🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook An Ninh Con Người Trong Bối Cảnh Toàn Cầu Hoá Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: ĐINH ÁI MINH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH BÙI BỘI THU Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: PHẠM THÚY LIỄU NGUYỄN QUỲNH LAN ĐINH ÁI MINH VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4854-2020/CXBIPH/1-347/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5609-QĐ/NXBCTQG, ngày 01/12/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 12 năm 2020. Mã số ISBN: 978-604-57-6261-5. T TS. T TS. ĐTS. LTS. N ẩm ản ph ất b ục trên xu Biên m ệt Nam ốc gia Vi ện Qu ư vi ủa Th c ần Việt Hà Tr ần Việt ầu hóa / Tr ảnh toàn c ối c An ninh con người trong b ốc gia, 2020. - 224tr. ; 21cm Hà ch.b. - H. : Chính trị Qu ISBN 9786045757505 a ầu hó 1. An ninh 2. Con người 3. Toàn c 323 - dc23 CTF0484p-CIP Ả: Ể TÁC GI ẬP TH T ủ biên) ỆT HÀ (Ch ẦN VI TS. TR TS. ĐỖ THANH BÌNH TS. LƯƠNG THỊ THU HƯỜNG ẢI ỄN THỊ THANH H TS. NGUY LỜI NHÀ XUẤT BẢN T rong những thập niên gần đây, an ninh con người và bảo đảm an ninh con người đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. An ninh con người trở thành vấn đề mang tính sống còn cho sự ổn định, thịnh vượng và phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đang gây ra những tác động mạnh mẽ, khó đoán định cho an ninh con người nói chung và an ninh con người Việt Nam nói riêng. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, mức độ rủi ro đe dọa an ninh con người ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn bởi những tác động khó kiểm soát (như khủng hoảng tài chính, dịch bệnh, chất thải...). Những hiện tượng mới như vậy (bất kể là “tốt” hay “xấu”) đều có chung đặc tính là “khó đoán định” và các nhà nước không thể đứng ra giải quyết một cách đơn phương. Theo nhiều nhà nghiên cứu, các hiện tượng này là “sự gia tăng các rủi ro mang tính xuyên biên giới”. Trước bối cảnh đó, người dân ở khắp nơi trên thế giới đều muốn có được sự an toàn về thân thể, thịnh vượng về vật chất, phong phú về tinh thần. Trong khi đó, với vai trò cung 5 ứng dịch vụ an ninh cho người dân thì các giải pháp an ninh truyền thống mà các quốc gia đã từng áp dụng đang trở nên kém hiệu quả. Sự gia tăng rủi ro trong xu thế toàn cầu hóa đã chứng tỏ một điều rằng, ngày nay, tất cả mọi người, cá nhân, cộng đồng, nhà nước đều tồn tại trong tình trạng không an toàn. Do đó, một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất của các thể chế chính trị là làm giảm sự không an toàn của người dân xuống mức thấp nhất có thể và làm sao cho sự cố kết bên trong xã hội không bị nguy hại. Những kinh nghiệm thực tiễn cho thấy các nhà nước phải nhanh chóng thay đổi phương thức quản trị của mình để tương thích với sự biến đổi của thế giới. Để bảo đảm an ninh con người, các quốc gia phải tạo dựng được các môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, văn hóa, sinh thái... phát triển lành mạnh. Các yếu tố đó phải bảo đảm mục tiêu bảo vệ con người trước những mối đe dọa như đói nghèo, dịch bệnh, môi trường ô nhiễm, tội phạm, bất công, bạo lực, chiến tranh, xung đột, mất an toàn về thể xác hay bị lo lắng về tinh thần... Bằng những hành động thiết thực đang tiến hành, Canađa, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc... đã cho thấy, những nỗ lực trong chính sách an ninh con người của họ đã đem lại những hiệu ứng tích cực nhất định cho người dân của họ. Các chính sách mới ở những quốc gia này đã dần đem lại tình trạng an ninh tốt hơn cho người dân. Những thành công hay thất bại của các nhà nước đi 6 trước sẽ là những bài học tham khảo quý giá giúp cho Việt Nam đưa ra các sách lược an ninh con người phù hợp, nhằm hoàn thành mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một quốc gia “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đặc biệt là đời sống vật chất và tinh thần người dân không ngừng được nâng cao. Kết quả đó đã góp phần tạo lập nền tảng vững chắc để bảo vệ an ninh quốc gia và an ninh con người Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, an ninh con người đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi các tác nhân truyền thống và phi truyền thống. Vì vậy, việc nhận thức đầy đủ về an ninh con người để từ đó đề ra những phương hướng giải quyết là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Nhằm góp phần cung cấp tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách nói riêng, bạn đọc nói chung quan tâm đến vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách An ninh con người trong bối cảnh toàn cầu hóa do TS. Trần Việt Hà làm chủ biên. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết chung về an ninh con người, các hiệu ứng do toàn cầu hóa gây ra cho an ninh con người; cũng như nghiên cứu các đối án tương thích - nhằm thực hiện mục tiêu tối thượng là “an ninh con người”, từ đó tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm bảo đảm an ninh con người Việt Nam. 7 Những nội dung được tác giả đề cập trong cuốn sách là những vấn đề phức tạp, rộng lớn, có nhiều cách tiếp cận và đánh giá khác nhau. Vì vậy, cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Nhà xuất bản và tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 6 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 8 Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ AN NINH CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA I- AN NINH CON NGƯỜI 1. Khái niệm “an ninh” “An ninh” là một trong những phạm trù quan trọng nhất trong sự tồn tại của con người và xã hội loài người. Quyền được bảo đảm về sự an toàn của con người như là một “lẽ phải tự nhiên”. Theo John Locke: “Dù ta có xét đến lẽ phải tự nhiên hay không, vốn nói rằng con người, một khi được sinh ra, có quyền bảo toàn với bản thân họ, và do đó, có quyền ăn, uống và những điều tương tự khác, là sự chu cấp tự nhiên cho sự tồn tại của họ”1. ________________ 1. John Locke: Khảo luận thứ hai về chính quyền, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2007, tr.61. 9 Trong khoa học chính trị và khoa học an ninh, “an ninh” là một khái niệm cơ bản, và cũng là một giá trị cơ bản. “An ninh” là điều kiện, tiền đề để cho loài người tồn tại có trật tự. Một cá nhân muốn sinh tồn thì phải có điều kiện tự nhiên của an ninh. John Locke khẳng định: “Vì theo luật tự nhiên làm căn bản đó, con người được quyền bảo toàn đến mức tối đa có thể được. Khi mà tất cả đều không thể bảo vệ được, thì sự an toàn của người vô tội là điều được ưu tiên”1. Trong một xã hội, nhà nước bao giờ cũng là chủ thể cơ bản để bảo vệ an ninh con người. Một quốc gia muốn tồn tại thì ngoài việc cần phải có đầy đủ các điều kiện trong nước đối với các loại an ninh, còn cần phải có một môi trường an ninh quốc tế. “An ninh” trong tiếng Anh có các từ Security và Safety, có nghĩa gốc là tránh khỏi trạng thái hoặc cảm giác lo lắng sợ hãi và nguy hiểm, tức là tránh hoài nghi và không xác định2. Theo nghĩa này thì khái niệm “an ninh” được hiểu rất rộng, tức là tình trạng không hiểm nguy, không lo sợ; và còn có hàm ý được bảo vệ an toàn. Thể theo đó, an ninh được ________________ 1. John Locke: Khảo luận thứ hai về chính quyền, Sđd, tr.49. 2. Xem Philip Babcoc Gove: Webster’s Third New International Dictionary of the English Language, Published by G. & C. Merriam Co, 1976, p.2053. 10 hiểu là tình trạng không tồn tại sự đe dọa, nguy hiểm đối với chủ thể người (ở cấp độ cá nhân cũng như cộng đồng). Từ điển Webster định nghĩa: An ninh là chất lượng hay tình trạng được an toàn như: a) không có nguy hiểm; b) không có sợ hãi hay lo âu; c) không có thiếu thốn hay nghèo khổ. Bởi vậy, mục tiêu của bảo đảm an ninh là bảo vệ (một đối tượng xác định) trước những nguy cơ đe dọa. Với nghĩa tiếng Việt, an ninh là trật tự xã hội, tình hình chính trị yên ổn, không lộn xộn, không có sự phản kháng, không nguy hiểm. Theo đó, an ninh trong tiếng Việt nhấn mạnh đến sự an toàn, ổn định về chính trị của một chế độ. Học giả người Anh, Barry Buzan cho rằng, an ninh là “sự theo đuổi việc tránh khỏi mối uy hiếp”1, thể hiện “năng lực bảo vệ quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại thế lực thù địch”2. Armold Wolfers cho rằng, an ninh là “một loại đánh giá/nhận định”. “Về mặt khách quan, nó phản ánh tình trạng không tồn tại mối uy hiếp đối với giá trị đã giành được. Về mặt chủ quan, nó phản ánh tình trạng không tồn tại nỗi lo sợ về việc những giá ________________ 1, 2. Bill McSweeney: Security, Identity and Interests, Cambridge Press, 1999, p.27. 11 trị đó bị tấn công”. An ninh là “điểm đầu và điểm cuối” trong nghiên cứu chính trị quốc tế. Tuy nhiên, theo ông, nội dung của khái niệm này vẫn còn chưa thật rõ ràng1. Đi sâu vào khái niệm “an ninh”, các học giả phương Tây cho rằng, có năm vấn đề: Thứ nhất, giá trị nào bị tấn công? Thứ hai, sự uy hiếp những giá trị đó là gì? Thứ ba, biện pháp có thể dùng để đối phó với uy hiếp là như thế nào? Thứ tư, khi bị uy hiếp thì ai là người đứng ra bảo vệ? Thứ năm, ai sẽ chi phí cho an ninh và bảo vệ? Đối với an ninh quốc gia, thì sự xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị chính là mối uy hiếp đối với an ninh quốc gia. Nhưng cũng có mối uy hiếp đến từ nội bộ xã hội như: xung đột xã hội, nội chiến và những sự việc hoặc vấn đề khác nữa. Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về an ninh. Xét từ góc độ nghiên cứu rủi ro và khủng hoảng thì: An ninh trước hết được hiểu như: về nhận thức, an ninh là sự đánh giá về khả năng và mức độ rủi ro đang xảy ra hoặc có khả năng xảy ra; về thực ________________ 1. Xem Arnold Wolfers: National Security as an Ambiguous Symbol, Political Science Quarterly Publisher, 1952, p.67. 12 tiễn, an ninh là hệ thống bao gồm các biện pháp cùng với thể chế tương ứng - nhằm hóa giải/hạn chế/kiểm soát các rủi ro đó. An ninh không chỉ phản ánh hiện thực khách quan mà còn đề cập đến một trạng thái tâm lý - cảm giác an toàn và đối lập với nó là cảm giác bất an. Bất an là một trạng thái tâm lý bình thường và phổ biến của con người, không những vậy nó còn phản ánh sự lành mạnh của con người xét ở phương diện sinh học, thể hiện sự nhạy cảm của con người trước những rủi ro. Tuy nhiên, khi bất an trở thành trạng thái tâm lý phổ biến thì đó là vấn đề đáng lo ngại bởi nó nói lên tính đe dọa đối với cộng đồng xã hội. Nếu bất an trở thành hiện tượng xã hội phổ biến, con người sẽ phải đối mặt với những rủi ro, đó là sự khủng hoảng tâm lý có tính chất toàn diện và sâu sắc. Con người cảm nhận về sự bất an rất khác nhau vì cảm giác không chỉ đơn thuần là một kích thích mà nó còn là hệ quả của quá trình nhận thức. Tóm lại, an ninh có thể được khái quát như sau: về khách quan là không có sự uy hiếp, về chủ quan là không có sự lo sợ. An ninh là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. 13 Trên thực tế, bất kể nhìn vấn đề từ chiều cạnh nào, an ninh cùng với cảm giác và trạng thái tâm lý con người đều không tách rời nhau. Trước sự nguy hiểm chưa phát sinh trong thực tế, đây không phải là an ninh mà mọi người bàn luận, thực ra chỉ là sự phán đoán chủ quan trước sự uy hiếp. Tình thế đó liệu có trở thành mối đe dọa đối với an ninh quốc gia hay không là tùy thuộc vào sự phán đoán khác nhau của mỗi người. Có thể có người sợ hãi, có người không sợ hãi, có người cho rằng đó là đe dọa, cũng có người cho rằng đó không phải là đe dọa. Ví dụ, việc Mỹ đưa quân can thiệp ở Trung Đông, thì nhận thức của đại đa số người Mỹ trong nội bộ nước Mỹ và Chính phủ Mỹ là không đồng nhất với nhau. Chính phủ Mỹ cho rằng, giải quyết vấn đề Trung Đông có liên quan mật thiết đến lợi ích an ninh của nước Mỹ, còn cách nhìn nhận của đại đa số người dân nước Mỹ thì ngược lại. Như vậy, có thể nhận thức rằng, an ninh trong thời gian khác nhau, ở những địa điểm khác nhau, sự việc khác nhau, đối tượng khác nhau, thì sẽ có cách hiểu khác nhau. Từ cách xem xét về an ninh như vậy nên có thể gắn “an ninh” cho những thực thể xã hội khác nhau. 2. Khái niệm “con người” Con người là một trong những vấn đề trung tâm và quan trọng, luôn được các nhà khoa học, các nhà 14 nghiên cứu và hoạch định chính sách của các quốc gia trên thế giới quan tâm, phân tích một cách sâu sắc nhất. Triết học Mác - Lênin coi con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Vì vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại. Thứ nhất, bản tính tự nhiên của con người Con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ của con người”. Do vậy, những biến đổi của giới tự nhiên 15 và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; mặt khác, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là “người” chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại... Do vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người (đây có thể coi là bản tính đặc thù của con người). Thứ hai, bản tính xã hội của con người Một là, từ góc độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua tính loài vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, qua đó có thể hoàn 16 chỉnh học thuyết về nguồn gốc của loài người, điều mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ. Hai là, từ góc độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó. Hai mặt tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong chỉnh thể mang tính thống nhất, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính con người. Vì thế, nếu lý giải bản chất sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ góc độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó 17 thường rơi vào phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về Phoi-ơ-Bắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và khẳng định: “bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”1. Hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu tượng hóa, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về cơ bản chỉ thấy hoặc đề cao bản tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ góc độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Bản chất của con người, xét trên ________________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11. 18 phương diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng hòa những quan hệ xã hội” bởi vì xã hội chính là xã hội của con người, điều được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,... Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng khả năng sáng tạo lịch sử của con người cần phải được tiếp cận từ góc độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của con người trong lịch sử. Không có con người phi lịch sử, mà trái lại luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải xuất phát từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Con người, xét từ góc độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người - chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Như vậy, có thể thấy, hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình về bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của hoàn cảnh lịch sử đối 19 với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân con người. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa muốn rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục, rằng do đó con người đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi, - cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”1. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”2. ________________ 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.10. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.476. 20 Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính mình, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. 3. Khái niệm “an ninh con người” Hiện nay, vấn đề an ninh con người đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, chính trị gia, nhà nước, tổ chức quốc tế và khu vực. Các nhà nghiên cứu đưa ra các quan niệm về an ninh con người hay an ninh, an toàn của con người được hiểu khá tương đồng với nhau. Các cách hiểu này được nảy sinh gắn liền với những nếm trải của con người qua các cuộc chiến tranh, xung đột và những mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc sống của nhân loại, quốc gia - dân tộc, cộng đồng người, gia đình và bản thân mỗi con người. 21 Ở phạm vi hẹp, an ninh con người hầu hết đề cập đến bảo vệ cá nhân khỏi những mối đe dọa bạo lực, cụ thể như: xung đột vũ trang, bất hòa dân tộc, nhà nước không hoạt động như mong đợi, buôn lậu nhỏ có vũ trang...1. Ở phạm vi rộng, an ninh con người đề cập đến giải quyết một dãy những nhu cầu con người và tự do được xác định để bảo đảm hạnh phúc của cá nhân, cũng như bảo vệ các cá nhân khỏi những mối đe dọa. Trong quan niệm của nhiều quốc gia được đưa ra trong các bản “Tuyên ngôn độc lập” hay “Tuyên bố về nhân quyền” đều khẳng định, con người sinh ra có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền phát triển. Con người với tư cách công dân của xã hội, trong xã hội công dân phải được bảo đảm quyền tồn tại và phát triển đúng nghĩa con người cho dù con người đó sống ở đâu, quốc gia nào, khu vực nào trên trái đất này. Đó có thể coi là những sự trải nghiệm giá trị, thành quả tư duy, nhận thức của nhân loại. Chẳng hạn, Chính phủ Nhật Bản đã định nghĩa an ninh con người là việc bảo vệ “cốt lõi sống còn của ________________ 1. Xem Taylor Owen: Challenges and Opportunities for Defining and Measuring Human Security, Publisher Geneva, 2004, pp.15-24. 22 cuộc sống con người theo cách hoàn thiện tự do của con người và đáp ứng nhu cầu con người”1. Với quan điểm này, Nhật Bản đã chỉ rõ, những quyền cơ bản của con người được coi là “cốt lõi của cuộc sống” và chúng cần được bảo vệ. Do đó, an ninh con người, về thực chất là việc bảo đảm cho những quyền như vậy không bị xâm hại, ở bất cứ đâu và vào bất cứ lúc nào. Trong Báo cáo phát triển con người của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) năm 1994, đã đề cập một cách khá toàn diện đến khái niệm “an ninh con người”. Theo báo cáo này: An ninh con người có nghĩa là an toàn thoát khỏi các mối đe dọa về đói nghèo, bệnh tật, tội phạm, sự đàn áp. Nó cũng có nghĩa bảo vệ khỏi sự đe dọa có hại và bất ngờ trong mẫu hình của đời sống hằng ngày tại gia đình, trong công việc, trong cộng đồng hay trong môi trường của chúng ta. Như vậy, theo quan niệm của tổ chức UNDP, an ninh con người thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản: (1) An toàn trước các mối đe dọa triền miên như đói khát, bệnh tật, áp bức...; (2) Con người phải được bảo vệ trước những biến động bất thường và có hại đối với ________________ 1. Commission on Human Security: “Human Security Now”, New York, 2003, p.4. 23 cuộc sống hằng ngày, bất kể con người đang sống trong môi trường nào. Có thể hiểu hai khía cạnh trên mang hàm ý rất rộng khi hiểu về bản chất của an ninh con người. Tuy nhiên, việc bảo đảm an ninh con người lại cần các giải pháp tổng thể nhưng lại phải hết sức cụ thể: từ sự đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất cho đến sự an toàn, không phải âu lo của con người. Nội dung của Báo cáo chỉ rõ an ninh con người có bốn đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, an ninh con người mang tính chất phổ biến. Tuy ở các quốc gia có sự phát triển khác nhau (mạnh, yếu; giàu, nghèo; nước lớn hay nhỏ), có sự khác nhau về mức độ, tính chất các nguy cơ đe dọa tới an ninh con người ở nơi này, nơi khác song đó là thực tế và đang có xu hướng gia tăng trên toàn cầu. Thứ hai, những yếu tố tạo thành, tác động, ảnh hưởng đến an ninh con người đều có mối tương liên, phụ thuộc, tác động chuyển hóa lẫn nhau. Con người với tư cách công dân của cộng đồng xã hội, dù sống trong không gian, thời gian nào đó nếu bị đe dọa bởi: đói nghèo, bệnh tật, ma túy, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh xung đột... thì phần còn lại của thế giới chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, liên quan. Thứ ba, các nguy cơ, yếu tố tác động tới an ninh con người cần phải được ngăn ngừa sớm, như là 24 phòng hơn chống. Điều này đòi hỏi trách nhiệm và nghĩa vụ của cộng đồng, nhà nước - dân tộc, tổ chức quốc tế, khu vực và cả thế giới, thậm chí của từng gia đình, cá nhân trong việc phòng, chống nguy cơ đe dọa an ninh con người. Thứ tư, an ninh con người đang được hầu hết các nhà nước - dân tộc xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực hay con người là trung tâm. An ninh thế giới, an ninh quốc gia, an ninh xã hội, an ninh cộng đồng và an ninh con người đều có quan hệ tương liên, suy cho cùng cũng là vì con người, do con người và cho con người. Với phương pháp tiếp cận trên về khái niệm, đặc trưng, nội hàm của an ninh con người, Liên hợp quốc đã đưa ra bảy nhân tố cấu thành, tác động đến an ninh con người, bao gồm: (1) an ninh kinh tế; (2) an ninh lương thực; (3) an ninh sức khỏe; (4) an ninh môi trường; (5) an ninh cá nhân; (6) an ninh cộng đồng; (7) an ninh chính trị. Các nhân tố này chịu tác động, ảnh hưởng đến an ninh con người từ nhiều góc độ, phương diện khác nhau, tùy theo hoàn cảnh không gian, thời gian, điều kiện, môi trường, hoàn cảnh, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến từng người, cộng đồng người nhất định. An ninh kinh tế, theo mức độ và quy mô tác động đến con người, song trực tiếp và nổi cộm là bảo đảm 25 an sinh xã hội, việc làm, thất nghiệp, nhất là thu nhập của người lao động, tạo điều kiện, cơ sở vật chất thực hiện, bảo đảm cuộc sống, an ninh cho con người, bảo đảm quyền sống và phát triển. An ninh lương thực, bảo đảm cho con người không bị đói, bảo đảm cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cuộc sống con người có hiệu quả. Đòi hỏi xã hội, dự trữ và phân phối lương thực có hiệu quả, bảo đảm mọi người đều có cơ hội và khả năng cung ứng lương thực. Theo báo cáo năm 2018 của Ngân hàng Thế giới (WB), dù đạt được những bước tiến trong quá trình giảm nghèo cùng cực, số người nghèo trên thế giới vẫn cao ở mức không thể chấp nhận được. Gần một nửa dân số thế giới 3,4 tỷ người, đang sống chỉ với ít hơn 5,5 USD/ngày (khoảng 128.000 đồng) và tỷ lệ người nghèo trong các nền kinh tế giàu có đang ngày càng tăng lên. Hiện còn 1,3 tỷ người trên thế giới sống trong cảnh nghèo đói với số tiền ít hơn 30.000 VNĐ/ngày. Nghèo đói cũng là nguyên nhân dẫn đến tử vong của hàng triệu trẻ em mỗi năm. Hiện nay, cộng đồng quốc tế đồng thuận mục tiêu xóa đói giảm nghèo, coi phát triển bền vững là một trong những mục tiêu thiên niên kỷ, thực chất cũng chính là hướng đến thực hiện quyền con người, quyền sống, tự do, bình đẳng. 26 An ninh sức khỏe, sức khỏe là vốn quý của con người. Sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của con người chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. An ninh con người trước hết và trên hết bảo đảm an toàn cho con người trước mọi nguy cơ đe dọa tới sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. Bảo đảm điều kiện vật chất trong cuộc sống và sinh hoạt, dịch vụ chăm sóc về y tế, bảo hiểm xã hội, phòng ngừa và chống lại dịch bệnh hiểm nghèo... và nhất là sống trong môi trường xã hội, an sinh xã hội, an ninh xã hội được bảo đảm phát triển con người hoàn thiện và bền vững. An ninh môi trường, con người sống, tồn tại và phát triển trong môi trường tự nhiên và xã hội nhất định. Con người là một thực thể của tự nhiên, cải tạo, chinh phục thiên nhiên phục vụ con người. Song, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, môi trường sống của con người ngày càng ô nhiễm: ô nhiễm đất đai, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, cạn kiệt tài nguyên, gây nên hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu, hạn hán, bão lụt, động đất, sóng thần... đã và đang đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của con người. Thiên nhiên “nổi giận”, “trừng phạt”, đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống bình an của con người. Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu... trở thành vấn đề toàn cầu cấp bách, 27 đe dọa đến sự tồn vong của nhân loại, đến an ninh toàn cầu và mỗi con người. An ninh cá nhân, suy cho cùng, an ninh con người cũng là sự bảo toàn cho từng cá nhân trong cộng đồng, trong xã hội nhất định, là mục tiêu cuối cùng. Song ở đây nhấn mạnh an ninh cá nhân là sự bảo đảm cho mỗi người trước nguy cơ đe dọa từ hành vi bạo lực, như: tra tấn, lao động khổ sai, chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo lực gia đình, lạm dụng trẻ em... An ninh cộng đồng, con người sống, mưu cầu hạnh phúc thường là gắn với gia đình, nhóm người, cộng đồng người, quốc gia - dân tộc, cộng đồng xã hội nhất định. An ninh cộng đồng, hay cũng có thể hiểu an ninh xã hội nhất định trong đó có con người, từng công dân sinh sống được bảo đảm là điều kiện, cơ sở thực hiện an ninh con người. An ninh con người được bảo đảm cũng có nghĩa an ninh xã hội, an ninh cộng đồng được giữ vững. An ninh chính trị, con người thường sống và mưu cầu hạnh phúc gắn với cộng đồng người, gắn với xã hội, thể chế chính trị - xã hội nhất định. Sự ổn định chính trị - xã hội là yếu tố cơ bản, tiền đề để xã hội phát triển. Sự ổn định chính trị - xã hội, cũng đồng nghĩa an ninh chính trị - xã hội được giữ vững. Đó là tiền đề bảo đảm, thực thi quyền con người, con 28 người được bảo đảm, an toàn, tự do, phát triển cả về thể chất và tinh thần. Như vậy, những lĩnh vực trên thể hiện tổng hòa của các mối quan hệ, giao thoa, chồng lấn, trực tiếp và gián tiếp đến an ninh con người từ các khía cạnh, góc độ, quy mô khác nhau. Điều đó cũng khẳng định rằng, “an ninh con người” là khái niệm mang nội hàm, đặc trưng toàn diện, lấy mục tiêu con người là đầu tiên và cũng là cuối cùng; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển trong thế giới hiện đại. Từ cách tiếp cận trên, có thể nhận thấy; mục tiêu của an ninh con người là “tất cả vì con người”, “con người làm trung tâm trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia”. Theo đó, việc xây dựng tiêu chí, chỉ số đo lường về an ninh con người được dựa trên các nhân tố: an ninh kinh tế; an ninh sức khỏe; an ninh chính trị; an ninh môi trường; an ninh giáo dục... Những tiêu chí, chỉ số đo lường trong nội hàm an ninh con người luôn được bổ sung, mở rộng và cụ thể hóa tùy theo thời gian, môi trường, điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Như vậy, khi gắn an ninh với con người, có thể định nghĩa an ninh con người như sau: An ninh con người được hiểu là việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người trước những nguy cơ 29 xâm hại, đe dọa... Nhờ việc được bảo vệ như vậy, mỗi cá nhân (nói riêng) và cộng đồng (nói chung) có được đời sống yên ổn và cơ hội phát triển. II- KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA TOÀN CẦU HÓA 1. Khái niệm “toàn cầu hóa” Toàn cầu hóa là một xu thế phát triển lớn của thế giới ngày nay. Nó là thuật ngữ thông dụng mà các học giả, các chính trị gia dùng để miêu tả đặc trưng của thời đại. Vậy toàn cầu hóa là gì? Và đâu là nội dung cơ bản mà khái niệm toàn cầu hóa hàm chứa? Để trả lời cho những câu hỏi này, có nhiều cách lý giải khác nhau đã được đưa ra: (1) Toàn cầu hóa là một quá trình phức tạp, thể hiện ra dưới dạng những dòng tư tưởng, tư bản, kỹ thuật, và hàng hóa ở quy mô lớn, đang tăng tốc và khuếch trương trên toàn thế giới và gây ra những biến đổi căn bản trong xã hội của chúng ta1. (2) Toàn cầu hóa được hiểu như cách thức diễn đạt một cách ngắn gọn cái quá trình mở rộng phổ của ________________ 1. Xem Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, tr.21. 30 các quan hệ sản xuất, giao tiếp và công nghệ ra khắp thế giới. Quá trình này đã làm cho các hoạt động kinh tế và văn hóa đan bện vào nhau1. (3) Toàn cầu hóa như một quá trình (hoặc một tập hợp gồm nhiều quá trình) làm biến dạng kết cấu không gian của các quan hệ và giao dịch xã hội. Quá trình này làm nảy sinh các dòng chảy xuyên lục địa hoặc liên khu vực và làm xuất hiện các mạng lưới hoạt động, tương tác giữa các quyền lực2. (4) Toàn cầu hóa là một quá trình không thể đảo ngược và là sự hợp nhất giữa các khuynh hướng như: quá trình quốc tế hóa toàn bộ đời sống xã hội, sự phụ thuộc lẫn nhau xuyên quốc gia của các công ty, sự phối hợp hành động của các tổ chức quốc tế khác nhau, và kèm theo đó là quá trình tự do hóa các hình thức giao dịch kinh tế và xã hội hết sức đa dạng. Toàn cầu hóa không chỉ mở ra các kênh mới của quá trình lưu chuyển các nguồn tài chính, trí tuệ, con người và vật chất một cách tự do xuyên biên giới; mà đồng thời còn tạo ra những biến đổi ________________ 1. Smith M. K. and Smith M.: “Globalization: The Encyclopedia of Informal Education”, 2002, http://www.infed.org/biblio/ globalization.htm. 2. Xem David Herbert: Religion and Civil Society, Ashgate Publishing, 2005. 31 sâu sắc mang tính bản chất đối với đời sống cũng như hoạt động của mỗi quốc gia (nói riêng) và các dân tộc (nói chung)1. (5) Toàn cầu hóa hay quốc tế hóa (Internationalization) là một quá trình được các nhà nước kiến tạo một cách chủ động để buôn bán hàng hóa, dịch vụ của mình sang các nước khác2. (6) Toàn cầu hóa là phương Tây hóa (đặc biệt là Mỹ hoá) hay hiện đại hóa. Nó là cơ chế hủy diệt những nền văn hóa và những thể chế tự trị hiện hành, để thay vào đó bằng một cấu trúc xã hội nhất dạng (chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa công nghiệp)3. (7) Toàn cầu hóa là quá trình phân rã lãnh thổ nhà nước dân tộc để tạo ra một không gian siêu lãnh thổ. Nói cách khác, nó đang cơ cấu lại không gian xã hội vốn trước đó vẫn dựa vào địa lý, khiến cho những sự kiện mang tính địa phương có ảnh hưởng đến ________________ 1. Xem Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Sđd, tr.122. 2. Xem Hirst.p & Thomson. G: “Globalization in Question: the International Economy and the Possibilities of Governance”, Cambridge Mass, 1996, pp.8-10. 3. Xem UNDP: Human Development Report 1994, New Dimensions of Human Security, Oxford University Press, New York, 1994, pp.24-25. 32 toàn thế giới, và ngược lại; nó làm nảy sinh những dòng chảy và mạng lưới hoạt động xuyên lục địa, liên khu vực1. (8) Toàn cầu hóa là sự “thu nhỏ” địa cầu bởi tốc độ giao tiếp, bởi sự xuyên thấu vào nhau cũng như tương thuộc lẫn nhau về thông tin, bởi quá trình “Internet hóa” nhiều mặt trong đời sống hiện đại - với tư cách là hệ quả rút ra từ sự tiến bộ như vũ bão của khoa học kỹ thuật2. (9) Toàn cầu hóa là sự hình thành nên một trật tự thế giới tùy thuộc lẫn nhau của các quan hệ siêu quốc tế và xuyên quốc gia. Những mối liên hệ này đang chuyển hóa mạnh mẽ các cơ chế giải quyết vấn đề nội bộ sang một cơ chế thống nhất chung cho toàn nhân loại3. (10) Toàn cầu hóa là dự án chiến lược, được hiện thực hóa bởi toàn nhân loại, nhằm tác động một cách có ý thức và có chủ đích đến các quá trình tự phát của sự phát triển toàn cầu để tạo ra một tương lai mong muốn và thịnh vượng cho con người, bằng cách dựa vào các nguồn phát triển bền vững4. ________________ 1, 2, 3, 4. Xem Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Sđd, tr.24, 24, 26, 26. 33 Những thống kê bước đầu đã cho thấy, ý niệm về toàn cầu hóa còn quá phân tán và khác biệt. Cũng có thể nhận ra đặc điểm này qua nhiều cuộc hội thảo quốc tế về toàn cầu hóa trong những năm gần đây. Bởi vậy cần phải triển khai phương án tìm kiếm những điểm chung mà các hệ phái đó ít nhiều đã thừa nhận. Dưới đây là những thừa nhận chung của các nhà nghiên cứu về toàn cầu hóa1: (1) Toàn cầu hóa làm gia tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước và giữa các dân tộc trên thế giới. (2) Toàn cầu hóa hình thành nên các thị trường tài chính, hàng hóa và dịch vụ ở cấp độ toàn thế giới, hay là một nền kinh tế thế giới thống nhất. (3) Toàn cầu hóa làm nảy sinh không gian thông tin toàn cầu, theo đó, hoạt động giao tiếp giữa các chủ thể không còn lệ thuộc nhiều vào không gian địa lý và thời gian vật lý. (4) Toàn cầu hóa chuyển hóa tri thức thành các đơn vị cơ bản của tài sản xã hội, và do đó, tiến đến thay thế loại hình lao động truyền thống bằng lao động sáng tạo. ________________ 1. Xem Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Sđd, tr.26. 34 (5) Toàn cầu hóa làm cho các giá trị tự do, dân chủ (trước hết là các giá trị gắn với nhân quyền) thẩm thấu một cách mạnh mẽ vào thực tiễn quan hệ quốc tế, cũng như vào đời sống chính trị trong nước. Với những nhận thức trên, có thể đi đến một cách hiểu chung nhất về toàn cầu hóa là: Toàn cầu hóa được hiểu như cách thức diễn đạt ngắn gọn cái quá trình mở rộng phổ và các mối liên hệ sản xuất, của giao tiếp và của công nghệ - ra khắp thế giới. Quá trình mở rộng như vậy đã làm cho các hoạt động kinh tế và văn hóa đan bện vào nhau1. Trên nền tảng của những đánh giá chung như vậy, chúng ta sẽ có cơ sở để bàn về các đặc trưng của toàn cầu hóa, để từ đó, đi đến nhận diện quá trình phức tạp và mới mẻ này. 2. Các đặc trưng của toàn cầu hóa Mặc dù toàn cầu hóa đang còn là đối tượng gây nhiều tranh luận, nhưng vẫn tồn tại một số dấu hiệu đặc trưng để nhận biết về hiện tượng này, đó là: “1. Công nghệ mới: Cuộc cách mạng công nghệ hiện nay đang giúp con người rút ngắn thời gian và ________________ 1. Xem Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Sđd, tr.21. 35 khoảng cách một cách đáng kể trên nhiều bình diện của đời sống xã hội. Và thành tựu đó, đến lượt mình, đã tạo ra những chuyển biến về chất trong quan niệm về không - thời gian xã hội và không - thời gian nhân cách. 2. Sự tập trung thông tin cho phép thực hiện liên lạc trực tiếp: Có thể gọi kỷ nguyên hiện nay là kỷ nguyên của sự chuyển giao thông tin hay “thời đại thông tin”. Số lượng máy tính trên toàn cầu gia tăng theo cấp số nhân. Mạng thông tin, viễn thông, Internet, các hãng truyền thông xuyên quốc gia... đang làm cho thông tin luân chuyển trên khắp bề mặt địa cầu và chi phí liên lạc giảm không ngừng. 3. Sự gia tăng xu hướng chuẩn hóa các sản phẩm kinh tế và xã hội: Nhu cầu về các chuẩn mực đánh giá chung, các tiêu chí phổ biến, các bộ phận có thể hoán đổi cho nhau và các biểu tượng giống nhau đang tăng lên trong điều kiện toàn cầu hóa. Những đồng tiền chung, các thủ tục chung, các trang thiết bị điện tử hoặc cơ khí dù được sản xuất ở đâu vẫn tương thích với nhau đang xuất hiện ngày một nhiều và trở nên phổ biến. 4. Gia tăng hội nhập xuyên quốc gia: Toàn cầu hóa đang mở rộng phổ giao tiếp giữa các nhà nước, 36 các địa phương và các hoạt động xã hội trên khắp thế giới. Có thể thấy những biểu hiện này thông qua xu hướng gia tăng con số các tổ chức đa phương, các hiệp ước khu vực. Các nhà nước, các địa phương, các tổ chức phi chính phủ và người lao động ngày càng vượt qua những ranh giới của không gian sống truyền thống. Xu thế này đang tạo ra một xã hội đa văn hóa, đa cực và mở rộng hơn, hay nói cách khác, là một “không gian văn hóa xuyên quốc gia”, mà trong đó, ngôn ngữ, thói quen và truyền thống được bảo tồn, bất chấp khoảng cách địa lý. Toàn cầu hóa đang mở rộng tầm với cho các hoạt động xã hội, chính trị và kinh tế vượt khỏi khuôn khổ biên giới nhà nước, khu vực và châu lục. 5. Tính dễ làm tổn thương lẫn nhau do sự tùy thuộc vào nhau tăng lên: Một cách tất yếu, sự hội nhập làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau tăng lên. Đi kèm theo đó là tình trạng: những sự kiện diễn ra ở nơi này lại có một ý nghĩa lớn lao đối với những nơi xa xôi khác. Những phát triển tưởng chừng như mang tính địa phương nhất lại có thể gây ra những hậu quả mang tính toàn cầu. Theo đó, ranh giới giữa những vấn đề đối nội (trong nước) với những sự vụ 37 bên ngoài đang càng ngày càng mờ đi. Khả năng gây thương tổn lẫn nhau giữa các quốc gia, khu vực và châu lục là rất cao”1. Hệ quả là tính cố kết của xã hội trong lòng nhà nước dân tộc ngày càng trở nên yếu ớt và dễ lâm vào khủng hoảng. Trong khoảng thời gian được tính bằng phút, những rối loạn của một ngân hàng lớn có thể gây ra sự sụp đổ tài chính khác ở tận cùng ngõ ngách trên thế giới... Du lịch thuận tiện, thông tin liên lạc tức thời, và sự lưu chuyển tiền mặt dễ dàng đang tạo điều kiện thuận lợi cho sự khẳng định sức mạnh của các cá nhân và các phần tử phi nhà nước2. Xét một cách toàn diện, con người chịu ảnh hưởng và tương tác bởi tất cả các tác nhân từ xã hội, từ kinh tế, chính trị, thể chế, văn hóa, tôn giáo, pháp luật, đạo đức, các thiết chế xã hội... Trong xu thế toàn cầu hóa, các tác nhân này không chỉ gia tăng phạm vi, tốc độ, mức độ tương tác giữa chúng mà còn chịu sự tương thuộc với các tác nhân bên ngoài, như bệnh dịch, môi sinh, khủng bố, di dân... ________________ 1. Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Sđd, tr.32-34. 2. Xem Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Sđd, tr.32-34. 38 Những đặc trưng nói trên của toàn cầu hóa đang tác động mạnh đến mọi cộng đồng trên thế giới, đe dọa nghiêm trọng an ninh con người. Tóm lại, có thể coi toàn cầu hóa như những liên kết đang không ngừng mở rộng, gia tăng tốc độ; và gây ảnh hưởng ở cấp độ toàn thế giới. Trong quá trình tương tác với toàn cầu hóa, phẩm chất của các tác nhân tham dự vào tiến trình toàn cầu cũng bị (hoặc buộc phải) thay đổi. Điều đó lý giải tại sao các mô hình nhà nước, các tổ chức xã hội nói chung đã và đang có bước chuyển dịch rõ rệt trong phương thức quản trị. 39 Chương II NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ AN NINH CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA I- “AN NINH CON NGƯỜI” DƯỚI NHÃN QUAN “AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG” 1. An ninh truyền thống Trước khi có toàn cầu hóa, quan niệm về an ninh chủ yếu dựa trên quan niệm về an ninh quốc gia. Hầu hết các quan niệm đều cho rằng, an ninh chính trị và an ninh quân sự luôn là trọng tâm của an ninh quốc gia. Hệ thống quan hệ quốc tế lấy quốc gia làm “thực thể đơn nhất”; chính phủ, quốc dân, lãnh thổ và chủ quyền là nhân tố, tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá quốc gia có tồn tại hay không và liệu có được quốc tế thừa nhận hay không. Hạt nhân của an ninh quốc gia chính là lợi ích quốc gia và chủ quyền quốc gia; an ninh chính trị và an ninh quân sự. Tiêu chuẩn cơ bản đánh giá quốc 40 gia có an ninh hay không chính là có bảo đảm được các hạt nhân nêu trên hay không. Sự thay đổi trật tự thế giới bắt nguồn từ sự thay đổi trong so sánh lực lượng, sự tăng lên hay giảm xuống của địa vị và ảnh hưởng quốc tế giữa các quốc gia; quốc lực mạnh hay yếu lại thể hiện ở sự mạnh hay yếu của thực lực kinh tế và quân sự. Do tính độc lập và bài ngoại của chủ quyền cũng như “trạng thái vô chính phủ quốc tế” của hệ thống quốc tế, nên xung đột lợi ích giữa các quốc gia là không thể tránh khỏi. Từ khi ra đời quốc gia dân tộc tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư bản đến nay, của cải lớn nhất của quốc gia là dân số và lãnh thổ, lợi ích lớn nhất mà an ninh quốc gia bảo vệ là bảo đảm lãnh thổ và quốc dân của mình không bị ngoại lai xâm phạm. Chính vì thế, đứng trước sự đe dọa và xâm nhập của nước khác, tăng cường xây dựng sức mạnh quân sự là việc đương nhiên của mỗi quốc gia. Về vị trí và tầm quan trọng của an ninh quân sự trong an ninh quốc gia, trường phái chủ nghĩa hiện thực trong chính trị học quốc tế, trên bình diện lý luận đã có sự trình bày và phân tích sâu sắc rằng, quốc gia là chủ thể của hành vi của xã hội quốc tế; xã hội quốc tế thiếu hụt một cơ cấu quyền lực “siêu quốc gia” chí cao vô thượng, có thể điều hòa, ràng buộc quan hệ các nước. 41 Trong trạng thái chi phối của “vô chính phủ” và “luật rừng” trong xã hội quốc tế đó, thì quyền lực và thực lực là mấu chốt để lý giải quan hệ quốc tế, mục tiêu căn bản của tồn tại quốc gia chính là không ngừng tăng cường quyền lực và thực lực của mình để bảo vệ an ninh của mình. Vì thế, nội dung hạt nhân trong quan niệm an ninh quốc gia của trường phái chủ nghĩa hiện thực chính là bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích quốc gia. An ninh quốc gia chịu sự uy hiếp đến từ nước khác, vấn đề an ninh và vấn đề chiến tranh giữa các quốc gia, thủ đoạn giành được an ninh là sức mạnh quân sự1. Trên cơ sở nhận thức đó, trong thế kỷ XX, các cường quốc và một số nước lớn trong khu vực đều hết sức coi trọng việc phát triển sức mạnh quân sự của mình, đặt an ninh quân sự vào vị trí hàng đầu trong an ninh quốc gia. Như vậy, an ninh truyền thống chủ yếu dùng để chỉ những lợi ích, quan hệ cốt lõi liên quan chính trị và quân sự (thực chất là các vấn đề chính trị, bảo đảm vai trò chính quyền và vấn đề chủ quyền, lãnh ________________ 1. Xem Paul B.Starge: New Security Agenda: A Global Survey, Japan Centre for International Exchange, 1995, p.27. 42 thổ, bảo vệ đất nước trước các nguy cơ xâm phạm quân sự, bạo lực từ bên ngoài). Đối với một quốc gia, an ninh có thể bao gồm hàm nghĩa đối ngoại, cũng có thể bao gồm cả hai mặt công việc nội bộ và công việc quốc tế. Khi mở rộng khái niệm này, thì một quốc gia gặp phải tai họa tự nhiên nghiêm trọng, bị phong tỏa kinh tế và cấm vận kinh tế, có một bộ phận dân cư đói rét triền miên, hoặc vô gia cư, ở trong tình trạng mù chữ hoặc nghèo khó, bệnh tật triền miên hoặc bị chìm đắm trong ma túy, lo sợ bị cướp bóc hay tấn công, không thể bảo đảm sức khỏe và việc chữa bệnh cơ bản, hoặc gặp phải sự xâm hại nghiêm trọng của môi trường. Tất cả những cái đó cũng như sự xâm lược của bên ngoài, đều là mất an ninh. Do quốc gia là tổng thể của lợi ích, cho nên bảo vệ an ninh quốc gia có thể đề cập nhiều vấn đề khác, có thể là vấn đề quân sự, cũng có thể là vấn đề chính trị, kinh tế, dân số, môi trường, v.v.. Có thể khái lược trên một số lĩnh vực chủ yếu sau đây: An ninh quân sự liên quan đến sự cảm nhận về tồn tại của các mối đe dọa, tấn công, xâm lược của các lực lượng quân sự đối địch làm tổn hại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia 43 và khả năng của quốc gia có thể đối phó với các hiểm họa đó. An ninh chính trị liên quan đến sự ổn định chính trị, sự tồn tại của các thiết chế chính trị, hệ thống nhà nước và các ý thức hệ là nền tảng tư tưởng của quốc gia. An ninh chính trị không chỉ phụ thuộc vào giới lãnh đạo chính trị mà còn phụ thuộc vào yêu cầu của quá trình phát triển và ý chí của người dân. Yếu tố bất ổn về kinh tế, xã hội sẽ làm cho an ninh chính trị yếu đi. Tuy nhiên, ngay trong lòng hệ thống chính trị, thể chế chính trị luôn ẩn chứa những nhân tố gây mất lòng tin của dân chúng và sẽ dẫn tới gây mất an ninh chính trị. Để có được an ninh chính trị phải thực thi tổng hợp các yếu tố tiến bộ từ kinh tế, xã hội, tổ chức chuyên chính tới bản thân các chính trị gia và thể chế chính trị. An ninh chính trị không thể bảo đảm chỉ bằng các biện pháp mang tính hành chính và chuyên chế, cụ thể hơn là không thể được bảo đảm chỉ bằng các hành vi chính trị. An ninh kinh tế liên quan đến khả năng tiếp cận các nguồn lực, tài chính, thị trường cần thiết bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, phúc lợi của nhân dân và sức mạnh của nhà nước, bảo đảm có thể ngăn ngừa và đối phó có hiệu quả với những biến 44 động của môi trường trong nước và quốc tế, góp phần đắc lực giữ vững ổn định an ninh chính trị - xã hội và tăng cường khả năng quốc phòng. Nói cách khác, an ninh kinh tế là bảo vệ, giữ vững và làm cho các hoạt động kinh tế của quốc gia diễn ra trong trật tự, an toàn và có hiệu quả. An ninh kinh tế quốc gia có quan hệ mật thiết với an ninh kinh tế toàn cầu. Chính vì thế mà khi nền kinh tế Hy Lạp đứng bên bờ vực sụp đổ vì khủng hoảng nợ công, thì lập tức các nước lớn châu Âu đã phải họp bàn để tìm ra cách “cứu”. Điều đó có nghĩa là an ninh kinh tế còn chịu nhiều tác động bởi các yếu tố chính trị và hiểu biết của con người. An ninh năng lượng là một trong những nội dung cơ bản của an ninh kinh tế. Nó có bản chất là cung cấp đầy đủ năng lượng cho các hoạt động kinh tế, an ninh quốc phòng của quốc gia trong mọi tình huống để góp phần làm cho nền kinh tế - xã hội diễn ra bình thường và có hiệu quả. An ninh lương thực là một trong những nội dung cơ bản của an ninh kinh tế. Bản chất của nó là cung cấp đầy đủ lương thực cho người dân trong mọi tình huống của quốc gia, góp phần làm cho công cuộc phát triển đất nước diễn ra trong bối cảnh thuận lợi. Nhiều quốc gia kiên quyết duy trì diện tích trồng 45 cây lương thực, dự trữ lương thực với mức cần thiết để có được an ninh lương thực. Một số chuyên gia đã cảnh báo rằng, năm 2050, dân số thế giới khoảng trên 10 tỷ người và nếu cứ duy trì trình độ công nghệ canh tác, bảo quản, chế biến như hiện nay thì sẽ không đủ lương thực để cung cấp cho con người trên hành tinh này. Xu thế thiếu thốn lương thực là không thể tránh khỏi nếu con người thiếu trách nhiệm trong lĩnh vực phát triển lương thực và tăng dân số như hiện nay. Do đó, kiểm soát tăng dân số và phát triển lương thực dựa trên nền tảng công nghệ sinh học - gen là hai vấn đề mang ý nghĩa chiến lược đối với an ninh lương thực. An ninh xã hội gắn với sự duy trì bảo vệ hợp lý và phù hợp với tiến trình phát triển các giá trị cơ bản của cộng đồng các dân tộc trong mỗi quốc gia như ngôn ngữ, tôn giáo, truyền thống văn hóa, bản sắc dân tộc, phong tục tập quán. An ninh môi trường liên quan đến việc duy trì và bảo vệ hệ thống sinh thái, môi trường bảo đảm cho con người có thể sống yên ổn và hoạt động bình thường. An ninh nguồn nước liên quan đến việc bảo đảm nguồn cung cấp nước cho sự phát triển của sản xuất và dân sinh của quốc gia trong mọi tình huống. An ninh nước là loại an ninh quan trọng không kém 46 so với các loại an ninh khác. Hiện nay, nguồn nước ngọt trên thế giới đang có nguy cơ cạn kiệt dần cùng với quá trình nóng lên của bầu khí quyển. Các chuyên gia kinh tế dự báo, nhiệt độ trung bình thế giới tăng thêm 2 độ sẽ kéo theo mức chi phí với khoảng 70-100 tỷ USD mỗi năm, trong đó khoảng trên 20 tỷ USD liên quan đến việc sử dụng nước. Hiện đang có nhiều nơi trên thế giới đã lâm vào tình trạng thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt của cư dân; nên thiếu nước đã trở thành vấn đề nóng của thế giới; và Việt Nam không nằm ngoài tình trạng đó. An ninh con người liên quan đến sự bảo vệ các quyền của con người chống lại những vi phạm từ phía nhà nước hay xã hội. Trên đây là sự khái quát một số lĩnh vực an ninh cơ bản mang tính chất truyền thống. Tuy nhiên, từ sự gia tăng rủi ro trong toàn cầu hóa đã làm xuất hiện những mối đe dọa mới đối với an ninh con người. 2. Rủi ro và phân loại các nhóm rủi ro cơ bản đe dọa an ninh con người trong toàn cầu hóa Rủi ro (risk) là sự không may mắn, sự tổn thất, mất mát, nguy hiểm bất ngờ xảy đến. Đó có thể là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến (đối với kinh tế học). 47 Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp1. Theo Từ điển Oxford English Dictionary, “rủi ro” được dùng với nghĩa tương đương như “nguy cơ”. Đó là khả năng bị mất mát, tổn thương hoặc những hoàn cảnh bất lợi hoặc không mong muốn xảy ra2. Một cách tổng quát, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Rủi ro (risk) có thể đo lường được. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai3. Rủi ro có thể hiện diện ở bất cứ lĩnh vực nào trong đời sống con người từ kinh tế, chính trị, y tế, an ninh, sức khoẻ, môi trường... Ulrich Beck là chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về rủi ro hiện nay; ông cũng là người đưa ra thuật ngữ “xã hội rủi ro” (Rick Society) để mô tả tình trạng ________________ 1, 3. Website: http://vi.wikipedia.org/wiki/R%E1%BB%A7i_ro. 2. Website: http:en.wikipedia.org/wiki/Risk. 48 của con người trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay. Theo ông, trong xã hội hiện đại, khi con người đón nhận càng nhiều cơ hội cho sự phát triển của cá nhân và cộng đồng của mình, thì đồng thời cũng phải đối mặt với ngày càng nhiều rủi ro trong cuộc sống, liên quan đến việc lựa chọn các cơ hội nói trên. Ở đây tồn tại một quy luật: Càng xuất hiện nhiều cơ hội bao nhiêu thì càng có bấy nhiêu rủi ro đi kèm. Phân phối phúc lợi xã hội luôn đi kèm với phân phối rủi ro. Theo Ulrich Beck, “xã hội rủi ro” mang những đặc trưng cơ bản sau1: (1) Rủi ro đe dọa tất cả mọi người Khác với những xã hội “tiền - hiện đại” và xã hội “công nghiệp cổ điển”, các nguy cơ của xã hội hiện nay không dễ dàng nhận diện, khó lường tính và gây ra ảnh hưởng lâu dài đến các thế hệ tương lai - Cụ thể như nguy cơ phóng xạ, ô nhiễm nguồn nước, phá hủy môi trường sống, biến đổi gen... Đây là những nguy cơ lớn do chính con người tạo ra, nhưng lại không có thủ phạm cụ thể để truy cứu, và cũng khó xử lý vì chúng không thể khắc phục được bằng tiền bạc hay bằng các đền bù bảo hiểm. ________________ 1. Xem Ulrich Beck: World at Rick, Polity Press, 1992. 49 Trong xã hội công nghiệp cổ điển, những rủi ro đến từ nền kinh tế khan hiếm thường hiện diện dưới dạng tình trạng bóc lột, nghèo đói, bất công... Theo đó, những người có nhiều của cải sẽ ít gặp rủi ro hơn so với những người nghèo. Nhưng trong xã hội ngày nay, rủi ro dường như không đếm xỉa đến sự phân ranh giới giai cấp: người giàu, kẻ mạnh cũng không thoát nạn. “Sự túng quẫn thì có tính đẳng cấp, còn sự ô nhiễm thì... dân chủ!”. (2) Rủi ro mang tính xuyên quốc gia Các rủi ro vượt ra khỏi ranh giới quốc gia. Rủi ro trở thành “rủi ro toàn cầu” (ô nhiễm môi trường là một ví dụ). Khi khoác lên bản thân tính chất xuyên quốc gia, các rủi ro cũng đồng thời dần trở nên “miễn dịch” đối với tình trạng an toàn do tài sản mang lại. Điều vừa đề cập vốn đã đúng trong các xã hội đói kém thì nay không còn đúng nữa. Nói cách khác, việc ai đó sở hữu một khối tài sản lớn không đồng nghĩa với việc anh ta cũng có được một trạng thái an ninh cũng lớn tương ứng như vậy. Những người có tài sản vẫn không thể thoát khỏi hiểm họa ung thư, nhiễm độc môi trường, những cơn bất ổn tài chính đến từ một nơi nào đó ở địa cầu nhưng lại cuốn sạch tài sản của họ... Có một điểm giống nhau giữa “người giàu” và “người nghèo” trong xã hội đang được toàn cầu hóa như hiện nay là: 50 Tất cả đều phải đối mặt với “tính bất định”, “tính không thể kiểm soát” của các sự kiện trong đời sống cá nhân; và do đó, tất cả đều phải đối mặt với tình trạng lo âu và bất ổn. Ước mơ của xã hội đói kém là ai cũng muốn và cần giành được một phần của chiếc bánh. Còn ước mơ của các xã hội hiện nay là làm sao cho mình tránh khỏi tai nạn và sự đầu độc1. Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, hiệu ứng “boomerang” (loại vũ khí khi ném đi sẽ quay ngược trở lại để người ném thu hồi) sẽ còn trầm trọng hơn ở các quốc gia đang phát triển, khi cơ chế phòng vệ của những nước này còn yếu kém, các chính sách dễ dàng bị biến dạng và bị vô hiệu hóa bởi nạn tham nhũng và sự lũng đoạn của các nhóm lợi ích. Vô tình hay cố ý, các quốc gia này đang tự biến mình thành bãi rác của các nước phát triển2. Xuất phát từ “lý thuyết xã hội rủi ro”, Ulrich Beck cho rằng, chúng ta cần nỗ lực để tìm ra phương thức kiểm soát rủi ro trong bối cảnh mới (toàn cầu hóa)3. Để làm được điều này cần tuân theo ba nguyên tắc ________________ 1, 3. Xem Ulrich Beck: World at rick, Polity Press, 1992, p.23. 2. Bùi Văn Nam Sơn: “Xã hội nguy cơ: Sống trong sợ hãi”, 2010, http://vietsciences.free.fr/vietnam/donggopxaydung/xahoi nguyc.htm. 51 cơ bản: (1) Không làm gia tăng thêm rủi ro; (2) Nếu không lường tính được kết quả của rủi ro thì không hành động; (3) Các vấn đề toàn cầu phải cần các giải pháp toàn cầu. Cùng với tiến trình phát triển lịch sử, nhân loại đã lần lượt nếm trải những trạng thái rủi ro đi từ các cấp độ: “cá nhân”, “xã hội”, và bây giờ là “toàn cầu”. Trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự gia tăng của những mối đe dọa và rủi ro như: sự phá hủy môi trường, khủng hoảng tài chính, chủ nghĩa khủng bố, xung đột bạo lực... đang đe dọa trực tiếp hoặc gián tiếp đến an ninh con người. Về cơ bản, có thể phân rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa thành những nhóm lớn như sau: • Nhóm rủi ro về môi trường Khi tiến hành làm giàu, tạo ra của cải, để ít phải hứng chịu rủi ro hơn, con người đã tiến hành phá hoại môi trường một cách có hệ thống. Cụ thể là, chất thải và khí thải công nghiệp đang bào mòn tầng ôzôn và gây ra hiệu ứng nhà kính. Một hậu quả đe dọa sinh mạng của tất cả, mà không có sự giàu có nào có thể cứu vãn. Hóa ra, con người chúng ta khi hành động để thực hiện điều mong muốn, lại đang tạo ra những hậu quả chống lại mục tiêu ban đầu ấy. Trong triết học, tình trạng đó được khái quát bằng khái 52 niệm “tha hóa”; còn trong ngôn ngữ hiện đại, người ta gọi đó là hiệu ứng “boomerang”. Một điểm đáng lo ngại là, dưới góc nhìn đơn lẻ của cá nhân hay của một cộng đồng, thậm chí một quốc gia - tình trạng tha hóa này bị che giấu. Nó chỉ phát lộ rõ ràng dưới cái nhìn toàn cầu. Thế nên, mặc dù đã có các cảnh báo về sự xuống cấp của môi trường, về sự biến đổi khí hậu bất lợi, về tình trạng nước biển dâng... nhưng đối với mỗi cá nhân, thậm chí mỗi quốc gia hiểm họa đó dường như còn quá xa vời; và do đó, họ vẫn có thể tiếp tục hành động như cũ - vì sự tiện nghi và giàu có. Tâm lý đó đã lý giải vì sao, cho đến tận hôm nay, các quốc gia vẫn chưa thể nhất trí được với nhau về một kế hoạch bảo vệ môi trường ở cấp độ toàn cầu, sau khi Nghị định thư Kyoto chấm dứt. Và tâm lý đó cũng giúp giải thích vì sao các doanh nghiệp và cả người dân chúng ta - khi theo đuổi lợi ích cũng như sự tiện lợi của mình luôn sẵn sàng đặt vấn đề môi trường sang một bên. Chẳng hạn, mọi người đều biết lượng điôxítcácbon thải ra từ các máy làm lạnh là một trong những thủ phạm quan trọng làm mỏng tầng ôzôn. Song mối đe dọa đó dường như quá xa vời so với việc chúng ta đang phải chịu đựng trực tiếp cái nóng của mùa hè nhiệt đới. 53 • Nhóm rủi ro kinh tế toàn cầu Hiện nay, vì mục tiêu phát triển, các quốc gia buộc phải hội nhập vào đời sống kinh tế toàn cầu và hình thành nên thị trường toàn cầu. Điều đó khiến sự phụ thuộc vào nhau về mặt kinh tế tăng lên. Vốn trước đây (trước khi hội nhập) các quốc gia có thể kiểm soát được nền kinh tế của mình nhờ đường biên giới và hoạt động thuế quan, nhưng nay không gian của nền kinh tế quốc dân đã vượt ra khỏi giới hạn lãnh thổ. Vì vậy, sự quản lý, can thiệp, điều tiết của nhà nước vào nền kinh tế sẽ trở nên khó khăn hơn. Minh chứng cho thực tế này là khủng hoảng kinh tế xảy ra ở một quốc gia nào đó có thể dẫn đến đổ vỡ kinh tế ở hàng loạt quốc gia khác (hiệu ứng đôminô), thậm chí còn tạo thành các mối đe dọa chính trị mang tính toàn cầu. Các dòng tài chính hiện nay đang chảy trên khắp địa cầu, mang tính xuyên quốc gia là nhân tố khó kiểm soát nhất trong nền kinh tế thế giới. Việc khủng hoảng tài chính bùng phát từ một quốc gia rồi lan rộng sang nước khác không còn là điều lạ lẫm. Hiệu ứng “đôminô” tài chính năm 1979 (sau 8 năm thực thi chế độ tỷ giá thả nổi) đã bắt đầu từ Mỹ - “quê hương” của chủ nghĩa tự do mới - làm hàng loạt ngân hàng lớn của Mỹ phá sản, và kéo theo sự sụp đổ từng mảng những ngân hàng tín dụng tư 54 nhân tại các nước phát triển. Cho đến tận năm 1982, gần một nửa số nước phát triển vẫn còn ở tình trạng suy thoái trầm trọng và kéo dài1. Một trường hợp nữa là cơn bão phá giá đồng Bath Thái Lan vào tháng 7/1997 đã khiến hầu như toàn bộ các quốc gia Nam Á vào cơn lốc suy thoái với chỉ số tăng trưởng âm. Mặc dù là cơn khủng hoảng “Đông Á”, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền rộng khắp và gây nên khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Braxin và Hoa Kỳ. Gần đây nhất, khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đầu năm 2010 không chỉ làm tê liệt nền kinh tế, tài chính Hy Lạp mà còn kéo theo sự khủng hoảng nợ công của toàn bộ châu Âu, mà cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi tích cực. Có thể thấy, rủi ro không chỉ đến với người làm ra nó mà còn cả những người không làm ra nó nữa. Tình hình này khiến mối nguy hiểm ở cấp độ toàn cầu tăng lên, và cho đến nay chưa có được phương pháp kiểm soát hữu hiệu từ phía các chính phủ. • Nhóm rủi ro khủng bố toàn cầu Hiện nay, toàn cầu hóa đang đem lại sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, theo nghĩa là, một ________________ 1. Xem Ulrich Beck: Rick Society, Polity Press, 1992, p.355. 55 biến cố xảy ra tại nước này sẽ gây phản ứng lây lan sang nước khác. Những rủi ro xảy ra không còn đóng khung trong phạm vi “bên trong” đường biên giới của mỗi quốc gia, mà còn gây ra những biến đổi cho cả “bên ngoài”, mang tính xuyên quốc gia. Chủ nghĩa khủng bố hiện nay là một minh chứng cho sự thật ấy. Trong toàn cầu hóa, chủ nghĩa khủng bố mang màu sắc ly khai sắc tộc là kẻ thù chung, bởi nó đe dọa an ninh, hòa bình, an toàn của nhân loại. Toàn cầu hóa đang “nối dài” những cơ hội cho chủ nghĩa khủng bố xuyên quốc gia, từ mạng lưới công nghệ thông tin toàn cầu, đến đội quân thánh chiến đến từ nhiều quốc gia trên thế giới, hay nguồn tài lực xuyên quốc gia... Hiện nay, chủ nghĩa khủng bố Islam giáo đã nổ ra trên toàn cầu, bao gồm ở Ấn Độ, Ôxtrâylia, châu Phi, Trung Đông, châu Âu, Đông Nam Á, Nam Á, Nam Mỹ, Thái Bình Dương và Bắc Mỹ. Riêng ở khu vực châu Á, đã có hàng nghìn người cực đoan đang đến chiến trường Xyri, trong đó có hàng trăm người đến từ khu vực Đông Nam Á. Nguy hiểm hơn là, các chiến binh trở về từ Xyri và Irắc có khả năng liên kết với những nhóm khủng bố của khu vực như Mujahidin Indonesia Timur và phe Jemaah Ansharud (JAT) của Jemaah Islamiah. Vì vậy, giờ đây các tổ chức khủng 56 bố này tiếp tục là mối nguy hại cho khu vực Đông Nam Á nói riêng, thế giới nói chung. Nếu cách đây chỉ hai thập kỷ, các tác nhân (hay những phần tử gây ra bất ổn cho nhà nước) này được coi là “vô chính phủ”1, thì nay, toàn cầu hóa đã gia tăng các cơ hội để tác nhân vô chính phủ đó thành lập nhà nước (dù là nhà nước tự xưng). Nguy cơ trên không chỉ đe dọa an ninh con người nói chung, mà còn phá vỡ độc quyền nhà nước về vũ lực. Trên thực tế, các quốc gia đang đứng trước ngưỡng cửa của quá trình cá thể hóa chiến tranh, theo đó, không chỉ các quốc gia mà cả những cá nhân cũng có thể tiến hành “chiến tranh” chống các quốc gia2. Trường hợp IS (Nhà nước Hồi giáo tự xưng) là một ví dụ điển hình. Chủ nghĩa khủng bố Islam giáo nói chung, biến thể mới của nó là Nhà nước Hồi giáo tự xưng nói riêng là “quái trạng” của xã hội, là một mối đe dọa không chỉ cho những tín đồ Islam giáo chân chính mà còn tạo ra cuộc khủng hoảng toàn cầu. Tổ chức khủng bố này với xuất phát điểm và sự cực đoan, tàn khốc, man rợ, đang hiện thân cho nỗi kinh hoàng, đe dọa sự an toàn của tất cả những tín đồ trong và ________________ 1, 2. Xem Ulrich Beck: Rick Society, Polity Press, 1992, pp.216, 218. 57 ngoài Islam giáo1. Vì vậy, chủ nghĩa khủng bố Islam giáo được xếp vào chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Đứng trước những xung đột, hiểm họa chết người của chủ nghĩa khủng bố toàn cầu, không một quốc gia nào trên thế giới, cho dù là “siêu cường”, lại có thể bảo đảm được an ninh con người cho quốc gia của mình nếu chỉ “đơn thương độc mã” dựa vào sức mạnh của bản thân. Vì những rủi ro do chủ nghĩa khủng bố gây ra mang tính toàn cầu, nên việc ngăn chặn chúng đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của các quốc gia. Trong thời gian gần đây Chương trình chống chủ nghĩa khủng bố toàn cầu được đồng thời diễn ra ở các quốc gia, khu vực với các cấp độ khác nhau. Tại Xingapo, tháng 11/2011 đã diễn ra cuộc Hội thảo “Chống tài trợ khủng bố”. Mục đích của Hội thảo là nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng chống tài trợ cho khủng bố và vai trò quan trọng của những đối tượng sẽ tham gia vào công việc này, kể cả chính phủ lẫn khu vực tư nhân. Trong diễn biến mới nhất, tại Hội nghị Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 132 (IPU-132) ________________ 1. Xem Lương Thị Thu Hường: “Chủ nghĩa Islam khủng bố và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (1), 2015, tr.62. 58 diễn ra tại Việt Nam, các nhà hoạch định chính trị cũng bày tỏ quan ngại sâu sắc vì chủ nghĩa khủng bố đang đe dọa hòa bình và an ninh thế giới. Cùng thời gian này, trong Hội nghị chống khủng bố tại Xingapo diễn ra vào tháng 3/2015, các chuyên gia an ninh đã cảnh báo rằng “Nhà nước Hồi giáo tự xưng” đang tăng cường các hoạt động ở bên ngoài và tranh thủ sự ủng hộ ở Đông Nam Á. Trong Hội nghị an ninh châu Á toàn cầu (05/3/2015), Giáo sư Rohan Gunaratna, người đứng đầu Trung tâm Nghiên cứu khủng bố và bạo lực chính trị quốc tế của Xingapo (ICPVTR) nhấn mạnh rằng, IS đang kiểm soát những mỏ dầu và ngân hàng trong những khu vực mà chúng khống chế. Do đó, rất có khả năng chúng sẽ bơm tiền vào các cuộc tấn công toàn cầu giống như tổ chức Al-Qaeda đã từng thực hiện cách đây một thập kỷ1. Tóm lại, ba nhóm rủi ro trên cho thấy, con người trước đây vốn chủ yếu là nạn nhân của nền kinh tế đói kém và các nguy cơ chủ yếu đến từ các thảm họa tự nhiên, thì ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, con người thường trở thành nạn nhân của những ________________ 1. Website: http://phapluattp.vn/the-gioi/is-bat-dau-de-mat o-dong-nam-a-534783.html. 59 nguy cơ do chính mình gây ra. Kể cả những bất trắc do thiên tai cũng có sự đóng góp không nhỏ của bàn tay con người1. Điều này càng cho thấy sự cần thiết có một chính sách an ninh mới, một tầm nhìn mới, một khả năng kiểm soát mới - nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu, phòng tránh những nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra đe dọa an ninh con người nói chung, an ninh của các nhà nước nói riêng. Để hạn chế những rủi ro này, hiện nay, các quốc gia không thể sử dụng thuần túy phương thức an ninh truyền thống. Chính việc rủi ro đạt đến cấp độ toàn cầu như hiện nay - là cơ sở hiện thực cho sự xuất hiện của một loại quan niệm mới về an ninh - an ninh phi truyền thống. Trong chính sách an ninh mới này, sự hiện diện của các chủ thể mới như thị trường và các tổ chức xã hội với tư cách là những nhân tố hợp tác cùng chia sẻ gánh nặng với nhà nước trong hoạt động bảo vệ an ninh chung (an ninh con người) - là một đòi hỏi tất yếu. ________________ 1. Bùi Văn Nam Sơn: “Xã hội nguy cơ: Sống trong sợ hãi”, 2010, http://vietsciences.free.fr/vietnam/donggopxaydung/xahoi nguyco.htm. 60 3. An ninh phi truyền thống Đứng trước quá trình tha hóa của hành vi con người - cái dẫn đến những rủi ro toàn cầu như hiện nay, tư duy về an ninh theo lối cũ đã tỏ ra không đầy đủ và không phù hợp. Giới học thuật và chính giới hiện nay đang chuyển mối quan tâm về an ninh của mình đến một quan niệm mới mẻ hơn và cũng tỏ ra tương hợp hơn với bối cảnh toàn cầu hóa - “An ninh phi truyền thống”. “An ninh phi truyền thống” trong tiếng Anh là Nontraditional Security. Trong những tác phẩm và bài viết của các nhà nghiên cứu phương Tây có lúc cũng dùng những từ như: an ninh phi thường quy (Unconventional Security); uy hiếp phi truyền thống (Nontraditional Threat); vấn đề phi truyền thống (Nontraditional Issues) và uy hiếp mới (New Threat); an ninh mới (New Security). Quan niệm về an ninh phi truyền thống nhấn mạnh rằng, an ninh quốc gia tuy vẫn quan trọng nhưng không phải là duy nhất; không nên hiểu an ninh quốc gia đơn thuần là việc ngăn chặn những mối đe dọa đến từ các chủ thể chính trị và quân sự. Như đã đề cập, không chỉ các nhân tố chính trị hay quân sự mới có năng lực uy hiếp an ninh quốc gia, mà còn có nhiều nhân tố phi chính trị và phi 61 quân sự khác cũng có khả năng gây ra tổn hại cho các quốc gia; chẳng hạn như: nhân tố môi trường, tài chính, di cư, dịch bệnh, khủng bố... Khái niệm an ninh phi truyền thống chính là đề cập đến những nhân tố phi chính trị và phi quân sự đó. Nói cách khác, vấn đề an ninh phi truyền thống nảy sinh trên cơ sở nhận thức về những hiểm họa, rủi ro đến từ các nhân tố phi chính trị, phi quân sự, xuyên quốc gia hiện nay. Các nhân tố xuyên quốc gia này có thể gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp và uy hiếp đến sự phát triển, ổn định của các quốc gia, khu vực và toàn cầu. Hiện vẫn chưa có sự nhất trí về sự phân biệt và mối quan hệ giữa an ninh truyền thống với an ninh phi truyền thống (an ninh mới), trong giới nghiên cứu. Có quan điểm cho rằng, an ninh truyền thống lấy an ninh quốc gia làm trọng, còn an ninh phi truyền thống (an ninh mới) lấy an ninh nhân loại làm trọng. Một quan điểm khác lại cho rằng, an ninh phi truyền thống bao hàm cả an ninh quốc gia và an ninh con người. Vũ Thị Tuyết Loan cho rằng, an ninh truyền thống lấy nhà nước làm đơn vị, chủ yếu đề cập đến những quan hệ chính trị, tương quan sức mạnh quân sự giữa các nước. Còn an ninh phi truyền thống dùng để chỉ những vấn đề vượt ra ngoài các 62 mối quan hệ trên... An ninh ngày nay phải được hiểu một cách toàn diện, đa chiều, không chỉ an ninh quân sự hay quốc phòng. Nền an ninh bao hàm cả an ninh bên trong lẫn an ninh bên ngoài quốc gia, phải tính đến sự phát triển kinh tế, sự bình ổn chính trị trong nước, tiến bộ và phát triển con người1. Luận điểm này cũng được tìm thấy trong các công trình của Bùi Trường Giang2, Hà Mỹ Hương3. Các quan niệm trên, mặc dù còn một số điểm khác nhau nhưng về cơ bản đều thống nhất khi cho rằng: An ninh phi truyền thống là sự mở rộng của phạm trù an ninh truyền thống. Nó phản ánh những hiểm họa, rủi ro mới xuất hiện trong những thập kỷ gần đây, gây ảnh hưởng tới cá nhân, cộng đồng, quốc gia, khu vực và toàn cầu. Nếu an ninh truyền thống coi sự an toàn của quốc gia là tối thượng, lấy ổn định chính trị và quân sự ________________ 1. Xem Vũ Tuyết Loan: “An ninh phi truyền thống ở châu Á - Thái Bình Dương: Vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản (23), 2006, tr.66-70. 2. Xem Bùi Trường Giang: “Chủ đề an ninh phi truyền thống và định hướng tham gia của Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới (5), 2006, tr.25-33. 3. Xem Hà Mỹ Hương: “An ninh Đông Nam Á trong chiến lược của Mỹ”, Tạp chí Cộng sản (17), 2007, tr.108-111. 63 làm mục tiêu chính; lấy phương thức vũ lực hoặc chiến tranh để bảo vệ an ninh quốc gia... thì an ninh phi truyền thống không chỉ xác định đối tượng cần bảo vệ là chủ thể quốc gia, mà còn mở rộng phạm vi bảo vệ, để bao hàm cả cá nhân, cộng đồng, cho đến khu vực và toàn cầu. Bên cạnh đó, nó không chỉ coi những tác nhân đe dọa an ninh là đến từ khu vực quân sự hay chính trị; mà tính đến cả những tác nhân đến từ thị trường, xã hội dân sự, giới tự nhiên, và đến từ những vấn đề toàn cầu. Như vậy, với an ninh truyền thống, quốc gia là đối tượng cần được bảo vệ cũng đồng thời là như chủ thể của hành vi bảo vệ; còn với an ninh phi truyền thống, cái mục tiêu xuyên suốt và suy cho cùng, chính là bảo vệ con người. Luận điểm này, đã chỉ rõ rằng “an ninh truyền thống” chỉ là điều kiện “cần” nhưng chưa “đủ” trong bối cảnh toàn cầu hóa. An ninh phi truyền thống chỉ ra rằng, cho dù một quốc gia có giữ được trạng thái ổn định chính trị, không bạo loạn quân sự, thì điều đó cũng không giúp bảo đảm rằng, người dân của quốc gia đó được an toàn trước những tác động của các mối đe dọa xuyên biên giới. Đó mới chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ. Để xác định đúng trạng thái an ninh trong bối cảnh như hiện nay, người ta buộc phải trở về quan điểm “lấy 64 con người làm thước đo”. Do đó, khái niệm an ninh “phi truyền thống” chẳng những rộng hơn “truyền thống”, mà còn khác biệt bởi “thước đo” - tức là tiêu chí đánh giá. * Các đặc trưng của an ninh phi truyền thống: Thứ nhất, đối với an ninh phi truyền thống, tồn tại hai loại tác nhân gây tai họa là “bạo lực” và “phi bạo lực”. Loại bạo lực như: chủ nghĩa khủng bố, buôn lậu ma túy, tội phạm có tổ chức. Loại phi bạo lực như: ô nhiễm môi trường, khủng hoảng tài chính tiền tệ, bệnh dịch... Thứ hai, những tác nhân này mang tính xuyên quốc gia. Thứ ba, những tác nhân này uy hiếp trực tiếp sinh mệnh, đời sống của mọi cá nhân. Thứ tư, những tác nhân gây họa tạo ra phản ứng dây chuyền. Sự bất ổn ở một lĩnh vực nào đó có thể kích thích làm bùng phát bất ổn ở lĩnh vực khác. Chẳng hạn, một số vấn đề như dân tộc, tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố có thể kích thích lẫn nhau, tạo thành hiệu ứng nguy hại mang tính dây chuyền. Thứ năm, các tác nhân mang đặc tính “bùng phát từ bên trong” hoặc “lan tỏa ra bên ngoài”. Có những vấn đề tích lũy dần dần rồi bùng phát như môi trường, tôn giáo, dân tộc; có những vấn đề lan tràn 65 như bệnh dịch, khủng hoảng tài chính, chủ nghĩa khủng bố... Tóm lại, an ninh phi truyền thống là một loại hình an ninh mới xuất hiện do sự gia tăng của các tác nhân gây họa mang tính toàn cầu. Do đó, có thể hiểu “an ninh phi truyền thống” như sự mở rộng của “an ninh truyền thống” trong bối cảnh toàn cầu hóa. Mối quan hệ giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống là mối quan hệ hữu cơ, bổ sung lẫn nhau, nhưng dựa trên một thước đo mới “lấy con người làm trung tâm” mà không phải là “lấy nhà nước làm trung tâm”. II- AN NINH CON NGƯỜI - THƯỚC ĐO AN NINH TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA Dưới tác động của toàn cầu hóa, nhiều nước trên thế giới đang trải qua những biến động lớn. Một trong những hệ quả mà toàn cầu hóa đang gây ra là những ảnh hưởng mang tính xuyên biên giới khiến chính phủ của nhiều nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát các tác động bất lợi đối với nhân dân của họ. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, quan niệm về một xã hội được đóng khung trong biên giới quốc gia hiện đang gặp phải những thách 66 thức đáng kể. Bởi vì, các đường biên giới đang bị “bào mòn” và “đục thủng” bởi các dòng di cư, các luồng vật chất và tinh thần đang chu chuyển xuyên qua các rào cản biên giới. Những khái niệm mới như “biên giới mềm”, “không gian ảo”, “đời sống xuyên quốc gia”, “các tác nhân xuyên biên giới”... xuất hiện ngày càng nhiều. Sự xuất hiện của những khái niệm này đã phản ánh một thực tế là: cộng đồng cư dân trong mỗi quốc gia đang gặp phải nhiều xáo trộn về mặt cấu trúc do không gian sinh hoạt bị thay đổi; thành phần dân cư trở nên phức tạp hơn bởi các dòng người nhập cư. Bên cạnh đó, cộng đồng dân cư của mỗi quốc gia hiện nay đều phải chịu những tác động khó kiểm soát đến từ bên ngoài, chẳng hạn như khủng hoảng tài chính, dịch bệnh, chất thải... Tất cả những hiệu ứng mới như vậy, bất kể là “tốt” hay “xấu” đều có chung đặc tính là “khó đoán định” và “chính phủ không thể đứng ra giải quyết một cách đơn phương”. Đặc biệt là những hiệu ứng như vậy xuất hiện ngày càng nhiều. Giới nghiên cứu đã gọi hiện tượng này là “sự gia tăng các rủi ro mang tính xuyên biên giới”; và gọi những xã hội đang nếm trải hiệu ứng nói trên là “xã hội rủi ro”1. ________________ 1. Xem Ulrich Beck: Rick Society, Polity Press, 1992. 67 Đối mặt với những rủi ro mới này, các giải pháp an ninh truyền thống mà các quốc gia đã từng áp dụng trở nên kém hiệu quả; đòi hỏi phải có sự thay đổi về nhận thức cũng như hành động. Chỉ khi có được nhận thức đầy đủ về những vấn đề nói trên, các quốc gia mới có thể đưa ra những đối sách thích hợp nhằm bảo đảm an ninh cho cư dân của mình. Do hứng chịu những tác động khó kiểm soát đến từ toàn cầu hóa, cuộc sống của người dân trong phạm vi một quốc gia cũng đang phải đối mặt với những thách thức mới, đe dọa sự ổn định và thịnh vượng. Trong toàn cầu hóa, sự an toàn của người dân không chỉ bị chi phối bởi quốc gia - nơi họ đang sống; mà còn bị chi phối bởi những lực lượng đến từ toàn cầu hóa. Trên thực tế, mỗi quốc gia xây dựng cho mình những tiêu chí an ninh cụ thể, và dĩ nhiên là không giống nhau hoàn toàn, điều này tùy vào vị thế và thực lực của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Ở hoàn cảnh cụ thể và xác định, một quốc gia có thể đặt mục tiêu an ninh biên giới lãnh thổ lên hàng đầu; trong khi đối với quốc gia khác lại là an ninh lương thực hay an ninh năng lượng... Tuy nhiên, có một sự thật là đối với người dân ở khắp nơi trên thế giới, bất kể họ là công dân của nước nào, khát vọng về một trạng thái an toàn thân thể, thịnh vượng về 68 vật chất, phong phú về tinh thần, khát vọng về một môi trường mà ở đó các quyền cơ bản được tuân thủ luôn là nguyện vọng chung. Việc lấy mức độ thực thi nguyện vọng chung này làm thước đo an ninh là phù hợp trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi các yếu tố gây ảnh hưởng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Chẳng hạn, trong vòng một thập kỷ trở lại đây, việc các nước phát triển đầu tư vào nghiên cứu chất đốt hữu cơ từ ngũ cốc nhằm bảo vệ môi trường lại đe dọa đến an ninh lương thực của những nước đói nghèo. Điều đó đã chỉ ra rằng, các giải pháp an ninh đơn lẻ của từng quốc gia có thể dẫn đến hệ quả không mong muốn cho người dân của quốc gia khác. Bởi vậy, xét trong tổng thể để đánh giá đúng hiệu quả của các giải pháp an ninh, người ta cần quy chiếu về mức độ phụng sự con người của giải pháp an ninh đó. Theo đó thì “an ninh con người” trở thành “thước đo” của an ninh nói chung. Với cách tiếp cận trên, việc “bảo đảm an ninh quốc gia” buộc phải hàm chứa “bảo đảm an ninh con người” như một yêu cầu tất yếu. Sẽ không có quốc gia nào có được an ninh thật sự, khi người dân của quốc gia đó rơi vào tình trạng đói nghèo, khốn khó. Những chính phủ có thể đem lại cho đất nước của mình 69 trạng thái ổn định (theo nghĩa là không có chiến tranh), song mạng sống của người dân lại luôn bị đặt trong tình trạng bị đe dọa. Các vụ khủng bố gần đây ở một số nước như Mỹ, Pháp, Anh, Tây Ban Nha... là những minh chứng rõ ràng cho điều này. Do đó, sẽ không thể có an ninh đúng nghĩa trong những hoàn cảnh như vậy. Bảo đảm an ninh con người nghĩa là tạo ra hệ thống các điều kiện, môi trường, phương thức để con người lao động, cải tạo xã hội một cách tự giác và biến xã hội thành nơi con người thoả mãn những chân giá trị. Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập sâu rộng vào đời sống khu vực và quốc tế, nên việc nhận thức về an ninh trong tình hình mới, để trên cơ sở đó có những hành động phù hợp là một việc làm cấp thiết hiện nay. III- VẤN ĐỀ “CHỦ THỂ” BẢO ĐẢM/CUNG CẤP AN NINH CON NGƯỜI 1. Các chủ thể chính trong bảo đảm an ninh con người Trước thời điểm chiến tranh lạnh kết thúc, đã tồn tại quan niệm phổ biến cho rằng, nhà nước có trách nhiệm đối với an ninh và có trách nhiệm chống 70 lại bạo lực từ bên ngoài, thường là dưới hình thức ngoại xâm. Ở góc độ này, đối tượng cần được bảo vệ là chính nhà nước mà không phải là các cá nhân. Với giả định rằng, nếu nhà nước được bảo đảm an toàn thì các công dân của nó cũng vậy. Điều đó hàm ý là an ninh con người (công dân) sẽ phụ thuộc vào việc nhà nước duy trì được quyền lực và chức năng của nó đến mức nào. Bất cứ mối de dọa nào đối với nhà nước (cho dù đến từ bên ngoài hay từ bên trong) thì đều đồng nghĩa với việc công dân trở nên bất ổn tức là “mất an ninh”. Tuy nhiên, hiện nay, với sự tác động của toàn cầu hóa, sự gia tăng của những rủi ro, đặc biệt là sự gia tăng của các tác nhân xuyên biên giới đã và đang làm thay đổi quan niệm về an ninh và các chủ thể tham gia cung cấp an ninh con người. Cụ thể, các quan niệm về an ninh truyền thống với chủ thể cung cấp an ninh là nhà nước đang ngày càng tỏ ra hạn hẹp và trong nhiều tình huống không còn phù hợp. Hiện nay, một mình nhà nước không thể gánh vác toàn bộ trách nhiệm cung cấp dịch vụ an ninh cho người dân. Mặc dù nhà nước vẫn giữ vai trò là chủ thể cung cấp an ninh chính yếu, song trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nhà nước phải hợp tác với nhau và hợp tác với những nhân tố phi nhà nước mới có thể thực hiện 71 tốt chức năng này. Chẳng hạn, để chống lại nạn buôn thuốc phiện từ Côlômbia qua Mêhicô đến Mỹ, Chính phủ Mỹ phải hợp tác với Chính phủ Mêhicô để ngăn chặn đường dẫn, đồng thời, Chính phủ Mỹ và Mêhicô cũng phải hợp tác với Chính phủ Côlômbia ngăn chặn tận gốc nơi sản xuất thuốc phiện. Hay vấn đề di dân ở châu Âu; sự đe dọa của chủ nghĩa khủng bố (IS) sự nóng lên của trái đất trong thời gian gần đây đòi hỏi các nhà nước phải cùng đưa ra phương án giải quyết. Hiện nay, thị trường cũng có thể trở thành một trong những chủ thể cung cấp dịch vụ an ninh cho người dân. Nếu thị trường, mà đại diện cho nó là các doanh nghiệp tư nhân, vì lợi nhuận mà phớt lờ các trách nhiệm đối với môi trường và xã hội, thì khi đó lập tức sẽ xuất hiện những hiểm họa đe dọa sự an toàn của người dân, cho dù nhà nước có bảo vệ người dân đến thế nào đi chăng nữa. Vì trong tình huống đó, nhà nước không thể một mình đứng ra bình ổn giá cả, kìm hãm lạm phát, ngăn chặn các cơn khủng hoảng tài chính, hay can thiệp “thô bạo” vào các quy luật của thị trường. Bởi vậy, việc bản thân thị trường đứng ra chủ động xây dựng các cơ chế bảo vệ người tiêu dùng, cơ chế bình ổn giá cả, cơ chế tiên liệu và ngăn chặn các cuộc khủng hoảng 72 tài chính cũng đồng nghĩa với việc tham dự vào hoạt động cung ứng dịch vụ an ninh cho con người. Có thể thấy, ở nhiều nước, các doanh nghiệp tư nhân đang chia sẻ trách nhiệm cung ứng dịch vụ công như y tế, sức khỏe cộng đồng, môi trường... với nhà nước, một khi nhà nước mở đường bằng chính sách “xã hội hóa”. Như vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến an ninh con người không chỉ đến từ nhà nước và thị trường, mà còn nằm trong bản thân mỗi con người. Do đó, bản thân mỗi con người cũng phải là một chủ thể cung ứng an ninh cho chính mình. Quan điểm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” cũng chính là như vậy. Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, chúng ta đã chứng kiến sự tồn tại của nhiều tổ chức dân sự được hình thành để tự bảo vệ mình trước nạn cướp bóc, trước những thảm họa môi trường, thiên tai... Việc người dân có quyền tự đứng ra bảo đảm an ninh cho chính mình đã in sâu trong văn hóa pháp lý của các bang thuộc miền Tây nước Mỹ. Cho đến nay, âm hưởng của nó vẫn còn khi luật pháp ở những bang này vẫn duy trì quyền tự trang bị vũ khí của người dân. Ý thức về nhu cầu tự bảo vệ mình trước các căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, HIV... đã thúc đẩy hàng loạt tổ chức xã hội ra đời với mục tiêu giáo dục, 73 tuyên truyền, hỗ trợ về vật chất cũng như tinh thần nhằm ứng phó với những căn bệnh này. Một thí dụ khác - Liên hiệp tổ chức người tiêu dùng trên thế giới luôn khuyến khích người dân nên dùng các “sản phẩm xanh” - vì lý do môi trường; hoặc nên kiên quyết từ chối các mặt hàng được sản xuất ra từ sự bóc lột lao động trẻ em và sức lao động của tù nhân - vì lý do nhân đạo. Gần đây, BBC Panorama đã phát hiện ra một bí mật trên một dây chuyền sản xuất Iphone. Hãng Apple cho biết, họ coi trọng đặc biệt đến chuỗi cung ứng vật liệu thiếc bởi nó là một thành phần quan trọng để tạo ra những chiếc Iphone. Do đó, Chương trình này đã tìm đến chuỗi cung cấp nguyên liệu của Apple tại đảo Bangka, Inđônêxia, và phát hiện ra rằng, trên thực tế, những người làm việc ở đây đều đào mỏ bất hợp pháp. Tại đây, trẻ em phải đào mỏ bằng tay trong điều kiện cực kỳ nguy hiểm và có thể bị chôn sống bất cứ lúc nào khi các bức tường bằng cát hoặc bùn sụp đổ. Những sự thật này đã bị các chính phủ cũng như các công ty bỏ qua, và trong tình huống đó, xã hội đã phải đứng ra “tự cứu lấy mình” bằng sức mạnh của truyền thông và công luận. Hiện nay, công nghệ viễn thông không dây với công cụ Internet đã mang lại cho con người một sức 74 mạnh mới trong việc huy động sự ủng hộ về vật chất, kỹ thuật cũng như tinh thần... cho các chương trình “tự bảo vệ” của nó. Như vậy có thể thấy để có một trạng thái an ninh hiệu quả thì cả nhà nước, thị trường và con người (công dân) đều phải cùng vào cuộc. Nhu cầu này đã mở rộng phạm vi của chủ thể cung ứng và bảo đảm an ninh trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc cung ứng dịch vụ an ninh cho con người, các chủ thể nhà nước hay công ty có thể làm ăn tắc trách, hoặc bị chi phối bởi lợi ích nhóm, cục bộ... mà làm sai lệch đi bản chất của dịch vụ, thì khi đó, vấn đề “tiêu chí đo lường” an ninh con người được đặt ra. Hiện nay, các chủ thể cung ứng an ninh đã đi đến một nhận thức chung về tiêu chí đo lường đó là: quy chiếu về an ninh con người (bảo vệ các giá trị cốt lõi của con người). Với tiêu chí này, mọi lý do bao biện cho các hành vi độc tài, vi phạm nhân quyền, diệt chủng, hoặc xâm hại thân thể và nhân phẩm con người... nhân danh bất cứ lý tưởng hay mục tiêu “cao cả”, hay “lợi ích” nào... đều không có giá trị. Những kẻ cuồng tín của Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) cũng tự tuyên bố về hành vi dã man của chúng là hành vi bảo vệ tín đồ Hồi giáo trước nạn 75 xâm thực của văn hóa phương Tây. Và với lôgic ấy, việc tàn sát những cộng đồng tôn giáo khác được luận giải thành hành vi cung ứng “an ninh” cho người Hồi. Tuy nhiên, những luận điệu kiểu như vậy sẽ chấm dứt khi gặp phải thước đo “an ninh con người”. Theo đó, sự biến đổi an ninh con người trong bối cảnh toàn cầu hóa không chỉ bao hàm việc xuất hiện những chủ thể mới, mà còn bao gồm cả việc thay đổi thước đo. 2. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm an ninh con người Để đảm bảo an ninh con người, các nhà nước cũng như các xã hội phải tạo ra được môi trường chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự, văn hóa, sinh thái... sao cho những quyền nói trên được bảo toàn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nếu chỉ nhà nước đứng ra làm điều này thì rõ ràng là không đủ. An ninh con người không phải là một trạng thái trừu tượng, chung chung, mà nó gắn với sự an toàn của từng cá nhân cụ thể trong xã hội. Do đó, mỗi cá nhân cùng cộng đồng nơi mà cá nhân đó sinh sống - trước hết phải có trách nhiệm với an ninh của chính mình. 76 Việc ủy quyền của các cá nhân cho nhà nước trong việc bảo đảm an ninh là cách làm phổ biến trước đó trong lịch sử. Trình tự lôgic ở đây là: các cá nhân (người dân) bầu ra người đại diện; người đại diện bầu ra chính phủ; chính phủ thực thi quyền lực với sự hậu thuẫn của pháp luật và sức mạnh cưỡng chế - nhằm bảo vệ các quyền của cử tri (những người dân đã bầu ra nó). Nhưng thực tế hiện nay cho thấy, nhiều nhà nước khi theo đuổi mục tiêu của mình đã bỏ qua hoặc phớt lờ mục tiêu tối hậu là an ninh của chính những con người đã dựng lên nhà nước. Chẳng hạn, trong Báo cáo năm 2003 của Ủy ban An ninh con người có lưu ý đến điểm này khi bàn về cuộc chiến chống khủng bố hiện nay. Nhiều nhà nước đã nhân danh mục tiêu chống khủng bố mà xem nhẹ hoặc vi phạm những quyền cơ bản của người dân, chẳng hạn như quyền riêng tư, quyền tự do đi lại, quyền tự do tôn giáo, v.v..1. Viện Quan sát thế giới cũng xác nhận thực tế này trong Báo cáo tình hình thế giới năm 2005 với kết luận rằng, cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố đã làm chệch hướng quan tâm của thế giới ________________ 1. Xem Commission on Human Security: “Human Security Now”, New York, 2003, p.5. 77 đến tình trạng mất an ninh toàn cầu như nghèo đói, bệnh truyền nhiễm, suy thoái môi trường, tranh chấp tài nguyên thiên nhiên. Có thể thấy một thực tế hiện nay là: Trong toàn cầu hóa, nếu chỉ một mình đơn độc, nhà nước sẽ không có đủ năng lực bảo vệ người dân của mình trước những hiểm họa xuyên biên giới. Trước đây, các mối đe dọa thường đến từ quan hệ giữa các nhà nước với nhau, mà đỉnh điểm là hai cuộc chiến tranh thế giới ở nửa đầu thế kỷ XX. Trong hai cuộc chiến tranh ấy, biết bao người dân mất người thân, gia đình, nhà cửa... nền kinh tế hoang tàn, đổ nát... Thực tế ấy cùng với lịch sử nhân loại đã để lại cho các nhà nước những bài học xương máu rằng, muốn có an ninh thì phải tăng cường bộ máy quân sự và an ninh gần như đồng nghĩa với tình trạng không có chiến tranh. Tuy nhiên, khi bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa, những quan niệm như vậy về an ninh đã tỏ ra là “chưa đầy đủ”, và đôi khi là “không phù hợp”. Mặc dù không có chiến tranh, song ở nhiều quốc gia, số người chết bởi tai nạn giao thông, dịch bệnh, đói nghèo tính hằng ngày - còn lớn hơn cả trong chiến tranh. Chưa cần đến các cuộc xâm lược lẫn nhau giữa các nhà nước để cướp đoạt tài nguyên, thì đến nay, tài nguyên 78