kho: cô không sao chịu đựng nổi sự trái tính trái nết và nhưng lời mắng nhiếc không lúc nào ngớt của bà già có lẽ không phải là độc ác nhưng vì ăn không ngồi rồi nên đâm ra độc đoán quá quắt. Fedor Pavlovich cầu hôn, nhà gái dò biết về y và đuổi cổ y đi, thế là lại như cuộc hôn nhân trước, y rủ rê cô gái mồ côi trốn theo y. Rất có thể là nàng sẽ không đời nào theo y nếu như kịp thời biết rõ hơn chút nữa về y. Nhưng đây lại ở tỉnh khác; vả chăng cô gái mười sáu tuổi đầu có thể hiểu được gì, ngoài một điều là chẳng thà gieo mình xuống sông còn hơn ở với mẹ nuôi. Vì thế cô đánh đổi bà mẹ nuôi ân nhân lấy ông chồng ân nhân. Lần này Fedor Pavlovich không lấy được một đồng xu, vì bà tướng tức giận không cho gì cả, lại còn nguyền rủa cả hai. Nhưng lần này y cũng không tính chuyện bòn tiền, y chỉ mê sắc đẹp tuyệt trần của cô gái thơ ngây, nhất là vẻ ngây thơ của nàng đã khiến y sửng sốt, mà y là kẻ dâm dật xưa nay có thói chỉ ham thích cái đẹp thô lậu của đàn bà. “Cặp mắt thơ ngây ấy như lưỡi dao cạo cứa vào tâm hồn tôi” - sau này y thường nói như vậy, vừa nói vừa cười hi hí một cách khả ố. Thế nhưng, một kẻ dâm đãng thì chỉ có thể ham mê tình dục. Không lấy được tí của nả nào, Fedor Pavlovich không nể gì vợ cả, vin cớ nàng “có lỗi” với y (nếu có thể nói như vậy) và y gần như đã cứu nàng khỏi “sợi dây oan nghiệt”, ngoài ra, lợi dụng tính nhẫn nhịn và hiền lành kì lạ của nàng, y chà đạp cả lên những điều thông thường phải giữ gìn trong quan hệ vợ chồng. Nhà y, bất chấp sự có mặt của vợ là cái ổ truy hoan cho các ả mèo mả gà đồng kéo đến, và chúng chơi bời thả cửa. Điều đặc biệt đáng lưu ý là gia nhân Grigori, một kẻ cau có, ngu ngốc, bướng bỉnh, hay lí sự, rất ghét bà chủ trước là Adelaida Ivanovna, lần này lại bênh bà chủ mới, vì bênh bà mà dám cãi nhau với Fedor Pavlovich một cách láo xược không thể tha thứ được xét theo thân phận đầy tớ. Có lần y còn phá đám cuộc chơi và đuổi cổ tất cả lũ đĩ điếm đã kéo đến. Về sau, người thiếu phụ khốn khố, từ bé đã bị đe nạt đến khiếp nhược, mắc một thứ bệnh thần kinh của phụ nữ, thường gặp ở các bà các cô con nhà thường dân nơi thôn ổ, gọi là bệnh “ngộ dại”(1). Người mắc bệnh đó thường lên cơn thần kinh khủng khiếp, đôi khi mất trí. Tuy thế, nàng đã sinh cho Fedor Pavlovich hai con trai là Ivan và Alecxei, đứa thứ nhất trong năm đầu chung sống, còn đứa thứ hai thì ba năm sau. Khi mẹ qua đời, Alecxei hơn ba tuổi, tuy điều này thật kì lạ nhưng tôi biết sau đó người con nhớ mãi mẹ suốt đời, tất nhiên là như qua giấc mơ. Sau khi mẹ mất, hai đứa con lâm vào cảnh ngộ gần y hệt như đứa con đầu là Mitia: ông bố quên hẳn con và bỏ mặc chúng, chúng lại vào tay Grigori và cũng về ở nhà ông ta. Bà lão độc đoán vợ viên tước vị ân nhân nuôi dạy mẹ chúng, đã tìm thấy chúng trong căn nhà ấy. Bà vẫn còn sống, và suốt tám năm qua, bà chưa lúc nào nguôi oán hận mẹ chúng. Suốt tám năm ròng, bà vẫn nắm được tin tức hết sức xác thực về đời sống “Xofia” của bà, nghe nói nàng mắc bệnh và phải sống giữa cảnh nhuốc nhơ như thế nào, hai ba lần bà tuyên bố với những kẻ ăn bám bà: “Đáng đời nó, đấy là trời trừng phạt kẻ vô ơn.” (1) Tiếng Nga là “klikusestvo”, một thứ bệnh thần kinh hay có ở người phụ nữ, người bệnh lên cơn co giật, đồng thời gào rú lên (N.D). Đúng ba tháng sau khi Xofia Ivanovna qua đời, bà quan đột nhiên đến thành phố chúng tôi và tới thẳng nhà Fedor Pavlovich, bà lưu lại trong thị trấn có nửa giờ, nhưng đã làm được nhiều việc. Lúc ấy là buổi tối. Fedor Pavlovich, mà đã tám năm bà không nhìn mặt, say khật khưỡng ra gặp bà. Người ta kể rằng ngay tức khắc, không đòi hỏi gì cả, vừa nhìn thấy y, bà liền giáng cho y hai cái tát nên thân như pháo nổ và túm tóc giúi đầu xuống ba lần, đoạn không nói thêm lời nào, bà đi thẳng xuống nhà tìm hai đứa trẻ. Thoạt nhìn thấy chúng không được tắm rửa và áo quần bẩn thỉu, bà lập tức ban cả cho Grigori một cái bạt tai và bảo cho biết bà sẽ đem cả hai đứa về ở với bà. Rồi cứ để chúng y nguyên như thế, bà đưa chúng đi, choàng cho chúng tấm mền, cho lên xe ngựa về thành phố của bà. Grigori nhận lãnh cái tát như một tên nô lệ trung thành, không một lời hỗn xược, và khi đưa bà lão ra xe, y rạp mình vái chào, kính cẩn thưa rằng: “Trời sẽ thưởng cho cụ đã thương đến trẻ mồ côi.” “Dẫu sao mày vẫn là thằng ngu!” - bà quan quát vào mặt y lúc xe chuyển bánh. Khi đã hiểu rõ sự tình, Fedor Pavlovich thấy như thế là tốt và chính thức ưng thuận để bà cụ nuôi dạy hai trẻ không bác bỏ một điều khoản nào cả. Rồi y đi khắp thành phố kể lể về hai cái tát đã được nhận lãnh. Ít lâu sau bà cụ từ trần, nhưng bà di chúc để lại cho mỗi đứa trẻ một ngàn rúp “cho chúng ăn học, toàn bộ số tiền ấy nhất thiết chỉ chi cho chúng, nhưng sao cho đủ dùng đến tuổi thành niên, vì đối với những đứa trẻ như thế, khoản bố thí như thế cũng là quá hậu, còn ai hằng tâm cho thêm thì tùy ý”, vân vân và vân vân. Tôi không chính mắt đọc chúc thư, nhưng nghe nói đúng là có một chỗ kì dị đại loại như thế và diễn đạt một cách quá ư độc đáo. Được cái người thừa kế chủ chốt tài sản của bà lão là người chính trực, thủ lĩnh giới quý tộc tỉnh đó, ông Efim Petrovich Polenov. Sau khi trao đổi thư từ với Fedor Pavlovich và đoán ra ngay rằng không hòng gì y bỏ tiền ra cho việc giáo dục các con y (tuy y không bao giờ từ chối thẳng thừng, mà những lần như vậy y chỉ tìm cách dây dưa, thậm chí đôi khi còn bày tỏ lòng thương con), ông bèn đích thân chăm lo cho hai trẻ mồ côi, đặc biệt ông yêu đứa em, Alecxei, vì vậy một thời gian dài Alecxei sống trong gia đình ông. Tôi xin độc giả lưu ý điều này ngay từ đầu. Nếu có người nào mà hai chàng trẻ tuổi phải suốt đời ghi nhớ công ơn dưỡng dục và học hành thì đấy chính là Efim Petrovich, một trong những người cao quý và nhân đức nhất hiếm có thời nay. Ông giữ nguyên số tiền một nghìn rúp mỗi đứa mà bà lão để lại cho chúng không đụng gì đến, thành thử khi họ đến tuổi thành niên, số tiền đó tinh cả lãi, lên đến hai nghìn rúp mỗi phần, ông bỏ tiền riêng cho chúng ăn học, và dĩ nhiên phí tổn cho mỗi đứa hơn một nghìn rúp nhiều. Lúc này tôi chưa kể tỉ mỉ về thời niên thiếu và thời thanh niên của họ, chỉ nêu ra những cái chính mà thôi. Tuy nhiên về thằng anh, Ivan, tôi chỉ nói rằng lớn lên nó trở thành một thiếu niên cau có, kín đáo hoàn toàn không phải là nhút nhát, nhưng dường như ngay từ mười tuổi nó đã thấu hiểu rằng hai anh em dù sao vẫn sống nhờ nhà người, trông vào ân huệ của người ta, rằng bố của chúng là một kẻ mà chỉ nhắc đến cũng đáng xấu hổ, vân vân và vân vân. Từ rất sớm, hầu như từ thuở ấu thơ (ít ra người ta cũng đồn đại như thế), thằng bé này đã tỏ ra có khả năng phi thường, xuất chúng trong học tập. Tôi không biết đích xác, nhưng khoảng năm mười ba tuổi, Ivan đã rời khỏi gia đình Efim Petrovich để vào học một trường trung học Moskva và trọ nơi một nhà sư phạm giàu kinh nghiệm, nổi tiếng thời ấy, bạn thời thơ ấu của Efim Petrovich. Sau này chính Ivan kể lại rằng mọi việc xảy ra có thể nói là do “lòng sốt sắng làm việc thiện” của Efim Petrovich, ông say mê với ý tưởng là một cậu bé có thiên tài phải được thụ huấn một nhà giáo dục thiên tài. Tuy nhiên cả Efim Petrovich và nhà giáo dục thiên tài đều không còn khi Ivan tốt nghiệp trung học và vào đại học. Bởi vì Efim Petrovich vụng thu xếp và việc nhận số tiền bà quan đã di chúc dành riêng cho bọn trẻ cứ kéo dài mãi do những thủ tục và sự dây dưa không tránh khỏi ở nước ta (số tiền ấy tính cả lãi đã lên đến hai nghìn mỗi phần), nên trong hai năm đầu ở đại học, chàng trẻ tuổi hết sức lao đao, vì vừa phải tự lo việc ăn ở vừa theo học. Nên chú ý rằng chàng thậm chí không muốn thứ viết thư cho bố, có lẽ vì hãnh diện, vì khinh miệt bố, mà cũng có lẽ sự suy đoán tỉnh táo lạnh lùng mách bảo chàng rằng đừng hòng bố sẽ dành cho một sự giúp đỡ nào ít nhiều đáng kể. Dù sao chàng không hề rối trí và đã tìm được việc làm, mới đầu là dạy học mỗi buổi hai mươi kopek, rồi chạy đến các tòa soạn báo với những bài viết chừng mươi dòng về những chuyện xảy ra trên đường phố, kí tên “Người mục kích”. Nghe nói những bài ấy bao giờ cũng rất thú vị và giật gân, thành thử chúng mau chóng được ưa chuộng, chỉ riêng việc đó chàng trẻ tuổi cũng đã tỏ ra hơn hắn về mặt thực tế cũng như trí tuệ so với vô vàn sinh viên nam nữ của chúng ta ở các thủ đô, những kẻ suốt đời túng thiếu và khốn khổ, thường vẫn sớm tối đến gõ cửa các tòa báo và tạp chí, song chẳng nghĩ ra được cách gì hơn ngoài việc lặp đi lặp lại mãi vẫn một đề nghị xin được dịch từ tiếng Pháp hay chép lại bản thảo. Đã bắt mối được với các tòa soạn, Ivan Fedorovich không lúc nào để mất quan hệ và trong những năm cuối cùng ở đại học, chàng bắt đầu ra mắt với những bài điểm sách có giá trị về những đề tài chuyên môn khác nhau vì vậy thậm chí trở nên nổi tiếng trong giới văn học. Tuy nhiên, mãi đến gần đây nhất, chàng mới tình cờ giành được sự chú ý đặc biệt của một số độc giả đông hơn nhiều, vì vậy hồi ấy lập tức chàng được nhiều người để ý và ghi nhớ. Đấy là một trường hợp khá lạ lùng. Ở đại học ra và sửa soạn ra nước ngoài với số vốn hai ngàn rúp, Ivan Fedorovich đột nhiên cho đăng trên tờ báo lớn một bài kì đã khiến cho cả những người không chuyên môn cũng phải chú ý, nhất là bài đó viết về một đề tài có lẽ là hoàn toàn xa lạ với tác giả, bởi vì Ivan tốt nghiệp bộ môn khoa học tự nhiên. Bài đó viết về một vấn đề đang được bàn luận ở khắp nơi: vấn đề tòa án giáo hội. Sau khi phân tích những ý kiến đã có về vấn đề này, tác giả đưa ra quan điểm riêng của mình. Đáng kể nhất là giọng văn và kết luận hết sức bất ngờ. Thế nhưng nhiều giáo sĩ dứt khoát cho rằng tác giả đứng về phía họ. Đồng thời, không chỉ riêng những người thế tục, mà cả những người vô thần cũng hoan hô người viết. Cuối cùng một số người tinh ý cả quyết rằng tất cả bài báo chỉ là một trò đùa nhả và giễu cợt táo tợn. Tôi đặc biệt nhắc đến vụ này vì bài báo ấy đã lọt đến cả tu viện trứ danh của chúng tôi ở gần thành phố, đúng lúc ở đấy người ta đang quan tâm đến vấn đề tòa án giáo hội vừa nảy sinh, và nó làm cho người ta hết sức băn khoăn. Được biết tên tác giả, người ta càng chú ý hơn vì anh ta là người thành phố này và là con của “chính Fedor Pavlovich ấy”. Vừa hay đúng lúc ấy tác giả xuất hiện. Ivan Fedorovich về nhà làm gì, tôi còn nhớ, ngay hồi ấy tôi cũng đã tự hỏi với một cảm giác hầu như lo lắng. Chuyến viếng thăm tai hại ấy, bước khởi đầu của bao nhiêu hậu quả, đối với tôi cho đến mãi về sau, hầu như bao giờ cũng là điều khó hiểu. Nói chung có điều lạ là một chàng trai thông thái như thế, dáng vẻ kiêu hãnh và thận trọng như thế bỗng dưng lại phơi mặt ra ở một nhà tai tiếng như thế để gặp một ông bố suốt đời không biết đến anh ta, không biết mặt và không hề nhớ đến anh ta và mặc dù chắc chắn là không đời nào chịu cho con tiền nếu như anh ta có hỏi xin đi nữa, nhưng suốt đời vẫn cứ sợ các con trai Ivan và Alecxei sẽ có lúc về đòi tiền. Ấy vậy mà chàng trai về nhà ông bố như thế, một tháng rồi hai tháng, và hai bố con rất hòa thuận với nhau. Không phải chỉ riêng tôi mà nhiều người rất đỗi ngạc nhiên về chuyện đó. Petr Alecxandrovich Miuxov mà tôi đã nói đến ở trên, người họ hàng xa của Fedor Pavlovich về bên vợ trước, dịp ấy lại có mặt ở vùng chúng tôi, trong dinh cơ của mình ở ngoại ô (ông đã đến ở hẳn Paris, hạ cố về thăm quê hương). Tôi nhớ, chính ông ngạc nhiên hơn ai hết khi đã quen biết chàng trai mà ông rất thú và đôi khi không khỏi đau lòng, ông vẫn tranh tài biện bác với anh ta. “Hắn là đứa kiêu hãnh,” - ông nói với chúng tôi về chàng ta. - “Bao giờ hắn cũng có cách kiếm ra tiền, ngay bây giờ hắn cũng có tiền để ra nước ngoài, thế thì hắn cần quái gì ở đây nhi? Ai nấy đều biết hắn về gặp bố không phải để xin tiền, vì dù thế nào thì bố hắn cũng không nhả ra. Rượu và gái hắn không thiết, vậy mà lão già không thể không cần đến hắn, hai bố con ăn ý nhau lắm!” Đấy là sự thật. Chàng trai có ảnh hưởng trông thấy đối với ông già. Lão đôi khi dường như nghe lời con, tuy lão ngang chướng đến điều, thậm chí là hung hãn: vậy mà đôi khi lão bắt đầu tỏ ra lịch sự hơn… Sau này mới biết rằng Ivan Fedorovich về nhà phần nào là theo yêu cầu của anh mình là Dmitri Fedorovich và vì công việc của anh. Có thể nói chính nhân dịp này, chính trong lần về này mà Ivan biết mặt anh, nhưng trước khi rời Moskva về đây, chàng đã có trao đổi thư từ với Dmitri Fedorovich về một việc quan trọng liên can đến ông anh nhiều hơn. Đây là việc gì, lúc nào cần độc giả sẽ được biết đầy đủ và tỉ mỉ. Thế nhưng ngay cả khi tôi đã biết cái điều đặc biệt ấy, tôi vẫn cứ cảm thấy Ivan Fedorovich là người bí hiểm, còn việc chàng về đây vẫn cứ là điều không thể giải thích được. Xin thêm rằng Ivan có vẻ là người trung gian hòa giải giữa bố và anh, Dmitri Fedorovich đã xích mích lớn với bố và định đâm đơn kiện bố. Gia đình ấy, tôi nhắc lại, lần đầu tiên trong đời xum họp đầy đủ, và một số người trong gia đình lần đầu tiên thấy mặt nhau. Duy có người con út Alecxei Fedorovich, đã ở đây từ một năm trước, như vậy là đến đây trước các anh. Chính anh chàng Alecxei ấy là người mà tôi gặp khó khăn nhiều nhất khi nói đến anh ta trong câu chuyện mở đầu này trước khi đưa anh ta lên sân khấu trong bộ tiểu thuyết. Nhưng sẽ phải viết phần mào đầu về anh ta, ít ra là để sơ bộ làm sáng tỏ một điểm rất lạ, ấy là: tôi buộc phải giới thiệu nhân vật sắp tới của tôi với độc giả ngay từ cảnh đầu thiên tiểu thuyết của anh ta, trong bộ áo người tập tu. Đúng thế. anh ta đã sống ở tu viện vùng chúng tôi ngót một năm và hình như đang chuẩn bị giam mình trong đó suốt đời. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 1Chương 4 (1) (1) Tên gọi thân mật Alecxei. Hồi ấy anh mới có hai mươi mốt (anh Ivan của anh ta hai mươi tư, anh cả Dmitri của họ hai mươi tám). Trước hết xin nói rằng chàng trai ấy, Aliosa, không phải là người cuồng tín, và theo ý tôi ít ra cũng không phải là người theo thuyết thần bí. Tôi xin nói trước ý kiến đầy đủ của tôi: anh chỉ là một người nhân ái vượt trước thời đại mình, và anh ham mê con đường tu hành là vì bây giờ duy có nó làm xáo động mạnh trí tưởng tượng của anh và anh hình dung đấy có thể nói là lí tưởng để thoát khỏi bóng tối của lòng hận thù đã bùng nổ trên trần gian mà vươn tới ánh sáng của tình yêu trong tâm hồn anh. Con đường đó lôi cuốn được anh chỉ là vì trên đường anh đã gặp một người mà anh cho là siêu phàm: trưởng lão(2) Zoxima trứ danh của tu viện chúng tôi, người mà anh quyến luyến với tất cả mối tình đầu nồng nhiệt của trái tim không hề biết thỏa nguyện. Tuy nhiên, tôi không chối cãi rằng ngay hồi ấy anh đã rất kì dị, thậm chí kì dị từ trong nôi. Ờ mà ở trên tôi đã kể rằng anh mồ côi mẹ từ hồi mới lên ba. Sau này anh nhớ rõ hình ảnh mẹ suốt đời, khuôn mặt, những cử chỉ âu yếm, “hệt như mẹ vẫn sống, đang đứng trước mặt tôi”. Những kỉ niệm như thế có thể khắc sâu vào tâm khảm (điều này ai cũng biết) từ thuở bé dại hơn, thậm chí từ năm lên hai, nhưng suốt đời chúng chỉ như những chấm sáng trong bóng tối, hay như một mảnh con bị dứt ra từ tấm tranh rất lớn đã lụi tàn và đã biến mất, chỉ còn để lại một mảnh nhỏ ấy thôi. Với Alecxei, sự thể đúng như vậy: anh nhớ như in một chiều hè êm ả, cửa sổ mở, ánh tà dương chênh chếch (những tia sáng chênh chếch ăn sâu vào tâm trí hơn hết), trong góc phòng một bức ảnh thánh với cây đèn thờ thắp sáng ở phía trước và mẹ anh quỳ trước bức ảnh, khóc nức nở như lên cơn thần kinh, gào rú bồng anh trên tay, ôm ghì lấy anh làm anh đau cả người và cầu khấn Đức Mẹ đồng trinh ban ơn lành cho anh, hai tay nâng bổng anh lên gần bức ảnh như dâng anh cho Mẹ che chở… (2) “Xtaresta” (tiếng Nga) dùng để chỉ nhà tu hành đã đạt đến trình độ khổ tu cao siêu, ở Nga chế độ trưởng lão xuất hiện vào khoáng thế kỉ 14. Ý nghĩa của từ này sẽ được tác giả giải thích kĩ sau này (mục 5) (N.D). Bỗng nhiên người vú chạy vào và hoảng hốt giằng lấy anh. Một cảnh tượng phi thường! Giây lát ấy Aliosa ghi sâu vào kí ức gương mặt mẹ: anh nói rằng khuôn mặt ấy bị kích động cực độ, nhưng đẹp tuyệt vời theo chỗ anh nhớ được. Nhưng ít khi anh thổ lộ với ai kỉ niệm ấy. Thời thơ ấu và thanh niên, anh ít thổ lộ tâm tình, thậm chí ít nói, nhưng không phải vì không tin người, không phải vì nhút nhát hay vì tính tình ủ dột ưa cô độc, hoàn toàn trái lại là đằng khác, đấy là vì một cái gì hoàn toàn khác, dường như vì một mối bận tâm sâu kín nào đó không liên can gì đến người khác, nhưng cực kì quan trọng đối với anh, khiến anh dường như quên cả mọi người. Nhưng anh yêu mến mọi người: dường như suốt đời anh hoàn toàn tin người mà chẳng bao giờ có ai coi anh là kẻ ngờ nghệch hay ngây thơ. Ở anh có cái gì lên tiếng nhắn nhủ (và sau này suốt cả đời cũng vẫn thế) rằng anh không muốn phán xét người khác, anh không muốn phán xử và không phán xử gì ai hết. Thậm chỉ có vẻ như anh dung thứ hết, tuyệt không chê trách gì cả, tuy thường thường anh rất đỗi buồn rầu đau xót. Hơn thế, về mặt này anh đã đạt tới mức không còn ai có thể làm anh ngạc nhiên hay sợ hãi, mà anh như thế ngay từ thời mới bước vào tuổi thanh xuân. Về nhà bố năm hai mươi tuổi, lọt đúng vào cái ổ trụy lạc nhuốc nhơ, anh, một người trinh tuyền và trong trắng, chỉ lẳng lặng lánh đi khi thấy những cảnh không thể chịu nổi, nhưng không hề tỏ vẻ khinh bỉ hay chê trách một ai. Ông bố trước kia là kẻ ăn chực nên nhạy cảm và rất dễ chạnh lòng, mới đầu có thái độ nghi ngại và cau có với anh (“nó cứ lẳng lặng, nhưng suy xét nhiều”), tuy vậy chẳng bao lâu lão lại rất hay ôm hôn anh, chỉ khoảng sau hai tuần là cùng, thực ra nước mắt và sự xúc cảm của lão chỉ là tình cảm trong cơn say, nhưng rõ ràng là lão yêu con thành thật và sâu đậm, một kẻ như lão cố nhiên chưa từng yêu ai như vậy. Vả chăng tất cả mọi người đều yêu mến chàng trai ấy, bất kể anh có mặt ở đâu, kể từ thuở anh còn bé thơ. Hồi ở nhà vị ân nhân nuôi dạy mình, Efim Petrovich Polenov, anh đã được mọi người trong gia đình yêu mến đến mức họ hoàn toàn coi anh là người ruột thịt. Ấy là anh đến gia đình ấy từ lúc còn bé dại, ở cái tuổi mà đứa trẻ chưa thể có sự tính toán ranh mãnh, thói láu cá vặt, chưa biết cái nghệ thuật xu nịnh và lấy lòng khiến người ta phải yêu mình. Vậy là năng khiếu khiến người ta đặc biệt yêu mến mình nằm ngay trong bản thân anh, có thể nói nó ở ngay trong thiên tính của anh, hồn nhiên, không giả tạo. Anh ở trường cũng thế, vậy mà dường như anh thuộc loại trẻ thường, hay làm cho chúng bạn nghi ngại, đôi khi bị chúng chế giễu, có thể còn bị căm ghét. Chẳng hạn, anh thường tư lự và thích lánh riêng ra. Ngay từ tấm bé anh đã thích lánh riêng ở một chỗ để đọc sách, tuy thế chúng bạn yêu anh đến mức có thể nói dứt khoát là anh được toàn thể mọi người yêu mến suốt thời gian đi học. Anh ít khi nô nghịch, thậm chí ít khi vui vẻ, nhưng nhìn mọi người thấy ngay rằng đấy tuyệt nhiên không phải vì tính hay bực bội, trái lại anh là người ôn hòa và phân minh. Không bao giờ anh muốn tỏ ra trội hơn các bạn cùng lứa. Có lẽ chính vì thế chẳng bao giờ anh sợ ai, thế nhưng chúng bạn hiểu ngay rằng anh không kiêu hãnh về sự gan dạ của mình, mà coi bộ như anh không hiểu rằng anh can đảm và gan dạ. Anh không bao giờ để bụng thù oán. Có khi một giờ sau khi bị xúc phạm, anh đã trả lời kẻ xúc phạm mình hay chính anh nói chuyện trước với hắn, vẻ mặt tin cậy và tươi sáng như không có gì xảy ra. Mà không phải là anh làm ra vẻ vô tình quên đi hay cố ý tha thứ cho sự xúc phạm, chẳng qua anh không coi đó là sự xúc phạm, điều đó làm chúng bạn yêu quý và cảm phục anh. Anh chỉ có một đặc điểm khiến cho bọn trò ở tất cả các lớp, từ lớp thấp nhất đến lớp cao nhất, thường xuyên muốn trêu ghẹo anh. Đấy là cái tính cả thẹn và tinh khiết kì quái, quá đáng của anh. Anh không thể nghe nổi một số lời nhất định và một số cuộc bàn tán nhất định về phụ nữ. Những lời và những cuộc bàn tán “nhất định” ấy, rủi thay lại là không thể trừ bỏ được trong các trường học. Những gã thiếu niên tâm hồn và trái tim trong trắng, hầu như con nít, thường rất thích nói riêng với nhau trong lớp và thậm chí nói công nhiên về những việc, nhưng cảnh và hình ảnh mà ngay cả lính tráng không phải bao giờ cũng dám nói, hơn thế nữa nhiều điều lính tráng không biết và không hiểu, nhưng lại quen thuộc với bọn trẻ con rất non dại của xã hội tri thức thượng lưu chúng ta. Đây có lẽ chưa phải là sự đồi bại về đạo đức, cũng chưa phải là sự trâng tráo thực sự, dâm dật, tự bên trong, nhưng là sự trâng tráo bề ngoài, nó thường được chúng coi là cái gì tinh tế, ý vị hiên ngang và đáng bắt chước. Thấy “Aliosa Karamazov” vội dùng ngón tay nút hai tai lại khi nghe nói đến “cái ấy”, đôi khi chúng cố ý xúm lại quanh anh, giằng tay anh khỏi tai, thét vào cả hai tai anh nhưng lời tục tĩu, còn anh vằng ra, thụp xuống sàn, nằm xuống, bưng kín mặt, mà vẫn không nói với chúng một lời nào, không mắng lại, lẳng lặng chịu đựng. Rồi cuối cùng chúng để anh yên, không chế anh là “con nhái ranh” nữa, không những thế còn tỏ ra tiếc cho anh về khoản này. Nên nói thêm là trong lớp, anh bao giờ cũng thuộc loại trò giỏi, nhưng không bao giờ đứng nhất lớp. Khi Efim Petrovich qua đời, Aliosa còn học hai năm nữa, ở trường tỉnh. Bà vợ Efim Petrovich đau buồn khôn nguôi, hầu như ngay sau khi chồng mất liền đưa cả nhà toàn là phụ nữ sang Ý một thời gian dài, còn Aliosa đến ở với hai người đàn bà trước kia anh chưa từng gặp mặt, là những người họ xa của Efim Petrovich, nhưng anh ở đấy theo điều kiện thỏa thuận như thế nào thì chính anh cũng không biết. Một đặc điểm tiêu biểu, thậm chí rất tiêu biểu của anh là không bao giờ bận tâm đến chuyện mình sống bằng tiền của ai. Về điểm này anh trái ngược hẳn với anh Ivan của mình, người đã qua cảnh nghèo khổ trong hai năm đầu ở đại học, phải tự làm nuôi thân, từ tấm bé đã cay đắng cảm thấy mình sống bằng miếng bánh ăn nhờ, miếng bánh của ân nhân. Nhưng hình như không thể phán xét quá nghiêm khắc điểm đó trong tính cách của Alecxei, bởi vì bất cứ ai dù chỉ hơi biết anh thì khi nảy ra câu hỏi về chuyện ấy, thảy đều tin chắc rằng anh thuộc loại dở điên dở dại dù có đột nhiên được hưởng cả một gia sản thì cũng dễ dàng hiến tặng luôn khi có lời cầu xin, hoặc hiến cho công việc từ thiện, hoặc thậm chỉ có khi cho một kẻ bịp bợm khôn khéo, nếu như hắn xin xỏ. Nói chung anh dường như hoàn toàn không biết giá trị đồng tiền, tất nhiên không phải là theo nghĩa đen. Khi được người ta cho tiền tiêu vặt (mà anh không bao giờ xin) thì hàng tuần liền anh không biết dùng tiền làm gì, hoặc không hề biết dè xẻn gì hết, tiêu phăng trong nháy mắt. Petr Alecxandrovich Miuxov, một người rất kĩ tính về mặt tiền nong và về sự chính trực tư sản, sau này, khi đã xem xét kĩ Alecxei, có lần đã thốt lên câu danh ngôn về anh như sau: “Đây có lẽ là người duy nhất trên thế gian mà nếu bỗng nhiên bị bỏ mặc một mình, không có chút tiền nong nào trong một thành phố lạ một triệu dân thì anh ta cũng không khốn đốn, không chết đói chết rét, bởi vì tức khắc sẽ có người cho ăn và thu xếp cho, mà nếu không ai thu xếp cho thì anh ta cũng sẽ tự thu xếp được ngay, chẳng phải gắng gỏi gì hết và cũng không một chút quỵ lụy, còn người giúp anh ta không hề cảm thấy đó là gánh nặng, trái lại có lẽ còn coi đó là niềm thích thú.” Anh không theo hết bậc trung học: còn một năm nữa hết cấp, anh bỗng nói với hai bà kia rằng anh về nhà bố có việc, một việc mà anh chợt nghĩ ra. Hai bà rất lưu luyến anh, không muốn để anh đi. Đi đường không tốn kém lắm, hai bà không cho anh cầm cố chiếc đồng hồ gia đình vị ân nhân tặng anh trước khi ra nước ngoài, họ chu cấp tiền nong hậu hĩ cho anh, còn tặng anh cả bộ áo ngoài và đồ lót. Nhưng anh trả lại cho họ nửa số tiền, bảo với họ rằng anh nhất quyết muốn đi toa hạng ba. Về đến thị trấn nhà, khi bố hỏi: “Sao chưa học xong đã bỏ về?”, anh không trả lời gì hết, mà như người ta nói, anh trở nên tư lự khác thường. Chẳng bao lâu đã rõ ràng anh đi tìm mộ mẹ. Thậm chí về sau anh tự thú nhận rằng mình về chỉ vì việc ấy. Nhưng chưa chắc anh về chỉ vì lí do ấy. Nhiều phần chắc hơn cả là chính anh không biết và không thể nào giải thích được rằng trong tâm hồn anh bỗng nhiên dậy lên một điều gì không thể cưỡng lại nổi lôi cuốn anh đi lên con đường mới chưa hề biết, nhưng không sao tránh khỏi. Fedor Pavlovich không thể chỉ cho con ngôi mộ người vợ thứ hai của y, vì chưa bao giờ y đến thăm mộ vợ, kể từ khi hạ huyệt, và vì lâu năm rồi y quên bẵng mất nơi mai táng… Xin nói thêm về Fedor Pavlovich. Một thời gian dài trước đó y không ở thành phố chúng tôi. Ba bốn năm trước khi người vợ thứ hai qua đời, y đến miền nam nước Nga và cuối cùng dừng ở Odessa, sống tại đây mấy năm liền. Theo chính lời y, thoạt đầu y làm quen với “nhiều người Do Thái, cả đàn ông, đàn bà lẫn trẻ con, gái trai đủ cả” và cuối cùng, chẳng những y được người Do Thái tiếp nhận “mà cả người Israel nữa”(3). Hẳn là trong quãng đời này của mình, y đã phát triển được tài nghệ đặc biệt ki cóp và bòn rút tiền. Y trở lại thị trấn chúng tôi chỉ mới ba năm trước khi Alecxei về. Những người quen trước kia thấy y già đi nhiều, tuy tuổi chưa lấy gì làm cao lắm. Y cư xử không cao nhã hơn, mà có phần trâng tráo hơn. Chẳng hạn anh hề trước kia bỗng có nhu cầu lão xược muốn biến người khác thành hề. Y thích chơi bời đĩ điếm thậm chí còn bỉ ổi hơn trước. Chẳng bao lâu sau y trở thành người sáng lập ra nhiều quán rượu mới trong vùng. (3) Trong nguyên bản dùng hai từ “gid” và “evrei” đều là người Do Thái, nhưng từ “gid” mang sắc thái khinh miệt, tôi dịch là “người Do Thái”, còn từ “evrei” dịch là “người Israel” (N.D). Người ta cho rằng có lẽ y có đến một trăm ngàn tiền vốn hay chỉ kém chút ít. Nhiều người trong thành phố và trong hạt vay nợ y, tất nhiên là phải có vật cầm cố hoàn toàn chắc chắn. Gần đây y có hơi phị ra, có phần mất ung dung, mất tự chủ, thậm chí trở nên hơi xốc nổi, bắt tay vào việc này rồi lại xọ sang việc khác, đầu óc phân tán và ngày càng say sưa bét nhè, và nếu như không có Grigori, vẫn người gia nhân ấy bây giờ cũng đã già đi nhiều, trông nom y, đôi khi gần như một người hướng dẫn thì có lẽ Fedor Pavlovich sẽ không sống nổi nếu không có sự chăm sóc đặc biệt. Alecxei về nhà dường như có ảnh hưởng đến y về mặt đạo lí ở con người già trước tuổi này, có cái gì từ lâu đã lụi tắt trong tâm hồn dường như bỗng thức tỉnh: “Con có biết không - Y thường chăm chú nhìn Aliosa và nói - con giống bà ấy, cái bà ngộ dại ấy mà.” Y gọi người vợ quá cố, mẹ Alecxei như vậy. Cuối cùng gia nhân Grigori chỉ cho Alecxei mộ “người ngộ dại”. Lão đưa anh ra nghĩa trang thành phố, và ở một góc xa tít, lão chỉ cho anh tấm bia mộ bằng gang rẻ tiền, nhưng chỉnh chu, có ghi cả tên tuổi, tước hiệu, năm mất của người quá cố, bên dưới thậm chí có đề bài thơ bốn câu đại loại như thứ thơ cổ thường thấy lên mộ người trung lưu. Điều đáng ngạc nhiên là tấm bia này do Grigori đặt. Chính lão bỏ tiền ra dựng tấm bia trên mộ người đàn bà “ngộ dại” đáng thương, sau khi đã rầy rà chủ nhiều lần về nấm mộ ấy và cuối cùng Fedor Pavlovich bỏ đi Odessa, thây kệ chẳng những là mồ mả, mà thậm chí mọi kỉ niệm của mình. Đứng trước mộ mẹ, Alecxei không biểu lộ sự thương cảm đặc biệt nào cả; anh chỉ cúi đầu ủ rũ lắng nghe câu chuyện nghiêm trang và phải lẽ của Grigori về việc dựng bia mộ, rồi bỏ đi không thốt lên lời nào. Từ đó, có lẽ thậm chí suốt năm anh không đến nghĩa trang lần nào. Nhưng các việc nhỏ nhặt ấy cũng đã tác động đến Fedor Pavlovich và tác động khá độc đáo. Y bỗng đem một nghìn rúp cũng vào tu viện để cầu nguyện cho linh hồn vợ mình, không phải người vợ thứ hai, mẹ Alecxei, “người ngộ dại”, mà là người vợ thứ nhất, Adelaida Ivanovna, người đã đánh đập y. Ngay chiều hôm ấy, y uống rượu say và thóa mạ các tu sĩ trước mặt Alecxei. Bản thân y không tin đạo chút nào, có lẽ cả đời y chưa từng thắp một cây nến trước tượng thánh. Những con người như thế đôi khi có những cơn bột phát kì lạ do những tình cảm bất ngờ và những ý nghĩ bất ngờ. Như tôi đã nói, y tự dưng phị hẳn ra. Mặt y hồi ấy trở thành một thứ bằng chứng lồ lộ về tính chất và thực chất cuộc đời đã qua của y. Ngoài những túi thịt chảy dài dưới cặp mắt nhỏ bé lúc nào cũng trâng tráo, nghi kị, giễu cợt cùng vô số nếp nhăn sâu hoắm trên khuôn mặt bé choắt nhưng béo múp, ẩn dưới cái cằm nhọn còn thây lẩy một cái hầu to tướng, nhung nhúc thịt và thuôn thuôn, như cái túi đựng tiền, khiến cho mặt y có vẻ dâm dật ghê tởm. Thêm vào đó còn có cái miệng rộng của loài thú ăn thịt với cặp môi mọng để lộ ra những mảnh nhỏ còn sót lại của hàm răng đen sì hầu như đã hư nát hết. Hễ bắt đầu nói là y phun nước bọt ra. Thế nhưng y thích pha trò về khuôn mặt của mình, mặc dù hình như y hài lòng về nó. Đặc biệt y thường trỏ cái mũi không to lắm, nhưng rất mảnh, sống gồ hẳn lên: “Cái mũi La Mã chính cống, - y nói - lại thêm cái yết hầu này thì mặt tôi đích thị là khuôn mặt của một nhà quý tộc La Mã thời suy tàn.” Hình như y lấy thế làm hãnh diện. Chẳng bao lâu sau khi tìm được mộ mẹ, Alecxei bỗng nói với bố ông anh muốn vào tu viện, các thầy tu sẵn lòng nhận anh vào. Anh giãi bày với bố rằng đây là nguyện vọng thiết tha nhất của anh và anh khẩn khoản xin bố trang trọng cho phép với tư cách là người sinh ra anh. Lão già biết rằng trưởng lão Zoxima lánh mình trong tu thất đã có ảnh hưởng đặc biệt đến “thằng bé hiền lành” của mình. - Vị trưởng lão đó cố nhiên là người ngay thẳng nhất trong các thầy tu ở đây. - Lão nói, sau khi đã yên lặng trầm ngâm nghe Aliosa, tuy nhiên lão hầu như không ngạc nhiên về điều cầu xin của con. - Hừm, thì ra con muốn vào đây, thằng bé hiền lành của ta! - Lão đã chếnh choáng hơi men và bỗng mỉm cười, nụ cười toét miệng, dở tỉnh dở say, nhưng không thiếu phần ranh mãnh và quỷ quyệt của con sâu rượu. - Hừm, thì ta cũng đã cảm thấy trước rằng cuối cùng rồi con sẽ đi đến cái nước ấy, con có thể tưởng tượng được không? Con đeo đuổi chí hướng ấy. Ừ thôi cũng được, con có hai ngàn rúp vốn riêng đây, còn ta không bao giờ bỏ rơi con, thiên thần của ta ạ, ngay bây giờ ta cũng sẽ góp cho con đủ số tiền cần thiết nếu người ta đòi hỏi. Nhưng nếu người ta không đòi hỏi thì tội gì, phải không? Con có tiêu gì nhiều, chẳng qua chỉ như con hoàng yến, mỗi tuần hai hạt là đủ! Hừm… Con ạ, ở gần tu viện đó có một xóm mà cả bàn dân thiên hạ đều biết là ở đấy chỉ toàn “vợ thầy tu”, người ta gọi họ như thế đấy, khoảng ba chục mống, ta ước chừng như thế… Ta đã đến đấy, kể cũng thú vị, tất nhiên là xét trong loại của nó, để đổi món cho đỡ ngán. Tệ cái là chỉ rặt của Nga, không có cô ả người Pháp nào, mà lẽ ra có thể có lắm chứ, bọn họ khối tiền. Đánh hơi thấy thì các ả ấy sẽ kéo đến. Còn ở đây thì không có gì, ở đây không có các vợ thầy tu, thầy tu có khoảng hai trăm. Tu hành chăm chỉ. Trai giới thực sự. Ta thừa nhận… Hừm… Thế ra con muốn đi tu à? Thế thì ta tiếc cho con, Alecxei ạ, thực đấy, không biết con có tin không, ta yêu con… Tuy vậy đây cũng là dịp thuận lợi: con sẽ cầu nguyện cho chúng ta, nhưng kẻ tội lỗi, chúng ta ở đây phạm quá nhiều tội lỗi. Ta vẫn nghĩ: rồi đây ai sẽ cầu nguyện cho ta? Trên đời có người nào như thế không? Con yêu dấu của ta về khoản ấy ta đần kinh khủng, có lẽ con không tin chứ gì? Đần kinh khủng. Này con ạ, về mặt đó, thì ta rất đần, nhưng ta cứ nghĩ suốt nghĩ suốt, thỉnh thoảng thôi, tất nhiên, không phải là luôn luôn. Ta nghĩ: nhất định quỷ sẽ dùng móc lôi ta đi khi ta qua đời. Nhưng ta lại nghĩ: móc ư? Chúng lấy đâu ra thứ đó. Làm bằng gì? Sắt ư? Rèn ở đâu? Chúng có một xưởng làm móc chắc? Có lẽ các tu sĩ ở viện cho rằng địa ngục có trần. Ta sẵn lòng tin là có địa ngục, miễn là nó không có trần: như vậy xem ra thanh nhã hơn, có văn hóa hơn, nghĩa là theo tinh thần đạo Lute(4). Thực ra thì có trần hay không cũng thế thôi chứ gì? Nhưng điều khỉ gió chính là ở chỗ đó! Này nhé, nếu như không có trần thì tức là cũng không có móc. Mà nếu không có móc thì tức là phèo hết, thế là lại không cách gì tưởng tượng nổi: ai sẽ lôi ta đi, bởi vì nếu ta không bị lôi đi thì còn quái gì lẽ phải trên đời này nữa chứ? Il faudrait les inventer(5), nhưng cái móc ấy, cốt để dùng cho ta, cho một mình ta thôi, bởi vì, Aliosa ạ, giá như con biết được ta là kẻ vô sỉ như thế nào…! (4) Lute Martin (1483-1546), một lãnh tụ cải cách tôn giáo, sáng lập đạo Lute, đạo Lute là một trào lưu thanh giáo, đặc điểm của nó chỉ là thừa nhận Kinh Thánh bác bỏ truyện thánh (N.D). (5) Tiếng Pháp trong nguyên bản, nghĩa là “phải bịa ra chúng”, đây là nhại câu nói nổi tiếng của Voltare: “Nếu không có Thượng đế thì phải bịa ra cho có.” - Vâng, ở đấy không có móc, - Aliosa chăm chú nhìn bố, khẽ nói một cách nghiêm trang. - Phải, phải, chỉ có bóng của những cái móc treo thôi. Ta biết, ta biết. Như một người Pháp đã miêu tả địa ngục: “Tôi đã thấy cái bóng của người đánh xe dùng cái bóng của chiếc bàn chải cọ cái bóng của cỗ xe.” Con yêu dấu của ta, làm sao con biết là không có móc? Khi nào đến ở với các thầy tu thì con sẽ hát giọng khác thôi. Mà thôi, đi đi, hãy tìm cho ra sự thật rồi về kể cho ta nghe: dù có sang thế giới bên kia cũng nhẹ nhõm hơn nếu biết chắc ở đó có cái gì. Vả lại con ở với các thầy tu sẽ đứng đắn hơn ở với lão già say rượu và một lũ gái non… mặc dù sẽ không có gì đụng được đến con vì con là đấng thiên thần mà. Có lẽ ngay ở đấy cũng sẽ không có gì đụng được đến con, chính bởi vậy mà ta cho phép con đi, vì ta hi vọng như thế. Con là người biết xét suy. Con sẽ cháy lên một thời gian rồi sẽ tắt, sẽ khỏi bệnh và trở về nhà. Ta sẽ đợi con: vì ta cảm thấy con là người duy nhất trên đời không kết tội ta, con yêu dấu của ta, ta cảm thấy điều đó mà, ta không thể không cảm thấy điều đó!… Thậm chí lão khóc rưng rức. Lão là người đa cảm, lão độc ác và đa cảm. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 1Chương 5 Có thể có độc giả tưởng rằng chàng trai của tôi là một bản chất bệnh tật, xuất thân kém phát triển, một anh chàng xanh xao mơ mộng, ốm o và gầy võ. Trái lại, Alecxei hồi ấy là một thanh niên mười chín tuổi dáng người cân đối, má hồng hào, dồi dào sức khỏe, có cái nhìn tươi sáng. Hồi ấy thậm chí anh rất đẹp trai, thon thả, tầm vóc vừa phải, tóc nâu sẫm, khuôn mặt hình trái xoan đều đặn tuy hơi dài, hai mắt màu xám sẫm cách nhau khá xa, long lanh, anh rất mực trầm tư và có lẽ là rất điềm tĩnh. Có lẽ người ta sẽ nói rằng hai má đỏ hồng không ngăn cản sự cuồng tín và đầu óc thần bí; nhưng tôi cho rằng Alecxei có óc thực tế hơn bất cứ ai khác. Ồ, cố nhiên sống ở tu viện anh hoàn toàn tin vào phép lạ, nhưng theo tôi phép lạ không bao giờ làm cho người có óc thực tế rối trí. Không phải phép lạ lái người có óc thực tế theo hướng tín ngưỡng. Một người đích thực là có óc thực tế nếu không tín ngưỡng, bao giờ cùng có đủ sức mạnh và khả năng không tin cả phép lạ, còn nếu phép lạ hiển hiện trước người đó như một sự kiện không thể chối cãi thì người đó sẽ nghi ngờ giác quan của mình hơn là chấp nhận sự kiện. Mà nếu có chấp nhận thì chỉ coi đó như một điều tự nhiên mà cho đến giờ mình chưa hề biết. Ở người có óc thực tế, tín ngưỡng không do phép lạ sinh ra, mà phép lạ do tín ngưỡng sinh ra. Nếu như người thực tế có tín ngưỡng thì do óc duy thực tế của y, nhất định y phải chấp nhận cả phép lạ. Sứ đồ Tom tuyên bố rằng ông không tin chừng nào ông chưa thấy, còn khi thấy rồi thì ông nói: “Lạy Chúa tôi và Chúa Trời của tôi!”(1) phép lạ đã khiến ông phải tin chăng? Nhiều phần chắc là không phải, ông tin chỉ vì ông muốn tin, có lẽ trong đáy lòng sâu kín ông đã tin hoàn toàn, ngay cả khi ông thốt lên: “Ta không tin chừng nào ta chưa thấy.” Có lẽ người ta sẽ nói rằng Aliosa ngờ nghệch kém phát triển, học hành dở dang, vân vân. Bảo anh học hành dở dang thì đúng, nhưng bảo anh ngờ nghệch và ngu ngốc thì rất là bất công. Tôi sẽ chỉ nhắc lại điều tôi đã nói ở trên: anh bước lên con đường ấy chỉ vì hồi đó duy có nó làm xáo động tâm tư anh và anh hình dung nó là con đường lí tưởng để tâm hồn đầy khát khao của anh thoát khỏi bóng tối, vươn tới ánh sáng. Nên nói thêm rằng anh là một chàng trai phần nào thuộc thời kì gần đây nhất của chúng ta, tức là bản chất chính trực, đòi hỏi sự thật, đi tìm sự thật và tin vào sự thật, và khi đã tin thì cần lập tức tham gia vào đó bằng tất cả sức mạnh tâm hồn, cần mau mau lập kì tích, nhất quyết muốn hi sinh tất cả cho kì tích đó, kể cả tính mạng. Tuy rằng bất hạnh thay, các chàng tôi ấy không hiểu rằng hi sinh tính mạng có lẽ là loại hi sinh nhẹ nhàng nhất trong nhiều trường hợp loại này, chẳng hạn hi sinh năm, sáu năm trong quãng đời thanh niên sôi nổi của mình cho việc học tập gian khổ, cho việc nghiên cứu khoa học, dù là để tăng gấp mười sức lực của mình nhằm phụng sự vẫn cái sự thật ấy và kì tích ấy mà anh ta yêu mến và muốn thực hiện - sự hi sinh như thế, đối với nhiều người trong bọn họ, hầu như hoàn toàn không vừa sức. (1) Gioan, XX Z8 (N.D). Aliosa chỉ chọn con đường trái ngược với mọi người, nhưng vẫn với lòng khao khát mau chóng lập kì tích như vậy. Một khi đã nghĩ chín và tin chắc rằng có linh hồn bất diệt và Thượng đế thì lẽ tự nhiên họ tự nhủ: “Ta muốn sống cho linh hồn bất diệt, ta không chấp nhận sự thỏa hiệp nửa vời.” Cũng hệt như vậy, nếu họ cả quyết rằng không có linh hồn bất diệt và Thượng đế thì lập tức họ sẽ trở thành người vô thần hay người xã hội chủ nghĩa (bởi vì chủ nghĩa xã hội không chỉ là vấn đề công nhận hay cái gọi là đẳng cấp thứ tư, nhưng chủ yếu là vấn đề vô thần, vấn đề biểu hiện thời nay của chủ nghĩa vô thần, vấn đề tháp Baben xây cất không có Thượng đế, không phải để từ dưới đất ngoi lên trời, mà để lôi trời xuống đất). Aliosa thậm chí cảm thấy rằng, cứ sống như trước thì thật kì lạ và không thể được. Đã có câu rằng: “Hãy đem cho hết mọi thứ và đi theo ta, nếu ngươi muốn được hoàn hảo.(2)” Aliosa tự nhủ: “Ta không muốn chỉ cho hai rúp thay vì cho tất cả, ta không muốn chỉ đi lễ thay vì “đi theo ta”. (2) Mathieu, XIX, 12 (N.D). Trong số nhưng kỉ niệm tuổi thơ, có lẽ kí ức vẫn còn lưu lại điều gì về tu viện ngoại ô của chúng tôi, có thể là mẹ đã đưa anh đến xem lễ. Có thể đây là ảnh hưởng của những tia nắng tà dương chênh chếch trước bức ảnh thánh mà người mẹ “ngộ dại” đã bồng anh dâng lên trước Đức Mẹ. Dáng vẻ trầm tư, anh về địa phương chúng tôi có lẽ chỉ để xem ở đây người ta cho tất cả hay chỉ hai rúp, và ở tu viện anh ta gặp vị trưởng lão ấy… Vị trưởng lão ấy, như tôi đã nói rõ ở trên, là trưởng lão Zoxima, nhưng ở đây nên nói vài lời về việc nói chung thế nào là “trưởng lão” trong các tu viện của chúng ta, đáng tiếc rằng trong lĩnh vực này tôi không có đủ thẩm quyền và không nắm chắc lắm. Tuy nhiên, tôi sẽ thử trình bày sơ qua chút ít. Thứ nhất, những người chuyên môn có thẩm quyền khẳng định rằng các trưởng lão và chế độ trưởng lão xuất hiện trong các tu viện Nga của chúng ta mới gần đây thôi, thậm chí chưa đến một trăm năm, trong khi đó tại phương Đông theo đạo chính thống, đặc biệt ở Xinai và Atox, chế độ ấy tồn tại đã hơn một nghìn năm. Có người cho rằng chế độ trưởng lão đã có ở nước Nga từ cổ xưa hay nhất định phải có, nhưng do nhưng tai biến của người Nga, họa Tarta, những cuộc biến loạn, việc đoạn tuyệt quan hệ trước kia với phương Đông sau khi Conxtantinopol bị chinh phục(3), thể chế ấy mai một ở nước ta và do đó không còn các trưởng lão nữa. Nó được khôi phục lại ở nước ta từ cuối thế kí trước nhờ nhà khổ tu vĩ đại (người ta gọi ông như vậy) Paixi Velitskovsky và các môn đệ của ông, nhưng cho đến hiện nay, sau ngót một trăm năm, vẫn chỉ một số ít tu viện có trưởng lão, thậm chí đôi khi việc lập trưởng lão gần như bị đàn áp vì đó là sự đổi mới chưa từng có ở Nga. Đặc biệt thể chế ấy ở nước Nga chúng ta rất thịnh đạt tại một hoang mạc trứ danh, Kozenskaia Optinnaia(4). (3) Conxtantinopol (nay là Istanlbul) bị Suntan Thổ Nhi Kì Mahometri chiếm năm 14S3 (N.D). (4) Một tu viện rất nổi tiếng, gần Kaluga (N.D). Nó được du nhập vào tu viện chúng tôi từ bao giờ và ai lập nên thì tôi không thể nói được, nhưng đã có ba trưởng lão kế chân nhau và trưởng lão Zoxima là người sau cùng, nhưng Cha đã gần kề miệng huyệt do yếu sức và ốm đau và người ta không biết sẽ tôn ai lên kế chân Cha. Đây là vấn đề quan trọng đối với tu viện chúng tôi, bởi vì cho đến lúc ấy tu viện chúng tôi chưa có gì đặc biệt nổi tiếng: ở đó không có các thánh cốt, cũng không có các tượng thánh mới phát hiện, cũng không có những kì tích lịch sử và công đức đối với tổ quốc. Tu viện thịnh đạt và nổi tiếng khắp nước Nga chính là nhờ các trưởng lão, chính là để được nhìn thấy và nghe các trưởng lão mà người hành hương từ khắp nước Nga vượt hàng ngàn dặm đường để về cùng chúng tôi. Vậy thế nào là trưởng lão? Trưởng lão là người thâu tóm tâm hồn và ý chí của người ta vào tâm hồn và ý chí của mình. Khi đã chọn trưởng lão là ta từ bỏ ý chí của mình và dâng nó cho đấng ấy để hoàn toàn chối bỏ bản thân. Kẻ chọn con đường này tình nguyện nhận cuộc thử thách ấy cái trường đời ấy với hi vọng rằng sau cuộc thử thách lâu dài sẽ vượt thắng được bản thân, làm chủ được bản thân đến mức rốt cuộc, nhờ sự vâng lời suốt đời, sẽ đạt được tự do hoàn toàn, nghĩa là tự do đối với chính mình, tránh được số phận của những kẻ cả đời không tìm được chính bản thân mình. Phát kiến đó, tức là thể chế trưởng lão, không phải chỉ trên lí thuyết, mà ở phương Đông nó nảy sinh từ kinh nghiệm thực tế đã có từ ngàn năm nay, bổn phận đối với trưởng lão không phải là “sự vâng lời” bình thường xưa nay vẫn có trong các tu viện Nga của chúng ta. Ở đây tất cả các tín đồ phải vĩnh viễn xưng tội với trưởng lão và mối liên hệ giữa người ràng buộc và người bị ràng buộc là không gì phá bỏ được. Chẳng hạn, người ta kể rằng có lần vào thời cổ xưa của Kito giáo, một người tập tu không vâng lời trưởng lão về một việc gì đó, ông ta bỏ tu viện ra đi, đến một nước khác, từ Syri sang Ai Cập. Ở đấy, sau những công tích lâu dài và vĩ đại, cuối cùng ông ta đã xứng dáng chịu sự hành hạ và nhận cái chết tuẫn đạo. Khi nhà thờ mai táng ông ta, bấy giờ đã được tôn sùng như một vị thánh, thì đúng lúc viên trợ tế hô lên: “Những người sắp nhập đạo hãy ra ngoài!”, cỗ quan tài mang thi hài người quẫn đạo bỗng rơi khỏi chỗ và bật ra khỏi nhà thờ, như thế ba lần. Cuối cùng người ta mới biết rằng vị thánh tuẫn đạo này đã phạm tội không vâng lời và lìa bỏ trưởng lão của mình trốn đi, vì vậy nếu không được trưởng lão giải tội thì không thể được tha thứ, dù đã có công tích khổ luyện cao cả. Chỉ khi vị trưởng lão được mời đến đã giải bỏ cho ông ta lời thề vâng lời thì mới chôn cất được. Cố nhiên đấy chỉ là truyền thuyết đời xưa, nhưng đây là chuyện thật mới xảy ra chưa lâu: một tu sĩ thời nay ẩn mình trong núi Aton, bỗng nhiên vị trưởng lão phán truyền cho ông ta rời khỏi nơi mà ông ta hết lòng yêu quý và coi là thánh địa, là nơi ẩn dật thanh vãng, để trước hết sang Jeruzalem chiêm bái các thánh địa, rồi trở về Nga, lên miền Bắc, vùng Sibir: “Chỗ của con là ở đấy chứ không phải ở đây.” Sửng sốt và đau buồn, thầy tu đến Conxtantinopol yết kiến Đại Giáo trưởng cầu xin Ngài giải bỏ cho lời thề vâng lời, nhưng vị chúa tể của thế gian trả lời rằng chẳng những Ngài, Đại Giáo trưởng không thể giải được lời thề ấy, mà trên thế gian này không có uy quyền nào làm được việc đó, ngoài chính vị trưởng lão đã nhận cho ông ta nguyện thề. Như vậy chẳng những trường hợp nhất định, thể chế ấy đem lại cho trưởng lão một quyền lực vô hạn và khó hiểu. Đấy là lí do vì sao trong nhiều tu viện định chế trưởng lão thoạt đầu gần như bị trấn áp. Thế nhưng các trưởng lão lập tức được dân gian hết sức tôn sùng. Chẳng hạn, người ta đổ đến tu viện chúng tôi, cả dân đen, và người quyền quý để sụp mình trước các trưởng lão, thổ lộ với họ những nghi ngờ, lội lỗi, đau khổ của mình và xin một lời khuyên hay lời răn bảo. Thấy thế, những kẻ chống đối các trưởng lão la lối lên - ngoài những lời buộc tội khác - rằng ở đây bí tích xưng tội bị hạ thấp một cách tùy tiện và nông nổi, tuy rằng việc người tập tu hay người thường không ngớt thổ lộ nỗi lòng với trưởng lão hoàn toàn không diễn ra như một bí tích. Tuy nhiên, cuối cùng định chế trưởng lão đã đứng vững và dần dần nhập vào các tu viện Nga. Kể ra các phương tiện cải hóa tinh thần đã có tự ngàn xưa và đã được thử thách đó nhằm giúp con người thoát khỏi sự nô lệ vươn tới tự do, tới sự hoàn diện đạo đức cũng vẫn có thể là con dao hai lưỡi, vì thế đôi khi đáng lẽ đem lại sự khuất phục và tự chủ hoàn toàn, nó lại đẩy người ta tới sự kiêu ngạo quái quỷ, nghĩa là tới xiềng xích chứ không phải tới tự do. Trưởng lão Zoxima khoảng sáu mươi nhăm tuổi, xuất thân từ tầng lớp địa chủ, hồi mới bước vào tuổi thanh niên đã đừng là quân nhân, là sĩ quan ở Kavkaz. Hẳn là Cha đã làm cho Aliosa cảm phục về một thiên khiếu đặc biệt nào đó của tâm hồn, Aliosa ở ngay trong trai phòng của trưởng lão. Cha yếu mến anh và cho anh ở với mình. Cần lưu ý rằng Aliosa hồi đó sống trong tu viện nhưng chưa hề bị ràng buộc gì, anh có thể đi đâu tùy ý nhiều ngày ròng, còn anh mặc áo thầy tu là do tự nguyện, để khỏi khác biệt với mọi người trong tu viện. Tuy cố nhiên chính anh cùng thích như thế. Có lẽ trí tưởng tượng non trẻ của Aliosa bị kích động mạnh bởi cái quyền lực và quang vinh không ngừng bao quanh vị trưởng lão của anh. Về trưởng lão Zoxima, nhiều người nói rằng sau bao nhiêu năm tiếp tất cả những ai đến thổ lộ nôi niềm với Cha, khao khát chờ mong Cha ban cho một lời khuyên hay một lời chữa lành bệnh, Cha đã tiếp nhận vào tâm linh mình vô vàn điều giãi bày kín đáo, những nỗi đau buồn, nhưng lời thú nhận, đến độ rốt cuộc Cha đã có được cái nhìn thấu suốt tinh tế khiến Cha thoạt trông mặt một người lạ đến gặp mình đã đoán ngay được người đó đến để làm gì, người ấy cần cái gì, thậm chí nỗi đau khổ nào đang giày vò lương tâm người đó, và Cha khiến cho người đến gặp mình phải ngạc nhiên, bối rối đôi khi gần như hoảng sợ vì Cha biết điều bí mật của họ trước khi họ thốt lên lời. Thế nhưng Aliosa nhận thấy rằng nhiều người, hầu như tất cả khi đầu tiên vào gặp riêng trưởng lão thì sợ hãi và lo lẳng, mà khi ra khỏi đó thì hầu như bao giờ cùng hớn hở vui sướng, khuôn mặt rầu rĩ nhất cũng ngời lên vẻ hạnh phúc. Còn một điều nữa khiến Aliosa ngạc nhiên lạ thường: trưởng lão hoàn toàn không nghiêm khắc, trái lại hầu như bao giờ cũng vui vẻ trong lúc giao tiếp. Các tu sĩ nói rằng Cha có lòng quyến luyến những người phạm tội nặng hơn, và người phạm tội nặng nhất là người Cha yêu mến nhất. Thậm chí đến tận cuối đời trưởng lão, vẫn còn nhưng tu sĩ thù ghét hay ghen tị với Cha, nhưng số người đó ít đi, và họ im hơi lặng tiếng, tuy rằng trong số họ có mấy nhân vật rất nổi tiếng và quan trọng trong tu viện, chẳng hạn một trong nhưng thầy tu già lão nhất, một người kiêng nói(5) vĩ đại, một người ăn kham phi thường. Nhưng dẫu sao thì tuyệt đại đa số hiển nhiên vẫn đứng về phía Cha Zoxima, trong đó rất nhiều người thậm chí còn yêu mến Cha nồng nhiệt và chân thành; một số người gắn bó với Cha gần như cuồng tín. (5) Tiếng Nga trong nguyện bán “motsalnik” nghĩa đen là “người im lặng” - người tu hành đã khấn nguyện suốt đời không nói năng gì vì lí do tôn giáo. Đây là một giáo phải cực kì cuồng tín trong đạo Chính giáo, giáo phải này xuất hiện ở tỉnh Tambov, chủ trương hoàn toàn cắt đứt sự giao tiếp với mọi người xung quanh để tìm sự “cứu rỗi” (N.D). Những người như thế nói thẳng, tuy không công khai lắm, rằng Cha là vị thánh, điều đó không còn nghĩ ngợi gì nữa, và thấy trước Cha sắp từ trần nay mai, họ chờ đợi những phép lạ diễn ra tức khắc và vinh quang lẫy lừng mà người quá cố để lại cho tu viện trong thời gian sắp tới. Cả Aliosa cũng một lòng tin vào pháp lực kì diệu của trưởng lão, cũng như anh một lòng tin câu chuyện về cỗ quan tài bay ra khỏi nhà thờ. Anh đã thấy nhiều người mang theo trẻ con hay người thân thích đau ốm đến cầu xin trưởng lão đặt tay lên họ và cầu nguyện cho họ, ít lâu sau họ trở lại có người trở lại ngay hôm sau, nước mắt chan hòa quỳ sụp trước trưởng lão tạ ơn Cha đã chữa lành người bệnh của mình. Có khỏi bệnh thật không hay chỉ là bệnh tự nhiên đỡ hơn, Aliosa không hề đặt câu hỏi ấy vì anh đã hoàn toàn tin vào sức mạnh tinh thần của thầy mình và quang vinh của thầy dường như là thắng lợi của anh. Trái tim anh rộn rực hẳn lên và cả gương mặt anh rạng rỡ khi trưởng lão ra gặp đám dân đen hành hương đông đảo đang chờ đợi Cha ở cổng tu viện, họ từ khắp nơi trong nước Nga đổ đến chỉ cốt để nhìn thấy trưởng lão và được Cha ban phước. Họ sụp xuống trước mặt Cha, khóc lóc, hôn chân Cha, hôn mảnh đất Cha đứng, kêu gào, phụ nữ giơ con lên trước mặt Cha, đưa những người bị bệnh “ngộ dại” đến. Trưởng lão nói với họ, đem những đoạn kinh ngắn cầu khẩn cho họ, ban phước rồi để họ về. Thời gian gần đây Cha cứ ốm luôn đến nỗi có khi không đủ sức ra khỏi phòng, và những người hành hương đôi khi phải chờ đợi đến mấy ngày ở tu viện. Aliosa không hề tự hỏi vì sao Cha được yêu mến như vậy, vì sao chỉ cần nhìn thấy mặt Cha là người ta sụp xuống và khóc vì cảm động. Ôi anh hiểu rất rõ rằng tâm hồn nhẫn nhịn của người bình dân Nga rã rời vì đời cần lao vất vả đầy rẫy đau thương, nhất là vì sự bất công và tội lỗi thường xuyên diễn ra cả trong nước cũng như khắp cõi thế gian, đối với tâm hồn ấy không có nhu cầu và sự an ủi nào mạnh hơn nhu cầu có được một chốn thiêng liêng hay một vị thánh để quỳ sụp xuống mà tôn sùng: “Nếu phần dành cho chúng ta là tội lỗi, dối trá và cám dỗ thì dẫu sao ở đâu đó trên trái đất này vẫn có một vị thánh, một đấng tối cao: đấng ấy nắm trong tay sự thật, đấng ấy biết sự thật, vậy là sự thật không tiêu vong trên trái đất này và rồi một ngày kia nó sẽ đến với chúng ta và ngự trị trên toàn cõi thế gian này, như Ngài đã hứa.” Aliosa biết rằng dân chúng cảm thấy chính như thế, thậm chí suy xét như thế, anh hiểu điều đó, còn về việc trưởng lão chính là vị thánh ấy, đấng gìn giữ sự thật của Thượng đế trong con mắt dân chúng thì anh không mảy may hồ nghi, anh cùng một lòng một dạ với những người dân quê khóc lóc kia, với những người vợ ốm của họ đang đưa con ra trình trưởng lão. Trong thâm tâm anh tin tưởng - có lẽ còn mãnh liệt hơn bất cứ ai khác trong tu viện - rằng trưởng lão sau khi tạ thế sẽ đem lại vinh quang phi thường cho tu viện. Nói chung thời gian gần đây, một niềm hân hoan nội tâm nồng nhiệt sâu sắc nào đó ngày càng rực cháy trong tìm anh. Anh không hề bối rối rằng vị trưởng lão này vẫn chỉ là một cá nhân lẻ loi. “Dù sao Cha là vị thánh, trái tim Cha có bí quyết đổi mới cho mọi người, có cái pháp lực cuối cùng sẽ thiết lập sự thật trên cõi thế gian, và mọi người sẽ đều thánh thiện, sẽ yêu mến nhau, sẽ không còn kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn, tất cả sẽ đều là con của Thượng đế và nước Chúa Kito thực sự sẽ đến.” Aliosa mơ ước trong lòng như vậy. Hình như việc cả hai anh đều về nhà đã gây ấn tượng hết sức mạnh đến Aliosa, từ trước đến nay anh chưa hề biết mặt họ. Anh bắt quan hệ với Dmitri Fedorovich nhanh hơn và thân hơn, tuy Dmitri về nhà sau người anh cùng mẹ với anh: Ivan Fedorovich. Aliosa rất muốn biết rõ Ivan, nhưng mặc dù Ivan ở nhà đã hai tháng và hai anh em gặp nhau khá thường xuyên, họ vẫn không sao thân nhau được: Aliosa thì trầm lặng, dường như chờ đợi cái gì, dường như ngượng ngùng cái gì không rõ, còn ông anh Ivan thì lúc đầu Aliosa nhận thấy hay nhìn mình hồi lâu bằng con mắt tò mò, nhưng chẳng bao lâu hình như Ivan cũng chẳng bận tâm gì đến em nữa. Nhận thấy điều đó, Aliosa hơi bối rối. Anh cho rằng Ivan thờ ơ là vì hai người chênh lệch về tuổi, đặc biệt về học vấn. Nhưng Aliosa cũng còn một ý nghĩ khác nữa: Ivan ít chú ý và ít thiện cảm với anh, như thế có lẽ còn do một điều gì mà anh hoàn toàn không biết. Không hiểu sao anh vẫn có cảm giác rằng Ivan mải lo một chuyện gì thuộc thế giới nội tâm và quan trọng, anh ấy đang nhắm một mục đích nào đó có lẽ rất khó khăn, thành thử chẳng bụng dạ đâu mà nghĩ đến em, và đây là nguyên nhân duy nhất khiến anh nhìn Aliosa một cách lơ đãng. Aliosa còn nghĩ: phải chăng đây là thái độ khinh miệt của một người vô thần thông thái đối với một gã tập tu ngờ nghệch. Aliosa biết mười mươi rằng anh mình là người vô thần. Sự khinh miệt ấy nếu có, cũng không thế khiến Aliosa oán hận được, nhưng có một cảm giác bối rối lo lắng mà chính anh cũng không hiểu nổi. Aliosa vẫn chờ đợi lúc Ivan muốn lại gần anh hơn nữa. Anh Dmitri Fedorovich tỏ ra hết sức kính trọng anh Ivan, nói về Ivan với giọng đặc biệt thiết tha. Qua Dmitri, Aliosa biết mọi chi tiết của các việc quan trọng kia trong thời gian gần đây đã làm cho hai anh gắn bó mật thiết với nhau. Sự thán phục của Dmitri đối với Ivan càng có ý nghĩa đặc biếc trong con mắt Aliosa vì so với Ivan thì Dmitri gần như vô học, và hai người ấy đặt cạnh nhau dường như tạo thành một sự đối lập nổi bật, cả về cá tính cũng như tính cách, đến nỗi có lẽ không thể tưởng tượng ra được hai con người khác nhau hơn thế. *** Chính trong thời gian ấy đã diễn ra cuộc hội kiến, hay nói cho đúng hơn là cuộc họp mặt tất cả các thành viên của cái gia đình hỗn độn ấy trong trai phòng của vị trưởng lão đã có ảnh hưởng kì lạ đối với Aliosa. Cái cớ cho cuộc họp mặt ấy thực ra chỉ là bịa đặt. Chính lúc bấy giờ sự bất đồng giữa Dmitri Fedorovich và bố chàng, Fedor Pavlovich, về quyền thừa kế và sự định giá tài sản có lẽ đã đến cực điểm. Quan hệ căng thẳng tới mức không thể chịu đựng nổi nữa. Hình như Fedor Pavlovich là người đầu tiên làm như bông đùa đưa ra ý kiến cả nhà họp mặt trong phòng của trưởng lão Zoxima, để tuy không nhờ đến sự hòa giải trực tiếp của Cha, mà vẫn có thể thỏa thuận với nhau một cách tử tế hơn, vì chức sắc và nhân cách của trưởng lão có thể khiến mọi người vị nể nên dễ dàn hòa hơn. Dmitri Fedorovich chưa bao giờ đến chỗ trưởng lão, thậm chí chưa từng thấy mặt Cha, nên cố nhiên chàng nghĩ rằng người ta muốn dùng trưởng lão để đe mình; nhưng bởi vì trong thâm tâm, chàng cũng tự trách mình thời gian gần đây đã nói nhiều điều quá quắt trong lúc cãi cọ với bố, nên chàng chấp nhận sự thách thức. Nhân tiện xin lưu ý rằng chàng không ở nhà bố như Ivan Fedorovich mà ở nơi khác tại đầu thành phố. Tình cờ Petr Alecxandrovich Miuxov thời gian này đang ở vùng chúng tôi cũng sốt sắng vồ lấy ý kiến ấy. Là một người theo chủ nghĩa tự do những năm bốn mươi và năm mươi, là người có đầu óc tự do và vô thần, có lẽ vì buồn tình, cũng có thể vì muốn tiêu khiển bông lông, ông dự phần đặc biệt trong việc này. Đột nhiên ông muốn xem tu viện và “vị thánh”. Bởi vì cuộc tranh chấp lâu năm của ông với tu viện vẫn tiếp tục và vụ kiện vẫn còn kéo dài - đấy là về chuyện phân chia địa giới đôi bên, về quyền đốn gỗ trong rừng và đánh cá trên sông gì gì đó - ông vội lợi dụng cơ hội này, lấy cớ rằng chính ông muốn dàn xếp với Cha viện trưởng: liệu có cách nào chấm dứt êm thấm cuộc tranh chấp giữa hai bên không? Vị khách có thiện ý, như vậy cố nhiên có thể được chú ý và được đến đón ân cần hơn một người đến thăm chỉ vì hiếu kì. Vì tất cả những lí do kể trên, trong tu viện người ta có thể nài xin trưởng lão tiếp họ: thời gian gần đây vị trưởng lão ốm đau gần như không rời khỏi phòng, và bởi vậy không tiếp ngay cả những khách thăm thường lệ. Cuối cùng trưởng lão chấp thuận và người ta đã định ngày. “Ai đã đặt ta vào địa vị phân xử cho họ?” - Cha chỉ mỉm cười nói với Alecxei. Được biết về cuộc gặp mặt đó, Aliosa rất bối rối. Trong số những người kiện cáo và tranh chấp nhau ấy, nếu có người nào có thể coi trọng cuộc hội họp này thì hiền nhiên chỉ có anh Dmitri. Còn hết thảy những người khác đến chỉ với ý định bông lông và có lẽ là xúc phạm đến trưởng lão. Aliosa hiểu như vậy. Ivan và Miuxov đến vì một sự hiếu kì. Có thể là hết sức thô thiển, còn ông bố đến có lẽ để làm trò hề và dựng nên một cảnh sân khấu gì đó. Ôi, Aliosa tuy không nói ra nhưng biết rõ bố mình lắm. Tôi xin nhắc lại, anh chàng hoàn toàn không chất phác như người ta tưởng. Anh chờ đến ngày đã định mà lòng nặng trĩu. Chắc chắn là trong thâm tâm anh thầm mong có cách nào chấm dứt tất cả những bất hòa ấy trong gia đình. Tuy nhiên anh lo nhất về trưởng lão; anh run sợ cho thầy, cho danh tiếng của thầy, sợ những điều xúc phạm đến thầy, nhất là những lời giễu cợt đặc biệt tinh tế, lễ độ của Miuxov, những câu lấp lửng cao ngạo của anh Ivan thông thái. Aliosa hình dung cất cả sự việc ấy như thế. Thậm chí anh muốn đánh liều báo trước cho trưởng lão, nói với thầy điều gì về những người có thể đến dự cuộc gặp gỡ này, nhưng anh nghĩ thế rồi lại thôi. Có điều, trước ngày đã định một hôm, anh nhờ một người quen của Dmitri nói hộ với anh mình rằng anh yêu anh mình lắm và mong anh làm đúng như đã hứa… Dmitri đâm ra nghĩ ngợi, bởi vì chàng chẳng làm sao nhớ được mình đã hứa gì với em, chàng chỉ viết thư trả lời rằng chàng sẽ gắng hết sức để đừng “đi đến chỗ đê mạt”, và tuy chàng kính trọng sâu sắc trưởng lão và anh Ivan, nhưng chàng tin chắc rằng người ta đặt cho chàng một cái bẫy hay một hài kịch nhơ nhuốc. “Tuy vậy, thà anh nuốt lưỡi anh đi còn hơn là nói điều gì thiếu tôn kính với bậc thánh nhân mà anh sùng mộ.” - Dmitri kết thúc lá thư của mình như vậy. Bức thư không làm cho Aliosa phấn chấn lắm. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 1 Hôm ấy là một ngày tuyệt đẹp, ấm áp và sáng sủa. Cuối tháng tám. Cuộc gặp gỡ với trưởng lão đã ấn định ngày là ngay sau buổi lễ cuối cùng, vào khoảng mười một giờ rưỡi. Nhưng khách không đến lúc làm lễ, mà đến lúc vừa tan lễ. Họ đi hai cỗ xe, cỗ thứ nhất sang trọng thắng hai con ngựa quý, chở Petr Alecxandrovich Miuxov với một người họ xa của ông, một người rất trẻ, trạc hai mươi tuổi, Petr Fomich Kalganov. Chàng thanh niên này đang chuẩn bị vào đại học. Không hiểu vì sao anh ta hiện ở nhà Miuxov, và Miuxov rủ rê anh ta ra nước ngoài, đến Zuric hay Jena để vào học ở đấy cho đến khi tốt nghiệp, anh ta vẫn chưa quyết định. Anh ta nom tư lự và dường như đãng trí. Mặt anh ta nom dễ ưa, vóc người rắn chắc, khá cao lớn. Luồng mắt anh ta đôi khi có vẻ đờ đẫn kì lạ: như tất cả những người hết sức đãng trí, đôi khi anh ta nhìn người khác chằm chằm hồi lâu mà chẳng thấy gì. Anh ta ít lời và hơi vụng về, nhưng có lúc - chỉ khi có hai người với nhau - anh ta bỗng nhiên lắm lời kinh khủng, sôi nổi, hay cười, đôi khi có trời biết anh ta cười cái gì. Nhưng sự phấn hứng của anh ta lụi tàn cũng nhanh chóng và đột ngột như khi nó xuất hiện. Anh ta ăn vận bao giờ cũng chỉnh tề, thậm chí trang nhã: anh ta đã có một số tài sản riêng và còn đang trông đợi sẽ có thêm gấp bội. Anh ta kết bạn với Aliosa. Trên cỗ xe thuê quá cũ kĩ, long sòng sọc nhưng rộng rãi, thắng một cặp ngựa già sắc hồng đốm xám, cách xe trước của Miuxov một quãng xa là Fedor Pavlovich và con trai ông ta là Ivan Fedorovich. Dmitri Fedorovich đã được báo cho biết giờ họp từ hôm trước nhưng đến muộn. Khách để xe cạnh bức tường vây, ở khu vực nhà khách và đi bộ vào cổng tu viện. Trừ Fedor Pavlovich, ba người còn lại hình như chưa bao giờ thấy một tu viện nào, còn Miuxov, ba mươi năm nay có lẽ không bước chân đến nhà thờ. Ông nhìn xung quanh với vẻ tò mò có phần cố ý tỏ ra hơi lỗ mãng. Nhưng đối với người có óc quan sát như ông thì ngoài nhà thờ và những nhà phụ cũng hết sức bình thường trong tu viện không còn cái gì đáng chú ý. Những người đi lễ về sau cùng đang ra, vừa đi vừa cất mũ và làm dấu thánh. Giữa đám bình dân cũng có những người thuộc tầng lớp cao hơn, hai ba bà mệnh phụ một viên tướng rất già: tất cả bọn họ đứng ở nhà khách. Một đám ăn mày lập tức vây lấy các vị khách của chúng ta, nhưng chẳng ai cho họ cái gì. Riêng có Pietr Fomich Kalganov lấy trong ví tiền mười kopek, vội vã và ngượng ngập - có trời biết tại sao lại như thế, giúi nhẹm cho một người đàn bà, nói nhanh: “Chia đều cho tất cả.” Những người cùng đi với anh ta chẳng ai để ý đến chuyện đó, vì vậy anh ta chẳng cần gì phải ngượng ngùng. Vậy mà thấy thế anh ta càng ngượng ngập hơn. Nhưng có một điều kì lạ: đáng ra người ta phải chờ đón họ, thậm chí có lẽ phải tỏ ra trịnh trọng một chút: một vị khách mới đây đã cúng cho tu viện một ngàn rúp, người kia là một điền chủ giàu có bậc nhất có thể nói là bậc học rộng tài cao mà tất cả các thầy tu phần nào lệ thuộc vào ông ta về quyền đánh cá trên sông, vì vụ kiện có thể dẫn đến tình thế ấy. Ấy thế mà không một nhân vật chính thức nào ra đón khách. Miuxov lơ đãng nhìn những bia mộ ở gần nhà thờ và toan đưa ra nhận xét rằng các thân chủ hẳn là phải trả giá đắt cho những bia mộ ấy mới được quyền chôn người nhà ở nơi “thiêng liêng” như thế này, nhưng ông im lặng: thói mỉa mai thông thường của người có đầu óc tự do gần như đã biến thành sự giận dữ. - Quái quỷ, biết hỏi ai ở đây bây giờ, thật chẳng ra thể thống gì cả… Phải giải quyết ngay đi thôi, đến là mất thời giờ. - Đột nhiên ông lẩm bẩm như nói một mình. Bỗng có một người đi tới, một người đàn ông đứng tuổi, hơi hói, mặc chiếc măng tô mùa hè to rộng, có cặp mắt nhỏ dịu dàng. Ông ta nhấc mũ lên, bằng một giọng nói đớt ngọt xớt tự giới thiệu mình là Maximov, một điền chủ ở Tula. Ông ta lập tức chia sẻ mối bận tâm của các vị khách. - Trưởng lão Zoxima ở tu xá, một nơi biệt tích, cách tu viện chừng bốn trăm bước, bên kia khoảnh rừng nhỏ, bên kia khoảnh rừng… - Thưa tôi cũng biết là ở bên kia khoảnh rừng, - Fedor Pavlovich trả lời ông ta. - nhưng tôi quên mất đường rồi, đã lâu lắm chúng tôi không đến đây. - Đi vào cái cổng này, rồi thẳng qua khoảnh rừng… qua rừng. - Chúng ta cùng đi. Xin mời… Chính tôi, tôi thân hành… Đi lối này, lối này… Họ qua cổng, vào rừng. Điền chủ Maximov khoảng chừng sáu mươi tuổi, ông ta không phải là đi mà đúng hơn là chạy lon ton ở phía bên, trân mắt nhìn tất cả bọn họ với vẻ tò mò riết róng, đến là khó thương. Mắt ông ta như lòi hắn ra. - Ông ạ, chúng tôi đến gặp trưởng lão có việc riêng, - Miuxov nói một cách nghiêm khắc. - Có thể nói là chúng tôi đã được phép vào yết kiến “nhân vật này”, vì thế chúng tôi cảm ơn ông đã dẫn đường, nhưng chúng tôi không mời ông cùng vào đâu. - Tôi đã vào rồi, tôi đã vào rồi mà… Un chevalier parfait.(1) (1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Một trang hiệp sĩ hoàn hảo (N.D). Và ông điền chủ phóng lên không trung một cái búng tay. - Ai là một chevalier?(2) (2) Ai là trang hiệp sĩ. - Trưởng lão, vị trưởng lão tuyệt vời… Danh dự và vinh quang của tu viện, Cha Zoxima. Một vị trưởng lão như thế… Lời lẽ lộn xộn của ông bị cắt quãng vì một thầy tu đã theo kịp các vị khách, người này đội mũ chùm, thấp bé, xanh mướt và gầy nhom. Fedor Pavlovich và Miuxov dừng lại. Thầy tu cúi chào lễ phép gần như rạp mình xuống và nói: - Thưa các vị, Cha viện trưởng khẩn khoản mời tất cả các vị đến dùng bữa với Cha sau khi thăm tu xá. Vào đủng một giờ, không muộn hơn. Xin mời cả ông nữa. - ông ta nói với Maximov. - Tôi nhất định sẽ đến! - Fedor Pavlovich kêu lên hết sức vui mừng vì lời mời ấy. - Nhất định. Mà thầy ạ. Tất cả chúng tôi đã hứa là sẽ cư xử đứng đắn… Còn ông, Petr Alecxandrovich, ông đến chứ? - Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây làm gì nếu không phải là để xem xét mọi nề nếp ở đây. Tôi chỉ ngại một điều là bây giờ tôi lại cùng đi với ông, Fedor Pavlovich ạ… - Vâng, Dmitri Fedorovich vẫn chưa có mặt. - Anh ta vắng mặt càng hay, thế ông tưởng tôi thích thú với cái chuyện lúng túng trong gia đình ông chắc, nhất là lại dính ông vào đây nữa? Chúng tôi sẽ đến dùng bữa, thầy nói hộ với Cha viện trưởng là chúng tôi có lời cảm tạ. - Ông nói với thầy tu. - Ồ không, tôi có nhiệm vụ đưa các ông đến chỗ trưởng lão. - Thầy tu đáp. - Nếu vậy thì tôi đến Cha viện trưởng, trong lúc đó tôi đến Cha viện trưởng. - Ông điền chủ lắp bắp. - Cha viện trưởng lúc này đang bận, nhưng xin tùy ông… - Thầy tu nói với vẻ lưỡng lự. - Lão già đến phiền rầy. - Miuxov nói to lên, khi ông điền chủ Maximov chạy trở lại tu viện. - Lão giống Fon Zon(3). - Fedor Pavlovich bỗng thốt lên. (3) Vụ án Fon Zon xử tại tòa án khu Peterburg ngày 18 và 19 tháng ba 1870, Fon Zon bị nhử vào một lưu manh ở trung tâm Peterburg, bị giết một cách dã man, của cải bị cướp sạch (N.D). - Ông thì chỉ được cái thế thôi… Giống Fon Zon cái gì nào? Ông đã chính mắt nhìn thấy Fon Zon rồi à? - Tôi đã xem ảnh ông ta. Tuy nét mặt không giống, nhưng vẫn có cái gì đó giông giống không thể cắt nghĩa được. Bản sao thứ hai y hệt Fon Zon. Điều đó thì chỉ nhìn mặt thôi bao giờ tôi cũng nhận ra. - Có thể về khoản đó thì ông thành thạo. Nhưng mà này, Fedor Pavlovich ạ, ban nãy ông vừa nhắc lại rằng chúng ta đây hứa sẽ cư xử lịch sự, nhớ lấy nhé. Tôi bảo ông đấy, hãy giữ gìn cẩn thận ông mà diễn trò hề thì tôi không có ý định để người ta coi tôi cùng một giuộc với ông đâu nhé… Ông xem, ông ta thế đấy! - Miuxov nói với thầy tu. - Tôi sợ phải cùng đi với ông ta đến những người tử tế. Cặp môi lợt lạt cắt không ra máu của thầy tu thoáng một nụ cười kín đáo, không phải không có phần ranh mãnh nhưng ông ta không nói gì, điều đó cho thấy quá rõ ràng ông ta im lặng vì tự trọng. Miuxov càng cau có hơn. “Ôi chao, quỷ xé xác tất cả bọn họ đi, chỉ là cái bề ngoài được đào luyện qua bao thế kỉ, chứ thực tế là lòe bịp và phi lí!” - ông thoáng nghĩ. - Tu xá đây rồi, đến nơi rồi! - Fedor Pavlovich reo lên. - Có tường bao quanh và cổng đóng kín. Ông ta khoa rộng tay làm dấu chữ thập trước những hình thánh vẽ trên cổng và bên cổng. - Vào tu viện khác thì phải bỏ lại quy pháp của mình. - Ông ta nói. - Ở tu xá này có cả thảy hai mươi nhăm vị thánh đang tìm sự cứu rỗi, họ nhìn nhau và ăn bắp cải. Và không một người đàn bà nào bước chân vào cửa này, đấy mới là điều phi thường. Quả có thể thật. Nhưng sao tôi nghe nói trưởng lão vẫn tiếp khách đàn bà nhỉ? - Ông ta nói với thầy tu. - Phụ nữ tầng lớp bình dân hiện giờ cũng đang có mặt ở đây đấy, kia kìa, họ nằm chờ ở bên hành lang. Còn các bà quý phái thì có hai phòng nhỏ ở ngay hành lang, nhưng bên ngoài bức tường vây, cửa sổ các phòng đó kia kìa, trưởng lão ra gặp họ bằng lối đi trong, khi Cha mạnh khỏe, nghĩa là vẫn ở ngoài bức tường. Lúc này có một phu nhân, bà điền chủ Khokhlakova ở Kharcov đang chờ đợi cùng với đứa con gái yếu đau của bà. Có lẽ Cha đã hứa sẽ ra tiếp, tuy gần đây Cha yếu hắn đi, phải gắng gượng lắm mới ra gặp mọi người được. - Vậy ra vẫn có ngách thông từ tu xá ra chỗ các bà? Xin đừng nghĩ rằng tôi có ý gì, thưa Đức Cha, ấy là tôi nói vậy thôi. Cha ạ, ở núi Atox, Cha có nghe nói đến không, chẳng những phụ nữ không được đến thăm, mà hoàn toàn không được có phụ nữ ở đấy thậm chí cả những con vật cái: gà mái, bò cái… - Fedor Pavlovich, tôi sẽ quay trở lại và bỏ mặc ông ở đây một mình, mà không có tôi thì người ta sẽ tống cổ ông ra khỏi cửa, tôi báo trước cho ông biết. - Tôi làm phiền gì ông nào, Petr Alecxandrovich. Ông xem kia. - Ông ta bỗng kêu lên, bước ra phía ngoài bức tường. - Xem kìa, họ sống giữa một thung lũng hoa hồng tuyệt chưa chứ! Quả vậy, tuy ở đây không có hoa hồng, nhưng có cơ man nào là hoa mùa thu loại hiếm và tuyệt đẹp ở tất cả những chỗ có thể trồng hoa được. Rõ ràng là có một bàn tay giàu kinh nghiệm chăm sóc hoa. Nhưng luống hoa ở bên trong các bức tường nhà thờ và giữa các nấm mồ. Ngôi nhà nhỏ trong đó có phòng của trưởng lão là ngôi nhà bằng gỗ, một tầng, có hành lang ở phía trước xung quanh cũng trồng hoa. Trước đây, hồi còn trưởng lão Varxonofi có được như thế này đâu nhỉ? Nghe nói trưởng lão trước không thích sự phong nhã, Cha có đôi khi nổi xung và dùng gậy đánh cả các quý bà, - Fedor Pavlovich vừa nói vừa lên bậc tam cấp. - Trưởng lão Varxonofi có những lúc như điên khùng thật đấy nhưng người ta cũng tuyên truyền nhiều chuyện vô lí. Cha không bao giờ dùng gậy đánh ai cả - Thầy tu trả lời. - Bây giờ xin các vị chờ cho một lát, tôi, vào báo trước. - Fedor Pavlovich, tôi đặt điều kiện lần cuối cùng, ông nghe đây! Hãy giữ thái độ đứng đắn, không thì sẽ biết tay tôi đấy, - Miuxov còn kịp nói nhỏ lần nữa. - Chẳng hiểu sao mà ông lo lắng đến thế? - Fedor Pavlovich nói với giọng chế nhạo. - Hay ông sợ tội lỗi? Người ta bảo trưởng lão chỉ nhìn vào mắt người ta là biết ngay ai đến với tâm tư thế nào. Nhưng sao ông coi trọng dư luận quá vậy, ông là dân Paris, là người tiên tiến cơ mà, ông làm tôi ngạc nhiên đấy! Nhưng Miuxov không kịp trả lời câu châm chọc cay độc ấy, họ được mời vào. Lúc bước vào, ông hơi cáu… “Hừ, ta biết trước mà, ta đang bực tức, rồi ta sẽ tranh cãi… ta sẽ nổi nóng và sẽ hạ thấp bản thân ta và tư tưởng của ta” - Ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu ông. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 2 Họ vào phòng gần như cùng một lúc với trưởng lão. Cha từ phòng ngủ đi ra. Trước đó, trong trai phòng đã có hai giáo sĩ ở tu xá đang chờ trưởng lão, một người là Cha thủ thư, người kia là Cha Paixi ốm yếu tuy chưa già, nghe nói là Cha rất thông thái. Ngoài ra còn một người nữa cũng đứng chờ trong góc phòng (và sau đó vẫn cứ đứng suốt) một chàng trai khoảng hai mươi hai tuổi mặc áo lễ thường phục, chủng sinh và là nhà thần học tương lai, được tu viện và giáo đoàn bảo trợ vì lí do gì không rõ. Anh ta khá cao, mặt tươi tắn, gò má cao, mắt nhỏ màu nâu nhạt, thông minh và chăm chú. Gương mặt lộ vẻ hết sức kính cẩn, nhưng vẫn đường hoàng, không ra dáng nịnh nọt. Anh ta thậm chí không cúi chào các vị khách vừa vào, vì không tự coi mình ngang hàng với họ, mà là kẻ thuộc hạ. Trưởng lão Zoxima ra cùng với một người tập tu và Aliosa. Các giáo sĩ đứng lên cúi gập mình chào, những ngón tay chạm đất, rồi nhận phước lành, hôn tay Cha. Ban phước xong, trưởng lão cũng gập mình đáp lễ từng người, ngón tay chạm đất và xin từng người ban phước cho mình. Toàn bộ nghi lễ ấy diễn ra hết sức trang nghiêm, hoàn toàn không như một lễ thức hàng ngày nào đó, mà gần như là đậm đã tình cảm. Tuy nhiên Miuxov có cảm giác rằng tất cả những cái đó là có dụng ý răn bảo. Ông đứng trước tất cả những người cùng vào với ông. Có một điều ông đã cân nhắc kĩ từ tối hôm qua, dù quan điểm tư tưởng thế nào đi nữa, song để giữ lễ (vì ở đây có tục lệ như thế), phải đến cho trưởng lão ban phước, ít nhất cũng nhận ban phước, nếu không hôn tay. Nhưng thấy các giáo sĩ cúi chào và hôn tay, ông tức khắc đổi ý: trịnh trọng và trang nghiêm, ông cúi chào rất lễ độ nhưng theo kiểu thế tục và đến chỗ ghế ngồi. Fedor Pavlovich cũng làm như thế, lần này thì bắt chước y hệt Miuxov như một con khỉ. Ivan Fedorovich cúi chào rất trịnh trọng và lễ độ nhưng hai tay vẫn để thẳng theo mép quần, còn Kalganov bối rối đến nỗi quên cả chào. Trưởng lão đã giơ tay lên toan ban phước liền hạ tay xuống, cúi chào họ lần nữa rồi mời mọi người ngồi. Máu dồn lên má Aliosa, anh xấu hổ. Linh cảm chẳng lành của anh đã thành sự thật. Trưởng lão ngồi xuống chiếc đi văng nhỏ bằng gỗ đỏ bọc da kiểu cách rất cổ, còn khách - trừ hai giáo sĩ - thì Cha mời ngồi ở phía tường đối diện, cả bốn người thành một dãy, trên bốn chiếc ghế bằng gỗ đỏ bọc da màu đen đã xơ xác lắm rồi. Các giáo sĩ ngồi hai bên, một người cạnh cửa ra vào, người kia cạnh cửa sổ. Anh chủng sinh, Aliosa và người tập tu vẫn đứng. Càn phòng chẳng rộng rãi chút nào và nom có vẻ ủ ê. Đồ vật và bàn ghế đều thô sơ, tồi tàn và chỉ là những thứ cần thiết nhất. Hai chậu hoa trên cửa sổ, trong góc có nhiều tranh thánh, một bức vẽ Đức Mẹ đồng trinh, kích thước rất lớn và có lẽ vẽ từ rất lâu trước cuộc li giáo(1). Trước bức tranh leo lét một cây đèn thờ. (1) Phái li giáo xuất hiện ở Nga vào giữa thế kỉ XVII; nó là trào lưu chống lại cuộc cải Cạnh bức tranh đó là hai bức tranh khác đóng trong những tấm khung lấp lánh, rồi cạnh đó là những thiên thần nhỏ thiếu vẻ tự nhiên, những quả trửng nhỏ bằng sứ, một cây thập giá bằng ngà voi với Materdolorosa(2) ôm lấy nó và mấy bức tranh khắc của các nghệ sĩ Ý vĩ đại ở các thế kỉ trước. Bên cạnh những tranh khắc duyên dáng và đắt tiền ấy là mấy bức in thạch bản kiểu dân gian Nga, họa hình các thánh, những bậc tuẫn đạo, các giáo sĩ thánh thiện có bán ở tất cả các chợ phiên với giá vài xu. Có mấy bức chân dung các tổng giám mục Nga thời nay và thời trước, nhưng ở các bức tường khác, Miuxov đưa mắt lượt nhanh một lượt tất cả những “lệ bộ” ấy, rồi chăm chú nhìn trưởng lão. Ông tự cho mình có con mắt tinh đời, đấy là chỗ yếu của ông, điều ấy dù sao cũng có thể tha thứ được, bởi lẽ ông đã ngoài năm mươi, cái tuổi mà một người thượng lưu thông minh và sung túc bao giờ cũng có ý thức tự tôn hơn, thậm chí đôi khi không chủ ý. cách của giáo chủ Nikon (1605-1681) (2) Tiếng Latin: Đức Mẹ đau xót. Thoạt đầu ông không ưa trưởng lão. Thật vậy, gương mặt trưởng lão có cái gì khiến nhiều người không ưa, chứ không chỉ riêng Miuxov. Đấy là một người tầm thước, lưng còng, chân rất yếu mới có sáu mươi lăm, nhưng bệnh tật làm cho nom già hơn nhiều, ít ra là già hơn đến mười tuổi. Khuôn mặt rất gầy, chi chít những nếp nhăn li ti, nhất là quanh mắt. Mắt không to, nhạt màu, nhanh và sáng, tựa như hai cái chấm long lanh. Tóc hoa râm chỉ còn lưa thưa ở hai bên thái dương, râu cằm nhỏ và thưa, nhọn hoắt, đôi môi thường xuyên mỉm cười, mảnh như hai sợi dây. Mũi không dài, nhưng nhọn như mỏ chim. “Mọi dấu hiệu đều cho thấy đây là một tâm hồn ác độc, nhỏ nhen và hợm hĩnh.” - Miuxov thoáng nghĩ. Nói chung ông rất bực với chính mình. Tiếng chuông đồng hồ giúp cho họ bắt đầu câu chuyện. Chiếc đồng hồ quả lắc nhỏ, rẻ tiền treo trên tường điểm nhanh một hồi mười hai tiếng. - Đến giờ rồi, - Fedor Pavlovich kêu lên, - vậy mà thằng Dmitri Fedorovich nhà tôi vẫn chưa có mặt. Thay mặt nó tôi có lời xin lỗi, thưa trưởng lão thánh thiện! (Aliosa run bắn cả người lên vì mấy tiếng “trưởng lão thánh thiện”). Tôi thì khi nào cũng đúng giờ, từng phút một vì tôi luôn luôn nhớ rằng đúng giờ là lễ độ của bậc vương giả… - Nhưng dù sao ông cũng không phải là vua. - Miuxov làu bàu, không nén nổi nữa. - Vâng, đúng thế, không phải là vua. Mà ông tưởng tượng xem, Petr Alecxandrovich ạ, chính tôi cũng biết như thế, thề có trời! Thế mà tôi chẳng bao giờ chữa được cái thói nói năng bộp chộp! Trình Cha! - ông ta thốt lên bằng một giọng phút chốc đầy cảm hứng. - Trước mặt Cha đây là một thằng hề, một thằng hề đích thực! Tôi xin tự giới thiệu như thế. Một thói quen cũ, than ôi! Còn đôi khi tôi nói dóc không đúng lúc thì đấy là có chủ ý, cốt để pha trò và làm cho mình trở nên dễ thương. Cần phải dễ thương, phải không ạ? Bảy năm trước tôi đến một thị trấn nhỏ có chút việc lặt vặt, thế là tôi kết bạn với mấy tay buôn cò con. Tôi đến ông ixpravnic(3) có việc nhờ vả ông ta và mời ông ta đến đánh chén với chúng tôi. Ông này cao lớn, to béo, tóc vàng hoe, cau có, té ra ông ta thuộc loại người nguy hiểm nhất trong những trường hợp như thế này: loại người có bệnh gan, đau gan. Tôi đến gặp thẳng ông ta, và các vị ạ, tôi giữ thái độ suồng sã kiểu thượng lưu: “Ông ixpravnic ạ, ông hãy là Napravnic(4) của chúng tôi nhé!” “Napravnic là cái gì?”, ông ta nói. Tức thì tôi thấy ngay việc không xuôi rồi, ông ta vẫn nghiêm nghị, tôi không bỏ cuộc: “Tôi muốn bông đùa một chút thôi mà, sao cho mọi người cùng vui, ông Napravnic là nhạc trưởng trứ danh người Nga của chúng ta, mà muốn cho việc làm ăn của chúng tôi có nhịp điệu hài hòa thì chúng tôi cần có ông, đại loại như một nhạc trưởng ấy mà…” Tôi giải thích và so sánh có lí đấy chứ, phải không ạ? “Xin lỗi, tôi là ixpravnic và tôi không cho phép ai dùng chức tước của tôi để chơi chữ,” - ông ta nói, rồi quay người bỏ đi. Tôi chạy theo ông ta, lớn tiếng nói: “Vâng, vâng, ông là ixpravnic chứ không phải là Napravnic.” Các vị ạ, công việc của chúng tôi thế là hỏng! Tôi thì vẫn cứ thế, bao giờ cũng thế đấy. Tôi cứ tự làm hại mình do nhã ý của mình! Nhiều năm trước, có lần tôi nói với một nhân vật có thế lực: “Bà nhà có máu buồn”(5), ý tôi định nói là nhạy cảm về mặt danh dự, về đạo đức, vậy mà ông ta bỗng hỏi lại tôi: “Ông đã cù bà ấy rồi à?” Tôi không nén được đột nhiên tôi nghĩ: ta hãy tỏ ra dễ thương: “Vâng, cù rồi ạ!” Thế là ông ta cù cho tôi một trận ra trò… Chuyện ấy xảy ra đã lâu lắm rồi, vì vậy tôi có kể lại cũng không xấu hổ; tôi vẫn cứ mãi mãi làm hại mình như thế! (3) Ixpravnic - cảnh sát hương thôn thời Nga hoàng (N.D). (4) E.F. Napravnic (1839-1916) - nhà soạn nhạc và là người chỉ huy dàn nhạc opera Peterburg. (5) Tiếng Nga “siokotlivi” nghĩa đen là “có máu buồn”, nghĩa bóng là “dễ chạm nọc” (N.D). - Thì bây giờ ông cũng đang làm như thế đấy! - Miuxov làu bàu với vẻ gườm ghét. Trưởng lão lẳng lặng nhìn người này rồi người kia. - Vậy ư? Ông có tưởng tượng được không, tôi cũng biết thế mà, ông Piotr Alecxandrovich ạ, và ông nên biết, thậm chí tôi linh cảm thấy rằng tôi đang làm gì ngay khi vừa mở miệng ra, mà ông ạ, thậm chí tôi linh cảm thấy rằng ông sẽ là người chỉ trích tôi trước tiên. Những lúc ấy, khi tôi thấy lối bông đùa của tôi không ăn khách thì trình Cha, miệng tôi khô đi đến nỗi hai má dính vào lợi dưới, gần như lên cơn co giật. Tôi như thế từ hồi còn trai trẻ kia, hồi ấy tôi sống bám vào giới quý tộc, tôi kiếm miếng bánh bằng cách đó. Tôi là thằng hề chính cống, bẩm sinh, trình Cha, thì cũng như một thánh hài(6) ấy mà. Tôi không chối cãi rằng có lẽ quỷ nhập vào tôi, nhưng là loại quỷ cỡ nhỏ thôi, nếu là cơ quan trọng hơn thì nó đã chọn nơi trú ngụ khác, song không chọn ông đâu. Petr Alecxandrovich, vì bản lân ông cũng chẳng đáng giá gì lắm. Nhưng tôi tin Thượng đế - chỉ gần đây tôi mới ngờ vực, nhưng bây giờ thì tôi ngồi đây chờ nghe những lời cao cả. Trình Cha, tôi như nhà triết học Didero(7) vậy. Trình Cha thánh thiện, hẳn Cha biết thời nữ hoàng Ekaterina nhà triết học Didero đã đến gặp Đại Giáo chủ Platon(8), vừa vào ông ta nói thẳng luôn: “Không có Thượng đế.” Vị giáo chủ liền giơ một ngón tay lên và trả lời: “Thằng điên tự nhủ với lòng rằng không có Thượng đế!” Didero liền sụp ngay xuống chân Ngài: “Tôi tin,” - ông ta la lên, - “tôi xin nhận phép rửa tội.” Thế là người ta làm lễ rửa tội cho ông ta ngay tại đấy. Nữ công tước scova làm mẹ đỡ đầu, còn Pochomkin làm cha đỡ đầu(9)… (6) Nguyên văn tiếng Nga “iuropui”, chỉ thầy tu khổ hạnh điên hoặc giả vờ điên, có tài tiên tri (N.D). (7) Didero Đen (1713-1784), nhà văn, nhà triết học duy vật người Pháp. (8) Đức Giáo chủ ở Moskva (1737-1812) (N.D). (9) scova Ekaterina Romanovna (1743-1810) là phụ tá thân cận của Ekaterina trong cuộc đảo chính cung đình năm 1762. Dưới thời Ekaterina, bà đã từng là có thể Viện Hàn lâm Nga, đã gặp Didero. Pochomkin Grigori Alecxandrovich (1739- 1791), nhà quân sự và chính khách Nga, súng thần của Ekaterina (N.D). - Fedor Pavlovich, thật không thể chịu nổi! Chính ông cũng biết rằng ông nói dối, rằng cái chuyện tiếu lâm dớ dẩn ấy không đúng sự thực, ông vờ vĩnh như thế để làm gì? - Miuxov nói, giọng run run, không làm sao bình tĩnh được nữa. - Suốt đời tôi linh cảm thấy đó là điều sai sự thật! - Fedor Pavlovich say sưa kêu lên. - Thưa các vị, tôi xin nói hết sự thật. Thưa trưởng lão cao cả! Xin thứ lỗi cho tôi, đoạn cuối, chuyện rửa tội cho Didero là tôi vừa mới bịa ra đấy, vừa nãy thôi, như tôi đã kể ấy, còn trước đây tôi không hề nghĩ đến. Tôi bịa ra cho câu chuyện thêm mặn mà. Tôi vờ vĩnh như thế, Petr Alecxandrovich ạ, là để cho mình thêm có duyên mà. Tuy vậy đôi khi chính tôi cũng chẳng hiểu để làm gì. Còn về Didero thì cái chuyện “Thằng điên đã nói” ấy, tôi được nghe các điền chủ ở đây kể lại có đến hai chục lần, hồi tôi còn trẻ và sống ở nhà họ. Với lại tôi cũng nghe được chuyện ấy ở bà Mavra Fominisna dì của ông nữa đấy, ông Petr Alecxandrovich ạ. Tất cả bọn họ cho đến giờ vẫn tin chắc rằng ông Didero vô thần đến Đại Giáo chủ Platon để tranh luận về Thượng đế… Miuxov đứng lên, không những không kiên nhẫn được nữa, mà dường như mất tự chủ. Ông điên lên và biết rằng như thế chính ông đâm ra kì cục. Thực vậy, trong phòng đã xảy ra một việc không thể dung thứ được. Có đến bốn năm chục năm nay, từ thời các trưởng lão trước, khách khứa vẫn tụ tập trong căn phòng này, nhưng bao giờ cũng rất mực sùng kính, không bao giờ khác. Tất cả những ai được vào đây đều hiểu rằng đây là một ân huệ lớn đối với họ. Nhiều người quỳ xuống và cứ quỳ như thế suốt buổi viếng thăm. Nhiều nhân vật “cao sang”, thậm chí cả những người cực kì thông thái, lại cả một số người có tư tưởng tự do đến vì tò mò hay vì lí do khác, khi vào phòng tu cùng với mọi người hay được tiếp riêng, đều coi bồn phận trước hết của mình, không trừ một ai, là phải hết sức kính cẩn và tế nhị suốt trong buổi tiếp, nhất là ở đây không có chuyện tiền nong, mà chỉ có tình yêu và ân huệ từ một phía, còn phía kia là sự sám hối và niềm khao khát giải quyết một vấn đề khó khăn của tâm hồn hay một điều nan giải trong đời sống tình cảm riêng tư. Vì vậy, cái trò hề mà Fedor Pavlovich đột ngột giở ra, thái độ bất kính của ông ta đối với nơi này khiến cho những người có mặt tại đây, ít nhất là một số người trong bọn họ, phải băn khoăn và ngạc nhiên. Các giáo sĩ tuyệt nhiên không thay đổi vẻ mặt, nghiêm trang chăm chú chờ xem trưởng lão nói gì, nhưng dường như họ cũng đã sẵn sàng đứng như Miuxov. Aliosa muốn khóc: anh vẫn đứng, đầu cúi xuống. Điều anh cảm thấy lạ lùng nhất là anh Ivan Fedorovich, người duy nhất mà anh hi vọng, người duy nhất có thể dùng ảnh hưởng của mình ngăn bố lại - lúc này vẫn cứ ngồi không nhúc nhích trên ghế, gằm mặt xuống, rõ ràng là tò mò chờ xem chuyện này kết thúc ra sao, như thể anh hoàn toàn là người ngoài cuộc. Rakitin (chủng sinh) là chỗ rất quen biết và gần như thân với Aliosa, và Aliosa cũng không dám nhìn anh ta: anh biết rõ ý nghĩ của anh ta (tuy trong cả tu viện chỉ có Aliosa biết những ý nghĩ ấy). - Thứ lỗi cho tôi, - Miuxov nói với trưởng lão. - Có lẽ Cha tưởng rằng tôi cũng dự phần nào cái trò hề đốn mạt này. Sai lầm của tôi là tôi đã tin rằng ngay cả một người như Fedor Pavlovich cũng hiểu được bổn phận của mình khi đến hầu chuyện một người đáng kính ấy… Tôi không ngờ rằng tôi sẽ phải xin lỗi chính vì đã cùng vào với ông ta… Petr Alecxandrovich không nói hết, và hết sức ngượng ngập, ông ta ra khỏi phòng. - Đừng bận tâm, tôi xin ông… - Trưởng lão bỗng đứng lên bằng đôi chân yểu ớt của mình, cầm lấy hai tay Petr Alecxandrovich kéo ông lại ngồi xuống ghế. - Xin cứ yên tâm. Tôi khẩn khoản xin ông cứ là khách của tôi. - Và Cha cúi chào, quay trở về chiếc đi văng của mình. - Thưa trưởng lão cao cả, Cha cho biết tính bộp chộp của tôi có làm Cha phật ý không ạ? - Fedor Pavlovich bỗng hét toáng lên, hai tay nắm lấy tay ghế bành, như sẵn sàng nhảy chồm ra tùy theo câu trả lời. - Tôi khẩn khoản xin ông đừng bận tâm và đừng ngại. - Trưởng lão nói với ông ta bằng giọng uy nghiêm… - ông đừng ngại, cứ coi như ở nhà mình. Cần nhất là đừng xấu hổ quá đáng về bản thân mình, bởi vì mọi sự đều do đó mà ra cả. - Cứ như ở nhà à? Nghĩa là cứ tự nhiên à? Ồ, như vậy thì khí quá đấy, quá đáng đấy, nhưng tôi lấy làm cảm kích mà vâng theo ý Cha! Nhưng thưa Đức Cha đầy ơn phúc, Cha đừng khuyến khích tôi cứ tự nhiên. Cha chớ nên liều lĩnh… Mà chính tôi cũng sẽ không làm quá như thế đâu. Đấy là để giữ gìn cho Cha thôi, tôi bảo trước đấy. Thôi được, tất cả những gì tiếp theo vẫn còn chìm trong bóng tối, chưa biết rõ ra sao, tuy rằng một số người đã muốn bôi vẽ mặt cho tôi. Ấy là tôi nói về ông đấy, Petr Alecxandrovich ạ, còn với Đức Cha thánh thiện, tôi xin thưa: tôi tràn trề phấn khởi! - ông ta nhổm dậy, giơ hai tay lên - Phước cho cái bụng đã mang thai ngươi và đôi vú đã cho ngươi bú, đặc biệt là đôi vú! Ban nãy Cha vừa răn tôi: “Đừng quá xấu hổ về bản thân mình, bởi vì mọi sự đều do đó mà ra cả.” Câu đó như đâm xuyên vào tôi, Cha đã đọc thấu ruột gan tôi. Chính thế, khi đến với mọi người, tôi cứ luôn luôn có cảm giác rằng tôi là kẻ đê mạt nhất và mọi người đều coi tôi là thằng hề, đã thế thì “ta sẽ làm hề thực cho mà xem, ta không sợ dư luận của các người, vì tất cả các người, không trừ một ai, đều đê mạt hơn ta!” Bởi thế tôi mới là thằng hề, vì xấu hổ mà tôi thành thằng hề, ấy là vì xấu hổ. Chỉ vì đa nghi mà tôi khuấy đảo. Giả như tôi tin chắc rằng khi tôi đến, mọi người đều lập tức coi tôi là người thông minh nhất và dễ thương nhất thì trời ơi! Khi ấy tôi sẽ là người tốt biết bao. - Thưa thầy! - ông ta bỗng quỳ xuống. - Tôi phải làm gì để được hưởng đời sống vĩnh cửu? - Ngay cả lúc này cũng khó mà đoán chắc là ông ta đùa hay cảm động thực? Trưởng lão ngẩng lên nhìn ông ta, và mỉm cười nói: - Chính ông cũng biết từ lâu là phải làm gì, ông có đủ trí khôn: đừng say sưa rượu chè và đừng nói năng không dè lời, đừng ham mê sắc dục, nhất là đừng hám tiền, hãy đóng cửa các quán rượu của ông, nếu không đóng cửa hết được thì ít ra cũng hai - ba cái. Mà cái chính, điều căn cốt nhất là đừng nói dối. - Tức là về chuyện Didero chứ gì? - Không phải về chuyện Didero. Cái chính là đừng tự dối mình. Kẻ tự dối mình và nghe lời dối trá ấy thường đi đến chỗ không phân biệt được sự thật ở bản thân mình và xung quanh nữa, thế là họ, không còn tôn trọng cả bản thân mình và người khác. Một khi không tôn trọng ai thì cũng không còn yêu ai nữa, không còn tình yêu, họ dấn mình vào những đam mê và những thú vui thô lậu để khỏi trống rỗng và để giải trí, dần dần với những thói xấu của mình, họ rơi xuống hàng súc vật, tất cả là vì họ luôn luôn dối người và dối mình. Kẻ dối mình là kẻ dễ oán giận trước tiên. Bởi vì oán giận đôi khi cũng rất dễ chịu, phải không? Có người biết rằng không ai xúc phạm mình, rằng xúc phạm là do y bịa đặt ra và vẽ vời thêm, tự y phóng đại lên cho thành chuyện, y bám lấy một lời nói và biến hạt đậu thành quả núi - chính y biết thế, nhưng y vẫn cứ là người trước nhất oán giận, oán giận đến độ thích thú, đến mức cảm thấy hết sức khoái trá và vì vậy đi đến chỗ oán thù thật sự… Nhưng ông đứng dậy, ngồi lên ghế đi, tôi khẩn cầu ông đấy, bởi vì tất cả những trò đó cũng là điệu bộ giả dối… - Hỡi người đầy ơn phúc! Xin đưa tay cho tôi hôn. Chính thế, chính thế, oán giận thật là điều thích thú. Cha nói hay quá, tôi chưa từng nghe ai nói như thế. Chính thế, đúng là suốt đời tôi vẫn hay oán giận đến độ thích thú, oán giận do nhu cầu thẩm mĩ, bởi vì bị xúc phạm chẳng những thích thú, mà đôi khi còn đẹp đẽ nữa - đây là điều thầy quên, thưa trưởng lão cao cả - đẹp đẽ! Điều này tôi sẽ ghi vào sổ tay! Còn nói dối thì dứt khoát là suốt đời tôi đã nói dối, hàng ngày hàng giờ. Tôi đích thực là sự dối trá và là cha của sự dối trá! Nhưng có lẽ tôi không phải là cha của sự dối trá, tôi cứ luôn luôn lẫn lộn, tôi là con của sự dối trá, thế cũng đủ rồi. Có điều… Thưa thầy, đấng thiên thần của tôi… đôi khi cũng có thể kể chuyện bịa về Didero! Didero không làm hại ai, nhưng có những lời có thể làm hại. Thưa trưởng lão cao cả, tiện đây xin thưa, có một điều tôi quên mất, đã hơn hai năm nay tói quyết ý đến đây hỏi một chuyện, đến đây hỏi cho rõ thực hư, nhưng xin thầy bảo Petr Alecxandrovich đừng có ngắt lời tôi. Tôi xin hỏi: thưa Đức Cha cao cả, có phải là trong Treti-minei(10) có kể câu chuyện một vị thánh có phép thần thông bị hành hạ vì việc đạo, cuối cùng ông ta bị chặt đầu, ông ta đứng dậy, nâng đầu mình lên và “nhã nhặn hôn cái đầu”, ông ta giữ nó trong tay, đi một lúc lâu và “nhã nhặn hôn nó”. Có phải thế không, thưa các Cha chính trực? (10) Treti-minei (tiếng Hy Lạp là menaia, có nghĩa là hàng tháng): bộ sách của nhà thờ có sự tích các thánh theo thứ tự các ngày tưởng niệm, những bài hát lễ, nhưng lời răn dậy, những chuẩn tắc, những bài cầu nguyện cho từng ngày trong tháng và cho cả năm, bộ sách này xuất hiện vào thế kỉ XII (N.D). - Không, không đúng. - Trưởng lão nói. - Trong tất cả các Treti-minei không có chuyện nào như thế cả ông nói về vị thánh nào, sách có viết như thế ư? - Cha thủ thư hỏi. - Thánh nào tôi không biết. Tôi chẳng rõ nữa. Tôi bị đánh lừa. Tôi nghe người ta kể. Cha có biết ai kể không? Chính ông Petr Alecxandrovich Miuxov đây này, ông ấy ban nãy đã nổi cáu về chuyện Didero, vậy mà chính ông ấy kể chứ ai. - Tôi không bao giờ kể chuyện ấy với ông, tôi chẳng nói chuyện với ông bao giờ cả. - Đúng thế ông không kể với tôi; nhưng ông kể trong một cuộc vui trong đó có tôi, hơn ba năm nay rồi. Tôi nhắc đến nó vì câu chuyện buồn cười của ông đã làm lung lay đức tin của tôi, ông Petr Alecxandrovich ạ. Ông không biết, chứ tôi trở về nhà mà lòng tin lung lay và từ đó tôi ngày càng lảo đảo hơn. Đúng, ông Petr Alecxandrovich ạ, ông là nguyên nhân gây ra sự sa ngã lớn lao! Đây không còn là chuyện Didero nữa! Fedor Pavlovich nổi nóng một cách bi thiết, tuy mọi người thấy rõ mười mươi là ông ta lại đóng kịch. Nhưng Miuxov vẫn bị châm đau. - Vô lí quá, toàn là chuyện vô lí. - ông ta làu bàu. - Có lẽ hồi nào tôi có nói thực đấy… nhưng không nói với ông. Chính tôi cũng nghe lại. Tôi nghe chuyện đó ở Paris, một người Pháp nói rằng đâu như ở nước ta người ta đọc đoạn ấy trong Treti-minei vào buổi lễ… ông ta là người rất thông thái, chuyên nghiên cứu về thống kê của nước Nga… đã từng ở Nga lâu… Bản thân tôi không đọc Treti-minei… và sẽ không đọc… Thiếu gì chuyện người ta vui miệng nói trong bữa ăn?… Lúc ấy là trong bữa ăn… - Vâng, các ông ăn, còn tôi thì mất đức tin! - Fedor Pavlovich nhại. - Tôi bận tâm gì đến đức tin của ông! - Miuxov toan quát lên, nhưng ông bỗng nén được, chỉ nói bằng giọng khinh miệt. - Đúng là ông bôi bẩn tất cả những gì ông chạm vào. Trưởng lão đột nhiên đứng dậy. - Xin lỗi các vị, tôi vắng mặt chỉ một lát thôi. - Trưởng lão nói với khách. - Người ta đợi tôi từ trước khi các vị đến kia. Còn ông dù sao cũng đừng nói dối. - Gương mặt vui vẻ, Cha nói thêm với Fedor Pavlovich. Trưởng lão ra khỏi phòng, Aliosa và người tập tu đâm bổ theo để đỡ Cha xuống thềm. Aliosa nghẹt thở, anh vui sướng được rời khỏi nơi đây, nhưng còn vui sướng vì thầy không bực bội và vẫn vui vẻ. Trưởng lão ra hành lang để ban phước cho những người đang chờ mình. Nhưng Fedor Pavlovich vẫn cứ giữ được Cha lại ở cửa. - Người đầy ơn phúc! - ông ta kêu lên giọng chứa chan tình cảm, - cho phép tôi hôn tay Cha lần nữa! Với Cha thì vẫn còn nói chuyện được, có thể sống được! Cha tưởng rằng xưa nay tôi vẫn nói dối và làm hề như thế sao? Trình Cha, vừa nãy là tôi xem có thể sống với Cha được không. Xem sự khiêm nhường của tôi có chỗ đứng bên cạnh sự kiêu hãnh của Cha không. Tôi xin cấp cho Cha tấm bằng khen: có thể sống với Cha được! Còn bây giờ tôi không nói nữa, tôi sẽ im lặng suốt. Bây giờ đến lượt ông nói, Petr Alecxandrovich, bây giờ ông là nhân vật chủ chốt ở đây… trong mười phút. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 3 Lần này tất cả phụ nữ xúm xít ở phía dưới dãy hành lang bằng gỗ giáp bức tường ngoài, khoảng hai mươi người. Họ được cho biết trưởng lão sẽ ra, vì vậy họ tụ tập chờ đợi. Mẹ con bà điền chủ Khokhlakova cũng ra hành lang, họ cũng chờ trưởng lão, nhưng họ ở trong căn phòng dành cho khách cao quý. Đấy là bà mẹ và cô con gái. Bà Khokhlakova là một phu nhân giàu có, ăn vận bao giờ cũng trang nhã, còn khá trẻ và nom rất ưa nhìn, nước da hơi tái, mắt rất linh lợi và gần như đen. Bà ta mới hơn ba mươi ba, góa chồng đã năm năm. Cô con gái mười bốn tuổi của bà bị liệt chân. Cô bé đáng thương không đi lại được đã nửa năm nay và được đưa đi bằng chiếc ghế bành dài thuận tiện có bánh xe. Khuôn mặt xinh xắn của cô rất có duyên, hơi gầy vì đau ốm, nhưng vui vẻ. Đôi mắt to thẫm màu dưới hàng mi dài ánh lên một vẻ gì nghịch ngợm. Bà mẹ đã định đưa con ra nước ngoài từ mùa xuân, nhưng mùa hè họ mắc thu xếp việc điền trang nên không đi được. Họ ở thành phố chúng tôi đã được một tuần, vì công việc nhiều hơn là để cầu xin ơn lành, nhưng cách đây ba ngày đã có lần họ đến thăm trưởng lão. Bây giờ bỗng nhiên họ lại đến tuy họ biết trưởng lão hầu như không thể tiếp ai cả và họ năn nỉ xin một lần nữa “được có ơn phước chiêm ngưỡng đấng cao cả có phép chữa lành bệnh”. Trong khi chờ trưởng lão ra, bà mẹ ngồi trên chiếc ghế cạnh ghế bành của con gái, đứng cách bà hai bước là một thầy tu già, không phải người tu viện này, mà từ một nơi xa xăm ít ai biết ở phương Bắc đến đây. Ông ta cũng muốn được trưởng lão ban phước. Nhưng đến hành lang, trưởng lão đi thẳng tới chỗ dân chúng. Đám đông chen nhau tới bậc tam cấp nối dãy hành lang thấp với mặt đất. Trưởng lão đứng ở bậc trên cùng choàng tấm khăn lễ và bắt đầu ban phước cho những phụ nữ chen nhau tới gần Cha. Người ta nắm hai tay lôi tới trước Cha một phụ nữ “ngộ dại”. Nhác thấy trưởng lão, người này bắt đầu vừa nấc lên vừa gào rú một cách kì quái và toàn thân run bần bật như lên cơn kinh giật. Trưởng lão trùm chiếc khăn lễ lên đầu chị ta, đọc một đoạn kinh ngắn, chị ta lập tức ắng lặng và trở nên bình tĩnh. Tôi không biết bây giờ thì thế nào, nhưng thời thơ ấu tôi thường có dịp nhìn thấy và nghe tiếng gào rú của những người đàn bà “ngộ dại” ấy ở các làng và các tu viện. Người ta đưa họ đến buổi lễ, họ kêu ăng ẳng và sủa như chó, vang động khắp nhà thờ, nhưng khi thánh thể được đưa ra và người ta lôi họ tới đó thì “cơn bệnh quỷ ám” hết liền và người bệnh bao giờ cũng yên được một thời gian. Hồi nhỏ việc ấy làm tôi rất đỗi kinh ngạc. Nhưng hồi ấy tôi có nghe một số địa chủ, nhất là các thầy giáo tỉnh thành của tôi giảng giải - khi tôi hỏi họ, - rằng đấy chỉ là trò vờ vĩnh để trốn tránh làm việc, bao giờ cũng có thể diệt trừ các tệ đó bằng sự nghiêm khắc thích đáng, và họ kể những chuyện tiếu lâm này nọ đề xác nhận điều đó. Nhưng sau này, tôi ngạc nhiên khi được các chuyên viên y tế cho biết rằng đấy chẳng phải là trò vờ vĩnh gì cả, mà đấy là một bệnh khủng khiếp của phụ nữ, hình như có nhiều nhất ở nước Nga chúng ta, nó chứng tỏ số phận nặng nề của phụ nữ nông thôn nước ta, một thứ bệnh phát ra do phải làm việc cực nhọc ngay sau những lần sinh nở vất vả, không được chăm nom đúng cách, không có sự săn sóc y tế nào cả. Ngoài ra, do đau xót tuyệt vọng, do bị đánh đập và vân vân, một số phụ nữ không chịu đựng nổi tình cảnh đó như mọi chị em khác. Việc những phụ nữ hóa dại đang lên cơn lồng lộn mà khỏi ngay tức thì một cách kì lạ khi được đưa đến chịu mình thánh - điều mà người ta giải thích với tôi rằng đấy là do người bệnh giả vờ, hoặc hơn nữa, là trò quỷ thuật mà chính “các thầy tu” dựng nên - có lẽ chỉ là sự diễn biến hết sức tự nhiên mà thôi, cả những người đàn bà dẫn con bệnh đến chịu mình thánh, nhất là bản thân con bệnh, hoàn toàn tin, như con một chân lí hiển nhiên, rằng quỷ nhập vào người bệnh không bao giờ chịu đựng nổi khi người ta đưa người bệnh đến cúi đầu trước thánh thể. Bởi thế, điều bao giờ cũng xảy ra (và nhất định phải xảy ra) ở người phụ nữ mắc bệnh thần kinh, và cố nhiên cả bệnh tâm thần nữa, là nhất định người đó rung chuyển toàn thân lực cúi mình trước thánh thể, sự rung chuyển do mong chờ phép lạ chữa bệnh nhất định sẽ diễn ra và do bản thân sự tin tưởng hoàn toàn rằng nó sẽ diễn ra. Và phép lạ đã xảy ra dù chỉ trong giây lát. Cũng hệt như bây giờ nó đã xảy ra khi trưởng lão vừa phủ tấm khăn lễ lên cô gái ốm bệnh. Nhiều phụ nữ trong số những người chen lại gần Cha trào nước mắt, cảm kích và phấn khởi vì hiệu quả tức thời; một số người hôn tà áo Cha, dù chỉ là tà áo thôi, số khác than vãn điều gì không rõ. Cha ban phước cho tất cả, và nói chuyện với một số người. Người phụ nữ “ngộ dại” thì Cha đã biết người này ở một làng cách tu viện có sáu dặm, trước đây đã được đưa đến gặp Cha. - Còn đây là người từ xa đến! - Cha trỏ một phụ nữ chưa già chút nào, nhưng rất gầy và hốc hác, mặt không phải là sạm màu, mà đen nhẻm. Thiếu phụ quỳ gối và giương mắt đờ đẫn nhìn trưởng lão. Luồng mắt của chị ta như ngây dại. - Từ xa đến, thưa Cha, từ xa đến cách đây ba trăm dặm. Từ xa đến lạy Cha, từ xa đến. - Người phụ nữ cất giọng ngân nga như hát, đầu lắc lư nhịp nhàng từ bên này sang bên kia, tay đỡ má. Chị ta nói như than vãn. Trong dân chúng có nỗi đau xót thầm lặng và hết sức nhẫn nại; nó ẩn sâu vào bên trong và im tiếng. Nhưng cũng có nỗi đau xót vỡ tung ra: nó bột phát ra ngoài thành nước mắt và từ phút ấy, nó biến thành lời than vãn. Nhất là ở phụ nữ. Nhưng nó không nhẹ nhõm hơn nỗi đau xót thầm lặng. Lời than vãn chỉ làm nguôi lòng vì nó khiến con tim mưng mủ và tan nát. Nỗi đau xót như thế không muốn được an ủi, nó được nuôi dưỡng bằng cảm giác không thể nguôi đi được của mình. Sự than vãn chỉ là nhu cầu không ngừng khơi sâu thêm vết thương. - Con là thị dân hẳn thôi? - Trưởng lão nói tiếp, nhìn chằm chằm vào chị ta. - Chúng con là người thành phố, thưa Cha, người thành phố chúng con vốn là dân quê, nhưng ở thành phố, chúng con sống ở thành phố. Thưa Cha, con đến để nhìn thấy Cha. Chúng con có nghe nói về Cha, thưa Cha, chúng con có nghe nói. Con đã chôn cất thằng con bé bỏng, con ra đi kêu cầu Chúa Trời. Con đã đến ba tu viện, người ta chỉ cho con: “Natasca, chị hãy đến đây” tức là đến với Cha, Cha thân yêu, đến với Cha ấy mà. Con đã đến, hôm qua con đứng suốt đêm trong nhà thờ, hôm nay con đến Cha. - Vì sao con khóc? - Con thương thằng bé nhà con, thưa Cha, nó lên ba, chỉ kém có ba tháng là tròn ba tuổi. Con khổ tâm vì nó, thưa Cha, vì thương nhớ cháu. Nó là đứa con trai cuối cùng còn lại, con với Nikituska có bốn đứa, nhưng bọn trẻ không ở với chúng con. Cha kính mến, chúng không ở. Con đã chôn ba đứa mà không thương tiếc lắm, còn đứa cuối cùng thì con không thể nào quên được. Cứ như là nó vẫn đứng trước mặt con, không chịu đi. Nó làm con héo hắt cõi lòng. Cứ nhìn đến áo lót, áo sơ mi và giày của nó là con khóc gào lên. Con bày những thứ còn lại của nó ra, từng thứ một, nhìn và gào khóc. Con bảo anh Nikituska chồng con: hãy để tôi đi kêu cầu Chúa Trời, ông chú ạ. Chồng con là người đánh xe, chúng con không nghèo, thưa Cha, không nghèo, chúng con tự đảm đương việc đánh xe chuyên chở, chúng con có đủ mọi thứ, cả ngựa và xe. Nhưng bây giờ chúng con cần gì của cải nữa? Không có con, anh ấy hẳn đã say sưa rượu chè, anh Nikitusa của con, hẳn nhiên là thế, ngay cả nước kia cũng vậy: hễ con xa rời anh ấy một chút là anh ấy đâm ra yếu mềm. Còn bây giờ thì con chẳng nghĩ gì đến anh ấy nữa. Đã hơn hai tháng nay, con không ở nhà. Con đã quên hết mọi thứ và không muốn nhớ đến nữa; con sẽ làm thế nào với anh ấy bây giờ? Con đã dứt bỏ anh ấy, dứt bỏ, dứt bỏ mọi thứ trên đời. Bây giờ con không muốn nhìn đến nhà cửa của mình, của cải của mình, con không muốn nhìn đến cái gì nữa hết. - Này bà mẹ ạ, - trưởng lão lên tiếng. - Có lần một Đại thánh thời xưa nhìn thấy trong đền thờ một phụ nữ cũng như con, một bà mẹ đang khóc lóc, và cũng khóc con, đứa con duy nhất đã được Thượng đế gọi về với ngài. Vị thánh nói với người phụ nữ ấy: “Hay con không biết rằng những trẻ thơ như thế táo bạo dường nào trước ngai của Thượng đế? Thậm chí trên nước thiên đàng không có ai táo bạo hơn chúng: Lạy Chúa Trời, Ngài đã ban sự sống cho chúng con, - chúng nói với Thượng đế. - vậy mà chúng con vừa nhìn thấy nó là Ngài đã lấy lại luôn. Chúng cầu xin và chất vấn táo tợn đến nỗi Thượng đế lập tức ban cho chúng chức thiên thần. Cho nên - vị thánh dạy - con phải vui mừng, chứ đừng khóc, bởi đứa nhỏ của con bây giờ ở bên Chúa Trời, dự vào hàng thiên thần.” Thuở xưa vị thánh đã nói như thế với người đàn bà đang khóc. Đấy là vị thánh vĩ đại và Ngài không thể nói sai sự thật được. Vậy thì hỡi người mẹ, con nên biết rằng đứa nhỏ của con hiện giờ chắc hẳn đang đứng trước ngai của Chúa, nó vui sướng, nó nô đùa và cầu Chúa cho con. Vì vậy con đừng khóc mà hãy vui sướng. Người đàn bà nghe trưởng lão nói, một tay đỡ má, mắt gằm xuống. Chị thở dài não ruột. - Anh Nikituska cũng an ủi con đúng như thế, hệt như Cha, anh ấy bảo: “Mình thật không biết suy xét, khóc cái nỗi gì kia chứ, con trai chúng ta bây giờ chắc hẳn đang ở bên Chúa, ca hát cùng các thiên thần.” Anh ấy bảo con như thế, nhưng chính anh ấy khóc, con thấy anh ấy cũng khóc như con. Con nói với anh ấy: “Tôi biết chứ, anh Nikituska ạ, nó không ở bên Chúa thì còn ở đâu nữa, có điều bây giờ nó không còn ở đây, bên cạnh chúng ta, anh Nikiluska ạ, nó không ngồi bên cạnh ta như trước nữa!” Ước gì con được nhìn nó dù chỉ một lần thôi, ước gì dù chỉ một lần thôi con lại được nhìn thấy nó, con sẽ không đến với nó, không thốt lên một lời, con sẽ náu trong xó nhà. Ước gì được thấy mặt nó chỉ một lát thôi, được nghe tiếng nó chơi ở sân, rồi nó đến, như ước đây vẫn thường như thế, và la lên bằng cái giọng thanh thanh: “Mẹ ơi, mẹ ở đâu đấy?” Ước gì con được nghe thấy nó đi trong phòng bằng đôi chân bé bóng của nó, một lần nữa thôi, chỉ một lần nữa thôi, đôi chân bé bỏng của nó giậm lạch bạch, chân nó bước liền liền, lon ton, con còn nhớ đôi khi nó chạy đến với con, la hét và cười, ước gì con được nghe thấy từng bước chân nó, nhận ra tiếng chân nó! Nhưng nó không còn nữa. Cha ơi, nó không còn nữa, không bao giờ con còn nghe thấy tiếng nó nữa! Chiếc thắt lưng của nó đây này, vậy mà nó không còn nữa, và từ nay không bao giờ con còn nhìn thấy nó, nghe thấy nó nữa… Chị ta lấy trong ngực áo ra chiếc thắt lưng bé nhỏ viền kim tuyến của con trai mình, vừa nhìn thấy nó toàn thân chị đã run lên trong tiếng nức nở, chị lấy tay che mắt, nước mắt chảy ròng ròng qua kẽ ngón tay. - Thế đấy, trưởng lão thốt lên. - Đúng lúc sự tích xưa: “Rasen khóc các con mình và không sao nguôi được, vì chúng không còn nữa”.(1) Số phận các con trên đời này là thế đấy, hỡi những người mẹ. Và đừng tự an ủi, con không nên tự an ủi, đừng tự an ủi và cứ khóc đi, nhưng mỗi lần khóc thì hãy luôn luôn nhớ rằng con trai con là một trong những thiên thần của Chúa, đang từ trên ấy nhìn con và nhìn thấy con, nó vui sướng vì nước mắt của con và chỉ cho Chúa xem những giọt nước mắt ấy. Cao cả thay sự than khóc của người mẹ, và nó còn lâu mới hết, nhưng cuối cùng nó sẽ biến thành niềm vui sướng bình lặng, và những giọt nước mắt cay đắng của con sẽ chỉ là nhưng giọt nước mắt cảm kích êm dịu và làm trong sạch trái tim, cứu thoát khỏi tội lỗi. Ta sẽ cầu cho linh hồn thằng bé của con được bình yên, tên nó là gì? (1) Mathieu. XI. XVM (N.D). - Alecxei, thưa Cha. - Cái tên đáng yêu. Theo tên Alecxei người của Chúa(2) phải không? (2) Thánh Alecxei người của Chúa (N.D). - Người của Chúa, vâng thưa Cha. Alecxei người của Chúa! - Một vị thánh cao trọng! Ta sẽ cầu nguyện cho nó, bà mẹ ạ, ta cầu nguyện và sẽ nhắc đến nỗi đau buồn của con trong lời cầu nguyện, ta sẽ cầu cho sức khỏe của chồng con. Nhưng con bỏ mặc chồng là có tội đấy. Hãy về với chồng và chăm sóc chồng. Thằng nhỏ của con ở trên kia sẽ nhìn thấy con bỏ mặc bố nó và sẽ khóc vì bố mẹ; sao lại làm vẩn đục hạnh phúc của nó? Nó vẫn sống kia mà, nó vẫn sống, bởi vì linh hồn con người sống mãi mãi. Tuy nó không có mặt ở trong nhà, nhưng nó vẫn ở cạnh các con mà không ai nhìn thấy được. Làm sao nó có thẻ vào nhà được nếu con nói rằng con căm ghét ngôi nhà của con. Nó sẽ về với ai nếu không thấy bố mẹ ở với nhau? Bây giờ con chiêm bao thấy nó và con đau khổ, nhưng khi ấy nó sẽ hiện đến với con trong những giấc chiêm bao êm dịu. Hãy về với chồng đi, hỡi người mẹ, về ngay hôm nay đi. - Con sẽ về, thưa Cha thân thương, con sẽ về theo lời Cha dạy. Cha nhìn thấy lòng con. Anh Nikituska, Nikituska của em, anh đang đợi em. Anh thân yêu, anh đang đợi em! - Người đàn bà cất lời than vãn, nhưng trưởng lão đã quay về phía một bà già nhỏ bé ăn vận không theo kiểu hành hương, mà theo kiểu thành thị. Nhìn mắt bà ta thì thấy rõ bà ta đến có việc gì đó và muốn cho biết điều gì. Bà ta tự giới thiệu là vợ góa một hạ sĩ quan, ở cách đây không xa, vẫn trong thành phố chúng tôi thôi. Bà ta có đứa con trai tên là Vaxenka, làm ở một sở cảnh sát nọ, đã đi Sibir đến Irkut. Có viết thư về hai lần, nhưng đã một năm nay không có thư từ gì cả. Bà đã hỏi tin con, nhưng thực ra cùng chẳng biết hỏi ở đâu. Mới đây một bà nhà buôn giàu có Xtepanieda Ilinitrna Bednaghima bảo con: Bà Prokhorovna ạ, bà hãy ghi tên con bà vào tấm thẻ đem đến nhà thờ(3) và cầu cho linh hồn của nó được bằng an. Linh hồn nó sẽ luôn nhớ và nó sẽ viết thư cho bà. “Đấy là cách chắc chắn nhất, đã được thử thách nhiều lần” - Xtepanieda Ilinitrna nói vậy. Nhưng con vẫn nghi ngờ… Cha là ánh sáng của chúng con, xin Cha cho biết có thật vậy không, làm như vậy có được không? - Chớ có nghĩ đến chuyện ấy. Hỏi điều đó cũng là đáng xấu hổ rồi. Sao lại có thể cầu cho linh hồn người đang sống được yên nghỉ, mà lại là mẹ đẻ nữa chứ! Đấy là tội lỗi rất lớn, tương tự như phép phù thủy, chỉ vì con không biết nên mới có thể tha thứ được. Tốt hơn hết là con nên cầu khẩn Thánh mẫu ban sức khỏe cho con con, Ngài bao giờ cũng sẵn sàng che chở và cứu giúp người trần, và cầu xin Ngài tha thứ cho con đã có ý nghĩ không đúng. Ta bảo con thế này này, Prokhorovna ạ: hoặc là chính con trai con chẳng bao lâu nữa sẽ về thăm con, hoặc là sẽ gửi thư về. Nên biết như vậy. Về và cứ yên tâm. Con trai con vẫn sống, ta báo con thế đấy. - Cha yêu quý của chúng con, Chúa ban thưởng cho Cha, Cha nhân đức của chúng con, Cha là người cầu nguyện cho tất cả chúng con và cầu xin tha tội cho chúng con… Nhưng trưởng lão đã nhận thấy trong đám đông hai tia mắt cháy rực chiếu vào Cha: ấy là luồng mắt của một phụ nữ nông dân còn trẻ, kiệt quệ, nom như người ho lao. Chị lãng đãng nhìn, đôi mắt cầu xin điều gì, nhưng chị dường như không dám đến gần. - Con cần gì, con của ta? - Xin Cha giải nỗi lo sợ cho tâm hồn con. Cha kính yêu. - Chị ta nói khẽ và thong thả, quỳ xuống và rạp mình dưới chân Cha. - Con phạm tội, thưa Cha kính yêu, con sợ tội lỗi của con. Trưởng lão ngồi xuống bậc thềm dưới, người phụ nữ vẫn quỳ, lết đến gần Cha. - Con góa chồng đã hơn hai năm. - Chị ta nói gần như thì thầm, toàn thân như run lên. - Con sống với chồng cũng khổ lắm, lão đã già, thường đánh con đau lắm. Khi lão ốm liệt giường, con nhìn lão và nghĩ: nếu lão khỏi bệnh, lại trở dậy được thì sao? Từ đó ý nghĩ ấy cứ bám lấy con… - Khoan, - trưởng lão nói và ghé tai sát môi chị ta. Người phụ nữ lại thì thầm rất khẽ, thành thử hầu như không nghe thấy gì. Lát sau chị ta ngừng lời. - Năm thứ ba rồi ư? - Trưởng lão hỏi. - Năm thứ ba. Lúc đầu con không nghĩ đến, nhưng bây giờ con bắt đầu ốm, con đâm ra phiền não không ngơi. - Con ở xa đến ư? - Cách đây năm trăm dặm ạ. - Con đã xưng tội rồi chứ? - Có ạ, hai lần rồi. - Con có được ban thánh thể không? - Có ạ con sợ, con sợ chết. - Đừng sợ gì hết, và đừng bao giờ sợ, cũng đừng lo buồn. Miễn là sự ăn năn của con không suy giảm là Chúa sẽ tha thứ hết. Trên đời này không có tội lỗi nào mà Chúa không tha thứ cho kẻ thực lòng ăn năn. Con người ta không thể phạm tội nào dù lớn đến đâu mà có thể làm cạn tình yêu vô lượng của Chúa. Chẳng lẽ có tội nào vượt quá được cả tình yêu của Chúa chăng? Con chỉ nên luôn luôn chăm lo ăn năn hối lỗi và xua đuổi hẳn nỗi sợ đi. Hãy tin rằng Chúa yêu con đến độ con không tưởng tượng được đâu. Chúa yêu con mặc dù tội lỗi của con và trong tội lỗi của con. Một người hối cải làm cho trên trời có nhiều niềm vui hơn là mười người công chính, sách kinh có nói từ lâu. Về đi và đừng sợ. Đừng phiền trách mọi người, đừng tức giận vì bị xúc phạm. Hãy rộng lòng tha thứ cho người đã khuất tất cả những gì mà ông ta đã xúc phạm con, hãy thực sự làm lành với ông ta. Con ăn năn tức là con yêu. Mà con yêu tức là con đã thuộc về Chúa… tình yêu chuộc được hết, cứu rỗi được hết. Ta cũng như con, là kẻ có tội, mà ta còn cảm động và thương con thì Chúa còn thương đến đâu. Tình yêu là của báu vô giá có thể mua được cả thế gian, chẳng nhữngg con sẽ chuộc được tội lỗi của con, mà còn chuộc được cả tội lỗi của người khác nữa. Con về đi và đừng sợ. Cha làm dấu cho chị ta ba lần, tháo bức ảnh thánh nhỏ bé trên cổ ra, đeo cho chị ta. Chị ta lẳng lặng cúi rạp sát đất bái tạ. Cha đứng lên và vui vé nhìn một người đàn bà khỏe mạnh bế đứa con còn bú trên tay. - Con ở Vusegonie đến, thưa Cha yêu quý. - Sáu dặm, nhưng bế đứa bé từ đấy đi thật vất vả. Con cần gì? - Con đến để được nhìn thấy Cha. Con đã từng đến đây, Cha quên rồi ư? Trí nhớ của Cha không được tốt lắm, có thế Cha mới quên con chứ. Con nghe nói Cha ốm, ở thế thì con sẽ đến thăm Cha, con nghĩ, bây giờ con nhìn thấy Cha ở đây, Cha có ốm đau gì đâu nào? Cha còn sống hai chục năm nữa, thực đấy, Chúa ở cùng Cha! Mà có biết bao người cầu nguyện cho Cha, Cha ốm làm sao được? - Cảm ơn con lắm lắm, con yêu dấu. - Tiện đây con có một việc nhỏ cậy Cha; con đem đến sáu mươi kopek, thưa Cha yêu quý, xin Cha hãy đem cho người phụ nữ nào nghèo hơn con. Khi đến đây con nghĩ: nhờ Cha đem cho thì hơn. Cha biết nên cho ai. - Cảm ơn con yêu dấu, cảm ơn, con thật tốt bụng. Ta yêu con. Nhất định ta sẽ làm việc đó. Đứa con trên tay con là con gái ư? - Con gái ạ, thưa Cha sáng láng, Elizaveta. - Chúa ban phúc cho cả hai mẹ con, cả con và Elizaveta bé bỏng. Con làm ta vui lòng, hỡi người mẹ. Tạm biệt, các con yêu dấu, tạm biệt, các con yêu quý. Cha ban phước cho tất cả và kính cẩn chào mọi người. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 4 Suốt thời gian trưởng lão chuyện trò với dân chúng và ban phước cho họ, bà khách địa chủ âm thầm nhỏ lệ và dùng mùi xoa lau nước mắt. Đấy là một phụ nữ thượng lưu đa cảm và có nhiều đức tính tốt, chân thành. Khi trưởng lão cuối cùng cũng đến chỗ bà ta, bà ta hoan hỉ chào đón: - Con phải hết sức đau lòng khi nhìn cảnh tượng cảm động ấy! - Bà ta xúc động, nói không hết lời. - Ôi, con hiểu dân chúng yêu Cha, chính con cũng yêu nhân dân, làm sao không yêu nhân dân cho được, nhân dân Nga của chúng ta tuyệt vời, chất phác trong sự hùng vĩ của mình! - Sức khỏe của con gái con ra sao? Hai mẹ con lại muốn nói chuyện với ta ư? - Ôi, con khẩn khoản cầu xin, con van nài, con sẵn lòng quỳ xuống và quỳ suốt ba ngày dưới cửa sổ buồng Cha cho đến khi Cha cho chúng con vào gặp. Chúng con đến gặp Cha, ôi đấng chữa bệnh vĩ đại, để bày tỏ lòng biết ơn hân hoan của chúng con. Cha đã chữa khỏi bệnh cho Liza của con, khỏi hẳn rồi, là bởi hôm thứ năm Cha đã nguyện kinh cho nó, Cha đã đặt tay lên nó. Chúng con nóng lòng muốn hôn đôi tay ấy, muốn bày tỏ tình cảm của chúng con và lòng sùng kính của chúng con. - Vậy là chữa lành hẳn rồi ư? Cháu nó vẫn còn nằm trong ghế bành kia thôi? - Nhưng đã hết hẳn sốt đêm, đã hai ngày nay rồi, kể từ thứ năm. - Bà mẹ vội nói một cách nóng nảy. - Hơn thế nữa, chân cháu đã vững. Sáng nay trở dậy cháu nó khỏe mạnh, nó ngủ được suốt đêm. Cha xem, mặt nó hồng hào, mắt long lanh. Trước kia nó cứ khóc suốt, bây giờ thì nó cười vui vẻ sung sướng. Hôm nay nó cứ một mực đòi nâng nó đứng dậy, nó đứng được suốt một phút, không cần ai đỡ. Nó cược với con rằng hai tuần nữa nó sẽ nhảy được điệu cardi. Con cho mời ông bác sĩ Gherxenstube ở vùng này. Ông ấy nhún vai nói: tôi ngạc nhiên, tôi không hiểu. Vậy mà Cha lại muốn chúng con đừng quấy rầy Cha, làm sao chúng con có thể không bay ngay đến đây để tạ ơn Cha kia chứ? Liza, Liza, cảm ơn Cha đi, cảm ơn đi! Khuôn mặt nhỏ nhắn, dễ thương, tươi cười của Liza bỗng trở nên nghiêm trang, cô nhỏm dậy trong ghế bành ráng hết sức trong chừng mực có thể được, và nhìn trưởng lão, chắp hai tay lại nhưng cô không nén nổi và phá lên cười… - Con cười anh ấy, cười anh ấy! - Cô trỏ Aliosa với vẻ phụng phịu trẻ con vì mình không nén được và đã cười phá lên. Lúc ấy ai nhìn Aliosa đứng sau trưởng lão, cách chừng một bước thì sẽ thấy mặt anh đỏ lên, hai má phút chốc ửng hồng. Mắt anh long lanh và anh cúi nhìn xuống. - Nó có một việc nhờ anh, Alecxei Fedorovich ạ… Sức khỏe anh thế nào? - Bà mẹ đột nhiên nói với Alecxei và chìa cho anh bàn tay nhỏ nhắn đeo găng nom rất thanh nhã. Trưởng lão quay lại chăm chú nhìn Aliosa. Anh tới gần Liza, mỉm cười ngượng ngập một cách hơi kì lạ, chìa tay ra cho cô. Liza giữ vẻ mặt nghiêm trang. - Ekaterina Ivanovna nhờ tôi chuyển cho anh cái này - Cô đưa cho anh một lá thư nhỏ. - Chị ấy thiết tha mời anh đến chơi càng sớm càng hay, anh đừng để chị ấy thất vọng, thể nào cũng đến đấy nhé. - Chị ấy mời tôi đến? Mời tôi đến nhà… để làm gì nhỉ? - Aliosa lẩm bẩm, hết sức ngạc nhiên. Mặt anh bỗng lộ vẻ lo ngại. - Ồ, đấy là vì Dmitri Fedorovich và… về tất cả những chuyện mới xảy ra gần đây. - Bà mẹ giải thích qua quýt. - Ekaterina Ivanovna hiện giờ đã có quyết định… nhưng muốn dứt khoát thì chị ấy nhất thiết phải gặp anh… để làm gì ư? Cố nhiên là tôi không biết, nhưng chị ấy mong anh đến càng sớm càng tốt. Và anh sẽ đến, hẳn là anh sẽ đến, tình cảm cơ đốc buộc anh phải làm như thế. - Tôi mới gặp chị ấy có một lần - Aliosa nói tiếp, vẫn băn khoăn như trước. - Ôi đấy là một người rất đỗi cao cả, không sao hiểu thấu được! Dù chỉ xét theo những đau khổ của chị ấy… Hãy tưởng tượng những gì chị ấy đã phải chịu đựng, những gì chị ấy đang phải chịu đựng và những gì đang chờ đợi chị ấy… thật là khủng khiếp, khủng khiếp! - Được tôi sẽ đến. - Aliosa quyết định, sau khi đọc lướt qua mẩu thư ngắn ngủi, bí ẩn, trong đó chị khẩn khoản mời anh đến, chứ không giải thích gì cả. - Anh thật là tốt, như vậy thì hay quá đấy. - Liza đột nhiên hớn hở reo lên. - Vậy mà em vẫn bảo mẹ em: không đời nào anh ấy đến đâu, anh ấy đang mải tìm sự cứu rỗi mà. Anh tốt quá đi thôi! Thì em vẫn luôn luôn nghĩ rằng anh là người rất tốt mà, bây giờ em thật vui lòng nói với anh điều đó! - Liza! - Bà mẹ nói bằng giọng oai nghiêm, nhưng lại mỉm cười ngay. - Anh đã quên mẹ con chúng tôi, anh Alecxei Fedorovich ạ, anh chẳng muốn đến nhà tôi. Thế mà Liza đã hai lần nói với tôi rằng chỉ khi có anh nó mới vui thích. Aliosa ngước mắt lên, đột nhiên lại đỏ mặt và tự dưng lại mỉm cười, chẳng biết là cười gì. Nhưng trưởng lão đã không để ý đến anh nữa. Cha đã nói chuyện với ông thầy tu từ nơi khác đến, ông ta như đã nói - vẫn chờ đợi Cha ở cạnh chiếc ghế bành của Liza. Rõ ràng đấy là một thầy tu rất bình thường, nghĩa là chức sắc tầm thường, tầm mắt hạn hẹp và cứng nhắc, nhưng sùng tín và thuộc loại ương gàn. Ông ta cho biết ông ta từ phương Bắc xa xôi đến, ở Ovdorsk(1), dòng thánh Xinvextr ở một tu viện nghèo chỉ có chín tu sĩ. (1) Một thị trấn nhỏ phía cực Bắc tỉnh Tobonxe (tây Sibir) (N.D). Trưởng lão ban phước cho ông và mời ông đến phòng mình lúc nào thấy tiện. - Sao ông dám làm nhưng việc như thế này? - Thầy tu bỗng hỏi, đồng thời trỏ Liza với thái độ oai nghiêm và trịnh trọng. Ông ta ám chỉ “việc chữa khỏi bệnh” cho Liza. - Nói đến việc ấy bây giờ cố nhiên là còn sớm. Đỡ chưa có nghĩa là khỏi và có thể còn do nhưng nguyên nhân khác. Nhưng điều gì đã xảy ra thì chỉ là do ý Chúa, chứ không có quyền phép nào khác. Tất cả là do Chúa. Mới cha đến thăm tôi, - Trưởng lão nói thêm với thầy tu, - vì không phải lúc nào tôi cũng tiếp khách được: tôi ốm và tôi biết sự sống của tôi chỉ còn tính từng ngày. - Ồ không, không, Chúa sẽ không bắt con phải thiếu vắng Cha, Cha sẽ còn sống lâu, còn sống lâu. - Bà mẹ kêu lên. - Mà Cha có ốm đau gì đâu? Cha nom khỏe mạnh, vui vẻ và hạnh phúc thế kia mà. - Hôm nay ta thấy dễ chịu hơn nhiều lắm, nhưng ta biết, chỉ là chốc lát thôi. Bây giờ ta biết chắc chắn bệnh của ta. Nếu các con thấy ta vui vẻ như thế thì đấy là vì chưa bao giờ các con có thể làm điều gì khiến ta vui lòng như câu nói vừa rồi, bởi vì con người sinh ra để hưởng hạnh phúc, và người nào hoàn toàn hạnh phúc thì người đó có quyền tự nhủ: “Ta đã làm đúng đạo Chúa trên cõi thế gian này.” Tất cả những người công chính, tất cả các thánh, tất cả những người tuẫn đạo thánh thiện đều là người hạnh phúc. - Ôi, Cha nói những lời mới can đảm và cao cả làm sao. - Bà mẹ kêu lên. - Lời Cha nói như xuyên thấu lòng người. Thế nhưng hạnh phúc, hạnh phúc ở nơi đâu? Ai có thể nói rằng mình là người hạnh phúc? Ôi, Cha đã quá tốt cho chúng con, hôm nay được gặp Cha lần nữa thì xin Cha hãy nghe tất cả những điều mà lần trước con không nói hết, không dám nói, tất cả! Con đau khổ, thứ lỗi cho con, con đau khổ… - Trong lúc tình cảm nồng nhiệt đang bồng bột, bà ta chắp tay lại trước mặt Cha. - Nhưng về chuyện gì kia chứ? - Con đau khổ… vì không tin… - Không tin Chúa sao? - Dạ không, không con không dám nghĩ đến điều ấy, nhưng đời sống mai hậu sao mà bí ẩn quá! Chưa có ai giải đáp về nó! Thưa Cha, Cha là đấng chữa bệnh vĩ đại, Cha hiểu rõ tâm hồn con người. Đành rằng con không dám mong mỏi Cha tin con hoàn toàn, nhưng con xin lấy danh dự cam đoan với Cha rằng giờ đây không phải do nông nổi mà con nói rằng ý nghĩ ấy về đời sống ở thế giới bên kia làm con lo lắng đến đau khổ, đến khiếp sợ. Con không biết hỏi ai, chưa bao giờ con dám… Bây giờ con đánh bạo giãi bày với Cha… Trời ơi, bây giờ Cha sẽ cho con là thứ gì! - Bà ta đập hai tay vào nhau. - Đừng lo ngại về ý kiến của ta. - Trưởng lão trả lời. - Ta hoàn toàn tin rằng nỗi lo buồn của con là thành thật. - Ôi con cảm ơn Cha biết chừng nào! Thưa Cha, nhiều khi con nhắm mắt lại và nghĩ: mọi người đều tin cả, vậy vì sao mà tin? Người ta nói quyết rằng tất cả những cái đó thoạt đầu là do sợ hãi những hiện tượng thiên nhiên ghê gớm, và chẳng làm gì có những cái đó. Thế đấy, con nghĩ, cả đời con đã tin rằng khi con chết đi thì chẳng còn gì nữa hết, chỉ có “cụm ngưu bàng mọc trên mồ”, như lời một nhà văn mà con đã đọc. Thế thì khủng khiếp quá! Làm cách nào mà lấy lại được đức tin? Nhưng con tin chỉ là vì hồi ấy con còn bé dại tin một cách máy móc, không nghĩ gì hết… Lấy gì chứng minh điều đó, bây giờ con đến quỳ trước mặt Cha cầu xin Cha giảng giải cho. Vì nếu con bỏ lở dịp này thì suốt đời sẽ không có ai giải đáp cho con. Lấy gì chứng minh, lấy gì làm bằng đề mà tin? Ôi, khốn khổ cho con! Con thấy xung quanh mọi người đều dửng dưng, hầu hết mọi người, bây giờ chẳng ai bận tâm đến điều ấy, một mình mang nỗi niềm ấy trong lòng con không thể chịu đựng nổi. Thật là nguy hại, nguy hại! - Hẳn là nguy hại. Nhưng cũng không thể chứng minh được, chỉ có thể tin mà thôi. - Bằng cách nào? Lấy gì làm tin? - Bằng kinh nghiệm của tình yêu thể hiện trong hành động. Hãy cố gắng luôn luôn yêu đồng loại bằng tình yêu thể hiện trong hành động. Con càng tấn tới trong tình yêu thì sẽ càng tin vào sự hiện hữu của Chúa và vào sự bất diệt của linh hồn con. Nếu con đạt tới sự hi sinh hoàn toàn trong tình yêu đồng loại thì không một mối hồ nghi nào có thể len vào tâm hồn con. Điều đó đã được thử thách đúng như vậy đấy. - Tình yêu thể hiện trong hành động? Đây lại là một câu hỏi, mà một câu hỏi hóc búa! Thưa Cha, con yêu nhân loại đến mức - chẳng biết Cha có tin không, - đôi khi con mơ ước vứt bỏ tất cả tất cả những gì con có, bỏ cả Liza đi làm bà phước. Con nhắm mắt, nghĩ ngợi và mơ ước, những lúc ấy con cảm thấy mình có sức mạnh vô địch. Không một vết thương nào, không một vết loét mưng mủ nào có thể làm con sợ. Con muốn tự tay mình băng bó và rửa các vết thương, con muốn làm hộ lí chăm sóc cho những người đau khổ ấy, con sẵn lòng hôn những vết loét ấy… - Con mơ ước như vậy, chứ không mơ ước gì khác thì cũng là nhiều rồi và đó là điều tốt đẹp. Rồi sẽ có lúc tình cờ con thực sự làm một việc thiện. - Vâng, nhưng liệu con có thể chịu đựng được lâu dài một cuộc sống như thế không? - Bà ta nói tiếp bằng giọng nồng nhiệt và gần như điên loạn. - Đấy là câu hỏi quan trọng nhất! Đấy là câu hỏi làm con khổ tâm hơn hết. Con nhắm mắt lại và tự hỏi liệu ta có thể chịu dựng được lâu dài trên con đường ấy hay không? Nếu người bệnh được ta rửa vết thương không tức thời biểu lộ sự biết ơn, mà ngược lại còn trái tính trái nết hành ta, không quý trọng và không biết đến sự phục dịch đầy lòng nhân ái của ta, còn quát mắng ta, đòi hỏi thô lỗ, thậm chí kêu ca với cấp trên của ta (điều này thường xảy ra với những người quá đau khổ): nếu vậy thì sao? Tình yêu của ta có còn không? Thế rồi, Cha tưởng tượng xem, con đã rùng mình mà quyết định: nếu có cái gì có thể làm nguội lạnh tức khắc tình yêu “trong hành động” của con đối với nhân loại thì đấy chỉ là sự vô ơn. Tóm lại, con làm việc để được trả công, con đòi phải trả công ngay, nghĩa là phải được khen ngợi, tình yêu phải được đền đáp bằng tình yêu! Bà ta đang phẫn kích, hết sức thành thật tự đả kích, nói xong bà nhìn trưởng lão với vẻ kiên quyết như khiêu khích. - Thật đúng hệt như một ông bác sĩ đã có lần kể với Cha, tuy đã lâu lắm rồi. - Trưởng lão nói - ông ta là một người đứng tuổi và hiển nhiên là thông minh. Ông ta nói cũng thắng thắn như con, tuy bằng giọng bông đùa, nhưng bông đùa một cách đau xót: “Tôi yêu nhân loại, ông ta nói, nhưng tôi ngạc nhiên về chính bản thân tôi: tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức là tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước nhiều khi tôi đã có những dự định say mê phụng sự nhân loại và có lẽ tôi thực sự muốn lên cây thập giá chịu tội thay cho mọi người, nếu như bỗng nhiên cần phải như vậy, thế nhưng tôi lại không thể sống chung với bất kì ai trong một căn phòng, kinh nghiệm cho tôi biết như vậy. Hễ người khác đến gần tôi một chút là cá tính người đó đè nén tự ái của tôi và chèn ép tự do của tôi. Trong hai mươi tư giờ tôi có thể căm ghét ngay cả một người ưu tú nhất: người này thì ăn quá lâu, người kia thì xổ mũi hắt hơi liên miên. Tôi trở thành kẻ thù của mọi người, ông ta nói, hễ họ tiếp xúc với tôi. Nhưng ngược lại, bao giờ cũng thế, tôi càng thù ghét từng người riêng biệt thì tình yêu nhân loại nói chung của tôi càng nồng cháy. Nhưng vậy thì làm thế nào?” Thế thì biết làm thế nào? Thất vọng ư? Không, chỉ riêng việc con lấy thế làm buồn phiền cũng là đủ rồi. Hãy làm tất cả những gì có thể làm được và điều đó sẽ được ghi nhận. Con đã làm được nhiều, bởi vì con đã tự hiểu được mình một cách sâu sắc và thành thật như thế! Nếu như lúc này con nói với ta thành thật như thế chỉ cốt để ngay bây giờ con được ta khen là thành thật thì con sẽ không đạt được công quả gì trong tình yêu thể hiện bằng hành động: nếu vậy thì tất cả sẽ vẫn chỉ ở trong mơ ước của con và cả cuộc đời sẽ thoáng qua như một ảo ảnh. Như vậy thì đương nhiên là con sẽ quên đời sống ở thế giới bên kia và cuối cùng con sẽ có cách tự làm cho mình yên tâm. - Cha làm cho con khổ tâm vô cùng! Mãi đến bây giờ, giây lát này Cha nói, con mới hiểu rằng quả thật con chờ mong Cha khen con thành thực khi con kể với Cha rằng con không chịu nổi sự vô ơn. Cha đã nhắc nhở con, Cha hiểu thấu tâm can con và đã giảng giải cho con! - Con nói thật đấy ư? Thế thì bây giờ, sau khi con thú nhận như thế, ta tin rằng con thành thực và tốt bụng. Nếu con chưa đạt được hạnh phúc thì hãy luôn luôn nhớ rằng con ở trên con đường đúng và cố gắng đừng rời bỏ con đường đó. Cần nhất là phải tránh sự dối trá, mọi sự dối trá, đặc biệt là tự dối mình. Hãy theo dõi sự dối trá của mình và nhìn kĩ nó từng giờ, từng phút. Hãy tránh khinh người, kể cả khinh người khác và khinh miệt bản thân mình: chỉ riêng việc nhận thấy cái mà con cảm thấy là xấu xa trong bản thân con cũng đủ làm cho nó trở nên thanh sạch rồi. Cũng nên tránh sự sợ hãi, tuy sợ hãi chỉ là hậu quả của sự dối trá, đừng bao giờ sợ mình non gan trong việc theo đuổi tình yêu, cũng đừng quá sợ những hành động xấu của ai trong lòng hợp này. Tiếc rằng ta không thể nói với con điều gì khiến con yên lòng hơn, bởi vì tình yêu thể hiện bằng hành động so với tình yêu mơ mộng là một cái gì khắc nghiệt và đáng sợ. Tình yêu mơ mộng khao khát công quả mau chóng, khao khát được thỏa mãn ngay, và nó muốn mọi người để ý đến thành quả của nó. Ở đấy thực sự người ta sẵn lòng hi sinh cả tính mệnh, miễn là cái đó không kéo dài, mà diễn ra mau như trên sân khấu, sao cho mọi người đều nhìn thấy và khen ngợi. Tình yêu thể hiện bằng hành động, đấy là công việc và sự tự chủ, mà đối với một số người thì có lẽ đó là cả một khoa học. Nhưng Cha báo trước, ngay lúc con khiếp sợ thấy rằng mặc dù con đã gắng hết sức, con chẳng những không tiến gần đến đích, mà còn ra xa hơn, thì chính lúc ấy, Cha nói trước cho con biết con sẽ đột nhiên đạt được mục đích và sẽ thấy rõ quyện phép thần kì của Chúa đối với con, và Chúa lúc nào cũng yêu con và luôn luôn dẫn dắt con một cách bí ẩn. Thứ lỗi cho Cha, Cha không thể giúp con lâu hơn, người khác đang đợi Cha. Tạm biệt. Bà khách khóc: - Liza, Liza, xin Cha ban phước cho nó, Cha ban phước cho nó! - Bà ta bỗng hăm hở hẳn lên. - Nó không đáng được yêu mến mà. Cha đã thấy nó cứ bỡn cợt suốt. - Trưởng lão nói đùa. - Tại sao con cứ chế giễu Alecxei hoài? Quả thật Liza đã giở trò tinh nghịch suốt thời gian ấy. Đã lâu rồi từ lần trước kia, cô nhận thấy Aliosa ngượng ngùng trước mặt cô và cố không nhìn cô, cô lấy thế làm thích thú lắm. Cô chăm chú đón bắt luồng mắt anh: anh không chịu đựng nổi cái nhìn dai dẳng nhằm vào anh. Một sức mạnh không cưỡng nổi khiến Aliosa bỗng chốc lại vô tình nhìn về phía cô, lập tức cô nở nụ cười đắc thắng như chọc vào mắt anh. Aliosa càng ngượng ngập và bực tức hơn. Cuối cùng anh quay mặt hắn đi và nấp sau lưng trưởng lão. Mấy phút sau, bị lôi cuốn bởi một sức mạnh không sao cưỡng nổi, anh quay lại xem Liza có nhìn anh không, và anh thấy Liza nhoài hẳn ra khỏi ghế bành, gập người xuống nhìn anh từ phía bên, gắng chờ anh lại nhìn cô. Bắt được cái nhìn của anh, cô cười phá lên đến nỗi trưởng lão cũng không nén nồi: - Cô bé tinh nghịch kia, sao con cứ làm cho anh ấy xấu hổ vậy? Bỗng nhiên, hoàn toàn bất ngờ. Liza đỏ mặt, mắt lóe lên, mặt trở nên hết sức nghiêm trang, và cô bỗng nói liến thoắng, nóng nảy, giọng oán trách sôi nổi, phẫn uất: - Thế tại sao anh ấy quên hết cả? Hồi con còn bé, anh ấy vẫn bế con, con chơi đùa với anh ấy. Chính anh ấy dạy con đọc, Cha có biết không? Hai năm trước, khi chia tay, anh ấy nói rằng anh ấy sẽ không bao giờ quên, rằng chúng con mãi mãi là bạn, mãi mãi, mãi mãi. Thế mà bây giờ bỗng nhiên anh ấy sợ con, con ăn thịt anh ấy chắc? Tại sao anh ấy không muốn đến gần con, tại sao anh ấy không nói chuyện với con? Tại sao anh ấy không muốn đến nhà con. Đâu phải Cha không cho anh ấy đi: anh ấy vẫn đi khắp mọi nơi, con biết mà. Con mời anh ấy đến thì không tiện, chính anh ấy phải nhớ ra trước tiên, nếu như anh ấy chưa quên. Ồ không, bây giờ anh ấy đang tu để cứu rỗi linh hồn mà? Sao Cha lại cho anh ấy mặc bộ áo thầy tu dài lượt thượt thế kia… chạy thì ngã mất… Không nén được, đột nhiên, cô bưng mặt và phá lên cười, tràng cười dài mãnh liệt, không ra tiếng, nóng nảy, run bắn lên. Trưởng lão mỉm cười nghe cô bé nói và ban phước cho cô. Khi hôn tay Cha, cô bỗng áp bàn tay đó vào mắt và òa khóc: - Cha đừng giận con, con là đứa ngốc nghếch, chẳng ra gì… có lẽ Aliosa có lí, anh ấy không muốn đến thăm con bé lố lăng như con là rất phải. - Nhất định Cha sẽ bảo anh ấy đến. - Trưởng lão cả quyết. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 5 Trưởng lão vắng mặt trong phòng khoảng hai mươi phút. Đã mười hai giờ rưỡi mà Dmitri Fedorovich vẫn chưa đến, mặc dù vì chàng mà có cuộc hội họp này. Nhưng người ta hầu như đã quên chàng, và khi trưởng lão trở lại phòng thì thấy các vị khách đang bị cuốn vào cuộc chuyện trò chung hết sức sôi nổi. Trước hết phải kể đến Ivan Fedorovich và hai giáo sĩ. Cả Miuxov cũng dự phần, và có vẻ rất sôi nổi, nhưng ông lại vẫn không gặp may; rõ ràng ông bị lu mờ, người ta không buồn trả lời ông, tình thế mới mẻ này càng làm tăng thêm nỗi bực tức đã tích tụ lại. Số là trước kia ông cũng đã tranh tài biện bác với Ivan Fedorovich và ông không thể điềm nhiên chịu đựng được thái độ có phần ngạo mạn của chàng trai đối với ông: “Ít nhất là cho đến lúc này, ta vẫn đứng trên tầm cao của tất cả những gì nên đến ở châu Âu, vậy mà thế hệ mới này dứt khoát không thèm biết đến ta.” - ông nghĩ bụng. Fedor Pavlovich ban nãy đã hứa sẽ ngồi yên không nói năng gì, quả thật ông ta im lặng được một thời gian, nhưng ông ta mỉm cười giễu cợt theo dõi Petr Alecxandrovich ngồi gần mình và thích thú ra mặt vì sự bực tức của ông này. Ông ta đã rắp tâm kiếm cách gì trả đũa từ lâu và bây giờ không muốn bỏ lỡ dịp. Cuối cùng, không nhịn được, ông ta cúi xuống gần vai Miuxov và thì thầm trêu chọc lần nữa: - Ban nãy tại sao ông không bỏ về ngay sau câu chuyện về ông thánh hôn cái đầu, mà lại ưng chịu ở lại cùng với bọn người bất nhân như thế này? Là bởi ông cảm thấy bẽ bằng và bị xúc phạm. Ông ở lại để khoe tài trí hòng rửa hận. Bây giờ ông sẽ không đi chừng nào chưa phô phang được tài trí của mình. - Ông lại giở trò hả? Thế thì tôi đi ngay đây. - Ông sẽ là người về sau cùng, người sau cùng rời khỏi đây! - Fedor Pavlovich châm chọc lần nữa. Gần như đúng lúc ấy trưởng lão trở lại. Cuộc tranh luận ngừng một lát nhưng trưởng lão, sau khi ngồi về chỗ cũ, đưa mắt nhìn tất cả mọi người, như niềm nở mời khách cứ tiếp tục. Aliosa đã thấu hiểu hầu hết mọi vẻ mặt của Cha, anh thấy rõ ràng Cha mệt lắm rồi và đang gắng gượng. Thời gian gần đây Cha thường bị ngất vì kiệt sức. Bây giờ mặt Cha cũng tái đi gần như mỗi lần sắp ngất, môi nhợt nhạt. Nhưng rõ ràng Cha không muốn giải tán cuộc họp: hình như Cha có một mục đích riêng gì đó, nhưng mục đích gì? Aliosa chăm chú dõi nhìn Cha. - Chúng tôi bàn về một bài báo rất kì lạ của ông ấy, - Cha thủ thư Ioxif nói với trưởng lão và trỏ vào Ivan Fedorovich. - ông ấy nêu ra nhiều điều mới mẻ, vâng, nhưng luận đề dẫn đến hai kết luận “Bài viết về tòa án giáo hội và phạm vi quyền hạn của nó”, nhằm trả lời một giáo sĩ đã viết cả một cuốn sách về vấn đề này… - Đáng tiếc tôi không đọc bài báo của ông, nhưng có nghe nói về nó. - Trưởng lão trả lời, chăm chú nhìn Ivan Fedorovich bảng con mắt tinh nhanh. - Ông ấy đứng trên một quan điểm hết sức lạ. - Cha thủ thư nói tiếp. - Trong vấn đề tòa án giáo hội rõ ràng là ông ấy bác bỏ việc tách giáo hội khỏi nhà nước. - Thế thì lạ thật, nhưng theo ý nghĩa nào? - Trưởng lão hỏi Ivan Fedorovich. Cuối cùng Ivan trả lời, nhưng không phải với giọng lễ độ kiêu kì như Aliosa vẫn lo sợ từ hôm trước, mà khiêm tốn và dè dặt, rõ ràng là ân cần, không chút ẩn ý. - Tôi xuất phát từ luận điểm rằng sự pha trộn các yếu tố cán cốt của nhà thờ và của nhà nước lấy riêng biệt, tất nhiên là sẽ còn mãi mãi, mặc dù đấy là điều không thể được và không khi nào dẫn đến một tình trạng bình thường, chứ đừng nói là ít nhiều trường hợp, bởi vì sự giả dối nằm ngay trong cơ sở của sự việc. Sự thỏa hiệp giữa giáo hội và nhà nước về những vấn đề như tòa án chẳng hạn, theo tôi, thực chất là hoàn toàn không thể có được. Vị giáo sĩ mà tôi bài bác khẳng định rằng giáo hội chiếm một vị trí rõ rệt và xác định trong nhà nước. Ngược lại với ông ta, tôi cho rằng giáo hội phải thâu tóm trọn vẹn nhà nước vào mình, chứ không phải là chỉ chiếm một góc nào đó, và nếu như hiện nay vì lẽ gì đó điều ấy chưa làm được thì xét về thực chất, chắc chắn nó phải trở thành mục đích trực tiếp và quan trọng nhất của toàn bộ sự phát triển sau này của xã hội Kito giáo. - Hoàn toàn đúng! - Cha Paixi ít nói và thông thái thốt lên một cách cương quyết và nóng nảy. - Đấy chẳng qua là chủ trương của phái bên kia núi.(1) - Miuxov kêu lên, nôn nóng bắt chéo chân. (1) Ultramontamsme: một khuynh hướng tôn giáo chính trị của đạo Thiên Chúa, chủ trương giáo hoàng có toàn quyền can thiệp vào việc đời của bất cứ quốc gia nào. Trong thế kỉ XIX, nó là khuynh hướng phản động chống lại phong trào cách mạng (N.D). - Khốn nỗi ở ta làm gì có núi kia chứ! - Cha Ioxif kêu lên, hướng về phía trưởng lão, nói tiếp - Xin thêm là tác giả trả lời những luận điểm “nền tảng và cốt yếu” sau đây của đối phương, mà đối phương của ông ấy là một giáo sĩ, xin các vị chú ý cho. Điểm thứ nhất: “Không một đoàn thể xã hội nào có thể và được phép chiếm đoạt quyền lực - sử dụng các quyền dân sự và chính trị của hội viên”. Thứ hai: “Quyền xét xử hình sự và dân sự không được nằm trong tay giáo hội và không phù hợp với bản chất của giáo hội, vì giáo hội là một định chế thánh thần, một tổ chức liên hiệp mọi người vì mục đích tôn giáo”, và sau hết, điểm thứ ba, “Giáo hội là một triều đại không phải ở cõi thế gian này…” - Một trò chơi chữ rất không xứng đáng với một nhà tu hành! - Cha Paixi không kiên nhẫn được, lại ngắt lời người khác. - Tôi đã đọc cuốn sách mà ông phản bác, - ông ta nói với Ivan Fedorovich, - và tôi ngạc nhiên về lời của tu sĩ nọ nói rằng “giáo hội là triều đại không phải ở cõi thế gian này”. Nếu không phải thuộc cõi thế gian này thì tức là hoàn toàn không thể có trên trái đất. Trong kinh Phúc âm, những lời “không phải ở cõi thế gian này” được đùng theo nghĩa khác. Không thể đùa bỡn với những lời như thế được. Chúa Jesus Kito của chúng ta đến chính là để lập giáo hội trên trái đất. Nước thiên đàng tất nhiên không phải ở cõi thế gian này, mà ở trên trời, nhưng phải qua giáo hội mới lên thiên đàng được, mà giáo hội thì được gây dựng và thiết lập trên trái đất. Bởi vậy mọi trò chơi chữ kiểu thượng lưu về chuyện này đều không thể chấp nhận được và vô lối. Giáo hội thực sự là một triều đại và có sứ mệnh trị vì, và cuối cùng chắc chắn nó sẽ phải là một triều đại trên toàn trái đất, chúng ta đã có lời hứa về việc này… Đột nhiên ông im bặt, như thể tự dằn lòng, Ivan Fedorovich từ nãy vẫn kính cẩn và chăm chú nghe, bây giờ chàng tiếp lời, hết sức bình tĩnh, nhưng vẫn hồ hởi và mộc mạc như trước, và nói với trưởng lão: - Tư tưởng chủ đạo trong bài viết của tôi là thế này: thời cổ xưa, trong ba thế kỉ đầu của Kito giáo, đạo Kito xuất hiện trên trái đất như một giáo hội và chỉ là giáo hội. Khi nhà nước dị giáo La Mã muốn trở thành nhà nước Kito giáo thì điều không tránh khỏi đã xảy ra là sau khi trở thành nhà nước Kito giáo, nó chỉ kiêm tính luôn cả giáo hội vào, nhưng bản thân nó vẫn cứ là nhà nước dị giáo như trước trong vô vàn chức trách của mình. Thực ra điều đó tất phải xảy ra. La Mã, với tư cách là một nhà nước, vẫn còn thừa hưởng quá nhiều của nền văn minh và sự huyền ảo dị giáo, chẳng hạn như chính những mục đích và nền tảng của nhà nước. Còn giáo hội Kito, sau khi nhập vào nhà nước, chắc chắn không thể nhượng lại cái gì thuộc về nền móng của nó, tạo những hòn đá tảng trên đó nó được xây dựng, nó chỉ có thể theo đuổi chính những mục đích của nó, một khi những mục đích ấy do chính Chúa Trời kiên quyết đặt ra và chỉ cho nó: cải biến toàn thế giới, vì vậy là cải biến cả toàn bộ nhà nước dị giáo cổ đại thành giáo hội. Như vậy (nghĩa là nhằm vào tương lai), không phải giáo hội có nhiệm vụ tìm cho mình một chỗ đứng xác định trong nhà nước như “mọi đoàn thể xã hội” hay như “một liên minh vì mục đích tôn giáo” (như cách diễn đạt của tác giả mà tôi phản bác), mà trái lại, sau này mọi nhà nước thế tục sẽ phải hoàn toàn biến thành giáo hội và chỉ là giáo hội mà thôi, chứ không là cái gì khác, bằng cách gạt bỏ bất cứ cái gì không phù hợp với mục đích của giáo hội. Tất cả những điều đó không mảy may hạ thấp nhà nước, làm mất danh dự hay vinh quang của nó là một nhà nước vĩ đại, cũng không hại gì đến vinh quang của những người nắm quyền lực nhà nước, mà chỉ đưa nó ra khỏi con đường giả trá lầm lạc, còn mang tính chất dị giáo để đi vào con đường đích thực, đúng đắn duy nhất dẫn đến những mục đích vĩnh cửu. Vì vậy tác giả cuốn “Những nền tảng của tòa án giáo hội” sẽ suy xét đúng nếu như khi đi tìm và trình bày những nền tảng đó, ông chỉ coi đó là sự thỏa hiệp tạm thời vẫn còn cần thiết trong giai đoạn tội lỗi và chưa hoàn tất của chúng ta, và chỉ thế mà thôi. Nhưng hễ người sáng tác ra nền tảng ấy dám cả gan tuyên bổ rằng các nền tảng mà ông đề nghị bây giờ và Cha Ioxif vừa kể ra một phần là nền tảng không gì lay chuyển được, tự phát và vĩnh cửu thì ông đã đi ngược hẳn với giáo hội và định mệnh thiêng liêng, vĩnh hằng và bất di bất dịch của nó. Tất cả bài viết của tôi, tóm tắt thật đủ, là như thế. - Nghĩa là nói gọn lại, - Cha Paixi lại lên tiếng nhấn rõ từng lời - theo một số chủ thuyết đã bộc lộ quá rõ trong thế kỉ mười chín chúng ta, giáo hội phải phát triển thành nhà nước, như từ một chủng loại thấp lên chủng loại cao, để sau đó biến mất trong nhà nước, nhường chỗ cho khoa học, tinh thần thời đại và nền văn minh. Nếu không muốn thế và chống cưỡng lại thì người ta sẽ chỉ dành cho nó một góc nào đó trong nhà nước, mà còn giám sát nó nữa. Hiện nay là như thế ở khắp mọi nơi trong các nước châu Âu thời nay. Nhưng theo quan niệm và ước vọng của người Nga thì không phải giáo hội phát triển thành nhà nước như từ kiểu hình thấp lên kiểu hình cao, mà cuối cùng nhà nước sẽ xứng đáng để trở thành giáo hội và chỉ là giáo hội mà thôi. Xin được như nguyện, Amen! - Xin thú thực là Cha làm cho tôi phấn chấn lên đôi chút. - Miuxov nhếch mép cười, lại bắt chéo chân. - Theo như tôi hiểu thì đấy là sự thực hiện một lí tưởng nào đó, xa vô tận, khi đấng Kito trở lại thế gian. Ai mà chẳng mong như thế. Một mơ ước không tưởng tuyệt đẹp: sẽ không còn chiến tranh, các nhà ngoại giao, các nhà băng và vân vân. Đấy là một cái gì thậm chí na ná như chủ nghĩa xã hội. Vậy mà tôi lại ngờ rằng tất cả những cái đó là thực và chẳng hạn bây giờ giáo hội sẽ xét xử các tội hình sự, sẽ dùng các hình phạt đánh đòn, khổ sai và có lẽ cả tử hình. - Nếu như bây giờ chỉ còn có tòa án giáo hội mà thôi thì giáo hội sẽ không dùng hình phạt đày đi khổ sai hay tử hình. Tội phạm và quan điểm về tội phạm lúc ấy chắc chắn sẽ phải thay đổi, cố nhiên là dần dần, không phải là đột ngột và ngay lúc này, nhưng cũng nhanh thôi… - Ivan Fedorovich nói một cách điềm tĩnh, không chớp mắt. - Anh nói đứng đắn đấy chứ? - Miuxov nhìn chằm chằm vào anh ta. - Nếu tất cả trở thành giáo hội, giáo hội sẽ tuyệt thông với kẻ phạm tội và kẻ không vâng lời chứ không chặt đầu họ. - Ivan Fedorovich nói tiếp. - Tôi xin hỏi các vị: kẻ bị tuyệt thông sẽ đi đâu? Vì khi ấy kẻ đó chẳng những phải xa lánh mọi người, như bây giờ đây, mà còn xa lánh cả Chúa Kito. Bởi vì do phạm tội, y không những chống lại mọi người, mà còn chống cả giáo hội Kito nữa. Ngay cả bây giờ, hiểu theo nghĩa chặt chẽ thì cố nhiên cũng vẫn là như thế, nhưng điều đó không được tuyên bố ra, cho nên lương tâm kẻ phạm tội hiện nay rất hay tự thỏa hiệp với mình: “Ta ăn cắp, nhưng ta không chống lại giáo hội. Ta không phải là kẻ thù của đấng Kito”, kẻ phạm tội ngày nay thường vẫn tự nhủ như vậy nhưng khi giáo hội sẽ thế chân nhà nước thì y khó mà nói điều đó được, trừ phi là phủ nhận cả giáo hội trên trái đất: Cả thiên hạ đều sai lầm, cả thiên hạ đều đi chệch hướng, giáo hội cũng trả giá, chỉ có ta, tên giết người và ăn cắp, là giáo hội Kito chân chính.” Rất khó nói điều đó với bản thân, muốn vậy phải có những điều kiện phi thường, những hoàn cảnh hiếm thấy. Mặt khác, bây giờ hãy xét quan điểm của chính giáo hội về hành vi phạm tội, chẳng lẽ quan điểm ấy không cần đổi khác so với quan điểm gần như dị giáo hiện nay, và thay vì chặt bỏ một cách máy móc bộ phận nhiễm trùng, như hiện nay người ta vẫn làm để bảo vệ xã hội, nó phải cải đổi hoàn toàn và không trả giá thành ý tưởng phục hưng con người, hồi sinh và cứu vớt con người… - Thế là thế nào? Lại một lần nữa tôi không hiểu nổi, - Miuxov ngắt lời. - Lại một mơ ước nữa. Một cái gì không hình thù và không thể hiểu nổi. Sao lại tuyệt thông, tuyệt thông cái gì kia chứ? Tôi ngờ rằng đấy chỉ là anh nói giỡn, Ivan Fedorovich ạ. - Nhưng hiện nay thực trạng chính là như vậy đấy. - Trưởng lão đột nhiên lên tiếng và mọi người nhất loạt hướng về Cha. - Nếu như bây giờ không có giáo hội Kito thì không có cái gì kìm tay kẻ phạm tội gây tội ác và kẻ đó không hề bị trừng phạt sau khi gây tội, đây là nói sự trừng phạt thực sự, không phải là máy móc như ông vừa đề cập đến: không phải thứ hình phạt mà trong phần lớn trường hợp chỉ làm người ta uất ức, mà là thứ hình phạt thực sự, duy nhất có hiệu quả, vừa đáng sợ vừa làm cho người ta yên lòng, vì nó nằm ngay trong sự tự thú của lương tâm. - Thế nào thế nào, Cha cho biết rõ hơn được chứ ạ? - Miuxov hỏi, vẻ hết sức tò mò. - Thế này nhé, - trưởng lão bắt đầu giảng giải. - Tất cả những cuộc đày ải khổ sai ấy, trước kia còn kèm theo cả đánh đập, không uốn nắn được ai, mà cái chính là hầu như không kẻ phạm tội nào sợ nó, và số hành vi phạm tội không những không giảm bớt, mà càng về sau càng tăng lên. Hẳn ông không thể bằng lòng với tình trạng ấy được. Như vậy hóa ra xã hội hoàn toàn không được bảo vệ, bởi vì tuy phần tử có hại bị chặt rời ra một cách máy móc và đày đi xa khuất mắt, nhưng thay vào đó lập tức xuất hiện một kẻ phạm tội khác, có khi là hai. Nếu có cái gì bảo vệ xã hội trong thời buổi hiện nay và thậm chí cải tạo được kẻ phạm tội cải hóa được y thì đấy chỉ là luật của Chúa Kito thể hiện trong sự tự thú của lương tâm. Chỉ có nhận tội với tư cách là con của xã hội Kito, tức là con của giáo hội, kẻ đó mới nhận tội của mình với xã hội, tức là với giáo hội. Như vậy, kẻ phạm tội thời nay có khả năng nhận tội chỉ với giáo hội mà thôi chứ không phải với nhà nước. Nếu như tòa án thuộc về xã hội với tư cách là một giáo hội thì xã hội có sẽ biết nên cắt bỏ và tuyệt thông cho kẻ nào để kẻ đó được trở lại với mình. Bây giờ giáo hội không có một tòa án nào đang hoạt động, mà chỉ có khả năng lên án về tinh thần, giáo hội từ bỏ việc trừng trị bằng hình phạt thực thi đối với kẻ phạm tội. Giáo hội không tuyệt thông, mà răn bảo với tình cha con. Hơn nữa, giáo hội còn cố giữ toàn bộ mối liên hệ của nhà thờ Kito với kẻ phạm tội: cho dự lễ, cho chịu phép ban thánh thể, ra tay làm phúc nếu họ khốn khó, coi họ như kẻ bị cám dỗ hơn là kẻ có tội. Kẻ phạm tội sẽ ra sao, ôi lạy Chúa, nếu như xã hội Kito, tức là giáo hội, sẽ ruồng bỏ họ như luật dân sự ruồng bỏ và đoạn tuyệt với họ? Sự thể sẽ ra sao nếu giáo hội cũng tức giận phạt vạ tuyệt thông mỗi khi họ bị pháp luật nhà nước trừng trị? Sẽ không có sự tuyệt vọng nào lớn hơn nữa, ít ra là với kẻ phạm tội người Nga, vì kẻ phạm tội người Nga vẫn còn có đức tin. Nhưng ai biết đâu khi ấy có thể xảy ra một điều khủng khiếp: có thể xảy ra sự mất đức tin trong trái tim tuyệt vọng của kẻ phạm tội, nếu vậy thì sao? Nhưng giáo hội như người mẹ dịu hiền đầy lòng yêu thương, tự mình từ bỏ sự trừng phạt bằng hành động, bởi vì không có sự trừng phạt của giáo hội thì kẻ phạm tội cũng đã bị tòa án của nhà nước trừng phạt quá đau rồi, và phải có người thương xót họ chứ. Lí do chủ yếu khiến giáo hội không trừng phạt vì tòa án giáo hội là tòa án duy nhất thâu nhận được chân lí và do đó, về bản chất cũng như về tinh thần, không thể kết hợp với bất kì tòa án nào khác và thậm chí không thể có sự thỏa hiệp tạm thời. Ở đây không thể có sự câu kết. Người ta bảo người nước ngoài mà phạm tội thì ít khi ăn năn, bởi vì chính các học thuyết thời nay khiến họ đinh ninh trọng tội của họ không phải là tội, mà chỉ là sự nổi dậy chống lại lực lượng áp bức bất công. Xã hội chặt đứt liên hệ với họ bằng một sức mạnh chế áp họ một cách hoàn toàn máy móc và kèm theo sự tuyệt thông ấy lại còn dai thù họ (ít nhất là ở châu Âu người ta tự nói ra như thế) - căm thù và hoàn toàn thờ ơ với số phận sau này của họ, người anh em của mình, quên hẳn họ. Như vậy mọi việc diễn ra không có chút tình thương nào của giáo hội, bởi vì trong nhiều trường hợp ở đấy hoàn toàn không còn giáo hội, chỉ còn các thầy tu và những ngôi nhà thờ tráng lệ, ở đấy đã từ lâu chính giáo hội khao khát chuyển từ chủng loại thấp là giáo hội, lên chủng loại cao là nhà nước, để hoàn toàn biến mất trong nhà nước. Hình như ít nhất cũng là như thế ở các xứ theo đạo Luthơ. Ở La Mã đã một nghìn năm nay, nhà nước được thành lập thay thế cho giáo hội. Bởi vậy kẻ phạm tội không nhận ra mình là thành viên của giáo hội, và khi bị tuyệt thông thì họ thất vọng. Nếu họ trở lại xã hội thì thường thường mang trong lòng mối hận thù về nỗi chính xã hội dường như chủ động đoạn tuyệt với họ. Kết cục sẽ ra sao, các vị có thể tự mình xét đoán. Trong nhiều trường hợp hình như ở ta cũng vậy. Nhưng được cái là ngoài những tòa án đã được thiết lập, ở ta còn có cả giáo hội không bao giờ để mất liên lạc với kẻ phạm tội, luôn luôn coi họ là đứa con thân thương vẫn đáng quý đáng mến, ngoài ra, tòa án giáo hội vẫn còn tồn tại ít nhất là trong tâm tưởng, bây giờ tuy không thực sự hoạt động nhưng vẫn sống cho tương lai, ít ra là trong mơ ước, và chắc chắn là được chính kẻ phạm tội thừa nhận theo bản năng tâm hồn của họ. Có một điều đúng đắn ban nãy đã được nói ra ở đây: nếu tòa án giáo hội thực sự bắt đầu hoạt động với hiệu lực đầy đủ, nghĩa là nếu toàn thể xã hội chuyển biến thành giáo hội, và chỉ là giáo hội mà thôi, thì chẳng những tòa án giáo hội sẽ có ảnh hưởng chưa từng thấy đến việc cải hóa tội nhân, mà có lẽ chính sự phạm tội cũng giảm đi một mức độ khó tưởng tượng nồi. Vả chăng, không nghi ngờ gì nữa, trong tương lai, giáo hội trong nhiều trường hợp sẽ hiểu kẻ phạm tội và hành vi phạm tội khác hẳn hiện nay, và giáo hội có thể đưa kẻ bị tuyệt thông trở về với mình, ngăn ngừa kẻ có ý đồ phạm tội và vực dậy kẻ đã sa ngã. Thực ra, - trưởng lão nhếch mép cười, - hiện giờ xã hội Kito vẫn chưa sẵn sàng và vẫn chỉ dựa trên bảy nhà hiền triết(2); nhưng bởi vì họ không suy yếu đi, nên xã hội Kito vẫn không lay chuyển, vẫn chờ đến lúc nó chuyển biến hoàn toàn từ một xã hội vốn là một liên minh gần như tà giáo thành một giáo hội thống nhất bao trùm cả vũ trụ và nắm quyền trị vì. (2) Bảy nhà hiền triết cổ Hy Lạp là tác giả của những châm ngôn về cách xử thế khôn ngoan (chẳng hạn “Hãy nhận biết bản thân mình” của Talet. “Đừng có gì quá đáng” của Xolon, v.v…). Thành phần của “bộ bảy” này thay đổi ở những văn bản khác nhau (N.D). - Xin được như nguyện, amen! Cho dù đến kì tận thế đi nữa: bởi vì mệnh trời đã định là chỉ cái đó được thành tựu! Không nên bối rối về thời gian và kì hạn, bởi vì bí mật về lời gian và kì hạn ở trong sự anh minh ở Thượng đế, ở sự tiên tri và tình yêu của Ngài. Có nhưng cái theo sự tính toán của con người có thể còn rất xa vời thì theo mệnh trời định sẵn, có lẽ đã sắp xuất hiện, đã ở ngay ngưỡng cửa. Xin được như nguyện, amen! - Amen, amen! - Cha Paixi lặp lại một cách sùng kính và nghiêm khắc. - Lạ thật, quá đỗi lạ lùng! - Miuxov thốt lên không hẳn là nóng nảy, và dường như là phẫn nộ ngấm ngầm. - Ông thấy cái gì lạ lùng đến thế? - Cha Ioxif thận trọng hỏi. - Nhưng thực ra thế là cái quái gì? - Miuxov kêu lên, dường như đột nhiên nổ bùng. - Nhà nước bị loại bỏ trên trái đất, còn giáo hội được tôn lên thành nhà nước! Đấy không phải là “chủ nghĩa giáo hoàng” nữa, mà là “chủ nghĩa giáo hoàng cực đoan”! Đến cả giáo hoàng Gregoa VII cũng chưa từng mơ tưởng như thế(3). (3) Giáo hoàng Gregoa VII (1073-1085) ở La Mã, chủ trương giáo hoàng có quyền lực vô giới hạn (N.D). - Xin ông hiểu hoàn toàn ngược lại cho! - Cha Paixi nói một cách nghiêm nghị - Không phải giáo hội biến thành nhà nước, xin hãy hiểu điều đó. Đấy là La Mã và mơ ước của nó. Đấy là sự cám dỗ thứ ba của quỷ(4). Nhưng đây là trái lại. Nhà nước biến thành giáo hội, vươn lên thành giáo hội và trở thành giáo hội trên toàn trái đất, điều đó hoàn toàn đối nghịch với “chủ nghĩa giáo hoàng”, với La Mã và cách lí giải của ông, đấy chỉ là định mệnh cao siêu của đạo chính thống trên trái đất. Ôi, từ phương Đông ngôi sao ấy đang mọc lên chói lọi. (4) Theo lịch Kinh Thánh. Chúa Jesus bị quỷ ba lần cám dỗ. “Lần cám dỗ thứ ba” ở đây là chỉ sự cám dỗ bằng quyền lực thế gian (N.D). Miuxov im lặng một cách uy nghi. Toàn bộ dáng vẻ của ông biểu lộ một phẩm cách phi thường. Một nụ cười vừa kiêu kì vừa bao dung thoáng hiện trên môi ông. Aliosa theo dõi mọi chuyện, tim đập thình thịch. Toàn bộ cuộc đàm thoại này làm anh vô cùng lo lắng, tình cờ anh nhìn Rakitin vẫn đứng không nhúc nhích ở chỗ của anh ta cạnh cửa, chăm chú lắng nghe và nhìn, tuy mặt gằm xuống. Nhưng, thấy má anh ta đỏ bừng, Aliosa đoán ra Rakitin cũng xúc động không kém gì mình. Anh biết anh ta lo lắng điều gì. - Cho phép tôi kể với các vị một giai thoại nhỏ, - Miuxov bỗng nói bằng giọng nghiêm trang, với dáng vẻ đặc biệt bệ vệ. - Ở Paris mấy năm trước, ngay sau cuộc chính biến tháng Chạp(5) tôi có dịp đến thăm một người quen là một nhân vật rất quan trọng đương cầm quyền, ở nhà ông ta, tôi gặp một người hết sức kì lạ. Gã này không hẳn là do thám, nhưng đại loại là kẻ cai quản một đội những tên do thám chính trị, cũng là một chức vụ khá có thể lực. Nhân cơ hội, tôi nói chuyện với y, vì rất đỗi tò mò, bởi vì y không phải là chỗ quen biết của chủ nhà, mà là viên chức cấp dưới đến đại loại là để báo cáo, và thấy tôi là khách của cấp trên của y, y có phần thành thật với tôi, tất nhiên là ở mức độ nhất định, có nghĩa là lễ phép thì đúng hơn là thành thật, đúng như cung cách lễ độ của người Pháp, nhất là y thấy tôi là người nước ngoài. Nhưng tôi rất hiểu y. Chúng tôi nói về những người cách mạng theo chủ nghĩa xã hội mà hồi ấy đang bị đàn áp. Tôi bỏ qua phần chính yếu của cuộc nói chuyện, chỉ xin nêu ra đây một nhận xét rất đáng chú ý mà tay này buột miệng nói ra: “Nói cho đúng, chúng tôi không sợ tất cả những kẻ theo chủ nghĩa xã hội đó - những phần tử vô chính phủ, vô thần và cách mạng; chúng tôi vẫn theo dõi họ, đường đi nước bước của họ chúng tôi biết. Nhưng trong số họ có một số người đặc biệt, tuy không nhiều: đấy là những người tin Chúa và người Kito giáo mà lại theo chủ nghĩa xã hội. Chính những người ấy mới là loại mà chúng tôi sợ hơn cả, đấy là loại người đáng sợ. Người xã hội chủ nghĩa theo đạo Kito đáng sợ hơn người xã hội chủ nghĩa vô thần.” Những lời đó ngay hồi ấy cũng đã làm tôi sửng sốt, nhưng bây giờ, hầu tiếp các vị ở đây, thưa các vị, tôi bỗng nhớ lại… (5) Cuộc chính biến ngày 2 tháng Chạp 1851. Luis Napoleon Bonapart tuyên bố lên ngôi hoàng đế (N.D). - Nghĩa là ông đem những lời đó vận vào chúng tôi và coi chúng tôi là người theo chủ nghĩa xã hội chứ gì? - Cha Paixi hỏi chàng, không quanh co gì hết. Nhưng Petr Alecxandrovich chưa kịp trả lời thì cửa mở và Dmitri Fedorovich bước vào, đến như thế là quá muộn. Thực quả người ta không còn trông đợi chàng nữa, việc chàng xuất hiện bất ngờ khiến cho lúc đầu mọi người hơi ngạc nhiên. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 6 Dmitri Fedorovich là một thanh niên hai mươi tám tuổi, người tầm thước có khuôn mặt dễ coi, nhưng dường như già hơn tuổi. Thân hình chàng cơ bắp nở nang, có thể đoán được chàng có thể lực hơn người, nhưng mặt chàng có một vẻ gì bệnh hoạn. Mặt hốc hác, má hõm, nước da vàng ệch. Mắt ốc nhồi khá to thẫm màu, có cái nhìn rõ ràng là bướng bỉnh, nhưng hơi vu vơ. Ngay cả khi chàng xúc động và nói năng cáu kỉnh, ánh mắt dường như cũng không ăn nhập với nội tâm, mà biểu lộ một cái gì khác đôi khi hoàn toàn không phù hợp với lúc đó. “Khó mà biết được anh ta đang nghĩ gì.” - những người đã nói chuyện với chàng đôi khi nhận xét như vậy. Có khi người ta nhìn thấy trong mắt chàng một vẻ gì đăm chiêu và buồn bực nhưng bỗng nhiên người ta sửng sốt vì tiếng cười bất ngờ chứng tỏ chàng đang có những ý nghĩ vui vẻ và tinh nghịch đúng vào lúc mắt chàng lộ vẻ buồn bực như vậy. Tuy nhiên, mặt chàng lúc này hơi có vẻ đau ốm thì cũng dễ thôi: mọi người đều biết hoặc nghe nói về cuộc sống “chơi bời” sóng gió mà chàng dấn mình vào trong thời gian gần đây, cũng như ai nấy đều biết chàng hết sức bực tức do những cuộc cãi cọ với bố về chuyện tranh chấp tiền nong. Trong thành phố đã lan truyền mấy chuyện tiếu lâm về việc này. Của đáng tội, anh chàng vốn bẳn tính, một “đầu óc tản mạn và lệch lạc” như viên thẩm phán hòa giải Xemion Ivanovich Katsannikov của chúng tôi đã nhận xét trong một cuộc họp. Chàng vào, ăn mặc bảnh bao không chê vào đâu được, áo ngoài cài cúc, đi găng tay đen, hai tay cầm chiếc mũ cao thành. Là một quân nhân mới xuất ngũ, chàng để ria còn râu cằm cạo nhẵn. Tóc màu hạt dẻ sẫm cắt ngắn và hai bên tóc mai chải lật về phía trước. Chàng bước những bước dài cả quyết, kiểu con nhà binh. Chàng dừng lại giây lát ở ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn tất cả mọi người rồi tiến thắng đến trước trưởng lão vì đoán ra Cha là chủ ở đây. Chàng rạp mình chào và xin ban phước. Trưởng lão đứng dậy ban phước, Dmitri kính cẩn hôn tay Cha và thốt lên, giọng xúc động lạ thường gần như cáu kỉnh. - Xin rộng lòng thứ lỗi cho tôi đã để các vị phải chờ lâu như thế. Nhưng mặc dù tôi hỏi đi hỏi lại là mấy giờ, tên gia nhân Xmerdiakov mà ba tôi sai đi đã hai lần trả lời hết sức quả quyết rằng thời gian đã định là một giờ. Bây giờ tôi mới biết rằng… - Ông đừng ngại, - trưởng lão ngát lời - không sao, chậm một chút không có gì ghê gớm… - Rất đỗi cảm ơn Cha, lòng tốt của Cha quả đúng như con mong đợi. Nói xong mấy lời gọn lỏn ấy, Dmitri Fedorovich cúi chào lần nữa, rồi đột ngột quay về phía “ba” mình, rạp mình chào cũng kính cẩn như thế. Rõ ràng là chàng đã nghĩ kĩ từ trước về cái chào ấy với tấm lòng chân thành, chàng cho rằng mình có bổn phận bày tỏ sự tôn kính và thiện ý. Fedor Pavlovich này bị bất ngờ, nhưng lập tức ứng biến theo cách riêng của ông ta: đáp lại cái chào của con, ông ta bật dậy khỏi ghế và chào lại con cũng cung kính như thế. Mặt ông bỗng trở nên trịnh trọng và oai nghiêm, nhưng vì thế lại có vẻ hết sức độc ác. Dmitri Fedorovich lẳng lặng cúi chào tất cả mọi người có mặt trong phòng, rồi sải mấy bước dài và cả quyết đi về phía cửa sổ, ngồi xuống chiếc ghế duy nhất còn lại cách chỗ Cha Paixi không xa, và nhoài hẳn người về phía trước, sẵn sàng nghe người ta bàn tiếp câu chuyện bỏ dở. Sự xuất hiện của Dmitri Fedorovich chiếm mất không quá hai phút, và cuộc chuyện trò không thể không tiếp tục. Nhưng lần này Petr Alecxandrovich không thấy cần thiết phải trả lời câu hỏi dai dẳng và gần như cáu kỉnh của Cha Paixi. - Tôi xin phép gác bỏ đề tài này, - ông nói với giọng khinh khỉnh của người thượng lưu. - Vả chăng đây là một đề tài rắc rối. - Đấy kìa, Ivan Fedorovich đang cười chúng ta đấy, chắc hẳn anh ấy có chuyện gì thú vị muốn nói. - Chẳng có gì đặc biệt, ngoài một nhận xét nhỏ! - Ivan Fedorovich trả lời liền. - Nói chung, chủ nghĩa tự do châu Âu và ngay cả thói tài tử phóng túng của người Nga chúng ta đã từ lâu vẫn hay trộn lẫn những kết quả cuối cùng của chủ nghĩa xã hội và những kết quả cuối cùng của Kito giáo. Cái kết luận kì quái ấy cố nhiên là một nét đặc trưng. Thế nhưng không phải chỉ có những người theo chủ nghĩa tự do và những kẻ có đầu óc tài tử mới lẫn lộn chủ nghĩa xã hội với Kito giáo, mà trong nhiều trường hợp cả sen đầm cũng vậy, tất nhiên đây là nói sen đầm nước ngoài. Cái giai thoại Paris mà bác vừa kể khá tiêu biểu đấy, bác Petr Alecxandrovich ạ. - Nói chúng tôi xin phép quý vị gác bỏ đề tài ấy. - Petr Alecxandrovich nhắc lại. - Thưa quý vị, thay vào đó tôi xin kể một giai thoại khác, rất lí thú và rất tiêu biểu về chính Ivan Fedorovich. Cách đây không quá năm ngày, trong một cuộc họp mặt tại thành phố này mà phụ nữ chiếm phần lớn, nhân lúc tranh luận anh ấy đã tuyên bố rằng trên trái đất này tuyệt nhiên không có cái gì khiến người ta phải yêu đồng loại, không có cái luật tự nhiên nào bảo người ta phải yêu nhân loại, nếu như cho đến nay vẫn có tình yêu trên trái đất thì không phải là do luật tự nhiên, mà chỉ là vì người ta tin ở linh hồn bất diệt của mình, Ivan Fedorovich khi ấy đã mở ngoặc nói thêm rằng tất cả luật tự nhiên ở đó, thành thử nếu tiêu hủy trong con người lòng tin ở linh hồn bất diệt thì chẳng phải tình yêu, mà mọi sinh lực để tiếp tục cuộc sống trần thế sẽ cạn kiệt. Hơn nữa, khi ấy sẽ không còn cái gì là vô đạo đức, mọi việc đều được phép làm, ngay cả án giết người. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, cuối cùng anh ấy còn kết luận rằng đối với mỗi con người cá biệt như chúng ta đây chẳng hạn, nếu không tin có Thượng đế cũng như không tin mình có linh hồn bất diệt thì luật đạo đức của thiên nhiên ắt phải lập tức biến thành cái đối lập hoàn toàn với luật đạo đức tôn giáo trước đây và con người chẳng những phải được phép ích kỉ đến độ tàn ác mà sự ích kỉ đó còn được thừa nhận là lối thoát cần thiết, hợp lí nhất và gần như là cao quý nhất của con người. Cứ theo cái ý kiến ngược đời như thế, thưa quý vị, có thể kết luận về tất cả những gì còn lại mà Ivan Fedorovich đáng mến, con người kì quặc và ưa sự ngược đời, thấy là nên công bố và có lẽ vẫn còn có ý định công bố ra. - Xin cho hỏi. - Dmitri Fedorovich đột nhiên kêu lên, - nếu tôi nghe không lầm: “Sự gian ác chẳng những được phép làm, mà còn được thừa nhận là lối thoát hết sức cần thiết và thông minh nhất cho bất cứ người vô thần nào.” Phải thế không ạ? - Đúng thế - Cha Paixi nói. - Tôi sẽ ghi nhớ. Nói đoạn, Dmitri Fedorovich im bặt ngay, cũng đột ngột như khi chàng xen vào câu chuyện. Mọi người tò mò nhìn chàng. - Có thực ông tin chắc trong khi con người không còn tin có linh hồn bất diệt thì hậu quả ắt là như thế không? - Trưởng lão bỗng hỏi Ivan Fedorovich. - Vâng tôi khẳng định điều đó. Không có đức hạnh nếu không có sự bất diệt của linh hồn. - Nếu ông tin như thế thì ông thật hạnh phúc hoặc là rất bất hạnh! - Tại sao lại bất hạnh? - Ivan Fedorovich mỉm cười. - Bởi vì nhiều phần chắc là ông không tin linh hồn ông là bất diệt, mà cũng không tin những gì ông viết về giáo hội và vấn đề giáo hội. - Có lẽ Cha có lí!… Nhưng dẫu sao không hẳn là tôi nói đùa… - Ivan Fedorovich bỗng thú nhận, và sự thú nhận lạ lùng ấy lập tức khiến chàng đỏ mặt. - Không hẳn là ông đùa, đúng vậy. Ý nghĩ ấy vẫn chưa nhất quyết trong tâm tư ông, vì vậy ông bị giày vò. Nhưng kẻ bị hành hạ đôi khi thích tiêu khiển bằng sự thất vọng của mình, hoặc giả cũng do thất vọng. Hiện giờ do thất vọng mà ông tiêu khiển bằng các bài báo, những cuộc tranh luận phù phiếm, nhưng chính ông không tin phép biện chứng của mình và đau lòng tự cười mình. Ở ông vấn đề đó chưa được giải quyết đấy là nỗi đau xót lớn của ông, vì nó khẩn thiết đòi phải được giải quyết. - Thế liệu nó có thể được giải quyết trong tâm tư tôi không? - Giải quyết theo hướng khẳng định ấy à? - Ivan Fedorovich tiếp tục nêu ra câu hỏi lạ lùng đồng thời nhìn trưởng lão, miệng vẫn mỉm cười khó hiểu. - Nếu không thể giải quyết theo hướng khẳng định thì không bao giờ có thể giải quyết hướng phủ định, chính ông, biết tính chất ấy của trái tim ông, tất cả sự giày vò của nó là vì thế. Nhưng ông hãy cảm ơn đấng Tạo Hóa đã cho ông một trái tim cao cả có khả năng đau khổ vì nỗi day dứt như thế, có khả năng “suy ngẫm và tìm kiếm những việc trên Trời - vì chỗ ở của chúng ta là ở trên Trời”. Cầu Chúa cho trái tim ông tìm được cách giải quyết ngay trên cõi thế gian này và Chúa ban phước lành cho con đường ông đi! Trưởng lão giơ tay lên, toan ngồi tại chỗ làm dấu thánh giá cho Ivan Fedorovich. Nhưng chàng bỗng đứng dậy, tới trước Cha, nhận phước Cha ban cho, rồi hôn tay Cha và lẳng lặng trở về chỗ. Nom chàng kiên quyết và nghiêm trang. Hành động ấy cũng như toàn bộ cuộc nói chuyện trước đó với trưởng lão, cuộc nói chuyện bất ngờ do Ivan Fedorovich mà ra, có tính chất bí ẩn và thậm chí có phần trịnh trọng khiến cho mọi người đều sửng sốt đến nỗi tất cả đều im lặng một lát, còn mặt Aliosa lộ vẻ gần như sợ hãi. Nhưng Miuxov bỗng nhún vai và đúng lúc ấy Fedor Pavlovich bật dậy khỏi ghế. - Kính thưa trưởng lão thần thánh và tối thiêng liêng! - ông ta trỏ Ivan và kêu lên. - Đây là con trai con, máu mủ ruột thịt của con, phần máu thịt yêu quý nhất của con! Đây là đứa con đáng trọng nhất của con, có thể nói là Carl Mor, còn anh con trai này vừa vào ban nãy, mà con muốn nhờ Cha giúp con để trị nó, là tên Franx Mor đại bất kính, - cả hai đều là nhân vật trong “Lũ kẻ cướp của Siller”, còn bản thân con trong trưởng hợp này, con là Regierender Graf Von Mor!(1) Xin Cha hãy phân xử và cứu vớt chúng con! Chúng con không chỉ cần những lời cầu nguyện của Cha, mà cần cả lời tiên tri của Cha. Chú thích (1)Regierender Graf Von Mor (tiếng Đức) nghĩa là: bá tước fon Mor quyền uy. - Ông đừng nói năng kiểu dở điên dở dại và đừng có xúc phạm người nhà ông. - Trưởng lão trả lời bằng giọng suy kiệt. Cha mệt mỏi trông thấy, càng về sau càng đuối hơn, mất sức rõ rệt. - Một trò hài kịch vô sỉ mà tôi linh cảm thấy ngay khi đến đây. - Dmitri Fedorovich phẫn nộ kêu lên, thậm chí đứng phắt dậy. - Trình Cha, xin Cha thứ lỗi, - chàng nói với trưởng lão, - con là kẻ ít học, thậm chí con không biết tôn xưng Cha thế nào, nhưng người ta đánh lừa Cha, và Cha quá tốt nên mới cho chúng con hội họp ở nhà Cha. Ba con chỉ cần gây chuyện tai tiếng, còn để làm gì thì đấy là mưu tính của ông. Ông ấy bao giờ cũng có tính toán. Nhưng hình như bây giờ con biết ông ấy nhằm mục đích gì rồi… - Tất cả đều buộc tội, tất cả bọn họ! - Đến lượt Fedor Pavlovich kêu lên. - Cả Piotr Alecxandrovich kia cũng thế. Ông buộc tội tôi, Petr Alecxandrovich, ông buộc tội tôi! - ông ta bỗng quay về phía Miuxov, tuy Miuxov không hề có ý ngắt lời ông ta. - Họ buộc tội tôi giấu tiền của các con tôi và lấy hết sạch trơn của chúng, nhưng xin hỏi, phải chăng không có tòa án? Ở đấy người ta sẽ tính toán, Dmitri Fedorovich ạ, căn cứ vào chính những giấy biên nhận, thư từ và giao kèo của anh, thế là sẽ rõ ngay anh có bao nhiêu, tiêu hết bao nhiêu, còn lại bao nhiêu thôi mà! Vì sao Petr Alecxandrovich tránh lên tiếng? Dmitri Fedorovich đâu có phải là người dưng nước lã đối với ông ấy. Là bởi vì mọi người đều quy tội cho tôi, còn thằng Dmitri Fedorovich thì rút cục nó thiếu nợ tôi, không phải là ít, mà đến mấy nghìn rúp, tôi có đủ mọi giấy tờ chứng minh điều đó! Cả thành phố điên đảo ầm ĩ lên vì nhũng cuộc ăn chơi của nó đấy thôi! Còn ở nơi trước kia nó tại ngũ, nó phung phí tới một vài ngàn đồng để quyến rũ con gái nhà tử tế. Ta biết chuyện ấy, Dmitri Fedorovich ạ, biết cả những chi tiết hết sức bí mật, và ta sẽ chứng minh… Thưa đức cha chí thánh chí thiện, chẳng biết Cha có tin không: hắn đã say mê một cô gái hết sức cao quý, con nhà tử tế có gia tư, con gái vị chỉ huy trước kia của hắn, một đại tá dũng cảm có công lao được thưởng huân chương “Anna với hai thanh gươm”(2); tai hại cho cô gái là hắn đã cầu hôn, bây giờ nàng hiện ở đây, mồ côi, nàng là vợ chưa cưới của hắn, vậy mà ngay trước mắt nàng, hắn vẫn lui tới với một ả có tiếng quyến rũ đàn ông ở vùng ta đây. Bất kể rằng cô ả có thể nói là kết hôn theo luật với một người đáng trọng, nhưng tính tình độc lập, một pháo đài bất khả xàm phạm đối với tất cả mọi người, dù sao cô ả cũng là vợ hợp pháp, cô ả là người đức hạnh mà, dạ vâng, cô ả là người đức hạnh! Vậy mà Dmitri Fedorovich muốn mở cửa pháo đài ấy bằng chiếc chìa khóa vàng, vì thế bây giờ nó xấc láo với tôi nó muốn bòn tiền của tôi, nhưng đến nay nó đã phung phí hàng nghìn đồng cho con yêu phụ đó, cho nên nó không ngớt vay tiền, mà vay ai, các vị có tưởng tượng được không? Nói ra hay thôi, Mitia? (2) Từ 1866, trên huân chương thánh Anna, cũng như các huân chương chiến công khác, có hình hai gươm gươm bắt chéo. - Im mồm đi! - Dmitri Fedorovich quát lên. - Hãy để tôi ra khỏi đây đã, chứ trước mặt tôi ông chớ có cả gan bôi nhọ một người con gái cao quý nhất… Chỉ riêng một điều ông dám hé răng nói đến nàng cũng là làm nhục nàng rồi… Tôi không cho phép! Chàng ngạt thở. - Mitia, Mitia! - Fedor Pavlovich la lên một cách nóng nảy, cố rặn cho ra nước mắt. - Lời chúc phúc của bố, mày không coi vào đâu à? Nếu tao nguyền rủa thì sẽ ra sao? - Thật là trơ trẽn và dối trá! - Dmitri Fedorovich gầm lên. - Nó đối xử với bố nó như thế đấy, với bố nó! Thế thì với người khác còn ra thế nào? Thưa các vị, các vị tưởng tượng xem: Ở đây có một người nghèo, nhưng đáng kính, một đại úy giải ngũ, ông ta gặp chuyện rủi ro phải rời khỏi quân ngũ, chứ không phải vì bị kỉ luật, không phải ra tòa, danh dự ông vẫn nguyên vẹn, ông ta phải gánh vác một gia đình đông người. Vậy mà ba tuần trước ở quán rượu, Dmitri Fedorovich của chúng ta túm râu ông ta lôi xềnh xệch ra đường và đánh ông ta ở ngoài đường trước mắt cả bàn dân thiên hạ, tất cả chỉ vì ông ta là người được tôi kín đáo nhờ lo liệu cho tôi một việc. - Dối trá tuốt! Bề ngoài là sự thật, bên trong là dối trá! - Dmitri Fedorovich giận run cả người lên. - Ba ơi! Tôi không bào chữa cho hành động của tôi, vâng, tôi thú nhận trước tất cả mọi người: tôi đối xử dã man như thú vật với ông đại úy ấy và bây giờ tôi lấy làm tiếc, tôi tự khinh mình về cơn giận dã man ấy, nhưng ông đại úy ấy của ba, người được ba ủy nhiệm đã đến gặp chính người đàn bà mà ba gọi là kẻ quyến rũ đàn ông và nhân danh ba đề nghị nàng lấy những kì phiếu của tôi hiện nằm trong tay ba, rồi phát đơn kiện để tôi bị tù vì những kì phiếu đó, nếu như tôi cứ nằng nặc đòi ba thanh toán tài sản cho tôi. Bây giờ ba trách tôi mê người đàn bà ấy, trong khi chính ba bày cách cho nàng đưa tôi vào bẫy! Nàng kể lại không úp mở, chính nàng đã kể với tôi để chế nhạo ba! Ba muốn bỏ tù tôi chỉ vì ba ghen với tôi về nàng, bởi vì chính ba bắt đầu bám người đàn bà ấy, chuyện đó tôi cũng biết hết, và nàng cười ba, nghe đây, chính là để chế nhạo ba mà nàng kể lại. Thưa các Cha, con người này là như thế đấy, cái ông bố trách mắng đứa con trai phóng đãng! Các vị chứng kiến sự việc này, xin thứ lỗi cho sự giận dữ của tôi, nhưng tôi đã cảm thấy trước rằng ông già quỷ quyệt này mời tất cả các vị đến đây để gây nên một vụ đấu khẩu tai tiếng. Tôi đến đây để tha thứ, nếu như ba tôi đưa tay ra cho tôi, tôi đến để tha thứ và xin tha thứ! Nhưng bởi vì lúc này đây ông ấy không chỉ lăng nhục tôi, mà lăng nhục cả cô gái vô cùng cao quý mà thậm chí tôi không dám tùy tiện nói tên ra vì tôn kính nàng, nên tôi quyết công khai phơi ra tất cả trò chơi của ông ấy, tuy ông ấy là bố tôi… Chàng không nói tiếp nữa. Mắt chàng quắc lên, chàng thở hồng hộc. Nhưng mọi người có mặt trong phòng đều lo lẳng. Trừ trưởng lão, tất cả bồn chồn đứng lên. Các giáo sĩ nom nghiêm nghị, nhưng họ chờ xem ý trưởng lão. Trưởng lão vẫn ngồi, mặt tái mét nhưng không phải vì xúc động mà vì ốm yếu. Một nụ cười van vỉ hiện rõ trên môi Cha, thỉnh thoáng Cha giơ tay lên như muốn ngăn chặn những kẻ đang nổi cơn điên, và cố nhiên chỉ một cử chỉ của Cha cũng đủ để chấm dứt màn kịch này; nhưng Cha dường như vẫn như đợi điều gì và chăm chú nhìn, dường như muốn hiểu rõ điều gì, dường như có điều gì vẫn chưa rõ lắm. Cuối cùng Petr Alecxandrovich Miuxov dứt khoát cảm thấy mình bẽ mặt và bị làm nhục. - Tất cả chúng ta đều có lỗi về cái chuyện nhục nhã vừa xảy ra! - ông nói một cách sôi nổi. - Nhưng khi đến đây tôi vẫn không cảm thấy trước điều đó, tuy tôi biết tôi giao thiệp với ai… Việc đó phải chấm dứt ngay tức khắc! Trình Cha, xin Cha tin rằng tôi không biết đích xác mọi chi tiết vừa được phanh phui, ở đây tôi muốn tin, và mãi bây giờ lần đầu tiên tôi mới biết… Bố ghen với con về một ả đĩ thõa, và chính mình âm mưu với ả để đưa con vào tù… Tôi bị ép đưa đến đây nhập bọn với những kẻ như thế. Tôi bị lừa, tôi tuyên bố với tất cả các vị rằng tôi bị lừa không kém gì những người khác… - Dmitri Fedorovich! - Fedor Pavlovich bỗng gào lên, giọng lạc hẳn đi. - Nếu như anh không phải là con trai tôi thì ngay lúc này tôi sẽ đòi anh… đấu súng. Cách ba bước… Qua chiếc mùi xoa, qua chiếc mùi xoa! - ông ta giậm hai chân bành bạch, dứt lời. Những người già dối trá suốt đời đóng kịch vẫn có những phút nhập vai đến mức họ thực sự run lên và khóc vì xúc động, mặc dù ngay lúc ấy, hay chỉ một giây sau, họ đã có thể tự nhủ: “Ta dối trá mà, lão già trơ trẽn, ngay cả lúc này ta vẫn đóng trò thôi mà, mặc dù tất cả cơn giận “thiêng liêng” và phút giận dữ thiêng liêng của ta.” - Tôi cứ tướng… Tôi cứ tưởng rằng. - Chàng nói khẽ và dè dặt. - Tôi về quê với người vợ chưa cưới, thiên thần của tâm hồn tôi, để chăm sóc cha già, vậy mà tôi chỉ thấy một kẻ dâm đãng, hám gái, một tên hề hết sức đê tiện! - Đấu súng! - Lão già lại gào lên, thở hổn hển và cứ mỗi lời lại phun nước miếng ra. - Còn ông Petr Alecxandrovich Miuxov, thưa tiên sinh, tiên sinh nên biết rằng có lẽ trong cả dòng họ của ngài chưa bao giờ có người phụ nữ nào cao quý hơn và chính trực hơn, ông nghe đây, chính trực hơn người phụ nữ mà ông dám cả gan gọi là “đồ súc sinh” nọ. Còn anh, Dmitri Fedorovich, anh đã đánh đổi vợ chưa cưới của anh lấy “con súc sinh” đó, vậy là chính anh xét anh rằng vợ chưa cưới của anh không bén gót cô ta, cái đồ súc sinh ấy là thế đấy! - Xấu hổ! - Cha Ioxif buột thốt lên. - Xấu hổ và nhục nhã! - Kalganov từ đầu đến giờ vẫn im lặng bỗng kêu lên bằng cái giọng thiếu niên run run vì xúc động của mình, mặt đỏ bừng. - Sao lại có con người như thế ở trên đời này cơ chứ! - Dmitri Fedorovich gầm lên bằng giọng khàn, tức giận gần như điên cuồng, phướn cao hẳn hai vai lên đến nỗi nom như gù. - Ồ không, tôi xin hỏi, liệu còn có thể để cho ông ta làm ô danh trái đất này nữa không. - Chàng vừa giơ tay trỏ ông già vừa đưa mắt nhìn tất cả mọi người, nói một cách chậm rãi và đều đều. - Các vị nghe thấy chứ, thưa các đấng tu hành, các vị nghe thấy thằng con giết bố nói gì chứ. - Fedor Pavlovich sừng sộ với Cha Ioxif. - Câu trả lời cho tiếng “xấu hổ” của Cha đó! Có gì là xấu hổ nào? “Cái đồ súc sinh” đó, “ả đĩ thoã” đó có lẽ còn thánh thiện hơn chính các ngài giáo sĩ đang tu hành để cứu rỗi linh hồn! Có lẽ thời trẻ nàng đã sa ngã, do hoàn cánh xô đẩy(3), nhưng nàng “đã yêu nhiều”. Mà Chúa Kito tha thứ cho người đàn bà đã yêu nhiều… (3)Theo Phúc âm Luca, Chúa Kito phán về người đàn bà xấu nết “Tội lỗi người đàn bà này nhiều lắm, nhưng đã được tha hết, vì nàng đã yêu nhiều." - Chúa Kito không tha thứ cho thứ tình yêu như thế… - Cha Ioxif hiền lành buột thốt lên, không kiên nhẫn nổi nữa. - Không, tha thứ cho tình yêu như thế, cho chính tình yêu ấy, thưa các đấng tu hành, cho tình yêu ấy! Các vị ở đây ăn bắp cải để cứu rỗi linh hồn và tưởng mình là bậc công chính! Các vị ăn cá bống, mỗi ngày một con cá bống và tính chuyện mua Chúa Trời bằng cá bống! - Không thể chịu nổi, không thể nào chịu nổi! - Tiếng nói rộn lên từ khắp các phía trong phòng. Nhưng toàn bộ màn kịch đã đi đến chỗ bậy bạ chợt chấm dứt hết sức bất ngờ. Trưởng lão đột nhiên đứng dậy. Aliosa sợ hãi đến mức gần như rối trí, sợ cho thầy và cho mọi người, nhưng anh ta đã kịp đỡ tay thầy. Trưởng lão bước về phía Dmitri Fedorovich, và khi tới sát gần chàng, Cha quỳ xuống trước mặt chàng. Aliosa tưởng Cha ngã vì đuối sức, nhưng không phải. Quỳ xuống, đoạn, trưởng lão rạp mình dưới chân Dmitri Fedorovich, đấy là cái cúi lạy toàn thân rành rẽ, có ý thức, thậm chí trán Cha chạm đất. Aliosa sửng sốt đến nỗi không kịp đỡ Cha khi Cha đứng dậy. Một nụ cười yếu ớt thoáng hiện trên môi Cha. - Xin thứ lỗi! Xin thứ lỗi về tất cả mọi điều! - Cha vừa nói vừa cúi chào tứ phía từ tạ khách. Dmitri Fedorovich đứng ngây ra một lúc như trời trồng: người ta sụp lạy dưới chân chàng, thế là thế nào? Cuối cùng chàng bỗng kêu lên “Trời ơi!” và hai tay bưng mặt đâm bổ ra khỏi phòng. Khách cũng ồ ạt ra theo hết, họ bối rối đến nỗi quên cả cáo biệt và chào chủ nhà. Chỉ có mấy giáo sĩ lại đến để trưởng lão ban phước. - Sao Cha lại sụp lạy dưới chân nó thế, một thứ ngụ ý gì không? - Fedor Pavlovich thử gợi chuyện, không hiểu sao ông ta đã trở nên thuần tính, tuy nhiên ông ta chỉ nói trống không, không dám nói riêng với ai cả. Lúc ấy tất cả bọn họ đã ra ngoài bức tường bao quanh tu xá. - Tôi không chịu trách nhiệm về nhà điên và những kẻ điên. - Miuxov hằm hằm đáp lại tức thời, - nhưng tôi sẽ không dính dáng gì với ông nữa, không bao giờ nữa, ông hãy tin như thế, Fedor Pavlovich ạ. Ông thầy tu ban nãy đâu nhỉ? Nhưng “ông thầy tu ấy”, tức là người hồi nãy đã mời họ đến dùng bữa với Cha viện trưởng, không để họ phải chờ đợi. Ông ta lập tức đón khách ngay khi họ vừa xuống bậc thềm nhà trưởng lão như thể ông ta vẫn chờ họ suốt thời gian ấy. - Thưa Cha, nhờ Cha trình lại với Cha viện những là tôi hết lòng tôn kính Ngài và xin Ngài thứ lỗi cho Miuxov này: do những điều bất ngờ không lường trước được đã xảy ra, tôi không thể đến dự bữa ăn trưa nay, dù đó là một vinh dự mà tôi hết lòng mong muốn. Petr Alecxandrovich nói với ông thầy tu bằng giọng cáu kỉnh. - Cái điều không lường trước được ấy chính là tôi đấy! - Fedor Pavlovich tiếp lời ngay. - Này Cha ạ, ấy là vì Petr Alecxandrovich không muốn ngồi lại cùng với tôi, chứ không thì ông ấy đã đến ngay. Ông cứ đến đi. Petr Alecxandrovich ạ, cứ đến thăm Cha viện trưởng đi, và chúc ông ăn ngon miệng! Ông ạ, chính tôi sẽ tháo lui, chứ không phải ông. Tôi về nhà, về nhà, ăn ở nhà: chứ ở đây thì tôi cảm thấy không thể nuốt trôi được. Ông Petr Alecxandrovich, người bà con rất chi là đáng mến của tôi ạ! - Tôi chưa bao giờ là người bà con của ông cả. Ông là một kẻ hèn hạ! - Tôi cố ý nói như vậy để chọc cho ông nổi khùng, bởi vì ông vẫn lẩn tránh mối quan hệ họ hàng, tuy dù sao ông vẫn là chỗ bà con với tôi, cho dù ông có mưu mô thế nào đi nữa thì tôi cũng sẽ chứng minh điều đó theo lịch giáo hội(4), Ivan Fedorovich, rồi ba sẽ cho ngựa đến đón con đúng lúc, con cũng ở lại đi, nếu con muốn. Còn ông Petr Alecxandrovich ạ, phép lịch sự buộc ông bây giờ phải đến Cha viện trưởng, phải xin lỗi về những chuyện tôi với ông đã gây ra ở đây… (4) Lịch giáo hội: lịch về các thánh và các ngày lễ Kito giáo theo thứ tự thời gian cho cả 12 tháng trong năm. - Có thật là ông về không? Không nói dối chứ! - Petr Alecxandrovich, tôi đâu dám như thế sau những chuyện vừa xảy ra! Tôi đã đi quá trớn, xin các ông thứ lỗi, tôi đã đi quá trớn! Ngoài ra tôi bàng hoàng! Và xấu hồ nữa! Thưa các vị con người ta người dù có trái tim như của Alecxandr Maxeđoan, người thì có trái tim như tim con chó Fidelca. Tim tôi như tim con chó Fidelca. Tôi đâm ra nhút nhát! Đã giở trò lếu láo như thế mà lại còn vác mặt đến ăn, thưởng thức các món nước sốt của tu viện ư? Xấu hổ lắm, tôi chịu thôi, xin lỗi! “Có quỷ biết được lão, lão là chúa hay đánh lừa.” - Miuxov dừng lại phân vân, băn khoăn nhìn theo lão hề đang ra xa. Lão già quay mặt lại, thấy Petr Alecxandrovich đang nhìn theo, lão đưa tay gửi ông cái hôn. - Anh đến Cha viện trưởng chứ? - Miuxov hỏi Ivan Fedorovich bằng giọng nhát gừng. - Sao lại không nhỉ? Thêm nữa Cha viện trưởng đã mời riêng cháu từ hôm qua kia. - Khổ thật, thực quả tôi cảm thấy gần như nhất thiết phải có mặt trong bữa ăn chết tiệt này, - Miuxov nói vẫn với giọng cáu kỉnh, cay đắng, thậm chí không để đến ông thầy tu đang nghe. - Ít nhất là để xin lỗi vì cái việc không hay chúng ta đã gây ra ở đây và nói rõ rằng không phải chúng ta… Anh thấy thế nào? - Vâng, nên nói rõ ràng không phải chúng ta. Được cái ba cháu không có mặt trong bữa ăn. - Ivan Fedorovich đáp. - Lại còn có mặt ba cháu nữa thì vừa! Bữa ăn chết mệt ấy! Tuy nhiên mọi người đều đến dự. Ông thầy tu lẳng lặng nghe họ nói với nhau. Lúc đi qua khoảnh rừng, ông chỉ lưu ý rằng Cha viện trưởng chờ đã lâu và đã trễ đến hơn nữa giờ. Không ai trả lời. Miuxov căm ghét nhìn Ivan Fedorovich. “Vậy mà hắn đến ăn như không có chuyện gì xảy ra! - ông nghĩ. - Cái trán bằng đồng và lương tâm nhà Karamazov.” ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 7 Aliosa đưa trưởng lão về phòng ngủ và đỡ Cha ngồi xuống giường. Đấy là căn phòng rất nhỏ, chỉ có những đỗ đạc cần thiết; chiếc giường hẹp bằng sắt phủ tấm da thay cho nệm. Ở góc phòng trước những tranh thánh có chiếc bàn nhỏ chân cao trên đặt cây thánh giá và cuốn Phúc âm. Trưởng lão buông mình xuống giường, không còn chút sức lực nào nữa: mắt Cha long lanh, Cha thở hổn hển. Ngồi xuống rồi, Cha chăm chú nhìn Aliosa như ngẫm nghĩ điều gì. - Con đi đi, con yêu dấu, đi đi, Porifi ở đây với ta là đủ rồi, con đi ngay đi. Ở đấy cần có con, con đến Cha viện trưởng đi, giúp phục dịch trong bữa ăn. - Cha cho phép con ở lại đây. - Aliosa van vỉ. - Ở đấy cần con hơn. Ở đây không yên ổn đâu. Con sẽ phục dịch bữa ăn và sự có mặt của con sẽ có ích lợi. Nếu ma quỷ tác quái thì con hãy cầu nguyện. Con nên biết, con trai bé bỏng của ta ạ (trưởng lão thích gọi anh như vậy), từ nay chỗ của con không phải là ở đây. Hãy nhớ kĩ điều đó, chàng trai ạ. Khi Chúa xét thấy ta đáng được đến trước mặt Chúa thì con hãy ra khỏi tu viện. Rời bỏ hẳn. Aliosa giật mình. - Con làm sao thế? Hiện thời chỗ của con không phải ở đây. Cha cho con biết: con có một trách nhiệm vô cùng lớn lao phải làm tròn trong đời. Con còn phải lưu lạc nhiều. Và con sẽ phải lấy vợ phải như thế. Con sẽ phải chịu đựng hết trước khi trở lại đây. Sẽ có nhiều việc phải làm. Nhưng ta không hề nghi ngờ gì về con, vì thế ta phái con đi. Chúa Kito ở cùng con. Hãy hết lòng với Chúa và Chúa sẽ che chở cho con. Con sẽ trải qua nỗi đau xót lớn lao và sẽ hạnh phúc trong nỗi đau xót ấy. Đấy là lời căn dặn ta để lại cho con: hãy tìm hạnh phúc trong đau khổ. Hãy làm việc, làm việc không ngừng. Nhớ lấy lời ta, bởi vì mặc dù ta sẽ còn nói chuyện với con, nhưng sự sống của ta không chỉ tính từng ngày, mà từng giờ kia. Gương mặt Aliosa lại lộ vẻ xúc động mạnh. Hai bên mép anh run lên. - Con lại làm sao thế? - Trưởng lão hơi mỉm cười. - Hãy để cho người ngoài đời tiễn đưa người quá cố của họ bằng nước mắt, còn ở đây chúng ta vui sướng khi một Cha đạo ra đi. Chúng ta vui sướng và cầu nguyện cho người đó. Thôi hãy để mặc Cha. Cha cần cầu nguyện. Con đi đi và mau lên. Hãy ở bên các anh con. Không phải ở bên một người, mà cả hai người. Trưởng lão giơ tay ban phước. Không thể không tuân lời, tuy Aliosa hết sức muốn ở lại. Anh còn muốn hỏi một điều, thậm chí câu hỏi đã suýt buột ra: “Cha rạp đầu cúi lạy anh Dmitri con là nghĩa làm sao?” nhưng anh không dám hỏi. Anh biết rằng nếu có thể được thì trưởng lão sẽ tự ý cắt nghĩa cho anh, không cần anh phải hỏi. Nhưng như vậy là Cha không muốn nói. Cái lạy ấy khiến Aliosa hết sức sửng sốt: Anh tin một cách mù quáng rằng nó chứa đựng một ý nghĩa bí ẩn. Một ý nghĩa bí ẩn, mà có lẽ là khủng khiếp. Khi anh ra khỏi bức tường vây của tu xá để kịp đến tu viện lúc bắt đầu bữa ăn ở chỗ Cha viện trưởng (tất nhiên chỉ để phục dịch trong bữa ăn), anh bỗng thấy đau nhói trong tim và anh dửng phắt lại: bên tai anh dường như lại vang lên rõ mồn một lời trưởng lão đoán trước rằng Cha sắp từ giã cõi đời đến nơi rồi. Trưởng lão đã nói trước, mà lại nói đích xác như vậy thì việc đó ắt phải xảy ra. Aliosa tin thầy một cách thiêng liêng. Nhưng liệu thầy anh sẽ ra sao, có thể nào anh sẽ không được nhìn thấy thầy, nghe thầy nói nữa? Và anh sẽ đi đâu? Thầy bảo anh không được khóc và phải đi khỏi tu viện. Trời ơi! Đã lâu rồi Aliosa không hề cảm thấy buồn như thế. Anh đi nhanh qua khoảng rừng ngăn cách tu xá và tu viện, và không chịu đựng nổi những ý nghĩ đè trĩu trong tâm tư, anh nhìn những cây thông cổ thụ hai bên con đường rừng. Đoạn đường không dài, chừng năm trăm bước, không hơn. Giờ này không thể gặp ai, nhưng bất đồ ở khúc quanh đầu bên anh thấy Rakitin. Anh ta đang đón đợi ai. - Anh đợi tôi phải không? - Đến chỗ anh ta, Aliosa hỏi. - Chính thế, - Rakitin nhếch mép cười. - Anh đang vội đến Cha viện trưởng. Tôi biết, Cha mời khách dùng bữa mà. Từ hồi Cha tiếp đón Đức Giám mục và tướng Pakhatov đến nay, anh nhớ chứ chưa hề có bữa đãi khách nào như thế. Tôi sẽ không đến đâu, còn anh đi đi, anh sẽ bưng bê món ăn. Này, Alecxei, hãy cho tôi biết điều này: giấc mơ ấy có ý nghĩa gì? Tôi muốn hỏi anh điều ấy đấy. - Giấc mơ nào kia? - Cái cúi lạy sát đất trước Dmitri Fedorovich nhà anh ấy mà. Mà lại dập trán xuống nữa chứ! - Anh nói về Cha Zoxima phải không? - Phải, về Cha Zoxima. - Dập trán xuống đất? - Ôi, tôi nói năng vô lễ quá! Nhưng thôi được. Vậy giấc mơ ấy có ý nghĩa gì? - Tôi không biết. Misa ạ. - Tôi biết mà, trưởng lão sẽ không cắt nghĩa cho anh đâu. Tất nhiên thôi, chẳng có gì là lạ, vẫn là những trò dớ dẩn làm ra vẻ đứng đắn như tự muôn thuở. Nhưng cái ngón đó có chủ ý hẳn hoi. Bây giờ những kẻ vờ sùng đạo sẽ thuyên truyền khắp thành phố và khắp tỉnh: “Giấc mơ ấy có ý nghĩa gì?” Theo tôi ông già quả là thấu thị: ông ngửi thấy mùi tội hình sự. Gia đình anh bốc mùi xú uế. - Tội hình sự gì kia? Rakitin rõ ông muốn nói ra điều gì. - Nó sẽ xảy ra trong gia đình anh, vụ hình sự đó. Nó sẽ xảy ra giữa các anh và ông bố giàu có của anh. Bởi thế Cha Zoxima mới dập trán xuống đất để phòng xa mọi chuyện có thể xảy ra sau này. Sau này, nếu có chuyện gì xảy ra thì “A, trưởng lão lánh thiện đã báo trước, đã tiên tri rồi mà,” tuy rằng tiên tri quái gì cái việc dập trán ấy? Không, đấy là một biểu tượng, một ám dụ, có ma quỷ biết được gì gì nữa! Người ta sẽ thuyên truyền, sẽ ghi nhớ: trưởng lão đã đoán ước tội lỗi, đã chỉ ra kẻ gây tội. Những thánh hài xưa nay vẫn vậy: làm dấu thánh giá cho quán rượu, nhưng lại ném đá vào đền thờ. Trưởng lão của anh cũng thế: với kẻ công chính thì dùng gậy đuổi đi, với kẻ giết người thì lại cúi lạy. - Tội ác nào? Kẻ giết người nào? Anh nói gì lạ vậy? - Aliosa đứng sững lại như trời trồng. Rakitin cũng dừng bước. - Kẻ nào? Cứ làm như anh không biết vậy? Tôi đánh cuộc rằng chính anh cũng đã nghĩ đến điều ấy. Nhưng kể cũng lạ: này, Aliosa, anh bao giờ cũng nói thật, mặc dù anh vẫn ngồi trên hai chiếc ghế: anh có nghĩ đến điều ấy hay không, trả lời đi? - Có nghĩ. - Aliosa khẽ đáp. Ngay cả Rakitin cũng bối rối. - Anh nói gì? Anh mà cũng nghĩ đến ư? - Anh ta kêu lên. - Tôi… không hẳn là tôi nghĩ tới. - Aliosa nói lí nhí, - nhưng anh vừa nói đến chuyện ấy một cách rất kì lạ, thành thử tôi có cảm giác rằng chính tôi cũng nghĩ đến. - Anh thấy đấy (và anh diễn tả điều đó mới rõ ràng làm sao), anh thấy chứ? Hôm nay khi nhìn ba anh và anh Mitenka, anh nghĩ đến tội ác phải không? Vậy là tôi không lầm chứ gì? - Khoan, khoan đã. - Aliosa lo lắng ngắt lời. - Vì sao anh thấy như thế? Và trước hết tại sao chuyện ấy làm anh bận tâm đến như vậy? - Hai câu hỏi riêng biệt, nhưng tự nhiên. Tôi trả lời từng câu một. Tại sao tôi nhìn thấy? Tôi sẽ chẳng thấy gì hết nếu như hôm nay, tôi không bỗng nhiên và tức khắc hiểu được toàn bộ bản chất ông anh Dmitri Fedorovich của anh thực sự là thế nào, hiểu toàn bộ và đúng như trong thực tế. Căn cứ vào một đường nét nào đó là tôi tức khác nắm bắt được toàn bộ. Ở những con người hết sức chính trực nhưng ham mê nhục dục ấy có một đường vạch chớ nên vượt qua. Nếu không thì anh ta sẽ cho ông bố một nhát dao. Mà ông bố lại nghiện rượu và trác táng vô độ - không bao giờ biết chừng mực là gì. Cả hai sẽ không kìm nổi mình, thế là sẽ lăn cả xuống hố… - Không. Misa, không, nếu chỉ là như thế thì anh làm tôi vững tâm hơn. Sự thể sẽ không đến nông nỗi ấy. - Thế thì can gì anh run đến cả chân tay lên thế? Anh biết thừa đi rồi phải không? Cho dù anh ta là con người chính trực, anh chàng Mitenka ấy (anh ta đần, nhưng chính trực, khốn nỗi anh ta là kẻ ham nhục dục). Anh ta là như vậy, bản chất anh ta là thế. Đấy là ông bố đã truyền cho anh ta anh ham nhục dục đốn mạt của ông. Tôi chỉ ngạc nhiên về anh thôi, Aliosa ạ: làm sao anh vẫn là trai tân? Anh cũng là dòng dõi Karamazov kia mà! Trong gia đình anh, lửa dục bốc hừng hực. Giờ đây ba kẻ ham mê nhục dục đang canh chừng nhau… dao thủ sẵn trong người. Ba người đã chạm trán nhau, anh có lẽ là người thứ tư. - Anh lầm về người phụ nữ ấy, Dmitri… khinh bỉ cô ta. - Aliosa rùng mình, nói. - Grusenka ấy à? Không, người anh em ạ, anh ta không khinh đâu. Một khi trên thực tế anh ta đánh đổi vợ chưa cưới của mình lấy ả thì ta không khinh đâu. Ở đây… Ở đây có cái gì hiện giờ anh chưa hiểu được, người anh em ạ. Khi con người ta say mê một sắc đẹp, mê một thể xác phụ nữ, hay thậm chí một bộ phận trong thân thể phụ nữ, kẻ ham mê nhục dục có thể hiểu được điều đó thì vì ả đó hắn sẵn lòng bỏ cả con, bán cả cha lẫn mẹ, cả nước Nga, cả Tổ quốc. Người chính trực thì có thể đi ăn cắp, người hiền lành thì có thể cắt cổ người khác, người chung thủy có thể phản bội. Puskyn nhà thơ ca ngợi cặp giò phụ nữ, đã tán tụng những cặp giò ấy bằng những vần thơ, những người khác không ca ngợi bằng thơ ca nhưng không thể nhìn những cặp giò ấy mà không dâm dật. Nhưng không phải chỉ có những cặp giò… Người anh em ạ, ở đây sự khinh bỉ không giúp ích gì, cho dù anh ta có khinh Grusenka đi nữa. Khinh, nhưng không dứt ra được. - Điều đó thì tôi hiểu, - Aliosa bộp chộp thốt lên. - Thực ư? Như vậy quả thực là anh hiểu, có thế thì mới buột ra rằng anh hiểu chứ, - Rakitin nói với giọng hí hửng. - Đấy là anh vô tình hở ra, anh buột miệng. Sự thú nhận do đó càng đáng giá: như vậy đó là đề tài quen thuộc đối với anh, anh đã nghĩ đến chuyện ấy, nhục dục. Hỡi ôi, chàng trai tân! Anh là ông thánh giả. Anh là thánh, tôi đồng ý, nhưng là thánh giả, có quỷ biết còn cái gì anh chưa nghĩ đến, có quỷ biết anh đã nếm trải những gì! Trai tân mà đã am hiểu sâu như thế, tôi để ý quan sát anh từ lâu rồi. Anh là một Karamazov, một Karamazov hoàn toàn, vậy là dòng giống và sự chọn lọc vẫn có ý nghĩa nào đó. Anh là kẻ ham nhục dục do máu bố, anh là thánh hài do dòng mẹ. Tại sao anh run? Tôi nói đúng sự thực chứ gì? Anh biết không, Grusenka yêu cầu tôi: “Anh dẫn anh ta lại đây (tức là dẫn anh ấy mà), em sẽ lột áo thầy tu của anh ta cho mà xem.” Cô ta cứ nài nỉ: “Dẫn tới nhé, dẫn tới nhé!” Tôi đâm ra băn khoăn: cớ gì cô ấy tò mò muốn biết về cậu ta đến như vậy nhỉ? Thế đấy, cô ấy cũng là một phụ nữ phi thường! - Nhờ anh chuyển lời chào chị ấy và hãy nói rằng tôi không đến đâu. - Aliosa nhếch mép cười gượng. - Nói nốt câu chuyện anh đã mở đầu đi, Mikhail, rồi tôi sẽ cho biết ý nghĩ của tôi. - Có gì mà nói nốt, rõ cả rồi. Tất cả chỉ là bản nhạc cũ thôi, người anh em ạ. Nếu anh có máu ham nhục dục thì Ivan là anh cùng mẹ với anh như thế nào? Ivan cũng lả con nhà Karamazov mà! Tất cả vấn đề nhà Karamazov các người là thế này: ham nhục dục, hám lợi và điên loạn! Ông anh Ivan của anh bây giờ tiêu khiển bằng cách viết những bài báo về thần học, do một sự tính toán cực kì ngu xuẩn nào đó không ai biết, vì anh ta là người vô thần, và chính anh ta thú nhận sự đê tiện ấy, ông anh Ivan của anh. Ngoài ra anh ta đang giành giật vợ chưa cưới của Mitia, có lẽ anh ta sẽ đạt mục đích ấy. Mà lại còn được chính Mitia chấp thuận nữa chữ, bởi vì chính Mitia nhường lại cô nàng cho Ivan, miễn là thoát khỏi sự ràng buộc với vợ chưa cưới để mau mau đến với Grusenka. Và sự thể là như thế, mặc dù tất cả sự cao thượng và không vụ lợi của anh ta, xin chú ý cho. Những người ấy chính là những người vô cùng tai hại. Vậy thì có mà quý hiệu được các người: tự mình ý thức được sự đê tiện của mình mà vẫn lao đầu vào việc đê tiện! Hãy nghe tiếp nhé: bây giờ ông bố già chặn đường Mitenka. Chính ông già tự dưng phát cuồng lên về Grusenka, cứ nhìn thấy ả là ông thèm chảy rãi ra. Vừa rồi ông già gây chuyện cãi cọ tai tiếng trong phòng tu chỉ là vì cô ả đấy thôi, chỉ cốt để Miuxov dám gọi cô ả là đồ súc sinh đĩ thõa. Ông già mê ả như mèo động cỡn. Trước kia ả chỉ làm cho ông một số việc ám muội và nhơ nhuốc đề được trả công, còn bây giờ đột nhiên ông già để ý nhìn kĩ cô nàng và đâm ra mê mẩn, xán lăn vào đề nghị với ả điều này điều khác tất nhiên là toàn những điều bất lương. Thế là bố con đụng nhau trên con đường nhỏ ấy. Grusenka không theo hẳn bên nào; ả còn lấp lửng và khêu gợi cả hai, xem bên nào lợi hơn, bởi vì tuy với ông bố thì có thể bòn được nhiều tiền hơn, nhưng ông ta sẽ không cưới ả về làm vợ và về sau có thể sẽ đâm ra keo kiệt và thắt chặt túi tiền. Trong trường hợp đó thì Mitenka lại có giá: anh ta không có tiền, nhưng có khả năng cưới ả làm vợ. Đúng thế, có thể lấy ả thực sự! Bà vợ chưa cưới đẹp tuyệt trần, Ekaterina Ivanovna giàu có, dòng dõi quý tộc, con gái một đại tá để lấy Grusenka, vốn là gái bao của Xamxonov, một thương gia già, một thằng đàn ông trác táng và là thị trưởng. Từ tất cả những điều đó, thực sự có thể xảy ra cuộc dụng độ gây án. Còn anh Ivan của anh vẫn chờ đợi kết quả ấy như vậy thì anh ta sướng như tiên non bồng; vừa lấy được Ekaterina Ivanovna mà anh ta héo hồn tơ tưởng, vừa vớ được sáu chục ngàn hồi môn. Với một kẻ hèn mọn và nghèo kiết xác như anh ta, bước đầu như thế là bở quá đi rồi! Còn điều này nữa đáng chú ý: Không những anh ta không xúc phạm đến Mitia, mà Mitia còn chịu ơn anh ta đến ngày xuống mồ. Tôi biết chắc chắn rằng tuần trước ở quán rượu cùng với mấy ả Zigan. Mitia say khướt đã gào toáng lên rằng mình không xứng đáng với vợ chưa cưới là cô ả Ekaterina. Ivan mới xứng đáng. Mà bản thân Ekaterina Ivanovna thì cuối cùng tất nhiên không cự tuyệt một người có sức cám dỗ như Ivan Fedorovich; hiện giờ nàng cũng đang phân vân giữa hai người. Có điều anh chàng Ivan ấy có cách gì khiến tất cả các người mê mẩn đến nỗi tôn sùng hắn như vậy? Còn hắn thì hắn cười các ngươi: ta thật thần tiên, cứ ngồi để các người bày cỗ sẵn cho ta xơi. - Làm sao anh biết tất cả những điều ấy? Tại sao anh nói quyết như vậy? Aliosa bỗng cau mày hỏi bằng giọng gay gắt. - Thế tại sao lúc nãy anh hỏi tôi mà chưa chi đã sợ câu trả lời của tôi? Như vậy chính anh đồng ý rằng tôi nói đúng sự thật. - Anh không ưa anh Ivan. Ivan không hám tiền. - Thật ư, thế còn sắc đẹp của Ekaterina Ivanovna? Đây không phải chỉ có tiền, tuy sáu mươi ngàn đồng cũng đáng mê lắm. - Ivan nhìn cao hơn, Ivan không hám mấy ngàn đồng. Ivan không theo đuổi tiền bạc, không tìm kiếm sự yên ổn. Có lẽ anh ấy tìm kiếm sự đau khổ. - Lại giấc chiêm bao gì nữa thế này? Ôi chao các người… những kẻ quý tộc. - Này Misa, anh ấy có tâm hồn mãnh liệt. Trí tuệ anh ấy bị giam hãm. Anh ấy có một tư tưởng vĩ đại chưa được giải quyết. Anh ấy thuộc loại người không cần hàng triệu đồng, mà cần giải quyết tư tưởng. - Trò ăn cắp vặt, Aliosa ạ. Anh nhìn lại lời trưởng lão của anh. Chà chà. Ivan đã ra cho anh một câu đố! - Rakitin gào lên, vẻ hằn học ra mặt. Thậm chí mặt anh ta biến đổi hẳn, môi méo xệch đi. - Mà là câu đố dớ dẩn, chẳng có gì phải đoán. Nghĩ một tí là hiểu ngay thôi. Bài viết của anh ta nực cười và lố lăng. - Vừa rồi anh đã nghe cái thuyết dớ dẩn của anh ta đấy: “Không có sự bất diệt của linh hồn thì cũng không có đức hạnh, nghĩa là mọi việc đều được phép làm.” (Còn Mitenka, anh nhớ chứ, anh ta đã kêu lên: “Tôi sẽ ghi nhớ!”) Một thuyết hấp dẫn cho những kẻ đê tiện. Ấy chết, tôi quá lời như thế thật là xuẩn… Không, không phải cho những kẻ đê tiện, mà cho những kẻ huênh hoang còn trên ghế nhà trường với “những tư tưởng sâu sắc không sao giải đáp được”. Một kẻ khoác lác, thực chất chỉ là “ngựa trắng và bạch mã”. Tất cả lí thuyết của anh ta chỉ là trò đê tiện! Nhân loại sẽ tự mình tìm được sức mạnh để sống cho đức hạnh, cho dù không tin có linh hồn bất diệt đi nữa! Nó sẽ tìm thấy sức mạnh trong lòng yêu tự do bình đẳng, bác ái… Rakitin nổi nóng, gần như không tự chủ được nữa. Nhưng bỗng nhiên, như nhớ ra điều gì, anh ta dừng lại. - Nhưng thôi, đủ rồi. - Anh ta nhếch mép cười càng gượng gạo hơn trước. - Anh cười gì? Anh tưởng tôi là một thằng hèn kém ư? - Không, tôi không hề nghĩ rằng anh hèn kém. Anh thông minh, nhưng… thôi, gạt chuyện ấy đi, tôi mỉm cười vì bộp chộp thôi. Tôi hiểu là anh có thể nổi nóng, Misa ạ. Thái độ hăng say của anh khiến tôi đoán ra rằng chính anh không thờ ơ với Ekaterina Ivanovna, người anh em ạ, điều đó tôi nghi ngờ từ lâu rồi, chính vì thế mà anh không ưa anh Ivan. Anh ghen với anh ấy chứ gì? - Và ghen cả về tiền của nàng phải không? Anh sẽ nói thêm nữa chứ gì? - Không, tôi sẽ không nói thêm gì về tiền, tôi sẽ không xúc phạm anh. - Tôi tin, bởi vì anh đã nói như thế, nhưng quỷ tha ma bắt anh cùng với Ivan nhà anh đi! Các người không ai hiểu rằng cho dù có gạt Ekaterina Ivanovna ra ngoài cuộc thì vẫn rất có thể không ưa hắn chứ. Vì lẽ gì tôi phải yêu hắn, đồ quỷ! Hắn ban cho tôi cái vinh hạnh được hắn thóa mạ. Tại sao tôi lại không có quyền thóa mạ hẳn nhỉ? - Tôi chưa bao giờ nghe thấy anh ấy nói một lời nào về anh, dù tốt hay xấu. Anh ấy chẳng hề nói gì về anh. - Tôi nghe nói hôm kia ở nhà Ekaterina Ivanovna hắn mạt sát tôi thậm tệ: kẻ tôi đòi ngoan ngoãn này của anh được hắn quan tâm đến như vậy đấy. Sau chuyện ấy thì người anh em ạ, chưa biết ai ghen ai! Hắn còn thấy cần thiết phải bày tỏ ý nghĩ rằng nếu sắp tới tôi không chịu bằng lòng với danh phận tu viện trưởng và không dám cắt tóc đi tu thì nhất định tôi sẽ đi Peterburg và sẽ làm việc cho một tờ tạp chí đấy, nhất định là ở mục phê bình, tôi sẽ viết khoảng năm mươi, rồi cuối cùng sẽ giành lấy tờ tạp chí đó thành của mình. Sau đó tôi sẽ lại cho nó ra mắt và nhất quyết là theo khuynh hướng tự do và vô thần, mang sắc thái xã hội chủ nghĩa, phết chút nước sơn xã hội chủ nghĩa, nhưng phòng ngừa cẩn thận, thực chất là chơi cờ nước đôi và lường gạt bọn ngốc. Vẫn theo ông anh của anh, con đường danh lợi của tôi kết cục là thế này: mặc dù mang sắc thái xã hội chủ nghĩa, tôi vẫn cứ gửi tiền vào nhà băng và gặp dịp thì đem ra quay vòng dưới sự chỉ đạo của một lên đầu cơ Do Thái nào đó, cho đến khi tôi xây được một tòa nhà bề thế ở Peterburg để chuyển tòa soạn về đó, các tầng còn lại thì cho bọn Do Thái đến ở. Hắn còn chỉ rõ vị trí xây nhà: ở bên cầu Đá Mới qua sông Neva mà nghe đâu người ta đang vạch đồ án xây dựng ở Peterburg, giữa khu Litaynaia và Vybor… - A, Misa, có lẽ điều đó sẽ được thực hiện đầy đủ, đúng từng lời một! - Không nhịn được. Aliosa mỉm cười vui vẻ, kêu lên. - Cả anh cũng lại châm chọc tôi. Alecxei Fedorovich. - Không, không, tôi đùa thôi, xin lỗi. Tôi có ý nghĩ khác hẳn. Nhưng xin hỏi: ai có thể cho anh biết những chi tiết như thế. anh có thể nghe được những điều như thế ở ai? Anh không thể có mặt ở nhà Ekaterina Ivanovna lúc anh ấy nói về anh chứ gì? - Tôi không ở đấy, nhưng Dmitri Fedorovich có mặt và chính tai tôi nghe được từ miệng Dmitri Fedorovich, nghĩa là, nếu anh muốn biết, không phải anh ta nói với tôi, mà tôi nghe lỏm được, tất nhiên là tình cờ, bởi vì tôi ngồi trong phòng ngủ của Grusenka và không thể ra ngoài được suốt trong thời gian Dmitri Fedorovich ở phòng bên kia. - À vâng, tôi quên, cô ấy là chỗ bà con với anh… - Bà con ư? Grusenka mà là chỗ bà con với tôi? - Rakitin bỗng quát lên, mặt đỏ bừng. - Anh hóa điên rồi chắc? Trí óc anh không bình thường. - Thế sao? Không phải là chỗ bà con à? Tôi nghe nói thế mà… - Anh nghe ở đâu? Không thưa các ngài Karamazov, các ngài làm ra bộ mình thuộc dòng họ quý tộc cao sang lâu đời, trong khi đó thì ông bố của các ngài tìm làm thằng hề ở bàn ăn nhà người và được người ta gia ơn coi như một chân làm bếp. Ừ thì tôi chỉ là con một cha cố và thứ bọ rệp so với những kẻ quý tộc các người, nhưng đừng lăng nhục tôi một cách nông nổi và vui vẻ như thế. Tôi cũng có danh dự chứ, Alecxei Fedorovich! Tôi không thể có họ hàng bà con gì với Grusenka, một gái làng chơi, xin hiểu cho! Rakitin tức giận ghê gớm. - Vì Chúa, xin thứ lỗi cho tôi, tôi không ngờ đâu như thế, vả chăng sao chị ấy lại là gái làng chơi kia chứ, lẽ nào chị ấy lại… là người như thế? - Aliosa bỗng đỏ mặt. - Tôi nhắc lại, tôi nghe bảo chị ấy là chỗ bà con với anh. Anh thường hay đến nhà chị ấy và chính anh nói rằng anh không có quan hệ tình ái gì với chị ấy… Tôi không bao giờ nghĩ rằng anh lại khinh miệt chị ấy như thế! Lẽ nào chị ấy đáng khinh như vậy? - Tôi đến đấy là có lí do riêng nhưng về phần anh thế là đủ rồi. Còn về quan hệ họ hàng thì nhiều phần chắc hơn cả là ông anh anh hay chính ông bố anh sẽ làm cho anh phải nhận cô ta là chỗ họ hàng, chứ không dính gì đến tôi. Kìa, họ đã đến kia rồi. Anh nên xuống bếp đi thì hơn. Ái chà, thế là thế nào, chuyện gì thế nhỉ? Hay là ta đến muộn? Có thể nào họ ăn nhanh thế được? Hay cha con nhà Karamazov lại gây chuyện gì rồi? Chắc vậy. Kìa, ba anh đang ra, cả Ivan Fedorovich theo sau. Họ từ chỗ Cha viện trưởng ùa ra. Cha Ixidor đứng trên bậc thèm hướng về phía họ la thét cái gì. Cả ba anh cũng la hét và vung tay, chắc là chửi mắng. Ơ kìa, Miuxov cũng đã lên xe, anh thấy đấy. Ông ấy ra về. Còn kia nữa, ông địa chủ Maximov đang chạy - có chuyện lôi thôi gì rồi; vậy là chưa kịp ăn! Liệu họ có đánh Cha viện trưởng không? Hay họ bị ăn đòn? Nếu vậy thì đáng đời!… Rakitin không lầm. Quá là đã xảy ra một vụ tai tiếng chưa từng có và bất ngờ. Mọi việc xảy ra “do diệu cảm”. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 2Chương 8 Khi Miuxov và Ivan Fedorovich đến nhà Cha viện trưởng dù trong tâm trạng, Petr Alecxandrovich - vốn là một người lịch sự tử tế và tế nhị - đã mau chóng xảy ra một diễn biến tế nhị: ông xấu hổ vì mình đã nổi cáu. Ông tự cảm thấy rằng đáng ra ông không nên đếm xỉa gì đến lão Fedor Pavlovich tệ hại, không nên mất bình tĩnh trong phòng trưởng lão, không nên rối trí đến nỗi để sự tình xảy ra như vậy. “Ít ra thì các tu sĩ cũng không có lỗi gì.” Ông chợt quyết định khi bước lên bậc thềm nhà Cha viện trưởng, mà nếu ở đây cũng là những người tử tế cha viện trưởng Nicolai (hình như cũng là dòng dõi quý tộc) thì tại sao ta lại không nhã nhặn, lịch thiệp, lễ độ với họ? Ta sẽ không tranh cãi, thậm chí ta sẽ phụ họa với họ, ta sẽ tỏ ra nhã nhặn để thu hút thiện cảm của họ và… và cuối cùng ta sẽ chứng tỏ với họ rằng ta không cùng một giuộc với tên Ezov ấy, tên hề ấy, tên hề kịch câm ấy, ta bị hố cũng như tất cả bọn họ…” Về quyền đồn gỗ trong rừng và đánh cá trên sông hiện đang còn tranh chấp (mà cái đó ở đâu chính ông cũng chẳng biết), ông quyết định nhường cho họ, nhường đứt, ngay hôm nay, nhất là những cái đó cũng không đáng gì, ông sẽ đình chỉ mọi việc kiện cáo tu viện. Những ý định tốt đẹp ấy càng vững chắc thêm khi họ vào phòng ăn của Cha viện trưởng. Tuy vậy đây không phải lả phòng ăn, vì Cha chỉ có hai phòng trong căn nhà thực ra thì rộng rãi hơn và tiện lợi hơn nơi ở của trưởng lão. Nhưng các thứ bày biện trong phòng cũng không tiện lợi lắm: đồ đạc bằng gỗ hồng sắc bọc da, kiểu cổ của những năm hai mươi; thậm chí còn không sơn; nhưng tất cả đều sạch bóng, trên các cửa sổ có nhiều loại hoa đắt tiền: nhưng xa hoa nhất lúc này đương nhiên là cái bàn bày biện sang trọng, mặc dù đây là nói một cách tương đối: khăn bàn sạch, bát đĩa bóng lộn, bánh mì nướng tuyệt khéo ba loại(1) hai chai mật ong tuyệt trần đời của tu viện và một bình thủy tinh to đựng nước kvax của tu viện đã nổi tiếng khắp các vùng lân cận. Không có vodka. Về sau Rakitin kể lại rằng bữa ăn lần này có năm món: cháo cá tẩm với bánh nướng nhân cá; rồi cá hầm nhừ chế biến từ kiểu đặc biệt ngon hết chỗ nói, rồi chả cá bống băm viên, kem và nước quả, cuối cùng là chè bột quả tương tự như món đông hạnh nhân. Rakitin đã đánh hơi được tất cả những món đó, vì anh ta không nén nổi, đã cố tình tạt vào bếp của Cha viện trưởng: anh ta cũng có những mối quen biết ở đó. Anh ta có những mối quen biết ở khắp mọi nơi và ở đâu anh ta cũng moi được tin tức. Tính anh ta thích nhiễu sự và rất hay ghen tị. Anh ta có ý thức đầy đủ về những khả năng đáng kể của mình, nhưng do thói tự phụ anh ta phóng đại quá đáng những khả năng ấy. Chắc anh ta biết rằng rồi đây anh ta sẽ là một nhà hoạt động trong loại của mình, nhưng Aliosa vốn rất mến anh ta, lấy làm khổ tâm về nỗi anh bạn Rakitin của anh là kẻ bất lương mà không hề tự biết, trái lại, anh ta tự nhủ lòng rằng mình sẽ không bao giờ đánh cắp tiền của ai cho dù tiền để ngay trên mặt bàn, anh ta đinh ninh rằng như vậy là hết sức ngay thẳng rồi. Về mặt này không chỉ riêng Aliosa, mà chẳng ai có thể làm gì được. (1) Theo phong tục, người Nga thường dùng ba loại bánh mì trắng, xám nâu và đen (N.D). Rakitin thân phận hèn mọn, không thể được mời đến bữa ăn, nhưng người ta mời Cha Ioxif, Cha Paixi và một giáo sĩ nữa. Khi Petr Alecxandrovich, Kalganov và Ivan Fedorovich vào thì họ đã chờ sẵn trong phòng ăn của Cha viện trưởng. Cả tay địa chủ Maximov cũng đã có mặt ở đấy, đứng riêng một chỗ. Cha viện trưởng ra giữa phòng đón khách. Đấy là một ông già cao, gầy, vẫn còn tráng kiện, tóc đen đã điểm bạc nhiều, khuôn mặt dài rầu rĩ và nghiêm trang. Cha lẳng lặng cúi chào khách, nhưng lần này thì khách đến để Cha ban phước. Miuxov toan đánh bạo hôn tay Cha, nhưng Cha đã kịp rụt tay lại, thế là cái hôn bị hẫng. Song Ivan Fedorovich và Kalganov lần này được ban phước trọn vẹn, nghĩa là hôn tay Cha chùn chụt theo kiểu bình dân hết sức chất phác. - Trình Cha, chúng tôi phải hết lời xin lỗi Cha, - Petr Alecxandrovich lên tiếng, miệng mỉm cười nhã nhặn, nhưng giọng vẫn nghiêm trang kính cẩn, - xin Cha thứ lỗi vì chúng tôi đến mà không có Fedor Pavlovich, người đã được Cha mời và cũng cùng đi với chúng tôi. Ông ấy buộc lòng phải cáo từ không dự bữa tiệc ăn này, và không phải không có lí do. Ở phòng Cha Zoxima, do quá hăng máu trong cuộc cãi lộn vô phước với con trai, ông ta đã nói mấy lời rất chi là không tiện… tóm lại là rất đỗi thô bỉ… mà hình như là (ông nhìn các giáo sĩ) Cha cũng đã biết rồi. Ông ta tự biết mình có lỗi và thành thực hối hận. Ông ta xấu hổ và bởi vì không vượt qua được nỗi hổ thẹn, ông ta nhờ tôi và con trai ông ta là Ivan Fedorovich trình lại với Cha rằng ông ta hết sức hối tiếc, buồn phiền và ân hận… Tóm lại ông ta hi vọng và mong mỏi sau này sẽ chuộc lỗi đầy đủ, còn bây giờ ông ta xin Cha ban phước và cầu xin Cha quên đi chuyện đã lỡ xảy ra… Miuxov im tiếng. Nói xong mấy lời cuối cùng của đoạn độc thoại dài, ông ta bằng lòng với mình lắm đến độ cơn tức giận mới đây không còn dấu vết gì trong tâm hồn ông. Ông lại hoàn toàn chân thành yêu nhân loại. Cha viện trưởng nghiêm trang nghe ông nói từ đầu chí cuối, đoạn hơi cúi đầu đáp lại: - Tôi rất lấy làm tiếc là ông ấy đã vắng mặt. Nếu dự bữa ăn với chúng ta, có lẽ ông ấy sẽ yêu mến chúng ta, cũng như chúng ta sẽ yêu mến ông ấy. Xin mời quý vị vào bàn. Cha đứng trước ảnh thánh và cầu kinh, đọc thành tiếng. Mọi người kính cẩn cúi đầu, riêng ông địa chủ Maximov thậm chí tiến hẳn lên phía trước, hai tay chắp lại trước bụng tỏ ý sùng kính đặc biệt. Đúng lúc ấy Fedor Pavlovich giở ngón trò cuối cùng. Nên biết rằng ông ta muốn bỏ về thật và thực tâm cảm thấy rằng sau khi đã giở những trò nhục nhã như thế trong phòng trưởng lão thì không thể muối mặt đến ăn ở nhà Cha viện trưởng như thể không có gì xảy ra. Không phải là ông ta hổ thẹn quá và tự kết tội mình; có lẽ trái hẳn lại là đằng khác; nhưng ông ta vẫn cảm thấy rằng đến ăn thì thật bỉ ổi. Nhưng khi chiếc xe ngựa long sòng sọc đến thềm nhà khách thì ông ta vừa đặt chân lên đã dừng lại, ông ta bỗng nhớ đến những lời mình đã nói ở phòng của trưởng lão: “Khi đến bất cứ nơi nào tôi cũng cảm thấy mình là kẻ ti tiện nhất và mọi người đều coi tôi là thằng hề, vậy thì tôi sẽ làm hề thực sự, bởi vì tất cả các người, không trừ một ai, đều ngu xuẩn và ti tiện hơn tôi.” Ông ta tự dưng muốn trả thù tất cả mọi người về những việc làm hèn mạt của mình. Lúc này ông ta chợt nhớ lại trước kia có lần người ta đã hỏi ông: “Vì sao ông thù ghét người ấy thế?” Thế là mượn thói trơ trẽn của vai hề, ông ta đáp: “Là bởi thế này, của đáng tội thì hắn cũng chẳng làm gì tôi, nhưng tôi đã chơi cho hắn một vố cực kì đểu cáng, và chơi xong vố ấy lập tức tôi đâm ra thù ghét hắn.” Bây giờ nhớ lại chuyện ấy ông ta trầm ngâm giây lát, nhếch mép cười lặng lẽ và hiểm ác. Mắt ông ta long lên, thậm chí môi run run. “Đã bắt đầu thì cứ làm đến cùng.” - ông ta bỗng quyết định. Cái cảm giác thầm kín nhất của ông ta trong giây lát ấy chỉ có thể diễn đạt bằng những lời: “Bây giờ không thể nào lấy lại danh dự được nữa, thế thì cứ trâng tráo khinh đứt họ đi cho họ biết rằng: ta không xấu hổ với các người đâu, có vậy thôi!” Ông ta bảo người đánh xe chờ mình, rồi rảo bước trở lại tu viện và đến thẳng chỗ Cha viện trưởng. Ông ta vẫn chưa biết rõ mình sẽ làm gì, nhưng ông ta biết mình không còn tự chủ được nữa, chỉ một kích thích nhỏ là lập tức ông ta sẽ đi đến giới hạn tột cùng của một hành vi đốn mạt nào đó, nhưng chỉ là hành vi đốn mạt thôi, chứ tuyệt nhiên không phải là hành vi phạm tội hay một việc cuồng dại có thể bị tòa án trừng phạt. Gặp trường hợp này bao giờ ông ta cũng biết tự kìm mình và thậm chí có những lần ông ta lấy làm ngạc nhiên về điều đó. Ông ta xuất hiện trong phòng ăn của Cha viện trưởng đúng vào lúc đọc kinh xong và mọi người đến bàn ăn. Ông ta dừng lại ở ngưỡng cửa, nhìn khắp lượt tất cả mọi người, ngạo nghễ nhìn thẳng vào mắt họ và bật ra một tiếng cười dài, trâng tráo và độc ác. - Thế mà họ tưởng tôi đã ra về, nhưng tôi đây này! - ông ta gào vang khắp phòng. Trong khoảnh khắc, mọi người đều nhìn chằm chằm vào ông ta và im lặng, bỗng nhiên ai nấy đều cảm thấy rằng bây giờ sắp xảy ra một chuyện gì tởm lợm, lố lăng, nhất định là gây tai tiếng, Petr Alecxandrovich đang hết sức khoan khoái bỗng trở nên cuồng nộ. Tất cả những gì đã tắt lịm trong lòng ông lập tức sống lại và bùng lên. - Không, tôi không thể chịu đựng nổi! - ông gầm lên. - Tôi không sao chịu nổi… Không có cách gì chịu nổi! Máu xông lên đầu. Thậm chí ông nói nhịu, nhưng bây giờ không còn là lúc lựa lời nữa, ông chộp lấy mũ. - Ông ta không chịu nổi cái gì kia chứ? - Fedor Pavlovich la lên. - “Không có cách gì chịu nổi và không sao chịu nổi” ư? Trình Cha, tôi có vào được không? Cha có tiếp nhận tôi là khách mời không? - Rất vui lòng mời ông. - Cha viện trưởng đáp. - Thưa các vị! Tôi mạo muội, - Cha bỗng nói thêm, - hết lòng cầu xin các vị tạm gác lại những xích mích ngẫu nhiên giữa các vị, gắn bó cùng nhau trong tình yêu và trong sự hòa thuận anh em, cầu nguyện Chúa Trời, cùng dự vào bữa ăn khiêm nhường của chúng ta. - Không, không, không thể được. - Petr Alecxandrovich la lên dường như mất bình tĩnh. - Đã không thể được đối với Petr Alecxandrovich thì cũng không thể được đối với tôi, tôi sẽ không ở lại đâu. Tôi đến đây cũng cốt là như thế, bây giờ Petr Alecxandrovich ở đâu thì tôi sẽ ở đấy: ông đi thì tôi sẽ đi. Petr Alecxandrovich ạ, ông ở thì tôi sẽ ở… Thưa Cha viện trưởng, Cha vừa nói đến sự hòa thuận anh em tức là Cha châm chọc ông ấy; ông ấy không muốn nhận là có quan hệ họ hàng với tôi! Phải thế không, Fon Zon?(2) Fon Zon đứng đây này. Chào ông, Fon Zon. (2) Vụ án Fon Zon xử tại tòa án khu Peterburg ngày 18 và 19 tháng ba 1870, Fon Zon bị nhử vào một lưu manh ở trung tâm Peterburg, bị giết một cách dã man, của cải bị cướp sạch (B.T). - Ông… ông nói với tôi đấy ư? - Địa chủ Maximov sửng sốt, nói lúng búng. - Cố nhiên là với anh. - Fedor Pavlovich la lên. - Chứ còn với ai nữa? Cha viện trưởng không thể là Fon Zon được! - Nhưng tôi cũng không phải là Fon Zon, tôi là Maximov. - Không, anh là Fon Zon. Trình Cha, Cha có biết Fon Zon là gì không? Có một vụ án hình sự như thế: ông ta bị giết trong nhà thổ - hình như các vị gọi những chốn ấy như thế, - bị giết và bị cướp lột mặc dù tuổi ông ta đã rất cao, người ta nhét ông ta vào cái hòm và gửi từ Peterburg về Moskva trong toa tàu chở hàng, có đánh số hẳn hoi. Lúc đóng hòm, bọn gái nhà thổ hát hỏng và chơi đàn guxli(3), tức là đàn piano ấy mà. Đấy chính là Fon Zon ấy, ông ta từ những kẻ chết sống lại, phải không Fon Zon? (3) Loại đàn dây thời cổ, đặt trên đùi, chơi bằng cả hai tay (N.D). - Thế là thế nào? Sao lại thế kia chứ? - Có tiếng lao xao trong đám giáo sĩ. - Ta đi đi! - Petr Alecxandrovich lớn tiếng nói với Kalganov. - Ồ không! - Fedor Pavlovich tru tréo lên, bước thêm một bước trong phòng. - Để tôi nói nốt đã. Ở phòng trưởng lão, ông mắng tôi như thể tôi đã phạm tội bất kính, chỉ vì tôi lớn tiếng nói về cá bống, Petr Alecxandrovich Miuxov, người bà con của tôi thích lời nói phải plus de noblesse que de sincerite(4), còn tôi thì trái lại, tôi thích lời nói phải plus de sincerite que de noblesse(5) tôi cóc cần noblesse(6)! Phải thế không, Fon Zon? Vô phép Cha viện trưởng, tôi tuy là thằng hề và làm trò hề, nhưng tôi là trang hiệp sĩ trọng danh dự và tôi muốn bày tỏ ý kiến của mình. Vâng, tôi là trang hiệp sĩ trọng danh dự, còn Petr Alecxandrovich chỉ có lòng tự ái bị tổn lương, ngoài ra không còn gì hơn. Tôi đến đây có lẽ là để xem xét và nói lên ý nghĩ của mình. Con trai tôi là Alecxei đang tu ở đây, tôi là bố nó, tôi chăm lo đến số phận của nó và đấy là bổn phận của tôi. Trong lúc diễn trò tôi vẫn nghe thấy hết, tôi ngấm ngầm xem xét, và bây giờ tôi muốn hiến các ngài hồi cuối cùng của vở diễn: Thói thường ở ta là thế nào? Thói thường ở ta là ngã thì cứ nằm đấy. Ở ta một khi đã ngã thì cứ nằm suốt đời. Đừng hòng! Tôi muốn đứng dậy. Thưa các cha thánh thiện, tôi phẫn nộ về các cha. Xưng tội là một bí tích vĩ đại mà tôi tôn sùng và tôi sẵn lòng phủ phục xuống để tỏ lòng tôn sùng, vậy mà ở phòng trưởng, lão mọi người đều quỳ gối bô bô xưng tội cho người khác nghe thấy. Có phép đâu bô bô xưng tội cho người ngoài nghe thấy không? Các cha thánh thiện đã định rằng xưng tội chỉ nói thầm vào tai thôi, chỉ khi đó xưng tội mới là bí tích, cái lệ ấy đã có từ cổ xưa. Mà thế là phải, làm sao tôi có thể công nhiên giãi bày trước mặt mọi người rằng chẳng hạn tôi đã làm thế này… ờ, tôi đã làm thế nọ, các vị hiểu chứ? Đôi khi có những điều nói ra quá là bất lịch sự. Như vậy thì không khỏi mang tai mang tiếng! Không, thưa các cha, trong việc này mà theo các cha thì có lẽ sẽ bị cuốn vào giáo phái Khlưxtư(7)… Hễ có dịp là tôi sẽ viết thư lên Hội nghị tôn giáo, còn thằng Alecxei con tôi thì tôi sẽ lôi nó về nhà… Ở đây xin lưu ý một điều. Fedor Pavlovich đã nghe được một số lời đồn đại. Trước đây đã có những chuyện đơm đặt độc ác thậm chí đã đến tai cả giáo chủ (không phải chỉ trong vùng chúng tôi, mà cả ở các tu viện khác có lập trưởng lão), theo đó thì dường như các trưởng lão được tôn sùng quá đáng, thậm chí phương hại đến uy quyền của viện trưởng, và ngoài ra, dường như các trưởng lão lạm dụng bí tích xưng tội và vân vân. Lời buộc tội thật phi lí, vì thế nó đã tự tiêu tan ngay từ thời ấy, cả ở vùng chúng tôi cũng như ở khắp mọi nơi. Nhưng con quỷ ngu ngốc đã bốc Fedor Pavlovich lên và mang ông ta đi mỗi lúc một xa xuống cái vực sâu nhục nhã này lại nhắc ông ta nhớ tới lời buộc tội trước đây mà bản thân ông ta chẳng hiểu tí gì hết. Vả chăng ông ta cũng không biết trình bày cho nên đầu nên đũa, nhất là lần này ở phòng trưởng lão chẳng có ai quỳ gối bô bô xưng tội để mọi người nghe thấy, vì Fedor Pavlovich không thể chính mắt nhìn thấy chuyện như thế và chỉ nói theo lời đồn và những chuyện đơm đặt trước kia mà ông nhớ láng máng. Nhưng nói xong những lời ngu ngốc, ông ta cảm thấy mình phun ra những điều vô lí lố bịch, và ông ta bỗng muốn chứng minh rằng hoàn toàn không phải là ông ta nói nhảm. Tuy ông ta biết rõ mười mươi rằng càng nói thêm câu nào thì ông ta càng vô lí và lố lăng hơn, nhưng ông ta không nén được và cứ như lao tuột xuống dốc. (4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: nhiều tao nhã hơn là thành thật (N.D). (5) Tiếng Pháp trong nguyên bản: nhiều thành thật hơn là tao nhã (N.D). (6) Tiếng Pháp trong nguyên bản: tao nhã (N.D). (7) Một trong những phái li giáo tăm tối nhất, cuồng tín nhất, xuất hiện ở Nga vào thế kỉ XII (N.D). - Đê tiện quá đi! - Petr Alecxandrovich la lên. - Xin lỗi Cha viện trưởng bỗng lên tiếng. - Đời xưa có câu: “Người ta bắt đầu nói nhiều điều không đâu về tôi, thậm chí cả những điều xấu xa. Tôi nghe hết và tự nhủ: ấy là thuốc của Chúa Kito gửi xuống để chữa cho tôi cái bệnh háo danh.” Vì thế chúng tôi cúi mình cảm tạ ông, thưa vị khách quý báu! Và Cha rạp mình cúi chào Fedor Pavlovich. - Ôi chà chà! Đạo đức giả và câu nói suông cũ rích! Những câu nói cũ rích và những điệu bộ cũ rích! Sự giả dối cũ rích và cái trò rạp đầu bái tạ theo khuôn sáo mòn! Chúng tôi biết những cái lạy tạ ấy rồi! “Hôn vào môi và cắm lưỡi dao vào tim” như trong vở “Lũ kẻ cướp” của Siller. Tôi không ưa sự giả dối, thưa các cha, tôi muốn chân lí! Nhưng chân lí không phải ở những con cá bống, điều đó tôi đã tuyên bố rõ! Thưa các cha thày tu, các cha ăn chay làm gì? Tại sao các cha ăn chay để mong được ân thưởng ở trên trời? Để được ân thưởng như thế thì đến cả tôi cũng xin ăn chay! Không, thưa đấng tu sĩ thánh thiện, hãy đức hạnh trong đời sống, làm lợi cho xã hội, chứ không phải là giam mình trong tu viện ăn bánh mì có sẵn và chờ đợi sự ân thưởng ở trên kia - như vậy còn khó hơn. Thưa Cha viện trưởng, tôi cũng biết nói năng ra đầu ra đũa đấy chứ. Người ta dọn những món gì thế này? - ông ta tới gần bàn. - Rượu Porto cũ của Farton, rượu vang Medog của anh em Elixxeev(8), các cha cừ thật! Những thứ này không có gì giống cá bống. Các cha lại còn đưa ra cả chai, rượu này nữa chứ, hê hê hê! Nhưng ai cung phụng tất cả những thứ này? Người nông dân Nga, người lao động đã bằng hai bàn tay chai sần của mình kiếm từng đồng xu đem đến đây, bòn của gia đình và của nhu cầu nhà nước! Thưa các cha thánh thiện, các cha hút máu dân đen! (8) Tên các cửa hàng thực phẩm nổi tiếng (N.D). - Ông bậy bạ quá đấy. - Cha Ioxif thốt lên. Cha Paixi một mực im lặng. Miuxov đâm bổ ra khỏi phòng, Kalganov ra theo. - Thôi, thưa các cha, tôi cũng về theo Petr Alecxandrovich! Tôi sẽ không đến đây nữa, các cha có quỳ xuống cầu xin tôi cũng cũng không đến nữa. Tôi đã gửi cho các cha một nghìn rúp, thế là các cha đã lại sáng mắt ra, hê hê hê! Không, tôi sẽ không cho thêm nữa đâu. Tôi trả thù cho tuổi trẻ đã qua của tôi, cho tất cả sự nhịn nhục của tôi! - ông ta đấm tay xuống bàn trong cơn uất ức giả tạo. - Tu viện này có ý nghĩa lớn trong đời tôi! Tôi đã cay đắng đổ nhiều nước mắt vì nó! Các người đã xúi giục người vợ điên dại của tôi chống lại tôi. Các người đã nguyền rủa tôi tại bảy Hội nghị giám mục(9), phỉ báng tôi khắp quanh vùng! Đủ rồi, thưa các cha, bây giờ là thời đại tự do, thời đại của tàu thủy và đường sắt. Các người sẽ không được tôi cho nghìn nào, trăm nào, thậm chí trăm xu nào nữa, không có gì nữa hết! Còn điều nữa đáng lưu ý. Chưa bao giờ tu viện của chúng tôi có ý nghĩa đặc biệt gì như thế trong đời ông ta, cũng chưa bao giờ ông ta nhỏ một giọt nước mắt cay đắng nào vì tu viện. Nhưng ông ta say sưa với những giọt nước mắt bịa đặt ấy đến nỗi trong giây lát ông ta gần như không tin bản thân mình nữa: thậm chí ông ta suýt khóc vì cảm động; nhưng chính lúc ấy ông ta cảm thấy nên quay càng xe tháo lui là vừa. (9) Trong số bảy Hội nghị giám mục toàn thế giới (những đại hội các giới chức cao cấp của giáo hội Kito), nhà thờ chính giáo thừa nhận bảy hội nghị đầu tiên. Kể từ hội nghị đầu tiên, trong đó giáo phái Ariut bị lên án là tà đạo, hầu như mỗi lần hội nghị đều có người bị nguyền rủa và lên án (N.D). Đáp lại những lời bịa đặt hằn học của ông ta, Cha viện trưởng cúi đầu lại nói: - Còn có câu này nữa: “Hãy vui vẻ chịu đựng sự sỉ nhục tự dưng đến với con, đừng bối rối, cũng đừng căm thù kẻ đã bêu riếu con.” Chúng tôi sẽ làm như thế. - Ái chà chà! Lại một mớ những lời bá láp! Các cha cứ suy xét đi, tôi về đây! Còn thằng Alecxei con tôi thì từ nay tôi lôi hẳn nó về, quyền làm bố của tôi, Ivan Fedorovich con trai vô cùng đáng kính của ba, ba lệnh cho anh đi theo ba! Fon Zon, anh còn đứng đấy làm gì! Về thành phố đi, đến nhà tôi. Ở nhà tôi vui ra trò. Chỉ một dặm đường thôi mà, thay cho dầu cây tôi sẽ đãi lợn sữa và cháo đặc; ta sẽ làm một bữa chén, sẽ có cognac, rượu mùi nữa, lại cả gái đẹp… Ê, Fon Zon, đừng bỏ lỡ hạnh phúc! Ông ta đi ra, vừa gào thét vừa hoa tay múa chân. Chính lúc ấy Rakitin nhìn thấy và chỉ cho Alecxei. - Alecxei! - Nhác thấy con, ông ta thét gọi từ xa - Hôm nay về hẳn nhà, đem theo cả gối và chăn nệm, sao cho ở đây không còn hơi hướm gì của con nữa. Aliosa đứng sững lại như trời trồng, lẳng lặng chăm chú quan sát cảnh tượng trước mắt. Trong lúc đó Fedor Pavlovich lên xe, tiếp đó Ivan Fedorovich lặng lẽ và cau có lên theo, thậm chí không ngoảnh lại từ biệt Aliosa. Nhưng lại một cảnh hề nữa gần như không thể tưởng tượng nổi xảy ra, bổ sung cho cuộc diễn trò. Địa chủ Maximov bỗng xuất hiện bên bác xe. Ông ta chạy hộc tốc để khỏi bị chậm. Rakitin và Aliosa nhìn thấy ông ta chạy. Ông ta vội vã đến nỗi hấp tấp bước luôn lên cái bậc xe vẫn còn bàn chân trái của Ivan Fedorovich đặt ở đó và víu lấy thành xe, toan nhảy vào trong. - Tôi cũng đi, cho tôi đi với! - ông ta vừa la vừa nhảy cẫng lên, vui vẻ cười khúc khích, mặt tràn trề hạnh phúc, sẵn sàng làm mọi việc. - Cho tôi đi với! - Thì tôi đã bảo mà, - Fedor Pavlovich hân hoan reo lên, - đấy là Fon Zon! Đấy thực sự là Fon Zon sống lại từ những kẻ chết. Nhưng anh làm cách nào thoát ra khỏi nơi ấy? Anh đã làm trò quỷ quái gì ở đấy và làm thế nào thoái thác được bữa ăn? Muốn vậy phải có cái trán bằng đồng! Tôi có cái trán như thế, còn anh, người anh em ạ, tôi ngạc nhiên về cái trán của anh. Nhảy lên, nhảy lên mau mau! Cho ông ấy lên, Vania, càng thêm vui. Ông ta sẽ nằm tạm dưới chân được đấy. Anh nằm được chứ, Fon Zon? - Hay để ông ta ngồi ghé lên ghế xà ích?… Nhảy lên ghế xà ích đi, Fon Zon… Nhưng Ivan Fedorovich đã ngồi vào chỗ bỗng lẳng lặng ra sức xỏ mạnh vào ngực Maximov khiến ông ta văng đi đến vài thước. Ông ta không ngã là may. - Đi thôi! - Ivan Fedorovich giận dữ quát lên với người đánh xe. - Sao lại làm thế? Sao con lại làm thế? Sao lại xô ông ấy? - Fedor Pavlovich sửng cồ lên, nhưng xe đã đi. Ivan Fedorovich không trả lời. - Con lạ thật đấy! - Im lặng được vài phút, Fedor Pavlovich lại lên tiếng, mắt liếc nhìn con. - Chính con bày ra tất cả chuyến đi thăm tu viện này, chính con giục giã, thế thì tại sao bây giờ lại cáu kỉnh? - Ba nói lảm nhảm đủ rồi đấy, bây giờ thì ngủ đi một chút. - Ivan Fedorovich nghiêm nghị ngắt lời. Fedor Pavlovich lại yên lặng vài phút. - Giá được một li cognac bây giờ thì tốt. - ông ta nói với giọng trịnh trọng. Nhưng Ivan Fedorovich không trả lời. - Về đến nhà, con cũng nên uống một chút. Ivan Fedorovich vẫn lặng thinh. Fedor Pavlovich chờ thêm hai phút nữa. - Dù thế nào ba cũng lôi Alecxei ra khỏi tu viện, mặc dù anh sẽ rất khó chịu về việc đó, Carl Fon Mor vô cùng đáng kính của ta ạ. Ivan Fedorovich khinh khỉnh nhún vai và quay mặt đi, nhìn ra ngoài đường. Sau đó cho đến lúc về tới nhà, không ai nói năng gì. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 102 Nhà Fedor Pavlovich không phải ở ngay trung tâm thành phố nhưng cũng không hẳn ở ngoại ô. Ngôi nhà khá cũ kĩ, nhưng bề ngoài nom dễ thương: một tầng, có gác nóc, sơn xám, lợp tôn đỏ. Tuy vậy nó còn vững chãi chán, rộng rãi và tiện lợi. Trong nhà có nhiều buồng kho, nhiều xó xỉnh và những cầu thang bất ngờ. Nhà có chuột, nhưng Fedor Pavlovich cũng không lấy thế làm bực tức gì cho lắm. “Dù sao tối đến cũng không buồn tẻ quá khi ta chỉ có một mình.” Quả thực là ông có thói quen ban đêm cho đầy tớ xuống ngủ nhà dưới, còn ông khóa cửa ở trên nhà một mình suốt đêm. Căn nhà dưới ấy ở sân, rộng thênh thang và vững chãi, Fedor Pavlovich đặt bếp ở đấy, tuy nhà trên cũng có bếp: ông ta không ưa mùi nhà bếp, và thức ăn phải đưa lên qua sân, đông cùng mùa hè. Nói chung ngôi nhà xây cho một gia đình lớn: có thể chứa được một số người nhiều gấp năm, cả chủ lẫn đầy tớ. Nhưng vào lúc xảy ra câu chuyện này, trên nhà chỉ có Fedor Pavlovich và Ivan Fedorovich, còn ở căn nhà dưới của gia nhân chỉ có ba người đầy tớ: lão Grigori, mụ Marfa vợ lão và Xmerdiakov, gã đầy tớ khá trẻ. Cần nói kĩ hơn chút nữa về ba nhân vật này. Về lão Grigori Vaxilievich thì chúng ta nói khá nhiều rồi. Đấy là một con người cứng rắn và kiên cường, bền gan đi thẳng tới đích của mình, miễn là cái đích ấy, do nhưng nguyên nhân nào đó (thường là phi logic kì lạ), được lão coi là chân lí hiển nhiên. Nói chung lão là người chính trực và không mua chuộc được. Vợ lão, Marfa Ignatievna, mặc dù suốt đời một mực tuân theo ý chồng, đã có lần rầy rà chồng ghê gớm, chẳng hạn ngay sau khi giải phóng nông nô, mụ cứ nằng nặc đòi bỏ Fedor Pavlovich đi Moskva để buôn bán lặt vặt gì ở đó (hai vợ chồng cũng có được tí tiền). Nhưng ngay hồi ấy Grigori đã quyết định, một lần dứt khoát, là mụ nói tầm bậy. “Vì đàn bà ả nào cũng bất nghĩa bất nghì”, nhưng bỏ chủ cũ mà đi thì không được, dù chủ thế nào đi nữa, “vì bây giờ bổn phận của họ là như vậy.” - Bà có hiểu thế nào là bổn phận không? - Lão nói với vợ. - Tôi hiểu. Ông Grigori Vaxilievich ạ, nhưng sao chúng ta lại có bổn phận phải ở lại đây dù tôi chẳng hiểu gì cả. - Marfa Ignatievna trả lời dứt khoát. - Không hiểu thì thôi, nhưng vẫn cứ phải như vậy. Từ nay đừng nói nữa. Đúng như thế: họ không đi, Fedor Pavlovich ấn định cho họ một khoản tiền còng nhỏ thôi, nhưng trả sòng phẳng. Thêm nữa Grigori biết rằng lão có ảnh hưởng không chối cãi được đối với chủ. Lão cảm thấy như thế, và cũng hợp lí thôi: tay hề ranh mãnh và bướng bỉnh Fedor Pavlovich tính tình rất cương quyết “trong một số việc của đời sống”, theo lối nói của chính ông ta, nhưng lại rất non gan trong “một số sự việc khác của đời sống”, điều mà chính ông ta cũng lấy làm lạ. Chính ông ta biết đó là những việc gì. Ông ta biết và có nhiều điều ông ta sợ. Trong đời có những trường hợp cần đề phòng cẩn thận, khi ấy không có một người trung thành thì thật gay, mà Grigori là người trung thành bậc nhất: trong cuộc đời bon chen của mình, đã nhiều lần Fedor Pavlovich có thể bị ăn đòn, và ăn đòn đau, nhưng bao giờ ông ta cũng được Grigori cứu thoát, tuy sau mỗi lần như thế lão đều la rầy ông đến rát tai. Nếu chỉ là bị đánh thôi thì có lẽ Fedor Pavlovich không sợ: có những trường hợp hơn thế, thậm chí rất tinh vi và phức tạp, mà khi ấy, chính Fedor Pavlovich có lẽ cũng không hiểu tại sao ông tức khắc cảm thấy hết sức cần một người thân tín trung thành. Đấy là những trưởng hợp gần như bệnh hoạn: là một kẻ hết sức trụy lạc và nhiều khi dâm đãng đến tàn bạo, như một con sâu độc, đôi khi, vào những lúc say, bỗng dưng Fedor Pavlovich cảm thấy một nỗi sợ hãi không đâu, một cơn chấn động tinh thần có ảnh hưởng gần như về mặt thể xác trong tâm hồn. “Những lần ấy tâm hồn tôi như run rẩy trong cổ họng” - đôi khi ông ta nói như vậy. Những lúc ấy ông ta thích bên cạnh mình, dù không phải ở cùng phòng, mà ở nhà dưới, có một người tin cẩn, cương quyết, không trụy lạc như ông ta, nay nhìn thấy tất cả những trò phóng đãng đang diễn ra và biết hết mọi bí mật, nhưng vì trung thành mà dung thứ hết, không chống lại, nhất là không trách móc và không dọa nạt ông bằng bất cứ hình phạt gì trong cuộc đời hiện nay hay ở kiếp sau; khi cần thì sẽ bảo vệ ông - chống lại ai? Chống lại kẻ nào đó không biết, nhưng ghê gớm và nguy hiểm. Cái chính là nhất thiết phải có một người khác, một người thân thiết lâu năm mà lúc đau buồn có thể gọi đến chỉ để chăm chú nhìn vào mặt, có thể trao đổi một lời dù là tầm phào, và nếu người đó không hề cáu kỉnh thì nỗi lòng vợi hẳn đi, còn nếu người đó cáu kỉnh thì trong lòng càng buồn thêm. Có khi (tuy là rất hiếm) Fedor Pavlovich đương đêm xuống nhà dưới đánh thức Grigori dậy, bảo lão lên với ông ta một lát. Lão lên, ông ta nói những chuyện hết sức vẩn vơ, rồi lát sau cho lão xuống nhà, đôi khi thậm chí giễu cợt và pha trò, rồi nhổ một bãi nước bọt, đi nằm và ngủ một giấc ngon lành của người công chính. Ngay cả sau khi Aliosa về nhà cũng đã xảy ra một trò gì tương tự như thế. Aliosa “đâm thủng tim” ông vì anh “nhìn thấy hết và không chê trách gì”. Hơn thế nữa, ở anh còn có một điều chưa từng thấy: anh hoàn toàn không khinh ông già, trái lại bao giờ cũng dịu dàng với ông, thương mến ông một cách hoàn toàn thẳng thắn, tự nhiên, tuy ông chẳng xứng đáng được như thế. Đối với lão già dâm đãng sống độc thân, tất cả những điều đó hoàn toàn bất ngờ, hết sức bất ngờ đối với một người như ông ta trước nay chỉ ham thích “cái bỉ ổi”. Aliosa đi rồi, ông ta tự thú với mình rằng ông ta đã hiểu được điều gì trước nay ông ta không muốn hiểu. Khi mới vào câu chuyện, tôi đã nói rằng Grigori ghét Adelaida Ivanovna, người vợ đầu tiên của Fedor Pavlovich và mẹ của con trai cả của ông - Dmitri Fedorovich - và trái lại, lão bênh người vợ thứ hai mắc bệnh “ngộ dại” của chủ, Xofia Ivanovna, chống lại chính ông chủ và bất cứ ai thốt ra một lời tồi tệ hay nông nổi về bà ta. Thiện cảm của lão đối với người đàn bà bất hạnh ấy biến thành cái gì thiêng liêng đến mức hai mươi năm sau lão vẫn không chịu nổi khi bất kì ai nói xấu bà chủ và lão lập tức phản đối kẻ xúc phạm. Vẻ ngoài Grigori là một người lạnh lùng và nghiêm trang, không nhiều lời, nói ra là xác đáng, chắc nịch. Thoạt gặp không thể đoán chắc được lão có yêu người vợ ngoan ngoãn tận tụy không, thế nhưng lão thực sự yêu vợ, và bà vợ cố nhiên cũng biết như thế. Marfa Ignatievna chẳng những không đần mà có lẽ còn tinh khôn hơn chồng, ít ra cũng chín chắn hơn trong đời sống, nhưng mụ nhẫn nại phục tùng chồng vô điều kiện, ngay từ khi thành vợ thành chồng, hiển nhiên là mụ kính trọng chồng vì đức độ cao cả. Đáng chú ý là hai vợ chồng cả đời rất ít nói với nhau, ngoài những điều hết sức cần thiết và những việc hàng ngày. Grigori nghiêm trang và oai vệ chỉ nghiền ngẫm một mình mọi công việc và ưu tư của mình, vì thế Marfa Ignatievna đã từ lâu hiểu rõ dứt khoát rằng chồng không cần đến lời bàn của mụ. Mụ cảm thấy rằng chồng quý trọng sự im lặng đó của mụ và cho như thế là khôn ngoan. Lão không bao giờ đánh vợ, trừ có một lần, nhưng cũng nhẹ thôi. Năm đầu tiên sau khi Adelaida Ivanovna và Fedor Pavlovich thành hôn, có lần đàn bà con gái trong làng hồi ấy còn là nông nô, tụ họp ở sân nhà chủ để hát và nhảy. Họ hát bài “Trong những đồng cỏ” và Marfa Ignatievna, hồi ấy còn trẻ, bỗng nhảy ra đi điệu vũ Nga bằng một kiểu đặc biệt, không như các bà trong làng, mà như mình vẫn nhảy hồi còn là người hầu trong gia đình Miuxov giàu có: những người biểu diễn vũ trên sân khấu nhà họ đều được một vũ sư ở Moskva về dạy cho. Grigori thấy vợ nhảy rất chi là “điệu”, và một giờ sau, ở nhà ông ta cho vợ bài học, nắm tóc giúi nhẹ mấy cái. Nhưng việc đánh vợ chỉ có độc một lần như thế thôi, không tái diễn lần nào, vả lại từ đó Marfa Ignatievna thề không nhảy nhót gì nữa. Trời không cho họ có con, sinh được một đứa nhưng bỏ mất rồi, Grigori rõ ràng là yêu trẻ, mà lão cũng không giấu giếm điều đó nghĩa là nói ra mồm không ngượng ngập. Khi Adelaida Ivanovna bỏ nhà trốn đi, lão đem Dmitri Fedorovich mới lên ba về nuôi, chăm nom thằng bé gần một năm, tự tay chải đầu cho nó, tự tay tắm rửa cho nó trong chiếc chậu giặt. Rồi lão chăm nom cho Ivan, cả Aliosa, vì thế mà lão được ăn cái tát; nhưng về chuyện ấy tôi đã kể đầy đủ rồi. Còn chính con lão chỉ đem lại cho lão niềm vui sướng hi vọng lúc Marfa Ignatievna còn mang thai. Khi đã ra đời, nó làm cho lão đau xót và khiếp sợ. Số là đứa bé sinh ra có sáu ngón tay. Thấy thế Grigori chán nản đến nỗi chẳng những không hé răng nửa lời cho đến ngày làm lễ rửa tội, và cố ý lánh ra vườn để khỏi nói năng gì. Bấy giờ là mùa xuân, suốt ba ngày lão đánh luống rau trong vườn, đến ngày thứ ba phải làm lễ rửa tội cho đứa bé. Lúc ấy Grigori đã nghĩ ra một cách. Trong nhà đã có mặt cha xứ, khách khứa và chính Fedor Pavlovich đến để làm cha đỡ đầu, Grigori vào và đột nhiên tuyên bố là “không nên làm lễ rửa tội” cho đứa bé, lão nói khẽ thôi, không nhiều lời, khó nhọc thốt ra từng tiếng, chỉ giương mắt ngây ngô nhìn linh mục chằm chằm. - Sao lại thế? - Linh mục hỏi, vẻ ngạc nhiên và vui vẻ. - Là bởi vì đấy là… con rồng… - Grigori ấp úng. - Sao lại rồng, rồng nào? Grigori im lặng một lúc. - Thiên nhiên lầm lộn… - Lão ấp úng, nói không rõ ràng, nhưng rất kiên quyết và dễ thấy là lão không muốn dài lời thêm nữa. Người ta cười và dĩ nhiên là vẫn cứ làm lễ cho đứa bé tội nghiệp. Grigori nhiệt tâm cầu nguyện bên chậu nước làm lễ, nhưng không thay đổi ý kiến về đứa bé mới sinh. Tuy nhiên, lão không cản trở gì hết, có điều suốt mấy tuần lễ đứa bé ốm yếu còn sống, lão hầu như không nhìn đến nó, thậm chí không muốn nhận thấy là có nó, và phần lớn thời gian lão đi khỏi nhà. Nhưng hai tuần sau khi đứa bé chết vì bệnh tưa mồm thì lão tự tay đặt nó vào cỗ quan tài nhỏ, hết sức buồn rầu nhìn nó, và khi người ta lấp cái huyệt nhỏ, đào nông thì lão quỳ xuống, rạp mình sát đất trước nấm mồ. Từ đó, suốt nhiều năm lão không hề nhắc đến con mình lần nào, cả Marfa Ignatievna cũng không bao giờ nhắc đến đứa con trước mặt chồng, còn khi buộc phải nói với ai về “con mình” thì chỉ nói thì thầm, cho dù là Grigori không có mặt ở đấy. Theo nhận xét của Marfa Ignatievna, từ sau khi chôn đứa bé, ông chồng đâm ra mê mải chăm “việc thần linh”, đọc kinh Treti-minei, đeo cặp kính tròn to tướng gọng bạc lên và phần nhiều là lẳng lặng đọc một mình. Ít khi lão đọc thành tiếng, trừ phi vào tuần chay. Lão thích cuốn Jov, lão kiếm đâu ra được tập lời giảng và giáo lí của “Cha Ixaac người Sy-ri của chúng ta, đấng rao truyền ý Chúa”, lão kiên gan đọc nhiều năm mà hầu như chẳng hiểu gì cả. Gần đây lão bắt đầu chú ý tìm hiểu kĩ giáo phái Khlưxtư, nhờ có những người hàng xóm mà lão có dịp làm việc đó, rõ ràng lão xúc động mãnh liệt, nhưng lão chưa có ý theo đạo mới. Do đọc nhiều thánh kinh, dĩ nhiên diện mạo lão càng có vẻ trịnh trọng hơn. Có lẽ lão có khuynh hướng thần bí. Vậy mà như có sự sắp đặt sẵn, việc đứa con sáu ngón ra đời và chết lại trùng khớp với một việc tình cờ khác hết sức lạ lùng, bất ngờ, kì dị mà như lời lão nói sau này, đã để lại “dấu ấn” trong tâm hồn lão. Chuyện là thế này: đúng hôm chôn đứa con sáu ngón, Marfa Ignatievna đương đêm thức giấc, nghe như có tiếng khóc của trẻ sơ sinh. Mụ sợ hãi đánh thức chồng dậy. Lão lắng tai nghe và nhận xét rằng có tiếng ai rên thì đúng hơn, “hình như tiếng đàn bà”. Lão trở dậy, mặc quần áo, đấy là một đêm tháng năm khá ấm áp. Ra đến thềm, lão nghe thấy rõ tiếng rên ở trong vườn. Nhưng ban đêm vườn khóa từ phía sân, và ngoài lối đi đó thì không vào vườn được vì khắp xung quanh là tường rào chắc chắn và cao. Grigori vào nhà thắp đèn, lấy khóa vườn và không để ý gì đến sự sợ hãi điên cuồng của vợ - vợ lão càng tin chắc rằng mụ nghe thấy tiếng khóc, chắc là thằng bé gọi mụ - và lão lặng lặng đi ra vườn. Đến đây lão hiểu rõ ràng tiếng rên vọng ra từ buồng tắm hơi ở trong vườn, cách cửa rào không xa, và đúng là tiếng rên của đàn bà. Mở cửa buồng tắm, lão thấy một cảnh tượng khiến lão sững người: cô gái ngây dại vẫn đi lang thang trên các đường phố và cả thành phố đều biết, biệt hiệu là Lizaveta Xmerdiasaia, đã vào được buồng tắm và vừa sinh một đứa con. Đứa hài nhi nằm cạnh cô ta, còn cô ta đang hấp hối. Cô ta chẳng nói năng gì, vì một lẽ đơn giản là cô ta không biết nói. Nhưng tất cả những điều đó cần phải giải thích riêng. Ở đây có một điều đặc biệt khiến Grigori xúc động sâu sắc, làm tăng thêm mối nghi ngờ ghê tởm trước kia vốn đã có. Cô Lizaveta ta Xmerdiasaia này vóc người rất nhỏ bé, “chỉ già hai arsin một chút”(1) như mấy bà già sùng đạo trong thành phố đã động lòng thương cảm nhớ lại sau khi cô ta chết. Khuôn mặt con gái đôi mươi khỏe mạnh, bầu bĩnh và hồng hào, hoàn toàn ngây độn; mắt nhìn trân trân đến khó chịu, nhưng hiền lành. Suốt đời, đông cũng như hè, cô ta đi chân đất, mặc độc một chiếc sơ mi bằng vải gai thô. Mái tóc gần như đen, rất dày rậm, xoăn tít như lông cừu, nom như chiếc mũ rất lớn trên đầu. Ngoài ra, người lúc nào cũng lấm lem bùn đất, dính đầy lá lẩu, cành vụn, vỏ bào, vì cô ta bao giờ cũng ngủ dưới đất và cả trong bùn. Bố cô ta là Ilya, một tiểu thị dân vô gia cư, đã phá sản và ốm o, rất nghiện rượu và nhiều năm nay vẫn làm lao công cho những người phong lưu cũng là tiểu thị dân vùng này để được nuôi ăn. Mẹ Lizaveta chết đã lâu. Luôn luôn ốm đau và hung ác, cha đánh đập Lizaveta tàn nhẫn mỗi khi con về nhà. Nhưng cô gái ít khi về nhà bởi vì cô được cả thành phố cho ăn, coi cô là một “thánh hài” trời sinh. Cả các chủ của Ilya, cả chính Ilya, thậm chí nhiều người giàu lòng trắc ẩn trong thành phố, những thương gia và phần lớn là những thương gia, đã nhiều lần cho Lizaveta mặc tử tế hơn, chứ không phải phải chỉ là một chiếc áo sơ mi, mùa đông bao giờ cùng mặc áo lông cho cô và cho cô đi ủng. Nhưng thường thường cô ta cứ để yên cho mặc, rồi cô ta đi và trút bỏ hết nhưng gì người ta cho ở một chỗ nào đó, phần lớn là ở sân nhà thờ. Khăn quàng, váy hay áo lông, ủng, cô ta bỏ ráo, lại đi đất và trên mình chỉ độc một chiếc sơ mi như trước. Có lần, quan tổng đốc mới tỉnh tôi, nhân kinh lí qua thị trấn này, nhìn Lizaveta và điều đó xúc phạm ghê gớm đến những tình cảm tốt đẹp nhất của Ngài và tuy Ngài hiểu rằng đó là “một thánh hài” như người ta đã trình với Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ quở rằng một đứa con gái trẻ chỉ mặc một chiếc sơ mi đi lang thang ngoài phố là có hại cho thuần phong mĩ tục, từ nay trở đi không được để như thế nữa. Nhưng quan tổng đốc đi rồi, người ta lại vẫn để mặc cô gái như trước. Cuối cùng bố cô ta chết, cô ta mồ côi mồ cút và càng được tất cả những người sùng đạo quý mến hơn. (1) 1 arsin = 0.71m, hai arsin là khoảng 1.4m (N.D). Quả là cô ta dường như được mọi người yêu mến, ngay cả bọn trẻ con trai cũng không trêu ghẹo và xúc phạm cô, mà bọn trẻ con trai ở vùng tôi, đặc biệt là học trò thì tinh nghịch lắm. Cô ta vào những nhà không quen biết cũng chẳng ai đuổi cô ra, trái lại ai cũng trìu mến và cho cô đồng nửa xu. Được người ta cho đồng xu, cô cầm lấy và lập tức đem đi bỏ vào một cái hốc nào đó ở nhà thờ hay nhà tù. Khi ở chợ người ta cho bánh mì vòng hay bánh kalats, thế nào cô ta cũng đem cho một đứa trẻ gặp trước tiên, không thì níu một bà nào giàu nhất vùng lại mà đưa tặng; bà này nhận ngay, thậm chí vui mừng mà nhận. Bản thân cô ta chỉ ăn bánh mì đen và uống nước lã. Có khi cô ta tạt vào một cửa hàng giàu có, ngồi chơi ở đấy, trước mặt là hàng hóa đắt tiền, cả tiền nữa, nhưng chủ nhà chẳng bao giờ canh chừng cô, họ biết rằng cho dù họ có lấy ra trước mắt cô hàng nghìn đồng và bỏ quên thì cô cũng chẳng đụng đến một xu. Ít khi cô đi nhà thờ, cô ngủ hoặc là ở sân nhà thờ, hoặc là leo qua hàng giậu đan bằng cành cây (vùng chúng tôi cho đến nay vẫn còn nhiều hàng giậu chứ không phải là tường rào) vào vườn rau nhà ai đó. Cô ta về nhà nghĩa là đến những chủ nhà mà trước kia bố cô ta vẫn ở nhờ, chừng một tuần một lần, mùa đông thì ngày nào cũng đến, nhưng chỉ để ngủ đêm thôi, và ngủ ở phòng ngoài hoặc trong chuồng bò. Người ta ngạc nhiên thấy cô ta chịu đựng nổi cuộc sống như thế, nhưng cô ta quen rồi. Cô gái này nhỏ người, nhưng thể chất khỏe lạ thường. Một số người tầng lớp trên bảo rằng cô ta làm ra như thể vì tính kiêu hãnh, nhưng nói vậy xem ra không ổn: cô ta không nói được tiếng nào, chỉ thỉnh thoảng uốn lưỡi ú ớ cái gì và rống lên, thế thì kiêu hãnh cái nổi gì. Thế rồi có một lần (đá khá lâu rồi), vào một đêm tháng chín sáng sủa và ấm áp, trăng tròn vành vạnh, đã khuya lắm rồi theo thói quen sinh hoạt của chúng tôi, một bọn các ông chủ đi đánh chén ở câu lạc bộ về, say ngật ngưỡng, chừng năm sáu mống, đi tắt qua cái “sân sau”. Hai bên các ngõ hẻm là bờ giậu vườn các nhà kế cận. Lối ngõ dẫn ra chiếc cầu bắc qua một rãnh nước dài và hôi thối mà ở vùng chúng tôi người ta quen gọi là con sông. Bọn người này nhìn thấy Lizaveta đang ngủ bên hàng giậu, trong đám tầm ma và ngưu bằng. Những ông chủ chếnh choáng say dừng lại trước cô gái, cười hô hố và phun ra những câu pha trò hết sức thô bỉ. Một cậu ấm con nhà chợt nảy ra một câu hỏi kì quái về một câu chuyện không thể tưởng tượng được: “Liệu có người nào có thể coi con vật này là một ả đàn bà và ngay bây giờ…” Cả bọn đều tỏ vẻ ghê tởm kiêu căng, cả quyết là không. Nhưng trong đám có Fedor Pavlovich, ông ta lập tức nhảy ra và nói quyết rằng ông ta có thể coi đây là một người đàn bà, thậm chí rất hứng thú là đằng khác, ở đây có một cái gì thuộc loại khoái trá đặc biệt v.v và v.v. Thực ra, hồi ấy ông ta đang gắng hết sức làm nổi đình đám cho vai hề của mình, ông ta hay nhảy ra làm trò vui cho những kẻ giàu có, cố nhiên bề ngoài có vẻ ngang vai bằng vế, nhưng thực ra đối với họ ông ta chỉ là một kẻ hạ đẳng. Chuyện này xảy ra đúng vào lời gian ông ta nhận được tin từ Peterburg là người vợ đầu của ông, Adelaida Ivanovna đã chết và ông ta đeo băng tang trên mũ mà vẫn rượu chè trác táng đến nỗi ngay cả những kẻ phóng đãng nhất trong thành phố cứ nhìn thấy ông ta cũng phải khó chịu. Tất nhiên cả bọn phá lên cười vì cái ý kiến bất ngờ, có kẻ thậm chí còn xúi giục Fedor Pavlovich, nhưng những người khác bắt đầu nhổ bọt càng dữ dội hơn, tuy vẫn cực kì vui vẻ, cuối cùng họ ra về cả. Sau này Fedor Pavlovich thề sống thề chết rằng ông ta cũng bỏ đi cùng với những người khác. Có thể đúng như thế, không ai biết chắc và không bao giờ biết được, nhưng năm sáu tháng sau, cả thành phố đều thực tâm hết sức phẫn nộ khi thấy Lizaveta có mang, người ta hỏi nhau và tìm xem kẻ nào gây ra cơ sự này, kẻ nào làm nhục cô gái? Thế rồi bỗng nhiên lời đồn đại lạ lùng lan ra khắp thành phố: kẻ làm nhục cô gái chính là Fedor Pavlovich. Lời đồn ấy ở đâu ra? Hồi này trong số những ngài chơi bời tối hôm ấy, ở thành phố chỉ còn lại một người, mà lại là một vị đã có tuổi, một viên tham nghị bậc năm đáng kính có gia đình và các con gái lớn, hẳn là ông ta sẽ không hở điều gì, cho dù sự thể đã xảy ra là thế nào đi nữa. Những người khác có mặt trong buổi hôm ấy, chừng năm người, đã rời khỏi vùng này. Nhưng lời đồn nêu đích danh Fedor Pavlovich và vẫn không ngừng nêu đích danh ông ta. Cố nhiên ông ta không lấy gì làm bực bõ cho lắm: ông ta không thèm trả lời mấy tên nhà buôn và mấy đứa tiểu thị dân. Hồi ấy ông ta đang hãnh diện và chỉ chuyện trò với các quan chức và quý tộc mà ông ta ra sức làm trò vui cho họ. Chính thời kì ấy Grigori cực lực bênh vực chủ, chẳng những bác lại tất cả những lời nói xấu ấy, mà còn to tiếng cãi cọ khiến nhiều người phản đối. “Chính là tại ả, con bé hèn hạ ấy,” - lão nói quyết như vậy, còn kẻ gây nên cơ sự ấy chẳng phải ai khác ngoài “thằng Carfơ có súng” đấy là một tên tù ghê gớm, khét tiếng trong thành phố, hồi ấy đã vượt ngục và lẩn quất trong thành phố chúng tôi. Nghe chừng có lí lắm, người ta chưa quên Carfơ, người ta vẫn nhớ rằng mấy đêm đó, vào cữ sắp sang thu, hắn lởn vởn trong thành phố và đã cướp lột ba người. Nhưng việc không hay đã xảy ra và lời đồn đại chẳng những không làm cho mọi người mất thiện cảm với cô gái ngây dại mà người ta càng trông nom chăm sóc cô hơn. Bà nhà buôn Condratieva, một bà góa phong lưu, cho người đưa Lizaveta về nhà bà ta từ cuối tháng tư và dặn phải giữ cô ta lại cho đến khi sinh nở. Người ta canh giữ rất kĩ, nhưng mặc dù vậy, đến ngày cuối cùng, buổi tối Lizaveta trốn khỏi nhà Condratieva lúc nào không biết và lọt vào vườn nhà Fedor Pavlovich. Bụng mang dạ chửa như thế, cô ta làm thế nào vượt qua được tường rào cao và chắc chắn bao quanh vườn, đấy vẫn còn là điều bí ẩn. Một số người bảo có người đưa cô ta qua, một số khác nói rằng đấy là do “phép trời”. Việc đó tuy lạ lùng, nhưng nhiều phần chắc là đã diễn ra một cách tự nhiên: Lizaveta vẫn trèo qua được các hàng rào vào ngủ đêm trong vườn rau nhà người ta thì cũng có cách leo được lên bờ tường nhà Fedor Pavlovich, rồi từ đấy nhảy xuống vườn; mặc dù đang bụng mang dạ chửa, nhảy như thế là tự hại mình. Grigori đâm bổ đi tìm Marfa Ignatievna và bảo vợ chăm sóc cho Lizaveta, còn lão chạy đi mời bà đỡ ở gần đây. Đứa bé mới sinh thì cứu được, còn Lizaveta tắt thở lúc gần sáng. Grigori bế đứa bé vào nhà, bảo vợ ngồi xuống và đặt đứa bé lên đùi vợ, áp ngay vào vú: “Đứa trẻ mồ côi trời sinh này là bà con của tất cả mọi người, với vợ chồng ta lại càng gần hơn. Nó là do đứa nhỏ đã chết của chúng ta gửi đến cho chúng ta, nó là con trai của quỷ và một phụ nữ công chính. Hãy nuôi nó và từ nay đừng khóc nhiều nữa.” Thế là Marfa Ignatievna nuôi dạy đứa trẻ. Nó được rửa tội và đặt tên là Pavel, còn phụ danh thì chẳng ai bảo, mọi người đều gọi nó là Fedorovich, Fedor Pavlovich chẳng những không chống đối, mà thậm chí còn coi đó là chuyện thú vị, tuy ông ta vẫn dứt khoát không nhận nó đích thực là con mình. Trong thành phố người ta khen ông ta đã nuôi đứa con rơi. Sau này ông ta đặt họ cho nó là Xmerdiakov, theo biệt hiệu của mẹ nó là Lizaveta Xmerdiasaia. Chính Xmerdiakov ấy là người đầy tớ thứ hai của Fedor Pavlovich và trong phần đầu câu chuyện của chúng ta, hắn ở căn nhà dưới cùng với lão Grigori và bà lão Marfa. Hắn giữ chân nấu bếp. Rất cần nói một số điều riêng về hắn, nhưng, tôi lấy làm ngượng vì đã làm độc giả mất nhiều thì giờ như thế về những gia nhân rất đỗi tầm thường, vì vậy tôi đi vào câu chuyện của tôi, hi vọng rằng quá trình kể chuyện, tự nhiên sẽ phải đả động đến Xmerdiakov. ANH EM NHÀ KARAMAZOV Fyodor Mikhailovich Dostoevsky www.dtv-ebook.com Anh em nhà KaramazovPhần 3Chương 3 Nghe lời quát bảo của bố từ trên cỗ xe ngựa đang rời khỏi tu viện, Aliosa vẫn đứng im tại chỗ một lúc, hết sức băn khoăn. Không phải là anh đứng trơ ra như cây cột, không phải thế. Trái lại mặc dù hết sức lo lắng, anh đã kịp tức khắc xuống bếp nhà Cha viện trưởng dò hỏi xem bố mình đã gây chuyện gì ở trên nhà. Sau đó anh ra đi, hi vọng trên đường về thành phố anh sẽ tìm được cách gì giải quyết vấn đề giày vò anh. Tôi xin nói trước: lời ông bố quát thét ra lệnh cho anh phải trở về nhà, mang theo “chăn gối nệm giường” không làm anh sợ chút nào. Anh hiểu quá rõ ràng cái lệnh như thế, công nhiên nói ra trước mọi người và lại làm ra bộ quát nạt, chỉ là “cơn bốc đồng”, thậm chí có thể nói là để làm mẽ, chẳng khác gì mới đây trong thị trấn của họ, một người quá chén trong bữa tiệc mừng ngày lễ thánh của chính mình, bực tức vì người ta không cho ông ta uống rượu thêm nữa, ngay trước mắt khách khứa đã đập vỡ bát đĩa của nhà, xé cả áo của mình và của vợ, đập phá đồ đạc, cuối cùng đập cả kính cửa, cũng chỉ để làm mẽ; với bố anh hôm nay cố nhiên đại loại cũng như thế. Hôm sau tỉnh rượu, cố nhiên cái người đã quá trớn kia tiếc số đĩa chén bị đập vỡ. Aliosa biết rằng hôm sau chắc ông già sẽ cho anh trở lại tu viện, thậm chí có thể ngay hôm nay cũng chưa biết chừng. Thêm nữa anh tin chắc rằng ai không biết, chứ riêng anh thì bố không muốn làm phiền lòng. Aliosa tin chắc rằng trên đời chẳng bao giờ có ai muốn xúc phạm đến anh, chẳng những không muốn mà còn không thể có chuyện ấy nữa kia. Đối với anh đấy là một tiên đề đã được xác lập vĩnh viễn, không cần lí lẽ gì hết, và về mặt này anh cứ thẳng đường tiến bước, không một chút do dự. Giây phút ấy lòng anh thấp thỏm một nỗi sợ khác, thuộc loại hoàn toàn khác hẳn, điều càng khổ tâm hơn là chính anh không định rõ được nó là cái gì, đúng ra đấy là sợ một người phụ nữ, chính là sợ Ekaterina Ivanovna đã gửi cho anh bức thư ngắn mà bà Khokhlakova vừa chuyển cho anh, trong đó nàng khẩn khoản mời anh đến có chuyện gì không rõ. Đòi hỏi đó và việc anh nhất định phải đến gây nên trong tâm tư anh một nỗi giày vò. Suốt buổi sáng và càng về sau cảm giác ấy càng nhức nhối hơn, mặc dù sau đó đã xảy ra những cảnh om sòm và những chuyện bất ngờ ở tu viện, rồi ở nhà Cha viện trưởng, v.v… Anh sợ không phải vì anh không biết nàng sẽ nói gì với anh và anh sẽ trả lời nàng ra sao. Và không phải anh sợ phụ nữ nói chung: cố nhiên anh ít biết phụ nữ, nhưng dẫu sao, suốt đời, từ thuở ấu nhi cho đến lúc vào tu viện, anh chỉ ở với phụ nữ. Anh sợ người phụ nữ ấy, sợ chính Ekaterina Ivanovna. Anh sợ nàng ngay từ lần đầu gặp nàng. Anh gặp nàng chỉ một vài lần, thậm chí có lẽ ba lần, có lần tình cờ anh còn nói với nàng mấy lời. Anh nhớ lại nàng là một cô gái xinh đẹp, kiêu hãnh, hách dịch. Nhưng không phải sắc đẹp của nàng giày vò anh, mà là một cái gì khác. Chính vì không giải thích được vì sao mà sợ nên giờ đây càng sợ thêm. Cô gái ấy theo đuổi những mục đích cao quý: anh biết. Nàng tìm cách cứu Dmitri, kẻ có tội với nàng, mà nàng làm như thế chỉ vì độ lượng. Thế nhưng, mặc dù biết rõ rằng mình không thể không công bằng với tất cả những tình cảm cao quý và độ lượng ấy, càng đến gần nhà nàng anh càng cảm thấy lạnh sống lưng. Anh cho rằng anh sẽ không gặp Ivan Fedorovich ở đấy, tuy Ivan rất thân với nàng: lúc này Ivan chắc đang ở nhà bố, Dmitri lại càng không có ở nhà Ekaterina. Aliosa linh cảm thấy tại sao. Như vậy chỉ có hai người nói chuyện với nhau. Trước khi bước vào cuộc nói chuyện tai ác ấy, Aliosa rất muốn ghé qua nhà Dmitri để gặp anh mình. Không cần đưa bức thư ra, anh có thể nói với Dmitri một điều gì. Nhưng, nhà Dmitri ở xa, và chắc bây giờ cũng không có nhà. Anh đứng tại chỗ một lát, rồi cuối cùng anh quyết định. Anh làm dấu thánh bằng một cử chỉ quen thuộc và vội vã, mỉm cười cái gì không rõ và cả quyết đi đến gặp người phụ nữ đáng sợ ấy. Anh biết nhà nàng. Nhưng nếu ra Phố Lớn, rồi qua quảng trường và vân vân thì không phải là gần lắm đâu. Thành phố chúng tôi không lớn, nhung phân bổ hết sức rải rác, từ khu vực này đến khu vực khác khá xa. Vả lại, ông già đang chờ anh, có lẽ ông vẫn chưa quên việc ông ra lệnh cho anh phải về nhà, có thể ông sẽ lại nổi tính đồng bóng, vì vậy cần gấp vội lên để kịp đến đấy và mau mau về nhà. Vì những lí do ấy, anh quyết định đi tắt qua lối sân sau cho nhanh, ngõ ngách trong thành phố anh biết rõ như năm đầu ngón tay mình. Đi lối sân sau tức là hầu như không có đường, men theo các bờ tường vắng vẻ, đôi khi trèo qua hàng rào nhà người ta, đi qua những mảnh sân nhà ở đó ai cũng biết anh và mọi người đều chào hỏi anh. Đi cách ấy anh có thể rút ngắn được nửa đường ra Phố Lớn. Ở một chỗ, anh phải đi qua sát cạnh nhà bố, phải qua một khu vườn cạnh vườn nhà, khu vườn này thuộc về một căn nhà nhỏ cũ kĩ, xiêu vẹo có bốn cửa sổ Aliosa biết rằng người chủ nhà này là một bà lão tiểu thị dân cụt chân sống với cô con gái trước là một cô hầu phòng văn minh, thủ đô, mới đây cô ta còn đi làm cho các nhà quan, nhưng chừng một năm nay mẹ ốm nên cô ta ở nhà, song lúc nào cũng vẫn diện những bộ cánh sang trọng. Bà lão này và cô con gái đã lâm vào cánh nghèo túng ghê gớm, thậm chí hàng ngày vẫn sang bếp nhà Fedor Pavlovich xin súp và bánh mì. Marfa Ignanevna sẵn lòng đãi họ. Cô con gái này phải đi xin súp, song không bán một bộ cánh nào cả, thậm chí cô ta có một bộ áo đuôi dài lê thê. Điều này Aliosa biết được cũng là hoàn toàn tình cờ, qua anh bạn Rakitin của mình - Rakitin biết hết mọi chuyện trong cái thành phố nhỏ của họ, - nhưng rồi dĩ nhiên Aliosa cũng quên ngay. Nhưng bây giờ đến vườn nhà bà hàng xóm, anh chợt nhớ đến chính cái đuôi áo ấy, đang cúi đầu ngẫm nghĩ anh ngẩng phắt lên và bỗng xảy ra một cuộc gặp gỡ hết sức bất ngờ: Phía sau dãy rào khu vườn hàng xóm, Dmitri Fedorovich đứng lên cái gì không rõ, lộ hình đến ngực, ra sức vung hai tay làm hiệu gọi anh, rõ ràng là chẳng những không dám thét to, mà thậm chí không dám gọi thành tiếng sợ người ta nghe thấy. Aliosa lập tức chạy đến gần hàng rào. - May mà chú ngoảnh lại nhìn, không thì suýt nữa tôi gọi to lên. - Dmitri Fedorovich vội vã thì thầm với em bằng giọng sung sướng. - Trèo vào đấy! A, chú đến thật tuyệt quá. Tôi vừa nghĩ đến chú… Chính Aliosa cũng mừng, anh chỉ băn khoăn không biết làm cách nào vượt qua rào. Nhưng “Mitia” đưa bàn tay lực sĩ đỡ khuỷu tay em, giúp em nhảy qua. Aliosa vén áo thụng, nhảy qua khéo léo như một tràng bé chân đất ở thành phố. - Nào thôi, ta đi đi! - Mitia buột thốt lên, giọng thì thầm hoan hỉ. - Đi đâu? Aliosa cũng thì thầm, nhìn khắp xung quanh và thấy mình ở trong một khu vườn hoàn toàn vắng vẻ, chẳng có một ai ngoài hai anh em. Vườn nhỏ thôi, nhưng ngôi nhà nhỏ của chủ nhân cách họ không dưới năm chục bước. Ở đây có ai đâu, việc gì anh phải nói thầm? - Việc gì phải nói thầm à? A, quái quỷ! - Dmitri Fedorovich bỗng lớn tiếng nói oang oang. - Ừ, việc gì tôi phải thì thầm nhỉ? Chú thấy đấy, trong thiên nhiên bỗng dưng có thể xảy ra sự lộn xộn như thế đó. Tôi náu mình ở đây để rình mò một bí mật. Rồi tôi sẽ giải thích, nhưng vì đây là sự bí mật nên tự dưng tôi nói năng một cách bí mật, tôi thì thầm như một thằng ngốc, tuy là không cần thiết. Ta đi đi! Đến đằng kia! Chú hãy cứ im lặng đã nhé! Tôi muốn hôn chú. Sáng danh Chúa cả trên đời! Sáng danh Chúa cả trong tôi… Lúc này tôi nói trước mặt chú, chứ lúc ngồi ở đây tôi vẫn lặp đi lặp lại suốt.… Khu vườn rộng khoảng một dexiatin(1) hay hơn một chút, chỉ trồng cây xung quanh dọc theo bốn dãy rào: táo, thích, bồ đề, phong. Giữa vườn là một khoảng trống, một bãi cỏ mà mùa hè người ta cắt được mấy pud(2) cỏ khô. Mùa xuân bà chủ cho thuê vườn lấy mấy rúp. Cũng có những luống ngấy, lí gai, phúc bổn tử nhưng đều ở gần hàng rào; vườn rau ở ngay cạnh nhà, nhưng mới trồng gần đây thôi. Dmitri Fedorovich đưa khách đến một góc vườn xa nhà nhất. Ở đấy, giữa đám bồ đề san sát và những bụi cây lâu đời - phúc bồn tử và cơm cháy, tú cầu và tử đinh hương, - bỗng xuất hiện một cái gì tựa như di tích một chòi hóng mát màu lục rất lâu năm đã sạm đen và xiêu vẹo, tường chấn song, nhưng trên có mái che và vẫn còn có thể trú mưa được. Cái chòi dựng lên không biết tự bao giờ, nghe đâu từ năm chục năm trước, theo lệnh ông chủ nhà hồi bấy giờ là Alecxandre Karlovich Smidt, một trung tá về hưu. Mọi cái đã mục nát hết, sàn đã mục, ván sàn lung lay, gỗ bốc mùi ẩm mốc. Trong chòi còn một chiếc bàn gỗ sơn màu lục, chân bàn chôn xuống đất, xung quanh có những chiếc ghế dài, cũng sơn màu lục, còn ngồi được Aliosa nhận thấy ngay anh mình đang hân hoan, nhưng vào trong chòi, anh thấy trên bàn nửa chai cognac và cái li nhỏ. (1) 1 dexiatin = 1.0925 ha (N.D). (2) 1 pud = 16.38 kg (N.D). - Đấy là cognac! - Mitia cất tiếng cười hô hổ. - Chú nhìn như thế hẳn là chú nghĩ bụng: “lại say sưa”, thế chứ gì? Nhưng đừng tin cái bề ngoài. “Đừng tin đám đông hão huyền và dối trá. Hãy quên đi những ngờ vực trong lòng.”(3) (3) Mấy câu thơ của Nekraxov N. A, trong bài “Khi từ trong bóng tối của lầm lạc…” Tôi không nghiện ngập đâu, tôi “nhấm nháp chơi” thôi, như thằng Rakitin chó đểu của chú vẫn nói, nó rồi sẽ leo lên đến chức quan tham bậc năm và sẽ luôn luôn nói là “tôi nhấm nháp chơi” thôi mà. Ngồi xuống đây. Tôi muốn ôm lấy chú, Aliosa ạ, ghì chặt chú vào ngực đến làm chú chết bẹp, bởi vì trên đời này… thực sự là thực sự. (Chú nên hiểu, nên hiểu cho rõ) tôi chỉ yêu có chú thôi! Câu sau cùng anh ta nói gần như trong cơn điên loạn. - Chỉ có chú và một ả “đốn mạt”, tôi mê ả và vì thế mà đời tôi đi đứt. Nhưng mê không có nghĩa là yêu. Có thể mê mà vẫn căm ghét. Chú hãy nhớ lấy! Bây giờ còn đang vui vẻ, tôi nói với chú vậy đấy. Hãy ngồi xuống bên bàn này, còn tôi sẽ ngồi bên cạnh, sẽ nhìn chú và nói luôn miệng. Chú sẽ cứ im lặng, còn tôi sẽ cứ nói, bởi vì kì hạn đã đến rồi. Nhưng chú ạ… tôi nghĩ rằng nên nói thực khẽ, vì ở đây… Ở đây… có thể có những cái tai nghe trộm hết sức bất ngờ. Tôi sẽ nói rõ hết, thì tôi đã bảo là còn phần tiếp theo mà. Tại sao tôi nóng lòng gặp chú, ban nãy tôi khao khát gặp chú, suốt mấy ngày qua và cả bây giờ nữa? (Tôi bỏ neo ở đây đã năm ngày rồi). Suốt mấy ngày ấy? Bởi vì tôi sẽ nói hết chỉ với một mình chú thôi, bởi vì cần phải như thế, bởi vì tôi cần chú bởi vì ngày mai tôi sẽ lộn nhào từ trên mây xuống, bởi vì ngày mai cuộc đời sẽ chấm dứt và lại sẽ bắt đầu. Có bao giờ chú cảm thấy, có bao giờ chú mơ thấy mình rơi từ trên cao xuống vực sâu không? Thế mà bây giờ tôi đang rơi xuống đấy, rơi thực chứ không phải là trong chiêm bao đâu. Nhưng tôi không sợ, chú cũng đừng sợ. Nghĩa là tôi có sợ, nhưng lại khoái trá. Kể ra không phải là khoái trá, mà là hân hoan… Ờ mà quỷ thật, đằng nào mà chả vậy? Tinh thần mạnh mẽ, tinh thần yếu đuối, tinh thần đàn bà, cũng thế cả mà thôi! Ta hãy ca ngợi thiên nhiên: chú xem đây. Ánh nắng chan hòa, trời trong veo, cây lá xanh tươi còn đang là mùa hè, mới hơn ba giờ chiều, yên lành! Chú đi đâu vậy? - Tôi đến thăm ba, nhưng định ghé qua chỗ Ekaterina Ivanovna đã. - Đến nhà nàng rồi về nhà ba! Ôi chao! Thật là trùng hợp! Chú có biết vì sao tôi gọi chú, vì sao tôi mong chú, vì sao tôi khát khao mong mỏi bằng tất cả mọi ngóc ngách tâm hồn, thậm chí bằng cả xương sườn tôi không? Chỉnh là để nhờ chú thay tôi đến gặp ba, rồi đến Ekaterina Ivanovna và giải quyết cho dứt cả với nàng và với ba. Nhờ một thiên thần đi hộ tôi. Tôi có thể nhờ bất cứ ai dĩ nhiên hộ, nhưng tôi cần nhờ một thiên thần kia. Thế mà chính chú lại đang đến gặp nàng và ba. - Anh muốn nhờ tôi đi thật à? - Aliosa thốt lên, mặt lộ vẻ đau đớn. - Khoan, chú biết điều đó mà. Tôi thấy rằng chú hiểu hết ngay tức thì. Nhưng chú đừng nói gì, đừng nói gì vội, đừng thương hại và đừng khóc! Dmitri Fedorovich đứng dậy, nghĩ ngợi và đặt một ngón tay lên trán. - Nàng mời chú đến, nàng gửi cho chú một lá thư hay nhắn nhe gì đó, vì thế chú mới đến, không thì chú đến làm gì? - Thư đây. - Aliosa lấy lá thư ở trong nói. Mitia lướt mắt đọc nhanh. - Và chú đi tắt lối sau! Tạ ơn thần linh đã xui khiến chú đi lối sân sau, vì thế bất đồ chú chạm trán với tôi, như con cá vàng rơi vào tay lão già đánh cá ngu độn trong truyện cổ tích(4). Này nghe đây Aliosa, nghe đây, chú em. Bây giờ tôi định nói hết đấy. Bởi vì cũng phải nói với người nào chứ. Tôi đã nói với thiên thần trên trời rồi; nhưng phải nói cả với thiên thần dưới đất nữa. Chú là thiên thần dưới đất. Chú sẽ nghe cho hết, chú sẽ phán xét, và chú sẽ tha thứ… Mà tôi lại cần một người cao quý nhất tha thứ cho tôi. Này chú ạ, nếu có hai người bỗng nhiên bứt khỏi tất cả những gì là trần tục và bay vào cõi siêu phàm, hay ít ra là một trong hai người và trước khi bay đi biệt tích hay lìa đời, người đó đến nói với người kia: hãy làm cho tôi điều này điều nọ, những điều như thế người ta không bao giờ cầu xin, mà chỉ khi sắp chết mới có thể nói ra được, vậy thì người kia lẽ nào lại không làm… nếu như đấy là người bạn, người em? (4) Ý nói truyện cổ tích “Ông lão đánh cá và con cá vàng” của A. Puskyn (N.D). - Tôi sẽ làm, nhưng anh nói rõ đấy là việc gì đi và nói nhanh lên. - Aliosa nói. - Nói nhanh lên… - Hừm. Đừng vội, Aliosa ạ, chú vội vã và lo lắng. Bây giờ không cần gì phải vội. Bây giờ thế giới đi ra con đường mới rồi. Ối chao, Aliosa, tiếc rằng chú chưa bao giờ hứng chí lên! Ờ mà tôi nói gì thế nhỉ? Có tôi mới không biết hứng chí thì có! Tôi thật là đần độn. “Người ơi, hãy giữ lấy tấm lòng thanh cao.”(5) Thơ của ai đấy nhỉ? (5) Câu đầu trong bài thơ nổi tiếng của Goethe: Das Goethche (“Sự thánh thần”) (N.D). Aliosa quyết định chờ đợi. Anh hiểu rằng mọi công việc của anh có lẽ quả thực chỉ là ở đây thôi. Mitia nghĩ ngợi một lát, chống khuỷu tay lên bàn và gục đầu vào lòng bàn tay. Cả hai cùng im lặng. - Aliosa, - Mitia nói, - chỉ có chú là không cười! Tôi muốn bắt đầu… Lời xưng tội của tôi… bằng bài thơ ca tụng niềm vui của Siller, An die Frende!(6) Nhưng tôi không biết tiếng Đức, tôi chỉ biết An die Frende. Đừng tưởng tôi say đâm ra ba hoa đâu. Tôi chằng say tí nào. Cognac là cognac, nhưng tôi phải uống hai chai mới say. Thần Xilen gương mặt đỏ hồng Ngất ngưởng trên con lừa loạng choạng.(7) (6) Tiếng Đức trong nguyên bản: Đến với niềm vui! (7) Thần Xilen *theo thần thoại Hy lạp) là người dạy dỗ đồng thời là bạn đồng hành của thần rượu nho Dionidox. Xilen thường được miêu tả là một ông già hói, vui tính, đôn hậu, luôn luôn say khướt, đeo túi da đựng rượu nho (N.D). Mà tôi uống chưa đến một phần tư chai và tôi không phải là Xilen. Không phải là Xilen nhưng lại rất khỏe, vì tôi đã có một quyết định không bao giờ thay đổi nữa. Chú tha thứ cho tôi cái trò chơi chữ(8) hôm nay chú phải bỏ quá cho tôi nhiều điều; chứ đừng nói gì đến chuyện chơi chữ. Đừng lo, tôi không thể kể lể con cà con kê đâu, tôi nói chuyện thiết thực và vào việc ngay đây. Tôi sẽ không quá quắt như một tên Do Thái đâu. Khoan, thế nào nhỉ… (8) Xilen, tính từ ngắn đuôi trong tiếng Nga, có nghĩa là “khoẻ”, vì thế Mitia mới nói đến trò chơi chữ (N.D). Mitia ngẩng đầu lên, nghĩ ngợi và bỗng hân hoan bắt đầu đọc: “Rụt rè, trần truồng và mọi rợ(9) Người nguyên thủy ẩn mình trong hang đá Người du cư lang bạt trên ruộng đồng Tàn phá sạch trơn hoa lợi Người săn thú mang giáo đeo cung tên Hung hăng lùng sục trong rừng rậm Khốn thương thay kẻ gió dập sóng vùi Trôi dạt rời bến hoang dại Từ đỉnh Olimp cao vòi vọi Mẹ Xere xuống chốn trần gian Tìm nàng Prozerpin bị bắt cóc(10) Trước mắt nữ thần, cõi thế gian hoang vu mọi rợ Không chỗ trú ngụ, không vật cũng lễ. Không một đền thờ Biểu hiện lòng tôn kính thần linh Tiệc trần gian không còn ngời ngợi Quả ngon đồng nội, nho thơm ngọt ngào Chỉ còn những mảnh than xác bốc khói Trên bàn thờ đẫm máu Mắt buồn rười rượi, nữ thần Xere nhìn khắp cõi trần. Chỉ thấy nơi nơi Con người chìm ngập trong sỉ nhục.” (9) Mitia mở đầu lời tự thú của mình bằng bài thơ “Ngày hội Elevzinxki” của Siller: đây là khổ hai, ba, bốn của bài thơ. (10) Theo thần thoại Hy Lạp. Xere là con gái của Sartun và Rea, bà là nữ thần chủ trì đất đai canh tác. Xere có với Zơt một con gái là Prozerpin, Prozerpin bị thần âm phủ bắt cóc về làm vợ (N.D). Từ lồng ngực Mitia bỗng bật ra tiếng nức nở. Chàng vồ lấy Aliosa: - Bạn ơi, bạn ơi, chìm ngập trong sỉ nhục và bây giờ cũng vẫn chìm trong sỉ nhục. Con người trên trái đất phải chịu đựng quá nhiều, quá nhiều tai hoạ! Đừng nghĩ rằng tôi chỉ là một kẻ thô bỉ mặc áo sĩ quan, uống cognac và trác táng. Chú ạ, tôi gần như chỉ nghĩ đến chuyện ấy, nghĩ về con người chịu khuất nhục, nếu như tôi không nói dối. Thề có trời, bây giờ tôi không nói dối và không tự tâng bốc mình. Tôi nghĩ đến kẻ khuất phục, vì kẻ đó chính là tôi. “Bằng sức mạnh tâm hồn Muốn vượt ra khỏi sự thấp hèn Con người hãy kết mối liên minh đời đời Với Mẹ đất cổ xưa.”(11) (11) Nửa đầu khổ thơ thứ bảy trong bài thơ nói trên của Siller. Nhưng vấn đề là: tôi làm thế nào để kết nối liên minh đời đời với Mẹ Đất! Tôi không hôn đất, không xé toang ngực đất: tôi làm sao có thể trở thành người cày ruộng hay người chăn gia súc! Tôi dĩ nhiên mà không biết mình rơi vào chỗ hôi thối và ô nhục hay đi tới ánh sáng và niềm vui. Tai họa là ở đấy, bởi vì mọi cái trên đời đều bí ẩn! Khi tôi ngụp sâu trong vũng bùn trụy lạc ô nhục (mà với tôi thì chỉ có thế thôi) bao giờ tôi cũng đọc bài thơ về Xere và về con người. Nó có làm tôi sửa đổi được không? Không bao giờ! Bởi vì tôi là Karamazov. Chỉ vì khi tôi rơi xuống vực thì rơi thẳng tuột, đầu lộn xuống dưới, chân ngược lên trời, thậm chí tôi lấy làm hài lòng vì mình rơi chính ở tư thế như vậy và cho rằng đối với mình như thế là đẹp. Và chính giữa lúc nhục nhã như vậy tôi bỗng hát bài tụng ca. Cho dù tôi đáng bị nguyền rủa, cho dù tôi hèn hạ và đê tiện, nhưng hãy cho tôi hôn gấu bộ áo mà Chúa Trời của tôi khoác trên người: cho dù tôi vẫn đi theo quỷ nhưng tôi vẫn là con của Ngài, ôi Chúa Trời, tôi yêu Ngài, tôi cảm thấy niềm vui sướng mà thiếu nó thì thế gian này không đứng vững và không tồn tại. “Niềm vui vĩnh cửu Nuôi dưỡng linh hồn sáng tạo, Sức mạnh lên men bí ẩn Khơi bùng lửa thiêng trong chiếc chén đời(12) Cám dỗ cỏ cây hướng về ánh sáng. Biến hỗn mang thành những mặt trời Chói lọi khắp mọi miền không gian Ngoài vòng quyền uy của nhà chiêm tinh học, Muôn loài biết thở dưới trần gian