🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Andromaque
Ebooks
Nhóm Zalo
ANDROMAQUE
Tác giả: Jean Racine
Dịch giả: Nguyễn Giang Công ty Cổ phần sách Tao Đàn Nhà Xuất Bản Văn Học - 2017 —★—
ebook♥vctvegroup
05/03/2020
1. Chuyện nàng Andromaque, cốt vở kịch này:
Chuyện nàng Andromaque mà Racine tiên sinh lấy làm cốt vở kịch này là một câu chuyện cổ xảy ra vào thời thành Troie, sau mười năm chống cự lại dân Hy Lạp, đã bị tàn phá và đổi thành một nước phụ thuộc dân Hy Lạp. Duyên do cuộc chiến tranh lâu năm này là ở sự nàng Hélène là vợ vua Ménélas xứ Hy Lạp bị hoàng tử con vua Priam và Hoàng hậu Hécube thành Troie, là Pâris, cướp phỗng mất. Đó là một điều nhục cho dân Hy Lạp, vậy mới có cuộc báo thù. Cuộc chiến tranh hăng hái dữ dội này đã được nhà đại thi sĩ cổ xứ Hy Lạp là Homère dùng làm cốt cuốn thơ Iliade của ông.
Nàng Andromaque là người đàn bà nhan sắc, vợ góa của Hector, là một Tướng quân đại tài của thành Troie đã từng đương đầu với các danh tướng Hy Lạp và được mọi người kính phục. Hector bị tướng Hy Lạp là Achille giết chết, rồi thành Troie và xứ Épire rơi vào tay người Hy Lạp. Pyrrhus là con Đại tướng Achille lên làm vua xứ Épire, nhưng lại phải lòng nàng Andromaque là tù nhân của mình và có ý bênh vực cho đứa con của nàng sinh hạ với Đại tướng Hector, là thằng bé Astyanax. Trong khi ấy thì Công chúa Hermione là con gái vua Ménélas, trước kia cha mẹ đã hẹn gả cho Pyrrhus và có lòng yêu Pyrrhus lắm. Công chúa Hermione cũng buồn bực đau đớn, vì thấy người mình yêu đã thay lòng đổi dạ, không săn sóc gì đến mình nữa. Nàng Hermione yêu Pyrrhus mà không được Pyrrhus yêu lại; trái lại, nàng không yêu Oreste là con Đại tướng Agamemnon, thì lại
được Oreste yêu nàng say đắm. Nhân khi dân Hy Lạp lấy làm bất bình về sự Pyrrhus muốn cưới nàng Andromaque làm vợ và lại bênh vực đứa con nàng, Oreste bèn ra ứng cử để được cử đi sứ sang bên Épire đòi đứa bé ấy. Nhưng thật trong lòng, thì Oreste sang Épire không mong đòi được đứa bé mang về; trái lại Oreste chỉ mong cho Pyrrhus cứ nhất định không trả đứa bé, cứ yêu mê mệt nàng Andromaque và xua đuổi nàng Hermione cho nàng đến phải nản chí mà quay về yêu hắn vậy.
Câu chuyện lôi thôi như thế, nhưng nhà kịch sĩ đã khéo xếp đặt làm sao cho đầu đuôi câu chuyện chỗ nào cũng rõ ràng cả. Chỉ đọc xong hồi thứ nhất là chúng ta đủ trông thấy hết cái tình cảnh éo le của mỗi người trong chuyện. Tuy nhiên, cái khéo nhất của nhà kịch sĩ là ở sự gây nên những tình trạng, những kịch huống cho các vai trong câu chuyện có dịp thổ lộ rõ ràng ra hết những nỗi khuất khúc ở trong lòng họ, nói khác đi, gây nên những kịch huống để lợi dụng một câu chuyện cổ mà diễn ra những nỗi thương, yêu, oán, giận, phân vân suy tính hay là quả quyết nhất định là những tính tình thiên nhiên bất hủ của con người ta vậy.
2. Định nghĩa ba chữ: tình cảnh, tình trạng và kịch huống:
Đoạn trên này, chúng tôi vừa dùng đến ba chữ tuy có gần nhau mà về môn kịch có nghĩa khác hẳn nhau, vậy thiết tưởng hãy nên nói qua loa về nghĩa ba chữ đó, là: tình cảnh, tình trạng và kịch huống, để mong rồi đây có thể dần dần định nghĩa được hết các chữ khác cần dùng cho chúng ta trong khi muốn nói chuyện rạch ròi về nghề kịch. Chúng tôi xét thấy rằng sự định nghĩa chữ trong các khoa học chuyên môn là đang rất cần ở nước ta, mà từ xưa đến nay chưa ai săn sóc đến một cách ráo riết sốt sắng. Sở dĩ chúng tôi muốn bắt đầu làm cái công việc đó trong nghề kịch ngày hôm nay, một phần là vì chúng tôi thấy cái công việc đó rất có ích cho sự tiến bộ của tiếng nói nước nhà, một phần nữa là vì muốn giảng cho phần đông đồng bào hiểu được cái hay của một tấn kịch của Racine, hiểu được những cách dàn hồi, dàn lớp của một nhà kịch sĩ cổ điển có tiếng và có ảnh hưởng to trong văn chương nước Pháp như thế, thì sự định nghĩa mấy chữ sau này chỉ là một điều cần và tất nhiên phải có.
Về chữ tình cảnh, thì chúng tôi vẫn giữ lấy cái nghĩa thông thường của nó: tình cảnh là tính tình tư tưởng của một người khi người ấy đang đứng ở trong những cảnh ngộ đặc biệt. Tất cả tính tình tư tưởng của một người trong suốt đời người ấy, thì lẽ tất nhiên là chúng ta không thể nào lấy một lời nói trống không, một cử chỉ độc nhất mà diễn tả ra cho hết được. Chúng ta cần phải kể ra cả một câu chuyện, mà đã gọi là một câu chuyện thì thể nào cũng phải có đầu
có đuôi, nghĩa là có những cảnh ngộ khác nhau, nối tiếp theo nhau, những cảnh ngộ ấy lần lượt đặt các vai chính trong câu chuyện của chúng ta vào những tình cảnh khác nhau. Bởi thế cho nên muốn vẽ rõ ra cái tính tình tư tưởng của mấy vai chính trong một câu chuyện mình muốn diễn, nhà kịch sĩ phải tả lần lượt ra mấy cái tình cảnh khác nhau của những vai ấy, đó chính là cái công việc dàn hồi của nhà kịch sĩ vậy.
Về chữ tình trạng thì chúng tôi hiểu là những trạng huống của một tình cảnh.
Thí dụ: Vua An Dương Vương, từ lúc được thần Kim Quy cho cái móng làm lẫy nỏ, đã được sống một quãng đời yên ổn, vô tư lự, đó là một tình cảnh. Kế đến khi Triệu Đà lại mang binh sang đánh mà nỏ thần không hiệu nghiệm nữa, vua phải đem con gái chạy trốn, thì lại đứng vào một tình cảnh khác. Nhưng cũng trong một cái tình cảnh quẫn bách thứ hai này, chúng ta có thể thấy nhiều tình trạng khác nhau, tùy theo vua An Dương Vương nói chuyện với con gái ngài, với thần Kim Quy, với một người tướng, hoặc nữa ngài nói một mình, vân vân...
Công việc diễn tả những tình trạng ấy trùng vào với công việc dàn lớp của nhà kịch sĩ.
Tuy nhiên, trong công việc dàn lớp, nhà kịch sĩ ngoài sự diễn tả những tình trạng, còn có thể gây cho chúng ta nhiều tình cảm mạnh mẽ khác bởi những kịch huống của một đoạn kịch. Các kịch huống tuy có do các tình trạng, vì rằng một tình trạng có thể gây ra nhiều kịch huống khác nhau. Thí dụ: vua An Dương Vương đứng trong cái cái tình cảnh quẫn bách vừa nói trên kia mà nói chuyện với thần Kim
Quy thì chỉ có một tình trạng. Tuy nhiên, nhà kịch sĩ có thể làm vua An Dương Vương đi tìm thần Kim Quy mà nói chuyện, hoặc là làm thần Kim Quy tự nhiên hiện lên mà nói chuyện với vua An Dương Vương, như thế là vẫn chỉ có một tình trạng mà có thể có hai kịch huống khác hẳn nhau. Lại thí dụ nữa: trong vở kịch Người biển lận của Molière tiên sinh có chỗ người biển lận vừa chạy từ trong nhà hát ra vừa kêu thất thanh: Ô kẻ trộm! Ô kẻ trộm! Nhà kịch sĩ nếu chỉ muốn tả có cái nỗi đau lòng tiếc của của vai biển lận lúc bấy giờ thì không thiếu gì cách. Cái khéo là gây nên những kịch huống làm cho trên sân khấu có sự hoạt động thay đổi. Một vở kịch vốn là một thiên toát yếu những việc chính xảy ra trong một câu chuyện, nên ta có thể nói rằng cái công việc khó nhất của nhà kịch sĩ là có công việc nối liền các lớp lại, nối những lớp có tính cách dàn xếp để giảng giải cho rõ nghĩa câu chuyện vào với một vài lớp có tính cách hoạt động tự nhiên như sự có thật ở trong đời vậy.
Xem như vậy thì cái công việc nối lớp hợp vào với công việc lựa chọn những kịch huống tả được rõ đúng và mạnh mẽ các tình trạng cảm động nhất trong một hồi.
Sau khi đã nói kĩ lưỡng về nghĩa ba chữ: tình cảnh, tình trạng và kịch huống như thế, chúng tôi còn muốn nhắc vắn tắt lại một lần nữa cho độc giả dễ nhớ hơn. Cái mục đích trọng yếu của nghề kịch cũng như của nghề văn là để diễn tả tính tình tư tưởng. Tình cảnh là cái tính tình tư tưởng của một người khi người ấy đang đứng trước những cảnh ngộ đặc biệt. Vậy thì tình cảnh tức là những trạng huống của tính tình. Tình trạng là những trạng huống của tình cảnh. Kịch huống là những trạng huống của tình trạng. Nghề kịch vốn là
một nghề văn mà nhà văn sĩ phải nói bằng lớp, lớp nọ xong rồi đến lớp kia, nghĩa là phải nói bóng nói tắt nhiều lắm, bởi vậy chúng ta càng nên hiểu chữ trạng huống ở đây, như những vẻ trọng yếu, cần thiết nhất của những tình cảnh, tình trạng, những vẻ mà nhà kịch sĩ phải cố công tìm cho lấy được rõ hợp thời và đích đáng.
Kịch huống là những trạng huống của tình trạng làm cho người xem hát ít nhất phải suy nghĩ mà cảm động nhiều nhất, vì nó gần như trùng đúng vào những lúc cảm động có thật ở trong đời.
Kịch huống tức là những vẻ hoạt động nhất của một hồi kịch, làm cho người xem dễ cảm động và cảm động nhiều nhất.
3. Nói về cách bố trí một tấn kịch:
Định nghĩa xong cho mấy chữ trên này rồi, chúng tôi còn muốn nói rõ thêm về các cách bố trí một tấn kịch để giúp cho những học trò trẻ tuổi có thể hiểu được hết những cái hay trong một vở kịch của Racine, hoặc là ít ra cũng có thể nhờ bản dịch vở Andromaque này mà có được vài ý kiến rõ ràng về nghề kịch. Một tấn kịch bao giờ cũng chia ra làm nhiều hồi nhiều lớp, vậy muốn hiểu rõ cách bố trí ta phải hiểu cách dàn hồi như thế nào, cách dàn lớp như thế nào.
A. Cách dàn hồi trong vở Andromaque và cách dàn hồi trong một vở kịch:
Chúng ta đã biết rõ cái cốt vở kịch Andromaque là thế nào rồi. Vậy thì không gì tiện bằng là khi đọc xong tấn kịch này một lần đầu, chúng ta xét ngay đến cái cách dàn hồi của nhà kịch sĩ. Muốn hiểu thật rõ cái cách dàn hồi ấy, ta nên ghi ngay lên giấy những tình cảnh liên tiếp nhau của một vai chính nào trong vở kịch từ hồi đầu cho đến hồi cuối. Ta cần phải chọn lấy vai chính nào có những tình cảnh rõ ràng, khác nhau, nối theo nhau một cách có nghĩa lý và có ảnh hưởng lớn đến các vai khác từ hồi đầu cho đến hồi cuối vở kịch. Vai chính ấy trong vở Andromaque này là Pyrrhus, chứ không phải Andromaque, cũng không phải Oreste.
HỒI THỨ NHẤT:
Pyrrhus tuy đã theo đuổi mãi nàng Andromaque một cách vô hiệu
quả, nhưng vì câu chuyện dân Hy Lạp đòi đứa bé Astyanax, lại mong nàng Andromaque có thể vì lòng yêu con tha thiết mà sẽ ép mình yêu hắn.
HỒI THỨ HAI:
Pyrrhus bị nàng Andromaque từ chối mãi đâm cáu, định cưới nàng Hermione và để chết đứa con nàng, nhưng trong cơn phẫn uất lòng yêu vẫn chưa tắt hẳn.
HỒI THỨ BA:
Pyrrhus đã nổi giận đến cực điểm, và quyết để chết đứa con nàng, nhưng khi thấy nàng khóc lóc kể lể thì lòng thương yêu lại nổi lên. Tuy nhiên, Pyrrhus ép nàng phải ra đền kết hôn ngay với hắn.
HỒI THỨ TƯ:
Pyrrhus đến nhận tội lỗi hẹn và bạc tình với nàng Hermione, như thế đủ tỏ ra hắn đã quả quyết bỏ nàng để cưới nàng Andromaque.
HỒI THỨ NĂM:
Pyrrhus ra đền cưới nàng Andromaque rồi vì say mê quá, quên cả phòng bị, để các bạn hữu của Oreste đâm chết ở ngoài đền. Xem như vậy thì dựa vào những tình cảnh của vai Pyrrhus như trên này, ta có thể nói tóm tắt vở kịch Andromaque của Racine tiên sinh một cách rất tròn trĩnh.
Nguyên là cái mục đích trọng yếu của tiên sinh trong vở Andromaque cũng như trong hầu hết các kịch khác của tiên sinh, chỉ là để tả ra cái tình yêu thương say đắm ở trong lòng con người ta.
Dựa vào vai Pyrrhus là một vai chính trong câu chuyện mà xét, thì ta chỉ thấy tiên sinh tả vua Pyrrhus yêu nàng Andromaque, rồi không yêu được thì nổi giận muốn ghét, rồi khi trông thấy nàng khóc lóc lại yêu, rồi thì quên cả bổn phận danh dự mà phản nước và lỗi thề với nàng Hermione, rồi say mê quá, quên cả phòng bị để cho đến nỗi bị ám sát. Hẳn rằng ta còn có thể tìm cho những kịch của tiên sinh một mục đích gì cao thượng hơn sự tả chân ái tình mà nói rằng những kịch ấy cũng có những chỗ làm cho khán giả phải cảm động mà yêu quý thương xót những người hay, ghét giận khinh bỉ những kẻ dở, nhưng cái mục đích khác ấy, thật ra, đối với tiên sinh, chỉ là một mục đích phụ. Đó thật là một điều đáng cho chúng ta phải để ý ngay đến, một điều rất đáng cho chúng ta phải lấy làm lạ, vì từ xưa đến nay, trong nước ta, chưa bao giờ có quyển sách nào, có bài văn nào mà trong đó, chữ tình lại đứng làm cái then chốt độc nhất cho hết mọi sự khác. Như thế cũng đủ cho chúng ta không nên vội coi khinh những cuốn văn như kịch Andromaque này là cổ lỗ, là không hợp thời, vì thật ra thì, chính ngày nay, chúng ta cũng chưa đưa được văn chương của chúng ta lên đến cái trình độ “Mỹ thuật vì mỹ thuật” của các kịch của Racine ở tự thế kỷ thứ XVII bên Pháp vậy. Chúng tôi không phải hẳn là muốn cực lực bênh vực cái chủ nghĩa “Mỹ thuật vì mỹ thuật”, nhưng chúng tôi xét thấy rằng cái chủ nghĩa ấy, khi nó còn chưa đi ra ngoài phạm vi sự tả chân tấm lòng con người ta và làm rung động được bảy cái tình trong lòng người khác, thì cái chủ nghĩa ấy vẫn còn là hay, vẫn còn là cần cho sự tiến bộ của nền văn chương một nước.
Nói tóm lại, về cách dàn hồi, khi nhà kịch sĩ đã có cái cốt truyện
và lại có chủ ý muốn diễn những tình tứ tư tưởng gì rồi, thì phải chia câu chuyện ra làm mấy đoạn làm sao cho các đoạn ấy trong sự nối tiếp theo nhau làm lộ được ra rõ nhất cái tình tứ tư tưởng mình muốn diễn. Có khi vì một cái chủ ý mà nhà kịch sĩ phải tìm lấy cái cốt truyện hợp vào ý mình để diễn cho rõ đúng; lại cũng có khi một cái cốt truyện hay tự nó mách cho nhà kịch sĩ những tình tứ tư tưởng nên diễn. Nhưng những tình tứ tư tưởng này, dù là rút tự trong tâm trí nhà kịch sĩ ra, dù là lấy tự trong một câu chuyện nào ra, cũng đều cần phải là những tình tứ tư tưởng có tính cách riêng tây quá, đặc biệt quá, thì khó mà làm cho các khán giả lĩnh hội được. Phần nhiều trong một tấn kịch, bao giờ cũng có những tình tứ tư tưởng có tính cách riêng tây, nhưng đều là phải nấp dưới bóng một vài cái tình tứ tư tưởng có tính cách thông thường và dễ hiểu hơn cho mọi người. Nhân tiện đây, ta nên nhớ rằng những sự yêu thương say đắm của các vai chủ động trong các kịch của Racine tiên sinh là những cái tình thiên nhiên bất hủ không những của dân tộc Pháp mà là của hết các giống người trên thế giới. Muôn sự trong đời há chẳng phải là do tấm lòng yêu ghét của con người ta mà sinh ra? Nhờ ở sự tả chân những vẻ tầm thường nhất của tấm lòng con người ta đó, mà tất cả cái văn chương Pháp ở thế kỷ XVII đối với mọi dân tộc khác có một vẻ gì thân thuộc, không có cái vẻ xa lạ bí mật quá, thí dụ như nhiều áng văn Tàu cổ đối với người Âu châu. Cái văn chương đó có một tính cách đại đồng như thế, chính là vì nó đã chú trọng về cái nguồn gốc cội rễ của mọi tư tưởng trên đời, hơn là chú trọng về một vài tư tưởng gì đặc biệt.
B. Cách dàn lớp trong một vở kịch:
Giờ thì ta lại xét đến cái cách dàn lớp trong một vở kịch. Như đã nói ở trên, công việc tả những tình trạng khác nhau của nhiều người cùng đứng ở trong một hồi truyện trùng vào với cái công việc dàn lớp của nhà kịch sĩ. Tuy nhiên công việc dàn lớp có một mục đích rộng hơn thế một chút.
Mục đích của nó là để vẽ ra hết những tình cảnh của các vai chính trong một hồi, làm cho khán giả hiểu những cảnh ngộ dĩ vãng của các vai ấy, biết những cảnh ngộ hiện thời của họ, hơi đoán trước được và đợi chờ những cảnh ngộ họ sắp đi tới.
a. Lối dàn lớp của nhà kịch sĩ Shakespeare bên Âu châu ở thế kỷ thứ XVI và của người Á Đông ta từ xưa đến nay:
Về những cảnh ngộ dĩ vãng thì nhà kịch sĩ có cách nói cho chúng ta hiểu bằng những câu nói của các vai; nhưng về những cảnh ngộ hiện thời và những cảnh ngộ họ sắp đi tới là những điều mà chính người trong truyện cũng không biết, vì những cảnh ngộ đó phần nhiều là do những người đứng ở chỗ khác gây nên, thì nhà kịch sĩ phải khéo bày ra những lớp kịch làm sao cho ta hiểu rõ và đoán trước được một chút; như thế, các hồi mới liên tiếp nhau một cách êm ái tự nhiên, không có những sự thay đổi quá đột ngột ở giữa hai hồi làm rối trí lạc đường khán giả. Thí dụ trong cái hồi vua An Dương Vương đang yên ổn sung sướng cho Trọng Thủy sang ở gửi rể bên nước mình, nhà kịch sĩ phải bày ra những lớp kịch thế nào cho người ta hơi đoán trước được một chút cái dã tâm cùng những sự sửa soạn của Triệu Đà ở bên Tàu, thì đến hồi sau khán giả mới khỏi có sự ngạc nhiên thái quá, nếu trong hồi sau ấy đã thấy vua An Dương Vương mang con gái chạy trốn. Sự cần phải làm cho các
khán giả hơi đoán trước được những cảnh ngộ sắp tới như thế, xui ta nghĩ như sau này: đã như vậy thì chi bằng, sau một lớp kịch tả một cuộc vui gì ở bên triều đình vua An Dương Vương, ta bịa ra một lớp kịch nữa ở cuối hồi tả cảnh Triệu Đà ở bên Tàu đang giục mấy người tướng mau mau sửa soạn binh lính. Đó chính là cách bố trí kịch của người Á Đông ta từ xưa đến nay cũng như của nhiều kịch sĩ bên Âu châu mà người nổi tiếng to nhất là Shakespeare ở thế kỷ thứ XVI bên Anh Cát Lợi. Cách bố trí như thế không phải là dở, nhưng vì sự thay màn cảnh đã thành ra một công lệ rất có nghĩa lý và thú vị ở nhà hát, nên ngay đối với chúng ta bây giờ, ta cũng có thể nói được là nó không tiện cho lắm, trừ ra nếu ta bỏ hẳn sự thay màn cảnh đi, hoặc là có những cách thay cảnh bằng máy rất nhạy có thể đưa người xem hát đang ở một cái vườn bên An Nam sang ngay một cái lâu đài bên Tàu, cũng nhanh chóng như trên một bức màn chiếu bóng vậy. Hai cách trên kia đều có thể đem dùng và chấn chỉnh cho hoàn toàn được cả, nhờ ở những câu văn viết cho rõ hay hoặc ở những sự tài tình của khoa học; tuy nhiên, cách bố trí như thế dẫu có tổ chức được khéo đến đâu, cũng vẫn còn là bất tiện ở chỗ nó có thể làm lẫn nghề kịch vào với nghề văn hoặc nghề chiếu bóng, làm thất lạc mất cái nghĩa rất hay của sự dàn hồi trong môn kịch, và sau nữa, hay làm rối trí người xem hát bởi sự luôn luôn cắt ngừng các lớp kịch giống như sự ngắt hồi vậy.
Đối với dân An Nam chúng ta là một dân tộc từ xưa đến nay không khó tính chút nào về nghề kịch thì những điều trên này chỉ là không tiện thôi. Nhưng đối với những nhà kịch sĩ thuộc phái cổ điển bên Pháp ở thế kỷ thứ XVII thì những điều đó lại bị coi là rất thô bỉ
nữa, vì rằng thời đó, mọi người đang nhiệt liệt tán dương một cái luật rất nghiêm khắc về nghề kịch của người Hy Lạp truyền lại, gọi là Luật tam duy nhất (La regie des trois unites). Racine tiên sinh là kịch sĩ ở nước Pháp đã theo được đúng nhất cái luật ấy, bởi thế cho nên bao nhiêu những điều bất tiện nói trên này chúng ta đều sẽ không trông thấy ở trong vở kịch Andromaque. Trái lại, chúng ta sẽ thấy trong cách bố trí kịch của tiên sinh có những sự phiền phức lối khác, do cái Luật tam duy nhất gây nên. Vậy trước khi xét đến cái cách dàn lớp của tiên sinh, ta hãy nên biết qua loa thế nào là Luật tam duy nhất.
b. Luật tam duy nhất với văn phái cổ điển bên Pháp ở thế kỷ thứ XVII:
Luật tam duy nhất gồm có: hành động duy nhất, thời gian duy nhất và trường sở duy nhất. Hành động duy nhất nghĩa là thế nào? Nghĩa là trong một tấn kịch từ đầu đến cuối, chỉ được nói một chuyện thôi. Thời gian duy nhất, nghĩa là sự tích diễn ra trong tấn kịch không được lâu quá một thời hạn, định là một ngày một đêm: 24 giờ. Trường sở duy nhất nghĩa là sự tích diễn ra chỉ ở một nơi thôi. Cái luật rất kì khôi và quá nghiêm ngặt này tự đâu mà xuất hiện ra? Nhà hiền triết Hy Lạp Aristote (384-322 trước J.C) là người đầu tiên, trong cuốn Poétique của ông, thiên thứ VII, đã nói về sự cần thiết của cái luật hành động duy nhất để giữ cho tấn kịch được chặt chẽ cứng cáp. ông cũng có định cho sự tích diễn ra trong tấn kịch một thời hạn kiểu mẫu, là thời hạn một ngày một đêm, nhưng không nói là cần phải giữ đúng gì cả. Sau đó các nhà bình phẩm văn và các nhà kịch sĩ ở thế kỷ thứ XV, XVI mới đem những lời bàn của ông
Aristote ra mà đổi thành những điều luật nghiêm ngặt. Đầu tiên ông Scaliger ở bên Pháp, ông Trissin bên Ý Đại Lợi, ông Sidney và ông Ben Johnson bên Anh Cát Lợi, ông Cervantès và ông Tirso de Molina bên Espagne, còn mới nhận cho những lời bàn kia một tính cách nghiêm khắc vừa thôi. Nhưng vào khoảng năm 1636, là lúc ông Corneille viết xong vở kịch Le Cid, lúc phái kịch cổ điển vừa nhóm lên ở bên Pháp, thì Luật tam duy nhất đã thành ra một điều luật không ai dám cưỡng hẳn lại nữa. ông Chapelain, trong cuốn Ý kiến của chúng tôi về vở kịch Le Cid mà ông đứng thay mặt cho cả Hàn lâm viện Pháp viết ra, có nói rằng Luật tam duy nhất thì nhà kịch sĩ nào cũng phải tuân theo đúng như thế. Ông Corneille tuy có tuân theo, nhưng vẫn hiểu Luật tam duy nhất một cách rộng rãi hơn Hàn lâm viện một chút. Đến năm 1657, ông thầy dòng d’Aubignac, trong cuốn Nghề diễn kịch của ông lại tìm cách bó buộc các nhà văn vào cái luật ấy một cách chặt chẽ hơn nữa. Rồi đến lượt ông Boileau trong quyển Văn pháp (Art poétique) của ông, chỉ viết có hai câu thơ ngắn ngủi để định hẳn cái luật đó cho mọi người đời ấy phải theo:
Qu’en un lieu, qu’en un jour, un seul fait accompli.
[1]
Tienne jusqu’a la fin le theatre rempli.
Luật tam duy nhất tuy là một văn luật khắc khổ hẹp hòi, nhưng thật là một văn luật rất hợp với cái mục đích cao thượng của các nhà kịch sĩ thuộc phái cổ điển, vì họ chỉ chú trọng vào mỗi một sự tả tâm lý, tả tình cảnh, thì không có cách tả tâm lý, tả tình cảnh nào rõ rệt mạnh mẽ cho bằng thu cả đầu đuôi câu chuyện vào một số ít vai chủ động, để đứng cả ở một nơi mà cho họ đụng chạm đối đáp nhau
trong một thời gian rất ngắn. Tấn bi kịch nhờ sự thu vén ấy chỉ vẽ ra toàn những lúc rung động ghê gớm nhất trong lòng mấy vai chính: cái hay trong các kịch của Racine tiên sinh chính là ở đấy. Vì lẽ ấy khi văn phái cổ điển đã tàn rồi thì đối với mọi người Luật tam duy nhất chỉ còn là một văn pháp nực cười và khó chịu.
c. Văn phái lãng mạn bên Pháp ở thế kỷ thứ XIX với ông Victor Hugo:
Kế đến khi văn phái lãng mạn nổi lên, mọi nhà kịch sĩ đều muốn bắt chước ông Shakespeare mà diễn lên sân khấu hết cả các điều khuất mắt, phô ra tròn vẹn cái tình cảnh một vài vai trong tẩn kịch, thì Luật tam duy nhất đã thành ra một văn luật cổ hủ không mấy người theo nữa. Bài tựa vở kịch Cromwell của ông Victor Hugo giết chết hẳn hai cái luật thời gian duy nhất và trường sở duy nhất, chỉ còn giữ lại có cái luật hành động duy nhất. Luật hành động duy nhất đối với một người An Nam ưa đọc tiểu thuyết Tàu hoặc là thích những câu chuyện dài ở các nước phương Đông thí dụ như chuyện Nghìn lẻ một đêm của người Ả Rập, thì có lẽ cũng chưa hẳn là một cái luật tối cần, không theo không được; tuy nhiên, cái luật đó thì một nhà văn sĩ ở nước nào, ở vào thời đại nào cũng có theo ít nhiều, vì nó hợp vào với cái cách suy nghĩ hiểu biết rất tự nhiên của con người ta, ít ra nó cũng hợp vào với cái cách chia một câu chuyện dài ra làm nhiều hồi, thật là một luật không bao giờ có một dân tộc nào có thể bỏ hẳn đi được vậy.
Ông Victor Hugo, tuy rất phục Shakespeare tiên sinh mà ông coi làm thầy và ca tụng như một bậc kì tài tự cổ chí kim chưa từng có ai sánh kịp, tuy ông dựa vào cái tính cách tự do hoạt động của các kịch
của Shakespeare để mà phá đổ cái luật khắc khổ của các nhà kịch sĩ thuộc phái cổ điển bên Pháp, nhưng cách bố trí kịch của ông cũng không giống hẳn cách bố trí kịch Shakespeare. Trong các kịch của Shakespeare tiên sinh, cái trường sở thay đổi luôn luôn ở trong một hồi; trái lại, trong các kịch của Victor Hugo, mỗi hồi chỉ ở một nơi, mỗi hồi chỉ có một cảnh. Xem như vậy thì đối với Shakespeare, ông Victor Hugo vẫn còn giữ một vẻ của phái cổ điển, là trong từng hồi ông vẫn thi hành cái Luật tam duy nhất. Cách bố trí kịch của ông như thế, thật là giữ được cái mực trung dung ở giữa một bên là sự tự do hoạt động, tùy theo cái trí tưởng tượng ngang tàng mạnh mẽ của nhà thi sĩ, một bên là những cách xếp đặt có phương pháp nhất định bắt nhà văn sĩ phải phô bày ra cái tài của mình trong sự lựa chọn những tình trạng nối tiếp nhau một cách hợp lý, gây ra những kịch huống có nghĩa lý dồi dào và thâm thúy. Cách bố trí ấy ngày nay rất thông dụng vì nó hòa hợp được sự thay màn cảnh có điều độ với sự tự do cần thiết của nhà văn trong công việc diễn đạt tư tưởng, mô tả những tình cảnh oái oăm phải có nhiều sự xảy ra, ở nhiều nơi, trong nhiều ngày, mới kết thành như thế.
d. Lối dàn lớp của Racine tiên sinh trong vở Andromaque: Sau khi đã biết rõ các cách bố trí một tấn kịch và đã hiểu cái Luật tam duy nhất là thế nào rồi, bây giờ chúng ta mới có thể xét kĩ đến cái cách dàn lớp của nhà kịch sĩ Racine.
Trước hết, ta nên nhớ lại rằng kịch Andromaque viết đúng theo Luật tam duy nhất thì chỉ có mỗi một cảnh, ở đây tức là một gian phòng trong lâu đài vua Pyrrhus ở tỉnh Buthrot bên xứ Épire. Suốt từ đầu đến cuối tấn kịch, người nọ ra, người kia vào, chỉ toàn ở trong
gian phòng đó. Vậy thì sự chia hồi ở đây quả không còn một nghĩa nào khác là sự phân chia mấy cái tình cảnh nối theo nhau của các vai chính trong câu chuyện, như chúng tôi đã nói ở trên.
Những tình cảnh ấy lại chỉ ở trong có một ngày, thì thoạt mới suy nghĩ, ta tưởng hình như một hồi kịch phải trùng đúng vào những sự thực diễn ra trong đời vậy. Tuy nhiên những sự thực trong đời bao giờ cũng cũng rời rạc, bối rối, và lại không giảng cho ta hiểu được hết các cảnh ngộ. Trái lại, một hồi kịch theo lối bố trí của Racine tiên sinh, phải làm cho ta hiểu, biết và đoán được hết các cảnh ngộ dĩ vãng, hiện thời và tương lai, vì lẽ đó, nó phải rõ ràng, có thứ tự và nhất là không rời rạc. Trong một hồi, nhà kịch sĩ cổ điển phải xếp đặt làm sao cho người nọ ra người kia vào được rõ tự nhiên, làm sao cho sự này với sự kia tuy là gọt xén và tô điểm cho rộng nghĩa thêm lên nhiều, vậy mà cũng nối theo nhau như câu chuyện thật, để cho cái trí tưởng tượng của khán giả chỉ cần phải làm việc nhiều trong những lúc ngắt hồi mà thôi, như thế thì tấn kịch tuy là phải giảng giải nhiều điều mà vẫn cho người xem có cái cảm tưởng như đứng trước sự thực; và do thế, trong một hồi, không có lý sự gì nhà kịch sĩ lại để cho trên sân khấu có lúc nào không có người được.
Bao những điều vừa nói trên này, gây ra bởi cái Luật tam duy nhất, làm cho các kịch của phái cổ điển đều có một vẻ khô khan quá, gọt xén quá, giống như những bài thơ bát cú của người An Nam ta vậy. Nó bắt buộc nhà kịch sĩ phải bịa ra nhiều vai tâm phúc để cho các vai chính có dịp kể lể tâm sự, rồi họ nói chuyện giằng dai với nhau làm cho chúng ta hiểu hết các cảnh ngộ dĩ vãng và hiện thời. Đấy lại là một điều làm thiệt hại cho vẻ hoạt động và tự nhiên của tấn
kịch nữa: nó bắt người xem hát phải để ý và nghĩ ngợi nhiều hơn là khi xem một tấn kịch của Shakespeare hay Victor Hugo. Tuy nhiên, phải hiểu rõ và nghĩ luôn luôn đến những điều khó khăn phiền phức trên này, độc giả mới trông thấy được thấy hết cái tài năng của Racine tiên sinh trong vở kịch Andromaque mà ta có thể nói tóm tắt từng hồi từng lớp lại như sau này.
4. Đại lược vở kịch Andromaque:
HỒI THỨ NHẤT: Trong hồi này, nhà kịch sĩ nói ra hết những cảnh ngộ đã qua, những cảnh ngộ hiện thời, những cảnh ngộ sắp tới nó đặt ba vai chính trong truyện vào những tình cảnh đặc biệt. Nhưng cả ba vai chính trong hồi thứ nhất này, tuy đều đứng vào một tình cảnh không được vui vẻ cho lắm, nhưng cũng chưa ai đến nỗi mất hết hi vọng. Oreste còn mong Pyrrhus không trả đứa bé thì hắn sẽ nhờ đấy mà lấy được lòng yêu của nàng Hermione. Nàng Andromaque tuy lo cho con, những vẫn còn tin chắc ở hiệu lực của nhan sắc mình. Pyrrhus thì mong nàng Andromaque có thể vì lòng yêu con tha thiết mà sẽ ép mình yêu hắn.
LỚP I: Oreste sang sứ bên Épire để đòi đứa bé Astyanax. LỚP II: Pyrrhus không muốn trả, vì mê nàng Andromaque là mẹ đứa bé. LỚP III: Pyrrhus biết Oreste yêu nàng Hermione nhưng không thiết gì đến nàng. LỚP IV: Nàng Andromaque thì nhất định thủ tiết với chồng, không nhận tình yêu của Pyrrhus và khuyên Pyrrhus nên quay về với nàng Hermione. Pyrrhus cho nàng Andromaque đến thăm con nàng để ở một nơi và dọa nàng nếu cứ khăng khăng một mực từ chối tình yêu của hắn thì sẽ trao trả đứa bé cho dân Hy Lạp.
Trong bốn lớp kịch kể trên này lớp kịch làm cho người xem dễ cảm động và cảm động nhiều nhất là lớp thứ IV, tả nàng Andromaque đau đớn vì con mà vẫn một lòng muốn thủ tiết với chồng. Ta nên nhận thấy cái cách lựa chọn kịch huống rất tài tình của Racine tiên sinh: sau khi đã cho khán giả hiểu được rõ cái lòng
mê say của Pyrrhus như thế nào rồi, tiên sinh mới làm nàng Andromaque chạy đi tìm con rồi chạm trán với Pyrrhus. Cái tình trạng của nàng Andromaque và của Pyrrhus, nhờ sự tài tình ấy, nổi bật hẳn lên. Ta chỉ cần đọc mấy câu đầu lớp IV là đủ trông thấy cái lòng yêu con của nàng Andromaque, cái lòng mê gái của Pyrrhus.
HỒI THỨ NHÌ: Trong hồi này, nhà kịch sĩ muốn tả sự tức giận của nàng Hermione và của vua Pyrrhus, sự thất vọng của Oreste. Bao nhiêu những hi vọng tả ở hồi thứ nhất, đến hồi này hình như sắp tắt, nhưng vẫn còn phân vân, chưa tắt hẳn.
LỚP I: Nàng Hermione bị Pyrrhus hắt hủi, bằng lòng tiếp Oreste đến thăm nàng. LỚP II: Nàng lợi dụng Oreste, nhờ Oreste đi nói với Pyrrhus rằng phải chọn ngay trong hai đằng: một đằng là muốn làm rể vua Ménélas thì trả ngay thằng bé Astyanax, một đằng là kình địch lại dân Hy Lạp thì thà bảo thẳng cho nàng một câu để nàng về nước. LỚP III: Oreste được một lúc sung sướng. LỚP IV: Nào ngờ đâu, Pyrrhus lại nghĩ lại, bằng lòng trả đứa bé và cưới cả nàng Hermione nữa. LỚP V: Tuy vậy, Pyrrhus bằng lòng là vì tức giận quá với nàng Andromaque, nhưng tức giận chưa phải là đã hết yêu.
Cái việc có tính cách hoạt động nhất ở trong hồi này là việc Oreste đến thăm nàng Hermione (lớp II), được một lúc sung sướng, chứa chan hi vọng (lớp III), rồi ngay tức khắc sau đó, lại bị thất vọng (lớp IV). Cái kịch huống tài tình nhất là ở lớp thứ IV, vừa diễn được hết cái cay đắng của Oreste, vừa cho ta biết một sự quyết định mới lạ của vua Pyrrhus, tỏ ra có nhiều nỗi tức giận oán hờn nàng Andromaque.
HỒI THỨ BA: Trong hồi này Racine tiên sinh tả sự vui mừng ích
kỷ của nàng Hermione, nỗi uất ức của Oreste, lòng thương con của nàng Andromaque và sự quả quyết của vua Pyrrhus. Nên nhận thấy trong hồi này sự lịch duyệt của Racine tiên sinh về lòng ích kỷ của một người khi đang yêu tha thiết, nhất là của một thiếu nữ như nàng Hermione.
LỚP I: Oreste nhất quyết lấy phỗng nàng Hermione mang đi, bàn với người tâm phúc. LỚP II và III: Nàng Hermione được tin Pyrrhus bằng lòng cưới mình thì vui vẻ vô cùng, tỏ ra không còn thương đến Oreste một chút nào nữa. LỚP IV và V: Nàng Andromaque chạy đến xin với nàng Hermione nói hộ với Pyrrhus tha cho đứa bé thì nàng cũng tỏ ra không thương xót chút nào. LỚP VI: Pyrrhus đến tìm nàng Andromaque vì hoảng hốt thất vọng quá, không cầu xin với mình một lời nào, Pyrrhus cho là nàng khinh mình, nổi giận, nói sẽ để chết đứa bé. Nàng Andromaque khóc lóc, rồi Pyrrhus lại động lòng thương, bảo Phœnix đi ra trước, để một mình mình ở lại. LỚP VII: Pyrrhus lại bằng lòng tha đứa bé, nhưng ép nàng Andromaque phải ra đền kết hôn ngay với mình, nếu không thì sẽ giết chết ngay đứa bé ở ngoài đền. LỚP VIII: Pyrrhus nói xong rồi đi. Nàng Andromaque ở lại với người đàn bà tâm phúc, vẫn chưa sao quyết định một bề được.
Hai lớp khéo nhất trong hồi này là lớp IV và lớp VI. Ở lớp IV, nàng Andromaque chạy đến nhờ nàng Hermione cứu hộ con mình, thì lại đến đúng vào lúc nàng Hermione đang vui mừng quá không còn biết thương đến ai nữa. Ở lớp VI, Pyrrhus đã tức giận rồi, lại bị sự yên lặng của nàng Andromaque làm tức giận thêm, vậy mà đến khi thấy nàng khóc lóc lại động lòng thương yêu, bảo Phœnix đi ra trước...
Một câu cỏn con của Pyrrhus bảo Phœnix đi ra trước này vừa tả được sự cảm động của Pyrrhus, vừa diễn được ra hết cái ngượng của một ông vua khi thấy mình không quyết định được điều gì nữa.
HỒI THỨ TƯ: Trong hồi này, nàng Hermione cũng bị thất vọng như Oreste ở hồi thứ hai. Nhưng hồi này khác hẳn hồi thứ hai, vì mọi người đều quả quyết làm một việc gì, không phân vân dụ dự.
LỚP I: Nàng Andromaque đành lòng lấy Pyrrhus làm chồng, nhưng nàng định một khi làm lễ thành hôn xong thì sẽ tự tử, như thế nàng vừa cứu được con nàng, vừa giữ được tiết với chồng. LỚP II: Trong khi ấy, nàng Hermione nổi cơn tam bành. LỚP III: Nàng bắt Oreste phải ám sát ngay Pyrrhus để rửa nhục cho nàng. Oreste vì quá yêu, đành phải nhận lòi sẽ giết chết Pyrrhus. LỚP IV và V: Thêm vào sự phẫn uất của nàng, Pyrrhus ở ngay trước mặt hắn.
Lớp kịch khéo nhất trong hồi này là lớp V. Không còn có cách nào tả được rõ hơn nữa sự quả quyết của Pyrrhus, và sự phẫn uất đến cực điểm của nàng Hermione.
HỒI THỨ NĂM: Hồi này tả lòng ghen tuông và sự phẫn uất của nàng Hermione lên đến cực điểm. Nhưng vừa được tin Pyrrhus đã bị đâm chết thì lòng yêu mến thương tiếc lại làm cho nàng đổi hẳn ý kiến.
LỚP I: Nàng Hermione tuy đã quyết định nhờ Oreste giết chết Pyrrhus, mà vẫn còn có lúc biết hối hận. LỚP II: Nhưng đến khi người đàn bà tâm phúc của nàng kể chuyện lại cho nàng nghe rằng ở ngoài đền vẻ mặt Pyrrhus trong khi làm lễ thành hôn với nàng Andromaque, vẫn yên tĩnh và vui vẻ lắm thì nàng thật không còn dụ dự gì nữa. Nàng khinh Oreste là người dút dát nên mới không dám
xông vào đâm chết ngay Pyrrhus. LỚP III: Giữa lúc đó, Oreste chạy đến báo tin rằng Pyrrhus đã bị các bạn hữu của mình đâm chết rồi. Tức thì, nàng Hermione nói trái hẳn lại và chửi Oreste là một kẻ sát nhân. LỚP IV: Oreste phẫn chí. LỚP V: Được tin nàng Hermione tự tử, Oreste đau đớn quá hóa điên.
Lớp kịch quan trọng nhất trong hồi này là lớp III. Thật là một lớp kịch khó diễn, bởi sự thay đổi đột ngột của nàng Hermione.
5. Nói qua về mấy tính cách đặc biệt của xã hội Pháp ở thế kỷ thứ XVII, dưới thời vua Louis XIV:
Trong các đoạn trên này, chúng tôi thiết nghĩ đã nói ra hết những điều cần thiết để giúp cho một người học trò An Nam có thể gia công ngẫm nghĩ thêm một chút mà hiểu thấu cái hay cái khó của kịch Andromaque. Muốn cho trong sự hiểu ấy không còn điều gì vướng vấp mập mờ nữa, chúng tôi chỉ còn phải nói qua loa về mấy tính cách đặc biệt của xã hội Pháp ở thế kỷ thứ XVII, dưới thời vua Louis XIV.
Thời vua Louis XIV là một thời đại phồn thịnh vẻ vang vào bậc nhất của nước Pháp. Dưới quyền một ông vua nghiêm nghị hống hách, đã tự xưng mình là một phái bộ nhà trời, bên ngoài thì đánh đây dẹp đó làm cho các nước bên Âu châu phải kính sợ, bên trong lại biết dùng người tài giỏi chỉnh đốn mọi sự cho có khuôn phép trật tự, ở nước Pháp thời ấy nhân tài nở ra như hoa, văn chương, mỹ thuật, triết lý, sử ký, không một nghề, một khoa nào không để lại đời sau được một vài cái danh thơm lừng lẫy. về nghề kịch thì có ông Corneille, ông Racine, ông Molière, về văn thơ thì có ông La Fontaine, ông Boileau, về văn hùng biện thì có ông Bossuet, ông Fénelon, ông Fléchier, về khoa phê bình tâm lý thì có các ông La Bruyère, La Rochefoucault, về khoa triết lý thì có ông Pascal, về sử ký thì có ông Saint-Simon, ông Retz, Lorrain, Le Brun, Perrault,
Mansard, Girardon, Puget. Tuy rằng trong mọi nghề mọi khoa, nhân tài nảy nở ra nhiều như thế, nhung ai ai trong thời ấy cũng như có mang trên mình một cái dấu hiệu của thời đại. Từ những cử chỉ đúng mực uy nghi của nhà vua cho đến văn chương mỹ thuật, từ văn chương mỹ thuật cho đến sự giao thiệp hằng ngày của nhân dân, thảy thảy đều có phương pháp, có tổ chức, thậm chí đến sự giai gái yêu nhau, là một sự có tính cách cá nhân kín đáo như thế mà bọn trí thức thời ấy họ cũng không để mặc quyền tạo hóa muốn xếp đặt ra sao thì xếp. Những cách giai gái phải tán tỉnh nhau, phải đối đáp nhau thế nào, họ cũng muốn định trước; đối lại những sự gạ gẫm của bọn tu mi, họ muốn định trước cả cho bên phụ nữ những thái độ nên phải giữ như thế nào, phải bằng lòng, “chịu thua” cách nào cho được hợp lẽ, đẹp mắt... Thật là một thời đại kì khôi và phiền phức có một không hai ở trên thế giới; tuy nhiên, cũng là một thời đại văn minh cực điểm, đã gây cho nước Pháp, tự trong các phòng tiếp khách (Les Salons) của mấy vị Công nương hoặc Phu nhân có học thức rộng thời ấy (thí dụ như Mlle Madeleine de Scudéry, Madame de Maintenon) mở ra làm nơi đi lại hội họp cho các bậc tài hoa trong nước, những cách thức xã giao, những câu ăn nói lịch sự đài các, tuy phần to vì kiểu cách quá hóa nhàm hóa rởm, nhưng cũng có nhiều câu đã ăn nhập vào tiếng nói thông thường của cả toàn dân trong nước, làm cho tiếng nói nước Pháp càng thêm vẻ nhã nhặn tự đời ấy. Thí dụ câu: Le fauteuil vous tend les bras - cái ghế bành đã giơ hai tay mời ngài ngồi xuống. Phải hiểu cái tính cách chung của cả một thời đại như thế, ta mới thấy rằng những chỗ ăn nói khí lôi thôi của Racine tiên sinh trong vở kịch này, thật hãy còn chưa lấy gì làm văn hoa cầu kì cho lắm, đối với phần đông người Pháp ở thế kỷ
thứ XVII.
Một vẻ đặc sắc nhất của thời đại này mà ta cần phải biết là sự trong xã hội phái phụ nữ được tôn trọng một cách đặc biệt. Sử ký chép rằng vua Louis XIV ngả mũ chào cả người đàn bà quét dọn trong cung điện khi gặp ở cầu thang gác. Tiếng “Thưa bà” (Madame), đời ấy, là một tiếng xưng hô rất lễ phép có thể dùng với các vị Công nương Công chúa cũng như với các vị Phu nhân. Đọc vở Andromaque, ta sẽ có dịp thấy rằng có lúc Racine tiên sinh muốn tả vua Pyrrhus rất tàn nhẫn, nhưng trong toàn thể vẫn là một ông vua rất lịch thiệp nhã nhặn với phụ nữ, giống như một người cùng sống một thời đại với tiên sinh vậy.
Trong cái xã hội lịch thiệp nhã nhặn ấy, mà chữ tình đã gần thành như một nghề cho người thượng lưu ai cũng phải học tập rèn luyện, Racine tiên sinh lại nổi tiếng là nhà kịch sĩ đã diễn được lên sân khấu, một cách thanh tú, những nỗi yêu thương nồng nàn hăng hái nhất trong lòng con người ta, đó cũng là một điều chúng ta cần phải nhớ luôn luôn để mà nhận cho ra hết các nét hay vẻ đẹp trong vở kịch Andromaque này. Chúng ta có nhớ tiên sinh là nhà kịch sĩ đã làm khóc nức nở ở nhà hát bao nhiêu đàn bà con gái trong một thời đại, đã được cả một xã hội tặng cho cái huy hiệu là: le tendre Racine, “nhà kịch sĩ Racine chứa chan tình cảm” thì khi đọc các kịch của tiên sinh, chúng ta mới chú ý hết sức đến cái hay của nhiều câu văn rất tầm thường tự nhiên mà đậm đà tình tứ. Nguyên là các kịch của tiên sinh toàn viết bằng thơ cả, những câu thơ gọt giũa nhất trong văn chương nước Pháp, nhưng khi dịch các kịch ấy ra một tiếng khác, thì dẫu là dịch được rõ đúng, dịch giả cũng không có
cách gì ngăn cản được cái hay của từng câu thơ không cho nó tan lẫn vào cái hay của cả từng đoạn, từng lớp. Vì lẽ trên này, chúng tôi lại muốn nhắc lại một lần nữa những độc giả nào không biết tiếng Pháp nên đọc rất chậm chạp các áng văn thuộc loại cổ điển như vở Andromaque này, và để ý đặc biệt đến những chỗ chấm câu ngắt đoạn mà chúng tôi cố giữ cho được rõ đúng với nguyên văn.
TIỂU SỬ JEAN RACINE TIÊN SINH
J
ean Racine tiên sinh sinh tại la Ferté Milon (thuộc hạt Aisne nước Pháp), ngày 21 Décembre 1639.
Năm lên hai tuổi, tiên sinh mất mẹ, và đến năm lên bốn, thì tiên sinh mồ côi cả cha nữa. Tiên sinh được bà nội là bà Marie Desmoulins mang về nuôi.
Bà Marie Desmoulins có hai người em gái và một cô con, cả ba đều tu ở nhà tu Port Royal. Sau khi chồng bà tạ thế, bà cũng vào tu ở đó cùng với các em và con. Bà dạy dỗ cháu, tức là Jean Racine tiên sinh, theo những tư tưởng của phái đạo Jansénistes.
Bà gửi tiên sinh vào học trường Thành chung ở tỉnh Beauvais mà các ông giáo ông đốc toàn là người theo phái đạo Jansénistes cả. Năm lên mười sáu tuổi, Jean Racine tiên sinh được vào theo học các Tiểu học đường của Giáo đoàn Port Royal, ở đó, trong ba năm, tiên sinh được thụ giáo ông Giáo sư chữ Hy Lạp Lancelot và ông Giáo sư chữ La tinh Nicole. Đến năm 1658, thì tiên sinh học khoa triết lý ở Paris, tại trường Thành chung d’Harcourt.
Khi đã xong học, tiên sinh đến ở trọ nhà người anh em họ là ông Vitart, khi ấy làm chức quản gia trong dinh Quận công Luynes. Ở nơi này, tiên sinh mới làm quen với những nhân vật thượng lưu trí thức, giao kết với các nhà văn sành nghề ăn nói và các thi sĩ. Khi ấy tiên sinh cũng có viết nhiều thơ, những bài văn ngắn theo lối Sonnets (bài thơ mười hai chữ của người Pháp tương tự lối bát cú của
người An Nam ta) và lối madrigaux (lối thơ huê tình, cốt lấy ngắn mà nhiều ý nhị). Năm 1660, nhân dịp đức vua làm lễ thành hôn, tiên sinh viết một bài đoản ca đề là: Vị thủy tiên nữ của sông Seine. Tiên sinh kết tình bè bạn với ông La Fontaine, viết một bản bi kịch, rồi lại viết phác một bản bi kịch khác nữa.
Những sự giao du của tiên sinh với các nhà văn như thế làm cho các ông giáo ở Port Royal và họ hàng tiên sinh đều lấy làm áy náy lo ngại. Không muốn cho tiên sinh đắm đuối trong cuộc đời phồn hoa xa xỉ và đi lại với bọn con hát, họ bèn bắt tiên sinh đến ở tỉnh Uzès, trong hạt Gard, ở đấy tiên sinh có một người cậu là ông Sconin làm Thầy cả hầu Đức giám mục, ông cậu cho tiên sinh hi vọng sẽ được một chức có lương trong Giáo hội giới. Tiên sinh ở vùng Nam nước Pháp trong một năm, nhưng chăm chỉ về khoa thần học ít hơn là chăm làm thơ và viết bi kịch.
Về Paris năm 1663, tiên sinh viết một bài Đoản ca về sự Đức vua khỏi bệnh, và do đó, nhận được của nhà vua Louis XIV một món tiền thưởng là 600 livers. Tiên sinh lại tạ ân vua bằng một bài nữa, đề là: Sự vẻ vang về với các Nàng thơ. Nhân dịp này, tiên sinh giao kết với ông Boileau và ông Molière.
Năm 1664, ông Molière đem diễn ở nhà hát riêng của ông ở phố Palais Royal (Hoàng Thành) bản bi kịch đầu tiên của Racine tiên sinh: La Thébaïde ou les Frères ennemis. Năm 1665, cũng ở nhà hát này lại diễn kịch Alexandre của Racine tiên sinh, nhưng tiên sinh không được vừa lòng, cho là các tài tử của ban kịch Molière không sành nghề diễn bi kịch, bèn đem bản kịch Alexandre giao cho ban kịch của Hotel de Bourgogne diễn lại. Cái cử chỉ không được nhã
nhặn đó đã làm mất lòng ông Molière và hai người từ đấy không giao du với nhau nữa.
Đồng thời, Racine tiên sinh tưởng mình bị ám chỉ trong một câu văn của ông Nicole nói những nhà thi sĩ viết kịch hát toàn là “những kẻ đầu độc dân chúng”, bèn in một bức thư ngỏ cho các thầy giáo cũ ở Port Royal, bức thư đó là một tác phẩm tuyệt xảo về đường ngôn ngữ văn chương nhưng cũng là một cử chỉ rất bạc và đáng chê cười. Tiên sinh còn toan in một bức thư thứ hai nữa còn độc địa phũ phàng hơn bức trước, nhưng may có ông Boileau căn ngăn, tiên sinh mới thôi.
Thế là từ đấy trở đi, tiên sinh tuyệt giao với tất cả Giáo đoàn Port Royal, trong kịch trường tha hồ vẫy vùng không phải nể nang ai và e dè gì nữa. Từ 1667 đến 1674, tiên sinh lần lượt xuất bản và cho diễn các kịch sau này: Andromaque (1667), Les Plaideusr (1668), Britannicus (1669), Berenice (1670), Bajazet (1672), Mithridate (1672), Iphigénie (1674). Đến năm 1673 thì tiên sinh được vào một chân trong Hàn lâm viện Pháp. Năm 1677, tiên sinh cho diễn vở kịch Phèdre đáng lẽ được công chúng hoan nghênh ngay, nhưng phải mất mấy hôm đầu, có bọn Công tước phu nhân de Bouillon và Quận công de Nevers âm mưu phá đám, vì họ muốn giúp cho cuộc toàn thắng của vở kịch Phèdre et Hippolyte do nhà văn sĩ Pradon soạn.
Tức gan phẫn chí, lương tâm không được yên ổn về đường tôn giáo, sau nữa lại thêm nhiều nỗi buồn bực thất vọng về tình ái, tiên sinh bèn làm lành với Giáo đoàn Port Royal, từ bỏ nghề kịch, lấy vợ, nhận làm chức Ngự sử quan, rồi chỉ chuyên tâm về những công việc trong triều với sự dạy dỗ các con.
Năm 1689, bà de Maintenon nhờ tiên sinh viết cho các thiếu nữ trường Saint-Cyr một vài lớp kịch về một đầu đề tôn giáo. Tiên sinh bèn viết ra vở kịch Esther khi diễn được hoan nghênh kịch liệt. Năm 1691, tiên sinh lại cũng theo một mục đích như lần trước, viết ra vở Athalie, nhưng vở kịch này diễn không được khéo bằng vở Esther nên thời ấy không được ai cho là một vở kịch tuyệt tác.
Mấy năm cuối cùng trong đời tiên sinh thì buồn tẻ, vì đối với Đức vua, tiên sinh đã hầu như bị thất sủng. Vua Louis XIV ghét tiên sinh về sự quá thân mật với Giáo đoàn Port Royal. Tiên sinh tạ thế ngày 21 Avril năm 1699, để lại bảy người con: năm người con gái, trong số đó có hai người đi tu, và hai người con giai, Jean Baptisle và Louis là tác giả những cuốn thơ La Grace và La Religion.
Ngoài các vở kịch, Racine tiên sinh còn để lại một cuốn Lịch sử toát yếu giáo đoàn Port Royal, Mươi đoạn lịch sử, nhiều bài Thơ trào phúng, bốn bài Tôn giáo ca, và một tập Thư viết gửi cho các bạn hữu và các con.
BÀI CỦA RACINE TIÊN SINH Viết tặng Bà lớn[2] vở kịch Andromaque
K
ính trình Bà lớn.
Chúng tôi đem cái huy hiệu của Bà lớn mà đặt lên đầu vở kịch này, không phải là vô cớ: Chúng tôi còn biết tìm đâu ra một cái danh hiệu khả dĩ làm chói được mắt các độc giả của chúng tôi, nếu không lấy ngay cái danh hiệu mà các khán giả của chúng tôi, hôm diễn vở kịch này, đều đã lấy làm sung sướng cảm động khi họ được nghe thấy nhắc đến? Mọi người đều hay rằng Bà lớn đã hạ cố săn sóc đến cái cách bố trí tấn bi kịch này. Người ta biết rằng Bà lớn đã mách cho chúng tôi một vài ý kiến cao minh của Bà lớn, nhờ có đó, chúng tôi đã thêm thắt được vào vở kịch ít nhiều vẻ đẹp mà trước kia nó không có. Người ta lại biết rằng Bà lớn đã làm danh giá cho vở kịch của chúng tôi bằng mấy giọt nước mắt cảm động khi chúng tôi được cái hân hạnh đọc hầu Bà lớn nghe lần đầu tiên. Bẩm Bà lớn, chúng tôi cúi xin Bà lớn xá lỗi cho chúng tôi, nếu chúng tôi, vì lấy làm một sự vẻ vang cho mình, mà dám lạm quyền mừng cho cái số phận của vở kịch này là đã gặp điều may ngay tự lúc đầu như thế. Điều may đó cũng đủ là vẻ vang danh giá, cho chúng tôi quên được sự lãnh đạm khắc nghiệt của những người họ đã cố ý không chịu để cho mình bị cảm động bởi vở kịch này. Chúng tôi xin nhận cho họ cái
quyền tha hồ mà chỉ trích vở kịch Andromaque, miễn là chúng tôi được phép đem hết những câu phê bình khôn khéo của họ đã rút tự trong trí não họ ra mà tố cáo với tấm lòng Bà lớn.
Tuy nhiên, bẩm Bà lớn, không phải là Bà lớn chỉ biết xét cái giá trị một tác phẩm văn chương bằng tấm lòng Bà lớn mà thôi, Bà lớn còn xét bằng một cái trí thông minh không bao giờ bị lường gạt bởi một ánh sáng giả dối nào. Ai là người có thể đem diễn lên sân khấu một câu chuyện nào mà Bà lớn không biết tường tận đầu đuôi bằng chúng tôi? Ai là người có thể đem diễn một sự éo le gì mà Bà lớn không hiểu thấu hết các rường mối bí mật? Trong bọn chúng tôi, ai là người nghĩ ra được những tình tứ gì cao thượng và nhã nhặn mà những tình tứ ấy lại không cũng vẫn là còn xa mới tới được cái cao thượng và cái nhã nhặn của những tư tưởng Bà lớn?
Bẩm Bà lớn, tuy rằng Bà lớn muốn giấu không nói với ai, nhưng ai cũng biết rõ rằng ông Tạo cùng với sự giàu sang phú quý đã vui vẻ góp tay nhau lại mà nâng Bà lớn lên ngồi cái địa vị vẻ vang cao chót vót kia, vậy mà Bà lớn vẫn không khinh miệt cái vẻ vang trong bóng tối mà bọn văn sĩ chúng tôi đã giữ làm của riêng cho mình. Chúng tôi lại thấy rằng hình như Bà lớn có ý muốn làm cho bọn nam nhi chúng tôi phải phục cái học thức rộng rãi và chắc chắn của trí khôn Bà lớn cũng như, trong phái phụ nữ, Bà lớn đã để cho mọi người đều phải thâm phục những vẻ yêu kiều diễm lệ xuất hiện ra trên tấm thân vàng ngọc. Tất cả triều đình đều quay mắt nhìn về Bà lớn như vị bắc thần làm chuẩn địch cho mọi sự tốt đẹp ở đời. Còn chúng tôi đây là những kẻ làm việc mua vui cho công chúng, chúng tôi cũng không cần phải hỏi ý kiến các nhà học giả xem chúng tôi có làm việc được
đúng quy tắc nữa hay không. Cái quy tắc “bất khả tu du li dã[3]” chỉ là ở sự làm được đẹp làm Bà lớn mà thôi vậy.
Trong bao nhiêu đức tính tốt đẹp của Bà lớn, điều trên này chắc hẳn chỉ là một đức tính cỏn con. Tuy nhiên, bẩm Bà lớn, duy chỉ có cái đức tính ấy là chúng tôi nói đến đâu thì biết đến đấy: Bao nhiêu những đức tính khác đều là cao quá ở trên đầu chúng tôi, chúng tôi không nhìn rõ hết được. Chúng tôi không thể nói về những đức tính ấy mà không làm giảm mất vẻ đẹp của nó đi bởi sự bất tài bất lực của tư tưởng chúng tôi; sau nữa chúng tôi lại sợ sẽ đi ra ngoài sự tôn thờ kính cẩn nó làm cho chúng tôi,
Bẩm Bà lớn,
Bao giờ cũng là kẻ tôi tớ rất hèn hạ, rất dễ bảo và rất trung thành của Bà lớn.
RACINE
BÀI TỰA LẦN IN THỨ NHẤT CỦA RACINE TIÊN SINH
Trích một đoạn trong cuốn Énéide của thi sĩ Virgile (Énéide, quyển tam)
LỜI TƯỚNG ÉNÉE NÓI
Chúng tôi cứ đi lần theo bờ cõi xứ Épire, rồi chúng tôi đi vào một cái hải cảng thuộc xứ Chaonie, rồi chúng tôi đi ngược lên đến tận tỉnh thành Buthrote... Ngày hôm ấy lại đúng vào hôm nàng Andromaque đem rượu với các thức đồ cúng đến mộ chồng làm lễ; nàng khấn gọi linh hồn chồng nàng về mộ là một cái gò cỏ xanh mà nàng đã đắp lên cùng với hai cái ban thờ, một cớ cho nàng rỏ biết bao nhiêu nước mắt... Nàng cúi mặt xuống đất, mà nói nhỏ như sau này: “Ôi! Sung sướng thay, sung sướng hơn hết mọi kẻ khác là cô trinh nữ con gái vua Priam, đã được chết ở trên nấm mộ một kẻ thù, dưới chân những bức tường cao vòi vọi của thành Troie! Nàng không phải đeo đẳng mãi một cuộc đời sầu não, không bị đày đọa làm kẻ tì thiếp cho người thắng trận! Còn tôi đây, nước nhà bị đốt cháy ra tro tàn, tôi bỏ đó mà đi lênh đênh hết biển này đến biển khác, tôi sinh hạ trong cuộc đời nô lệ, phải chịu sự kiêu ngạo của người con tướng Achille, một chàng thanh niên hống hách về sau lại mê say nàng Hermione là dòng dõi nàng Léda mà kết duyên với nàng
tức là kết duyên với một người xứ Lacédémone vậy... Nhưng chẳng may cho hắn, Oreste thấy hắn lấy mất người yêu của mình thì ngọn lửa tình bùng bùng đốt cháy trong lòng, bị các vị nữ hung thần xui giục sự chém giết, bèn nhân lúc hắn bất ý, xông ra mà đâm chết ở ngay bên cạnh ban thờ các đấng tổ tiên của hắn”.
Tất cả cái cốt tấn bi kịch này là ở trong mấy câu thơ trên đây. Câu chuyện xảy ra ở đâu, sự tích diễn ra thế nào, bốn vai chính và cả đến tính tình của họ nữa, đều có cả ở trong đó. Chỉ trừ có tính tình nàng Hermione là một người ghen tuông cả giận thì chúng ta đọc thấy rõ lắm ở trong vở Andromaque của ông Euripide.
Nhưng thật ra thì những nhân vật trong tấn bi kịch của tôi toàn là những bậc đại danh đời cổ, khiến nên ai đã có học qua lịch sử thượng cổ thời đại đều có thể nhận ngay ra rằng tôi đã phác họa họ ra giống như hệt những bức chân dung mà các thi sĩ đời xưa đã để lại cho chúng ta. Vì lẽ ấy, tôi không dám nhận cho tôi có cái quyền sửa đổi chút gì tính tình phong tục của những nhân vật ấy. Tôi chỉ hơi lạm quyền làm giảm bớt cái tính khí ngang tàng độc ác của vua Pyrrhus mà Sénèque tiên sinh trong cuốn Troade, và Virgile tiên sinh trong cuốn Énéide quyển nhị đã vẽ ra bằng những nét cứng cỏi mộc mạc hơn nhiều.
Đã như vậy mà vẫn còn có người lấy làm bất mãn về sự vua Pyrrhus đã nổi giận lên với nàng Andromaque mà lại cứ khăng khăng cố lấy cho được người đàn bà tù nhân của mình ấy. Tôi xin thú nhận rằng một người như thế thì thật là thiếu mất cái đức tính kiên nhẫn trong sự phục tùng người yêu của mình, mà phải là một người như Céladon mới là người đã thâm hiểu cái chân ái tình.
Nhưng biết làm sao đây? Vua Pyrrhus đời xưa đâu đã được đọc các tiểu thuyết của chúng ta. Vua Pyrrhus có tàn nhẫn là tự tính trời phú cho như thế. Sau nữa, các vị anh hùng không phải toàn là những người có thể làm như chàng Céladon cả được.
Tuy nhiên, vở kịch của tôi đã được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt, điều đó giúp cho tôi khỏi phải nghĩ đến sự bất mãn có tính cách cá nhân của hai, ba người chỉ muốn bắt các văn sĩ phải sửa đổi lại hết tính nết các vị anh hùng đời cổ để mà làm thành ra những vị anh hùng được cả trăm vẻ hoàn toàn. Tôi cũng coi là rất nhã cái ý của họ chỉ muốn đặt lên sân khấu toàn những người không ai chê vào chỗ nào được. Tôi chỉ xin họ nhớ cho rằng tôi không có quyền thay đổi những quy củ trong nghề diễn kịch. Horace tiên sinh đã dặn chúng ta phải tả tướng Achille ra một người dữ tợn, tàn khốc, hung hăng, giống như ngài đời xưa và giống như người ta vẫn tả người con ngài. Lại thêm Aristote tiên sinh thì không những là không bắt chúng ta phải tả toàn những vị anh hùng được cả trăm điều hay, lại muốn rằng các vai bi kịch nghĩa là vai những người mà sự khổ não sẽ đưa tới cái thảm họa kết cấu tấn kịch, không nên là những nhân vật tuyệt hảo hoặc là tuyệt ác. Aristote tiên sinh không muốn những nhân vật ấy là tuyệt hảo, vì sự cực khổ của một người tốt, khi tả ra, sẽ làm cho khán giả phải tức bực khó chịu hơn là phải động lòng thương. Tiên sinh lại không muốn những nhân vật ấy là tuyệt ác, vì một kẻ độc ác quá thì sẽ không làm động lòng thương của ai cả. Vậy thì những nhân vật trong một tấn kịch cần phải là những người tốt vừa vừa thôi, nghĩa là những người hiền mà có lúc không hiền, những người đó sẽ bị khổ sở bởi một sự nhầm lẫn nào đó nó làm
cho các khán giả trông thấy thì thương mà không ghét.
BÀI TỰA LẦN IN THỨ HAI CỦA RACINE TIÊN SINH
Bài tựa lần in thứ hai này cũng vẫn giống như bài tựa lần in thứ nhất cho đến câu: “Chỉ trừ có tính tình nàng Hermione là một người ghen tuông cả giận thì chúng ta đọc thấy rõ lắm ở trong vở Andromaque của ông Euripide.”
Đoạn sau đổi ra như sau này:
T
ôi gần có thể nói được rằng trong vở kịch này đó là điều độc nhất mà tôi mượn của ông Euripide. Bởi vì tấn kịch của tôi có cùng mang một tên với tấn kịch của ông Euripide thật, tuy nhiên, cái cốt truyện thì khác nhau xa lắm. Trong vở kịch của ông Euripide thì nàng Andromaque lo lắng cho số mệnh của đứa bé tên gọi là Molossus, là một người con của nàng sinh hạ với tướng Pyrrhus mà nàng Hermione muốn giết chết đi cùng cả với mẹ nó. Trong vở kịch của tôi thì đứa bé không phải là Molossus. Nàng Andromaque, ngoài tướng Hector ra, không còn có chồng nào khác nữa và ngoài đứa bé tên gọi Astyanax, nàng cũng không có đứa con nào khác. Tôi nghĩ như thế là đúng với cái ý tưởng của phần đông chúng ta ngày nay về người đàn bà góa ấy. Phần đông những người đã được nghe nói đến nàng Andromaque, chỉ biết nàng là vợ góa của tướng Hector và là mẹ thằng bé Astyanax mà thôi; không ai nghĩ rằng nàng còn phải
yêu một người chồng nào khác hay một đứa con nào khác, về phần tôi, thì tôi còn tin rằng nếu những giọt lụy của nàng Andromaque lại chảy ra vì một đứa con khác đứa con của nàng đã sinh hạ với tướng Hector, thì khi trông thấy, các khán giả chắc sẽ không cảm động bằng được.
Tôi xin nhận rằng tôi đã bị bắt buộc phải để cho vai Astyanax sống lâu hơn thực một chút; nhưng tôi viết văn ở trong một nước mà sự tự do ấy không có lý gì lại bị chỉ trích được. Vì chưa kể đến ông Ronsard trước kia đã lấy Astyanax làm vai chính cho cuốn Franciade, ai là người không biết rằng theo tục truyền thì các vị vua cũ nước Pháp chính là dòng dõi người con của tướng Hector ấy, sau nữa, trong các cuốn niên sử thời cổ, tiền nhân vẫn chép rằng sau khi bị nhà tan nước mất, thì vị thiếu niên công tử kia vẫn còn sống, như thế rồi mới thành được ra ông thủy tổ của các nhà vua nước Pháp?
Kể ra ông Euripide đời xưa trong vở kịch Hélène của ông, còn làm bạo hơn thế nhiều, ông nói trái hẳn lại những điều tin tưởng thông thường của tất cả dân chúng xứ Hy Lạp. ông nói phỏng rằng nàng Hélène chưa bao giờ có bước chân vào thành Troie, mà sau khi thành ấy bị đốt cháy rồi thì vua Ménélas lại gặp vợ ở bên Ai Cập vì không bao giờ nàng có ra khỏi xứ Ai Cập. Đấy là ông nói dựa theo một cái ý kiến chỉ lưu hành riêng trong dân gian Ai Cập mà thôi, như chúng ta có thể đọc thấy trong sách ông Hérodote.
Tôi lại thiết nghĩ cũng không cần phải viện đến ông Euripide ra làm thí dụ như thế, để nói chữa cho một sự tự do cỏn con của mình. Vì rằng sự phá đổ cả cái nền tảng một câu chuyện lưu truyền trong
dân gian với sự chỉ lạm quyền sửa đổi một vài điều phụ thuộc của câu chuyện ấy là hai sự khác nhau xa lắm: những điều phụ thuộc này mỗi nhà văn sĩ khi nói đến đều nói một cách gần như trái hẳn lại các văn sĩ khác. Thí dụ như về tướng Achille thì phần đông các nhà thi sĩ tin rằng nhà tướng ấy chỉ có thể bị thương ở hai gót chân thôi, tuy vậy mà ông Homère trong cuốn Iliade thì lại nói tướng Achille bị thương ở cánh tay và ông không tin rằng trên thân thể nhà tướng có một chỗ nào là không thể bị thương như mọi người thường được. Lại theo lời ông Sophocle thì nàng Jocaste sau khi vừa nhận ra rằng đã lấy nhầm con là Œdipe làm chồng, thì chết liền ngay, trái hẳn lại với ông Euripide còn để cho nàng sống mãi đến lúc hai người con nàng chết trận. Dựa vào một điều mâu thuẫn tương tự như thế, một nhà văn cổ phê bình các kịch của ông Sophocle đã có lời bàn rất đúng lẽ như sau này: “Là người ta không nên kiếm chuyện làm rầy rà các nhà thi sĩ dầu cho họ có sửa đổi một vài chỗ trong những câu chuyện lưu truyền tự đời cổ; trái lại, người ta chỉ nên để ý đến cái cách các nhà thi sĩ khéo lợi dụng những sự sửa đổi ấy, cùng với sự tài tình của họ trong công việc hòa hợp câu chuyện cổ truyền với cái đầu đề của họ muốn diễn.”
CÁC VAI
• ANDROMAQUE, vợ góa của Đại tướng Hector và là tù nhân của Pyrrhus.
• PYRRHUS, con Đại tướng Achille và là vua xứ Épire. • ORESTE, con Đại tướng Agamemnon.
• HERMIONE, con gái nàng Hélène, đã ước gả cho Pyrrhus. • PYLADE, bạn thân của Oreste.
• CLÉONE, người đàn bà tâm phúc của nàng Hermione. • CÉPHISE, người đàn bà tâm phúc của nàng Andromaque. • PHŒNIX, thầy học Achille, và sau là thầy học của Pyrrhus. • Các người theo hầu Oreste.
Sự tích diễn ra ở Buthrote, một tỉnh xứ Épire, trong lâu đài vua Pyrrhus.
ANDROMAQUE Bi kịch (1667)
HỒI THỨ I
LỚP I
ORESTE VÀ PYLADE
ORESTE
Phải, ngày nay ta lại tìm thấy một người bạn thân yêu và chắc chắn như thế này, thì tức là cái vận số của ta đã sắp đến kì thay đổi. Ta có thể nói là nó đã đỡ xấu đi nhiều rồi, từ lúc nó xui khiến cho hai chúng ta gặp nhau ở đây. Ai mà đoán trước được rằng ở một xứ mà ta gặp toàn những sự trái ý, mắt Oreste ta này lại được trông ngay thấy Pylade? Ai ngờ đâu rằng đã từ hơn sáu tháng nay ta mất hết tin tức của ngươi, mà ông trời lại đem ngươi trả lại cho ta ở triều đình vua Pyrrhus như thế này?
PYLADE
Tôi xin cảm ơn trời lần nào cũng ngăn cản tôi, hình như muốn đóng chặt hết các đường sang Hy Lạp lại không cho tôi đi nữa, từ hôm cơn sóng gió dữ dội nổi lên ngoài biển đã làm rã rời các tàu bè của chúng ta ở gần ngay bờ cõi xứ Épire này. Trong cái thời gian phải sống lưu lạc ở nước ngoài như thế, tôi đã trải qua biết bao nhiêu cơn lo sợ! Nghĩ đến những sự không may cho công tử, tôi đã khóc biết bao nhiêu nước mắt, chỉ những lo ngay ngáy cho công tử nhỡ ra lại gặp thêm điều dữ nào khác nữa thì buồn lắm thay! Tấm lòng yêu bạn của tôi, vì cách biệt, sẽ không thể nào cùng chia sẻ với công tử được! Điều lo sợ nhất cho tôi là cái mối buồn sâu xa mà tôi
thấy đã từ lâu lắm, cứ vẩn vơ ở trong lòng công tử. Tôi chỉ e rằng ông trời lại quá độc địa mà cho ngay công tử trông thấy cái chết là điều công tử vẫn thường ao ước. Nhưng mà, công tử ơi, ngày hôm nay tôi lại trông thấy công tử, mà tôi muốn tin rằng công tử sang Épire như thế này chắc là có điều gì đáng mừng hơn trước: chẳng có thế thì sao lại có lính tráng theo hầu long trọng rực rỡ như kia, rõ không phải ra cái lối lãng du của người thất vọng muốn đi tìm tử địa.
ORESTE
Than ôi! Cái số mệnh ta nó đưa ta đến đây, nhưng nào ai đã biết được rồi nó sẽ ra làm sao? Ta đến đây là để theo đuổi một người con gái tệ nghiệt mà lòng ta say đắm, nhưng nào ai đã biết được ái tình sẽ định liệu với đời ta ra làm sao? Ai đã biết được ta đến đây là tìm đến cõi sống hay là tìm vào cõi chết?
PYLADE
Kìa, lạ chưa! Nếu vậy thì ra tấm lòng công tử vẫn còn ở trong vòng nô lệ của tình ái, vẫn phó mặc cho nó tùy ý định liệu mãi sự sống chết của mình đó sao? Công tử đã đắm say đến bực nào, mà có thể quên được bao nhiêu nỗi đau đớn buồn bực, rồi lại đành lòng quay lại để cho nàng tùy ý sai khiến? Hay là công tử nghĩ rằng nàng Hermione ở thành Sparte là người vô tình tệ nghiệt mà sang đến xứ Épire này sẽ lại có thể thân thiện được với công tử hơn trước? Xưa kia, công tử uổng mất bao nhiêu lời cầu khẩn, đã lấy làm tủi thẹn mà ghét nàng rồi, đã có lúc công tử không buồn nói chuyện nàng với tôi nữa. Vậy ra những lúc ấy là công tử không thật tình với tôi.
ORESTE
Ta không thật tình cả với chính mình ta nữa. Bạn quý của ta kia, ta xin ngươi chớ có làm đau lòng thêm cho một người sầu não rất mến yêu ngươi. Lòng ta ước muốn hay là toan tính điều gì, nào đã có bao giờ ta giấu giếm ngươi? Ngươi đã trông thấy rõ mối tình của ta ngay từ khi nó vừa mới nhóm lên, vừa mới diễn ra bằng mấy lời than thở đầu tiên. Kế đến khi vua Ménélas quyết định gả con gái cho Pyrrhus, là người đã trả thù cho họ nhà ngài, thì ngươi cũng trông thấy rõ sự thất vọng của ta; rồi từ đó về sau, ngươi cứ thấy ta đi lênh đênh hết nơi này đến nơi khác trên mặt biển, đi đâu cũng mang theo tấm lòng đã bị ái tình cùm xích, với nỗi buồn vô hạn. Trong những buổi chán nản hết mọi sự ấy, ta lấy làm ái ngại mà trông thấy ngươi bao giờ cũng sẵn lòng đi theo gót con người sầu thảm là Oreste ta này; mỗi khi cơn điên của ta nổi lên thì ngươi lại dập tắt ngay đi; nói vắn tắt lại, là mỗi một ngày, ngươi lại ngăn ngừa ta mà cứu cho ta khỏi chết một lần khác vậy. Nhưng khi ta nhớ lại rằng trong lúc ta đang khốn khổ ấy, nàng Hermione đem hết tài năng nhan sắc ra làm quà tặng cho Pyrrhus, thì ngươi cũng biết lòng ta giận dữ đến bực nào, chỉ muốn quên hẳn nàng đi mà trả thù hết những sự khinh khi của con người khắc nghiệt. Ta bèn làm cho người ngoài tưởng như ta đã thắng được ái tình rồi, mà chính ta cũng tưởng là ta đã thắng thật. Bao nhiêu những nỗi tức tối trong lòng ta, ta ngỡ như là những vẻ nồng nàn của sự thù oán; ta ghét cay ghét đắng cái thái độ quá nhạt nhẽo của nàng, ta khinh cái sắc đẹp của nàng, ta dám thách cặp mắt nàng có cách gì làm cảm động được ta nữa; với cái lối đó, ta tưởng
là đã bóp được chết hẳn cái tình quyến luyến ở trong lòng ta đi. Giữa lúc ai cũng tưởng là ngọn lửa tình của ta đã nguội đi như thế, thì ta về đến Hy Lạp. Trước hết, ta trông thấy các vị Quốc vương đang tụ hội nhau lại để bàn bạc, hình như đang bối rối vì một sự tai biến khá quan trọng. Ta chạy ngay đến. Đã tưởng rằng phen này sẽ ra trận, sẽ làm nên được những công trạng vẻ vang rực rỡ, đem trí não mình ra mà tận tụy với những việc to tát nghiêm trang hơn trước; như thế thì những cái phần linh thiêng trong mình ta cũng dần dần hồi tỉnh lại mà dắt được ái tình ra khỏi trái tim này. Nhưng ta xin ngươi hãy cùng ngẫm với ta xem cái số mệnh nó mạnh hơn chúng ta biết đến chừng nào: nó còn đuổi theo ta dai dẳng mãi rồi, rốt cuộc, lại dồn ta về con đường nguy hiểm mà ta trốn tránh. Ta trông thấy mọi người đều nổi lòng công phẫn vì Pyrrhus; trong khắp xứ Hy Lạp, đâu đâu cũng ồn ào những lời công kích kịch liệt; mọi người đều ta thán rằng Pyrrhus đã quên mất giống nòi, quên mất lời hứa, mới nuôi nấng ở trong triều đình hắn kẻ thù chung của tất cả xứ Hy Lạp là Astyanax, tức là đứa con trai xấu số còn thơ dại của tướng Hector, cũng tức là đứa bé còn sót lại trong cả cái dòng dõi các vị vua chúa đã bị chôn sâu dưới cảnh điêu tàn của thành Troie cũ. Ta nghe thấy nói rằng Đại tướng Ulysse là người quỷ quyệt đa mưu như thế mà đã bị nàng Andromaque đánh lừa, cứu được đứa con nàng thoát khỏi tử hình. Nàng ẵm một đứa bé khác để cho người ta coi nhầm là con nàng mà giằng lấy đem ra giết chết. Người ta lại nói rằng Pyrrhus không quan tâm đến tài sắc của nàng Hermione, chỉ lăm lăm đem tấm lòng với ngôi báu của hắn ra làm quà tặng cho người khác. Vua Ménélas tuy không tin hẳn là thực, nhưng có vẻ buồn rầu lắm; ngài buồn vì thấy cuộc hôn lễ cứ để lửng lơ lần lữa
mãi. Giữa lúc tâm trí ngài đang chìm đắm dưới những điều đau đớn tức bực như vậy, thì tự trong tâm hồn ta nổi lên một nỗi vui mừng âm thầm kín đáo; ta tươi cười hớn hở; tuy vậy, ta còn tự dối ta mà coi nỗi vui mừng của ta chỉ là do cái chí muốn trả thù mà sinh ra. Ta không ngờ chưa được bao lâu con người tệ nghiệt lại đã khôi phục ngôi vàng trong lòng ta như trước. Ta lại cảm thấy hình như ngọn lửa cũ trong mình ta trước kia là chưa tắt hẳn: ta thấy cái mối căm thù của ta cứ nhạt dần, hay là nói khác đi, ta thấy rằng bao giờ ta cũng vẫn yêu nàng vồ vập. Ta bèn ra ứng cử để cho các công dân Hy Lạp bỏ phiếu cho ta đi sứ sang triều đình Pyrrhus; ta được mọi người bỏ phiếu bầu cho; ta đi sang đây.
Ta sang đây để xem có cách gì giằng được ở tay vua Pyrrhus thằng bé con kia, nó còn sống thì còn làm cho bao nhiêu nước phải lo sợ: nhưng trong cơn vội vã sốt sắng của ta này, giả sử ta không nắm được thằng bé Astyanax, mà lại kéo được cô Công chúa của ta về với ta, thì sung sướng biết bao! Ta muốn nói như vậy để cho người chớ có mong rằng ngày nay ngọn lửa tình của ta lại bồng bột nổi lên to gấp hai lần trước mà còn có sự nguy hiểm gì làm cho ta rụt rè kinh hãi được nữa. Ta đã gắng gượng nhiều lắm rồi mà vẫn không ăn thua gì, thì bây giờ đây ta đã quyết nhắm mắt mà đi theo số mệnh! Ta yêu: ta đến đây để tìm nàng Hermione, để nói cho nàng phải động lòng, để cướp lấy nàng, bằng chẳng được thì ta quyết chết ở ngay trước mắt nàng. Ngươi đã có biết Pyrrhus, vậy ngươi nghĩ hắn đang như thế nào bây giờ? Ngươi hãy nói cho ta nghe có những sự gì ở trong triều đình hắn, ở trong lòng hắn? Nàng Hermione của ta có còn làm cho hắn say mê nữa không? Pylade ơi,
ngươi liệu xem hắn có bằng lòng trả lại cho ta cái của báu mà hắn đã cướp mất của ta hay không?
PYLADE
Công tử ơi, tôi phải có ý muốn đánh lừa công tử mới dám nói chắc được rằng hắn sẽ vui lòng đem trao trả nàng cho công tử được. Không phải là hắn có lấy sự được nàng yêu làm vinh hiển đâu. Hắn đã điên cuồng lên vì người vợ góa của tướng Hector: Hắn yêu nàng ta thật sự. Tuy nhiên, người gái góa ấy cũng tệ nghiệt với hắn lắm; hắn càng yêu nàng bao nhiêu, nàng càng oán ghét hắn bấy nhiêu; ngày nào người ta cũng thấy hắn làm đủ các cách để dụ dỗ cho được hay là để đe dọa người nữ tù nhân của hắn. Hắn đem giấu đứa con nàng vào một nơi, không cho nàng trông thấy mặt, rồi dọa nàng sẽ đem giết chết. Hắn làm nàng khóc, xong rồi tức khắc hắn lại dỗ dành nàng. Chính nàng Hermione cũng đã được trông thấy đến hàng trăm lần con người quá mê say ấy nổi giận lên, quay về với nàng, đem về tặng nàng những lời than thở cầu xin bối rối, ngồi xuống dưới chân nàng mà thốt ra những câu ít có sự yêu đương hơn là có nỗi uất ức. Vì những lẽ này, công tử không thể mong ai có cách gì nói chắc chắn được những điều chưa quyết định của một người không sai khiến nổi tấm lòng mình như thế: hắn có thể, công tử nên biết rằng hắn có thể, trong lúc tâm trí đương bối rối đến cực điểm, cưới người hắn ghét mà trị tội người hắn yêu.
ORESTE
Nhưng ngươi hãy nói cho ta biết, nàng Hermione thấy cuộc hôn lễ
cứ để lần lữa mãi mà sắc đẹp của nàng không có năng lực gì, thì nàng nghĩ ra làm sao?
PYLADE
Nàng Hermione, bề ngoài thì ra vẻ coi khinh cái tính hay thay đổi của người nàng yêu; nàng còn tin rằng rồi đây Pyrrhus sẽ sung sướng về sự làm xiêu được lòng nàng, rồi sẽ quay về van lạy nàng tha thứ cho mà thu nhận lấy tấm lòng yêu của hắn. Nhưng tôi đã được trông thấy nàng khóc lóc mà kể hết tâm sự cho tôi nghe. Nàng lấy làm tủi về sự bị người ta khinh rẻ nhan sắc mình. Lúc nào nàng cũng sắp muốn đi về Hy Lạp mà rồi nàng lại đành lòng ở lưu lại; cũng có lúc thấy mình bơ vơ quá, nàng lại ước ao được công tử đến mà vác đỡ gánh nặng cho nàng.
ORESTE
Trời ơi! Pylade ơi! Nếu ta tin chắc được như thế thì ta chạy ngay đến...
PYLADE
Tôi xin công tử hãy cứ làm trọn công việc một vị sứ thần đi đã. Công tử đợi vua Pyrrhus. Công tử cứ nói rõ cho nhà vua nghe rằng tất cả dân chúng Hy Lạp đang đồng lòng đòi cho được đứa con của tướng Hector. Chẳng đời nào Pyrrhus lại chịu đưa ngay đứa con của người mình yêu ra trả cho dân chúng Hy Lạp đâu: lòng căm tức của dân chúng Hy Lạp chỉ làm tăng thêm mối yêu thương của hắn.
Người ta càng muốn làm cho hai người rời bỏ nhau ra bao nhiêu, người ta càng làm cho hai người thêm quyến luyến nhau bấy nhiêu. Công tử hãy vội vàng lên, hãy cố lên tiếng đòi cho hết, để mà... chẳng được gì cả. Kìa, vua Pyrrhus đã ra kìa.
ORESTE
Thôi được! Ta nhờ ngươi đi nói chuyện trước với con người tệ nghiệt kia, làm sao cho nàng sẵn lòng tiếp một người yêu nàng, chỉ vì nàng mà đến đây.
LỚP II
PYRRHUS, ORESTE, PHŒNIX
ORESTE
Trước khi thay mặt hết các dân tộc Hy Lạp mà phân trần với Đại vương một vài điều, tôi hãy xin Đại vương cho phép tôi lấy sự được cử sang sứ này làm một cái vinh hạnh lớn cho tôi. Đại vương lại cho phép tôi được tỏ vẻ vui mừng ngay trước mắt Đại vương về sự được nhìn thấy dung nhan con Đại tướng Achille và cũng là dung nhan người đã hạ được thành Troie nữa. Tâu Đại vương, chính như thế, khi xưa chúng tôi được khen ngợi và cảm phục những kì công của Đại tướng Achille thế nào, thì ngày nay chúng tôi lại được khen phục những thủ đoạn anh hùng của Đại vương như thế. Khi xưa, Đại tướng Achille đánh đổ được Hector, thì ngày nay, Đại vương cũng phá đổ được thành Troie. Đại vương đã khéo dùng cái trí quả cảm của mình mà tỏ cho mọi người trông thấy rằng Đại tướng Achille mất đi, duy chỉ có con ngài là người nối được nghiệp ngài mà thôi. Duy có một điều mà Đại tướng nếu còn sống đến ngày nay chắc sẽ không làm, một điều mà cả xứ Hy Lạp đều lấy làm đau đớn khi được biết Đại vương đã làm, là sao Đại vương lại đi nâng đỡ sự đau khổ cho dân tộc thành Troie, sao Đại vương lại để cho một mối thương tâm nguy hiểm ngấm vào lòng mà đi bảo vệ cái giọt máu cuối cùng còn sót lại trong một cuộc tàn sát lâu năm như thế? Đại vương há đã quên tướng Hector khi xưa là người thế nào rồi hay sao? Các dân tộc xứ ta ngày nay mất lực lượng đi nhiều, ai cũng còn
nhớ mãi. Cứ một cái tên kia khi đọc lên cũng đủ làm cho bọn gái góa, bọn phụ nữ xứ ta phải rùng mình kinh hãi. Trong khắp xứ Hy Lạp không một nhà nào là không muốn đòi cho được đứa bé vô phúc kia để mà trả thù cho một người cha, hay một người chồng đã chết về tay Hector khi trước. Vả lại, ai mà biết trước được sau này đứa bé kia sẽ làm nên những thủ đoạn gì? Biết đâu chúng ta lại chẳng được trông thấy nó cũng nhảy vào những hải cảng xứ ta, đốt phá các chiến thuyền của chúng ta giống như cha nó khi xưa cứ cầm ngọn lửa trong tay mà đuổi đốt hết các chiến thuyền trên mặt nước. Tâu Đại vương, tôi xin thất lễ Đại vương mà nói ra cái ý nghĩ trong đầu tôi lúc này: Đại vương săn sóc đến đứa bé, cũng nên nghĩ đến cái phần thưởng không tốt đẹp nó sẽ đến mà đền công cho Đại vương. Đại vương nên sợ rằng con rắn mà Đại vương ôm ấp vào lòng, một ngày kia nó có thể cắn Đại vương chỉ vì Đại vương đã nuôi cho nó sống. Vả lại, nguyện vọng của hết các dân tộc xứ Hy Lạp là như thế thì Đại vương cũng nên làm vui lòng cho mọi người, để cho mọi người có thể rửa được mối hờn mà cuộc đời của Đại vương cũng không có điều gì phải lo lắng cả. Đại vương nên thí bỏ một kẻ thù nguy hiểm, nguy hiểm nhất là vì nó sẽ mượn tay Đại vương để mà kình địch lại dân Hy Lạp.
PYRRHUS
Quan sứ thần ơi, tôi không ngờ đâu dân Hy Lạp nhà ta mà lại lo lắng quá về tôi như thế. Tôi cứ ngỡ là dân Hy Lạp nhà ta đang bận rộn về những điều quan trọng hơn thế này nhiều. Nhất là khi tôi được nghe thấy danh hiệu Quan sứ thần, tôi lại càng tin là có
chuyện gì cần kíp to tát lắm. Thật như thế, tôi xin ngài cứ thử nghĩ mà xem, ai có thể tin được rằng một chuyện nhỏ mọn như vậy mà phải nhờ đến tay con Đại tướng Agamemnon đi sứ sang đến tận đây? Ai có thể ngờ rằng cả một dân tộc đã bao phen chiến thắng các dân tộc khác, mà ngày nay chỉ họp nhau lại để đòi giết chết một đứa bé con? Vả lại họ đòi tôi giết đứa bé đó là đòi giết cho ai vậy? Dân tộc Hy Lạp còn có quyền gì về sự sống chết của đứa bé ấy nữa? Tôi đây cũng là một người dân Hy Lạp, tôi há lại không được cái đặc quyền hơn đồng bào là tùy ý định liệu sự sống chết của một tù nhân mà trời đã giao phó cho tôi sao? Phải, Quan sứ thần ạ, trong khi các tướng sĩ thắng trận đang xông qua máu lửa ở dưới chân thành Troie bị đốt cháy nghi ngút để mà chia phần với nhau, thì số trời, khi bấy giờ không ai đi trái lại nữa, số trời đã run rủi cho nàng Andromaque và đứa con nàng rơi vào tay tôi. Hoàng hậu Hécube đã phải sống một cuộc đời cực khổ cho đến lúc chết ở bên mình Đại tướng Ulysse; nàng Cassandre thì lại phải theo nghiêm đường ngài về tỉnh Argos. Khi bấy giờ tôi có nhận cho tôi có những quyền gì đối với hai Đại tướng hoặc là đối với những tù nhân kia đâu? Đó là cái kết quả những công trạng riêng của hai Đại tướng, không đời nào tôi lại nhận lấy là của tôi được. Người ta sợ rằng với Đại tướng Hector thành Troie một ngày kia còn có thể khôi phục lại được; mà đứa con của Đại tướng có thể làm hại ngay đến tính mệnh tôi chỉ vì tôi đã tha chết cho nó. Quan sứ thần ơi, nếu cứ cẩn thận quá như thế thì không bao giờ hết lo được: tôi thì tôi không biết phòng trước những sự hiểm nghèo còn ở xa xôi quá như thế. Tôi cứ nghĩ đến cái thành Troie này khi nó hãy còn là một tỉnh thành kiên cố, uy nghi, đã sinh đẻ ra bao nhiêu tay anh hùng lỗi lạc, đã làm bá chủ phương Đông
trong một thời; rồi tôi lại nhìn lại cái tình cảnh nó bây giờ, ngẫm đến cái số mệnh nó, ngày nay còn gì nữa? Chỉ còn lơ thơ mấy chiếc pháo đài mà đống tro tàn đã trùm ngập, một con sông chưa phai màu máu, những đồng rộng bỏ hoang, một đứa bé con đang bị giam hãm trong tù ngục. Đã đứng vào cái tình cảnh này, thì sao mà tôi còn nghĩ được rằng thành Troie có thể mong sửa soạn đánh trả thù chúng ta. Vả lại, Quan sứ thần cứ nghĩ xem, nếu thật lòng dân Hy Lạp chúng ta muốn giết chết đứa con Đại tướng Hector thì sao chúng ta lại để cho nó sống dai dẳng mãi đã vừa được một năm tròn rồi? Người ta há lại không đâm chết được ngay nó đi, từ khi nó còn nằm yên trên lòng vua Priam hay sao? Đáng lẽ ra phải để cho nó chết bẹp ở dưới thành Troie, dưới đống thây của các tướng sĩ thành đó mới phải chứ? Có phải là mọi sự đều được hợp lẽ không? Một ông già với một đứa bé, cả hai khi bấy giờ đều không có đủ sức để mà bảo tồn tính mệnh, lại thêm quân sĩ nước ta thắng trận vào giữa ban đêm, trong lúc bối rối dù cho ai có lòng nhân từ không muốn chém giết, cũng phải làm như hết mọi người khác. Đối với cái dân tộc bại chiến kia, kể ra tôi đã nổi hung chém giết tàn nhẫn lắm rồi; ngày nay cơn tức giận đã qua, người ta còn muốn tôi cứ phải tàn nhẫn mãi hay sao? Sự chém giết đã tàn nhẫn đến bực chính tôi đây cũng phải động lòng thương rồi, vậy mà người ta còn muốn tôi dúng mình vào vũng máu của một đứa bé nữa sao? Không, Quan sứ thần ạ. Dân Hy Lạp có muốn chém giết nữa thì tìm người nào khác mà chém giết, thành Troie tan nát có còn để lại được chút gì, người ta cứ việc tìm ra mà hủy nốt đi, nhưng tìm ở nơi khác, chớ có tìm ở đây: cơn tức giận, mối thâm thù của tôi, đến ngày nay là hết hẳn; thành Troie đã cứu vớt được những gì trong cơn máu lửa vừa qua,
thì nước Épire của tôi này cũng sẽ cố mà cứu nốt hộ cho thành Troie những vật ấy.
ORESTE
Tâu Đại vương, Đại vương đã biết rõ cái mưu chước khôn khéo họ đã dùng để mang một đứa bé khác ra chịu tử hình thay cho thằng bé tên gọi Astyanax là con của tướng Hector. Dân Hy Lạp có tìm giết dân thành Troie nữa đâu, chỉ tìm cách báo thù Hector đấy thôi. Phải, dân Hy Lạp muốn bắt lấy đứa bé đem ra hành hình, ấy chỉ là vì cha nó khi xưa đã mua oán mua thù với mọi người bằng sự chém giết quá tàn nhẫn. Mối thù kia ngày nay chỉ có thể rửa được vào máu của Hector mà thôi. Vì Hector, dân Hy Lạp lại có thể mang binh sang đến tận đây Đại vương nên phòng xa tránh trước sự lôi thôi đó.
PYRRHUS
Không, không. Tôi rất vui lòng chờ đón cái sự lôi thôi đó: dân Hy Lạp cứ việc coi nước Épire của tôi này như một thành Troie thứ hai, mà mang binh sang đây nữa đi. Họ cứ việc đổ đống hết mọi sự tức giận, coi những người đã giúp cho họ toàn thắng cũng giống như mọi kẻ thù khác! Điều bất công này không phải là điều bất công thứ nhất mà dân Hy Lạp đã dùng để đền công cho Đại tướng Achille cha tôi. Đại tướng Hector khi xưa đã được lợi nhiều vì sự biết đền ơn đó, Quan sứ thần ạ. Rồi một ngày kia, lại có thể đến lượt đứa con của Đại tướng cũng được hưởng lợi vào đó nữa.
ORESTE
Nếu vậy thì ra Đại vương cưỡng lại ý muốn của tất cả dân Hy Lạp?
PYRRHUS
Tôi há chỉ lao công đánh thắng được quân địch để mà làm nô lệ của dân chúng Hy Lạp?
ORESTE
Nhưng, Đại vương ơi, nàng Hermione sẽ khuyên can được Đại vương. Hai con mắt nàng sẽ là cái dây liên lạc buộc chặt Đại vương vào với cha nàng.
PYRRHUS
Quan sứ thần ơi, bao giờ tôi cũng vẫn có thể yêu quý nàng Hermione, nhưng tôi có thể yêu quý nàng mà không phải làm nô lệ cho cha nàng. Rồi đây, biết đâu chẳng có ngày tôi sẽ tìm ra cách hòa hợp được uy quyền của tôi với tình yêu của tôi. Tuy nhiên, Quan sứ thần cứ việc đến thăm cô con gái bà Hélène đi, vì tôi biết Quan sứ thần với nàng là chỗ họ hàng gần nhau lắm. Thôi, tôi không giữ Quan sứ thần ở đây lâu nữa, và rôi đây, tôi xin ngài cứ về Hy Lạp nói với dân chúng xứ ta rằng tôi đã nhất quyết không thoái bộ.
LỚP III
PYRRHUS, PHŒNIX
PHŒNIX
Như vậy là Đại vương đưa hắn đến bên chân người hắn yêu đó!
PYRRHUS
Ta cũng có nghe thấy nói rằng hắn phải lòng Công chúa từ đã lâu lắm.
PHŒNIX
Tâu Đại vương, thế nhỡ mối tình kia lại nổi bùng lên lần nữa thì sao? Nhỡ hắn lại gắn bó với Công chúa và lấy được lòng Công chúa thì sao?
PYRRHUS
Thì cho hai đứa chúng nó cứ việc mà yêu nhau, có làm sao Phœnix? Ta bằng lòng lắm. Nàng cứ việc mà đi nơi khác. Họ cứ việc mê nhau rồi đem nhau về cả thành Sparte. Các hải cảng nước ta vẫn sẵn sàng mở rộng ra cho nàng và cho hắn đi. Nàng quay về Hy Lạp bây giờ là đỡ cho ta lắm sự phiền nhiễu khó chịu!
PHŒNIX
Tâu Đại vương...
PYRRHUS
Để lúc khác ta sẽ nói hết tâm sự cho ngươi nghe. Nàng Andromaque đã đến kia.
LỚP IV
PYRRHUS, ANDROMAQUE, CÉPHISE
PYRRHUS
Kìa bà, có phải bà đi tìm tôi đó không? Có lẽ đâu tôi mà lại được cái hân hạnh đó?
ANDROMAQUE
Tâu Đại vương, tôi đang muốn đi lại chỗ người ta giữ con tôi, vì Đại vương đã bằng lòng cho phép tôi mỗi ngày được đến ngắm lại một lần cái của báu độc nhất mà thành Troie và tướng Hector còn để sót lại cho tôi. Tôi định đến thăm nó để cùng khóc với nó một lát: trong suốt ngày hôm nay, tôi còn chưa hôn nó lần nào.
PYRRHUS
Vậy mà, bà ơi, cứ xem cái cách dân chúng Hy Lạp nôn nao lo sợ bây giờ, thì họ còn sắp gây ra lắm chuyện làm cho bà phải đau đớn than khóc nhiều hơn thế nữa.
ANDROMAQUE
Nhưng, tâu Đại vương, chẳng hay dân chúng Hy Lạp đang lo sợ là lo sợ điều gì vậy? Hay là còn có nhà tướng thành Troie nào chạy thoát được chăng?
PYRRHUS
Họ vẫn căm thù Đại tướng Hector, nên họ lo sợ về đứa con của Đại tướng để lại.
ANDROMAQUE
Mới đáng sợ làm sao cho họ, một đứa bé khốn khổ, nó còn chưa biết cả rằng Đại vương Pyrrhus là chủ nó mà tướng Hector là cha nó!
PYRRHUS
Quả là như thế thật đấy, vậy mà tất cả dân chúng Hy Lạp cứ nhất định đòi giết chết đứa bé. Họ phái người con Đại tướng Agamemnon sang đây để xin hành hình đứa bé cho mau chóng.
ANDROMAQUE
Vậy mà Đại vương sẽ nỡ lòng hạ một cái lệnh độc ác như thế sao? Hay là chỉ vì tôi có lòng tha thiết đứa con tôi mà nó hóa ra người có tội? Trời đất ơi! Người ta có sợ, đâu phải là sợ một ngày kia nó sẽ trả thù được cho cha nó; người ta chỉ sợ nó còn sống thì nó có thể lau hộ được nước mắt cho mẹ nó. Nó có thể an ủi tôi thay cho một người cha, thay cho một người chồng; nhưng cái số phận tôi là phải mất hết, mà bao giờ cũng bởi tay Đại vương.
PYRRHUS
Thưa bà, tôi chẳng đợi phải trông thấy bà khóc lóc mà đã từ chối ngay cái việc độc ác đó rồi. Vì đó, tất cả dân chúng Hy Lạp đã nổi giận lên với tôi mà đe dọa sẽ đem binh sang đây. Nhưng chẳng hề gì, dù cho dân Hy Lạp có lại vượt biển lần nữa mang sang đây một ngàn chiến thuyền để đòi thằng bé con bà; dù cho thằng bé có lại làm tổn hại mất hàng sông máu như bà Hélène ngày trước; dù cho tôi có phải nhọc công kháng cự lại trong mười năm ròng rã để rồi sau mà trông thấy cái lâu đài của tôi đây bị đốt ra tro, tôi cũng không ngần ngại mà cứu giúp ngay nó; tôi sẽ hi sinh đời tôi để mà cứu cho nó sống. Nhưng, chỉ vì muốn làm vui lòng bà mà tôi đành dấn mình vào những bước hiểm nghèo như thế này, bà há lại không vì đấy mà nhìn tôi bằng một con mắt hiền lành êm ái hơn trước hay sao? Tôi đã bị tất cả dân chúng Hy Lạp thù ghét, bốn phương trời không đâu là bạn hữu nữa, mà còn phải chịu thêm tấm lòng ghét bỏ khắc nghiệt của bà nữa hay sao? Tôi xin đem hiến bà cánh tay tôi, chẳng biết tôi có nên hi vọng rằng bà cũng sẽ không hắt hủi một tấm lòng đang mến thờ bà? Tôi liều sống chết để bênh vực quyền lợi cho bà, chẳng biết rằng tôi có được cái may không phải coi bà cũng như mọi kẻ thù khác của tôi không?
ANDROMAQUE
Chết nỗi! Đại vương làm như thế mà không sợ lời dị nghị của cả toàn dân Hy Lạp? Đại vương là một người anh hùng đại lượng, nhẽ đâu lại tỏ ra mình có những ý nghĩ nhu nhược như thế? Nhẽ đâu Đại vương đã có ý làm một điều nhân từ đáng phục như điều này mà lại cam lòng để cho người khác chỉ coi như một cử chỉ liều lĩnh của
người mê gái? Thân tôi ngày nay là thân một kẻ tù nhân, trong lòng lúc nào cũng đầy những nỗi buồn rầu, chính tôi cũng tự thấy tôi là chướng, là khó chịu, vậy mà sao Đại vương còn có thể lấy cái lòng yêu của tôi làm quý mà ao ước nó được? Hai con mắt tôi từ nay trở đi chỉ còn dùng để khóc, đó chính là tay Đại vương đã khiến nó phải như thế, vậy thì phỏng còn có vẻ đẹp gì cho Đại vương tha thiết nữa không? Không, không, tôi thiết nghĩ chẳng còn gì đáng cho Đại vương để ý đến tôi nữa, chỉ dám mong Đại vương thương lấy cái cảnh khổ cực của một kẻ thù bại chiến, cứu giúp những kẻ khốn cùng, trả một đứa bé lại cho mẹ nó, dẫu cho có phải kình địch lại hàng trăm dân tộc khác nhau cũng cứu lấy nó mà chẳng bắt tôi phải lấy tình yêu của tôi ra mà đền ơn lại. Dám mong Đại vương sẽ cho nó có một chốn nương thân, dẫu cho tôi có làm nên điều gì trái ý, Đại vương cũng không nản lòng, như thế mới thật xứng là những cử chỉ anh hùng đại lượng của người con nối chí Đại tướng Achille.
PYRRHUS
Quái lạ! Nếu vậy thì ra lòng bà vẫn còn căm tức tôi mãi hay sao? Một người có thể nào cứ giận với ghét mãi được? Cứ luôn luôn muốn làm đau đớn cho người khác? Tôi xin nhận rằng tôi đã làm cho nhiều người khổ sở: xứ Phrygie, có đến trăm lần đã trông thấy bàn tay tôi đỏ ngầu những máu của người cùng một nước với bà. Nhưng mà, trời ơi! Hai con mắt bà đã khéo làm cho tôi phải xiết bao đau đớn! Hai con mắt bà vì tôi đã rỏ biết bao nhiêu hàng lụy, nhưng mỗi một hàng lụy ấy, tôi lại phải đền bằng một giá nặng nề đắt đỏ gấp mấy mươi lần! Nó đã gieo vào lòng tôi biết bao nhiêu hối hận âm
thầm! Bao nhiêu những sự khổ sở đau đớn mà tôi đã gây ra ở trước thành Troie, nay lại đến phần tôi phải chịu! Người bại trận, người bị cùm xích, bị mòn héo vì những điều hối tiếc, chính là tôi; ngọn lửa nó đang thiêu đốt tôi bây giờ lại còn to hơn những ngọn lửa mà tôi dóm lên khi xưa; chẳng có thế thì sao mà ngày nay tôi mất bao nhiêu công trình săn đón, bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu những nỗi áy náy, nóng lòng sốt ruột... Trời ơi! Đã có lúc nào tôi độc địa cay nghiệt bằng được bà đối với tôi bây giờ đâu? Nhưng thôi, đó chẳng qua là chúng ta cứ lần lượt người này làm khổ người kia, mà làm khổ lẫn nhau như thế cũng là đủ lắm rồi: chúng ta phải nghĩ đến kẻ thù chung của cả hai chúng ta mà hòa hảo với nhau đi mới là phải. Tôi chỉ xin bà nói cho tôi biết một câu, rằng tôi còn có thể hi vọng được, rồi tôi xin trao trả ngay bà đứa con của bà và lại bênh vực nó như một người cha đẻ ra nó vậy. Chính tôi, tôi sẽ dạy cho nó cái cách trả thù cho dân thành Troie; tôi sẽ thân chinh đi hành tội bọn dân Hy Lạp nó đã gây ra hết các sự khổ não của bà và của tôi. Được cặp mắt bà đoái nhìn đến tôi là tôi có đủ nghị lực làm hết mọi việc khó khăn: thành Ilion của ông cha bà tuy đã bị dìm xuống đống tro tàn, vậy mà vẫn còn cơ kéo nó trở dậy được; dân Hy Lạp hạ được nó mất bao nhiêu ngày, tôi có thể trong một thời gian ngắn hơn, xây đắp lại các thành lũy đổ, rồi đội chiếc mũ vàng lên đầu con bà mà đặt nó ngồi lên ngôi báu.
ANDROMAQUE
Tâu Đại vương, những điều cao xa to tát thái quá mà Đại vương vừa nói với tôi đây không làm cho tôi cảm động và hi vọng vào đó
được nữa. Những điều đó, khi hãy còn chồng tôi, thì tôi còn đem ra mà nói với con tôi để kích thích nó. Nhưng đến ngày nay thì, hỡi những thành quách thiêng liêng mà Hector đã không giữ nổi kia, các ngươi đừng hi vọng còn trông thấy chúng ta phen nữa! Tâu Đại vương, chúng tôi là bọn người khốn cùng chỉ dám mong được những ân huệ bé nhỏ tầm thường hơn thế nhiều. Tôi có than khóc chỉ là để cầu xin với Đại vương cái hạnh phúc được đày ra ở một nơi hẻo lánh. Cúi xin Đại vương hãy rộng lòng mà cho tôi mang con tôi đi trốn, xa hết mọi người Hy Lạp, xa cả Đại vương nữa, cho tôi thương khóc chồng tôi. Đại vương mà quá thương chúng tôi, ấy là Đại vương chỉ gây cho chúng tôi nhiều mối thù oán nguy hiểm. Cúi xin Đại vương hãy nghĩ lại mà quay về với Công chúa con của Hoàng hậu Hélène.
PYRRHUS
Bà nói như thế, nhưng phỏng tôi quay về làm sao được? Thật là bà làm não tâm tôi quá! Tấm lòng tôi, bà đã giữ lấy mất rồi, tôi còn có gì đem trả lại nàng Hermione được nữa? Tôi vẫn biết rằng người ta đã hẹn với nàng rằng tôi sẽ quý mến tôn thờ nàng; tôi vẫn hay rằng sở dĩ nàng đến xứ Épire này là để bước lên ngai Hoàng hậu; chẳng qua là số trời đã định dắt nàng với bà, hai người đến cả xứ này, để bắt bà thì phải đeo cùm và để cho nàng được cái quyền cùm xích. Tuy nhiên, bà thử nhìn xem, tôi có làm một dáng điệu gì để lấy được lòng nàng không? Trái lại, ai không trông thấy rằng tôi chỉ phục tùng có cái nhan sắc khuynh thành của bà mà khinh rẻ cái nhan sắc của nàng; ai không bảo rằng nàng chính là người nô lệ ở đây mà bà mới
chính là người cai quản hết mọi sự? Bà ơi! Những câu tôi than thở với bà đây tự trong lòng thốt ra, nếu có lấy một câu đi về phía nàng thôi, nó sẽ mang lại cho nàng bao nhiêu nỗi vui mừng hồi hộp!
ANDROMAQUE
Tâu Đại vương, sự đó hẳn là phải như thế, chứ có lý gì mà nàng lại không hả hê đón tiếp những lời nỉ non than thở của Đại vương? Nàng há đã vội quên được những ơn to của Đại vương khi trước hay sao? Tấm linh hồn nàng có cớ gì lại vì thành Troie, vì tướng Hector mà oán trách Đại vương được? Nàng đâu có đứng vào cùng một tình cảnh như tôi, phải để hết tâm hồn tư tưởng vào một đống tro tàn của một người chồng bất hạnh? Người chồng ấy biết bao giờ cho tôi còn thấy nữa! Nghĩ đến lúc nào lòng tôi đau xót! Chỉ vì đã giết chết được chàng mà thân phụ Đại vương để tiếng lại muôn đời về sau. Bao nhiêu những chiến công của thân phụ Đại vương đã nhờ có giọt máu Hector mà trở nên vẻ vang rực rỡ. Thân phụ Đại vương cùng với Đại vương đây đều nổi tiếng tăm lừng lẫy chỉ vì những giọt lụy chua xót của tôi này.
PYRRHUS
Thôi được. Thôi được, bà đã nói như thế thì tôi đành phải tuân theo lời bà, tôi đành phải cố quên bà đi, hay là tôi phải oán ghét bà từ đây. Tôi đã trót thổ lộ nỗi lòng tôi với bà một cách quá đường đột rõ ràng như thế này, thì tôi không còn thể nào lại làm ngơ như không có gì được nữa. Tôi xin bà hãy nghĩ cho kĩ: từ nay trở đi, nếu tấm lòng tôi chẳng được yêu một cách vồ vập hăng hái, thì nó phải ghét
một cách chua cay độc địa. Trong cơn tức giận rất thích đáng của tôi, tôi sẽ không trừ bỏ dung thứ một ai nữa hết Người mẹ khi mạn tôi thì đã có đứa con ra mà chịu hộ hình phạt. Hiện nay, cả xứ Hy Lạp đang cầu tôi giết chết nó, mà tôi cũng xét ra rằng chẳng có lý gì cho tôi cứ khăng khăng để mãi tài năng danh giá vào một sự cứu cho kì được những kẻ không biết ơn với mình.
ANDROMAQUE
Trời đất ơi! Nếu thế thì con tôi tất sẽ phải chết! Ngoài những giọt nước mắt của mẹ nó với cái bộ mặt ngây thơ đáng thương của nó ra, không còn có gì che chở bênh vực cho nó nữa! Nhưng thôi, đứng vào cái tình thế cùng quẫn của tôi bây giờ, thì có lẽ cái chết của nó lại giúp cho tôi chóng qua được bước đường đời chứa chất đầy những sầu não này. Sở dĩ tôi còn đeo đẳng mãi cuộc đời với bao nhiêu nỗi khổ cực của tôi, ấy chỉ là vì con tôi. Nhưng một khi nó đã từ trần thì tôi cũng chết theo mà về thăm cha nó. Tâu Đại vương, rồi đây cả ba chúng tôi như thế là nhờ có Đại vương mà được vui vầy sum họp...
PYRRHUS
Thôi, tôi xin bà; tôi xin bà hãy cứ đi thăm con bà đi đã. Tôi mong rằng khi trông thấy nó, tấm lòng bà sẽ biết dè dặt nhún nhường hơn mà không cứ dựa theo sự phẫn uất mãi mãi như lúc này. Muốn được biết số phận của hết cả chúng ta ra làm sao, tôi sẽ lại thăm bà. Tôi chỉ xin bà khi ôm con vào lòng thì cũng nên nghĩ đến cách mà cứu nó.
HỒI THỨ II
LỚP I
HERMIONE, CLÉONE
HERMIONE
Thì ngươi muốn sao ta cũng xin làm vậy. Ta sẵn lòng cho hắn được trông thấy mặt ta: ta còn vui lòng cho hắn được cái hân hạnh cuối cùng này nữa. Pylade sẽ dắt hắn lại đây bây giờ. Nhưng nếu ta cứ nghĩ sao làm vậy, thì ta chẳng muốn giáp mặt hắn tí nào.
CLÉONE
Thưa bà, tôi không hiểu bà giáp mặt Tướng quân Oreste thì có hại gì cho bà mà bà phải ngần ngại như thế? Bao giờ Tướng quân chẳng vẫn là Tướng quân Oreste mà đã có đến hàng trăm lần bà cầu lại được trông thấy mặt; bà cũng đã từng nhớ tiếc Tướng quân là một người quý mến tôn thờ bà mà không hề bao giờ có thay lòng đổi dạ.
HERMIONE
Ấy cũng chỉ vì hắn yêu ta nhiều, nhưng đối với hắn, ta lại khắc nghiệt lãnh đạm quá, cho nên ta lấy sự giáp mặt hắn ở chốn này làm một sự khổ tâm khó chịu. Ngày nay, ta còn mặt mũi nào mà nhìn thấy hắn nữa, để cho hắn có dịp trông thấy ta cũng đang đứng cùng vào một tình cảnh buồn thiu không hơn gì tình cảnh hắn! Hắn sẽ có dịp mà rêu rao: Nào thử xem bây giờ nàng Hermione có vẫn còn là
người con gái cao hợm như trước nữa không nào? Nàng đã cao hợm với ta khi trước, thì ngày nay nàng lại bị một người đàn ông làm cao với nàng mà không thèm nhìn đến nàng. Con người tệ nghiệt kia, khi xưa đã nhìn người khác bằng nửa con mắt, phải chăng là bây giờ đây lại đến lượt phải đau đớn nhục nhã vì sự khinh rẻ của người khác? Không! Ta không chịu được!
CLÉONE
Không! Con xin bà đừng có những sự lo ngại viển vông và không xứng đáng như thế. Tướng quân Oreste là người đã hiểu biết cái mãnh lực của tấm nhan sắc bà một cách thâm trầm thấm thía. Bà ngỡ rằng Tướng quân lại tìm bà là có ý để nhạo báng bà ư? Không phải đâu. Tướng quân lại đây là để đem dâng lại bà một tấm lòng không sao kéo hẳn về được nữa. Nhưng, bà vẫn không nói cho con nghe những điều mà Đức vua cha đã truyền cho bà phải làm.
HERMIONE
Ý thân phụ ta thì muốn rằng, nếu Đại vương Pyrrhus cứ thoái thác mãi, không đem hành hình ngay thằng bé của thành Troie, thì ta phải quay trở về với mọi người Hy Lạp.
CLÉONE
Nếu đã như vậy, nếu đã như vậy thì con xin bà hãy nghe theo công tử Oreste đi. Đại vương Pyrrhus đã bắt đầu làm một việc rồi, thì ít ra bà cũng nên làm cho trót cái việc đó đi. Muốn cho có kết quả tốt
đẹp, bà phải làm trước cả Đại vương Pyrrhus đi mới phải. Con còn nhớ bà vẫn bảo con rằng bà oán ghét Đại vương nhiều lắm, điều đó không có thật như thế sao?
HERMIONE
Cléone con ơi, con còn phải hỏi lại xem ta có oán ghét Đại vương Pyrrhus hay không! Nếu ta không oán ghét thì còn gì là danh dự của ta nữa, vì đối với Pyrrhus ta đã tỏ ra biết bao nhiêu mối cảm tình mà hắn đều quên hết. Ta kính mến hắn như thế mà hắn nỡ phụ lòng ta! Ôi! Ta đã quá mến yêu hắn như thế thì bây giờ đây ta phải oán ghét hắn là lẽ thường vậy.
CLÉONE
Nếu thế thì con xin bà hãy tránh xa ngay Đại vương đi; vả lại, một đằng người ta đang tôn thờ bà...
HERMIONE
Được rồi! Con cứ để yên cho cơn tức giận trong lòng ta có thì giờ mà tăng thêm lên chút nữa. Đối với một kẻ thù của ta, con cứ để cho ta được đắn đo và tin chắc ở sức ta trước đã. Cléone con ơi, thật là ta hết sức mong mỏi có thể rời bỏ hẳn được con người đáng kinh khiếp ấy. Hắn càng bạc bẽo với ta bao nhiêu, càng giúp cho ta dễ rời bỏ được hắn bấy nhiêu!
CLÉONE
Nhưng chết nỗi! Sao bà lại nói như vậy? Nói như vậy, chẳng hóa ra bà còn có ý muốn đợi cho Đại vương làm thêm được điều sỉ nhục gì khác đối với bà nữa hay sao? Đại vương đã say mê một tù nhân mà lại say mê ở ngay trước mắt bà, một sự như thế lại chưa đủ cho bà khinh bỉ Đại vương rồi sao? Đại vương đã làm một sự như thế rồi, thì bà còn mong ngài sắp làm được những gì nữa? Đại vương có làm được cho bà phải phẫn uất thì cũng làm ngay tức khắc.
HERMIONE
Ngươi là đứa độc ác thật, nếu không thì sao ta đã buồn ngươi lại chỉ kiếm cách làm cho ta buồn thêm như thế? Hiện lúc này, chính ta cũng sợ mà không muốn tìm biết rõ lòng ta nó đang ra làm sao. Vậy thì mắt ngươi có trông thấy điều gì, ngươi cũng cố đừng tin điều đó vội. Ngươi cứ tin là đối với hắn ta không còn chút tình gì nữa; ngươi cứ ngại khen cuộc toàn thắng của ta đi. Ngươi nên tin rằng tấm lòng ta vì phẫn uất đã hóa ra rắn chắc như đanh đá. Ngươi cứ nên tin như thế đi, và nếu ngươi có thể giúp cho ta cũng tin được như thế, thì ngươi hãy giúp cho ta tin với! Ngươi muốn cho ta tránh xa hắn ra, thì đây! Chẳng có gì ngăn cản ta nữa: chúng ta đi ngay đi. Can gì mà ghen tị thèm muốn mãi số phận một người không xứng đáng đã được hắn yêu vồ vập. Hắn đi yêu một kẻ tù của hắn, thì ta hãy mặc cho kẻ tù ấy cứ việc mà đè lên đầu hắn. Chúng ta đi trốn ngay đi, xa chốn này... Ta chỉ e có một điều là con người bạc nghĩa lại biết hối hận mà quay về điều phải! Biết đâu hai chữ thủy chung lại không khôi phục được một chỗ cỏn con trong lòng hắn! Biết đâu hắn không quay lại dưới chân ta, quỵ lụy mà xin ta xá lỗi cho hắn! Biết đâu Ái
tình thần lại không dắt được hắn về làm kẻ tôi tớ của ta cho ta mặc lòng sai khiến! Biết đâu hắn không sẵn lòng... Nhưng mà con người bạc nghĩa ấy chỉ muốn làm cho ta phải đau lòng tủi phận. Vậy thì chúng ta cũng nên ở lưu lại mà khuấy rối cuộc vui của họ; chúng ta phải biết hưởng sung sướng trong sự làm cho họ phải bực mình vì ta. Hoặc là chúng ta cố làm cho hắn phải lìa xa người hắn đang yêu vồ vập, bằng cách nói làm sao cho đối với hết mọi người Hy Lạp hắn sẽ thành ra một kẻ đã phạm tội rất nặng. Về đứa bé, ta đã nói cho mọi người đều nổi cơn thịnh nộ; nhưng ta lại muốn cho họ còn đòi hắn phải trao trả cả người mẹ đứa bé nữa. Chúng ta phải làm sao cho tên nữ tù nhân kia cũng khổ sở đau đớn bù cho những sự đau đớn nó đã gây ra cho ta: hoặc là nó phải làm hại hắn, hoặc là hắn phải đem hành hình nó đi.
CLÉONE
Có lẽ bà nghĩ rằng cặp mắt luôn luôn đẫm lệ của nàng đã cố ý tìm cách làm giảm mất cái sức mầu nhiệm của nhan sắc bà đi, hoặc có lẽ bà tin rằng một tấm lòng đã nặng vì biết bao nhiêu sự sầu não lại còn cầu được nghe những lời tình tự nỉ non của người gây ra cho nó những sự sầu não đó? Bà hãy thử nhìn xem nỗi đau đớn của nàng, có vì những lời than thở nỉ non kia mà giảm đi được chút nào không? Thì tại làm sao mà tâm hồn nàng cứ ủ rũ buồn thiu ra như thế? Nếu nàng có tình ý gì với Đại vương Pyrrhus thì sao nàng lại làm kiêu quá như thế?
HERMIONE
Ấy chỉ khổ cho ta là ta đã quá tin nghe hắn. Ta không biết khéo gây cho ta một vẻ gì bí mật bằng cách làm thinh lặng tiếng. Ta cứ tưởng rằng con người ta có thể thật thà mà vô hại. Vì lẽ ấy mà con mắt ta nhìn không lúc nào có một vẻ gì nghiêm nghị khắc nghiệt; chuyện trò với hắn, ta chỉ dựa vào lòng ta. Mà thật ra thì ai là người không thổ lộ ngay hết can tràng ra như ta, khi đã được nghe hắn thề thốt về tấm lòng yêu của hắn bằng những lời trịnh trọng nghiêm trang như thế? Khi bấy giờ, hắn có nhìn ta bằng con mắt như bây giờ đâu? Hẳn là ngươi còn nhớ rằng khi bấy giờ mọi sự đều làm tôn giá trị của hắn lên: nào là sự hắn vừa rửa được thù cho cả họ nhà ta, sự mọi người Hy Lạp đang tấp nập vui mừng; các thuyền bè xứ ta thì nặng trĩu những bảo vật vừa cướp được của thành Troie; những công trạng vẻ vang của thân phụ hắn bị át đi bởi những công trạng của hắn còn vẻ vang hơn nữa; những vẻ quyến luyến của hắn làm ta ngỡ rằng hắn còn yêu ta hăng hái vồ vập hơn ta yêu hắn; đến cả tấm lòng ta lúc bấy giờ, và chính ngươi nữa, khi ấy đang tối mắt về cái danh tiếng của hắn; tất cả bao nhiêu những sự đó đã lường gạt ta ngay từ trước khi hắn bội ước với ta. Nhưng thôi, Cléone con ơi, ta đã chịu đến những nước này là quá rồi: Pyrrhus có là người thế nào ta cũng mặc, Hermione ta đây vẫn có tấm lòng biết cảm động mà chàng Oreste lại là vị công tử có lắm nết hay. Chẳng gì chàng cũng là một người biết yêu, cả ngay khi người khác không có tình gì với chàng, mà rồi có lẽ chàng cũng biết cách làm cho người khác có thể yêu chàng được nữa. Thôi thì chúng ta cứ để cho chàng đến xem sao.
CLÉONE
Bẩm bà, Tướng quân đã đến đây kia rồi.
HERMIONE
Chết chưa! Ta không ngờ đâu rằng hắn đã ở gần chúng ta như thế.
LỚP II
HERMIONE, CLÉONE, ORESTE
HERMIONE
Thưa ngài, tôi là một vị Công nương buồn tẻ mà được ngài tìm đến thăm hôm nay, điều đó tôi không biết có nên tin là do một chút thịnh tình còn sót lại đó không? Hay là tôi chỉ nên coi sự ngài hăm hở và vui vẻ đến thăm tôi hôm nay là bởi ngài bị bắt buộc làm cho đầy đủ điều bổn phận?
ORESTE
Đó mới thật là cái tình yêu trong lòng tôi nó đã làm cho tôi tối mắt điên cuồng một cách quá nguy hiểm. Điều đó, bà không còn lạ gì nữa: cái số phận của Oreste tôi đây chỉ là luôn luôn hăm hở tìm đến mà tôn thờ cái nhan sắc thần tiên của bà và lại luôn luôn thề độc rằng không bao giờ còn tìm đến nữa. Tôi vẫn hay rằng cặp mắt của bà nhìn tôi sẽ mở rộng những vết thương cũ của tôi chưa hàn kín; tôi vẫn hay rằng mỗi một bước chân của tôi khi tôi đi về phía bà là một điều lỗi với các thần thánh đã làm chứng cho những lời thề độc của tôi. Tôi vẫn biết như thế và tôi tự lấy làm hổ thẹn. Nhưng tôi lại xin các đấng Thần minh đã làm chứng cho những câu từ biệt rồ dại ai oán của tôi khi ấy, còn chứng nhận cho tôi điều này: là tôi đã hăm hở đi tìm cái chết ở khắp mọi nơi, để giải cho hết những lời thề cũ và rũ sạch gánh nợ đời. Đi cầu xin cái chết, tôi đã tìm đến những nước
dân cư mọi rợ tàn ác họ thường phải giết người để tế mới làm hài lòng được các vị thần họ thờ. Nhưng họ đóng cửa đền của họ lại, không cho tôi vào. Bọn dân mọi xưa nay tàn ác như thế, đối với tôi, lại hóa ra có nhân có đạo mà không thèm giết chết tôi. Vì lẽ đó mà tôi phải tìm đến bà; tôi không còn kiếm ra kế nào khác nữa, là đến tìm trong cặp mắt bà cái chết nó cứ tránh tôi mãi mãi. Tôi có dám mong gì nữa đâu, chỉ tin rằng cặp mắt ấy đối với tôi sẽ dửng dưng lãnh đạm. Vậy thì thôi, cặp mắt ấy cứ việc mà cấm đừng cho tôi có chút hi vọng gì nữa đi; muốn giúp cho tôi chóng đi đến cái chết mà tôi tìm kiếm mãi, cặp mắt ấy chỉ việc nhắc lại cho tôi nghe một lần này nữa cái điều mà nó vẫn nói rõ cho tôi nghe từ đã lâu. Đó, thưa bà, từ một năm nay, tôi chỉ sống với mỗi một cái tư tưởng đó. Tôi đến xin bà cứ tùy tiện mà giết chết tôi đi, giết chết tôi nghĩa là giết chết một người mà đáng lẽ ra bọn rợ Scythes đã giết tranh mất của bà rồi nếu tôi có cái may gặp được những tay cũng nghiêm khắc độc địa như bà vậy.
HERMIONE
Tôi xin ngài, tôi van ngài hãy chớ dùng đến những câu đay nghiến có hại ấy. Cả xứ Hy Lạp nhà ta đang nhờ ngài làm những công việc cần kíp hơn thế nhiều. Sao mà ngài lại nói chuyện đến người rợ Scythes với những sự độc ác của tôi như thế? Ngài há chẳng nên nghĩ đến hết các vị Quốc vương mà ngài đến đây thay mặt? Mối thù của các vị Quốc vương kia cần phải trả, điều đó lẽ đâu còn phải để tùy theo một mối tình bồng bột trong lòng ngài? Họ có đòi ai giết chết ngài là công tử Oreste đâu? Vậy tôi xin ngài hãy làm cho trọn cái phận sự mà các vị Quốc vương xứ ta đã ủy thác cho ngài đi đã.