🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ăn Ít Để Khỏe - 1 Bữa Là Đủ Sao Cần Phải 3? Ebooks Nhóm Zalo MỤC LỤC | TABLE OF CONTENTS Lời nói đầu Chương 1: Vì sao không ăn lại tốt cho sức khỏe? CHÌA KHÓA CỦA NGUỒN SỐNG NHÂN LOẠI LÀ "GEN SINH MỆNH” LÝ DO CHỈ UỐNG NƯỚC VẪN BÉO "GEN SIRTUIN" GIÚP KHÔI PHỤC TẾ BÀO ĂN QUÁ NHIÊU LÀ KHỞI NGUỒN CỦA BỆNH TẬT Cơ THỂ CON NGƯỜI CHÚNG TA NGÀY NAY KHÔNG THÍCH NGHI VỚI VIỆC ĂN NO BỆNH TIẾU ĐƯỜNG LÀ MINH CHỨNG CHO sự TIẾN HÓA CỦA LOÀI NGƯỜI? LÝ DO THẬT Sự KHIÊN CHÚNG TA GẦY ĐI LÀ DO BỆNH TIỂU ĐƯỜNG KHI NGUY HIỂM GẦN KỀ cơ THỂ SẼ Được KÍCH HOẠT ĐẾN TẬN TẾ BÀO VÌ SAO Cơ thể LẠI RUN LÊN KHI LẠNH? MỠ NỘI TẠNG ĐƯỢC TÍCH TRỮ QUÁ MỨC CẦN THIẾT LÝ DO THỰC Sự CỦA HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA LÀM SUY GIẢM TUỔI THỌ "MỖI NGÀY MỘT BỮA” - TIA SÁNG cuối ĐƯỜNG HẦM Chương 2: Chúng ta đều có thể thực hiện phương pháp "Mỗi ngày một bữa” CHẾ ĐỘ GIẢM CÂN BẰNG BỮA ĂN cơ BẢN LÀ PHƯƠNG PHÁP ĐƠN GIẢN GIẢM LƯỢNG TRONG MỖI BỮA ĂN PHÁP ĐƠN GIẢN GIẢM LƯỢNG TRONG MỖI BỮA ĂN ĐỪNG QUÁ GÒ ÉP KHI THỰC HIỆN ĂN "MỖI NGÀY MỘT BỮA" ĂN CHÊ Độ "MỖI NGÀY MỘT BỮA" KHI NÀO LÀ HỢP LÝ VỚI PHƯƠNG PHÁP "MỖI NGÀY MỘT BỮA", BẠN CÓ THỂ ĂN MỌI THỨ MÌNH MUỐN TIẾNG BỤNG SÔI "ÙNG ỤC” THẬT HẤP DẤN KHÔNG UỐNG TRÀ HOẶC CÀ PHÊ VÀO LÚC ĐÓI LÝ DO ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP "MỖI NGÀY MỘT BỮA” MÀ VẪN KHÔNG KHIẾN cơ THỂ THIẾU CHẤT DINH DƯỠNG CÓ ĐỦ DƯỠNG CHẤT THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP "MỖI NGÀY MỘT BỮA" RAU, CỦ, QUẢ KHÔNG MANG THỨ GÌ GỌI LÀ "THỪA”! NHŨNG BỮA ĂN TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN ĐƯỢC TOÀN THẾ GIỚI YÊU THÍCH BÂY GIỜ CHÍNH LÀ THỜI ĐIỂM QUAY TRỞ LẠI THỜI Kì 'THỰC PHẨM TOÀN VẸN” Vì SAO MỠ CÁ ĐƯỢC ƯA CHUỘNG? CÓ THẬT CẦN THIẾT PHẢI ĂN 30 MÓN MỘT NGÀY? BỐN ĐIÊU KIỆN ĐỂ KHÔNG BỊ HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA THU NẠP QUÁ NHIỀU ĐƯỜNG LÀM GIẢM TUỔI THỌ LÝ DO VÌ SAO ĐỘNG VẬT KHÔNG CHO MUỐI VÀO THỨC ĂN KHÔNG CÓ NHỮNG THỨ NHƯ "MUỐI vì SỨC KHỎE" TĂNG CƯỜNG CANXI BẰNG VIỆC "ĐI BỘ" TĂNG CƯỜNG CANXI BẰNG VIỆC "ĐI BỘ" NẾU CHÚNG TA KHÔNG ĐẸP có NGHĨA LÀ CHÚNG TA KHÔNG KHỎE Chương 3: Cơ thể được cái thiện không ngờ nhờ phương pháp "Mỗi ngày một bữa" HÀNH TRÌNH MỘT NGÀY CỦA PHƯƠNG PHÁP "MỐI NGÀY MỘT BỮA" Ngày đầu tiên thực hiện phương pháp “Mỗi ngày một bữa" BÍ MẬT VÀ TÁC DỤNG CỦA VIỆC BỤNG SÔI 1. Phản ứng đầu tiên khi bắt đầu thực hiện phương pháp "Mỗi ngày một bữa" là "Molitin” 3. Sự phục hồi của gen bên trong cơ thể được bắt đầu 4. Hormone “tốt bụng" sẽ khiến bị đốt cháy mỡ “HORMONE GẦY” SẼ ĐƯỢC SẢN SINH SAU KHI THỰC HIỆN ĂN MỘT BỮA KẾT QUẢ KỲ DIỆU KHÔNG CHỈ LÀ TRỌNG LƯỢNG Cơ THỂ GIẢM XUỐNG NHANH CHÓNG Chương 4: Cùng biến phương pháp ăn "Mỗi ngày một bữa" thành thói quen SAU KHI ĂN CƠM XONG, HÃY ĐI NGỦ NGAY "KHOẢNG THỜI GIAN VÀNG” ĐỂ TRẺ HÓA Vì SAO ĐỘNG VẬT NGỦ ĐÔNG có THỂ BẬT DẬY NGAY KHI GẶP NGUY HIỂM? Cứ SAU KHI MẶT TRỜI MỌC LÀ ĐỒNG Hồ SINH HỌC ĐƯỢC ĐẶT LẠI MẸO ĐỂ THỨC DẬY TRONG TRẠNG THÁI KHOAN KHOÁI KHÔNG CẦN THIẾT PHẢI UỐNG NƯỚC NGAY SAU KHI THỨC DẬY KHÔNG CẦN TẬP THỂ DỤC ĐỂ KHỎE MẠNH BẮP ĐÙI VÀ Cơ LƯNG TRỞ THÀNH "BƠM MÁU” CÓ THỂ ĐI Bộ 10.000 BƯỚC TRONG VÒNG 3 PHÚT TIN VUI CHO VIỆC UỐNG RƯỢU? KHÔNG CẦN NGÀY NGHỈ DÙ LÀ ĐỒ NGỌT HAY RƯỢU, CHỈ CHỌN NHỮNG SẢN PHẨM ĐẮT TIỀN Cơ THỂ QUÁ NÓNG LÀ CĂN NGUYÊN CỦA CHỨNG "NHẠY CẢM VỚI LẠNH" DÙ TĂNG THÂN NHIỆT CŨNG KHÔNG LÀM TĂNG MIỄN DỊCH NỀU BỊ SỐT NÊN MẶC Áo MỎNG Chương 5: Sống theo "tiếng gọi con tim" BIẾN NHỮNG ĐIỀU "ĐÁNG GHÉT" THÀNH "YÊU THÍCH" "HÔ HẤP BẰNG MIỆNG" có HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI BỆNH DỊ ỨNG PHẤN HOA LÀM RÕ Sự CHUYỂN ĐỔI GIỮA ON VÀ OFF CÂU THẦN CHÚ NHIỆM MÀU GIÚP TA ĐI VÀO GIẤC NGỦ NHANH CHÓNG CUỘC SỐNG THEO KHUÔN MẪU TUỔI THỌ SẼ ĐƯỢC KÉO DÀI KHI có BẠN TÌNH VÀ THÚ CƯNG HỌC HỎI NHỮNG LOÀI ĐỘNG VẬT TRONG THẾ GIỚI Tự NHIÊN NHIÊN CẢM TẠ CUỘC SỐNG 'KHÔNG VƯỢT QUÁ” Vì SAO VẬT CHẤT LẠI TỒN TẠI Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGƯỜI NHẬT THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP "MỖI NGÀY MỘT BỮA" CUỘC SỐNG CỦA BẠN, cứ NHƯ VẬY MÀ KẾT THÚC LIỆU CÓ ỔN KHÔNG? TÔI SẼ DÀNH TOÀN BỘ THỜI GIAN ĐỂ "KHỎE MẠNH”! Sự TRẺ TRUNG VÀ TƯƠI TRẺ LÀ BIỂU HIỆN sức KHỎE ở VẺ BỀ NGOÀI Tác giả Yoshinori Nagumo LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây người ta chứng minh được trạng thái đói bụng là một hoạt động quan trọng đối với cơ thể con người. "Bạn có nghĩ việc đói bụng tốt cho cơ thể của mình?" "Suy nghĩ này đúng là không bình thường!" "Nếu cứ giữ nguyên tình trạng đói bụng như vậy là không tốt cho cơ thể?" Chắc hẳn đa số chúng ta đều đang suy nghĩ như vậy. Tuy nhiên, từ lập trường của một bác sĩ cũng như từ chính những kinh nghiệm của bản thân, tôi có thể trả lời một cách rõ ràng những nghi vấn đó. "Việc cho rằng hấp thụ từ từ chất dinh dưỡng có thể giúp chúng ta trở nên khỏe mạnh là một suy nghĩ đã lỗi thời". Ngược lại với điều đó tôi khẳng định, "mỗi lần bụng reo lên vì đói, những điều có lợi cho sức khỏe sẽ được kích hoạt ở mức độ tế bào, tạo nên hiệu quả trẻ hóa!" Tôi đã và đang duy trì chế độ ăn "Mỗi ngày một bữa" suốt 10 năm qua, kể từ khi tôi 45 tuổi. Điều này có nguyên cớ riêng của nó. Thực tế, khi bước sang tuổi 30, tôi đã nếm trải nỗi ám ảnh kinh hoàng về cái chết. Hồi đó, vì bố tôi có mở một phòng khám tư tại nhà nên tôi có thể trải qua những chuỗi ngày êm ả, nghiên cứu và điều trị bệnh ung thu vú tại trường đại học. Nhưng năm tôi 35 tuổi, bố tôi, khi đó 62 tuổi, đột ngột ngã quỵ vì bị nhồi máu cơ tim. Mặc dù ông đã may mắn sống sót, nhưng kể từ đó ông không thể tiếp tục công việc của một bác sĩ được nữa, nên ông nghỉ hưu. Đây cũng là lý do khiến tôi phải dừng việc nghiên cứu tại trường đại học, trở về nhà và tiếp quản phòng khám của bố. Khác với cuộc sống nghiên cứu vui vẻ ở trường đại học, tôi phải tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân, lắng nghe những than phiền từ họ. Mỗi ngày của tôi bỗng chốc tràn ngập muôn vàn mỏi mệt. Cũng vì mệt mỏi mà tôi trở nên ham mê ăn uống, khiến cân nặng tăng nhanh chóng. Tôi lên đến 77kg, béo hơn 15kg so với hiện tại. Đó là hậu quả của việc hấp thụ quá nhiều chất dinh dưỡng. Hơn nữa, trước đây tôi có tiền sử bị táo bón khá trầm trọng, nên chuyện khốn khổ hơn đã bắt đầu xảy ra. Đó là mỗi khi ngồi rặn trong nhà vệ sinh, tôi lại bị rối loạn nhịp tim. Các bạn sẽ nghĩ "Bệnh táo bón với chứng rối loạn nhịp tim có liên quan gì đến nhau?", nhưng trên thực tế, chúng thật sự có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi lần cơ thể phải "rặn" vì táo bón, máu sẽ bị dồn lên, khiến cơ quan cảm biến huyết áp của động mạch cảnh hoạt động ngay lập tức, gây ức chế hoạt động của tim đế giảm huyết áp. Triệu chứng này được gọi là "phản xạ xoang động mạch cảnh" hay "phản xạ xoang cảnh". Và hậu quả là chứng rối loạn nhịp tim sẽ xảy ra thường xuyên. Nếu nghiêm trọng, có khi bị cả ngày không dứt. Rối loạn nhịp tim sẽ gây ra trạng thái khó thở, cũng có trường hợp bị mất ý thức tạm thời ngay trong nhà vệ sinh do tụt huyết áp. Trầm trọng hơn, hiện tượng này có thể tạo ra những cục máu gọi là "huyết khối" nếu dòng chảy của máu trong tim chịu tác động xấu do chứng rối loạn nhịp tim. Những cục máu này khi chạy đến não sẽ gây "tắc mạch máu não", đi đến phổi sẽ gây nghẽn mạch phổi, thậm chí có thế gây mất mạng trong nhà vệ sinh lúc nào không biết. Thời gian đó, việc bước vào nhà vệ sinh mỗi ngày đối với tôi là một nỗi kinh hoàng. Cũng vì thế mà tôi lao vào thử nghiệm vô số phương pháp bảo vệ sức khỏe. Tôi chăm chỉ tập gym, cố gắng bơi lội và sử dụng máy tập thể thao. Tôi định giảm cân bằng cách tập thể dục. Nhưng trớ trêu thay, vì tập luyện nên tôi càng ăn nhiều hơn, khiến cân nặng ngày một tăng thêm. Tôi mệt mỏi với việc giảm cân, kế hoạch dinh dưỡng cũng ngay lập tức khiến tôi phát ớn, không thể tiếp tục nổi. Trong khi liên tục thử nghiệm và tìm kiếm các phương pháp mới, tôi nhận thấy ngay sau khi ngừng ăn thịt và đổi sang chế độ ăn uống chủ yếu là rau xanh, căn bệnh táo bón cố hữu nghiêm trọng của tôi bỗng chốc được chữa trị. Tuy nhiên, cũng có lúc tôi cảm thấy thèm thịt kinh khủng. Nhưng nếu tôi ăn thịt thì ngay buổi sáng hôm sau, bệnh táo bón khi xưa liền quay trở lại. Tôi cảm thấy sợ hãi vô cùng vì cảm giác đau đớn như sắp chết đến nơi trong nhà vệ sinh, cho nên về sau tôi không thể ăn thịt được nữa. Chuyện này đúng là kỳ quái. Nó giống như người hút thuốc lá nếu tạm cai được thuốc sẽ trở nên khó chịu với mùi thuốc lá. Trường hợp của tôi cũng tương tự như vậy, sau khi ngừng ăn thịt một thời gian, dù có ăn món beef steak hảo hạng tôi vẫn không cảm thấy có mùi vị gì, chẳng khác nào đang nhai giấy, đến mức tôi chỉ muốn nôn ra. Ngoài ra, sau khi tôi dừng ăn thịt, mùi hôi của cơ thể cũng tự nhiên không còn nữa. Cơ thể của những người thích ăn thịt, hoặc những người bị gan nhiễm mỡ hay mắc các bệnh về huyết áp, thường có lượng chất béo nhiều trong bã nhờn, những chất này sẽ bị peroxy hóa trở thành các lipid peroxide gây ra mùi hôi cho cơ thể. Các chất đó được gọi là "nonenal" và chúng hầu như đã bị loại bỏ khi chúng ta dừng ăn thịt. Thêm vào đó, nếu chúng ta giảm lượng thức ăn bằng phương pháp "Bữa ăn cơ bản1”, thì trọng lượng cơ thể cũng sẽ giảm xuống và tình trạng của cơ thế cũng sẽ ngày một tốt lên. Nhìn từ góc độ dinh dưỡng, chúng ta hoàn toàn có thể hiểu việc cơ thể trở nên hoạt hóa nhờ được tiếp nhận "dinh dưỡng đầy đủ" gói gọn trong một bữa ăn tưởng chừng đơn giản. Mặc dù vậy, việc tuân thủ "bữa ăn cơ bản" trong mỗi bữa rất khó khăn. Vì nhiều khi chúng ta không thấy thèm ăn vào buổi sáng và trưa, ngược lại, đến buổi tối, có lúc ta lại phải ăn rất nhiều món trong các buổi gặp mặt. Cho nên, thói quen nào dù tốt đến đâu mà thiếu thực tiễn cũng không thể tiếp tục lâu dài được. Do đó, sau khi đã thử nghiệm muôn vàn cách khác nhau, phương án được tôi lựa chọn để cải thiện tình hình chính là ăn "Mỗi ngày một bữa". Cho đến thời điểm hiện tại, sau 10 năm, tình trạng sức khỏe của tôi về cơ bản là tốt, cân nặng luôn duy trì ở 62kg. Và hơn hết, làn da của tôi trở nên trẻ trung đầy sức sống, tôi trẻ ra đến mức khi đi kiếm tra sức khỏe, "tuổi mạch máu2" của tôi được chẩn đoán là 26 tuổi. Tuy nhiên, trong đầu tôi vẫn mông lung với những nghi vấn: "Phương pháp ăn mỗi 'ngày một bữa' có thật sự tốt cho cơ thể hay không?", "Mình giới thiệu cho mọi người liệu có ổn không?" Những nghi vấn này của tôi đã hoàn toàn được giải đáp nhờ một nghiên cứu về "gen tuổi thọ" được thực hiện trong những năm gần đây. Trong tất cả những thí nghiệm trên động vật, các nhà khoa học chứng minh được rằng việc giảm 40% lượng thức ăn có thể kéo dài 1,5 lần tuổi thọ. Không chỉ dừng lại ở đó, nghiên cứu còn cho thấy, việc giảm bữa ăn còn tạo nên một diện mạo đầy sức sống, cải thiện nòi giống, vẻ bề ngoài cũng trở nên trẻ trung và tươi đẹp hơn. Mức độ trẻ trung và tươi đẹp biểu thị cho sức khỏe nội tại. Nếu các cơ quan bên trong cơ thể hoạt động trơn tru, máu tuần hoàn tốt, thì da sẽ căng bóng, eo cũng thon gọn. Ngược lại, nếu bên trong cơ thế sức khỏe không tốt, thì dù có tô vẽ bằng đồ trang điểm cao cấp đến thế nào, hay được trị liệu làm đẹp đến đâu đi nữa cũng không thể tạo ra vẻ đẹp thật sự. "Vẻ bề ngoài" là tiêu chí đánh giá sức khỏe dễ nhận ra nhất. Dù bạn có nghĩ bản thân mình thực sự khỏe mạnh thì có thể mới chỉ đơn giản là "Tôi chưa bị bệnh nặng bao giờ", "các chỉ số vẫn bình thường" mà thôi. Tôi thấy rất ít người có thể tự tin nói rằng cơ thể và làn da của họ đẹp. "Vẻ bề ngoài" bị lão hóa là bằng chứng của việc có mỡ trong nội tạng và cơ thể đang dần hình thành hội chứng chuyển hóa (metabolic syndrome)3. Có nghĩa là, nếu không phòng ngừa cẩn thận hội chứng chuyển hóa, chúng ta không thể có được một sức khỏe thật sự tốt, không thể có một diện mạo trẻ trung tươi mới. Điều tôi đang muốn nhấn mạnh đến là việc có được một làn da đẹp, trẻ trung, tươi mới cùng vòng eo thon. Đó chính là đích đến của phương pháp ăn "Mỗi ngày một bữa". Từ sau khi gen tuổi thọ được phát hiện, tôi đã chính thức đưa ra phương pháp ăn "Mỗi ngày một bữa", số lần tôi tham gia nói chuyện trên các chương trình truyền hình hay tại những buổi diễn thuyết ngày một tăng, những bài viết có liên quan đến chống lão hóa cũng ngày một nhiều. Sau đó, tôi trở thành Chủ tịch danh dự của Hiệp hội Y học Chống lão hóa quốc tế. Quyển sách này là tài liệu đầu tiên tôi viết về phương pháp ăn "Mỗi ngày một bữa". Trong quyển sách này, tôi muốn nói rõ hơn về căn cứ chứng minh việc ăn "Mỗi ngày một bữa" là phương pháp tự nhiên nhằm bảo vệ sức khỏe, và trình bày cụ thể hơn "cách xây dựng nếp sống mỗi ngày ăn một bữa". Bên cạnh đó, các bạn sẽ thấy rõ những thay đổi trên cơ thể mình khi áp dụng phương pháp ăn "mỗi ngày một bữa", đặc biệt là về ngoại hình. Tôi nghĩ quyển sách này sẽ đưa ra những vấn đề trái ngược hoàn toàn với những "tri thức thông thường" có liên quan đến sức khỏe mà các vị đã tin tưởng cho đến thời điểm hiện tại, vậy nên mong các bạn sẽ hứng thú đọc quyển sách đến dòng cuối cùng. CHƯƠNG 1: VÌ SAO KHÔNG ĂN LẠI TỐT CHO SỨC KHỎE? CHÌA KHÓA CỦA NGUỒN SỐNG NHÂN LOẠI LÀ "GEN SINH MỆNH” Ngày nay, ai cũng nghĩ việc ăn một ngày ba bữa là điều đương nhiên, hầu hết người dân hiện đang sống ở Nhật cũng nghĩ như vậy và không có chút nghi ngờ gì. Tuy nhiên, lần theo dấu vết của 170.000 năm lịch sử loài người kể từ khi tổ tiên chúng ta xuất hiện trên hành tinh này, việc con người ăn một ngày ba bữa và quan niệm ăn tới no bụng chỉ là những suy nghĩ mới có khoảng vài chục năm trở lại đây. Tuy là một khoảng thời gian đáng kể, nhưng cũng chưa đến 100 năm, nên đây vẫn có thể coi là quan niệm mới xuất hiện chưa lâu. Tại Nhật Bản, sau khoảng thời gian khôi phục đất nước bị tàn phá do chiến tranh và bước vào thời kì tăng trưởng kinh tế vượt bậc, hay trước đó một chút, kể cả thời kì có hay không có chiến tranh, hầu như không một người dân nào cho rằng họ được ăn no. Chính vì quan niệm mỗi ngày cần ăn ba bữa đều đặn nên đương nhiên mọi người sẽ nghĩ mình không được ăn no, cho nên mới ra đời cách nghĩ "cung cấp đủ dưỡng chất là bí quyết của sức khỏe". Ngay sau khi xuất hiện nền văn minh lúa nước, cách nghĩ như vậy đã sớm được hình thành, ở Trung Quốc, việc trồng lúa nước đã có vào khoảng năm 2.000 trước Công nguyên, tính tới nay cũng được 4.000 năm. Như vậy, 166.000 năm trước đó là thời kì của săn bắt và hái lượm, cho nên những ngày con người không săn bắt, hái lượm được gì chính là chuỗi ngày họ thiếu ăn. Hơn nữa, kể cả sau khi bước vào nền văn minh lúa nước, tình trạng mất mùa do thiên tai và thời tiết xấu liên tục tái diễn không biết bao lần trên toàn thế giới, vậy nên không hề quá lời nếu nói lịch sử loài người là một cuộc chiến bất tận với nạn đói. Ngay cả thời điểm hiện nay, nạn đói vẫn đang tiếp diễn. Chỉ có một số ít các nước như Nhật Bản, Mĩ, hay châu Âu đã loại bỏ được vấn đề này, còn lại tới quá nửa các quốc gia trên thế giới vẫn đang bị nạn đói hoành hành. Nhìn vào Hunger Map (Bản đồ nạn đói) do WFP (World Food Program - Chương trình Lương thực Thế giới) công bố, có thể thấy tình trạng đói nghèo vẫn đang hoành hành ở châu Á, châu Phi, Trung Nam Mĩ,... (Xem bản đồ 1. Biểu hiện % dân số quốc gia trong tình trạng đói nghèo). Nạn đói được định nghĩa là "tình trạng duy trì trọng lượng cơ thể ở mức thấp nhất có thể so với chiều cao và không thể cung cấp đủ lượng calo cần thiết để thực hiện những vận động nhẹ nhàng." Chính bởi những thiệt hại do thiên tai, những cuộc phân tranh kéo dài, cộng với tình trạng đói nghèo leo thang mà rất nhiều người hiện nay không thể có nổi bữa ăn đơn giản nhất. Ngoài ra, khi nhìn vào Bản đồ nạn đói, có một điều làm chúng ta phải chú ý. Đó là chính những quốc gia đang ở tình trạng đói nghèo lại có tỉ lệ sinh cao (Xem bản đồ 2). Trong khi đó, tại những quốc gia phát triển đầy đủ với tình trạng ăn uống thỏa mãn, tỉ lệ sinh rất thấp, dân số cũng đang giảm dần. Xét theo nhân chủng học, đây chính là tình trạng "giống loài đang bị đe dọa". Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn, có lẽ sau vài vạn năm nữa, trên Trái đất sẽ chỉ còn lại người dân ở những quốc gia nghèo đói. Vì sao lại xảy ra sự khác biệt về sức sống như vậy? Đó là vì trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, chưa kế đến nạn đói, loài người đã phải bao phen đối mặt với những mối đe dọa to lớn như khí hậu thất thường, dịch bệnh và những cuộc chiến tranh triền miên. Có phải các bạn nghĩ loài người chúng ta có nhiều nguồn gốc khác nhau, người Trung Quốc có nguồn gốc từ "Người vượn Bắc Kinh", "Người vượn Java" là tổ tiên của người châu Á, "Người Neanderthal" là tổ tiên của người châu Âu? Điều này không đúng. Tất cả những giống loài đó đều đã bị diệt vong. Tôi lấy làm tiếc với những người luôn tin rằng "Hoàn toàn không có chuyện loài người bị diệt vong", nhưng sự thật là cho đến nay đã có rất nhiều chủng loại người bị tuyệt chủng, không còn bóng dáng trên Trái đất. Tố tiên của người da trắng, da đen, da vàng hiện nay đã xuất hiện cách đây 170.000 năm tại núi Kilimanjaro (ở nước Tanzania), một người phụ nữ được đặt tên là Mitochondrial Eve. Ngày nay, trong khi các quốc gia nghèo đói đang oằn mình với vấn đề bùng nổ dân số, thì các quốc gia phát triển lại không thể kiểm soát được vấn đề giảm tỉ lệ sinh nhằm gia tăng dân số, dù họ luôn cố gắng áp dụng những thành tựu khoa học tiên tiến nhất như thụ tinh nhân tạo... Đây chính là một vấn đề của nhân loại, và Nhật Bản cũng là quốc gia có tỉ lệ phụ nữ mang thai thấp. Nhưng ở thời đại của tổ tiên chúng ta, vào những năm trước chiến tranh, việc một cặp vợ chồng có bốn, năm người con là điều bình thường. Có nghĩa là trong những con người hiện đại như chúng ta, con cháu của những người đã cố gắng vượt qua nguy cơ diệt vong của nhân loại, kéo dài sự sống đến ngày nay, luôn tiềm tàng một loại năng lực được gọi là "khả năng sinh tồn", thường trở nên sục sôi mãnh liệt vào những lúc gặp đói khố, lạnh giá, dịch bệnh. Nguồn gốc của khả năng sinh tồn đó chính là "gen sinh mênh" mà chúng ta thu nạp được sau mỗi lần loài người vượt qua được những mối nguy hại. Gen sinh mệnh không phải là một loại gen thông thường. Đó là loại gen không thể đếm được như: "gen đói" chiến thắng sự đói khát, "gen sống lâu" sinh ra khi cơ thể bị đói, "gen sinh sản" làm tăng tỉ lệ sinh khi ở tình trạng nghèo đói, "gen miễn dịch" chế ngự được bệnh truyền nhiễm, "gen chống ung thư" để chiến đấu với bệnh ung thư, "gen phục hồi" để điều trị bệnh tật và lão hóa... có sẵn trong cơ thể mỗi người chúng ta. Song, điều trớ trêu là nếu không bị rơi vào tình trạng đói khát, lạnh giá, gen sinh mệnh sẽ không làm việc. Hơn nữa, nếu không được ăn uống đầy đủ, cơ thể sẽ bị lão hóa, giảm khả năng sinh sản, khi đó hệ miễn dịch sẽ làm việc theo hướng tấn công lại chính cơ thể chúng ta. Để mọi người có được một đời sống khỏe mạnh, trong những chương tiếp theo, tôi sẽ giải thích cặn kẽ hơn về gen sinh mệnh. LÝ DO CHỈ UỐNG NƯỚC VẪN BÉO Nhiều người sau khi thất bại trong việc giảm cân, thường hay đùa nhau rằng: "Người như tôi chỉ uống nước vẫn cứ béo." Trên thực tế, việc uống nước có làm ta béo lên hay không là vấn đề cần phải xem xét thêm, còn theo tôi, câu nói kia vẫn mang một ý nghĩa nhất định, đó có thể là đặc tính riêng của con người. Khi con người sống sót qua thời kì đói nghèo kéo dài hơn nửa thời gian của lịch sử nhân loại, tổ tiên chúng ta đã thu nạp được loại gen giúp con người cố gắng hấp thụ phần lớn dưỡng chất dù chỉ từ chút ít thức ăn. Đó chính là "gen đói", một trong những gen cấu thành nên bộ "gen sinh mệnh". Tuy tổ tiên chúng ta dần dần đã kiếm thêm được nhiều thức ăn hơn, nhưng vì không lường được lần tới sẽ no hay đói, cho nên nếu đã có thức ăn, dù rất ít ỏi, chúng ta cũng không bỏ phí chúng. Nhờ đó mà cơ thể biết hấp thụ các dưỡng chất, tích trữ trong cơ thể dưới dạng mỡ. Đây chính là lý do khiến cơ thể có thể bị béo lên dù chúng ta ăn rất ít. Nếu cơ thể không vận hành như vậy, có lẽ tổ tiên chúng ta không thể sinh tồn qua hàng vạn năm lịch sử trong cuộc chiến với nạn đói. Vì vậy, những cơ chế khiến cho cơ thể bị béo lên dù ta chỉ ăn một lượng rất ít chính là thành quả tiến hóa của loài người. "Gen đói" đã điều hành chính xác hoạt động chuyển hóa và tích trữ thức ăn dưới dạng mỡ rất hiệu quả, nên nó còn được gọi là "gen tiết kiệm". Trong những "dị nhân" về ăn uống mà ta thường thấy trên ti vi, có những tạng người gầy, ăn rất nhiều vẫn không béo nổi, những trường hợp hiếm có đó là do thiếu "gen đói". Trên thực tế, những người này nếu để bị đói sẽ không sống sót được lâu như người bình thường. Lẽ dĩ nhiên, cơ chế chuyển hóa thức ăn thành chất béo nội tạng là do tạo hóa. Cũng chính nhờ điều đó mà loài người đã tồn tại và sinh sôi được suốt 170.000 năm qua. "GEN SIRTUIN" GIÚP KHÔI PHỤC TẾ BÀO Nếu nói "gen đói" giúp hấp thụ nguồn dưỡng chất nhiều nhất có thể từ chút ít thức ăn, thì nó cũng được xem là loại "gen tích trữ năng lượng". Và cùng với "gen đói", còn một loại gen quan trọng nữa cũng góp phần vào việc duy trì sự sống cho con người. Đó chính là "gen trường thọ", một loại gen đang thu hút được sự chú ý của giới trẻ trong thời gian gần đây, có tên khoa học là "gen Sirtuin". Vì nó đang là đề tài hay được nói đến trên ti vi, nên có thể rất nhiều người đã từng nghe đến tên của loại gen này, nhưng động cơ để tìm ra nó lại bắt nguồn là từ giả thuyết "Khi chúng ta đói bụng,- năng lực sinh tồn sẽ được kích hoạt, và cơ thể được trẻ hóa." Hiện nay, chúng ta có thể thấy trong "Pháp nhịn ăn" của đạo Phật hay "Tháng Ramadan" của đạo Hồi, thay vì ăn nhiều, ăn ít sẽ giúp kéo dài sự sống. Và đây chính là lý do khiến các nhà khoa học tiến hành quan sát thời gian sinh tồn thực tế của hầu hết các loài động vật khi thay đổi lượng đồ ăn. Họ thử nghiệm trên hầu hết các loài động vật như khỉ nâu Macaca, chuột bạch, hay chuột lang... và thấy, bằng cách giảm 40% lượng thức ăn, hiệu quả duy trì sự sống đạt mức cao nhất, kéo dài 1,4 - 1,6 lần so với thông thường. Không chỉ vậy, khi tiến hành thử nghiệm ở khỉ, kết quả cho thấy những con khỉ háu ăn sẽ bị rụng lông và da mặt chảy xệ. Còn với những con khỉ tuy đã nhiều năm tuổi, khi bị hạn chế bữa ăn, lông của chúng vẫn mọc rậm, mượt mà, da trở nên căng bóng. Từ kết quả thực nghiệm này có thể suy đoán rằng, khi sinh vật ở trong tình trạng đói, chắc hẳn có một loại gen nào đó được kích hoạt để duy trì sự sống. Và "gen Sirtuin" chính là kết quả của những hoạt động nghiên cứu dựa trên phán đoán đó. Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu thêm và đưa ra kết quả chứng minh rằng khi cơ thể con người ở trình trạng đói, loại gen này sẽ kiểm tra tất cả các gen ở 50.000 tỉ tế bào trong cơ thể người và giúp phục hồi những gen bị hỏng, tổn thương. Điều này không chỉ liên quan đến việc kéo dài tuổi thọ mà còn cho thấy loại gen này cũng tham gia vào "hoạt động ngăn cản sự lão hóa và bệnh tật". Nhờ phát hiện ra "gen Sirtuin" này, chúng ta đã có thể kéo dài được thời gian sống và đây chính là điều được nói đến ngay từ đầu: "Gen sinh mệnh" giúp loài người sống lâu. Trong quá trình tìm hiểu về "gen Sirtuin", "gen đói" đã đề cập ở trên, cùng các loại "gen sinh mệnh" khác tôi sẽ nói ở phần sau như "gen sinh sản", "gen miễn dịch", "gen phục hồi"... tôi đã có một niềm tin vững chắc rằng, chính việc kích hoạt "gen sinh mệnh" sẽ mang lại cho chúng ta sự trường thọ và khỏe mạnh. Hơn nữa, "gen sinh mệnh" chỉ thể hiện khi cơ thể bị đói. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến "Phương pháp ăn mỗi ngày một bữa lành mạnh" trở thành chủ đề chính của quyển sách này. Người Nhật từ xưa đã có câu ngạn ngữ "Hara- hachi-bun-me" để cảnh báo về việc ăn đầy bụng, ngụ ý rằng bí quyết của sức khỏe là chỉ ăn tám phần no (ăn lưng lửng dạ), như một cách nhắn nhủ hậu thế luôn cố gắng giữ gìn lối sống sao cho các gen này được thể hiện đầy đủ. ĂN QUÁ NHIÊU LÀ KHỞI NGUỒN CỦA BỆNH TẬT Có những đất nước tạo ấn tượng mạnh bởi tình trạng béo phì ở người dân. Kể cả ở Nhật những năm sau chiến tranh, lịch sử từng ghi nhận việc Bộ Y tế và Phúc lợi đã thực hiện chế độ "Kenkoyuryojido", tức là "chế độ chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em", tuyên dương những trẻ em béo. Tuy nhiên, những năm gần đây, chính sách đó đã được gỡ bỏ vì hệ lụy gia tăng số trẻ em béo phì, nhưng từ việc này ta có thể thấy trong quá khứ đã có thời kì báo hiệu tình trạng nhân loại bị béo phì. Mặt khác, trong giai đoạn tăng trưởng thần kì ở Nhật Bản, những chương trình ẩm thực xuất hiện ngày một phổ biến hơn. Do thường xuyên được đưa lên các phương tiện truyền thông như ti vi hay tạp chí thời đó, nên khái niệm Houshoku - "ăn no" - được lan truyền khắp cả nước. Điều này đã đấy việc ăn uống vượt quá nhu cầu của một bản năng thông thường. Đối với động vật, để đảm bảo duy trì và phát triển các thế hệ sau, ăn uống và tình dục là hai nhu cầu tất yếu như nhau. Để trực quan và dễ hình dung hơn, chúng ta hãy cùng xem xét cụ thể qua bản năng tình dục, từ đó hiểu rõ hơn bản năng ăn uống ở động vật. Trong thế giới động vật, khi có cơ hội để con cái và con đực gặp nhau, chúng dường như lao vào nhau ngay lập tức để thỏa mãn nhu cầu giao phối của loài. Nhưng trong xã hội con người, dù ngay trước mắt chúng ta có đối tượng mang yếu tố hấp dẫn giới, tức là đối tượng khiến chúng ta nảy sinh ham muốn tình dục, chúng ta cũng không thể "tấn còng" ngay không chút ngần ngại như vậy, vì điều này được coi là phạm pháp. Còn về vấn đề ăn uống trong thế giới động vật, không phải lúc nào nhu cầu này cũng tồn tại và cần giải quyết ngay, đến như sư tử khi đã no bụng cũng sẽ không vồ bắt thỏ dẫu thỏ có đứng yên trước mặt nó đi nữa. Con người thì sao? Con người khi vừa ăn sáng xong đã ngay lập tức nghĩ tới chuyện ăn trưa. Hóa ra chúng ta thua cả động vật về khoản này? Con người chúng ta mỗi ngày ăn ba bữa thật no nhưng có bao giờ ta tự hỏi chính cơ thể mình rằng liệu như vậy có đảm bảo sức khỏe không? Câu trả lời của cơ thế chúng ta khi ấy rõ ràng sẽ là "không". Nếu thiếu một chút dinh dưỡng, chúng ta có thể dễ bị bệnh, nhưng bệnh này lại có thể được chữa khỏi nhờ cơ chế sinh tồn được quy định trong gen hoạt động. Song trái lại, ăn uống quá dư thừa sẽ khiến cơ chế này mất tác dụng. Vì vậy, việc ăn no và ngộ nhận trong ăn uống kể trên sẽ khiến cho cơ hội lành bệnh trở nên khó khăn. Khoa học chứng minh rằng tứ đại kì bệnh gồm Ung thư - Đái tháo đường - Bệnh tim mạch - Đột quỵ là hệ quả của việc ăn uống dư thừa và thiếu điều độ. Dù đang ở độ tuổi nào thì việc trước tiên chúng ta cần làm ngay để giữ gìn chất lượng cuộc sống luôn tươi trẻ và khỏe mạnh cũng là thay đối chế độ ăn bằng cách từ bỏ thói quen ăn no. Thông thường, khi nhắc đến việc thay đổi thói quen ăn uống, chúng ta thường có suy nghĩ rằng đó là ăn kiêng để giảm cân, thay đổi vóc dáng, nhưng chế độ ăn "Mỗi ngày một bữa" tôi đưa ra ở đây không những giúp chúng ta có vòng eo thon gọn, thân hình thanh thoát mà còn giữ cho da dẻ căng mịn và tràn đầy sức sống. Vì sao tôi đề cập đến ngoại hình ở đây trong khi chúng ta đang bàn về vấn đề sức khỏe? Đơn giản vì ngoại hình là thước đo hiệu quả để đánh giá sức khỏe. Không mấy ai tin khi tôi nói tôi đã 56 tuổi vì mọi người gặp tôi thường nói tôi chỉ trạc 20 tuổi. Trong khoảng 10 năm gần đây, tôi vẫn duy trì được chiều cao 1m73 và cân nặng 62kg. Nhưng trước đây, khi mới ngoài 40 tuổi, có thời điểm cân nặng của tôi lên tới 77kg. Quả là một thay đổi lớn. Sự thay đổi này là kết quả đạt được từ chế độ tôi muốn chia sẻ với các bạn. Nhờ có chế độ đó, tôi không những gầy đi 15kg mà còn được hưởng nhiều điều lợi khác như cơ thể trở nên dẻo dai hơn, duy trì sự tươi trẻ, đầu óc minh mẫn để chia sẻ bí quyết cùng với các bạn qua quyển sách này. Cơ THỂ CON NGƯỜI CHÚNG TA NGÀY NAY KHÔNG THÍCH NGHI VỚI VIỆC ĂN NO Như đã nói ở trên, tổ tiên chúng ta trước đây đã phải trải qua thời kì đói rét, khí hậu khắc nghiệt. Chính trong quá trình tiến hóa hàng vạn năm chống chọi với môi trường sống đầy khó khăn đó mà cơ thể chúng ta được thừa hưởng gen sinh tồn, hay còn gọi là "gen sinh mệnh", được trang bị những thành phần để thích nghi với cái đói và cái rét. vốn dĩ, khả năng thích nghi của loài người được phát huy ở mức cao nhất dưới tác động của môi trường, giúp cơ thế con người dần trở nên tối ưu hơn. Cho nên, đối với "gen sinh mệnh", lý do khiến gen này được kích hoạt nhiều nhất là cơ thể phải chịu đói và rét. Nói cách khác, những người có "gen tiết kiệm" sẽ có khả năng sống sót nhờ tiêu thụ ít năng lượng hơn khi đói, điều này rất có ích cho việc sinh tồn. Hầu hết những người sống ở thời kì đó đều hiểu rằng trong người họ mang loại gen này. Tuy nhiên, sự tối ưu của gen này có một nhược điểm, đó là nó không thể thích nghi tốt với sự thay đổi của môi trường trong một điều kiện nhất định nào đó. Để thích nghi với điều kiện mới, loài người cần phải trải qua quá trình tiến hóa hàng vạn năm. Có nghĩa là chúng ta đã có khả năng thích nghi cao hơn bình thường đối với việc bị đói, nhưng chưa có khả năng chịu đựng tình trạng dư thừa thức ăn, lúc này gen sinh mệnh hoạt động thậm chí còn gây hại cho cơ thể. Cơ thể chúng ta có thể thích nghi mạnh mẽ với trạng thái đói nhưng chưa quen với trạng thái no. Chúng ta hãy cùng nhớ lại một điều, lịch sử 170.000 năm của loài người là một cuộc chiến dài chống chọi với đói và rét, trong khi khoảng thời gian con người được ăn no thật ít ỏi, chưa tới 100 năm. Hiện nay, ngày càng có nhiều người ăn đến no bụng với những bữa ăn với hàm lượng calo lớn, khiến lượng năng lượng cần tiêu hao trong ngày tăng mạnh. Và cơ thế của những người đó sẽ bị thay đổi nếu họ không thể thích nghi với cuộc sống ăn quá nhiều như vậy. Trên thực tế, khi ăn quá nhiều, chúng ta sẽ nhanh chóng béo lên. Nếu cứ tiếp tục ăn uống vô tội vạ và không ngừng béo lên, điều gì sẽ xảy đến với con người chúng ta? Đã có không ít người tự hào với cơ thể nặng hơn 100kg của mình. Các bạn cũng đều từng thấy trên ti vi những người nặng tới 200 - 300kg, không thể tự mình ngồi dậy trên giường. Nếu tất cả chúng ta đều thành ra như vậy, chẳng phải loài người rồi sẽ bị tuyệt chủng sao? Chính sự xuất hiện của thói quen ăn uống vô độ là nguyên nhân dẫn tới căn bệnh tiểu đường, còn được gọi là "căn bệnh quốc dân", và kéo theo đó là sự gia tăng các bệnh như ung thư, nhồi máu cơ tim. Lẽ thường, sau chiến tranh, người dân cả nước đều có chung mục tiêu hướng đến xây dựng một quốc gia mà ở đó người dân được ăn no. Nhưng mục tiêu đó ngày nay lại thành ra nghịch lý khi mà việc ăn uống no nê lại là tác nhân phá hoại cơ thể con người qua nhiều loại bệnh tật khác nhau như tiểu đường và vô số bệnh khác. Đó chẳng phải là một điều trớ trêu sao? BỆNH TIẾU ĐƯỜNG LÀ MINH CHỨNG CHO sự TIẾN HÓA CỦA LOÀI NGƯỜI? Chúng ta hãy cùng thử mường tượng lại hình dáng tổ tiên mình ngày xưa! So với chúng ta ngày nay, con người ở thời kì Jomon có thị giác, khứu giác và thính giác nhạy bén hơn nhiều. Những người sống hoang dã ở vùng đồng cỏ khô (xavan) của châu Phi có thị lực đạt 2.0 - 3.0 là chuyện bình thường. Bởi vì họ không thể tồn tại nếu thị giác thiếu nhạy bén khi sống trong một môi trường mà chỉ một chút sơ sẩy, tính mạng của họ có thể bị thú dữ như sư tử đoạt mất bất cứ lúc nào. Còn mắt của chúng ta dù có tốt đến đâu nhưng khi làm công việc suốt ngày nhìn màn hình máy tính, hầu như ai cũng có thể bị cận thị. Nhiều người cho rằng cận thị là một loại bệnh, nhưng thực tế đây lại là một cách thích nghi của cơ thể với môi trường. Vì khi tiếp xúc với một môi trường mà chỉ chăm chú vào cử động của tay, mắt sẽ phải tự điều chỉnh cự li nhìn gần lại để có thể dễ dàng thấy được cả cử động của tay. Ngược lại, nếu bạn sống ở vùng xavan của châu Phi từ nhỏ, thì dù là người Nhật cũng có thể nhìn xa được. Đó chính là cách để cơ thể của chúng ta thích nghi với môi trường. Bệnh tiểu đường mà rất nhiều người đang mắc phải cũng tương tự như vậy, đây có thể được xem như một phản ứng thích nghi của loài người để có thể tồn tại trong thời đại mới - thời đại ăn no. Vậy chúng ta hãy cùng xem cụ thể bệnh tiểu đường là một minh chứng cho sự tiến hóa của loài người ở mức độ nào. Thuở sơ khai, các loài động vật hoang dã đã phải tự săn mồi để có thể sinh tồn trong thế giới tự nhiên. Đây chính là lý do để chúng phát huy toàn bộ các cơ quan cảm giác như thị giác, thính giác và khứu giác vào việc săn mồi, nên các cơ quan này còn được gọi là "cơ quan săn mồi". Ngoài ra, tay và chân (tứ chi) cũng thuộc cơ quan săn mồi vì chúng được dùng để rượt đuổi và bắt con mồi. Ngược lại, ở xã hội hiện đại, khi con người nuôi thú cưng và ăn thịt gia cầm thì việc săn bắt thức ăn không còn cần thiết, tự con người đã thích nghi được. Vậy điều gì sẽ xảy ra với những con vật vẫn có thức ăn mà không cần đuổi bắt con mồi? Tất cả các cơ quan săn mồi sẽ bị thoái hóa dần. Ví dụ, lợn được nuôi không thể chạy nhanh như lợn rừng. Điều đó cho thấy các chức năng trong cơ thể sẽ bị thoái hóa khi chúng trở nên không cần thiết nữa. Tương tự như vậy, con người trong thời kỳ Jomon có thị giác, khứu giác và thính giác tốt hơn so với người hiện đại. Khứu giác, thính giác của tổ tiên chúng ta khi xưa có lẽ cũng cực kỳ mẫn cảm, không thua gì loài chó. Tuy nhiên, ở hiện tại, các giác quan này đã bị thoái hóa nhiều. Tiểu đường chính là căn bệnh làm thoái hóa tất cả các giác quan săn mồi. Mắt để tìm kiếm con mồi đã bị suy yếu, nay thoái hóa gần đến ngưỡng cuối cùng sẽ trở nên mù lòa. Đây còn được gọi là "bệnh võng mạc đái tháo đường". Do cũng không cần đuổi bắt con mồi nữa, nên chân bị suy yếu theo. Y học gọi đây là "bệnh bàn chân đái tháo đường". Việc thoái hóa dần những cơ quan không còn cần thiết nữa là sự sắp đặt của tạo hóa. Thời nguyên thủy, loài người vốn dĩ sống ở trên cây. Họ cũng có đuôi và leo trèo trên cây nhờ vào cái đuôi đó. Trải qua hàng nghìn năm, vì phần cơ thể đó không còn cần thiết nên chiếc đuôi bị mất đi, chỉ để dấu tích duy nhất là đốt xương cụt của chúng ta ngày nay. Cũng giống như vậy, để sinh tồn trong thời kì băng hà, cơ thể con người cũng có bộ lòng bên ngoài. Tuy nhiên, sau khi con người biết cách sử dụng da của các loài động vật khác khoác lên người và bắt đầu mặc quần áo, bộ lòng trên cơ thể cũng dần trở nên thoái hóa. Đối với loài người, do không còn cần phải săn mồi, nên chân tay, cơ quan cảm giác đều là những phần cơ thế không còn quá cần thiết nữa và chúng bắt đầu bị thoái hóa. Theo một nghĩa nào đó, có thể xem đây là "sự thích nghi" đối với môi trường đang bị biến đổi đột ngột khi hướng đến thời đại ăn uống no say. LÝ DO THẬT Sự KHIÊN CHÚNG TA GẦY ĐI LÀ DO BỆNH TIỂU ĐƯỜNG Việc hướng tới thời đại ăn uống no say có một vấn đề còn kinh khủng hơn. Đó là do ăn uống liên tục, một số người chúng ta không theo kịp được tốc độ chuyển đổi thức ăn thành chất béo trong cơ thể. Tức là, cho dù những người ấy có ăn nhiều bao nhiêu cũng không béo nổi. Như vậy, có thể nói bệnh tiểu đường đã tạo nên điều kỳ diệu "ăn bao nhiêu cũng không béo" để thích nghi với mòi trường mới - thời đại ăn no. Và nếu thời đại ăn no cứ kéo dài liên tục hàng vạn năm không thay đổi, chắc chắn gen sẽ biến đổi và cơ thể sẽ tiến hóa thành một hình dạng mới. Nếu vậy, trong tương lai, có khả năng con người sẽ tiến hóa thành một sinh vật sống mang hình dáng như chúng ta vẫn hay thấy trên phim ảnh, không có mắt và chân tay, mà chỉ có mỗi cái miệng để ăn bao nhiêu cũng không béo ngay từ khi được sinh ra. Nhưng trên thực tế, trước khi xảy ra viễn cảnh đó, "loại người phàm ăn" sẽ bị xóa sổ khỏi hành tinh này, còn Trái đất sẽ trở thành nhà của "những người đói". Vì sao vậy? Như tôi đã đề cập ở trên, khu vực của những người đói ăn có tỉ lệ sinh cao, còn khu vực của những người ăn no có tỉ lệ sinh thấp. Hơn nữa, chúng ta đều biết tiểu đường gây ra bệnh rối loạn cương dương ở nam giới, còn ở nữ giới làm gia tăng tỉ lệ vô sinh. Đối với chúng ta, những con người đang sống ở thế kỷ XXI, trên thực tế chúng ta đã và đang phải đối mặt trực tiếp với vấn đề này, hoàn toàn không thể lảng tránh. Loài người đã bị hủy hoại bao phen do phải đối mặt với nhiều mối nguy hại triền miên đến sinh mạng như nạn đói, lạnh giá, dịch bệnh hay thiên tai. Và chỉ những con người đã thay đổi cũng như có khả năng thích nghi mới tồn tại nối. Nói chung, khi nhắc tới tiến hóa, chúng ta thường nghĩ về sự thay đổi các cơ quan trong cơ thể con người theo hướng tốt hơn. Nhưng theo ý nghĩa ban đầu của tiến hóa, sự thay đổi cơ thể theo tình trạng thích nghi với môi trường như bệnh tiểu đường hay cận thị được gọi là "thích ứng", còn nếu có sự biến đổi về gen mới được gọi là "tiến hóa". Vậy nên có rất nhiều người trên thế giới này ghét những sự thay đổi đó và đặt tên cho chúng là "bệnh tật", đồng thời nguyền rủa luôn cả số phận bệnh tật của họ. Nhưng nếu nhìn nhận sâu xa hơn, tất cả thói quen sinh hoạt mà chúng ta duy trì trong suốt nhiều năm chính là nguyên nhân gây ra’ điều ’này. Tôi hi vọng các bạn sẽ ghi nhớ trong tâm trí điều này, và nhất định sẽ có một ngày các bạn thay đổi cách sống của chính mình. KHI NGUY HIỂM GẦN KỀ cơ THỂ SẼ Được KÍCH HOẠT ĐẾN TẬN TẾ BÀO Theo các nhà khoa học, mỗi ngày có hàng chục nghìn tế bào thân kinh bị phá vỡ. Với đà này, có lẽ chúng ta đều lo rằng sớm muộn gì các tế bào thần kinh sẽ không còn nữa. Trên thực tế, mỗi người chúng ta có khoảng 1.000 - 2.000 tỉ tế bào thần kinh và chỉ sử dụng khoảng 3% trong số đó. Như vậy, dù cho suốt cuộc đời ngày nào cũng mất đi hàng vạn tế bào thần kinh, nhưng xét tổng thể số này chỉ chiếm vài phần trăm ít ỏi. Song chắc chắn bệnh suy giảm nhận thức sẽ xảy ra nếu các tế bào thần kinh bị phá vỡ với tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên, cơ thể con người là một thực thể có khả năng hồi phục nhanh chóng. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, trong bộ não con người có tồn tại các tế bào gốc ở vùng Hồi Hải Mã (Hippocampus), giúp tái tạo các tế bào thần kinh. Mặc dù vậy, nếu chúng ta vẫn tiếp tục sinh hoạt không điều độ, các tế bào thần kinh sẽ không tăng lên. Vì điều đáng kinh ngạc chính là: tế bào thần kinh hồi phục mãnh liệt hơn khi tiếp xúc với "đói và rét". Điều này minh chứng cho việc chỉ khi ở bên bờ vực nguy hiểm của sự sống như đói và rét, sức sống của con người mới trỗi dậy mạnh mẽ. Còn bây giờ, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một chút về Hồi Hải Mã. Theo các nhà khoa học, Hồi Hải Mã là "lãnh địa của kí ức”, nơi kí ức được bộ não chọn lọc và lưu giữ. Tôi xin giải thích rõ hơn về điều này. Đó là, trong thời gian ngủ của chúng ta có một "khoảng thời gian vàng" từ 10 giờ tối hôm trước đến 2 giờ sáng hôm sau. Trong khoảng thời gian này, tại Hồi Hải Mã, các kí ức sẽ trải qua quá trình tinh lọc. Giấc mơ là sản phẩm từ quá trình cắt ghép ngẫu nhiên các kí ức diễn ra trong bộ não. Vì vậy, chúng hoàn toàn không có liên kết với nhau và cũng không mang ý nghĩa gì, song hoàn toàn không có điều gì mà không phải là trải nghiệm của chính chúng ta. Theo Freud, cha đẻ của học thuyết Phân tâm học, "giấc mơ là sự kết hợp của hai yếu tố gồm ham muốn bị đàn áp và tư duy tiềm ẩn". Ví dụ, để một người không nói tiếng Pháp không bao giờ gặp giấc mơ nói tiếng Pháp, thì trong khi ngủ, Hồi Hải Mã sẽ làm việc bằng cách chọn lọc và giữ lại những thông tin cần thiết, là những kí ức mà bản thân đã trải nghiệm trên thực tế và xóa dần những thông tin không cần thiết. Tuy nhiên, các bạn không nên quá lo lắng. Mặc dù những kí ức bị xóa bỏ ở đây dần lãng quên theo ý thức nhưng chúng vẫn được giữ lại ở vỏ não và sẽ được trích ra khi có cơ hội cần tới. Điều này tương tự như việc bạn xóa thông tin trên máy tính, nhưng khi cần vẫn có thể tìm ra nếu khôi phục lại ổ cứng. Cho nên, điều kỳ diệu là cơ thể con người có thể thực hiện được mọi thứ. VÌ SAO Cơ thể LẠI RUN LÊN KHI LẠNH? Như đã nói ở trên, cơ thể chúng ta có thể chuyển hóa thức ăn thành mỡ khi lượng thức ăn đưa vào ít. Có hai dạng tích tụ mỡ chính là mỡ dưới da và mỡ nội tạng, ở phụ nữ thường là mỡ dưới da, còn đàn ông là mỡ nội tạng. Có lẽ chúng ta đều biết về mỡ dưới da nhưng vẫn còn khá xa lạ với mỡ nội tạng. Sau đây, tôi sẽ giải thích rõ hơn về chúng. Chất béo đối với con người tựa như lớp Nikujiban - một loại trang phục giả cơ bắp của Nhật. Một phần của chúng dùng để tạo thành năng lượng cho chúng ta, còn lại phần lớn để giữ nhiệt cho cơ thể trong mọi điều kiện của môi trường. Tuy nhiên, khi bị lạnh, chúng ta vẫn thường run lên. Thật ra, đây là hiện tượng cơ thể sử dụng lớp mỡ dưới da, những glycogen để sưởi ấm. Nhưng cách sử dụng này cũng giống như đốt lò bằng than củi, 1g chỉ sinh được 4kcal nhiệt, trong khi lại làm giảm đường huyết, khiến chúng ta có cảm giác đói. Hãy hình dung, từ thời kì băng hà, lịch sử loài người đã ghi dấu nhiều sự kiện về nạn đói và cái rét cùng xảy đến đồng thời. Rõ ràng chúng ta không thể sống sót qua hàng vạn năm theo cách này được. Con người cũng giống như các động vật ngủ đông, để vượt qua cái lạnh khắc nghiệt, đã tích tụ mỡ, rồi sử dụng chúng để sưởi ấm cơ thể. Và mỡ được tích tụ theo cách này chính là mỡ nội tạng. Loại chất béo này có hiệu quả như dầu hỏa và xăng, đốt 1g sinh được 9kcal nhiệt. Tóm lại, loại mỡ này rất hiệu quả trong trường hợp cơ thể bị đói và rét. Vì vậy, khi vào cơ thể, lượng thức ăn tuy ít nhưng sẽ được chuyển hóa ngay thành loại mỡ này. Do đó, dù trong cơn đói và lạnh, con người vẫn có thể tiếp tục tồn tại kể cả không có thức ăn. Và đây chính là chức năng dự trữ mỡ nội tạng của cơ thể. Bằng cách đó, khi bị lạnh, cơ thể sẽ đốt cháy chất béo này để giữ cho chúng ta được ấm áp. MỠ NỘI TẠNG ĐƯỢC TÍCH TRỮ QUÁ MỨC CẦN THIẾT Tôi nghĩ rằng rất hiếm khi nhìn thấy một trẻ sơ sinh run rẩy vì lạnh do trẻ mang trong mình lượng mỡ nội tạng lớn. Tương tự như vậy, các động vật ngủ đông thường tích mỡ nội tạng để không bị lạnh và bị đói suốt mùa ngủ đông dài trong các hang động dù không ăn gì. Động vật ngủ đông thường ăn các loại hạt sồi trước khi ngủ đông. Các loại hạt sồi có hàm lượng calo rất cao, đủ sức nuôi cả lợn đen Iberia. Trong những hang tuyết, động vật ngủ đòng có thể sử dụng lớp mỡ này để sưởi ấm suốt mùa đông. Tổ tiên chúng ta cũng từng liên tục bị nguy cơ đói và lạnh giống như vậy. Và trong môi trường khắc nghiệt đó, mỡ nội tạng được lưu giữ trong cơ thể chính là chìa khóa mở ra cánh cửa của sự sống. Chúng ta càng tích tụ nhiều mỡ, khả năng sống càng cao. Nhưng đó là chuyện của thời xa xưa, còn thời hiện đại ngày nay, chúng ta có áo ấm, nệm êm, lò sưởi và vô vàn phương tiện khác để sưởi ấm. Vào mùa đông, chúng ta không còn cảm thấy cái lạnh như tổ tiên chúng ta nữa. Tuy nhiên, khi chúng ta ăn quá nhiều, tích tụ quá nhiều mỡ nội tạng, cơ thể sẽ phải liên tục sinh nhiệt quanh năm, bất kể bên ngoài thời tiết nóng hay lạnh. Có lần tôi đi tàu điện và thấy một số người vã mồ hôi như tắm dù đang là mùa đông. Đó là dấu hiệu của sự đốt cháy mỡ nội tạng thừa. Còn với phụ nữ, tuy đã mãn kinh, cơ thể không còn nóng thất thường như thời kì tiền mãn kinh, nhưng cơ thể cũng hay đột nhiên nóng và vã mồ hôi là do cơ thể bị nam hóa và cả vì đốt mỡ nội tạng. LÝ DO THỰC Sự CỦA HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA LÀM SUY GIẢM TUỔI THỌ Ở phần trước, chúng ta biết mỡ nội tạng cơ bản được tích tụ trong cơ thể để phòng trường hợp đói và rét. Nhưng cái gì quá cũng không tốt, kể cả loại mỡ này cũng vậy. Việc tích tụ quá nhiều mỡ dẫn đến cơ thể suốt ngày phải đốt cháy phần dư. Do đó, những người đang dùng mỡ nội tạng quá mức liên tục đổ mồ hôi không kể mùa nóng hay mùa lạnh, nhưng đây không phải là vấn đề chính. Vấn đề chính là bất kể thứ gì khi cháy đều sinh ra "muội", và mỡ nội tạng không phải là ngoại lệ. Nhưng "muội" được sinh ra do đốt cháy mỡ nội tạng rất có hại cho cơ thể, chúng được các nhà khoa học gọi là cytokine. Cytokine là một chất miễn dịch tự nhiên ban đầu của cơ thể. Khi tiếp xúc với những kháng nguyên lạ như vi khuẩn, vi rút, độc tố... các tế bào bạch cầu tiết ra và sử dụng cytokine đế tấn công và tiêu diệt những kháng nguyên này. Cytokine giống như thứ vũ khí giúp cơ thể chúng ta đẩy lùi được những kẻ thù không mong muốn ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên, điểm yếu của cytokine là không thể phân biệt rõ đâu là ta, đâu là thù khi được giải phóng ra. Cho nên cytokine giống như một con dao hai lưỡi, vì cơ thể cũng phải chịu tổn thương khi sử dụng chúng để tấn công kẻ thù. Và mỡ nội tạng khi bị đốt cháy cũng sinh ra một loại cytokine, có tên khoa học là adipocỵtokine. Sự xuất hiện của adipocỵtokine gây tổn thương các tế bào nội mô mạch máu, khiến các tế bào này trở nên xơ và rời rạc, các nhà khoa học gọi hiện tượng này là "xơ vữa động mạch". Nhưng có hai loại adipocytokine: adipocytokine tốt, còn gọi là adiponectin, giúp duy trì thành mạch, ngăn ngừa xơ vữa; loại còn lại là adipocỵtokine xấu gây xơ vữa vừa được nói đến ở trên. Trong trạng thái cơ thể bình thường, hai loại này duy trì ở mức cân bằng. Nhưng khi chúng ta tích tụ quá nhiều mỡ nội tạng, cơ thể thiên theo hướng hình thành adipocytokine xấu. Do đó, ở những người mà quá trình trao đổi chất này diễn ra mạnh, vấn đề xơ vữa động mạch dễ phát sinh, từ đó dẫn đến các bệnh tim mạch, đột quỵ. Và sản phẩm từ việc đốt cháy quá nhiều mỡ nội tạng, "muội" của mỡ nội tạng adipocytokine xấu, chính là thủ phạm của việc này. Qua đó, chúng ta nhận thấy khi được phát huy khả năng, mỡ nội tạng giúp con người vượt qua đói rét, nhưng nếu không kiểm soát được, loại mỡ này sẽ khiến chúng ta có nguy cơ mất mạng cao hơn bao giờ hết. Việc tối ưu hóa gen, tối ưu hóa cơ thể để thích nghi với môi trường mới không phải là quá trình diễn ra trong ngày một ngày hai, mà kéo dài hàng vạn năm, cho nên trong môi trường ăn no của chúng ta ngày nay, sự thích ứng chưa được hình thành quả là một khuyết điểm lớn. "MỖI NGÀY MỘT BỮA” - TIA SÁNG cuối ĐƯỜNG HẦM Như đã nói trong các phần trên, con đực ngủ đông được là do tích mỡ nội tạng, còn con cái nhờ vào tích mỡ dưới da. Vậy ở con cái liệu có cơ chế sưởi ấm nào khác? Đó là cơ chế gì? Câu trả lời chính là việc mang thai. Đứa con trong bụng chính là khối mỡ nội tạng đặc biệt. Do đó, các con cái không cần tích mỡ nội tạng như con đực. Trong giai đoạn ngủ đông, con cái không mang thai sẽ chết sao? Không phải như vậy. ở động vật, hiện tượng rụng trứng chỉ xảy ra khi bị kích thích giao phối, gọi là "rụng trứng hậu giao phối". Trong thế giới tự nhiên, các con đực và con cái rất khó có thể gặp được nhau, ở vùng Bắc cực và sa mạc Sahara, khi con đực và con cái gặp nhau nhưng bị lỡ dịp giao phối, sẽ khó có cơ hội thứ hai cho chúng tiếp cận và giao phối với nhau. Vậy nên con cái được chuẩn bị cơ chế đặc biệt cho điều này. Ví dụ, chi phí phối giống cho ngựa đua là 10 triệu Yên/lần. Một khi chúng ta đã bỏ tiền ra đế phối giống, thì dù có gặp rủi ro không thực hiện hoạt động giao phối được, chúng ta cũng không phải lo gì cả. Đơn giản là hiện tượng rụng trứng ở con cái của động vật ngủ đông luôn xảy ra sau khi giao phối, cho nên khi giao phối chắc chắn sẽ mang thai. Hiện tượng giao phối xong mà mang thai luôn có ở động vật như con người và gấu trúc. Chúng ta vẫn đang sinh sản theo cơ chế này. Ngay như chuyện của tôi, đêm trước khi tôi lên đường hành quân phục vụ chiến tranh cũng là đêm tân hôn của vợ chồng tôi, và qua duy nhất đêm tân hôn đó, vợ tôi đã mang thai. Đó là thời gian chiến tranh, và trước ranh giới sinh tồn hay diệt vong của loài, bản năng giao phối sẽ trỗi dậy để duy trì giống nòi. Đó chính là lý do vì sao ở các nước phát triển với cuộc sống no đủ, tỉ suất sinh giảm trong khi tại những nước chậm và đang phát triển vẫn còn nạn đói, tỉ suất sinh ngày một cao. Giờ chúng ta quay lại vấn đề động vật ngủ đông. Con cái không thấy lạnh bởi vì bào thai trong bụng đã giữ ấm cho chúng suốt mùa đông dài lạnh lẽo. Vì vậy, mỡ nội tạng không cần thiết đối với chúng, về mặt này, con người chúng ta cũng vậy, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản chỉ tích tụ mỡ dưới da. Cho nên những phụ nữ trẻ không thể nói rằng "Chất béo trong tôi đã chuyển hóa hết", vì khi phụ nữ bước qua độ tuổi này, không mang thai nữa, sang giai đoạn tiền mãn kinh, mỡ bắt đầu chuyển dần từ tích tụ dưới da vào nội tạng. Phụ nữ ở tuổi này mập mạp một chút sẽ sống lâu hơn. Nhưng bước sang giai đoạn mãn kinh, phụ nữ cũng cần giảm bớt mỡ nội tạng như ở nam giới. Vậy vì sao chúng ta cần giảm mỡ nội tạng? Đơn giản là vì chúng ta không còn đối mặt với đói rét như xưa nữa. Như đã nói ở trên, chúng ta cần thích nghi với môi trường ăn no hiện nay. Cho nên, đứng trên lập trường là bác sĩ lâu năm, tôi khuyên mọi người nên ăn theo chế độ "mỗi ngày một bữa". Đó là cách để chúng ta giảm lượng thức ăn thừa, từ đó giảm lượng mỡ nội tạng, khơi dậy lại gen Sirtuin, mở ra cánh cửa đến với vườn địa đàng, nơi chúng ta mãi thanh xuân, khỏe mạnh. Đó là giải pháp cuối cùng của chúng ta. Tuy nhiên, muốn làm vậy chúng ta cần có lộ trình chuyển đổi chứ không nên áp dụng ngay "mỗi ngày một bữa", hãy ăn từ ngày ba bữa giảm xuống còn hai rồi giảm xuống còn một bữa. Lộ trình cụ thể tôi sẽ giới thiệu cho các bạn ở chương sau. CHƯƠNG 2: CHÚNG TA ĐỀU CÓ THỂ THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP "MỖI NGÀY MỘT BỮA” CHẾ ĐỘ GIẢM CÂN BẰNG BỮA ĂN CƠ BẢN LÀ PHƯƠNG PHÁP ĐƠN GIẢN GIẢM LƯỢNG TRONG MỖI BỮA ĂN Điểm quan trọng nhất của chê độ ăn kiêng là kiểm soát lượng calo chúng ta đưa vào. Bộ Lao động và Phúc lợi của Nhật đã đưa ra bảng quy đổi thành calo của các loại thực phẩm hằng ngày, qua đó chúng ta có thế kiếm soát được lượng calo đưa vào cơ thể qua từng bữa án. Chẳng hạn như một bát cơm có bao nhiêu calo, cá thu kho bao nhiêu calo, rau xào bao nhiêu gram, bao nhiêu calo... Với người bị hội chứng chuyển hóa như tôi, khi nhắc đến điều này, cảm nghĩ của tôi là: "Làm điều ngớ ngẩn như vậy để làm gì". Nói là vậy nhưng tôi đã được học điều đó từ thời học trong trường y và giờ đây, khi trở thành bác sĩ, tôi đã, đang và sẽ nói lại điều đó cho những người mắc bệnh tiểu đường hay béo phì. Tuy nhiên, đây không đơn thuần chỉ là kiến thức sinh viên y khoa phải học, hay cách điều trị do bác sĩ chỉ định mà còn là thành ý muốn giúp đỡ mọi người xuất phát từ tấm lòng của một con người cũng như từ sự đúc kết kinh nghiệm của bản thân tôi. Giờ đây ăn uống không còn là việc thưởng thức những món ngon mắt, mùi thơm phức, có vị tuyệt hảo nữa mà là thu nạp những thức ăn được tính toán kĩ lưỡng về calo. Mới đầu khi thực hiện như vậy tôi thấy sao khổ thế. Nhưng tôi tự nhủ mình không thế bỏ dở giữa chừng. Và kết quả là tôi không thể cố gắng nổi quá ba ngày với kiểu ăn suốt ngày phải lo tính toán calo. Khi đó tôi mới nhìn ra giải pháp để tiếp tục vừa ăn vừa kiểm soát lượng calo, chính là ăn theo kiểu Bữa ăn cơ bản. Từ xưa đến nay, ở Nhật Bản, việc ăn uống giản đơn đã trở thành truyền thống trong đời sống của nhiều thế hệ. Do đó, việc ăn uống chú trọng vào lượng calo là hoàn toàn có thế. Hơn nữa, với cùng một món ăn như trước kia, thay vì dùng bát lớn, chúng ta dùng bát nhỏ cũng là một cách giảm lượng calo. Như vậy, các bạn không cần lên thực đơn riêng khi ăn với gia đình. Chỉ cần ăn đến 80% khả năng, tức là "chế độ ăn tám phần", hoặc 60%, tức là "chế độ ăn sáu phần". Tôi gọi đó là "phương pháp ăn kiêng kiểu Bữa ăn cơ bản". Trong phương pháp này có ba điều cần quan tâm, thứ nhất là cơm, thứ hai là súp và cuối cùng là món ăn kèm. Việc cần lưu ý trước tiên là chuẩn bị phần cơm cho trẻ em. Các bạn có thể làm cho con mình phần cơm nhỏ ngộ nghĩnh như hình Anpanman4 và một phần súp miso nhỏ là được, về phần cơm, bạn chỉ cần một bát, có thể từ gạo trắng hoặc nâu, cơm thổi hay cơm chiên đều được. Vì lượng calo sẽ được kiểm soát và điều chỉnh giảm dần, nên hãy chú trọng ăn món chúng ta thích. Tiếp đến là phần súp, cũng một bát súp, loại nào cũng được, từ các loại súp phổ biến như miso, kenchi đến những loại súp nóng khác. Cuối cùng là đồ ăn kèm, đồ ăn kèm được đặt trong đĩa nhỏ ngang với đĩa lót đáy cốc cà phê. Thức ăn là thịt hay cá đều được nhưng không nên đầy tràn ra ngoài. Mọi người trong gia đình có thể cùng nhau tận hưởng bữa ăn. Tuy nhiên chúng ta nên nhớ một điều là không lấy thức ăn lần hai. Chúng ta áp dụng kiểu ăn như vậy trong cả ba bữa ăn hằng ngày. Kể cả cơm văn phòng, chúng ta cũng nên làm tương tự, phần thừa hãy loại đi. Nếu tuân thủ đúng phương pháp này và dùng theo chế độ ăn sáu phần, người béo có thể gầy đi và người gầy có thể béo lên. Nói chung, người ta hay cho rằng, về bản chất, ăn kiêng là để giảm cân, nhưng thực ra đó lại là "phương pháp ăn đúng đắn". Do đó, người thừa cân có thể gầy đi, người cân đối tiếp tục duy trì, còn người gầy có thể béo lên. Nhiều người cho rằng ăn mãi không béo lên chẳng qua vì họ đang ăn ít, đây là quan niệm sai lầm. Nếu kiên trì tuân thủ ăn với lượng calo nhất định, cơ thế chúng ta sẽ được duy tri ổn định. ĐỪNG QUÁ GÒ ÉP KHI THỰC HIỆN ĂN "MỖI NGÀY MỘT BỮA" Phương pháp ăn kiêng kiểu Bữa ăn cơ bản ở trên là bước khởi động để các bạn dần tiếp cận với phương pháp cốt lõi trong quyển sách này, phương pháp ăn "Mỗi ngày một bữa". Khi mới đưa phương pháp này vào đời sống hằng ngày, các bạn sẽ gặp phải một số vấn đề lớn đối với bữa ăn chính. Vì là bữa ăn duy nhất của ngày, nên bữa ăn này thực sự quan trọng hơn cả. Theo đó, chúng ta có thể bỏ bữa sáng, nhưng vẫn cần duy trì nước cho cơ thể thông qua các loại nước hoa quả. Không nên ngủ đến quá sát giờ làm, bỏ hoàn toàn bữa sáng fôi vội đi làm, việc này chẳng khác nào chúng ta đang tự sát. Việc chúng ta uống nước thay ăn sáng như vậy rất tốt cho cơ thể. Đặc biệt đối với những ai mới uống rượu hoặc ăn quá no tối hôm trước. Y học đã chứng minh việc giúp duy trì ổn định lượng nước trong cơ thể giúp dạ dày được nghỉ ngơi và hồi phục. Minh chứng cho việc đó là những người nhập viện do viêm loét dạ dày thường không thể ăn được gì và chỉ được truyền nước. Qua đó, ta có thể thấy giá trị của việc để dạ dày nghỉ ngơi quan trọng thế nào đối với cơ thể. Ngoài ra, chúng ta cần chuẩn bị trong cặp, túi hoặc ngăn kéo bàn nơi chúng ta làm việc một ít bánh quy để khi hơi đói, ta có thể ăn tạm hai ba miếng là được. Bánh quy được làm từ bột mì, trứng và một số nguyên liệu khác, trong chúng chứa hầu như đầy đủ chất dinh dưỡng của một "thực phẩm dinh dưỡng hoàn hảo". Nhưng nếu làm chúng được làm hoàn toàn bằng bột ngũ cốc thì chúng ta nên tính đến cả yếu tố cân bằng dinh dưỡng. Nhân tiện nói về bánh quy, loại bánh quy tôi hay dùng là bánh nho khô và quả kiên, loại này giúp tôi kiềm chế cảm giác nhớ vị ngọt từ ngũ cốc mang lại. Song không chỉ có bánh quy, trẻ sơ sinh được nuôi lớn bằng sữa, nên sữa cũng là "thực phẩm dinh dưỡng hoàn hảo". Sữa cung cấp đủ các loại vitamin, khoáng chất và thành phần dinh dưỡng khác. Trứng cũng vậy. Trứng là môi trường cung cấp dinh dưỡng để phôi gà phát triển thành gà con. Khi ăn uống nhẹ với sữa nóng hay trứng luộc, hãy ăn kèm một chiếc bánh quy để làm giảm độ ngọt mà vẫn đảm bảo dinh dưỡng. Ngoài ra, chúng ta không nên ăn thêm bất cứ loại bánh kẹo ngọt nào khác. Khi chúng ta ăn dù chỉ một mấu nhỏ đồ ngọt, cơ thể cũng tiết ra insulin - một trong những hormone kích thích tiêu hóa, làm tăng tích tụ mỡ nội tạng, khiến chúng ta chóng đói hơn. Nếu sắp tới giờ ăn trưa, chúng ta nên giảm bớt cường độ làm việc, tránh để thiếu năng lượng dẫn tới buồn ngủ, việc này sẽ khiến thần kinh phải luôn căng thẳng chống đỡ. Tôi thấy nhiều nhân viên văn phòng sau bữa trưa thường uống cà phê đặc hoặc hút thuốc lá để tránh buồn ngủ. ở khía cạnh nào đó, cơn buồn ngủ trưa không có hại với cơ thể vì động vật vốn được sinh ra với bản năng ăn no rồi ngủ. Nếu chúng ta không thể ngủ trưa, hãy hạn chế việc ăn trưa. Còn nếu vẫn tiếp tục ăn, tốt hơn hơn hết chúng ta nên chọn loại thực phẩm có GI (Glycemic Index - Chỉ số Đường huyết) thấp để không làm tăng đường huyết. Thực phẩm thích hợp ở đây là các loại được làm từ gạo nâu hoặc ngũ cốc, không nên là bột mì hoặc gạo trắng. Tốt nhất là sử dụng protein thay đường và tinh bột. Bản thân tôi 15 năm trước đã từng nghĩ "đói là phải ăn". Nhưng chính vì vậy nên sau bữa trưa no nê, tôi luôn phải chiến đấu với cơn buồn ngủ trong lúc điều trị cho bệnh nhân. Tôi đã phải vừa tự véo đầu gối cho tỉnh táo, vừa tươi cười lắng nghe những gì bệnh nhân nói. Chuyện nguy hiểm hơn cũng đã từng xảy ra. Tôi đã buồn ngủ trong lúc phẫu thuật. Vậy là tôi yêu cầu y tá chườm bông cồn lạnh vào cố tôi cho tỉnh táo và cố gắng hoàn thành cuộc phẫu thuật thật tốt đẹp. Nếu điều này tái diễn, lần tới rất có thể tôi sẽ gây họa lớn nên sau đó, tôi tìm cách thoát khỏi cơn buồn ngủ. Tôi đã giảm lượng ăn trưa của mình xuống. Nhưng dù có giảm còn một bát, tôi vẫn không thể không buồn ngủ. Cuối cùng tôi không ăn trưa nữa. Cho nên, nếu còn ăn trưa, tôi khuyên các bạn hãy ăn các loại trái cây theo mùa, vào mùa hè ăn quả đào, sang thu ăn nửa quả lê hoặc táo. Chúng ta nên ăn trái cây cả vỏ, vì vỏ trái cây có công dụng tuyệt vời. Tôi cũng hay ăn đào cả vỏ. Vỏ đào có lớp lông tơ nên các bạn hãy lấy vải lau sạch trước khi ăn. vỏ trái cây có chứa nhiều thành tố khiến "mau lành vết thương", giúp các tế bào chống lại những tác nhân oxy hóa. Đó gọi là công dụng chống oxy hóa. Khi chúng ta ăn vỏ trái cây, niêm mạc dạ dày bị tổn thương hay da nứt nẻ cũng được phục hồi, bảo vệ chúng ta khỏi quá trình lão hóa. Ngoài ra, việc này còn khiến cảm lạnh khó xâm nhập vào cơ thể hơn. Tôi cũng xin lưu ý rằng, trong ngày, khi cảm thấy đói, các bạn nên ăn chút trái cây hoặc bánh quy làm từ các loại hạt. Mặc dù bụng rỗng giúp chúng ta tỉnh táo, đừng bỏ ăn quá nghiêm ngặt như cách các bạn nghĩ về phương pháp của tôi. ĂN CHÊ Độ "MỖI NGÀY MỘT BỮA" KHI NÀO LÀ HỢP LÝ Với chế độ ăn "Mỗi ngày một bữa" như tôi đã đề cập, tôi thấy thích hợp hơn cả là thực hiện vào "bữa tối", bữa cuối cùng trong ngày theo cách chúng ta ăn trước đây. Việc này thích hợp cho cả những người làm việc bên ngoài, không tiện mang theo đồ ăn riêng đến chỗ làm. Còn với những người có thói quen ăn ở nhà, hầu như không ra ngoài ăn và có thời gian ngủ trưa thì bữa ăn chính này có thể đẩy lên buổi trưa. Cũng nhân đây tôi khuyên các bạn không nên ngủ trưa quá ba mươi phút, vì làm như vậy sẽ khiến đồng hồ sinh học của chúng ta hoạt động bất thường và gây khó ngủ vào ban đêm. Thời gian ngủ trưa tốt nhất là mười lăm phút. Trở lại với những người ăn cơm tối với gia đình, các bạn có thể chia thành hai bữa nhưng cần tuân thủ chế độ Bữa ăn cơ bản. Khi ăn no, chúng ta rất dễ bị cơn buồn ngủ tấn công. Nếu làm việc gì đó cần sự tập trung trí óc cao độ, như thi cử hoặc giải quyết sự việc quan trọng, tốt hơn hết chúng ta không nên ăn sáng. Như vào đêm trước ngày thi, chúng ta dễ mất ngủ do không tránh khỏi tâm trạng lo lắng, căng thẳng, cho nên sáng hôm sau nếu ăn quá no, chúng ta sẽ dễ buồn ngủ trong lúc thi. Còn nếu vẫn cảm thấy cần ăn sáng, tốt hơn hết chúng ta nên ăn vào sáng sớm hoặc sử dụng đồ ăn thức uống nhẹ như nước trái cây. Nhiều người vẫn nghĩ đường cung cấp năng lượng cho bộ não nên nạp đường vào để bộ não hoạt động. Đây là cách nghĩ khá nông cạn. Ngoài đường, các chất khác như protein, lipit... cũng cần được vận chuyển tới não để não hoạt động tốt. Do đó, kể cả khi chúng ta không nạp đồ ngọt vào người, đường huyết vẫn duy trì đủ cung cấp cho não bộ hoạt động. Nhiều người còn cho rằng tốt nhất là nạp đường khi não bị mệt. Nhưng thực ra bộ não của chúng ta là cỗ máy làm việc không ngừng nghỉ, không biết mệt mỏi ngay từ đầu, và chỉ một khoảnh khắc nhỏ não bộ ngừng làm việc là đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ chết. Lý do là vì bộ não điều khiển cả hai quá trình quan trọng nhất của cơ thể gồm hô hấp của phổi và hoạt động của tim. Trong khi chúng ta ngủ, nếu không có tín hiệu hoạt động của bộ não, nhịp tim và nhịp thở sẽ đều dừng lại. Nhiều người nghĩ rằng bộ não sẽ thấy mệt mỏi khi tập trung trí lực vào công việc hay học tập. Song đây chỉ là cảm giác mệt mỏi về tinh thần xuất hiện khi đôi mắt chúng ta đã mỏi. Kể từ lúc ra đời, trong cơ thể chúng ta luôn tồn tại một cơ quan làm việc quanh năm suốt tháng, không biết ngơi nghỉ, đó chính là bộ não. Tuy nhiên, điều chúng ta cần lưu tâm ở đây là bộ não làm việc tốt nhất khi nào? Câu trả lời đúng là khi đói. Đó cũng là điều tôi luôn muốn nhắc với các bạn, bộ não của chúng ta sẵn sàng đương đầu với mọi công việc quan trọng khi không ăn gì. Nếu trường hợp vẫn ăn, chúng ta nên ăn với chế độ sao cho đường huyết không tăng mạnh sau khi ăn. ở châu Âu hiện nay, có rất nhiều nơi sau bữa trưa, còng ty cho nhân viên ngủ trưa đến tận bốn giờ. Khi đó, chúng ta có thế ăn trưa, hay uống rượu cũng không thành vấn đề. Tiếc rằng, tại Nhật Bản không một công ty nào có quy định này. Do đó, nếu chọn thời điểm ăn bữa chính trong ngày, tốt hơn hết các bạn nên chọn vào buổi tối, nhất là với những người thường xuyên làm việc bên ngoài. Vì mỗi người trong chúng ta đều có công việc khác nhau, múi giờ làm việc khác nhau, nên không bắt buộc bữa chính phải vào buổi tối. Chúng ta nên điều chỉnh làm sao cho phù hợp nhất với công việc của mình. Song, đối tượng trẻ em đang tuổi ăn tuổi lớn, phụ nữ thời kì tiền mãn kinh dễ hạ đường huyết, không nên áp dụng phương pháp này. Đây là những đối tượng không thể để bị đói, nên phải ăn theo kiểu Bữa ăn cơ bản một ngày ba bữa. VỚI PHƯƠNG PHÁP "MỖI NGÀY MỘT BỮA", BẠN CÓ THỂ ĂN MỌI THỨ MÌNH MUỐN Chế độ ăn "Mỗi ngày một bữa" áp dụng vào thời gian chúng ta đói bụng. Nhưng vấn đề là chúng ta nên ăn gì khi đói. về cơ bản, chỉ cần ăn món mình thích là được. Thường thì khi đói chúng ta dễ cảm thấy có thể ăn bất cứ thứ gì. Nhưng nếu mỗi ngày chỉ ăn một bữa mà lại lựa chọn mì ramen hoặc cơm văn phòng thì chẳng phải thật đáng tiếc sao? Cơ thể chúng ta cũng đòi hỏi được cung cấp những thứ mà chúng thấy thèm. Đó chính là các dưỡng chất cần thiết. Lượng dinh dưỡng trong thức ăn là lý tưởng khi ở chế độ ăn sáu phần (nếu ngày hôm trước nạp không đủ calo có thể ăn chế độ tám phần). Nhưng nếu các bạn muốn có cảm giác no nê thỏa mãn thì ban đầu ăn nhiều một chút cũng không sao. Sau một thời gian, cơ thể sẽ giảm bớt nhu cầu xuống. Một anh chàng tôi quen cao 1m80, cân nặng 103kg, đã bắt đầu thực hiện chế độ ngày ăn một bữa, tuy vẫn còn ăn nhiều vào buổi tối, nhưng cân nặng đã giảm về mức 82kg. Nói cách khác, nếu các bạn tuân thủ đúng phương pháp thì trọng lượng cơ thể sẽ ngày một giảm. Đó là phương pháp giảm cân tự nhiên dành cho người béo. Việc này giống như uống rượu, uống ít đi chừng nào là giảm ham muốn uống rượu đi chừng ấy. Về phần tôi, nếu được ai đó hỏi muốn ăn gì, tôi sẽ trả lời "một bát cơm gạo lứt ăn kèm với bát súp miso thật lớn. Kèm theo món rau trộn. Có thêm cá khô một nắng cũng tốt, nhưng nhất thiết phải có món đậu natto." Đó là thực đơn tôi hay dùng để đãi khách. Hoặc các bạn có thể ăn duy nhất một đĩa rau đầy ắp, ăn như vậy không bị nạp quá nhiều calo. Song, để ăn được như vậy không hề đơn giản. Tôi đoán, có lẽ không ít người sẽ cảm thấy chán khi nhìn vào thực đơn bữa tối mà tôi khoản đãi họ. Nhưng tôi luôn nghĩ rằng thực đơn đó mới là sự khoản đãi tốt nhất thế giới. Chúng ta hay cho rằng việc bày lên những món như beef steak, sushi, sukiyaki... hay sơn hào hải vị như của nhà hàng mới là khoản đãi. Nhưng sau đây tôi xin dẫn lại câu nói của một vị chuyên gia ẩm thực Trung Quốc mà tôi đã nghe trên một chương trình phát thanh. Khi phóng viên hỏi ông: "Xin ông hãy cho biết điều gì làm nên sự khác biệt giữa món ăn Trung Quốc ở ngoài hàng so với món ăn Trung Quốc ở gia đình?" ông đáp rằng: "ở ngoài hàng, họ thường sử dụng dầu mỡ, quá nhiều chất điều vị để làm món ăn thêm đậm đà." Nghe đến đây, tôi thực sự đã rất ngạc nhiên và chân thành ngưỡng mộ ông khi dám nói ra điều bí mật ấn chứa đằng sau sự mê hoặc của các món ăn đó. Món ăn gia đình mới là những gì chúng ta nên ăn hằng ngày vì chúng không chỉ giúp ta tiết kiệm chi phí, tránh được những ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe do dầu mỡ, chất tạo vị, mà còn là những món ăn hết sức tự nhiên, thanh đạm. Trái lại, những món ăn ngoài hàng là những thứ chúng ta thưởng thức vào mỗi dịp đặc biệt. Những món ăn đó sử dụng nguyên liệu cao cấp, dầu mỡ, chất điều vị... để không chỉ làm đậm vị món ăn mà còn át đi hương vị hằng ngày chúng ta hay ăn. Nhưng liệu chúng ta có thể ăn như vậy quanh năm suốt tháng được không? Có lần, tôi bắt gặp hai vợ chồng già đi du lịch suối nước nóng đang ăn ở một nhà hàng cao cấp gần đó. Trên bàn ăn của vợ chồng họ bày nhiều món cao cấp như thịt bò Matsusaka, tôm Ise, những món họ rất ít khi được ăn trong đời. Nhưng xét cho cùng, nếu cứ duy trì chế độ ăn đó trong nhiều ngày liên tiếp thì chắc chắn sẽ sinh bệnh. Theo tôi, đó là điều đương nhiên khi chúng ta ăn quá nhiều những đ'ô ăn kiểu này. Nếu chỉ thỉnh thoảng đổi vị thì không sao. Đồ ăn tốt nhất với chúng ta vẫn là những món ăn đơn giản, thanh đạm. Kể cả với những thực phẩm như cà chua, thay vì mua những chai tương cà làm sẵn ở ngoài hàng, nếu chúng ta tự trồng và sử dụng cà chua tươi thì sẽ tốt hơn nhiều. Các món thanh đạm không khó ăn, chẳng qua chúng ta chưa làm cho chúng phù hợp với khẩu vị của mình mà thôi. Thời khắc chúng ta ăn uống giống như thời khắc giao hòa giữa thực phẩm được tạo hóa ban tặng với linh hồn trong cơ thể, và đó là điều tốt nhất cho sức khỏe của chính chúng ta. Vậy nên, phương pháp "Mỗi ngày một bữa" là cách để chúng ta thể hiện điều đó tốt nhất. Chúng ta dành cho thời khắc đó những gì tốt nhất bằng cách không thờ ơ với việc lựa chọn thực phẩm. Tôi muốn chúng ta thật sự được đắm mình trong sự giao hòa này, không còn làm theo bản năng, sẵn sàng ăn mọi thứ như mì ramen, đồ ăn vặt... để vượt qua cơn đói nữa. TIẾNG BỤNG SÔI "ÙNG ỤC” THẬT HẤP DẤN Tôi hầu như rất ít ăn sáng. Tôi dành thời gian đó cho cơ thế tiêu hóa hết toàn bộ lượng thức ăn còn sót lại từ tối hôm trước, hay đôi lúc là lượng rượu còn dư, hoặc tiêu thụ bớt mỡ nội tạng. Tôi không cần bổ sung nước hoặc trà. Cơ thể tôi có đủ nước, thậm chí còn dư đến mức khi thức dậy, mặt tôi hay phù nhẹ do lượng nước lớn trong gian bào (khoảng không giữa các tế bào). Những lúc như vậy, tôi hay nhai kẹo cao su vì nước bọt tiết ra giúp rút bớt nước. Tôi nhai kẹo tới lúc có thể đi làm bởi vì tôi không muốn gây ấn tượng xấu với bệnh nhân bằng khuôn mặt phù của mình. Nếu như hôm trước ăn quá ít, hôm sau tôi vẫn ăn sáng, thường là sandwich rau hoặc trái cây cả vỏ. Vào ngày có lịch khám, tôi thường tiếp đón bệnh nhân từ 7 rưỡi sáng đến 6 giờ chiều. Ngoài ra, hôm nào có ca phẫu thuật hay họp hành, tôi thường thấy căng thẳng và hầu như không có cảm giác đói. Nhưng đến khoảng chiều tối, bụng tôi lại sôi lên ùng ục. Những âm thanh báo hiệu cho tôi biết tôi đang đói nhưng không đồng nghĩa với việc tôi sẽ ăn vội ăn vàng ngay. Trái lại, tôi tận hưởng khoảnh khắc khi tiếng ùng ục đó vang lên. Vì tôi biết chính vào lúc này, gene Sirtuin, gene sinh tồn tôi đã nói ở trên, được đánh thức. Nhờ có gene này, khắp cơ thể chúng ta, kể cả phần bị tổn thương sẽ được kích thích phục hồi, đồng thời kích thích cả sự trẻ hóa và khỏe mạnh trong mỗi chúng ta. Sau khi tận hưởng khoảnh khắc đó, tôi sẽ đi nấu bữa tối. Đối với tôi, đó là bữa ăn duy nhất trong ngày. Vì nó đã trở thành bữa ăn quan trọng, nên đây sẽ là lúc tôi ăn những gì mình muốn. Tuy nhiên tôi không ăn lấy được để bù lại năng lượng đã mất đi trong cả ngày. Bởi lẽ, các "gen dự trữ" hoạt động rất tốt vào thời điểm cơ thể chuẩn bị rơi vào tình trạng đói, giúp cho việc thu nạp dinh dưỡng diễn ra trơn tru hơn, một lượng nhỏ chất béo được nạp vào cơ thể cũng có thể được chuyển hóa thành mỡ nội tạng. Đó là lý do vì sao trong ngày, nếu chúng ta không đói thì không nên ăn, không khát thì không nên uống. Nói cách khác, chúng ta nên tự lắng nghe cơ thể mình để điều chỉnh, như vậy sẽ tốt hơn. Nhưng nếu cảm thấy khô cổ, chúng ta uống một chút nước cũng không thành vấn đề, hoặc thấy bụng sôi ùng ục, chúng ta ăn một ít cũng không sao. KHÔNG UỐNG TRÀ HOẶC CÀ PHÊ VÀO LÚC ĐÓI Các bạn đã bao giờ tự hỏi rằng uống những thứ kích thích như cà phê hoặc trà vào lúc đói có khiến tình trạng tệ hơn không chưa? Đó là những thức uống thường được coi là những thứ giúp duy trì và bảo vệ sức khỏe, đặc biệt là trà. Nhưng khi đói, chúng có thể làm cho tình trạng cơ thể tệ hơn, nhất là cà phê. Trà hay cà phê đều chứa một chất gọi là caffeine. Caffeine được các nhà khoa học xếp vào nhóm ancaloit, cùng nhóm với những chất quen thuộc như nicotin, cocain, morphin... với tác dụng chủ yếu là gây kích thích hoặc ức chế hoạt động của hệ thần kinh. Caffeine có tác dụng tương tự như morphin. Dây thần kinh cảm giác ở dạ dày rất nhạy cảm, đặc biệt trong lúc đói. Khi chúng bị kích thích quá mức, như khi ta uống cà phê chẳng hạn, hiện tượng buồn nôn, đi ngoài sẽ xuất hiện. Vì sao xảy ra điều đó? Caffeine vốn là chất được cây cà phê sinh ra nhằm bảo vệ cây khỏi bị các loại động vật ăn cỏ ăn trụi lá. Chất này làm cho động vật có cảm giác buồn nôn khi ăn lá cây lúc đói. Con người chúng ta khôn khéo hơn trong việc lợi dụng caffeine khi chỉ sử dụng chất này sau khi ăn no mà không phải vào lúc đói như động vật. Bên cạnh đó, sau khi ăn no chúng ta hay có cảm giác buồn ngủ, khi đó ta sử dụng caffeine gây kích thích hệ thần kinh giao cảm, khiến cho cơ thể cũng thích kích theo, cảm giác buồn ngủ sẽ giảm bớt. Điều này cho thấy dược tính của caffeine khá mạnh, kể cả sau khi ăn no. Cho nên, rõ ràng là việc sử dụng cà phê khi đang đói không tốt cho cơ thể. Còn khi uống trà, chúng ta lại đưa vào cơ thế một chất khác, đó là tanin (đọc là ta- nanh). Đây là chất được chiết từ vỏ cây để thuộc da động vật từ thời xa xưa do có công dụng làm biến tính protein, thay đổi cấu trúc bền vững của protein. Vậy vì sao cây chè lại tạo ra chất này? Đó cũng là một trong những cơ chế tự bảo vệ của cây chè. Lá chè thường bị loại côn trùng gây bệnh tên là Himakiga tấn công, do lá chè là thức ăn chính của chúng. Và cây chè sẽ dần trở nên khô héo khi lá của chúng bị loại côn trùng này ăn. Từ đó, tanin được cây tạo ra, nhằm gây rối loạn hệ tiêu hóa của côn trùng khiến chúng không thể ăn lá chè được. Ngoài chè ra, một số thực phẩm khác như hàu và chuối cũng có chứa tanin. Quả lúc còn xanh chứa một lượng lớn chất này, giúp bảo vệ quả đến khi chín khỏi bị côn trùng hay động vật ăn. Nhưng ngược lại, khi quả chín, lượng tanin giảm dần, màu sắc cũng chuyển sang vàng hoặc đỏ, như một lời mời gọi "Hãy đến ăn tôi đi, rồi đem những hạt giống trong tôi tới nơi thật xa để sinh sôi và phát triển." Thế giới tự nhiên đã, đang và sẽ làm rất tốt việc này. Trở lại vấn đề khi chúng ta uống trà sau bữa ăn, sự bí bách do ăn no được giảm bớt, đó là nhờ tanin giảm bớt các trở ngại trên bề mặt niêm mạc dạ dày, giúp dạ dày hoạt động trơn tru hơn. Điều này cũng tương tự với nguyên tắc nếu ăn hàu, chúng ta sẽ không bị say sau khi uống rượu. Chúng ta sử dụng tanin để vừa bảo vệ cơ thể, vừa để khiến bản thân được thư thái. Nó cũng giống như người Trung Quốc dùng trà ô Long để tránh rối loạn tiêu hóa khi ăn những món có nhiều dầu mỡ. Tuy nhiên các bạn không nên cho trẻ em tiếp xúc với những chất này. Vì ở trẻ nhỏ, caffeine không chỉ dễ gây ngộ độc mà còn có thể gây rối loạn quá trình tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng. Còn với những người cao tuổi, hệ tiêu hóa thường yếu, nên tôi nghĩ, để an toàn, mọi người chỉ nên dùng trà tráng miệng mà không uống dồn dập. Nếu vẫn muốn uống trà, mọi người nên dùng loại trà không chứa caffeine như trà lúa mạch hoặc trà ngưu bàng. Trà ngưu bàng chứa nhiều chất saponin, có hiệu quả trong việc trung hòa các chất béo, tăng cường tiêu hóa cũng như hấp thụ tinh bột, protein, đồng thời loại cholesterol thừa ra khỏi cơ thể. Trà ngưu bàng an toàn với cả người bệnh, trẻ em chậm phát triển và người béo. Ngoài ra, loại trà này còn chứa một hợp chất nữa là polyphenol. Đây là chất thường có trong rượu vang đỏ, giúp tăng cường sức khỏe. Ban đầu, các nhà khoa học chú ý thấy mặc dù khấu phần ăn của người Pháp giàu chất béo như thịt hay những sản phẩm có nguồn gốc từ sữa, nhưng tỉ lệ bị mắc bệnh tim mạch của họ lại thấp, và đặt tên cho hiện tượng này "nghịch lý nước Pháp". Sau một thời gian nghiên cứu, các nhà khoa học đã giải thích được nghịch lý này. Họ đã tìm ra resveratrol, một loại polyphenol, có trong vỏ nho dùng làm rượu vang đỏ - thức uống không thể thiếu trong bữa ăn của đa số người Pháp. Chất này còn là một chất chống oxy hóa tuyệt vời cho cơ thể. Mặt khác, polyphenol của trà ngưu bàng còn có hoạt tính chống oxy hóa cao nhất trong tất cả các cây từng được nghiên cứu. Đó chính là lý do vì sao củ ngưu bàng ở trong đất ít bị phân hủy hơn các loại táo, nho khi ta chôn chúng xuống đất. Ngoài chống oxy hóa, polyphenol của ngưu bàng còn chống côn trùng rất tốt, trị lành vết thương. Tuy nhiên, chất trong cây ngưu bàng không gây nghiện như caffeine. Do đó, các bạn có thể uống chúng hằng ngày khi khát mà không sợ nghiện. Sau đây tôi xin giới thiệu sơ lược cách làm loại trà này. Các bạn hãy thử tự làm và thưởng thức xem sao. Cách làm trà ngưu bàng: Làm sạch bùn bám ở ngoài củ bằng nước. Để nguyên vỏ. Để ráo nước, đặt trên tờ báo, đem ra phơi nửa ngày (mùa hè để 2 - 3 tiếng là được). Sao trên chảo không dầu, trong khoảng 10 phút. Thấy bốc hơi là dừng lại, lấy ra cho vào ấm pha trà, đun nước sôi đố vào và thưởng thức. LÝ DO ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP "MỖI NGÀY MỘT BỮA” MÀ VẪN KHÔNG KHIẾN cơ THỂ THIẾU CHẤT DINH DƯỠNG Bàn tới việc ăn mỗi ngày một bữa sẽ khiến các bạn băn khoăn và đặt ra câu hỏi: "Phương pháp này có khiến cơ thể bị thiếu chất dinh dưỡng không?" Các bạn nên nhớ rằng tính quan trọng của chất dinh dưỡng không chỉ có "lượng" mà còn cả "chất" nữa. Do đó, ăn nhiều không đồng nghĩa với việc cung cấp đủ chất dinh dưỡng. Ví dụ, nhiều người có thói quen ăn nhiều đồ ăn nhanh hoặc thức ăn nhẹ, hoặc một số người chỉ ăn đồ nhiều đường và tinh bột. Những kiểu ăn này chỉ đủ về lượng mà không đủ dưỡng chất cần thiết, đồng thời còn nạp vào cơ thể nhiều chất có hại. Không những thế, một số chất dinh dưỡng cần thiết để chuyển hóa những chất có hại này lại ngày một suy giảm dẫn tới thiếu hụt. ở một số nước phương Tây, sau bữa ăn vốn nhiều calo, người ta còn thường xuyên dùng thêm tráng miệng là bánh ngọt. Vì vậy, họ phải tìm cách bổ sung thêm các chất dinh dưỡng tổng hợp bị thiếu hụt do thói quen ăn uống đó. Song có dùng bao nhiêu sản phẩm chất bổ sung đi nữa thì chúng ta cũng không thể bổ sung đủ chất dinh dưỡng. Chúng ta chưa thể thống kê hết trong tự nhiên có bao nhiêu loại chất dinh dưỡng mà mới chỉ biết tới 46 loại chất dinh dưỡng không thay thế được đối với cơ thế con người. Những hiểu biết về dinh dưỡng của chúng ta chỉ là con số nhỏ trước nguồn dinh dưỡng tự nhiên vò tận. Và chỉ cần thiếu một chất trong số đó, mọi nỗ lực bổ sung đều trở nên vô nghĩa. Dù chúng ta có lấy mười chất dinh dưỡng khác để bù lại một chất dinh dưỡng đó cũng không thể khỏa lấp được hệ quả của việc ăn uống mất cân bằng dẫn đến thiếu hụt dinh dưỡng. Cho nên, chúng ta hãy ăn ít lại và chú ý hơn tới cân bằng dinh dưỡng. Đó gọi là "dinh dưỡng đầy đủ". Dinh dưỡng đầy đủ, như tôi đã nói ở trên, có trong trứng, sữa. Trẻ sơ sinh được nuôi lớn bằng sữa nên sẽ rất khó bị thiếu hụt một trong các chất dinh dưỡng. Trứng cũng tương tự như vậy. Trong quả trứng, các tế bào tiếp tục phân bào, phát triển thành cơ thể mới. Nếu thiếu một chất dinh dưỡng nào đó, trứng cũng không thể nở ra con. Nhưng ngược lại, nếu thừa chất dinh dưỡng cũng có hại. Chúng ta sẽ nói về vấn đề này sau. CÓ ĐỦ DƯỠNG CHẤT THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP "MỖI NGÀY MỘT BỮA" Trứng hay sữa cung cấp dinh dưỡng đầy đủ nhưng không thế coi là bữa ăn cho người trưởng thành, chưa kể các sản phẩm này có lượng cholesterol rất cao nên sẽ trở thành chế độ ăn uống thiếu cân bằng nếu chúng ta chỉ ăn mỗi chúng. Vậy chúng ta hãy cùng xem thế nào mới là cân bằng dinh dưỡng thật sự. Cân bằng dinh dưỡng là nạp vào cơ thể một lượng đủ chất tương đương với lượng cấu thành nên cơ thể chúng ta. Cụ thể, nếu có thể ăn nguyên một con lợn hoặc một con bò, chúng ta có thể cung cấp một lượng dinh dưỡng gần bằng những chất dinh dưỡng cấu tạo nên cơ thể chúng ta. Tuy nhiên, trên thực tế, việc đó là không thể. Thay vào đó, chúng ta nên ăn gì? Câu trả lời của chúng ta dường như luôn là cá. Nhìn từ góc độ sinh học, trước khi loài người xuất hiện trên thế giới, mọi sinh vật đều "bước ra" từ lòng đại dương sâu thẳm. Tổ tiên loài người của chúng ta cũng vậy, khởi thủy từ sự kết thúc của loài cá nào đó. Nói cách khác, chúng ta có thể ăn cả con cá và cung cấp gần đủ dinh dưỡng cấu thành nên cơ thể chúng ta. Nhưng dẫu có ăn bao nhiêu đi nữa, ta cũng không thể ăn hết nguyên một con cá ngừ đại dương cỡ lớn được. Như vậy, tất cả vẫn bị hạn chế. Do đó, thay vì cô' tìm một thứ đem lại cân bằng dinh dưỡng, chúng ta nên tìm cách bổ sung dinh dưỡng đầy đủ. Sau đây, tôi xin giới thiệu tới các bạn cách bổ sung toàn diện trong bữa ăn có tên là "cá nhỏ". Đây là chế độ ăn bắt nguồn từ thời xa xưa. Thời Edo, món Tempura cá của người dân hay ăn tuân theo nguyên tắc "Teissoku" - một nắm tay. "Teissoku" có nghĩa là họ chỉ ăn những con cá bé có thể tóm được trong nắm tay, vì họ cho rằng ăn như vậy có thể "ăn từng phần, da ra da, xương ra xương, đầu ra đầu". Đây được coi như một phương pháp bảo vệ sức khỏe ở thời Edo. Họ cũng áp dụng phương pháp này với những con cá lớn hơn, phần đầu được rán lên, phần xương được róc ra ăn riêng, tất cả các phần từ đầu đến đuôi đều được ăn trọn vẹn, và không lãng phí dù chỉ là một mẩu nhỏ. Theo ghi chép thời Edo, món Tempura được làm từ cá Anago nhưng trên thực tế, họ không sử dụng cá lớn như Anago, thay vào đó là các loại cá nhỏ như Gyppo, cá con của Ubbon. Đến thời gian Higan, tiết xuân phân hoặc thu phân, họ sẽ ăn cá bống. Cách "ăn từng phần, da ra da, xương ra xương, đầu ra đầu" như vậy cung cấp dinh dưỡng đầy đủ. Đó chính là ý nghĩa của kiểu ăn "cá nhỏ" này. Tất cả các phần của thức ăn đều hữu dụng. Theo quan niệm Phật giáo, mỗi sinh vật có mặt trên đời này đều có vai trò của nó, không sinh vật nào tồn tại một cách vô ích. Thực phẩm của con người, cá, ngũ cốc, rau... cũng vậy. Nói cách khác, tất cả thực phẩm đều là "thực phẩm toàn vẹn", đem lại cho chúng ta sự cân bằng trong chính cơ thể mỗi người. Cho nên, dù là thực phẩm loại gì đi nữa, hãy chia chúng thành từng phần và ăn trọn vẹn. Mặc dù vậy, trước thời kì chiến tranh, chuyện người ta bỏ mạng vì suy dinh dưỡng hay mất cân bằng dinh dưỡng không phải là điều hiếm gặp ở Nhật. Từ đó, người ta nhận thấy thức ăn là giải pháp sống còn cho vấn đề này. Thực phẩm trở nên giống như là thuốc. Nói cách khác, thịt, cá, rau... đều có thể trở thành thuốc dưỡng sinh không thể thiếu đối với mỗi chúng ta. Nhật Bản từng có thời kì ai ai cũng biết đến cách ăn trọn vẹn và coi thực phẩm là thuốc. Chúng ta cần tiếp tục gìn giữ và phát huy giá trị đó trong thời đại ngày nay. RAU, CỦ, QUẢ KHÔNG MANG THỨ GÌ GỌI LÀ "THỪA”! Rau, củ, quả, như tôi đề cập ở trên, là thực phẩm toàn vẹn. Cụ thế, chúng ta nên "có lá ăn lá, có vỏ ăn vỏ, có rễ ăn rễ" và ăn toàn bộ chúng, không nên vứt đi bất cứ thứ gì thuộc về chúng. Ví dụ như củ cải đường, chúng ta thường bỏ lá và gọt lớp vỏ ngoài, giữ lại phần bên trong của chúng vốn chứa chủ yếu là đường. Nhưng các bộ phận chúng ta bỏ đi đó lại chứa những dinh dưỡng quan trọng không kém, ở lá có chất khoáng và rất nhiều vitamin, còn vỏ ngoài chứa nhiều polyphenol, tương tự như polyphenol ở vỏ nho, ngưu bàng, có công dụng chống oxy hóa. Vào thời Edo, những lãnh chúa phong kiến chỉ ăn phần lõi, còn vỏ, lá để cho hạ nhân ăn. Tuy nhiên, những hạ nhân mới là người sống lâu hơn do ăn phần lá và vỏ ngoài, còn các lãnh chúa phong kiến chết sớm chỉ vì ăn mỗi phần lõi, đó không phải là chuyện hiếm. Từ chuyện quá khứ này chúng ta dễ dàng nhận ra bài học cho riêng mình. Ngày trước, một số người thậm chí còn phơi khô lá củ cải để bảo quản, nhất quyết không bỏ đi. Những lá khô đó đã trở thành nguồn vitamin quan trọng của họ trong suốt mùa đông. Như trong món furofuki, củ cải được cắt ra thành miếng lớn, vỏ được làm thành kinpura rải lên, lá xào nước tương hoặc bỏ vào canh miso, như vậy toàn bộ củ cải đường đều được sử dụng. Ngay như rau chân vịt (cải bó xôi) cũng vậy. Phần lá chứa nhiều vitamin và khoáng chất, hay được dùng trong món rau ăn kèm. Rễ cây này chứa nhiều tinh bột và enzyme, khi nấu với nước cho màu hồng nhạt, vị ngọt đậm. Nếu chúng ta làm như vậy với tất cả rau củ quả, chúng ta sẽ vừa không thấy cái gì cần phải bỏ đi, vừa đem lại cảm giác thú vị. Đó là cách ăn mà chúng ta cần hướng tới để thích nghi với thời đại ăn no đủ hiện nay. NHŨNG BỮA ĂN TRUYỀN THỐNG CỦA NHẬT BẢN ĐƯỢC TOÀN THẾ GIỚI YÊU THÍCH Khoảng 40 năm trước, chính phủ Mĩ đã dùng nguồn tài chính quốc gia trong vòng 7 năm để tập hợp toàn bộ chuyên gia y tế và dinh dưỡng đến từ khắp các nước trên thế giới nhằm tiến hành nghiên cứu trên quy mô toàn cầu về "mối liên hệ thực phẩm (dinh dưỡng) với sức khỏe và bệnh mạn tính của con người". Kết quả báo cáo của McGovernan cho thấy, thời kì trước thời đại Genroku là thời kì ăn uống tốt cho sức khỏe nhất ở Nhật, ẩm thực truyền thống thời bấy giờ chú trọng vào việc sử dụng các loại rau, củ, quả. Trước thời Genroku, con người vẫn ăn ngũ cốc nguyên hạt. Tuy nhiên, đến thời kì Genroku, công nghệ xay xát phát triển mạnh, vỏ ngoài như cám trấu bị bỏ, chỉ giữ lại lớp gạo trắng bên trong. Bên cạnh đó, các cửa hàng mì Soba xuất hiện khiến cho thói quen ăn mì trở nên phổ biến. Kết quả là hiện tượng thiếu hụt chất dinh dưỡng dẫn tới bệnh tê phù (Beriberi) lan tràn khắp cả nước, số người chết rất nhiều. Đặc biệt, nhiều lãnh chúa của dòng tộc Tokugawa chết trẻ, với 13 thế hệ nhà Iseda, 14 thế hệ nhà lemochi, mà nguyên nhân là do bệnh tim, biến chứng của bệnh Beriberi. Hơn nữa, trải qua hai cuộc chiến Nhật-Thanh và Nhật-Nga, số người lính bỏ mạng vì bệnh Beriberi còn nhiều hơn số binh lính hi sinh trên mặt trận, khiến bệnh Beriberi trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng. Phải một thời gian dài sau, người ta mới biết được nguyên nhân gây bệnh Beriberi là do thiếu vitamin B1. Vào thời Minh Trị, bác sĩ Mogi Ougai, người từng sang Đức theo học một vị bác sĩ quân y người Đức về vi sinh vật, lập luận rằng Beriberi là một bệnh truyền nhiễm. Trong khi đó, bác sĩTakaki Kanehiro, tống quản quân y hải quân, người sáng lập ra Đại học Jikei nơi tôi từng theo học, đã theo học ở Anh, lại quan tâm tới việc lính thủy quân Âu-Mĩ không bị chứng bệnh này. ông đã nghĩ tới việc ăn đồ ăn giống lính thủy quân Âu-Mĩ, dù đi đường biến dài ngày vẫn không xuất hiện bệnh Beriberi. Ngoài ra, khỉ áp dụng chế độ ăn thịt lợn với bánh mì đen như của lính thủy quân Âu-Mĩ thì không chỉ một mà rất nhiều người thoát khỏi Beriberi. Từ đó, nó trở thành món ăn truyền thống trong hải quân. Như mọi người đã biết, thịt lợn và bánh mì đen đều giàu vitamin BI. Ngay khi biết nguyên nhân gây bệnh Beriberi có liên quan tới chế độ ăn, tiến sĩ Umetaro Suzuki đã phát hiện ra enzyme Orizanin, một loại enzyme liên quan tới bệnh này. Một năm sau đó, người ta tìm ra B1, từ đó vitamin B1 giữ vai trò hàng đầu trong các loại vitamin được tìm thấy. Bởi minh chứng đã cho thấy thiết hụt B1 là nguyên nhân dẫn tới bệnh Beriberi. BÂY GIỜ CHÍNH LÀ THỜI ĐIỂM QUAY TRỞ LẠI THỜI Kì 'THỰC PHẨM TOÀN VẸN” Thời kì Edo, mọi người dân đều chưa biết tới sự tồn tại của vitamin nhưng đời sống sinh hoạt của họ vẫn có cách phòng chống bệnh Beriberi hiệu quả. Khi dùng cơm trắng, họ luôn ăn cùng những món như dưa muối cám hoặc củ cải muối. Có một câu thơ vui thời Edo là "Dưa muối lâu năm cắt từng khúc từng khúc, vắt cho kiệt nước rồi ăn, hương thơm của katsuya". Vào thời điểm nóng nhất của mùa hè, một món không thể thiếu của họ khi ăn kèm với uống rượu chính là dưa muối katsuya. Đó là món muối dưa chuột hoặc cà chua. Muối chua đến độ dưa chuyển màu vàng nâu, rửa lại bằng nước giếng lạnh, thêm gừng myoga, phủ cá bào lên trên. Món này sẽ khiến người ăn quên đi cảm giác oi ả của mùa hè, trở nên khoan khoái. Đây là điều không phải bàn cãi. Dưa muối katsuya chứa những vitamin từ cám gạo được muối, rất thích hợp để ăn vào những ngày hè nóng nực suốt một thời gian dài. Mặc dù cuộc sống nghèo khổ nhưng sinh hoạt ăn uống của người dân thời kì này rất dồi dào những cách bảo vệ sức khỏe. Trái ngược với đó là đời sống vương giả của các vị tướng và lãnh chúa như tôi đã nói ở trên, khiến cho các tướng quân của dòng họ Tokugawa thường chết trẻ. Duy nhất vị tướng cuối cùng, ngài Keisuke sống thọ đến 77 tuổi, thọ nhất trong các vị tướng dòng họ Tokugawa. Khi nhìn vào cuộc đời ngài, chúng ta đều có thể thấy ngài tuy là một lãnh chúa, nhưng lại gần gũi với đời sống nhân dân hơn là sống trong cảnh lầu son gác tía. Ngài đã ăn tất cả những thứ mà người dân ăn. Có giai thoại kể rằng món ăn yêu thích của ngài là lươn và cá hồi. Nhờ vậy, cơ thể của ngài luôn được cung cấp đầy đủ vitamin. Tôi mong rằng, những ví dụ này đã đủ để các bạn hiểu phần nào tầm quan trọng của việc ăn thực phẩm toàn vẹn. Sự thật là sinh hoạt ăn uống của nước Nhật ngày nay giống hệt lối sống của các vị lãnh chúa chết trẻ thời kì Edo. Mặc dù thoạt nhìn, chúng ta tưởng như đang cung cấp cho cơ thể lượng chất đầy đủ qua bữa ăn, nhưng thực tế mới chỉ cung cấp đủ lượng mà chưa đủ chất. Việc chúng ta cần làm để có lại cuộc sống khỏe mạnh như ban đầu là hãy ăn trọn vẹn, rau "có lá ăn lá, có củ ăn củ, có rễ ăn rễ", cá "có da ăn da, có xương ăn xương, có đầu ăn đầu", ngũ cốc ăn nguyên hạt... Vì SAO MỠ CÁ ĐƯỢC ƯA CHUỘNG? Trước tiên tôi muốn hỏi các bạn có biết bộ phận nào của cá đem lại dinh dưỡng cao nhất không? ở thực vật, vỏ là lớp rào chắn bên ngoài bảo vệ cây và chứa nhiều thành phần giúp làm liền vết thương, cả cá và động vật khác đều có da với chức năng tương tự như của vỏ cây. Tuy nhiên, khi so sánh về mặt dinh dưỡng, da của cá chứa nhiều chất dinh dưỡng hơn so với da của động vật khác, ở cá, mỡ được tích tụ dưới da nên lượng chất tích tụ dưới da cá cũng khác với da động vật. Giờ tôi sẽ nói về sự khác nhau giữa động vật biến nhiệt và động vật hằng nhiệt để các bạn thấy được điều này. Các động vật mà chúng ta gọi là gia súc như lợn, bò luôn có nhiệt độ ổn định là 37°c, nên các nhà khoa học gọi chúng là những động vật hằng nhiệt - động vật có thân nhiệt Ổn định. Mỡ của chúng sẽ đông lại ở nhiệt độ phòng. Do đó, nếu trong mạch máu của chúng ta có loại mỡ dễ đông này, mỡ sẽ bị nghẽn lại gây ra hiện tượng xơ cứng động mạch. Còn cá là động vật biến nhiệt, vì nhiệt độ cơ thể cá thay đổi theo môi trường, trong môi trường nước biển mặn lạnh, mỡ cá không bao giờ bị đông lại dù có ở trong máu đi nữa. Đương nhiên, con người cần mỡ không đông ở nhiệt độ phòng, nhất là khi nó ở trong máu của chúng ta. Mỡ của chúng ta không nên bị kết thành cholesterol xấu gây tắc nghẽn mạch máu mà chỉ nên làm chất bôi trơn mạch máu. Do đó, chúng ta đặc biệt cần các chất chống xơ vữa động mạch như DHA (Docosahexaenoic acid), EPA (Eicosapentaenoic acid)... là những chất thường được tìm thấy bên dưới lớp da cá, nhất là ở cá thân xanh như cá thu. Điều gì làm nên sự khác biệt giữa cá thân xanh và cá thân trắng? Cá thân trắng sống ở sâu dưới lòng đại dương, nơi ánh mặt trời không thể chiếu tới. Chúng thường vùi mình trong cát, có màu nâu như cá dẹt biến, không hay hoạt động nhiều. Còn cá thân xanh luôn sống gần bề mặt đại dương và cơ thể của chúng không bao giờ ngừng hoạt động kể từ lúc sinh ra. Màu xanh trên cá thân xanh ngoài việc để ngụy trang cho giống màu nước biển, tránh động vật trên cao như chim săn mồi phát hiện ra, còn giúp cơ thể cá chống được oxy hóa, bảo vệ chúng dưới ánh nắng mặt trời. Trong khi đó, bụng chúng thường trắng, khi nhìn từ dưới lên trông giống như màu bầu trời, để đánh lừa những loài cá lớn. Do tất cả yếu tố trên, chúng luôn cần dưới da những dưỡng chất tốt như đạm, chất chống oxy hóa EPA và chất chống đông máu DHA. Trên thị trường hiện nay đã xuất hiện sản phấm bổ sung DHA, EPA. Điều này khiến tôi rất vui vì chúng ta đã biết được sự quan trọng của mỡ cá, nhưng tôi không khuyến khích dùng các sản phẩm này. Vì chất bổ sung dinh dưỡng chỉ chứa một số dinh dưỡng nhất định. Thực phẩm bổ sung cũng là một loại thuốc nên chúng có tác dụng phụ. Thực phẩm bổ sung càng chứa nhiều chất dinh dưỡng bao nhiêu, càng có nhiều tác dụng phụ bấy nhiêu và điều này hết sức nguy hiểm. Tác dụng phụ luôn song hành cùng công dụng chính, không có tác dụng phụ sẽ không có công dụng chính. Mặt khác, dinh dưỡng như tôi trình bày ở trên cần được bổ sung hết, bổ sung thiếu một chất cũng không đem lại hiệu quả. Khi chúng ta ăn cá cùng, thực phẩm toàn vẹn, thì sẽ không có chuyện chúng ta không cung cấp đủ dinh dưỡng. Còn chúng ta có dùng thực phẩm bổ sung sau bữa ăn hằng ngày đi nữa, tình trạng thiếu dinh dưỡng vẫn diễn ra. Như vậy, chúng ta đều nhận thấy thực phẩm bổ sung là vô nghĩa phải không? Các quảng cáo về thực phẩm bổ sung thường đi kèm với những con số ấn tượng về công dụng và thành phần như kiểu "Nước chanh 500 dưỡng chất". Trong khi chỉ một quả chanh tươi cũng đủ cung cấp hết các dưỡng chất, không cần đến loại thực phẩm bổ sung kia. Đó là chưa kể, thực phẩm bổ sung còn chứa một số thành phần nếu tích tụ nhiều sẽ gây hại cho cơ thể. Cho nên, dù ở thời đại nào trong lịch sử, việc thu nhận dinh dưỡng từ thiên nhiên cũng luôn cần được thực hiện và chúng ta nên xem đó là việc cốt yếu. CÓ THẬT CẦN THIẾT PHẢI ĂN 30 MÓN MỘT NGÀY? Năm 1985, Bộ Y tế và Phúc lợi Nhật Bản đã ban hành "Phương châm ăn uống sinh hoạt lành mạnh", theo đó, để có cuộc sống lành mạnh, chúng ta nên thực hiện "30 món một ngày". Sau đó, vào năm 2000, các khoản mục trong chính sách này đã bị bãi bỏ bởi ba bộ là: bộ Y tế và Phúc lợi, bộ Nông Lâm Ngư nghiệp và bộ Giáo dục để chuyển sang chế độ ăn uống dinh dưỡng cân bằng vì sức khỏe. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, nhiều người Nhật vẫn còn giữ chế độ ăn uống cũ đó. Mỗi ngày, cứ đến bữa, chọn lấy 30 món ăn, chọn dinh dưỡng sao cho các món cùng đồng đều, thật hết sức phiền phức. Hơn nữa, những người sống một mình hoàn toàn không có khả năng tự làm từng ấy món. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có phương pháp ăn uống khác gần tương tự như vậy, là "phương pháp đảm bảo sức khỏe bằng cân bằng ngũ sắc". Theo đó, hằng ngày, chúng ta ăn những loại thực phẩm đủ năm màu gồm, đỏ - trắng - vàng - xanh lá cây - đen. Ví dụ, nấm là thực phấm màu đen, cà chua hay cua là thực phẩm màu đỏ. Trên thực tế, màu sắc và dinh dưỡng không phải lúc nào cũng có mối liên hệ với nhau, cho nên đây là phương pháp không đúng. Ngoài ra, người ta còn xây dựng phương pháp ăn mới với tên gọi là "MaGoWaYaSaSHH". Tên gọi đó gồm các từ viết tắt của những chữ: Ma - Mamerui (các loại đậu), Go - Goma (vừng), Wa - Wakeme (tảo bẹ Undaria), Ya - Yasai (các loại rau), Sa - Sakana (các loại cá), SHII - SHIItake (nấm hương). Thành thật mà nói, nếu để ý kĩ những điều đó, chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của thực phẩm không nằm ở số lượng của chúng. Vậy nên, thay vì áp dụng các phương pháp kể trên, sao chúng ta không áp dụng phương pháp "cá nhỏ" nói trên: "có da ăn da, có xương ăn xương, có đầu ăn đầu". Với rau củ quả "có lá ăn lá, có vỏ ăn vỏ, có rễ ăn rễ", với ngũ cốc ta ăn nguyên hạt. Ăn toàn vẹn như vậy mới đạt được sự cân bằng trong ăn uống. Việc ăn uống như vậy rất quan trọng vì chế độ ăn uống này đem lại tỉ lệ dinh dưỡng tương đương tỉ lệ dinh dưỡng cơ thể chúng ta cần. Việc áp dụng các phương pháp như "30 món một ngày", hay "phương pháp đảm bảo sức khỏe bằng cân bằng ngũ sắc" đều khiến cho việc ăn uống trở nên nặng nề, đòi hỏi trách nhiệm cao như với công việc, chỉ khiến chúng ta thêm mệt mỏi. Bữa ăn sẽ đem lại giá trị dinh dưỡng cao chỉ khi chúng ta biết cách thưởng thức chúng. Đừng biến việc ăn uống của mình thành phức tạp, hãy đón nhận vị ngon đến từ sự giản đơn. BỐN ĐIÊU KIỆN ĐỂ KHÔNG BỊ HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA Ai trong các bạn có biết rằng hội chứng chuyển hóa có "tam cao"? Tam cao ở đây không phải là "chiều cao cơ thể", "trình độ học vấn cao", "thu nhập cao" mà là "mỡ máu cao", "đường máu cao", "huyết áp cao". Chúng ta bị mắc hội chứng chuyển hóa khi vòng eo chúng ta lớn, đối với nữ là quá 85cm, nam giới là hơn 90cm. Lời khuyên của bác sĩ là không nên vội dùng thuốc điều trị mỡ máu hay thuốc hạ huyết áp, vì một khi đã uống những thuốc đó, chúng ta sẽ phải uống chúng cả đời. Trước mắt, chúng ta vẫn có thể tự làm cho chính mình một vài điều. Cụ thể là ta có thể cải thiện lối sống. Dưới đây là bốn thông điệp mà hội chứng chuyển hóa muốn nhắc nhở chúng ta: Một: đừng ăn quá nhiều. Hai: đừng ăn quá nhiều chất béo. Ba: đừng dùng quá nhiều đường. Bốn: đừng dùng quá nhiều muối. Về điều thứ nhất, lượng chúng ta ăn như thế nào, tôi đã nói ở phần đầu chương này, các bạn hãy tham khảo "chế độ ăn kiểu Bữa ăn cơ bản", "Mỗi ngày một bữa", về điều thứ hai, sau đây tôi sẽ nói về những vấn đề liên quan tới chất béo, mà điển hình là cholesterol. Trước tiên, như chúng ta đều biết, cơ thể được cấu tạo từ hàng tỉ tế bào khác nhau. Và thành phần không thế thiếu trong cấu tạo màng tế bào là cholesterol. Khi kiểm tra độ tươi mới của trứng gà, kinh nghiệm dạy chúng ta rằng lòng đỏ trứng không bị vỡ khi dùng đũa khuấy mới là trứng tươi. Trên thực tế, có rất nhiều cách để làm được như vậy. Nếu chúng ta cho gà ăn nhiều chất giàu cholesterol, khiến gà bị tăng mỡ máu, cholesterol dư được tế bào sử dụng cho màng tế bào khiến chúng trở nên dẻo dai hơn. Đối với cơ thể chúng ta, cholesterol còn là tiền chất cho quá trình sinh hóa tổng hợp các hormone giới tính của cơ thể. Do đó, nếu thiếu cholesterol, cơ thể con người sẽ bị suy giảm hoạt động và không vận hành tốt. Vậy nên trước kia, mỗi khi ốm đau, con người thường tẩm bổ bằng cách ăn thịt gà và kết quả là người ốm nhanh chóng khỏe lại, đó là nhờ hormone tăng lên nhẹ. Người ta cũng nói rằng ăn thịt làm tăng khả năng tạo tinh trùng. Nhưng ở thời kì không dễ có miếng thịt đế ăn trong cuộc sống thường ngày, điều đó có thể là đúng, và đây là câu chuyện ở thời kì cholesterol bị thiếu hụt. Còn trong kỉ nguyên hiện đại này, khi chúng ta có thể ăn thịt hằng ngày, vì sao số bệnh nhân bị rối loạn cương dương lại tăng lên? Thịt có thể làm người suy dinh dưỡng khỏe mạnh hơn nhưng người khỏe mạnh ăn hằng ngày lại dễ dẫn tới thừa dinh dưỡng, trở nên có hại. Cholesterol có thể được tổng hợp từ các thành phần khác trong cơ thể nên không cần thu nạp quá nhiều chất này qua ăn uống. Nếu chúng ta tiếp nhận cholesterol quá nhiều qua ăn uống, thì đây chính là nguyên nhân gây nên tình trạng béo phì và bệnh xơ cứng động mạch, ở thời đại ăn no này, với người cao tuổi bị hội chứng chuyển hóa, việc thu nạp thịt qua ăn uống là không cần thiết. Ngoài ra, nếu chúng ta quá lạm dụng tiếp nhận cholesterol trên mức cần thiết sẽ dễ dẫn đến nguy cơ bị ung thư, ở nữ giới sau mãn kinh là ung thư vú, ở nam giới là ung thư tiền liệt tuyến, cùng hai bệnh khác là nhồi máu não và nhồi máu cơ tim. Đây là những bệnh nan y đối với người Nhật. Gần đây, ở khu vực Âu-Mĩ, xuất hiện xu hướng ăn thịt uống sữa một tuần một lần để tránh thu nạp nhiều cholesterol. Kết quả báo cáo của McGovernan mà tôi nói ở trên cho biết, thời kì Genroku trở về trước là thời kì ăn uống tốt cho sức khỏe nhất. Bên cạnh đó, vì bệnh ung thư vú phát triển dựa trên lượng hormone nữ nên ở Nhật Bản, phụ nữ mãn kinh sẽ ít có nguy cơ mắc phải ung thư vú hơn. Nhưng ở phương Tây, có rất nhiều trường hợp ung thư vú là ở phụ nữ mãn kinh. Điều này không phải do khác biệt về chủng tộc, vì những người da màu sống ở Âu-Mĩ cũng có xác suất bị ung thư vú sau mãn kinh cao như người da trắng bản địa. Nói cách khác, xác suất mắc ung thư không phụ thuộc vào thể trạng, tuổi tác cũng như chủng tộc mà phụ thuộc chính vào lối sống, ăn uống sinh hoạt. Thực phẩm được Âu-Mĩ hóa khiến cholesterol tăng cao, kéo theo sự tăng lên của hormone, dẫn tới các bệnh như ung thư. THU NẠP QUÁ NHIỀU ĐƯỜNG LÀM GIẢM TUỔI THỌ Về cơ bản, khi nào bụng đói đến mức sôi ùng ục thì khi đó chúng ta ăn là tốt nhất. Tuy nhiên, hầu hết chúng ta vẫn giữ thói quen ăn theo giờ kể cả khi không đói. Ví dụ như vào ngày nghỉ, dù ăn sáng muộn lúc 9 giờ nhưng đến trưa, chúng ta vẫn nghĩ "ăn trưa nào", đến 3 giờ chiều lại ăn bánh uống trà. Đó chính là thói quen ăn theo giờ. Ban đầu, thói quen uống trà trong giờ nghỉ tại Nhật bắt nguồn từ những khi nông nhàn ngày trước. Còn ở Anh, đó là nét truyền thống được coi trọng, cứ đến 3 giờ chiều, người Anh thường uống trà và ăn bánh ngọt. Những giờ ăn bánh uống trà đó chúng ta gọi chung là bữa ăn nhẹ. Những bữa này chỉ dành cho trẻ em đang phát triển mà không cần thiết đối với người trưởng thành. Do nhu cầu dinh dưỡng ở trẻ em cao hơn người trưởng thành và dinh dưỡng không chỉ để duy trì sự sống mà phần lớn đế giúp trẻ phát triển, hoàn thiện thành người lớn. Cho nên, trẻ em cần có bữa ăn nhẹ để bổ sung dinh dưỡng. Thời thơ ấu của tôi, những năm ba mươi thời Chiêu Hòa, đồ ăn nhẹ chỉ có khoai lang, ngô, mùa hè có thêm dưa hấu, cà chua. Đồ ăn nhẹ chỉ đơn sơ như vậy, đâu có bánh kẹo như Ohagi hay Botamochi, những thứ chỉ dành cho ngày quan trọng hoặc dịp đặc biệt như sinh nhật. Ngày nay, đồ ăn nhẹ là bánh ngọt hay kẹo trở nên thông dụng hơn. Bây giờ, ăn những thứ đồ ngọt như vậy khiến cơ thể tôi trở nên ấm áp hơn nhưng lại kéo theo cơn buồn ngủ và nguy hiểm hơn, làm cho đường huyết của tôi tăng lên. Các bạn có biết đường trong bánh kẹo sẽ gây lão hóa cơ thể và giảm tuổi thọ? Tác hại của thuốc lá hẳn ai cũng biết, nhưng so với tác hại của thuốc lá, tác hại của đường còn tệ hơn. Cụ thể, khi ăn một viên kẹo ngọt, đường huyết của chúng ta tăng trên 140mg/dL, có nguy cơ gây tổn hại niêm mạc máu cao gấp bốn lần so với việc hút thuốc lá. Những hậu quả mà đường có khả năng gây ra được gọi chung là "độc tính đường", bao gồm: xơ cứng động mạch, nhồi máu não, nhồi máu cơ tim, giảm mỡ nội tạng, béo phì, đồng thời tăng lượng cholesterol trong máu, dẫn tới tăng hormone giới tính. Từ đó cho thấy đường là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới ung thư vú và ung thư niêm mạc tử cung ở phụ nữ mãn kinh thời gian gần đây. Không chỉ có vậy, người Mĩ tiêu thụ những thực phẩm gây tăng cholesterol như thịt, sản phẩm có nguồn gốc từ sữa hay đường từ các loại đồ ngọt, nhiều gấp năm lần so với người Nhật, kéo theo hệ quả là xác suất mắc ung thư vú ở nữ, ung thư tiền liệt tuyến ở nam giới cũng cao gấp năm lần. Tôi muốn chúng ta nhanh chóng dừng việc làm tổn thương mạch máu của mình vì dung nạp quá nhiều đường như vậy. Nếu không thể từ bỏ thói quen ăn ngọt, cơ thể chúng ta sẽ không còn cách nào khác là phải quen dần với tình trạng đường huyết cao. Nói cách khác, chúng ta sẽ dần tiến tới thể trạng không tăng cân dù có ăn ngọt bao nhiêu đi nữa. Vì nếu không, đường huyết cao sẽ gây hại cho tuyến tụy của chúng ta, phá hủy các tế bào p (bê-ta) ở các đảo Langerhan của tuyến tụy. Tế bào p là nơi sản sinh ra hormone insulin, hormone giúp hấp thụ đường được đưa vào để tạo năng lượng cho tế bào. Do khi insulin hoạt động tích cực, đường sẽ tích thành mỡ nội tạng gây giảm đường huyết, khiến chúng ta béo lên. Nhưng nếu tế bào p bị phá hủy đồng nghĩa với khả năng đó không còn nữa, và chúng ta không thể béo lên, tức là chúng ta đã mắc bệnh đái tháo đường (tiểu đường). Bệnh này sẽ tiếp tục tấn công những "cơ quan săn mồi" của chúng ta, chuyển các cơ quan này từ trạng thái nhạy bén thu lấy thức ăn thành trạng thái thoái hóa dần. "Cơ quan săn mồi" bị nhắm tới đầu tiên là võng mạc. Một khi võng mạc bị thoái hóa, dẫn tới mù lòa, cơ hội tìm kiếm thức ăn cũng giảm đi đáng kể. Tiếp theo là thận. Thận càng bị phá hủy, lượng đường thoát ra khỏi cơ thể qua nước tiểu càng nhiều, càng khiến chúng ta không thể béo lên được nữa. Đích đến tiếp theo là đôi chân, các mạch máu của chân dần dần sẽ bị hư hoại, khiến chân cứng lại và thối rữa, khó di chuyển và vận động, triệt hạ khả năng tìm kiếm thức ăn của chúng ta. "Độc tính đường" là cách phòng vệ của cơ thể khi chúng ta không thể ngừng ăn quá nhiều đồ ngọt. Đây là hệ quả sau chiến tranh, giai đoạn chúng ta đã thu nạp quá nhiều đường. Giờ đây, khi đã chuyển sang thời đại ăn no, chúng ta cần tìm cách thay đổi vấn đề này. Để làm được vậy, trước hết chúng ta cần nhìn lại thời kì mà bánh kẹo, nước giải khát hầu như được làm từ trái cây nguyên chất nên chứa những chất đường khó phân giải, chậm hấp thụ, khiến đường huyết trong cơ thể khó tăng lên. Đây là một trong những điểm then chốt cho chúng ta tìm ra lời giải cho vấn đề trên. Đường được sử dụng ở đây không phải đường trắng hay đường tinh luyện, mà là đường sucrose (còn được gọi là đường phèn). Nếu ăn đồ ngọt, chúng ta nên chọn loại được làm từ nguyên liệu tinh bột như khoai lang, lúa mì, ngô, gạo, sắn dây... Khi nhai những thức ăn ngọt này, nước bọt được tiết ra, qua đó enzyme amylase trong nước bọt sẽ phân giải tinh bột thành đường. Như vậy, đường được dung nạp chậm rãi hơn để cơ thế có thế đáp ứng được. LÝ DO VÌ SAO ĐỘNG VẬT KHÔNG CHO MUỐI VÀO THỨC ĂN ở động vật ăn thịt ta thấy chúng không ăn những con mồi, như thỏ, với muối, hoặc động vật ăn cỏ không ăn cỏ với muối hay các gia vị khác. Ngay như thức ăn cho trẻ nhỏ, chúng ta cũng không bỏ muối vào. Có lý do rõ ràng cho việc này, đó là trong tự nhiên, cơ thể của động thực vật chứa đủ lượng muối, như vậy ăn những động thực vật đó cũng cung cấp đủ lượng muối cho cơ thể các loài ăn chúng. Muối tồn tại ở trong mọi loại sinh vật, từ thực vật, động vật ăn cỏ đến động vật ăn thịt. Trở về thời kì tổ tiên chúng ta chủ yếu sống dựa vào săn bắt hái lượm, khi đó tổ tiên chúng ta luôn được cung cấp đầy đủ muối từ thịt động vật mà chúng ta săn bắt và cả từ những thứ chúng ta hái lượm được. Do đó, việc thêm muối vào thức ăn là không cần thiết với tổ tiên chúng ta lúc bấy giờ. Tuy nhiên, con người trong thời đại chúng ta ngày nay đã thay thế điều đó bằng việc sử dụng quá nhiều muối. Chúng ta chỉ không sử dụng muối trong bữa ăn cho một số đối tượng đặc biệt như trẻ sơ sinh hoặc người cao tuổi thận yếu. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta dung nạp quá nhiều muối? Muối được cơ thể hấp thụ vào máu đầu tiên. Quá nhiều muối sẽ làm tăng áp suất thẩm thấu của máu, khiến máu không ngừng lấy nước từ các bộ phận khác của cơ thể, làm cho huyết áp tăng lên rõ rệt. Khi huyết áp tăng lên, mức độ va đập của thành phần trong máu với tế bào nội mô mạch máu xảy ra thường xuyên hơn, khiến các tế bào này bị tổn thương, làm cho thành mạch máu bị xơ cứng dần. Huyết áp tiếp tục tăng lên, xơ vữa càng có cơ hội phát triển mạnh, độ lưu thông của máu càng kém dần đi. Máu đi nuôi các cơ quan giảm, dẫn đến tim đập nhanh, làm huyết áp tăng cao hơn nữa. Qua đó chúng ta thấy việc thu nạp muối quá nhiều sẽ dẫn tới vòng luẩn quấn như vậy. Theo quyển Quy chuẩn trong tiêu dùng thực phẩm của người Nhật do Bộ Y tế - Lao động và Phúc lợi Nhật Bản ban hành, lượng muối một người trưởng thành cần nạp vào một ngày là: 10g ở nam giới, 8g ở nữ giới. Đối với người cao huyết áp, lượng này được Hiệp hội Cao huyết áp Nhật Bản quy định ở mức dưới 6g/ngày (Hướng dẫn điều trị cao huyết áp, 2009). Tuy nhiên, người ta cho rằng mức độ thu nạp muối trung bình của người Nhật là 10-15g/ngày. Nếu các bạn chưa tin, tôi xin đưa ra ví dụ cụ thể chính là bát mì ramen chúng ta hay ăn, khi húp hết một bát lớn súp đó trong một hơi, chúng ta đã nạp vào 6g muối fôi. Vì vậy, con số 10-15g/ngày nêu kia là đúng. KHÔNG CÓ NHỮNG THỨ NHƯ "MUỐI vì SỨC KHỎE" Gần đây, người ta khai thác muối tự nhiên từ nguồn khoáng sản phong phú theo phương pháp Nigari với rất nhiều chủng loại đã, đang và sẽ xuất hiện. Do một số người quan niệm rằng muối tự nhiên tốt cho cơ thể hơn là muối NaCI tổng hợp, nhưng dù là muối nào thì khi được nạp quá nhiều vào cơ thể cũng đều có hại. Muối tự nhiên có chứa các khoáng chất. Vậy chúng ta nên lấy khoáng chất từ muối như thế nào để vẫn đảm bảo thành phần mà không nạp quá nhiều muối vào cơ thể? Tôi khuyên các bạn nên lấy muối từ rong biển hoặc hải sản. Ví dụ, nếu ăn tảo nâu Mozuku hoặc tảo Mekabu, chúng ta vừa có thể thu nạp lượng muối ít, vừa hấp thụ được nhiều khoáng chất. Làm như vậy tốt cho sức khỏe hơn cả việc lấy khoáng chất từ muối tự nhiên. Khi nhắc tới muối tự nhiên, các quảng cáo thường nhấn mạnh vào vị mặn là điểm đặc trưng, nhưng nếu có dịp đến mỏ muối khoáng, nếm thử muối ở đây, các bạn sẽ thấy muối không mặn mà còn có cảm giác ngọt nơi đầu lưỡi. Do muối tăng vị ngon hay có sự hiểu nhầm muối không mặn tốt cho sức khỏe mà một số người sành ăn thường cảm thấy hạnh phúc khi rắc lên miếng thịt những hạt muối tự nhiên to như vậy. Vì sao muối mỏ lại có vị ngọt? Trước tiên, vị chúng ta cảm nhận được là nhờ các gai đầu lưỡi cảm nhận và thông báo tới bộ não. Muối mỏ thường ở dạng tinh thể, giống như viên nang khi vào miệng bị tan chảy ngay nơi đầu lưỡi, chúng ta chưa cảm nhận được vị mặn thì chúng đã xuống đến dạ dày, nên chúng ta đang vô tình sử dụng muối quá nhiều. Chúng ta sử dụng muối mỏ được nghiền mịn bằng máy, vì vậy muối trở nên mặn hơn cho dù là lượng nhỏ.