"
Án Mạng Dưới Tầng Hầm PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Án Mạng Dưới Tầng Hầm PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
MỘT BÁC SĨ TÂM THẦN VẬT LỘN VỚI SỰ TỈNH TÁO CỦA CHÍNH MÌNH KHI BẰNG CHỨNG GIẾT NGƯỜI CHỐNG LẠI ANH TA
Điều tra viên Susan Adler sẵn sàng khép lại vụ án về một vụ tai nạn xe hơi chết người, nhưng sau khi văn phòng giám định y khoa phát hiện ra dấu vết còn lưu lại từ hành động gây án trên thi thể nạn nhân, cô biết nó đã trở thành một vụ án giết người. Nạn nhân là người vợ giàu có của Randall Brock, một bác sĩ tâm thần nổi tiếng chuyên điều trị cho những bệnh nhân mắc chứng hoang tưởng tàn bạo. Và cứ thế, những nghi ngờ bắt đầu dấy lên trong đầu Susan.
Randall có một quá khứ bạo lực nhưng anh biết mình không giết vợ. Trong nỗi đau buồn tột cùng sau sự ra đi của người vợ thân yêu, anh nhận được lời thăm hỏi từ một người lạ và thông tin chia sẻ về cái chết của vợ anh. Nhưng có một điều kiện: để đổi lấy thông tin từ người đàn ông lạ mặt đó, Randall phải tiết lộ những bí mật đen tối mà anh đã giấu kín trong nhiều năm. Khi hắn gây thêm áp lực và Susan đến gần hơn với những manh mối, Randall bắt đầu nghi ngờ bản thân, tuyệt vọng bám lấy những mảnh ghép trong sự tỉnh táo của mình.
Những tiết lộ và những sự trùng hợp đáng ngờ đặt ra nhiều câu hỏi trong suốt quá trình điều tra, và các tình tiết ngày càng trở nên mất kiểm soát. Nữ điều tra viên Susan phải chạy đua với thời gian để tổng hợp lại tất cả những tình tiết trước khi quá muộn – trước khi vụ giết người tiếp theo đang đến rất gần nhà cô…
Dành tặng Mackenzie và Jillian:
Bố có thể viết về những người phụ nữ mạnh mẽ vì bên bố luôn có những người phụ nữ mạnh mẽ.
Bố rất tự hào khi được làm bố của các con.
MỞ ĐẦU
D
ù bóng tối đặc sánh đến nỗi chẳng thể nhìn thấy hai bàn tay trước mặt, nhưng hắn vẫn biết có hai thi thể đang ở cùng mình trong căn phòng. Một người mẹ và một con gái, bị giết chết chỉ cách nhau vài phút, họ quằn quại trong cơn thịnh nộ và giận dữ, để rồi vùng vẫy trong nỗi tuyệt vọng và vô vọng. Đèn sau đó bật sáng. Hắn chứng kiến từng giây những gì đang diễn ra, nghe thấy mọi âm thanh vang lên trong tầng hầm nơi họ bị mắc kẹt, nhưng đồng thời, hắn cũng có cảm giác như thể đó chỉ là một giấc mơ. Ngay cả lúc này đây, những âm thanh đó cũng chỉ còn là tiếng thì thầm của hồi ức, phai nhạt dần khi mỗi phút trôi qua.
Những vết thương do vụ nổ súng ngắn có vẻ chí mạng. Hắn sắp chết. Rõ ràng là thế. Không ai biết hắn đang ở đâu, và ngay lúc này, hắn không biết họ đã ngừng tìm kiếm hay chưa. Về lâu dài, điều đó không quan trọng. Hắn chẳng biết gì ngoài việc hắn sẽ sớm trở thành thi thể thứ ba trên nền bê tông lạnh lẽo, bên cạnh người phụ nữ và con gái của bà ta. Đây sẽ là kết cục, là số phận của hắn. Tầng hầm tối tăm này sẽ là thế giới cuối cùng mà hắn biết. Hắn đã sẵn sàng. Nói đúng ra, hắn đang mong đợi nó đến.
Sợi xích nặng nề cột hắn vào tường đang đi lên cổ tay và đè nặng lên vai phải của hắn. Nó leng keng mỗi khi hắn di chuyển và âm thanh ấy vang vọng trong không gian yên tĩnh. Hắn
dừng lại, lắng tai nghe động tĩnh của gã đàn ông phía trên nhà, hy vọng tiếng ồn mình gây ra không đủ lớn để gây chú ý. Có tiếng bước chân ở phía trên.
Hắn có thể nghe thấy tiếng giày của gã đàn ông gõ trên sàn. Hắn nghe ngóng chờ đợi âm thanh mở cánh cửa tầng hầm và tiếng gót giày nện xuống cầu thang. Nhưng lần này mọi thứ đã khác. Tiếng bước chân ở ngay phía trên đầu hắn, rồi di chuyển theo hướng ngược lại. Gã đàn ông rảo bước gần như chạy, từ bên này sang phía bên kia của ngôi nhà.
Tiếng súng ngắn lên nòng.
Tiếng bước chân khựng lại.
Im lặng.
Hắn đứng yên hết mức có thể, lắng nghe điều gì đó – bất cứ điều gì – có thể cho hắn biết chuyện gì đang xảy ra. Hắn chờ cánh cửa tầng hầm bật mở, nhưng chỉ có sự yên tĩnh bao trùm căn nhà. Khi sợi dây xích trên cổ tay hắn khẽ kêu leng keng, hắn dùng tay trái giữ ngay nó lại. Tầng hầm quá tối để có thể nhìn thấy chút gì đó và tất cả những gì hắn có thể làm là chờ đợi và chết dần.
Cánh cửa trên lầu bật mở. Tiếng la hét nối tiếp nhau của những gã đàn ông phá tan sự yên tĩnh.
“Cảnh sát đây!”
“Cảnh sát New York đây!”
“Ra ngoài ngay!”
Hắn dựa vào tường dỏng tai nghe, theo bản năng cố gắng bảo vệ mình trước cơn thịnh nộ toát ra từ những giọng hét lớn kia. Hơi thở hắn yếu dần. Hắn không còn nhiều thời gian nữa.
Sự huyên náo và những chuyển động huỳnh huỵch vẫn tiếp diễn ở phía trên.
“Giơ tay lên!”
“Tôi bắt được hắn rồi! Trong bếp!”
“Bỏ vũ khí xuống!”
Tiếng súng ngắn nổ và ngay sau đó là tiếng súng đáp trả nhanh đến nỗi hắn nghĩ ai đó có thể có súng máy. Nhưng rồi ngay sau khi bắt đầu, nó liền kết thúc. Căn nhà lại chìm trong im lặng.
Hắn có thể ngửi thấy mùi thuốc súng và muốn ói ngay lập tức. Hắn cố gắng gượng dậy, nhưng chân lẩy bẩy không vững. Cổ họng hắn khô khốc, nghẹn lại và không thể kêu cứu. Hắn không biết chuyện gì đang diễn ra.
Cửa tầng hầm bật mở.
Một bóng đèn vụt sáng.
Đó là một bóng đèn trần treo giữa tầng hầm, đủ thắp sáng cả không gian. Luồng ánh sáng đột ngột khiến hắn chói mắt, hắn vô thức đưa cẳng tay lên che. Ai đó rón rén bước xuống bậc thềm, từng bước dè chừng.
“Có ai ở dưới này không?” Một giọng nói vang lên. “Cảnh sát New York đây.
Giờ hắn có thể nhìn thấy rồi. “Nhìn thấy” theo đúng nghĩa đen. Hắn nhìn thấy hai thi thể gần như nằm cạnh nhau ở phía đối diện hắn. Hắn có thể nhìn thấy nền bê tông phía dưới họ sậm màu hơn, do nhuốm máu. Hắn nhìn lại mình và thấy vết thương do phát súng ngắn đã xé toạc bụng và ngực hắn. Không đời nào hắn có thể sống sót sau phát súng chí mạng ấy. Hắn
nhìn thấy máu khô trên bàn tay và cánh tay, hắn biết mình đã làm gì. Máu đó không phải của hắn. Hắn có thể nhìn thấy sự yếu ớt của bản thân.
Một làn khói mỏng vấn vít theo sau viên cảnh sát len lỏi xuống tầng hầm. Viên cảnh sát đội mũ và mặc quân phục tối màu trông hệt như một bóng ma, hay hệt như thần chết đến bắt hắn đi để đền tội cho tội lỗi mà hắn gây ra. Không sao cả. Hắn đáng phải chịu bất cứ hình phạt nào sắp tới. Hắn sức cùng lực kiệt rồi, và hắn là một tội đồ.
Hắn đã sẵn sàng xuống địa ngục.
Dù gì, hắn cũng sống ở địa ngục sẵn rồi.
R
01
andall Brock điều chỉnh màn hình để mọi người đều có thể nhìn rõ. Anh hít một hơi, sau đó cầm điều khiển và nhấn phát, dựa người vào tường, quan sát đoạn băng bắt đầu chạy. Anh biết điều gì sắp xảy ra và mọi thứ sẽ kết thúc như thế nào. Tình hình không tốt.
Trên màn hình, Tiến sĩ Peter Reems dựa lưng vào ghế, giống với cách Peter Reems bằng xương bằng thịt đang ngồi bây giờ, nhìn chằm chằm vào màn hình, quan sát con quái vật bên trong người đàn ông. “Tiếp tục đi nào, Jerry,” anh nói trên đoạn băng. “Anh có thể bắt đầu rồi.”
Bệnh nhân, Jerry Osbourne, nhấp nhổm trên ghế, cố gắng để có được cảm giác thoải mái, mắt anh ta nhíu tịt lại khi liên tục lau mồ hôi chảy xuống lông mày. “Anh chắc mình muốn nghe điều này chứ?”
“Đúng. Không sao đâu. Tôi ở ngay đây. Anh và tôi. Tôi muốn anh nhắm mắt lại và kể cho tôi tất cả mọi thứ. Giống như tâm sự thôi mà.”
“Nhưng tôi...”
“Không sao đâu. Tôi hứa. Nhắm mắt lại đi.”
Jerry làm theo, cơ thể anh ta bắt đầu thả lỏng, vai hơi chùng xuống, mặt vẫn cúi gằm.
“Tốt. Bây giờ hãy nói cho tôi biết.”
Một tiếng thở dài não nề. “Trời rất tối. Không phải kiểu trời về đêm mà là bóng tối thực sự. Như thể mây bão kéo đến và che phủ mọi thứ: trăng, sao. Mọi thứ. Như thể có một tấm chăn khổng lồ trùm lên bầu trời. Kiểu bóng tối khiến không gian đặc quánh lại, ông hiểu chứ? Và bầu không khí ấy khiến người ta cảm thấy nơi nào có ánh sáng thì nơi đó có vẻ an toàn. Nhưng cảm giác an toàn trong bóng tối ấy là giả, mà đã là giả thì không thể tin tưởng được. Khi trời tối như vậy, ánh sáng chỉ là một cái bẫy. Thế nhưng mọi người luôn bị nó mê hoặc để rồi lao về phía ánh sáng. Họ sẽ làm bất cứ điều gì để thoát khỏi bóng tối đó. Và tình thế trở nên thật dễ dàng. Tất cả những gì anh cần làm là đứng sẵn ở nơi có ánh sáng với nụ cười ngớ ngẩn trên môi cùng một lời hứa về sự an toàn, và chờ họ đến. Họ sẽ ngay lập tức lao đến chỗ anh.”
“Ai đến trốn chạy khỏi bóng tối cơ?” Peter hỏi.
“Cô ta. Nhưng không giống như anh đang nghĩ. Cô ta không chạy trốn khỏi bóng tối. Cô ta đã ở trong đó, mắc kẹt ở đó, giống như bị bẫy. Tôi đã mang ánh sáng đến cho cô ta.” “Ý của anh là gì cơ?”
“Tôi đã gặp cô ta khi đến hàn răng. Cô ta là người mới phụ trách hồ sơ bệnh án hay gì đó. Cô ta trông rất thông minh. Gọn gàng. Khá hấp dẫn, tôi đoán vậy. Nhưng khi tôi cố gắng bắt chuyện, cô ta đã phớt lờ tôi. Thậm chí còn chẳng lịch sự. Tôi giới thiệu bản thân và chìa tay ra. Cô ta nhìn xuống tay tôi như
thể tôi vừa mời cô ta cầm một con cá chết hay thứ gì đó và cứ thế lướt qua tôi.”
“Vậy anh cảm thấy thế nào?”
“Như một kẻ thất bại. Một người vô hình. Tôi đã rất tức giận. Vì vậy, tôi đợi bên ngoài ở bãi đậu xe cho đến khi văn phòng đóng cửa và cô ta ra về. Tôi đã tiến đến phía cô ta và hỏi cô ta tại sao lại cư xử thô lỗ như thế, và cô ta nói rằng cô ta đâu có như vậy, nhưng ngay cả khi phủ nhận điều đó, cô ta cũng thuộc loại chẳng ra gì. Tôi lại chìa tay ra và đề nghị bắt tay. Cô ta cười và nói với tôi rằng cô ta không hứng thú. Tôi cũng nói mình chẳng quan tâm. Chỉ là tôi muốn tỏ ra thân thiện một chút. Cô ta nói cô ta có đủ bạn bè rồi và bỏ đi. Cô ta bỏ đi. Không phải chỉ mất hai giây để bắt tay tôi sao?”
“Anh đã làm gì sau khi cô ta rời đi?”
“Tôi về nhà và uống vài cốc bia. Xem một trận đấu. Tưởng tượng một chút về cô ta. Nhưng rồi tất cả tưởng tượng về những gì tôi muốn làm với cô ta bắt đầu xuất hiện trong đầu tôi. Tuy nhiên, không phải theo hướng hấp dẫn về mặt thân thể mà mang tính bạo lực. Tôi muốn làm tổn thương cô ta. Tôi muốn kết liễu cô ta. Tôi đã cố gắng xua những suy nghĩ ấy ra khỏi đầu. Ý tôi là, tôi không thực sự muốn thế, hiểu không? Tôi thậm chí còn không biết những suy nghĩ và cảm xúc này đến từ đâu, nhưng tôi càng cố gắng phớt lờ chúng thì chúng càng hiển hiện rõ rệt. Chúng bám riết lấy tôi, vấn vít trong đầu tôi, khiến tôi ám ảnh về chúng. Tôi thậm chí còn tìm kiếm trên Google để xem mình bị làm sao và nó dẫn đến tất cả những trang web kỳ quặc, việc này ngày càng thôi thúc tôi hơn nữa. Tôi cứ thế trở
thành một người khác. Nhưng sau đó tôi nhận ra rằng một người không thể thay đổi như vậy, điều đó chắc hẳn đã trú ngụ trong tôi suốt thời gian qua, phát triển như cỏ dại hay một căn bệnh ung thư mà tôi không hề hay biết. Và vì bất kỳ lý do gì, cô gái này chỉ là tác nhân khiến nó lộ diện. Tôi nghĩ đó là tiếng cười của cô ta. Cách cô ta cười nhạo tôi khiến tôi nhận ra cô ta đang sống trong bóng tối này và không thể thoát khỏi nó. Tôi phải mang ánh sáng đến cho cô ta. Đơn giản chỉ có thế.”
Peter gật đầu, ghi chú nhanh vài dòng. “Chuyện gì đã xảy ra tiếp theo?”
Jerry thoáng mỉm cười. “Tôi đã dành vài ngày tiếp theo để theo dõi cô ta khắp nơi. Cơ quan, nhà riêng, rạp chiếu phim, nhà hàng. Tôi quan sát những lúc cô ta dắt chó đi dạo và biết ca làm việc của cô ta. Tôi thậm chí còn biết khi nào cô ta nghỉ giải lao.”
“Vậy anh mang ánh sáng đến cho cô ta bằng cách nào?” “Tôi đã cắt dây dẫn dầu hộp số ở xe cô ta. Tôi biết quãng đường về nhà của cô ta bao xa và cô ta có thể cầm cự bao lâu trước khi xe chết máy, và tôi bí mật theo sau. Khi dầu xe cạn, cô ta tấp vào lề, và tôi tăng ga để tới 'giải cứu'. Thứ ánh sáng trong bóng tối. Sự an toàn. Hoặc như tôi đã nói, ảo tưởng về sự an toàn.
Đoạn đường đó một bên là hồ và một bên là rừng nên tối đen như mực. Cô ta thoáng thấy chiếc xe tải của tôi đang chạy ngược lên dốc đồi với hệ thống đèn khẩn cấp nhấp nháy, và tôi có thể thấy cô ta thở phào nhẹ nhõm. Cô gái gặp nạn đã tìm thấy chàng hiệp sĩ của mình đang lái một chiếc xe tải kéo. Thật
trùng hợp đúng không? Khi tôi tấp lại gần và hạ thấp cửa kính xuống, cô ta thực sự không nhận ra tôi. Tôi hỏi cô ta có cần kéo xe giúp không, và cô ta đồng ý ngay. Cô ta nói mình không chắc đã có chuyện gì xảy ra và cảm ơn tôi rối rít. Thật tính toán! Cô ta chỉ biết ơn và tỏ ra thân thiện khi cần giúp đỡ. Nếu không, cô ta chẳng coi ai ra gì.”
“Anh đã làm gì?” Peter hỏi.
Jerry nhún vai. “Tôi nhảy xuống khỏi xe tải, và trước khi cô ta nhận ra bất cứ điều gì, tôi dùng cần bẩy lốp đánh vào một bên đầu cô ta. Tôi có giết cô ta hay làm gì đâu. Chỉ cần xử nhanh gọn. Tôi dựng cô ta ở tư thế ngồi trong xe tải và lái xe thêm khoảng hai dặm nữa để lùi xe vào khoảnh đất trống nhỏ mà tôi từng biết từ thời còn hay đi săn ở đó. Tôi tắt máy và đóng cửa xe trước khi vác cô ta vào rừng. Đi thêm nửa dặm nữa. Người cô ta mềm nhũn, nhưng trong màn đêm dày đặc, đầu cô ta lủng lẳng qua lại, và chỉ đến khi tôi buộc dây quanh mắt cá chân của cô ta, cô ta mới bắt đầu giật mình hoảng sợ.”
“Anh cảm thấy như thế nào khi buộc cổ chân của cô ta lại?” “Kiểm soát. Giống như tôi là ông chủ vậy. Cô ta sợ tôi, và đó là điều tôi muốn. Cô ta cần phải hiểu hậu quả từ hành động của mình, và không gì dạy cho ta điều đó bằng việc buộc dây quanh cổ tay và mắt cá chân của cô ta.”
“Chuyện gì đã xảy ra sau khi anh trói cô ấy?”
“Lúc đầu, cô ta cứ nhìn quanh, như thể không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Cô ta giật mạnh sợi dây buộc, cố gắng nới lỏng tay và chân. Tôi đoán sau vài phút mọi thứ cuối cùng cũng dần sáng tỏ vì cô ta bắt đầu nên i ỉ. Tiếng nên lớn dần như thể cô ta
sắp hét lên, vì vậy tôi đã dán băng keo bịt miệng cô ta lại. Khi tôi đến đủ gần, cô ta đã nhận ra tôi. Tôi có thể nhìn thấy điều đó qua ánh mắt cô ta. Điều đó thật tuyệt. Đó chính xác là những gì tôi muốn. Cô ta hiểu ra vấn đề ngay lập tức.”
“Anh có thể dừng lại ở đó. Hà cớ gì lại làm mọi thứ đi xa hơn? Cô ta đã học được một bài học rồi mà. Anh có nghĩ vậy không?”
“Không, tôi phải làm điều đó. Tôi phải làm. Cô ta phải trả giá, và cô ta phải trả bằng chính mạng sống của mình. Chuyện phải như vậy. Dù sao thì tôi cũng không phải người đưa ra quy tắc đó.”
Peter ngả người trên chiếc ghế sau bàn làm việc, mắt dán chặt vào màn hình. Randall đứng cạnh, có thể nhìn thấy Peter đang gõ những ngón tay của mình vào đùi một cách đầy lo lắng. Randall nhận ra mình cũng đang làm điều tương tự. Không khí căng thẳng dày đặc khắp căn phòng.
“Vậy ai đã đề ra quy tắc đó?” Peter hỏi qua màn hình. “Tôi không biết,” Jerry đáp. “Nhưng không phải tôi.” “Được rồi. Anh bắt cô ta trả giá bằng cách nào?”
“Đầu tiên, tôi tưới một can xăng lên người cô ta. Hơi xăng khiến mắt tôi cay xè. Ngay khi xăng chạm vào người cô ta, cô ta bắt đầu hoảng sợ. Tôi đồ rằng thực tế đã tát thẳng vào mặt cô ta. Cô ta lăn lộn, cố gắng thoát ra khỏi sợi dây buộc, miệng không ngừng la hét sau miếng băng dán và khóc lóc. Tôi yêu từng phút giây ấy. Tôi đã nói với cô ta rằng cô ta có thể đã sống nếu cư xử lịch sự với tôi. Nhưng đây là số phận của cô ta, tôi đoán vậy.”
“Anh từng nghĩ đến việc thả cô ta ra chưa?”
“Anh không nghe à? Tôi không thể để cô ta đi. Tôi không được phép làm vậy. Tôi châm một que diêm và nói với cô ta rằng tôi cũng có đủ bạn bè rồi. Trong lúc cô ta đang cố nói gì đó qua lớp băng keo thì tôi thả que diêm xuống đùi cô ta. Trời đất, cả cơ thể cô ta rực cháy ngay tắp lự. Thật điên rồ khi cô ta bắt lửa nhanh đến thế. Cô ta la hét, ngay cả khi miệng vẫn bị bịt chặt bởi lớp băng dán. Tôi ngắm nghía một chút, nhưng sau đó những bụi cây xung quanh cô ta bắt đầu bén lửa, rồi những chiếc lá trên mặt đất sáng bùng lên. Tôi phải rời đi trước khi ai đó gọi cứu hỏa. Tôi vừa trở lại xe vừa huýt sáo. Anh sẽ không thể biết tiếng huýt sáo và tiếng la hét hòa quyện với nhau độc đáo như thế nào nếu không thử đâu. Nó có một giai điệu rất riêng. Tôi đoán anh có thể nói đó là bài hát đặc biệt của chúng tôi. Được viết chỉ dành cho hai chúng tôi.”
C
02
ăn phòng im bặt. Randall tắt đoạn băng và đặt điều khiển lên bàn. Anh khoanh tay trước ngực trong khi quan sát hai người đàn ông còn lại, cố gắng đánh giá phản ứng của họ. Tiến sĩ Lienhart, trưởng khoa Tâm thần của Đại học Quarim, nhìn chằm chằm vào màn hình trống. Mặt anh không biến sắc, cơ thể bất động ngoại trừ cái đầu, hơi lắc qua lắc lại. “Tôi nghĩ anh nói chúng ta đang thấy tiến triển,” cuối cùng anh ấy cũng lên tiếng.
Peter liên tục xoa tay vào quần, cẩn thận lựa chọn lời nói của mình. “Đúng vậy. Nhưng hãy hiểu rằng toàn bộ thử nghiệm này sẽ có lúc nọ lúc kia chứ. Con đường đến với sự mạnh khoẻ của bệnh nhân không bao giờ là một con đường tuyến tính. Tôi phỏng đoán rằng ít nhất Jerry phải trải qua tám đến mười phiên nữa trước khi chúng ta có thể thấy những thay đổi đáng kể hơn. Nhưng chúng ta sắp đạt được mục tiêu rồi.”
Tiến sĩ Lienhart, người đang ngồi quay lưng lại với Peter và Randall, trượt đến mép ghế và quay lại nhìn cả hai. Anh lơ đễnh gãi các nốt mụn trên trán bằng những ngón tay thon dài. “Những gì tôi vừa thấy là một bệnh nhân đang tiến triển đột ngột tái phát những tưởng tượng bạo lực. Làm sao anh có thể
mong tôi đến gặp hội đồng quản trị để xin thêm tài trợ khi chúng ta chẳng có gì để chứng minh cho họ thấy chúng ta xứng đáng với số tiền đã nhận được? Đây không phải là sự tiến bộ. Đây là một bước lùi. Một bước lùi khá lớn, theo tôi là vậy.”
Peter đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vòng ra phía trước bàn làm việc. “Nhìn chung, chúng ta đang đạt được tiến bộ, thưa quý ngài. Với tất cả những người tham gia nghiên cứu. Như anh biết, Jerry là bệnh nhân thứ ba. Anh ta rất thông minh. Anh ta cô độc. Không có bạn bè. Không gia đình. Mẹ anh ta qua đời khi anh ta mười sáu tuổi, và hai năm sau là cha anh ta, tương tự như gia cảnh của hai bệnh nhân còn lại trong nghiên cứu. Khi tôi lần đầu tiên được giới thiệu với anh ta, tôi đã thấy những dấu hiệu rõ ràng của khuynh hướng thái nhân cách đang trên đà bộc phát. Những tưởng tượng của anh ta về việc giết cô gái đó liên quan đến hành vi cưỡng hiếp và tra tấn. Anh ta nói về việc hạ nhục, đánh đập, bóp cổ cô ta cho đến khi suýt chết, sau đó để cô ta sống và lặp lại các hành vi trên. Không có chút hối hận hay suy nghĩ nào. Chỉ có sự tức giận và nhu cầu kiểm soát.”
Người đàn ông luống tuổi liếc nhìn Randall, vẫn im lặng. “Anh ta bị bệnh. Và trước đây tôi thấy anh ta là một người phục hồi tốt. Nhưng giờ đây, anh ta quay ra thiêu sống cô gái trong tưởng tượng của mình một lần nữa. Tôi không thể đến gặp hội đồng quản trị với kết quả này được.”
“Những gì anh vừa thấy là buổi trị liệu lần thứ hai mốt của tôi với Jerry,” Peter nói. “Điều đó có nghĩa là hai mươi lần trước anh ta đều nói với tôi rằng anh ta muốn giết cô gái trong đoạn băng và sau đó giải thích cách anh ta sẽ làm điều đó. Không cần
tôi nhắc nhở hay dẫn dắt, Jerry bắt đầu thay đổi các chi tiết trong tưởng tượng của anh ta, và những gì đã từng là một hành động cá nhân và bạo lực – hành động anh ta hãm hiếp cô ta, đặt tay mình qua cổ cô ta, cảm nhận da chạm da, siết cổ cô ta đến chết – đã trở thành một tưởng tượng xa vời, như thể anh ta đang xem một bộ phim thay vì tham gia vào đó. Anh ta đã loại bỏ tính cá nhân hóa. Giờ anh ta trói cô lại và quay lưng đi. Anh ta hầu như không chạm vào cô ta. Anh ta tưới xăng lên người cô ta, đốt diêm và ném nó vào người cô ta. Anh ta không còn trực tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của cô ta nữa. Chính lửa và xăng mới giết chết cô ta, chứ không phải anh ta.”
“Nhưng hai buổi trị liệu ngay trước buổi này, anh ta đã quyết định không giết cô ta nữa.” Lienhart khoanh tay trước ngực. “Anh đã đến gặp tôi với lý thuyết chữa lành hành vi tâm thần bằng cách buộc đối tượng nói chuyện thông qua tưởng tượng của họ. Anh đã nói rằng nếu họ kể về bản thân càng chi tiết càng tốt, họ sẽ giảm bớt nhu cầu hành động thực sự của mình. Và tôi thừa nhận ngay lúc đầu rằng nó có vẻ hiệu quả. Nhưng nếu đối tượng quay trở lại hành vi bạo lực, thì hóa ra chúng ta chỉ lãng phí thời gian mà thôi.”
“Sự tưởng tượng sẽ tiếp tục giảm bớt. Đây chỉ là một trục trặc. Anh ta sẽ tiếp tục giữ khoảng cách với hành động giết người thân mật cho đến khi không còn tưởng tượng nào nữa. Một ngày nào đó, tôi sẽ hỏi anh ta về cô gái trong đoạn băng ở phòng nha khoa, và anh ta sẽ thay đổi chủ đề. Thậm chí sẽ không còn tưởng tượng giết chóc nữa.”
“Thế điều gì sẽ xảy ra nếu anh ta thực sự hành động dựa trên những câu chuyện này?” Lienhart hỏi. “Điều gì sẽ xảy ra nếu thí nghiệm này mang lại nhiều hy vọng hơn là thực tế? Với tất cả những gì chúng ta biết, chúng ta có thể gieo vào đầu anh ta những ý tưởng giúp anh ta dễ ra ngoài kia và giết ai đó.”
Peter lắc đầu. “Không” anh đáp. “Kịch bản không phải thế. Tôi không gieo bất kỳ hạt giống nào nhằm thay đổi tưởng tượng. Tôi chỉ đơn giản là đề nghị bệnh nhân kể chi tiết về cách họ muốn giết nạn nhân. Người bệnh sẽ tự thay đổi câu chuyện của chính mình. Không có sự mào đầu. Mọi chuyện diễn ra thuần tự nhiên. Đó là lý do tại sao chúng ta luôn vướng phải thất bại. Jerry đang tự chữa lành. Mỗi bệnh nhân sẽ đi một con đường riêng của họ.”
Tiến sĩ Lienhart nhìn hết cộng sự này đến cộng sự kia của mình, tỏ vẻ hoài nghi. “Hãy cho tôi biết về hai bệnh nhân còn lại. Chúng ta có tiến triển gì với họ rồi?”
“Bệnh nhân số một, Stephen Sullivan, không còn tưởng tượng nữa. Anh ta chùn bước khi ai đó đưa ra gợi ý về việc làm tổn thương bạn gái cũ của mình, và chúng ta sắp sửa có thể buông tay’ Stephen được rồi. Anh ta thậm chí sẽ không nói về người yêu cũ nữa. Trong tâm trí, anh ta đã trở nên tích cực hơn. Bệnh nhân số hai, Jason Harris, không còn tưởng tượng giết người nữa nhưng vẫn tỏ ra tức giận khi chủ đề về cha mình được đề cập đến. Chúng tôi đang tìm cách giải quyết vấn đề đó.”
“Vậy trong số ba bệnh nhân hoặc đối tượng hoặc bất cứ tên gọi nào anh muốn, có hai người vẫn còn dấu hiệu bạo lực, và một trong hai người đó vừa mới dứt biểu hiện. Kết quả đó khó
có thể được coi là một thành công xứng đáng với khoản đầu tư từ McKeen Cattell Fellow. Anh sẽ phải làm tốt hơn.” Peter gật đầu. “Tôi hiểu.”
Randall giơ tay. “Tôi có thể ngắt lời hai vị một chút chứ? Tôi đã làm việc với Tiến sĩ Reems từ khi bắt đầu nghiên cứu này. Tôi có thể khẳng định với anh rằng anh ấy đang rất nỗ lực. Điều này có thể thay đổi cách chúng ta điều trị chứng rối loạn tâm thần này. Qua đó, thay đổi mọi thứ. Cộng đồng khoa học sẽ tán dương và để mắt đến. Tôi đảm bảo điều đó.”
Tiến sĩ Lienhart chậm rãi rời ghế. Anh xốc lại áo khoác, kéo vạt áo phía dưới. “Tôi nghĩ anh có thể đang rất nỗ lực và tập trung vào thứ gì đó ở đây,” ông nói. “Nhưng tôi không thể đến gặp hội đồng quản trị với thông tin như được biết ngày hôm nay. Anh sẽ phải tiếp tục cố gắng với số tiền đã được cấp. Đó là điều tốt đẹp nhất tôi có thể làm vào thời điểm này.”
Vai của Peter hơi chùng xuống. “Tôi hiểu.”
“Hãy gửi cho tôi một bản báo cáo đầy đủ với các ghi chú về từng buổi trị liệu khi chúng tôi trở lại sau kỳ nghỉ lễ, cùng với kế hoạch chi tiết của anh về các giai đoạn điều trị tiếp theo. Chúng tôi sẽ cấp tiền cho đến cuối học kỳ thứ hai. Nếu tôi thấy sự tiến bộ... Ý tôi là sự tiến bộ thực sự, các quý ông ạ... Sau đó, chúng ta có thể nói về khoản trợ cấp năm năm. Nhưng nếu kết quả chẳng khác gì hôm nay, chúng ta có thể phải rẽ hướng. Tôi biết các anh không muốn nghe điều đó, nhưng các anh không phải là những người duy nhất ở đây đang nỗ lực để phát triển mục tiêu của mình.”
Peter bắt bàn tay gầy guộc của Lienhart. “Toàn bộ gói nghiên cứu tình huống sẽ sẵn sàng chờ anh quay lại.” Người đàn ông già mở cửa văn phòng và gật đầu chào Randall. “Kế hoạch cho kỳ nghỉ thế nào đây, Tiến sĩ Brock?” “Làm việc thôi,” Randall nói.
“Không về thăm gia đình hay tổ chức lễ Giáng sinh ư?” “Không. Năm nay chỉ có vợ chồng tôi thôi. Vui vẻ và đầm ấm. Không có kế hoạch nào khác ngoài gói nghiên cứu tình huống mà anh cần.”
Lienhart khựng lại khi đang bước ra, quay lại nhìn hai người họ thêm lần nữa. “Tôi biết các anh đã rất nỗ lực với việc này và tôi cũng biết đây chỉ là một bước lùi nhỏ trong rất nhiều thành công lớn. Nhưng nếu định đưa ra phương pháp điều trị chứng rối loạn tâm thần bạo lực, chúng ta phải đúng tuyệt đối. Những người này quá nguy hiểm. Tôi muốn các anh nhớ điều đó. Một sinh mạng mà các anh nghĩ rằng mình đã cứu được có thể sẽ cướp đi nhiều mạng sống khác nếu các anh đi sai bước. Việc này phải thật chỉn chu.”
Peter đi theo người đàn ông già và nhẹ nhàng đóng cửa lại sau khi ông rời đi. Anh dựa đầu vào cửa và nhắm mắt lại. “Tất cả đã diễn ra như mong đợi.”
Randall nói: “Có lẽ chúng ta không nên cho ông ấy xem đoạn băng. Chúng ta có thể nói Jerry không đến buổi hẹn và phải lên lịch lại.”
“Chúng ta không thể làm vậy. Chúng ta không thể giấu giếm mọi thứ hoặc thao túng kết quả để có được tài trợ. Chẳng hay ho chút nào.”
“Tôi biết là không hay, nhưng tôi cũng biết điều này sẽ xảy ra. Chúng ta đã đi cả một chặng đường dài rồi. Tôi biết một bước lùi như vậy sẽ khiến Lienhart lo lắng. Ông ấy vốn đã không thích nghiên cứu này ngay từ đầu mà.”
Peter đẩy mình ra khỏi cửa và nhìn Randall. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Anh hỏi. “Làm sao chúng ta có thể khiến một Jerry tiến bộ đáng kinh ngạc như vậy quay trở lại với bạo lực một lần nữa? Điều gì đã khiến anh ta làm vậy?”
“Tôi không biết.”
“Chà, hãy nghĩ xem.”
Sự thất vọng lộ rõ trong giọng nói của bạn anh.
“Tôi không biết,” Randall lặp lại. “Như anh từng nói, việc này không đơn giản. Chúng ta đã phải đi đường vòng ” Peter nói: “Chúng ta có mọi thứ dựa trên nghiên cứu này.” Anh quay lại bàn của mình và ngồi xuống ghế. “Anh nhận ra chúng ta có thể thay đổi cách nhìn nhận và đối xử với các xu hướng giết người, phải không? Chúng ta có thể thay đổi cách hành pháp khi đối mặt với những người có khả năng bạo lực này. Chúng ta có thể thay đổi cách hệ thống nhà tù nhìn nhận bạo lực. Những gì đã xảy ra với em trai anh sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Chúng ta có thể thay đổi điều đó.”
“Điều này không liên quan gì đến Sam,” Randall nói. “Tôi biết. Tôi chỉ nói vậy thôi.” Peter nhấc đống giấy tờ ở đầu bàn của mình lên và nhét chúng vào cặp tài liệu. “Tốt hơn là anh nên tiếp tục chuẩn bị cho buổi lễ kỷ niệm của Amanda. Chồng cô ấy không thể đến muộn vào đêm trọng đại của cô ấy được đâu.”
“Tôi sẽ gặp anh ở đó?”
“Nhất định rồi.”
Randall cầm xấp giấy gần mình nhất và mang chúng đến cặp tài liệu trên bàn của Peter. Anh nhìn người bạn của mình dọn dẹp, vẻ thất bại hiện rõ trên khuôn mặt. Họ đã làm việc quá chăm chỉ rồi.
“Chúng ta sắp đến đích rồi,” anh động viên. “Đừng bỏ cuộc. Chúng ta sẽ đạt được kết quả. Chúng ta chỉ cần cố gắng hơn nữa mà thôi. Chúng ta có thể làm được việc này. Những bước lùi và tất cả.”
Peter nghiêng người về phía trước, đặt khuỷu tay lên bàn và chắp hai tay lại. “Anh nói đúng” anh nói, nhìn Randall trận trân. “Cuộc sống của hai ta đều phụ thuộc vào nó.”
R
03
andall nhìn lướt qua khán phòng rộng lớn của khách sạn Bear Mountain và quan sát những tốp người lấp đầy không gian này. Họ đang túm tụm lại và nói chuyện với nhau theo nhóm, cười mỉm, rồi cười phá lên, mỗi người trong số họ đều là một biểu tượng của sự hoàn hảo. Những bộ Tuxedo thiết kế vừa vặn đắt tiền. Những chiếc áo choàng lấp lánh phản chiếu ánh đèn chùm trên cao. Những món đồ trang sức rực rỡ trên cổ tay và tai của mọi phụ nữ trong khi nhiều người còn đeo cả dây chuyền kim cương. Anh nhìn xuống bản thân mình, đặt tay lên chiếc bụng mà lẽ ra có thể đã săn chắc hơn nếu anh tập thể dục nghiêm túc hơn. Làn da Ireland xanh xao của anh gần như tiệp với màu xám của mái tóc. Đôi giày anh sáng bóng, bộ lễ phục vừa vặn, nhưng anh vẫn không thể thoát khỏi cảm giác lạc lõng. Mọi người đến khách sạn này để chúc mừng vợ anh trở thành người thừa kế tài sản thế hệ. Đây là loại tiền liên quan đến việc ủy thác cho những đứa trẻ chưa được chào đời. Những bất động sản tương đương khoản tiền này sẽ được truyền lại cho đời cháu chắt tiếp theo và yêu cầu các nhóm luật sư, kế toán, quản lý và cố vấn tài chính phụng sự. Số tiền này thuộc hội đồng quản trị của những công ty trong Fortune 500[1],
những người điều hành các tập đoàn đa quốc gia, có ảnh hưởng đến các cuộc bầu cử và bất cứ ai giàu có mà bạn có thể nghĩ đến. Những người tham gia thực sự là những tay chơi thứ thiệt. Họ có thể khiến thế giới xoay chuyển, còn Randall, được nuôi dưỡng trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động bởi một nông dân và một bà nội trợ, cảm thấy thật lạc lõng khi ở bên họ.
Anh và Amanda đã kết hôn được hai năm. Trong vô số nơi, họ lại gặp tại một quán bar. Cô ấy đã đến đó cùng một nhóm các nhà tài trợ sau buổi dạ tiệc gây quỹ, còn anh ở một mình. Họ đã “chạm” nhau ở một máy hát tự động phát ra tiếng hát tuyệt vời của Ray Charles, và trong vòng vài phút sau khi bắt tay và trò chuyện to nhỏ, cô nói rằng không còn nghi ngờ gì nữa, họ chắc chắn là bạn tâm giao. Anh cũng không chối từ điều đó. Tính hài hước của cô đã khỏa lấp sự nghiêm túc trong anh. Sự quan tâm của anh đã cân bằng bản chất vô tư của cô. Cô lôi anh ra khỏi nhà vào những ngày anh muốn ở lì trong nhà, còn anh giữ rịt cô trong những đêm riêng tư chỉ hai người khi cô muốn dùng bữa với bạn bè. Họ là một cặp đôi hoàn hảo, bổ khuyết cho nhau và đủ may mắn khi có được cơ hội đó.
Cha của Amanda, Clifford Sturges, từng là một ông trùm mua bán và sáp nhập trên Phố Wall trong suốt những năm 80 và 90, kiếm được hàng chục triệu đô-la và phát triển tất cả số đó thành tài sản gia đình kéo dài nhiều thế hệ. Clifford từng là chủ ngân hàng hoặc thành viên nhóm lãnh đạo trong một số vụ sáp nhập lớn nhất trong lịch sử. Đó là vụ sáp nhập Capital Cities-ABC năm 1986, vụ sáp nhập Sony-Columbia năm 1989, Viacom-Paramount năm 1994 và MCI-WorldCom năm 1999.
Nhưng không may thay, ông qua đời vì một cơn đau tim dữ dội vào mùa xuân năm 2001 và Amanda, người vốn đã hoạt động tích cực với cộng đồng từ thiện ở Manhattan, đã nhận được một nửa tài sản của cha cô và thành lập một trong những tổ chức phi lợi nhuận lớn nhất nước Mỹ. Một nửa còn lại về sau cũng thuộc về cô vì cô là đứa con gái duy nhất của ông, còn mẹ cô, sống ở Bờ Tây, đã vắng bóng hơn ba mươi năm. Mọi thứ mà cô và Randall sở hữu được thanh toán bằng tài sản thừa kế của Amanda. Nhưng những gì họ đã chia sẻ trong mối quan hệ của mình quả thực là không đồng tiền nào có thể mua được.
Anh nép mình vào một góc, một tay cầm ly rượu vang đỏ nóng ấm, tay còn lại đưa lên chỉnh cổ áo sơ mi vừa quá chật vừa quá cứng của mình. Anh kiểm tra đồng hồ. Còn vài giờ nữa anh mới có thể quay trở lại văn phòng, nơi đang đè nặng tâm trí anh. Anh còn rất nhiều việc phải làm, và kỳ nghỉ lễ gần như không đủ thời gian. Sau khi theo dõi Amanda nhận giải và phát biểu, anh sẽ về trường.
Peter đang đi ngang qua phòng, tay cầm đồ uống, bộ lễ phục trông thật vừa vặn với thân hình săn chắc của anh. Họ đã gặp nhau tại Đại học New York khi là những tân sinh viên và bạn cùng phòng, rồi thân thiết như người nhà từ đó. Dù Peter bằng tuổi Randall, bốn mươi lăm tuổi, nhưng trông anh trẻ hơn hàng chục tuổi. Tóc anh vẫn bồng bềnh và có màu nâu. Đôi mắt xanh cùng nụ cười của anh luôn khiến phụ nữ phải ngoái nhìn và mỉm cười. Anh đã kết hôn khi còn học đại học và vẫn gắn bó với vợ sau hai mươi năm, mặc dù anh có sa ngã vài lần trong quãng thời gian đó nhưng cuộc hôn nhân của họ vẫn hạnh phúc.
Randall và Peter đã trải qua rất nhiều mùa hè cùng nhau, cùng quá nhiều công việc thực tập để giành được một vị trí đáng thèm muốn trong khoa Tâm thần, và họ biết quá nhiều bí mật của nhau. Đó là một tình bạn bền chặt hơn bất cứ tình bạn nào mà Randall từng có, ngay cả với Amanda. Peter Reems là chỗ dựa của anh.
“Tiến sĩ Reems,” Randall nói, nâng ly.
Peter cũng nâng ly đáp lại bạn mình. “Tiến sĩ Brock.” “Cảm ơn vì đã đến.”
“Anh đùa à? Sao tôi có thể bỏ lỡ sự kiện này chứ?” “Tôi biết, ngoại trừ cách anh bỏ lại tôi hôm nay. Tôi không chắc liệu anh có vùi mình ở văn phòng sau những gì đã xảy ra hay không.”
“Không. Không phải tối nay. Việc này quan trọng hơn.” “Cảm ơn anh,” Randall nhấp một ngụm rượu. “Tôi xin lỗi vì những gì đã xảy ra với Lienhart.”
“Đừng xin lỗi,” Peter trả lời. “Tôi mới là người nên xin lỗi vì đã hoàn toàn chán nản và hoảng sợ sau khi ông ấy rời đi. Đó không phải là lỗi của anh, chúng ta đã có một bước lùi. Nghiên cứu tình huống là thế. Công việc này đang được tiến hành và chúng ta không biết từng đối tượng sẽ phản ứng ra sao. Tôi biết điều đó, và tôi nên biết điều đó sớm hơn. Đó là do tôi. Hôm nay Jerry đã khiến chúng ta thất vọng, nhưng tất cả chỉ là thử nghiệm, vậy chúng ta đang mong đợi điều gì chứ? Những việc như ngày hôm nay sẽ xảy ra. Phản ứng của tôi là không được. Thật không chuyên nghiệp.”
Randall tiếp lời: “Chúng ta sẽ thành công. Việc chữa trị. Nghiên cứu tình huống. Phương pháp trị liệu. Tất cả. Tôi biết chúng ta sẽ thành công. Chúng ta phải thành công.” “Này, Randall!”
Randall nhìn lên và thấy Charles Label cùng hai người đàn ông khác mà anh không quen đang tiến về phía anh và Peter. Charles là một trong những người quản lý khu vực cho tổ chức của Amanda, quỹ Những trái tim thuỷ tinh, và điều hành bốn trại tạm trú cho người vô gia cư ở Yonkers. Anh ta thấp, gầy với bộ râu chiếm gần hết khuôn mặt dài.
“Chào, Charles. Rất vui được gặp lại anh. Tình hình thế nào?”
“Mọi thứ thật tuyệt vời. Bọn trẻ đang quen dần với trường học. Mọi người đang ổn định cuộc sống trong ngôi nhà mới. Chúng tôi đều rất vui.”
“Mary có đến không?”
“Không, cô ấy đang ở nước ngoài. Nhưng cô ấy gửi lời chúc mừng đấy.” Randall quay về phía Peter. “Anh biết Tiến sĩ Reems, phải không?”
“Tất nhiên,” Charles trả lời khi hai người bắt tay nhau. Anh chỉ vào hai người đàn ông lạ mặt đi cùng. “Tôi muốn cả hai anh gặp Alexander Dellium và Felix Hutchinson. Tổ chức của họ là hai trong số các nhà tài trợ hào phóng nhất của chúng tôi. Alex điều hành một quỹ đầu cơ trong thành phố, và Felix đến từ San Francisco. Anh ấy là Giám đốc điều hành của một công ty dịch vụ công nghệ đám mây có tên là Skiez.”
Randall mỉm cười và bắt tay từng người, cố gắng thể hiện đúng mực mình là chồng của người phụ nữ đang được tôn vinh. Họ siết chặt tay nhau. Những nụ cười thật tươi. Tất cả vì Amanda.
Với mái tóc vàng dày óng ả vuốt ngược ra sau, Alex trông như một cơ trưởng. Anh cao hơn mét chín và cao hơn Randall. Felix thì ngược lại. Anh ta thấp hơn, tầm Charles, với một cái bụng mà anh ta muốn giấu sau chiếc thắt lưng của mình nhưng không thành công.
“San Francisco,” Randall nói khi bắt tay Felix. “Chuyến đi khá dài đấy.”
“Vợ anh thực sự là một người phụ nữ tuyệt vời,” Felix trả lời. “Công việc thiện nguyện của cô ấy luôn khiến tôi kinh ngạc. Tôi ước có thể tham gia cùng cô ấy. Nhưng than ôi, tất cả những gì tôi có thể làm là phát tâm tiền bạc, vì vậy tôi đã làm thế. Tôi biết cô ấy sẽ sử dụng chúng tốt nhất có thể. Cô ấy luôn như vậy.”
Charles nhấc một ly sâm panh khi một người phục vụ đi ngang qua. “Randall và Tiến sĩ Reems đây đang thực hiện một dự án lớn tại Đại học Quarim. Khoa Tâm thần.”
“Vậy ư?” Alex nói. “Tôi luôn bị cuốn hút bởi những người có thể định hình tâm trí. Tuyệt đấy, anh bạn.”
“Anh dạy học đúng không?” Felix hỏi.
Randall lắc đầu. “Peter thì có. Hiện tại, tôi đang hỗ trợ anh ấy trong một dự án nghiên cứu và vì anh ấy còn phải lên lớp, nên tôi lo hầu hết việc xử lý tài liệu và nhập dữ liệu cho nghiên cứu của chúng tôi, vì vậy không có nhiều thời gian cho những việc khác.”
“Hãy kể cho chúng tôi nghe về nghiên cứu của các anh đi,” Charles tò mò. “Anh đang nghiên cứu gì?”
Randall trả lời: “Lâm sàng. Chúng tôi đang nghiên cứu các khía cạnh hành vi của tâm trí và cách nó hoạt động trong thế giới vật chất.”
Peter gật đầu và tham gia cùng, luôn tỏ ra sốt sắng khi nhắc đến nghiên cứu của họ. “Randall và tôi đang phát triển một phương pháp mới giúp điều trị cho những người có xu hướng giết người. Chúng tôi đang nỗ lực loại bỏ xu hướng đó và đưa họ trở lại thành công dân bình thường của xã hội. Cũng giống như anh và tôi.”
“Anh đang loại bỏ xu hướng giết người của họ?”
“Đúng thế.”
“Giống như anh sẽ loại bỏ một khối ung thư?”
“Đó là một phép so sánh tuyệt vời,” Peter mỉm cười nói. “Đó chính xác là những gì chúng tôi đang làm, trừ ca phẫu thuật. Tất cả đều được thực hiện bằng tâm trí. Thông qua liệu pháp trị liệu.”
Randall nhìn quanh trong khi Peter nói về dự án. Peter rất giỏi kể chuyện. Anh ấy biết cách trình bày thông tin đến một nhà tài trợ tiềm năng, đối tượng hoặc giáo sư hay nhà nghiên cứu vừa đủ để thu hút sự quan tâm của họ, nhưng không đủ để tiết lộ bất cứ điều gì quan trọng. Anh ấy khéo léo như một nghệ sĩ xiếc biểu diễn trên dây. Điều mà Randall không bao giờ có thể làm được.
Ở phía đối diện căn phòng, một người đàn ông đang dựa vào một trong những cây cột gỗ sồi ngăn cách khu vực ăn uống với
quầy bar. Anh ta không cử động, mỉm cười hoặc tương tác với bất kỳ vị khách nào và khi Randall nhận ra anh ta và mắt họ chạm nhau, người đàn ông không nhìn đi đâu khác. Randall đột nhiên đau nhói nhẹ sau đầu. Anh nhắm mắt lại một lúc, hy vọng cơn đau nửa đầu sẽ không xảy ra. Không phải tối nay.
“Và nó hiệu quả chứ?” Alex đang nói.
“Chúng tôi vẫn đang ở giai đoạn đầu tiên,” Peter trả lời. “Sơ bộ thôi.”
Randall quay lưng lại người đàn ông bên kia căn phòng, cố gắng phớt lờ con đau đang ngày càng dữ dội. “Hãy cứ biết rằng chúng tôi được khích lệ bởi những kết quả mà chúng tôi đã đạt được tính đến thời điểm này. Tuy nhiên, chúng tôi thực sự không thể nói chi tiết về nó. Tôi e rằng Peter đã nói với anh nhiều hơn những gì anh ấy nên nói rồi.”
Felix lấy danh thiếp ra khỏi túi áo ngực. “Có vẻ như những gì anh đang làm có thể thay đổi cuộc chơi. Chúa ơi, những sinh mạng mà anh đang cứu. Những người anh không muốn trở thành nạn nhân. Nếu đúng là nó mang ý nghĩa quan trọng như thế, các quý ông, tôi rất hứng thú. Tôi quen rất nhiều người có thể đón chào các anh. Hoặc có lẽ, nếu cần tài trợ trong tương lai, các anh có thể tìm tôi. Tôi muốn tìm hiểu thêm khi đến thời điểm thích hợp.”
Randall nhận tấm danh thiếp. “Tất nhiên rồi.”
“Anh yêu, anh không thể trốn trong góc cả tối như thế. Hôm nay là lễ kỷ niệm mà!” Những người đàn ông xung quanh Randall và Peter tản ra khi Amanda đến gần họ. Cô ấy trông thật lộng lẫy trong chiếc áo choàng dài màu đen có đính kim sa
màu bạc lấp lánh dưới ánh đèn. Mái tóc đen xõa ngang vai. Đôi mắt nâu của cô ấy to, tròn, luôn rạng rỡ. Cô có thân hình của một vận động viên, đẹp và săn chắc. Mọi thứ trên người cô đều vô cùng hài hòa. Trang điểm, làm tóc, móng tay, trang sức – tất cả đều trang nhã và thanh lịch. Cô quàng tay qua lưng Randall và ôm anh.
“Tôi cá rằng Peter và chồng tôi đang hấp dẫn các anh bằng sự thông tuệ về khoa học của họ?” Amanda hỏi, mỉm cười chào những người đàn ông khác.
“Đúng là như vậy,” Felix trả lời. “Anh ấy và Tiến sĩ Reems đã kể cho chúng tôi nghe về thí nghiệm mới nhất của họ.” “Vậy ư?”
“Nó rất hấp dẫn.”
“Có vẻ như có một số anh chàng không thể giữ bí mật.” Cô hôn lên má Randall. “Em mong là anh đã bảo các anh ấy ký giấy giữ bí mật. Em không nghĩ các anh ấy giữ được thông tin độc quyền này đâu.”
Cả nhóm cười lớn, và điện thoại di động của Amanda đổ chuông. Cô ấy đang cầm điện thoại trên tay, nhìn vào màn hình và nhanh chóng từ chối cuộc gọi.
“Ai đó?” Randall hỏi.
“Không. Một nhà tài trợ thôi. Em đã nhận được các cuộc điện thoại chúc mừng suốt tối. Cuộc này cũng thế.” Randall liếc mắt và thấy có gì đó khác. Anh thấy vài người phục vụ đang mang những chiếc đĩa trống quay trở lại nhà bếp. Họ đi qua, và anh lại thấy người đàn ông từ bên kia phòng. Lúc này anh ta đã ở gần hơn, đang đứng dựa vào một bức tường gần
phòng sinh, nhìn chằm chằm vào Randall, bất động. Anh ta cũng mặc lễ phục như những người khác, cầm ly rượu trên tay, nhưng không nói chuyện với bất cứ ai. Và cái nhìn chằm chằm đó. Như xuyên thấu.
“Này, ai vậy?” Randall hỏi, kéo Amanda lại gần để cô có thể trông thấy.
"Hả?”
Nhiều phục vụ hơn đi qua trước mặt họ. Khi tầm nhìn thoáng hơn, người đàn ông kia đã biến mất.
“Ai cơ, anh yêu?”
Randall nhìn quanh, đầu anh lại đau nhói. “Giờ anh không thấy anh ta nữa. Anh ta cứ nhìn anh chằm chằm. Đầu tiên anh ta ở gần quầy bar, và vừa rồi anh ta ở gần phòng vệ sinh. Thật kỳ lạ.”
Amanda nghển cổ, cố gắng nhìn xuyên qua đám đông. “Anh ta trông như thế nào?”
“Anh không rõ. Chỉ là một anh chàng nào đó.”
“Cao? Thấp? Màu tóc? Bất cứ điều gì? Em chắc là em biết anh ta. Em có thể giới thiệu cho anh.”
“Một gã nào đó thôi. Anh chưa bao giờ nhìn thấy anh ta trước đây. Anh đoán là anh ta có chiều cao trung bình. Tóc nâu? Anh ta mặc lễ phục, chứng tỏ anh ta không ăn mặc suồng sã, nhưng cách anh ta nhìn chằm chằm vào anh. Anh không thích thế.”
Amanda cau mày. “Nghe có vẻ thù địch thế? Em có nên gọi bảo vệ không?”
Randall lắc đầu. “Không phải kiểu như vậy. Quên đi. Chúng ta chắc chắn không cần bảo vệ đâu. Không có gì cả.” Amanda lại nhìn xung quanh. Cô nhíu mày, và đột nhiên lộ vẻ lo lắng. “Anh chắc chứ?”
“Chắc. Ổn mà. Anh không có ý làm em lo lắng.”
“Trông anh nhợt nhạt quá.”
“Anh nghĩ mình có thể bị chứng đau nửa đầu.”
Ba tiếng rít lớn phát ra từ những chiếc loa bao quanh căn phòng. Đám đông quay về phía sân khấu, nơi một người đàn ông lớn tuổi đứng trước micro.
“Kính thưa quý vị, tôi muốn cảm ơn tất cả các vị đã đến chung vui cùng chúng tôi ngày hôm nay,” ông bắt đầu. “Tối nay, chúng tôi dành bữa tiệc này để tôn vinh Amanda Brock. Quỹ Những trái tim thuỷ tinh của cô đã tác động tích cực đến phần lớn cuộc sống của hàng nghìn người đã bị xã hội lãng quên. Vô số giờ cam kết và sự hỗ trợ kiên định của cô ấy đã cho chúng ta thấy lòng tốt, sự vị tha và lòng trắc ẩn vẫn tồn tại. Đêm nay, chúng tôi tôn vinh Amanda, nhưng chúng tôi cũng tôn vinh những cuộc đời mà nhờ cô ấy đã thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn.”
Một tràng pháo tay nhiệt liệt vang lên. Amanda vỗ nhẹ vào ngực Randall, hôn tay mình và đặt lên má anh. “Em phải đi rồi,” cô nói. “Anh ổn chứ?”
“Tất nhiên rồi, em yêu.”
“Hãy yêu cầu phục vụ lấy một viên aspirin hay thứ gì đó nhé. Em không muốn anh bị mệt khi phải chịu đựng chứng đau nửa đầu đâu.”
“Anh ổn mà,” Randall trả lời. “Em lo việc của mình đi.”
Điện thoại của cô lại đổ chuông. Cô loay hoay tắt trước khi hồi chuông thứ hai vang lên.
“Em có muốn anh cầm giúp trong khi phát biểu không?” “Không cần đâu, em lo được.”
“Vậy thì em nên để rung thôi.”
“Em biết rồi, anh lấy thuốc đi nhé.”
Amanda mỉm cười và bước đi, nắm chặt điện thoại trong tay khi bước ngang qua đám đông đang tán thưởng. Anh thoáng thấy chút hoảng sợ trong nụ cười của cô và tự hỏi người gọi đó là ai. Anh thực sự nên uống thuốc trước khi cơn đau đầu trở nên tồi tệ hơn, nhưng thay vào đó, anh đi theo cô về phía sân khấu, nơi cô sẽ được trao giải thưởng và trình bày bài phát biểu mà cô đã viết, sửa đổi và căng thẳng lo lắng trong suốt tháng vừa qua. Khi hòa mình vào đám đông, anh nhìn xung quanh một lần nữa để tìm kiếm gã đàn ông kia, nhưng không thấy ai ngoại trừ những người ủng hộ vợ anh và các tổ chức từ thiện của cô ấy. Họ là đại gia đình của Amanda, và tất thảy họ ủng hộ cô ấy. Họ yêu cô nhiều như anh vậy. Và ngay cả khi được bao bọc trong căn phòng đầy sự thân thiết và hỗ trợ ấy, anh vẫn không thể ngừng nghĩ về những gì Jerry Osbourne đã nói.
Kiểu bóng tối khiến không gian đặc quánh lại, anh hiểu chứ? Và bầu không khí ấy khiến người ta cảm thấy nơi nào có ánh sáng thì nơi đó có vẻ an toàn. Nhưng cảm giác an toàn trong bóng tối ấy là giả, mà đã là giả thì không thể tin tưởng được. Khi trời tối như vậy, ánh sáng chỉ là một cái bẫy.
04
M
ặt trời chưa lên đủ cao để thắp sáng cả bầu trời. Trời vẫn còn tờ mờ nhưng những ánh đèn pha hắt lên từ sâu trong thung lũng nối sườn đá với sông Hudson. Đội cứu hỏa mất hơn một giờ để xác định vị trí và dựng ba đèn chiếu sáng hiện trường. Họ bắt tay ngay vào việc khi đến, một số cầm đèn pin trong tay, số khác gắn trên mũ bảo hiểm như thể thợ mỏ. Trời lạnh thấu xương, gió rít thổi từng hồi từ phía sông, cái lạnh cửa vào da thịt, khiến các khớp tay họ đau buốt khi nỗ lực điều tra tai nạn và xác định thi thể.
Thanh tra Susan Adler đi ngược lên phía trên và vòng quanh các tảng đá, trượt chân trên bề mặt băng giá, nơi nước sông bắn lên và đóng băng. Cô mặc một chiếc quần trượt tuyết màu đen được lấy ra từ cốp xe hơi của mình và hai lớp áo len bên dưới chiếc áo khoác đồng phục cảnh sát New York. Đôi găng tay dày giúp cô giữ ấm tay nhưng lại khiến mọi thao tác của cô trở nên vụng về. Cô phải sức tập trung để bám chắc vào một tảng đá và đu người về phía trước trong bóng tối, không biết bước tiếp theo sẽ dẫn mình đến đâu.
Cô nhận được một cuộc gọi khi đang ngồi ở bàn làm việc để hoàn thành nốt báo cáo cho một vụ bắt giữ trước đó. Đáng lẽ cô
được luân chuyển xuống cuối danh sách phụ trách vụ án, nhưng vì cô đang ở đồn khi cuộc gọi đến, người chỉ huy ca trực đã yêu cầu cô xuống hiện trường với tư cách đội trưởng.
Chiếc xe bị nạn là một chiếc Mercedes Sedan màu bạc. Đó là tất cả những gì cô có thể xác định. Ngoài ra – mẫu xe, số cửa, năm sản xuất – vẫn là một bí ẩn. Đơn giản là vì chiếc xe bị hư hại quá nặng. Nhìn sơ qua, có vẻ như chiếc xe đã lao từ con đường phía trên xuống chỗ cô đứng từ độ cao hơn sáu mươi mét, va vào sườn núi lởm chởm, và trong quá trình lộn nhào, đã quật gẫy các cành cây cho đến khi bị kẹt lại giữa hai tảng đá lớn dưới hẻm núi. Đèn pha của xe – một bên vẫn sáng – rọi thẳng lên bầu trời.
Bây giờ, khi đã ở trong phạm vi chiếu sáng của đèn chiếu sáng hiện trường, Susan mới có thể quan sát những chi tiết. Máu bắn tung toé bên trong xe và trên mui xe. Kính chắn gió cũng như các cửa sổ bên vỡ toang. Phần nóc xe móp méo lõm sát vào phần tựa đầu các ghế. Đâu đó trong đống đổ nát là một thi thể, nhưng đây sẽ không phải là một cuộc giải cứu. Thật ngạc nhiên khi người lái xe không bị văng ra ngoài khi xe rơi xuống.
Một thanh niên trẻ mặc quần jean và áo gió của cảnh sát tách mình ra khỏi đơn vị Tái tạo Va chạm và leo về phía Susan. “Thanh tra Adler?”
“Vâng, tôi đây.”
Chàng thanh niên mỉm cười và đưa tay ra. “Tommy Corolla. Rất vui được gặp cô, dù tôi ước ở trong hoàn cảnh tốt hơn.” Susan bắt tay cậu ta. “Cậu là người mới à?”
“Vâng.”
“Cậu đang làm gì ở đây?” Cô hỏi. “Đáng lẽ cậu phải báo cáo ở đồn sáng nay mà.”
Tommy nhún vai và ra hiệu về phía xác xe. “Đúng là sáng nay, nhưng khi có điện gấp, tôi đã đề nghị được tham gia cùng cô, tôi bảo đồn trưởng là tôi sẽ gặp cô ở đây. Hy vọng cô không phiền.”
“Không sao. Tôi chỉ nghĩ rằng cậu muốn ngày đầu tiên đi làm của mình dễ chịu hơn chứ?”
“Không, tôi muốn tham gia vụ này.”
“Đây chỉ là một vụ tai nạn xe hơi thôi.”
“Còn hơn là ngồi ôm mấy cái biểu mẫu từ phòng Nhân sự.” Cô có thể nhìn rõ cậu ta hơn một chút dưới ánh đèn. Cậu ta khoảng ba mươi tuổi. Khá dễ thương. Mái tóc bồng bềnh được chải và giữ nếp gọn gàng bằng một loại gel nào đó. Đôi mắt nâu quan sát khung cảnh, ghi nhận cẩn thận. Cậu ta cạo râu sạch sẽ và cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng cô có thể nói rằng cậu ta đang lo lắng.
“Cậu biết chúng ta sẽ phải xem xét gì chưa?” Cô hỏi. “Có vẻ như chiếc xe đã lao xuống từ con đường phía trên, đâm tung hàng rào bảo vệ và kẹt ở những tảng đá này. Trình điều khiển tự động. Đội cứu hỏa và cứu hộ đang cố gắng đưa thi thể ra ngoài, nhưng nó bị kẹt cứng trong đó.”
“Ai đã gọi báo tai nạn? Chúng ta có nhân chứng không?” “Không. Một người lái tàu kéo từ Albany xuôi xuống hạ lưu sông đã gọi điện đến. Anh ta nghĩ góc chiếu của những chiếc đèn khá đáng ngờ và đã liên lạc với Cảnh sát biển. Họ đến kiểm
tra rồi liên lạc với chúng tôi. Chúng tôi đã cử một nhóm từ bộ phận công viên ở Bear Moutain sẵn sàng leo dây để xem liệu có thể thu thập được bất cứ thứ gì có thể đã bị văng ra không, nhưng hiện tại trời quá tối.”
“Có ai điều tra biển số để lấy thông tin chưa?”
“Không thể. Biển trước đã văng đâu đó trong quá trình rơi, và biển sau, nếu vẫn còn nguyên vẹn, thì kẹt cứng giữa hai tảng đá. Không kiểm tra đăng trên kính chắn gió được. Nó vỡ toang rồi. Chúng ta sẽ biết thêm thông tin khi trời sáng. Đội CRU[2] đã cố hết sức với số đèn họ có. Họ đã đồng ý đưa nạn nhân ra ngoài.”
Susan ngước mắt nhìn bầu trời đêm phía trên dãy núi đá. Tuyến đường 202, còn được gọi là Đường mòn Con dê, là một cung đường ngoằn ngoèo cắt ngang rìa núi, sau đó xuyên qua Hạt Rockland và dẫn vào Bear Moutain. Đoạn đường mòn này, cách cầu Bear Moutain khoảng một phần tư dặm về phía Nam, là đoạn nguy hiểm nhất. Đó là con đường chạy theo cả hướng Bắc và Nam, khúc khuỷu và đoạn này gấp khúc nhất.
“Có vẻ cú rơi đến chừng hơn sáu mươi mét đấy,” cô nhận định.
Tommy nhìn theo ánh mắt cô. “Đúng thế, phải chừng ấy. Đủ để tử nạn. Chắc chắn là thế.”
“Họ đang cải tạo rào chắn ở đoạn đường đó, phải không?” “Đúng thế, một số người có mặt tại hiện trường đã nói vậy. Họ đã đặt rào chắn ở đó.”
“Tôi nghĩ họ cho rằng hàng rào chắn chắc như bức tường họ đang sửa.”
“Có lẽ.” Tommy chỉ vào chiếc Sedan nát tươm. “Những người tôi nói chuyện bảo rằng hàng rào đó rất chắc chắn. Các thanh nối gia cố, được làm bằng thép cơ mà. Người lái xe hẳn đã phải lao với tốc độ khủng khiếp như thế nào mới phá toang được hàng rào ấy.”
Susan có thể nhìn rõ hơn rìa của vách núi nhờ ánh sáng màu đỏ mờ từ một trong những chiếc tuần dương hạm đang nằm trên đỉnh nơi hàng rào đã bị phá vỡ. Cú rơi thực sự khủng khiếp. Cô đã lái xe trên cung đường đó biết bao lần rồi. Mấy đứa con của cô thích nhìn qua ria để ngắm những con diều hâu đang bay bên dưới. Cô biết những khúc cua đó hẹp như thế nào!
“Có gì đó!”
Susan và Tommy quay lại thì thấy một chàng cảnh sát trẻ đang trồi lên từ bụi cây, lách mình xuống một con dốc liền kề với nơi đèn hiện trường được đặt. Anh giơ đèn pin ra trước mặt, cẩn thận giữ thăng bằng để đu lên chỗ họ đứng.
“Chúng tôi tìm thấy thứ này cách đầu phía tây khoảng bốn mươi mét,” viên cảnh sát nói khi đưa ra một cuốn sổ da màu đen bỏ túi. “Chắc hẳn nó đã bị văng trong lúc xe rơi.”
Tommy cầm cuốn sổ và phủi lớp bụi bám ngoài bìa da. “Tôi đoán tài xế là một phụ nữ.”
Susan lấy chiếc túi và mở khóa phần trên. Tommy chiếu đèn pin vào bên trong xe trong khi cô chạy đi đâu đó, và quay ' trở lại với một chiếc ví da ăn khớp. Cô mở nó ra và đưa nó lên ánh sáng.
“Được rồi,” cô nói khi xem xét bằng lái xe. “Có vẻ như chúng ta có thể xác định danh tính nạn nhân rồi.” Cô nghiêng người để nhìn rõ hơn. “Người lái xe là Amanda Brock. Bắc Salem, New York.”
R
05
andall biết rằng tình trạng căng thẳng có thể tác động đến trí nhớ và ảnh hưởng đến khả năng nhớ lại chi tiết của một vài sự kiện nhất định ở một người. Trong thời gian căng thẳng, cơ thể phản ứng bằng cách tiết hoóc-môn căng thẳng vào máu. Sự dư thừa các hoócmôn này có thể làm suy giảm khả năng nhớ lại ký ức của hồi hải mã. Randall từng đọc được thông tin này trên Tạp chí Khoa học Thần kinh nhiều thập kỷ trước đó trong một trong những kỳ thực tập đầu tiên của mình. Thật trớ trêu khi anh có thể nhớ được một sự kiện không tồn tại trước khi xuất hiện trên một tạp chí hay một tờ báo, thậm chí ghi lại công việc anh đã thực hiện, nhưng không thể nhớ chính xác các
sự kiện dẫn đến việc anh ngồi trong nhà xác của quận. Cảnh tượng cứ loang loáng trong đầu anh. Tiếng gõ cửa văn phòng. Ánh mắt của Peter khi ló đầu vào. Người phụ nữ mặc quân phục xanh than bước vào sau Peter. Ngồi ghế sau chiếc Ford Taurus màu đen. Âm thanh ầm ầm khi cánh cửa cửa nhà xác mở ra. Sự im lặng của căn phòng nhỏ mà họ đưa anh vào. Tiếng đồng hồ tích tắc trên tường đếm từng giây. Anh đã cô độc trong một… hai… ba...
Anh biết người phụ nữ đang ngồi sau anh, dựa lưng vào tường nhưng anh không chịu quay lại. Thanh tra gì đó. Điều tra viên nào đó. Anh biết cô đã cho anh xem thẻ của mình từ lúc họ còn ở văn phòng, nhưng anh không thể nhớ tên hoặc chức danh chính xác của cô. Cô cũng lặng lẽ như anh. Họ đang chờ đợi, nhưng chờ đợi cái gì, anh cũng không biết chắc.
Cuộc sống sẽ thay đổi trong một… hai... ba...
Căn phòng nhỏ không có cửa sổ nằm đâu đó bên trong nhà xác. Cánh cửa cuối cùng cũng mở ra, một người phụ nữ trung niên bước vào mang theo tập tài liệu. Cô ấy mặc áo khoác phòng thí nghiệm, cặp kính tròn khiến mắt trông có vẻ to hơn.
“Tiến sĩ Brock,” cô nói nhỏ. “Tôi là giám định viên y tế của quận. Tiến sĩ Nestor.”
Randall gật đầu.
Cô ấy sẽ cung cấp một vài tin tức thực sự xấu trong một.. hai... ba...
Tiến sĩ Nestor ngồi xuống ghế đối diện với anh. “Như anh đã được thông báo, chúng tôi cho rằng vợ anh đã gặp phải một vụ tai nạn ô tô chết người và chúng tôi cần anh xác định danh tính thi thể tại hiện trường. Tôi biết đây là một cú sốc và tôi rất tiếc khi anh phải trải qua đau đớn này. Tôi muốn nói với anh rằng việc nhận dạng người thân trong thực tế không giống như trong phim hay sách vở. Anh không cần phải xem cả thi thể để nhận dạng.” Cô đặt tập tài liệu lên bàn và trượt nó về phía anh. “Đây là những bức ảnh của người đã khuất. Tất cả những gì anh cần làm là hãy cho chúng tôi biết đó có phải vợ anh không. Anh làm được điều đó chứ?”
Anh sẽ trở thành người góa vợ trong một… hai… ba... “Được.”
“Tốt. Bức ảnh mà anh xem chỉ chụp mặt của người đã khuất. Người cô ấy được phủ vải trắng. Có một số vết bầm tím và một vết rách nhỏ, nhưng không có hình ảnh gì.”
“Được.”
“Tôi sẽ để tập tài liệu ở đây và anh có thể mở nó khi sẵn sàng. Bao lâu cũng được. Anh cứ thoải mái. Tôi sẽ ở đây cho đến khi anh sẵn sàng.”
Cuộc sống của anh sẽ trở nên móp méo vô dạng trong một.. hai... ba...
Tiến sĩ Nestor buông tập tài liệu và ngồi lại chỗ của mình. Randall kéo nó lại gần, nhìn chằm chằm vào nó, nhẹ nhàng xoa bề mặt của nó bằng những đầu ngón tay.
“Tôi không biết liệu mình có thể làm được điều này không” anh nói, đôi mắt ầng ậng nước.
“Tôi hiểu. Anh cứ bình tĩnh.”
“Ý tôi là, nếu tôi mở nó ra và đó là cô ấy, thì điều đó sẽ trở thành sự thật, cô hiểu không? Nếu tôi không mở, rất có khả năng là cô đã nhầm, và Amanda chưa chết. Có lẽ cô ấy chỉ về nhà muộn sau buổi lễ. Có lẽ cô ấy đang đi ăn mừng với bạn bè, và điện thoại của cô ấy hết pin. Miễn là tôi không mở tập tài liệu này, tôi có thể bám vào những suy nghĩ đó, dù chúng có ngớ ngẩn đến mức nào. Nhưng nếu tôi mở ra và đó là cô ấy, tôi không thể chối bỏ hiện thực ấy.”
Căn phòng lại chìm vào im lặng. Randall tập trung vào hơi thở của mình. Đó không thể là cô ấy. Đó không thể là Amanda.
Nhưng anh không phải kẻ ngốc. Họ sẽ không để anh ngồi đây nếu nghi ngờ. Họ đã tìm thấy xe của cô ấy. Ví của cô ấy. Đó là cô ấy. Vợ anh đã chết. Đồng hồ trên tường tiếp tục điểm từng giây. Mọi thứ đều thay đổi trong một… hai... ba...
Anh mở tập tài liệu và họng anh phát ra thứ âm thanh chưa từng có. Đó là sự kết hợp của một tiếng thở dài và tiếng hú. Nghe có vẻ thú tính, phi nhân tính. Đó là tiếng trái tim anh đang tan vỡ.
Amanda.
Có một vết cắt trên trán và mắt trái sưng phù. Mũi của cô ấy trông như thể đã gãy, và có một vài vết bầm tím ở bên phải khuôn mặt, nhưng đây là vợ anh. Anh không nghi ngờ gì về điều đó.
“Đây là Amanda,” anh thì thầm, nước mắt rơi lã chã. “Đây là vợ tôi.”
Tiến sĩ Nestor đóng tập tài liệu lại và kéo nó về phía mình. “Tôi rất tiếc vì mất mát này.”
“Giờ thì sao?” Anh hỏi. “Phải làm gì tiếp theo?”
“Chúng tôi cần xác định nguyên nhân khiến cô ấy mất lái và lao xuống vực, vì vậy chúng tôi sẽ khám nghiệm tử thi. Sau khi hoàn tất, chúng tôi sẽ trả lại thi thể cho anh. Nếu anh cung cấp cho chúng tôi thông tin nơi tổ chức tang lễ mà gia đình mong muốn, chúng tôi sẽ gửi thi thể nạn nhân đến đó. Sẽ không mất quá hai ngày đâu.”
Anh gật đầu, và Tiến sĩ Nestor đứng dậy, rời khỏi phòng, cùng lúc đó, nữ thanh tra/điều tra viên ngồi sau anh cũng đứng lên và thế chỗ nhân viên giám định. Cô nhìn anh, và anh nhìn
lại cô. Da cô không trắng như anh, nhưng vẫn có vẻ xanh xao của người Ireland với những đốm tàn nhang li ti nằm rải rác trên sống mũi và dưới đôi mắt xanh lục. Mái tóc đen của cô được buộc đuôi ngựa. Cô không đeo trang sức và hầu như không trang điểm.
“Xin chia buồn cùng anh và gia đình,” cô lên tiếng. “Vợ chồng anh có con chưa?”
“Chưa. Chúng tôi mới kết hôn được hai năm. Khá muộn. Chúng tôi chưa bao giờ cân nhắc đến việc sinh con.” “Chúng tôi có thể gọi ai cho anh không?”
“Không cần. Tôi không sao.”
Người phụ nữ dừng lại một lúc. “Tiến sĩ Brock, tôi cần hỏi anh vài câu hỏi về đêm qua để hoàn thành báo cáo. Tôi biết việc này thật đường đột nhưng tôi không muốn tỏ ra nhẫn tâm. Chúng tôi cần thông tin để tập hợp báo cáo. Được chứ?”
Randall nhìn cô, cố gắng nhớ tên. Đầu óc anh hoàn toàn trống rỗng. Căng thẳng thì đúng hơn. Hồi hải mã của anh đang chìm trong những hoóc-môn căng thẳng. “Tôi không có ý thô lỗ,” anh nói,“nhưng cô nói mình là ai nhỉ?”
“Điều tra viên Adler của Cảnh sát New York,” cô trả lời. “Tôi phụ trách vụ án liên quan đến tai nạn của Amanda.” “Vâng.”
Adler nghiêng người về phía trước. “Anh có thể cho tôi biết về đêm qua không?”
Randall thở dài và cố gắng nhớ lại những sự kiện của ngày hôm trước. “Chúng tôi đã ở khách sạn Bear Moutain. Cô ấy được trao giải thưởng cho công việc từ thiện của mình. Amanda điều
hành một tổ chức phi lợi nhuận lớn tài trợ cho một loạt các tổ chức từ thiện nhỏ hơn. Họ đã trao cho cô ấy giải thưởng nhân đạo.”
“Ai là người trao giải thưởng đó?”
Randall cười khùng khục. “Tôi thậm chí không thể nhớ. Hội đồng quản trị, tôi nghĩ thế. Thông qua cơ quan quốc gia của tổ chức cô ấy. Nó có tên là Những trái tim thuỷ tinh.” “Anh đã ở với Amanda cả đêm?”
“Không. Tôi về sớm vì phải xử lý vài việc ở trường nơi cô tìm thấy tôi sáng nay.”
“Anh rời sự kiện lúc mấy giờ?”
“Tôi nghĩ là khoảng mười giờ. Khoảng nửa tiếng sau đó tôi về đến khuôn viên trường.”
“Buổi lễ kết thúc lúc nào?”
“Theo lịch trình thì là nửa đêm. Tôi chắc chắn sau đó mọi người lui tới quán bar.”
“Anh có nghe tin tức gì từ Amanda sau khi rời đi không?” “Không. Tôi đã gọi điện cho cô ấy để xem cô ấy về nhà chưa, nhưng cuộc gọi được chuyển đến hộp thư thoại. Tôi để lại cho cô ấy lời nhắn rằng hãy gọi lại cho tôi nhưng cô ấy đã không. Tôi đoán mình đã ngủ thiếp đi sau đó và giật mình thức giấc khi cô và Peter đến tìm tôi sáng nay.”
“Anh gọi cho cô ấy lúc mấy giờ?”
“Chắc khoảng mười hai rưỡi? Tầm đó.”
“Có khả năng cô ấy uống rượu trước khi lái xe không?” “Tôi không rõ. Tôi chắc rằng cô ấy đã uống một hai ly rượu vang hoặc sâm panh, nhưng Amanda không lái xe khi đã say
đâu. Nếu quá say, cô ấy sẽ đi nhờ hoặc gọi taxi. Cô ấy rất nghiêm túc về việc đó.”
“Cô ấy có dùng thuốc gì không?”
“Không.”
Adler ghi chú mọi thứ vào sổ tay, sau đó đứng dậy khỏi chỗ ngồi. “Tôi nghĩ đó là tất cả những gì tôi cần lúc này. Đây dường như là một tai nạn đáng tiếc. Tôi thực sự rất lấy làm tiếc.” “Cảm ơn cô.”
“Tôi sẽ đưa anh trở lại văn phòng để lấy xe. Tôi chắc rằng anh sẽ phải lo nhiều việc đấy.”
Randall rời ghế. Anh nhìn quanh căn phòng được sơn trắng đơn sơ lần cuối và tự hỏi có bao nhiêu người trước anh đã bị buộc phải mở tập tài liệu đó trong khi tất cả những gì họ muốn làm là đóng lại. Có bao nhiêu người sẽ phải làm điều đó sau khi anh rời đi? Có bao nhiêu cuộc đời đã thay đổi mãi mãi ngay khi họ bước qua cánh cửa đó và ngồi chơ vơ giữa căn phòng trống, không có gì ngoài chiếc đồng hồ trên tường điểm tích tắc từng giây?
Cuộc sống mà bạn biết sẽ kết thúc trong một… hai. ba...
B
06
ầu trời trong xanh như pha lê rực rỡ - thứ màu trời chỉ xuất hiện cùng với thời tiết lạnh giá ở vùng Đông Bắc. Tuyết rơi nhẹ suốt đêm đã tan hết. Nhiệt độ trên bảng điều khiển xe của Susan cho biết ngoài trời đang hơn 3°C và dù có nắng, nhưng gió Tây thổi vào từ sông khiến cô có cảm giác lạnh hơn thực tế từ mười đến mười lăm độ.
Cô đến chỗ Tommy đang đứng, nhìn ra vách núi. Cậu ấy đã ở lại và giám sát hiện trường trong khi cô thực hiện nhiệm vụ thông báo cho người thân. Trong lúc cô đi, một đội xây dựng đã dựng những thanh chắn lớn bằng nhựa có gắn đèn nhấp nháy màu vàng để thay thế tạm thời cho hàng rào. Một chiếc xe cảnh sát vẫn bật đèn báo và xi nhan để cảnh báo những người đi về phía nam giảm tốc độ và chú ý đến các khúc cua.
Tommy quay lại khi anh nghe thấy tiếng cô đến gần, những viên sỏi lạo xạo dưới chân cô.
“Cậu biết vẫn sẽ phải đến gặp phòng Nhân sự vào hôm nào đó chứ,” cô nói, mỉm cười. “Việc trốn ra hiện trường vụ tai nạn sẽ không giúp cậu thoát được các thủ tục giấy tờ đâu.”
Tommy bật cười. “Sếp tôi ra lệnh cho tôi ở lại. Tôi không muốn làm trái lệnh.”
Cô đến đứng gần cậu, chỉ tay về phía hàng rào. “Đội phụ trách đường sá sắp xếp mọi thứ nhanh nhỉ?”
“Đúng vậy, họ đã rất khẩu trương. Họ cũng vừa rời đi khoảng mười lăm phút trước. Cô xác nhận được danh tính nạn nhân rồi chứ?”
“Đúng, chính là cô ấy. Người chồng đã xác nhận rồi. Tôi vừa đưa anh ta về văn phòng. Anh ta là tiến sĩ tại Quarim. Cách đây khoảng nửa giờ lái xe về phía bắc.”
“Việc tồi tệ này lại xảy ra ngay trước kỳ nghỉ chứ.” “Đó là một điều tồi tệ vào bất kỳ thời điểm nào trong năm.” Susan đi đến mép đường và phóng tầm mắt nhìn ra xa. Lính
cứu hỏa và các nhân viên cảnh sát vẫn ở bên dưới, tìm kiếm bên trong và xung quanh chiếc xe, phá thành nhiều mảnh nhỏ hơn để có thể kéo nó ra ngoài. Đội Tái tạo Va chạm vẫn đang ở đó. Họ lấy máy trạm tổng và máy ảnh ra và đang trong quá trình cố gắng dựng lại nửa sau của vụ tai nạn, sau khi chiếc Mercedes lao xuống vực. Cô có thể nghe thấy giọng nói của họ vang vọng trong hẻm núi nhưng không thể hiểu chính xác họ đang nói gì. “Mẹ tôi sống ở thị trấn kế bên. Cold Spring. Tôi đã đi qua con đường này không biết bao nhiêu lần. Thật đáng sợ khi nghĩ đến việc đi qua đây.”
Tommy đến đứng cạnh cô. “Hãy nhìn xem cô ấy đã rơi xuống sâu như thế nào. Ý tôi là cô ấy hẳn phải đi với tốc độ sáu mươi, bảy mươi dặm một giờ thì mới rơi xuống sâu được như thế này. Nhưng những con đường kiểu này không thể đi nhanh như vậy. Ở đây có quá nhiều gió. Cậu không bao giờ có thể tăng ga rồi giữ nguyên tốc độ đó ở khúc cua tiếp theo.”
“Trông không giống như cô ấy đã giảm ga.”
“Thật điên rồ khi nghĩ cô ấy đã đi nhanh như thế.” Susan nghiêng người và nhìn thẳng xuống. “Có ai xuống hẻm núi chưa?”
“Chưa, vẫn chưa. Trời chưa sáng hẳn. Tôi sẽ cử người xuống. Những người khác đang dọn dẹp hiện trường chính, sau đó chúng ta có thể khoanh vùng!”
“Được. Tôi đã yêu cầu lịch sử cuộc gọi của cô ấy. Tôi muốn biết liệu cô ấy có đang nói chuyện điện thoại khi lái xe hay không. Có thể cô ấy đã bị phân tâm.”
“Có lẽ.” Tommy chỉ về phía hàng rào lưới màu cam. “Tôi nghĩ mình đã tìm thấy gì đó và cần ý kiến của người thứ hai.” “Cho tôi xem nào.”
Susan theo cậu trở lại con đường. Tommy dừng lại khi họ đến phần hàng rào mà Amanda Brock đã đâm qua. Cậu cúi xuống và ra hiệu cho cô lại gần.
“Tôi đã quan sát hàng rào trong khi chờ các nhân viên đường sá dựng hàng rào mới,” anh giải thích. “Thật phi lý khi một chiếc Sedan có thể đâm xuyên hàng rào gia cố chuyên dụng như thế này. Nó không phải một chiếc xe bán tải hay xe thương mại nửa tấn. Nó chỉ là một chiếc xe hơi. Vì vậy, tôi bắt đầu tìm kiếm xung quanh điểm và chạm. Và nhìn này.”
Susan quỳ gối xuống bên cạnh và xem xét mép hàng rào đã bị đâm thủng.
“Cô đang lái xe với tốc độ sáu mươi dặm một giờ chẳng hạn. Cô mất lái, lao chệch khỏi đường đi và đâm sầm vào hàng rào và
văng một quãng xa, tôi đoán cô không có thời gian để đạp phanh.”
“Rồi.”
“Cô nghĩ hàng rào sẽ uốn cong như thế nào tại điểm gãy?” Susan suy nghĩ một lúc. “Tôi đoán kim loại sẽ giãn ra một chút, sau đó gãy bung về phía ngoài, hướng ra sông. Về hướng nó bị đâm gãy.”
Tommy gật đầu. “Chính xác. Giờ thì cô nhìn đi.”
Susan cúi xuống gần hơn. Gờ của mắt xích nơi chiếc xe lao vào phẳng một cách kỳ lạ. Kim loại hoàn toàn không bị kéo căng và các cạnh không bị rách hoặc bị uốn cong. “Thật lạ,” cô nói. “Trông như vết cắt.”
“Khá giống suy nghĩ của tôi. Cả hai đầu của lỗ hổng đều như vậy. Phần duy nhất bị uốn cong theo cách cô nghĩ là phần trên cùng. Nếu không, thứ này sẽ lộ ra như một cánh cửa khốn nạn. Không có chút rào cản nào. Cô ấy lái thẳng qua luôn.”
Susan đứng dậy. Cô đi đến phía bên kia của lỗ hổng và xem xét hàng rào. Điểm đứt bên này cũng thẳng. “Cậu nghĩ có ai đó đã cắt hàng rào ra rìa núi? Để đi bộ đường dài hoặc leo dây? Việc này có thể được thực hiện nhiều tháng trước khi vụ tai nạn đêm qua xảy ra.”
“Nếu đúng như vậy, cô Brock là người đen đủi nhất hành tinh này. Ý cô là cô ấy đã va vào hàng rào ở đúng vị trí bị cắt nên không có gì cản xe cô ấy lao xuống vực?”
“Không đời nào.”
“Đúng vậy. Không chắc.”
“Được rồi,” Susan nói. “Hãy điều vài người đi bộ xuống đoạn còn lại của hàng rào này, và xem liệu có bất kỳ vi phạm nào khác không. Bất kỳ vết cắt thép nào. Và hãy cùng tìm hiểu về loại công cụ cắt nào có thể cắt được thứ này.”
“Được rồi.”
Gió thổi, Susan phải quay mặt đi để tránh lớp bụi cát cuộn lên. Khi quay lại, cô nhìn ra đường. Những người lái xe vượt qua họ trên đường xuống núi, nhìn chằm chằm để đoán xem chuyện gì đang diễn ra.
“Không có vết trượt nào,” cô nói. “Cô ấy không dừng lại.” “Tối qua, bên CRU đã mang những chiếc xe trượt kéo đến, nhưng họ không có gì để so sánh vì cô ấy không phanh.” “Theo bản năng thì đúng lý là phải phanh chứ nhỉ?” Tommy nhún vai. “Hoặc là tự sát, ngủ quên hoặc đã chết. Bất kỳ lời giải thích nào khác đều không có ý nghĩa.”
A
07
manda đã gắn vào đời anh nhờ một quán bar vắng người, hai mươi lăm xu, và sự hào hoa của Ray Charles.
Randall đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu ở quầy bar, xem các điểm tin thể thao đang được chiếu trên chiếc ti-vi đặt ở góc. Địa điểm này rất nhỏ, chủ yếu dành cho dân địa phương San Francisco và đám đông thường sẽ thưa dần trong khoảng một giờ sau đó. Một nhóm nhỏ đàn ông và phụ nữ ăn mặc đẹp đã thu hút sự chú ý của anh khi họ bước vào. Anh có thể nhìn thấy họ qua hình ảnh phản chiếu trong tấm gương trải dài phía sau quầy bar. Ba nữ, sáu nam. Họ đang cười đùa vui vẻ và dường như rất vui khi được ở cùng nhau. Họ đẩy hai bàn sát nhau vào góc, tránh xa những người khác. Randall quan sát họ cho đến khi họ ngồi xuống sau đó quay lại xem ti-vi, kéo cốc bia của mình lại gần và nắm chặt nó như thể nó có thể chạy mất.
“Đến lượt anh kìa,” ông già bên cạnh anh nói nhỏ. Randall nhìn lên và phát hiện ông già đang chỉ vào chiếc máy hát tự động được đặt cạnh phòng vệ sinh. Anh đã không nhận ra bài hát kết thúc. Anh đứng dậy và đi về phía đó, móc đồng quarter cuối cùng trong ngày ra khỏi túi.
“Hãy hát cho xứng đồng tiền nhé,” người đàn ông gọi với theo.
Randall phớt lờ ông ta. Anh hơi nghiêng người về phía màn hình, đọc danh sách vô tận các bài hát đủ mọi thể loại. Anh bỏ đồng quarter quý giá của mình vào khe tiền xu và rờ ngón tay trên màn hình để đảm bảo anh biết đúng số đã chọn.
“Anh đang nghĩ gì thế?”
Một người phụ nữ trong nhóm nọ đang đứng cạnh anh, ngó qua vai anh để nhìn danh sách bài hát. Cổ anh nghẹn lại trong giây lát, và anh thấy mình không thể trả lời. Cô mặc một chiếc áo len thiết kế màu xanh và quần tây đen. Đôi giày cao gót và chiếc khăn quàng cổ đỏ hoàn thiện bộ trang phục tuyệt vời. Tóc cô được búi cao bằng băng đô, tạo điểm nhấn cho đôi mắt. Khi cô nhìn anh, mọi thứ khác trên thế giới này dường như đều dừng lại.
“Tôi rất mê nhạc cổ điển thập niên tám mươi,” cô nói. “Không có quá nhiều xử lý kỹ thuật. Chúng gợi lại nhiều kỷ niệm mà tôi muốn chôn chặt.”
“Tôi định hát Georgia on My Mind.”
Cô cười. “Ray Charles? Được đấy. Nhưng một bài vui nhộn hơn thì sao? I Got a Woman hay Leave My Woman Alone thì sao? Sẽ hay đấy.”
“Cô biết Ray Charles của cô mà.”
“Có chứ. Vậy bài đó thì sao? Vui nhộn?”
Randall lắc đầu và quay đi. “Tôi thực sự không có tâm trạng để vui vẻ.”
“Ồ. Vậy thì thôi.” Cô đẩy anh ra khỏi chỗ đứng, tìm âm hát và nhập mã số. Nhạc nổi lên, sau đó là giọng nói đầy quyến rũ của Ray truyền qua loa. “Đến lượt anh rồi.”
“Cảm ơn.”
“Tôi hy vọng anh sẽ phấn chấn hơn vì tôi còn cả đống quarter và không ngại dùng chúng.”
“Tôi sẽ thử và điều chỉnh.”
Cô dừng lại một chút, sau đó giơ chiếc huy hiệu nhiều lớp đeo trên cổ mình ra. “Nhân tiện, tôi là Amanda.” “Randall.” Anh chìa tay ra và cô bắt tay anh. Anh có thể cảm nhận được làn da mịn màng của cô và rất muốn nắm tay cô lâu hơn và kéo cô lại gần mình. Anh không biết tại sao, nhưng có điều gì đó ở cô cuốn hút anh khi anh nhìn cô. Đôi mắt ấy. Nụ cười ấy.
“Có vẻ như anh không ở gần đây, Randall. Bờ Đông à?” "Jersey.”
Amanda cười tươi hơn, và cô vỗ tay. “Tôi đến từ New York. Vừa đi công tác. Còn anh thì sao?”
“Tôi đã đến đây được vài năm. Và định ở lại.”
“Được rồi.” Cô bắt đầu lắc lư theo điệu nhạc, hát nhép vài câu và quan sát anh. “Anh biết chúng ta không thể nói với bất cứ ai rằng chúng ta đã gặp nhau ở quán bar, đúng không? Chuyện thật sáo rỗng.”
“Chúng ta sẽ nói với ai cơ?”
“Mọi người.”
“Ví dụ?”
“Tôi không biết. Mọi người.”
Randall gật đầu. “Vậy nếu không nói thật, chúng ta nên nói gì với họ?”
Amanda ngửa đầu ra sau để suy nghĩ. “Vậy, nói chúng ta gặp nhau khi nghe Ray Charles hát thì sao? Họ sẽ cho rằng đó là một buổi hòa nhạc và chúng ta sẽ không chối.”
“Ray Charles qua đời năm 94 rồi.”
“Ừ nhỉ,” Amanda bật cười, đặt một tay lên vai anh. “Được rồi. Thế nói chúng ta đã gặp nhau ở San Francisco và bỏ ngỏ thì sao?”
Những cơn gió mạnh bắt đầu nổi lên khi Randall điều khiển chiếc BMW của mình qua những khúc cua trên những cung đường quanh các nông trại Bắc Salem, hướng về nhà. Anh lái xe qua hàng dặm đất rào, những dải đất xanh ngắt dần chuyển thành màu trắng khi tuyết bao phủ khắp nơi. Ở phía xa, vượt ra khỏi ngọn đồi thứ hai, nơi có các chuồng ngựa, anh có thể nhìn thấy căn nhà nhỏ màu đỏ và chong chóng gió cũ rỉ sét đánh dấu trung tâm cộng đồng của mình. Nếu Norman Rockwell mang trong mình hình ảnh về một nước Mỹ kiều diễm, thì nông trại Bắc Salem chính là hình ảnh đó. Nó không thể đẹp hơn.
Randall lái xe qua hai cột đá ở lối vào rồi xoay bánh lái. Những ngôi nhà ở đây - một phần của trang trại rộng hơn ba héc-ta - rất rộng rãi. Năm đến bảy phòng ngủ, ba đến năm phòng tắm, rộng từ ba đến sáu trăm mét vuông. Ga-ra có thể chứa đến bốn chiếc xe, hồ bơi, sân tennis và hiện bao quanh. Không ngòi bút nào tả xiết được sự rộng lớn của những ngôi
nhà này, và anh cũng không thể có cơ hội được sống ở đây nếu không có sự giúp đỡ từ người vợ xinh đẹp và tài năng của mình. Bây giờ cô đã ra đi. Anh vẫn không thể tin nổi.
Anh lái vào ga-ra và tắt máy, ngồi im lặng trong chiếc xe của mình, nghĩ về bức ảnh chụp thi thể Amanda mà nhân viên giám định đã cho anh xem và so sánh với người phụ nữ anh đã gặp ở quán bar trước đây. Amanda luôn tràn đầy sức sống. Sự vô tư là điều anh yêu nhất ở cô. Làm sao anh có thể tiếp tục sống nếu không có cô ở bên? Anh không muốn quay lại con người như trước khi họ gặp nhau. Anh không thể trở thành con người đó lần nữa.
Chiếc điện thoại anh đặt trong ngăn chứa cốc bên cạnh cần số rung lên. Anh cầm nó lên và nhìn vào màn hình. Cuộc gọi đến: Peter Reems
Randall từ chối cuộc gọi và nhét điện thoại vào túi áo khoác. Sau vài phút, điện thoại lại rung lên. Peter đã để lại lời nhắn thứ ba trong ngày.
Tiếng đóng mở cửa là âm thanh duy nhất trong ga-ra có ba chiếc xe hơi đang đỗ. Ở ngay ô bên cạnh là chiếc xe mui trần hai chỗ mà cô đã tặng anh nhân ngày kỷ niệm một năm của họ. Chỉ là một món đồ để đi dạo xung quanh. Ô thứ ba trống. Randall chợt nhận ra chiếc Mercedes màu bạc của Amanda sẽ không bao giờ được đậu trong không gian đó nữa. Không bao giờ.
Anh đóng cửa ga-ra và đi vào nhà, để lại túi xách và cặp tài liệu ở ghế sau chiếc BMW. Ngôi nhà lớn hơn nhu cầu sử dụng của hai vợ chồng, nhưng anh thích nó như một căn nhà nhỏ một phòng ngủ ở giữa rừng. Nó gợi cho anh cảm giác ấm áp
như ở nhà. Mùi hương, hơi ấm, đồ nội thất không thực sự phù hợp nhưng bằng cách nào đó, chúng ăn khớp với nhau. Giống như hai người họ. Hoàn hảo. Nhưng bây giờ mọi thứ dường như đã khác. Trên thực tế thì đúng là như thế.
Anh đi xuống hành lang quen thuộc mà anh đã đi vào đêm hôm trước và rẽ vào bếp. Không có gì thay đổi. Một chiếc đĩa và cốc bẩn nằm trong bồn rửa. Hoa anh mua cho Amanda để chúc mừng cô về giải thưởng được cắm trong một chiếc bình ở giữa đảo bếp. Lịch của họ vẫn được ghim vào tấm bìa mềm gần tủ đựng thức ăn, tất cả những kế hoạch của họ đã được vạch ra một cách tỉ mỉ trong vài tháng tới. Nhưng bây giờ, những kế hoạch đó sẽ không bao giờ thành hiện thực.
Căn nhà tối om ngoại trừ chiếc đèn duy nhất mà Amanda bật trong phòng khách vào đêm hôm trước. Randall cởi áo khoác và choàng nó lên một trong những chiếc ghế nhà bếp, sau đó loạng choạng bước vào phòng khách và đổ gục xuống chiếc sô pha dài.
Đêm hôm đó anh đã có được số điện thoại của cô. Cô đợi cho đến khi quầy bar sắp đóng cửa, khi anh đứng dậy đi vệ sinh lần cuối, cô đặt danh thiếp dưới kính của anh. Lúc anh quay lại, cô đã rời đi. Họ thực hiện các cuộc gọi điện thoại và email trong những tháng sau đó và ngày càng trở nên thân thiết bất chấp khoảng cách địa lý. Vào thời điểm cô trở lại West để gây quỹ một đợt khác, họ đã là bạn của nhau. Khi cô rời đi, họ đã là người yêu của nhau. Sau một năm bên nhau, cô thuyết phục anh chuyển đến New York, còn anh thuyết phục cô lấy anh. Anh không biết cô giàu có cỡ nào cho đến khi hai người đính
hôn. Chẳng có gì khác ngoài tình yêu họ dành cho nhau. Họ đã có ý định ở bên nhau, và giờ đây, tình yêu của đời anh đã ra đi mãi mãi. Hai người đã không có đủ thời gian bên nhau. Như thế thật không công bằng.
Randall ngồi dậy, vén mớ tóc lòa xòa trước mắt. Anh đưa tay nhấc điện thoại bàn từ đế cắm của nó trên chiếc bàn ở cuối ghế sô pha và nhìn vào màn hình. Chín thư thoại. Anh nhấn nút phát.
“Chào Amanda, Ruth đây. Tôi đã để lại lời nhắn qua di động cho cô. Chỉ là muốn chúc mừng thôi. Rất tiếc, Bruce và tôi không thể tham dự. Tôi hứa chúng ta sẽ tổ chức tiệc mừng riêng tại nhà tôi. Chúc may mắn! Tôi rất tự hào về cô.”
“Chào cô gái, Luis đây. Sao cậu không nghe điện thoại? Nhắn tin hoặc gọi lại cho tớ nhé.”
“Chào các bạn, Sebastian đây. Không chắc có ai còn kiểm tra thư thoại ở nhà nữa không, nhưng tôi nghĩ điện thoại di động của Amanda đã tắt hay sao đó. Tôi muốn gửi lời khen sự kiện tuyệt vời tôi nay. Amanda, bài phát biểu của cô thật hoàn hảo. Tôi không chắc cô căng thẳng về điều gì. Nó thật sự rất trôi chảy. Dù sao thì các bạn cũng đã làm rất tốt, và thật vui khi được gặp lại cả hai.”
“Xin chào, Gina đây. Cô đâu rồi? Chúng ta đã hẹn nhau ở quán cà phê mà. Tôi đợi cô đến sắp mọc rễ luôn rồi đây này. Cô ngủ rồi à? Gọi lại cho tôi nhé. Và nhớ kiểm tra điện thoại. Tôi nghĩ cô đã tắt máy.”
Randall nghe từng tin nhắn, sau đó xóa chúng. Anh đặt ống nghe trở lại đế cắm và nghĩ về nhiệm vụ khó khăn là gọi báo tin cho người thân và bạn bè. Amanda quen biết rất nhiều người.
Làm thế nào anh có thể gọi cho tất cả? Anh cho rằng mình có thể xử lý khôn ngoan hơn, đó là gọi cho một số ít những người mà anh biết chắc họ sẽ loan tin nhanh chóng. Vì những lý do mà ngay cả đầu óc khoa học của anh cũng không thể lý giải nổi, mọi người thích “chia sẻ” về các bi kịch. Nếu anh gọi cho bốn hoặc năm người phù hợp, họ sẽ vui lòng liên hệ với những người còn lại trong mạng lưới của Amanda. Cả người thân của cô nữa. Gia đình anh chẳng ai còn sống để liên hệ.
Gió thổi mạnh, vài cành cây đập vào ô cửa sổ trong phòng khách, thu hút sự chú ý của anh. Khi nhìn ra cơ ngơi đồ sộ của mình ở phía sau, anh thoáng thấy một bóng người đang đứng ngay bên trong bức tường đá ngăn sân nhà anh với nhà hàng xóm. Người này mặc một chiếc áo khoác dài màu đen, đứng nấp giữa một đám cây thông đang lớn. Anh không thể nhìn thấy khuôn mặt của người đó bởi chiếc mũ rộng vành đã trùm hết đầu. Không có cách nào để biết giới tính người đó. Điều duy nhất anh có thể nhìn thấy là hơi thở của người này từ bên dưới chiếc mũ trùm kín mít trong không khí lạnh giá của tháng Mười hai.
Anh đứng dậy khỏi sô pha và đi về phía cửa sổ. Người này không nhúc nhích, vẫn đứng đó, như một cái cây và trong chốc lát, anh nghĩ tâm trí mình có thể đang giở trò với anh, khiến anh nhìn thấy một người không thực sự có ở đó. Nhưng càng đến gần cửa sổ, anh càng chắc rằng mình không nhìn nhầm. Người này rõ ràng đang thở. Hắn đeo găng tay, mười ngón. Hai bàn chân nhô ra dưới lớp áo khoác quá khổ. Hắn không di chuyển. Chỉ đơn giản là đứng đối diện căn nhà và chờ đợi.
Điện thoại reo, Randall giật bắn mình. Anh thốt lên một tiếng ngạc nhiên và quay người lại, nhanh chóng nhấc ông nghe ra khỏi đế cắm.
“Xin chào?”
“Randall, Gina đây.”
“Chào, Gina.”
“Tôi có thể nói chuyện với Amanda không? Tôi đã gọi điện và nhắn tin cho cô ấy cả ngày nhưng không được. Cô ấy hẹn tôi uống cà phê sáng nay nhưng lỡ hẹn. Tôi đoán là tối qua cô ấy mệt, nhưng giờ vẫn chưa khá lên tí nào sao? Cô ấy có ở đó không?”
Randall quay lại phía cửa sổ. Hình bóng người mặc áo khoác quá khổ vẫn đứng đó, không nhúc nhích.
Hắn có thấy mình ở đây không? Hắn đang nhìn mình sao? “Cô chờ chút nhé?” Randall hỏi.
“Chắc chắn rồi.”
Anh đặt điện thoại xuống và đi đến cửa hiện, nơi dẫn thẳng đến phòng tắm nắng. Anh mở cửa, băng qua phòng tắm nắng và bước ra ngoài ban công.
Hắn ta vẫn đứng đó.
“Tôi có thể giúp gì cho anh?” Randall hỏi khi nghiêng người qua lan can ban công. “Anh đó! Người trong lùm thông. Tôi có thể giúp gì cho anh?”
Làn hơi phả ra. Hít vào, thở ra.
“Anh đang đột nhập vào nhà người khác. Tôi cần anh rời khỏi đây, nếu không tôi sẽ gọi cảnh sát. Xin vui lòng.”
Người này đợi thêm một lúc rồi từ từ quay lưng lại và bước vào những cây thông dày đặc hơn cho đến khi Randall không thấy anh ta nữa. Anh quay vào nhà và chộp lấy điện thoại, sau đó lao vào các phòng khác, kiểm tra các ô cửa sổ xung quanh. Không có ai ở đó.
"Randall?”
“Vâng, xin lỗi cô. Tôi đây.”
“Vậy tôi có thể nói chuyện với vợ anh không?”
Một đề nghị ngây thơ. Cô ấy muốn nói chuyện với Amanda. Anh biết ngay sau khi anh nói với cô sự thật, tin tức sẽ không ngớt trong nhiều tuần liền. Không phải ở một thị trấn nhỏ như thế này. Không phải với những người bạn mà Amanda có.
Những giọt nước mắt chợt trào ra sau cả ngày vắng bóng. Randall nghĩ về Ray Charles và máy hát tự động ở San Francisco khi khụy xuống sàn bếp, điện thoại áp chặt vào tai anh. “Anh ổn chứ?” Gina hỏi.
“Không, cô không thể nói chuyện với vợ tôi,” Randall nấc lên nghẹn ngào. “Không bao giờ có thể. Tôi xin lỗi, Gina. Không bao giờ nữa.”
08
“M
ẹ ơi!”
Susan bước qua cửa trước và ngay lập tức bị những cánh tay nhỏ bé ôm chầm lấy và vòng qua eo. Cô bỏ túi xách xuống và vuốt hai mái tóc bạch kim óng ả.
“Chào các con yêu.”
Cặp song sinh, Casey và Tim, năm tuổi, ngước nhìn cô với nụ cười giống hệt nhau. Cả hai đều được thừa hưởng chiếc mũi đầy tàn nhang và đôi mắt xanh từ cô. Chiếc đầu tròn đến hoàn hảo từ cha của mình.
“Mẹ ơi, lâu lắm rồi con không được gặp mẹ,” Casey nói. “Mẹ có mệt không ạ?”
“Có, con yêu. Làm việc mệt lắm.”
“Mẹ có bắt được kẻ xấu không?” Tim hỏi.
“Mẹ đang cố.” Susan cởi áo khoác và treo nó lên chiếc giá cạnh cửa. “Ngày hôm nay của các con thế nào?”
“Tuyệt ạ,” Tim đáp. “Con đã vẽ tặng mẹ một bức tranh ở trường học. Mẹ nhìn này!” Cậu bé chạy nhanh xuống hành lang và túm một tờ giấy vẽ lớn trên bàn ăn, quay lại và dang rộng nó trên tay như thể đang cầm cờ chạy.
Susan nhận bức tranh và ngắm nghía các đường thẳng và vòng tròn nhiều màu, cố gắng đoán được nó là gì trước khi cô phải thừa nhận rằng không biết mình đang nhìn gì cả.
“Đó là một con khủng long với những bông hoa ạ!” “Tất nhiên là thế rồi. Mẹ rất thích nó! Cảm ơn con.” Cô nhìn xuống Casey. “Còn con thì sao, con yêu? Con đã làm gì?” Casey nghịch tóc mái lòa xòa trước mắt. “Con không phải vẽ tranh. Thay vào đó, con đã chơi rối tay.”
“Được rồi.”
“À, mẹ ơi, anh Tim đã vẽ lên áo mới của anh ý đấy.” “Anh không cố ý!”
“Con đã bảo anh chơi rối tay với chúng con nhưng anh ấy muốn vẽ, sau đó anh làm rối tung mọi thứ lên.”
“Đồ mách lẻo!”
Susan dẫn bọn trẻ vào nhà. “Đừng mách lẻo như thế chứ, con yêu. Mẹ sẽ giặt áo sơ mi. Không sao đâu. Các con đi chơi đi, mẹ sẽ chuẩn bị bữa tối xong ngay đây. Tối nay chúng ta tắm nhé.”
Casey dậm chân và khom lưng rên rỉ. “Tắm ư? Nhưng con...” “Không biện hộ. Đi tắm. Tối nay. Đi nào.”
Casey định nói thêm gì đó nhưng thay vào đó đã kết thúc cuộc trò chuyện trong bực tức. Cặp song sinh leo lên cầu thang và chạy vào phòng ngủ thứ tư còn trống mà cô đã chuyển thành phòng đồ chơi sau khi người chồng cũ của cô, Eric, chuyển ra ngoài. Cô có thể nghe thấy tiếng chân chúng dẫm trên thảm, kèm theo tiếng rì rầm trò chuyện.
Ngôi nhà của Susan được xây dựng từ thời thuộc địa thế kỷ XVII, từng là một phần của một vùng đất rộng lớn ở Fishkill nhưng đã bị chia nhỏ thành các khu đất rộng hai nghìn mét vuông. Những tấm ván gỗ sàn cũng như những thanh xà ngang trên trần vẫn còn nguyên bản. Chiếc lò sưởi trong phòng khách đã được xây dựng lại vào những năm 1970, và nhà bếp đã được cải tạo vài lần trong nhiều thế kỷ, nhưng khung của ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn, đó là một trong những điều mà cô và Eric yêu thích.
"Mẹ ơi?”
“Mẹ ở trong bếp!”
Cô đã chính thức ly hôn được một năm nay, nhưng cô và Eric đã ly thân gần hai năm rồi. Bọn trẻ vừa đến độ tuổi đủ để hiểu được rằng cha chúng sẽ không bao giờ sống với chúng nữa và ngừng hỏi về cha mỗi đêm. Chúng dường như đã chấp nhận kế hoạch cứ cách tuần sẽ được gặp cha một lần mà thẩm phán đã đưa ra, và cô đã cố gắng hết sức để cuộc sống của chúng trở nên bình thường nhất có thể. Nếu không có mẹ, cô không biết mình sẽ làm gì để chăm sóc con cái. Thứ nhất là vì dịch vụ chăm sóc ban ngày cho cặp sinh đôi rất tốn kém. Thứ hai, các ca làm việc luôn thay đổi, và khi có án, cô phải bất cứ lúc nào. Công việc đưa cô đến bất cứ nơi nào có bằng chứng và vào bất cứ thời điểm nào. Mẹ cô, sống cách đó chỉ nửa giờ, là vị cứu tinh.
Nhà bếp thơm phức mùi tỏi và rau thơm oregano. Beatrice McVey, mẹ cô, người phụ nữ tuyệt vời của thập kỷ, đang đứng ở bếp, khuấy nước xốt trong chảo. Dáng người bà thấp và đầy đặn với mái tóc nhuộm đen dài hơn hầu hết phụ nữ cùng tuổi. Bà
mất chồng mười năm nay nhưng cũng đã đối diện với sự mất mát như hầu hết những người Ireland khác. Bà đã khóc, ôm ấp kỷ niệm về những khoảng thời gian tuyệt vời bên người chồng quá cố của mình và tiếp tục sống. Bà là người phụ nữ cúng rắn và thông minh nhất mà Susan biết.
“Chào con yêu,” Beatrice nói mà không quay đầu lại. “Không chắc khi nào con về nhà, nên mẹ đã nấu bữa tối.” “Cảm ơn mẹ.”
“Tối qua con thậm chí còn không về nhà?”
“Vâng ạ, có một vụ án.”
“Mẹ đã không biết. Mọi chuyện ra sao?”
“Con đang ở đồn thì có tin xảy ra tai nạn xe hơi. Nhưng ít nhất nó không quá phức tạp. Mọi chuyện sẽ sáng tỏ vào ngày mai.” Cô bước đến cánh cửa trượt và bật đèn bên ngoài. “Lũ gà thế nào rồi ạ?”
“Mẹ nghĩ chúng lên chuồng cả rồi.”
Đèn ở hiện sau chiếu sáng khắp sân, và Susan có thể nhìn thấy chuồng gà mà Eric đã làm vào năm cuối cùng họ ở bên nhau. Anh ấy rất thích thực phẩm hữu cơ và ăn những thứ hoàn toàn tự nhiên. Vào thời điểm đó, anh ấy đã có những kế hoạch lớn, nhưng họ đã gần như trở thành nông dân hữu cơ khi nuôi những con gà. Cô có sáu con và lấy trứng tươi mỗi sáng.
“Mẹ có nấu đủ để ở lại ăn với chúng con không?” Cô hỏi. “Chắc chắn rồi. Mẹ không có chỗ nào để đi tối nay cả.” “Mẹ có thể ngủ lại nếu muốn. Con rất xin lỗi vì đã phải làm hai ngày liền.”
“Có gì đâu. Mẹ ổn mà. Nhưng con có vẻ mệt. Ăn chút gì đó rồi tắm đi. Mẹ sẽ tắm cho bọn trẻ, và chúng ta sẽ đi ngủ sớm.” Susan ngồi phịch xuống ghế trong bếp. “Nghe có vẻ như đây là điều tuyệt vời nhất trong ngày của con.”
Cô chưa bao giờ tưởng tượng mình sẽ là một bà mẹ đơn thân nuôi cặp song sinh, nhưng cuộc sống là thế. Hãy sẵn sàng đón những chuyện bất ngờ. Cô đã từng hình dung mình sẽ có bốn đứa con, cách nhau từ hai đến ba tuổi, chạy quanh nhà, cười đùa, đánh nhau và bám lấy nhau ở trường và sân chơi. Cô là con một và chưa bao giờ có được tình chị em thân thiết. Cô đã mơ về những đêm cùng gia đình chơi trò chơi và đàn con nhà Adler sẽ chuẩn bị một loạt những bộ trang phục hấp dẫn cùng những chiếc túi tốt cho lễ Halloween. Cô đã hình dung ra sự nhốn nháo mỗi năm khi cố gắng ổn định mọi người chụp ảnh Giáng sinh và sự hài lòng của mình khi bức ảnh thật hoàn hảo. Cặp song sinh đến trước. Hai đứa một lần. Họ đã đi được một nửa chặng đường. Nhưng sau đó cô phát hiện Eric cặp kè với một đồng nghiệp vừa mới tốt nghiệp đại học và muốn đổi tình lấy danh vọng. Họ đã ly thân một thời gian, sau đó Eric đệ đơn ly hôn, nói rằng anh đã hết tình cảm với cô và không muốn tiếp tục. Cô phải nói gì lúc đó? Cãi nhau ư? Hay cầu xin anh ta ở lại? Cô mặc kệ đời. Cô chuẩn bị giấy tờ, nhận quyền nuôi con, và bảo anh ta cứ giữ lấy tiền cấp dưỡng; và cô, người phụ nữ ba mươi tám tuổi, lúc ấy, quyết định sống cùng mẹ già và hai đứa con nhỏ. Đây là cuộc phiêu lưu không thể đoán trước của cuộc đời. Ít nhất là của cuộc đời cô.
Điện thoại di động của Susan đổ chuông trong chiếc túi vẫn nằm cạnh cửa. Cô đứng bật dậy khỏi ghế và đi xuống hành lang, cầm lấy nó trước khi hồi chuông thứ ba vang lên. “Adler đây.”
“Susan, tôi là Emily Nestor từ văn phòng ME[3].” Susan ngồi ở đầu cầu thang. “Chào Emily. Có chuyện gì thế?” “Chúng tôi đã hoàn tất việc khám nghiệm tử thi Amanda
Brock, và tôi đã phát hiện ra vài điểm khả nghi mà tôi nghĩ cô nên biết.”
“Khả nghi gì cơ?”
“Tôi có thể cho cô thấy rõ hơn nếu cô đến văn phòng vào ngày mai, nhưng nói chung là, tôi đã tìm thấy một vài điểm mâu thuẫn với một vụ tai nạn xe hơi.”
“Cô nói rõ hơn đi.”
“Trước hết, máu của nạn nhân đã đông lại trước khi xảy ra vụ tai nạn.”
Susan đứng bật dậy khỏi bậc thềm và đi vào phòng khách. “Ý cô nói là cô ấy đã chết trước khi lao xuống vực ư?” “Có vẻ như vậy,” Nestor trả lời. “Tôi cũng tìm thấy bằng chứng về chấn thương kín do ngoại lực ở phía sau hộp sọ của nạn nhân. Tôi muốn nói rõ rằng chấn thương đó có thể xảy ra trong vụ va chạm. Cơ thể cô ấy có thể bị va đập trong khi rơi xuống vực. Nhưng vết thương đặc biệt này hơi mâu thuẫn với sự ngẫu nhiên của các vết thương khác do tai nạn gây ra. Nó giống như ai đó đã nhắm vào phần đáy hộp sọ của cô ấy. Dựa trên điều đó cùng tình trạng đông máu, tôi dự đoán thời gian tử vong rơi vào khoảng một tiếng đến một tiếng rưỡi trước khi tai
nạn xảy ra. Không có dấu hiệu chơi xấu nào khác. Không có dấu hiệu dùng thuốc. Có vẻ như cô ấy có uống sâm panh, nhưng BAC[4] ở mức cho phép. Không có dấu hiệu đột quỵ hoặc đau tim có thể khiến cô ấy mất kiểm soát xe. Ngoài khả năng tự tử, tôi không thể tìm ra lý do tại sao cô ấy lại lái xe với tốc độ đó.”
“Chúng tôi đã nghĩ đến việc tự tử, nhưng giải thích thế nào về cú đánh sau đầu và máu đông đây?”
“Không thể.”
“Vậy cô ấy đã ở trong xe, đã chết và ai đó đã phi nó xuống vực và dàn dựng như một vụ tai nạn.”
“Tôi không thể khẳng định chắc chắn, nhưng vào thời điểm này, điều đó có vẻ khả thi.”
“Tôi sẽ gặp cô vào ngày mai.”
“Được, tôi chờ cô.”
Susan cúp máy, đứng lặng lẽ trong phòng khách, đầu óc quay cuồng.
Cô ấy đã chết trước khi chiếc xe lao xuống vực.
Cuộc sống thật không thể đoán trước. Có vẻ như ai cũng như vậy.
R
09
andall ngồi một mình trong văn phòng, nhìn chằm chằm vào màn hình, quan sát buổi trị liệu phát trên đoạn băng. Bệnh nhân số hai - Jason Harris - ngồi vào ghế trước mặt anh, những ngón tay lo lắng bấu víu quần jean.
“Kể từ lần cuối chúng ta nói chuyện, anh cảm thấy thế nào?” Peter hỏi. “Tuần này có chuyện gì xảy ra mà anh muốn thảo luận không?”
“Không hẳn. Một tuần khá bình thường. Trời bắt đầu trở lạnh nên công việc cũng bận rộn hơn. Mọi người thường thay lốp mới hoặc lắp lốp đi tuyết khi họ cảm thấy thời tiết thay đổi. Gió mùa khiến mọi người đến cửa hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, tôi thích bận rộn. Một ngày trôi qua nhanh hơn.
“Mọi việc ở nhà thì sao?”
“Cũng thế.”
“Mẹ anh sao rồi?”
“Vô dụng, như thường lệ. Tôi không hiểu làm sao bà ấy có thể sống cuộc đời phụ thuộc hoàn toàn vào người khác, đón nhận những lời phiền muộn và mọi lời tào lao, và coi đó là một cuộc sống viên mãn. Nhưng này, đó là bà ấy, không phải tôi. Tôi nghĩ đó là cuộc đời của một nô lệ, nhưng bà ấy sẽ không đi đâu
cả. Bà ấy đã gắn bó với ông ta lâu như vậy. Bà ấy sẽ tiếp tục làm điều đó cho đến khi bà ấy hoặc ông ta chết đi. Bà ấy có biết sống khác đi thế nào đâu.”
“Anh đang nói về bố mình ư?”
“Còn ai vào đây nữa?”
“Ông ấy thế nào?”
“Một tên khốn.”
“Sao lại thế?”
“Mẹ tôi ho suốt ba tuần nay rồi. Họ cả đêm lẫn ngày. Tôi nghĩ bà bị phế quản hoặc viêm phổi, nhưng bà không đi khám vì không có tiền. Tôi đã đề nghị trả tiền nhưng bà vẫn không chịu đi. Không muốn lấy tiền của tôi. Thay vào đó, bà ấy mua thuốc không cần kê đơn nhưng uống chẳng có tác dụng gì. Tôi nói với bố tôi về điều đó, nhưng ông ta xua tay như thể tôi đang lãng phí thời gian của ông ta. Một đêm nọ, khi mẹ tôi ho quá nhiều, ông ta đã đuổi bà ra khỏi giường và bà đã phải ngủ trên ghế để ông ta ngủ lấy sức đi làm vào ngày hôm sau. Ông ta là một kẻ tồi tệ như thế.”
“Điều đó khiến anh nghĩ gì?”
“Nghĩ gì ư? Ông ta thật tồi tệ và ích kỷ. Chỉ cần đưa bà ấy đến bác sĩ, lấy thuốc kê đơn và ông ta sẽ không bị những cơn họ dai dẳng làm phiền nữa. Và bà ấy cũng đỡ mệt. Nhưng ông ta nói việc đó quá tốn kém. Có lẽ nếu ông ta có một công việc ổn định thì bà ấy đã có thể nhận được những gì mình cần.”
“Anh có nói với bố anh về việc anh hỗ trợ tiền đưa mẹ đi bác sĩ không?”
“Ông ta liên tục bảo tôi im lặng và lo việc của mình đi. Vì vậy, tôi đã làm thế. Nhưng vào một đêm nọ, khi trở về nhà, tôi thấy bà ấy đang lau chùi bùn đất dính trên sàn mà ông ta đã mang về từ chỗ làm. Tất cả những gì ông ta cần làm là cởi ủng từ hiên, nhưng không. Thực sự quá đáng mà. Ông ta bước thẳng vào nhà, tạo ra một mớ lộn xộn và giờ mẹ tôi phải khom lưng cọ rửa, họ khùng khục và khạc nhổ. Anh biết lúc đó ông ta ở đâu và làm gì không? Ngồi trên ghế dài và uống bia, xem trận đấu trên ti-vi.”
“Lúc đó anh cảm thấy như thế nào? Cụ thể.”
“Tức giận.”
“Tức giận như thế nào?”
Máy quay đã chụp được cảnh Jason, hai tay nắm chặt thành nắm đấm, lồng ngực phập phồng.
“Tôi muốn ông ta phải chịu đau đớn.”
“Anh muốn làm gì?”
“Tôi muốn đấm ông ta hết sức có thể. Một cú thẳng vào mũi. Tôi muốn nghe tiếng sụn vỡ và muốn hất ông ta xuống đống bùn trên sàn nhà. Chẳng phải thật tuyệt nếu mặt ông ta cày xuống sàn, lấm lem bùn đất sao? Tôi thực sự rất thích điều đó.”
“Còn gì nữa?”
“Tôi muốn đưa mẹ tôi chạy trốn. Để lại tên khốn đó trên sàn và đưa bà ấy đi. Bà ấy ở với ông ta vì phải vậy, và tôi bó tay vì bà ấy sẽ không bao giờ thay đổi. Nhưng thực sự, tôi muốn đưa bà ấy đi. Cho bà ấy một cuộc sống tốt đẹp hơn”.
“Cảm ơn, Jason. Cảm ơn những gì anh đã chia sẻ.”
Randall dừng đoạn băng và hoàn tất việc ghi chép cuộc phỏng vấn trên máy tính để bổ sung thông tin vào tập tin nghiên cứu tình huống. Đến giờ phút này, Jason được trông chờ là thành công thứ hai của họ. Nếu họ có thể khiến anh ta không còn những tưởng tượng về việc hành xử bạo lực với cha mình, đó sẽ là một chiến thắng thực sự và có thể ngăn chặn phản ứng tiêu cực đối với bước lùi ở trường hợp của Jerry Osbourne. Khi họ gặp Jason lần đầu tiên, những tưởng tượng giết người của anh ta liên quan đến việc cắt lưỡi cha mình để ông ta không thể ra lệnh cho mẹ mình nữa. Sau đó, anh ta muốn móc mắt người cha để ông ta không nhìn anh đầy khinh bị mỗi khi họ ở cùng phòng với nhau. Khi mắt và lưỡi của người cha không còn nữa, Jason mơ tưởng đến việc chặt tay cha mình để ông ta không thể đánh mẹ anh nữa. Sau đó, anh sẽ ngồi cạnh cha mình và nói cho ông ta biết anh ghét ông ta đến nhường nào cho đến khi người cha hộc máu mà chết.
Anh và Peter đã làm việc chăm chỉ, chia sẻ những tưởng tượng hết lần này đến lần khác, cho đến khi các chi tiết bắt đầu thay đổi theo thời gian. Anh ta không còn tưởng tượng đến việc cắt lưỡi, nhưng móc mắt vẫn còn. Không chặt tay, nhưng chặt ngón tay. Cuối cùng, con dao đã không còn xuất hiện, mà thay vào đó là một khẩu súng. Có lúc, Jason nói về việc bắn chết cả cha lẫn mẹ mình, điều này là một cú ngoặt bất ngờ - giống như với Jerry. Anh ta chưa bao giờ tưởng tượng về việc giết mẹ mình trước đây, nhưng khi việc giết người ngày càng trở nên xa vời và ít tính cá nhân hơn, sự yếu đuối của bà đã thôi thúc anh ta kết liễu cuộc sống của bà. Nhưng điều đó nhanh chóng trôi qua,
và sự tập trung chỉ dồn vào người cha. Một ngày nọ, khẩu súng biến mất, và dù việc trừng phạt quay trở lại và mang tính cá nhân – Jason đánh đập cha mình – nhưng kết cục không phải là cái chết mà chỉ là sự đau đớn. Đây là một bước ngoặt quan trọng. Giờ đây, họ nỗ lực đưa Jason sang giai đoạn tiếp theo – không quan tâm đến bất cứ điều gì bạo lực và mong muốn đơn giản là sống tiếp, chấp nhận những gì vốn có và hoàn toàn rời khỏi ngôi nhà của cha mình.
Randall đứng dậy khỏi bàn làm việc và ngồi lên bệ cửa sổ để có thể nhìn ra khu tứ giác nối liền ba tòa nhà khác với Khoa Khoa học. Ánh nắng ban mai vừa ló dạng trên những tán cây gần khu ký túc xá sinh viên năm nhất. Anh chỉ có một mình, đó chắc chắn là kế hoạch. Buổi tối hôm trước thật mệt mỏi, bắt đầu với cuộc điện thoại từ Gina, cô nàng đã rất kích động, sau đó bình tĩnh lại và gọi cho những người bạn khác của Amanda để báo tin.
Amanda là con một, mẹ đã bỏ hai cha con họ đến sống ở Bờ Tây. Anh không biết làm sao để có thể liên lạc được với bà, vì vậy anh đã gọi cho dì của cô ấy ở Florida và hai người em họ ở Colorado và Mississippi. Những sụt sùi cũng như lời hứa rằng họ sẽ đến và hỗ trợ anh nhiều nhất có thể. Họ đề nghị giúp anh báo tin cho những người còn lại trong gia đình và anh đã đồng ý. Randall gửi họ địa chỉ email và hứa sẽ gửi thông tin chi tiết về đám tang ngay sau khi sắp xếp xong xuôi. Mọi thứ đến với anh quá choáng ngợp, một cơn sóng dữ dội của nỗi đau và trách nhiệm cuốn phăng và tung anh theo từng đợt sóng. Amanda đã chết, giờ anh phải lo hậu sự cho cô.
Lối đi dạo đầy cỏ thường chật cứng sinh viên nay vắng tanh. Anh yêu thích sự động trong khuôn viên trường giờ tan học. Tuổi trẻ, kỳ vọng thành công, lạc quan. Những thứ ấy rất “gây nghiện”. Còn vài tuần nữa trước khi sinh viên trở lại sau kỳ nghỉ lễ. Anh tự hỏi liệu ngay với nguồn năng lượng của họ, anh có thể cảm thấy lạc quan trở lại không. Anh không chắc mình có thể vui vẻ như xưa không.
“Tiến sĩ Brock.”
Randall suýt ngã khỏi bậu cửa khi xoay người lại. Một người đàn ông đứng ở ngưỡng cửa – dáng người thấp, khuôn mặt khá “cứng” so với tuổi sinh viên. Mái tóc bù xù chấm lông mày và bộ râu đen che gần hết khuôn mặt. Đôi mắt anh ta có vẻ sẫm màu hơn trong bóng tối hành lang. Anh ta mặc một chiếc áo khoác dài màu đen.
"Hôm qua anh đã đến nhà tôi,” Randall nói. “Tôi nhận ra chiếc áo khoác.”
“Đúng!”
“Và tại bữa tiệc của Amanda. Anh đã ở đó. Tôi đã nhìn thấy anh. Nhưng tóc của anh hơi khác một chút.”
“Chúng ta cần nói chuyện.”
Người đàn ông bước vào và băng qua phòng, thả mình xuống một trong hai chiếc ghế mà Randall và Peter dùng để thực hiện trị liệu. Một máy quay được đặt trên giá ba chân, nhưng tắt. Người đàn ông ngả lưng ra ghế và hất áo khoác mình sang hai bên khi bắt chéo chân, để lộ một bộ trang phục cơ bản: một chiếc quần jean và áo sơ mi cài cúc.
“Tôi đã gọi anh từ ban công,” Randall nói. Anh vẫn dựa vào cửa sổ sau bàn làm việc.
“Tôi có nghe thấy, nhưng đó không phải thời điểm phù hợp. Tôi không nên đến vào lúc đó. Không phải với mọi thứ đang diễn ra với Amanda. Anh vừa về đến nhà sau khi phát hiện ra mọi chuyện. Đó là sai lầm của tôi.”
“Sao anh biết điều đó?” Randall hỏi. “Sao anh biết Amanda?” Người đàn ông nhìn chằm chằm anh một lúc. “Anh trông tôi có quen không?”
“Không quen lắm. Tôi đã thấy anh ở bữa tiệc. Chỉ vậy thôi.” “Chúng ta đã cùng tham gia nhiều buổi kết giao suốt nhiều năm, nhưng tôi không nghĩ chúng ta từng chính thức gặp gỡ. Anh có thể gọi tôi là Sam.”
Randall im lặng.
“Tất nhiên, đó không phải tên thật của tôi. Điều quan trọng là tôi vẫn ẩn danh vào lúc này, vì vậy tôi đã chọn một cái tên mà tôi biết nó có thể kết nối chúng ta. Tôi đã chọn tên em trai anh.”
Randall cảm thấy đầu óc quay cuồng, chân nặng trĩu như đeo đá.
“Tôi biết anh đang tự hỏi bản thân điều gì,” Sam tiếp tục, khoé miệng thoáng nở nụ cười. “Hoặc ít nhất anh nên tự đặt câu hỏi cho bản thân mình. Nếu tôi biết em trai anh, tôi có thể biết những gì khác?”
“Anh muốn gì?”
“Tôi đến để giúp anh.”
“Tôi không cần anh giúp.”
Sam nhìn Randall không chớp mắt. “Anh và Sam từng chơi với nhau ở trang trại của bố mình. Cha anh không cho anh thời gian để có thể cưỡi ngựa. Anh phải giúp mọi người xử lý công việc ở nông trại vì công việc ở đó khá nhiều. Ngay cả khi mới chỉ là một thanh niên, sự giúp đỡ của anh rất quan trọng. Nhưng ngày đó, anh có thời gian cho chính mình và anh trân trọng điều đó. Tuy nhiên, Sam cứ lẽo đẽo theo sau anh. Cậu ấy rất ngưỡng mộ anh, nhưng điều đó đôi lúc gây phiền nhiễu, nhưng không phải cậu ấy là em trai anh sao? Tuy nhiên, anh nhìn nhận việc đó theo cách khác. Đối với anh, cậu ấy chỉ là một công việc vặt khác, và trông chừng Sam là một nhiệm vụ của anh. Vì vậy, khi anh có chút thời gian riêng tư của mình để đi vào khu rừng bao quanh chuồng bò sữa, cậu ấy vẫn lẽo đẽo theo anh, nhưng đó không phải lúc anh làm việc nhà nữa nên anh đã phớt lờ cậu ấy. Quá tệ. Có vẻ như bị kịch đã tìm đến anh, không phải sao?”
Randall sững người. Anh thả người xuống chiếc ghế đối diện với vị khách của mình.
“Anh được cho là người bảo vệ Sam. Cậu ấy là em trai anh chứ không phải một mục trong danh sách việc vặt. Anh là người đáng lẽ phải trông nom cậu ấy.”
“Sao anh biết chuyện này?” Randall hỏi, giọng lạc đi. “Anh bỏ lỡ câu hỏi thực sự kìa,” Sam đáp, nghiêng người về phía trước. “Đó là, không biết tôi có thể biết gì nữa nhỉ?” Không gian im lặng bao trùm hai người đàn ông. Randall cố gắng che giấu đôi tay run rẩy của mình bằng cách khoanh trước ngực. Cơn đau đầu ập đến. Tầm nhìn anh bắt đầu mờ dần. Anh
biết ngay rằng đó là cơn đau nửa đầu, và nó dữ dội hơn cơn đau từng đe dọa anh tại buổi lễ của Amanda. Điều này thật sự rất tồi tệ.
“Anh đi đi,” Randall nói một cách cẩn thận, nắn nót từng chữ để đảm bảo giọng nói của mình không bị lạc và xua đi nỗi sợ hãi đang lớn dần.
“Nhưng trước hết tôi cần nói với anh một điều. Tôi cần phải nói cho anh biết bí mật đã đưa tôi đến đây.”
“Là gì?”
Sam hạ giọng thì thầm. “Amanda đã bị sát hại, và tôi biết ai đã làm điều đó. Tôi đã nhìn thấy toàn bộ sự việc.” Randall bật dậy khỏi ghế và xông về phía người đàn ông, cảm giác tội lỗi và hối hận dồn xuống chân anh. “Không thể nào!” Anh khóc, đột nhiên tràn đầy năng lượng. “Vợ tôi đã chết trong một vụ tai nạn xe hơi.”
“Không. Cô ấy bị sát hại.”
Vô lý. Randall nhắm mắt lại trong giây lát khi cơn đau dữ hội hơn. “Được rồi, vậy hãy nói cho tôi biết thủ phạm. Anh nói anh ở đó mà. Anh đã chứng kiến. Vậy nói đi, rồi chúng ta đến gặp cảnh sát.”
“Không được.”
“Mày làm đúng không? Mày đã giết vợ tao?”
“Không.”
“Vậy nếu cô ấy bị sát hại, thì ai là thủ phạm?”
“Chờ đi. Giờ chưa phải lúc.”
“Tao sẽ gọi cảnh sát.”
"""