🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Alexander Đại đế
Ebooks
Nhóm Zalo
Các triều đại của Macedonia Amyntas I ? - 498 Alexander I 498 - 454 Perdiccas II 454 - 413 Archelaus 413 - 399 Orestes 399 - 398 Aeropus II 398 - 395 Amyntas II 395 - 394 Amyntas III 393 - 370 Alexander II 370 - 367 Ptolemy 367 - 365 Perdiccas III 365 - 359 Philip II 359 - 336 Alexander Đại Đế 336 - 323
Các triều đại của Ba Tư Cyrus Đại Đế 559 - 530 Cambyses II 530 - 522 Bardiya ? - 522 Darius I 522 - 486 Xerxes I 486 - 465 Artaxerxes I 465 - 424 Xerxes II ? - 424 Darius II 424 - 404 Artaxerxes II 404 - 359 Artaxerxes III 359 - 338 Artaxerxes IV 338 - 336 Darius III 336 - 330
Alexander Đại đế đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử thế giới. Ông nổi bật trong số những vĩ nhân của lịch sử, bởi vì ông hoàn thành di sản của mình trong một khoảng thời gian rất ngắn. Đó là nhà chinh phục vĩ đại, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong mọi chủng tộc. Ông đã khuất phục phương Đông và thâm nhập vào Ấn Độ, vùng đất của những điều kỳ
diệu. Truyền thuyết về ông, ở cả phương Đông và phương Tây, đã đưa ông đến giới hạn của trái đất, thậm chí đến cánh cổng của Thiên đường. Thành quả của cuộc đời ông không chỉ
là đế chế mà ông đã giành được nhờ chiến đấu gian khổ, mà còn là sự phát triển của nền văn minh Hy Lạp được lan rộng khắp thế giới. Chính bằng cách đó, ông đã tạo ảnh hưởng đến lịch sử nhân loại thậm chí cho đến thời đại chúng ta.
Sau sự sụp đổ của Athens và Đế chế Athen trong Chiến tranh Peloponnesian, Sparta là người chiến thắng và dùng bạo lực tàn bạo để thiết lập quyền lực tối cao của mình đối với người Hy Lạp và đưa ra các thể chế mới thay cho các nền dân chủ mà Athens ủng hộ trước đây. Tuy nhiên, chiến thắng đã không giành được bằng sức mạnh của chính họ, mà thông qua liên minh tai tiếng với Ba Tư, hy sinh vùng đất Tiểu Á cho Đại vương của Ba Tư.
Chiến tranh Peloponnesian, 431 đến 404 TCN, là một cuộc chiến giữa các thành bang Hy Lạp cổ đại. Liên minh Peloponnesian được lãnh đạo bởi thành bang Sparta đã đánh bại liên minh Delos do Athens dẫn đầu. Các nhà sử học thường chia nó thành ba giai đoạn.
Trong giai đoạn đầu tiên, cuộc chiến Archidamius, Sparta phát động cuộc xâm lược Attica nhiều lần, trong khi Athena lợi dụng sức mạnh hải quân để tấn công bờ biển Peloponnesus cố gắng ngăn chặn các dấu hiệu bất ổn trong đế chế, giai đoạn này của cuộc chiến được quyết định năm 421, với hiệp ước hòa bình Nicias. Tuy nhiên hiệp ước không có tác dụng lâu khi một cuộc chiến mới lại xảy ra ở Peloponnesus. Sự đối đầu giữa Sparta và một liên minh của Athena là Argos vào năm 418 TCN lại làm bùng lên cuộc
chiến. Tại Mantinea, Sparta đã đánh bại liên minh Athen. Chiến tranh lại tiếp tục, và Alcibiades đã lên nắm quyền lực tại Athena. Năm 415 TCN Alcibiades đã thuyết phục Quốc hội Athen gửi một lực lượng viễn chinh lớn để tấn công Syracusus ở Sicilia, cuộc xâm lược hoàn toàn thất bại khi toàn bộ lực lượng trên bị tiêu diệt, trong năm 413 TCN. Điều này mở ra giai đoạn cuối của cuộc chiến, thường được gọi là cuộc chiến Decelea, hoặc chiến tranh Ionia. Trong giai đoạn này, Sparta được sự giúp đỡ từ Ba Tư, hỗ trợ các cuộc nổi loạn ở các bang chịu sự ảnh hưởng của Athen ở biển Aegea và Ionia, phá hoại đế chế Athen, và, cuối cùng, lấy đi sự uy quyền của Athen. Việc phá tan hạm đội Athen ở Aegospotami đã đánh dấu sự kết thúc cuộc chiến, và Athen đã đầu hàng ngay trong năm sau.
Cuộc chiến phần nào giúp định hình lại thế giới Hy Lạp cổ đại. Trên mức độ quan hệ quốc tế, Athen, thành bang hùng mạnh nhất ở Hy Lạp trước cuộc chiến đã suy sụp hoàn toàn kéo theo cả chế độ dân chủ, trong khi Sparta trở thành thành bang hùng mạnh nhất Hy Lạp. Các tổn thất kinh tế của cuộc chiến đã được cảm nhận trên khắp Hy Lạp; sự nghèo đói lan rộng khắp Peloponnesus, trong khi Athena thấy bản thân hoàn toàn bị tàn phá, và không bao giờ lấy lại được sự thịnh vượng trước đây. Cuộc chiến cũng là sự xung đột giữa nền dân chủ Athena và chủ nghĩa quân phiệt Sparta, mỗi bên ủng hộ các phe phái chính trị thân thiết trong phạm vi các bang khác, các cuộc nội chiến xảy ra phổ biến trong thế giới Hy Lạp.
* Nhấn nút Play để xem
Bực tức trước thái độ của những người dân chủ cấp tiến của Athens - (mặc dù Darius II đã tiến hành đổi mới theo hiệp ước Hòa bình Callias) đã can thiệp vào công việc nội bộ của Đế chế Ba Tư, Đại vương quyết định ủng hộ người Sparta từ năm 412. Để đổi lấy điều này, Ba Tư sẽ có vùng đất Tiểu Á của Hy Lạp. Chính vàng của Ba Tư đã xây dựng nên các hạm đội mà người Sparta dùng để vượt qua sự kháng cự của Athens và cuối cùng (năm 404) khiến nó phải đầu hàng. Đế chế Ba Tư, bất chấp nội bộ yếu kém, đã trở thành nhân tố quyết định trong lịch sử Hy Lạp. Nhưng Sparta đã sớm chia rẻ với đồng minh của mình, và đã tự thỏa hiệp với Susa [thủ đô Ba Tư] bởi sự hỗ trợ bí mật của nó với hoàng tử Cyrus trong cuộc viễn chinh Thập vạn nổi tiếng của anh ấy chống lại anh trai Artaxerxes. Memnon đã rút kiếm chống lại Ba Tư để bảo vệ những người Hy Lạp Á Châu, những người sắp bị trừng phạt vì đã tham gia vào cuộc viễn chinh đó. Nhưng động cơ yêu nước khó có thể là yếu tố quyết định với người Sparta, những người trước đây đã
từng máu lạnh trao các thành phố đó cho người Ba Tư; thay vào đó, đây là mong muốn duy trì vị trí hùng mạnh mà họ đã giành được ở Tiểu Á, chủ yếu thông qua Lysander vĩ đại, và có lẽ cũng là mong muốn, với tư cách là các lãnh chúa của Hy Lạp, tẩy sạch vết nhơ với liên minh Ba Tư.
Susa là thành phố cổ của Đế chế Ba Tư, gần Parthian và Sasanid của Iran. Đây là một trong những thành phố quan trọng nhất Cận Đông. Nó nằm ở phía dưới dãy Zagros, cách 250 km về phía đông của sông Tigris, giữa các sông Karkheh và Dez.
Thập vạn là một lực lượng các đơn vị lính đánh thuê, chủ yếu là người Hy Lạp, được Cyrus thuê để cố gắng giành lấy ngai vàng của Đế chế Ba Tư từ anh trai mình, Artaxerxes II. Cuộc hành quân của họ đến Trận Cunaxa và trở về Hy Lạp (401– 399 TCN) được Xenophon, một trong những thủ lĩnh của họ, ghi lại trong tác phẩm Anabasis của ông.
Nhưng trong khi quân đội Sparta, dưới quyền Agesilaus, đang chiến đấu với người Ba Tư ở nước ngoài, thì tại quê nhà, lòng căm thù được khơi dậy bởi sự thống trị tàn bạo của Sparta đã tập hợp Thebes, Athens, Corinth và Argos thành một liên minh buộc Agesilaus phải đình chiến với Ba Tư và đến chiến đấu ở Hellas
chống lại quân liên minh. Sau đó, vàng của Ba Tư một lần nữa đóng vai trò quan trọng, lần này đứng về phía liên minh. Chiến thắng của hạm đội Ba Tư tại Cnidus dưới sự chỉ huy của tướng Athen Conon (394 TCN); dẫn đến sự sụp đổ của quyền lực Sparta trên biển, và Conon đã có thể xây dựng lại các bức tường của thành phố quê hương bằng tiền của Ba Tư. Cuộc nội chiến đã thể hiện rõ những chia rẽ sâu sắc của Hy Lạp.
Sự nổi lên của Athens đã khuyến khích các cuộc nổi dậy từ Ba Tư của hoàng tử Síp Euagoras và cuộc nổi dậy của Ai Cập, và Sparta lại phải liên kết với Ba Tư, qua hiệp ước “Hòa bình của Nhà vua” được ký kết năm 386 (cũng được gọi là “Hòa bình Antalcidas” theo tên của người Sparta đã đàm phán để tạo ra nó). Ngay từ năm 392 TCN, Antalcidas cùng với satrap Tiribazus (tương đương với tỉnh trưởng), đã ký kết các điều khoản hòa bình với đại diện của các đồng minh tại Sardis. Sau đó, người Athen vẫn đủ mạnh để trở thành quốc
gia duy nhất trong liên minh từ chối yêu cầu của người Ba Tư về việc nhượng lại bờ biển của Tiểu Á, trên cơ sở lòng yêu nước, họ không thể thừa nhận những người Hy Lạp sống ở châu Á thuộc về vua Ba Tư. Vì lý do này mà các cuộc đàm phán đã đổ vỡ.
Tiểu Á (Asia Minor) của Hy Lạp cổ chính là phần Châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
Nhưng Antalcidas, người cũng là một đô đốc khéo léo, với sự hỗ trợ của các con tàu từ Dionysius của Syracuse I, đã đóng cửa Dardanelles (eo biển nối Tiểu Á với Hy Lạp) với người Athen, và tạo ra sức ép với họ như năm 405. Sự kháng cự không còn nữa. Người Hy Lạp đã ngoan ngoãn chấp nhận hòa bình, và vua Ba Tư đã gửi cho họ yêu sách khắc nghiệt thông qua Antalcidas, người đã dàn xếp các điều khoản.
Yêu sách bao gồm hai điều khoản và một hình phạt. Điều khoản đầu tiên quy định tất cả các thành phố Hy Lạp ở châu Á cũng như các đảo Clazomenae và Síp phải thuộc về Ba Tư, điều khoản thứ hai quy định tất cả các thành bang Hy Lạp khác, không phân biệt lớn nhỏ, phải được tự do và độc lập, ngoại lệ duy nhất là các công quốc Lemnos, Imbros và Scyros được chuyển về cho Athens. Hình phạt nêu rõ Nhà vua cùng với các quốc gia đồng minh sẽ tiến hành chiến tranh trên biển và trên bộ chống lại bất kỳ ai không chấp nhận hòa bình. Trên
cơ sở của sắc lệnh này, hòa bình đã được xác nhận tại Sparta bằng lời tuyên thệ của tất cả những người có mặt tại đại hội. Vì vậy, những người anh em Hy Lạp ở phía bên kia biển cuối cùng đã được trao cho Ba Tư. Điều khoản về quyền tự trị không chỉ liên quan đến lợi ích của quốc vương Ba Tư, người muốn chia nhỏ vĩnh viễn Hy Lạp thành vô số cộng đồng có chủ quyền. Theo đó, Liên minh Theban ngay lập tức bị giải thể, trong khi Liên minh Peloponnesian, các thành viên trên danh nghĩa là tự trị, vẫn tồn tại dưới sự lãnh đạo của Sparta. Về mặt này, hiệp ước “Hòa bình của Nhà vua” là một chiến thắng đối với Sparta, kẻ giờ phải giám sát việc thực thi nghiêm ngặt các điều khoản như là tay sai của Ba Tư.
Nhiều người theo chủ nghĩa thống trị thiển cận, những người không có khả năng học hỏi kinh nghiệm, đã rất hài lòng rằng lý tưởng cũ về tự do và độc lập đã được đảm bảo cho mỗi Polis (thành bang Hy Lạp). Nhưng những thành phần tốt hơn cảm thấy đó là một sự ô
nhục, nền hòa bình này, như Socrates đã nói, không phải là một hiệp ước mà là một mệnh lệnh, đã bị ép buộc bởi vua Ba Tư, và ông ta hiện là người có quyền tối cao - kiểm soát Hy Lạp. Sự ô nhục càng đáng hận hơn, vì ưu thế
quân sự của người Hy Lạp là không thể nghi ngờ sau cuộc viễn chinh Thập vạn, và có thể thực hiện một cuộc chinh phạt Ba Tư, nếu họ đoàn kết thay vì chia rẽ.
Socrates là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong những người đã sáng tạo ra nền triết học phương Tây, và là triết gia đầu tiên của nền tư tưởng đạo đức phương Tây. Ông là một nhân vật rất bí ẩn, không hề
viết ra bất cứ điều gì, chỉ được biết đến chủ yếu thông qua các tác phẩm do những tác giả cổ đại cùng thời kể lại, trong đó nổi bật nhất chính là hai môn sinh Plato và Xenophon. Một số tác phẩm khác viết về ông đến từ những tác giả đương thời như Antisthenes, Aristippus và Aeschines xứ Sphettos. Aristophanes, một nhà viết kịch, chính là tác gia đương thời đã tạo ra những vở kịch có nhắc đến Socrates còn tồn tại đến ngày nay, ngoài ra, một đoạn trong cuốn “Sổ tay Du ký” của Ion xứ Chios cũng cung cấp những thông tin rất quan trọng về thời trẻ của Socrates.
Những mẩu đối thoại của Plato là một trong những bằng chứng toàn diện nhất về Socrates vẫn còn sót lại từ thời cổ đại tới giờ, từ đó giúp Socrates trở nên nổi tiếng với những
đóng góp cho các lĩnh vực đạo đức học và tri thức luận. Ông chính là thầy của Plato, người đã đặt tên cho những khái niệm triết học như Sự mỉa mai của Socrates và phương pháp Socrates, hay elenchus. Tuy nhiên, vẫn có những câu hỏi được đặt ra về việc liệu có sự khác biệt nào giữa Socrates trong đời thực với Socrates được khắc họa bởi Plato trong những mẩu đối thoại của mình hay không.
Socrates có một sức ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ đối với những triết gia sau thời kỳ cổ đại và kỷ nguyên hiện đại. Những tác phẩm văn học, nghệ thuật và văn hóa đại chúng miêu tả về Socrates đã khiến ông trở thành một trong những
hình tượng được biết đến rộng rãi nhất trong nền tư tưởng triết học phương Tây.
Hiệp ước Hòa bình đáng xấu hổ năm 386 đã tồn tại trong suốt nửa thế kỷ, và là một gánh nặng đối với Hy Lạp. Philip lần đầu tiên cắt đứt nền tảng của nó bằng cách thống nhất quốc gia trong Liên minh Corinthian của mình, và Alexander đã hoàn toàn xóa bỏ nó thông qua chiến thắng trước Đế chế Ba Tư.
Sự kết thúc của hiệp ước “Hòa bình của Nhà vua” sau nhiều năm khó khăn đối với Hy Lạp, trong đó Sparta sử dụng quyền bá chủ mới của mình để mở rộng quyền lực. Để chống lại sự xâm lấn của người Sparta, Athens đã thành công vào năm 377 trong việc thành lập một liên minh hải quân Attic mới, trong đó theo các điều khoản của hiệp ước “Hòa bình của Nhà vua”, đảm bảo quyền tự do và tự chủ cho mỗi thành viên của liên minh. Bằng cách cẩn thận trong việc tránh những sai lầm đã dẫn đến việc giải thể liên minh hải quân đầu tiên vào thế kỷ thứ năm TCN, một tổ chức mới đã được
thành lập, điểm chính là các thành viên mỗi người cử một đại diện đến một hội đồng liên bang (Synhedrion) ngồi tại Athens, phải giữ liên lạc với hội đồng của người Athen.
Trong khi liên minh này trong những năm tiếp theo mở rộng ở miền Bắc và miền Trung Hy Lạp và ở các hòn đảo ở Đông và Tây bởi các hoạt động thành công của các tướng Attic Chabrias và Timotheus, thành bang Thebes đã nhanh chóng lên nắm quyền trong cuộc đấu tranh với Sparta dưới sự lãnh đạo của Epaminondas. Mục tiêu trước mắt của Epaminondas là thành lập một nhà nước Boeotian thống nhất, và tại đại hội hòa bình ở Sparta năm 371, ông đã phản đối các điều khoản của hiệp ước “Hòa bình của Nhà vua”. Tại trận chiến Leuctra sau đó, ông đã tạo ra thất bại nặng nề cho Vua Sparta Cleombrotus, biến ưu thế quân sự của Sparta đi đến hồi kết. Trận chiến Leuctra cũng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của hệ thống quân sự Macedonia; cái gọi là chiến thuật “đánh dọc
sườn”, mà Epaminondas, người phát minh ra nó, và là một trong những thiên tài quân sự vĩ đại nhất mọi thời đại, lần đầu tiên áp dụng ở đây, sau đó đã được vua Philip tiếp nhận và mở rộng, cùng với nó, Alexander đã giành chiến thắng trong ba trận đánh lớn, cũng như Frederick Đại đế tại Leuthen.
Epaminondas là một tướng lĩnh và chính trị gia của thành bang Thebes vào thế kỷ 4 TCN. Ông nổi tiếng với chiến thuật “đánh dọc sườn” áp dụng trong trận đánh Leuctra, đánh tan đội hình phalanx của thành bang Sparta.
* Phalanx: phương trận
Epaminondas với đội hình Phalanx biến hóa
Mặc dù có khả năng quân sự mạnh mẽ, nhưng lúc đó Sparta có cái nhìn hẹp hòi không xứng với tầm vóc bá chủ của họ. Vì thế mà thành bang Thebes tách ra khỏi liên minh không theo Sparta. Lập tức quân Sparta quyết định tấn công tiêu diệt thành bang Thebes.
Người Thebes cử tướng Epaminondas, một chiến binh được coi là dũng cảm nhất của Thebes, thống lĩnh ba quân. Quân Sparta tấn công, hai bên gặp nhau ở cánh đồng Leuctra gần thành Thebes.
Quân Sparta có 10.000 bộ binh hạng nặng và 1.000 kỵ binh, trong khi đó quân Thebes có 6.000 bộ binh và 1.000 kỵ binh.
Ưu thế về quân số và khả năng thiện chiến nổi tiếng của người Sparta khiến nhiều người cho rằng họ sẽ lại chiến thắng.
Vua Sparta là Cleombrotus I bố trí 1.000 kỵ binh ở phía trước, 10.000 bộ binh phía sau xếp thành đội hình Phalanx 12 hàng, những binh lính thiện chiến nhất được bố trí ở cánh phải để đánh bại quân Thebes ở cánh này.
Đối mặt với đội quân thiện chiến và hùng mạnh Sparta, Epaminondas rất bình tĩnh, ông bố trí quân Thebes theo đội hình Phalanx khác thường. Đội hình phalanx bình thường thì quân dược dàn đều cả hai cánh, nhưng do quân Thebes ít hơn nên ông bố trí cánh trái (tức đối diện với cánh phải – cánh thiện chiến của quân Sparta) đến 50 hàng ngang, trong đó có 300 dũng sĩ tinh nhuệ bậc nhất. Cánh phải của Thebes ít hơn với 8 hàng ngang. Toàn bộ đội hình tạo thành tuyến nghiêng từ trái sang phải và chếch dần ra sau.
Với cách bố trí đội hình này, Epaminondas muốn dùng cánh phải kiềm chế đối phương, còn cánh trái sẽ đánh mạnh và tiêu diệt quân Sparta, sau đó sẽ tràn sang diệt nốt cánh còn lại.
Cách bố trí quân của Epaminondas độc đáo ở 2 điểm:
Tăng số hàng Phalanx cánh trái lên 50 hàng so với chỉ 8-12 hàng như thông lệ.
Không cố gắng dùng Phalanx cánh phải để tấn công trực diện, mà lại vừa đánh vừa rút.
Sparta thua trận
Mở đầu cuộc chiến là màn đấu kỵ binh của hai bên, kỵ binh Sparta bị đẩy lùi. Sau đó hai bên tung bộ binh Phanlax vào trận. Nhận thấy cánh phải của quân Thebes rất mỏng, vua Cleombrotus I cho thêm bộ binh hạng nặng đánh vào, nhưng quân cánh phải của Thebes có nhiệm vụ là cầm cự nên vừa đánh vừa lùi, bảo toàn vững chắc.
Trong khi đó cánh trái quân Thebes tập trung đa số quân, đánh mạnh vào cánh phải chủ lực của quân Sparta, khiến cánh này của Sparta tan vỡ, vua Cleombrotus I cũng tử trận.
Thế trận lúc này đã làm cho quân Sparta hở toàn bộ sườn phải cho cánh trái mạnh mẽ của quân Thebes. Cánh trái quân Thebes đánh tạt sườn vào cánh trái quân Sparta, toàn bộ quân kỵ và cánh phải cũng phản công.
Trước sức mạnh của quân Thebes, vua lại tử trận, quân Sparta vừa kinh hãi vừa ngạc nhiên và buộc phải rút lui.
Sau trận Leuctra, hơn một nửa số quân tinh nhuệ của Sparta tử trận, vị thế của Sparta suy yếu nghiêm trọng. Quân Sparta
tuy nổi tiếng thiện chiến nhưng rất ít về mặt quân số, chủ yếu dựa vào liên minh với các cánh quân khác. Với sự sụt giảm nghiêm trọng quân số, người Sparta không còn có thể kêu gọi được liên minh như trước. Athens cùng các thành bang khác dần dần mạnh lên.
Ngay sau đó Alexander Đại Đế thống nhất các thành bang Hy Lạp, khởi đầu sự hưng thịnh của đế chế này. Ông đã đánh bại đế chế hùng mạnh nhất lúc bấy giờ là Ba Tư, mở cuộc chinh phục của mình khắp 3 lục địa, bao phủ diện tích 5 triệu km2. Alexander Đại Đế cũng sử dụng đội hình Phanlax huyền thoại, tất nhiên là có thêm những cách biến hóa như của Epaminondas.
Sparta đã phục tùng và không thể can thiệp vào những năm sau đó, khi Epaminondas bằng các cuộc viễn chinh liên tiếp đánh vào Peloponnese khiến Sparta hoàn toàn bất lực, đánh chiếm Messenia, nơi cung cấp lao động, có vị trí kinh tế và chính trị quan trọng.
Nhưng mục tiêu của Epaminondas không dừng lại ở đó: ông ta muốn làm bá chủ toàn Hy Lạp. Ý định của ông là thống nhất Hy Lạp, và dưới sự lãnh đạo của Thebes cho một cuộc chiến tranh chống lại Ba Tư. Để thống nhất, ông phải vượt mặt vua Ba Tư. Nhưng khi Epaminondas thất thủ tại Mantineia thì mong muốn của Thebes trở thành một cường quốc đã sụp đổ, vì nó không tương ứng với sức mạnh thực tế, và chỉ được duy trì bởi khả năng của ông.
Giai đoạn nổi lên của Thebes không có giá trị lâu dài với người Hy Lạp; nó chỉ đơn thuần gây ra một khoảng trống quyền lực của quốc gia khi Sparta bị tiêu diệt. Bất chấp những lời hứa của năm 377, Athens bắt đầu quay trở lại chính sách của liên minh đầu tiên trong giao ước với các thành viên, và vào năm 357 Chios, Rhodes và Cos, bị kích động bởi những âm mưu của Maussollus xứ Caria, nổi dậy và ly khai. Không điều gì có thể làm sáng tỏ tình trạng bất lực của Hy Lạp hơn thực tế là Athens năm 355 đã buộc phải im lặng trước đe dọa từ vua Ba Tư: một động thái từ vị vua mạnh mẽ
Artaxerxes III. Vì vậy, Athens cũng từ bỏ luôn vị trí của cường quốc có chủ quyền, và kết quả là sự hỗn loạn khắp Hy Lạp. Đối lập với người Hy Lạp là chế độ quân chủ Ba Tư. Chắc chắn đôi khi chế độ này phải chịu áp lực từ các cuộc nổi dậy của các satraps, nhưng với lực lượng lính đánh thuê Hy Lạp, nó liên tục duy trì sự
tồn tại của mình; sự thống nhất của đế chế là trên hết, trong khi ở Hy Lạp có một sự chia rẽ
sâu sắc, mà dường như không có cách nào dẫn đến sự thống nhất các lực lượng.
Satraps: người đứng đầu một vùng – thống đốc.
Nếu mối quan hệ giữa Hy Lạp và Ba Tư là không thoải mái, thì nội bộ của các thành bang cũng vậy. Cho dù thành viên dân chủ hay các nhà quân phiệt nắm giữ quyền lực, thì sự chống đối vẫn nổi lên khắp nơi, và sự thống trị của kẻ chiến thắng trở nên tàn bạo hơn bao giờ hết đối với kẻ bại trận. Các khuynh hướng cấp tiến của các nền dân chủ, chẳng hạn như Athens, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, ngày càng trở nên cực đoan hơn. Các toà án thực thi công lý theo giai cấp, không chỉ nhằm vào các đối thủ chính trị mà đặc biệt chống lại các chủ sở hữu tài sản, với mục tiêu là tịch thu tài sản của họ; đáy của nó là cuộc đấu tranh của người nghèo chống lại người giàu, và trong quá trình này, những đòi hỏi cấp tiến nhất đã được đặt ra, chẳng hạn như việc phân chia ruộng đất mới, xóa bỏ các khoản nợ... Ở các thành bang lớn, cuộc chiến giữa các giai cấp đã diễn ra
quyết liệt. Do đó, những người lưu vong và phá sản đã hình thành giai cấp vô sản ngày càng gia tăng mà không có phương tiện hoặc nghề nghiệp, như Socrates mô tả năm 380 và nhấn mạnh hơn vào năm 346.
Điều này trở thành mối nguy hiểm cho toàn bộ Hy Lạp. Việc thiếu việc làm đã buộc nhiều người chuyển sang làm lính đánh thuê nghiệp dư hoặc cướp biển khiến vùng biển không an toàn, nhưng hầu hết trong số họ đều muốn làm lính đánh thuê chuyên nghiệp phục vụ cho người có tiềm lực để được trả lương cao nhất. Hệ thống lính đánh thuê này là một sự đe dọa ảnh hưởng đến tất cả. Vàng của vua Ba Tư là điểm thu hút chính. Sau cú sốc của cuộc viễn chinh Thập vạn, ông ta ngày càng nỗ lực nhiều hơn để củng cố sức mạnh của mình bằng những đội quân lính đánh thuê Hy Lạp. Nhưng những nỗ lực của ông đã bị thất bại một phần, bởi vì những kẻ phản loạn nổi dậy và các quốc gia như Ai Cập cũng chiêu mộ lính đánh thuê Hy Lạp để chống lại ông. Hy Lạp
không chỉ cung cấp binh lính: nước này cũng sản xuất sĩ quan. Nhiều vị tướng nổi bật nhất thời đó, nếu họ thất nghiệp hoặc chán ghét điều kiện chính trị ở quê nhà, đã nhập ngũ và thường xoay chuyển tình thế trong việc tranh giành hoặc chống lại vua Ba Tư. Thật là lãng phí sức lực quốc gia vì lợi ích của người nước ngoài!
Việc dễ dàng tìm thấy lính đánh thuê có một hệ quả khác; ở Hy Lạp, quá nhiều cộng đồng dân cư bắt đầu tuyển dụng đội ngũ lính đánh thuê, để ít nhiều thoát khỏi nghĩa vụ quân sự. Ngay cả khi Athen đang tổ chức một đội quân vũ trang hạng nhẹ mới, có vẻ như các công dân của họ nghĩ rằng thay vì trải qua cuộc tập trận khắc nghiệt, họ nên tuyển dụng lính đánh thuê thì hơn. Kết quả không phải là sự suy tàn của tư tưởng cũ về nhà nước mà trước đây đã từng truyền cảm hứng cho người dân với ý thức tự hào rằng nhiệm vụ cao cả nhất là bảo vệ nhà nước bằng tài sản và máu của mình. Nhà nước ngày càng được coi như một thể chế
với nhiệm vụ chính là đảm bảo cho công dân một cuộc sống dễ dàng và thoải mái nhất có thể và tổ chức cho họ nhiều lễ hội hoành tráng. Do đó, tại Athens, sau khi xung đột Xã hội kết thúc, kết quả tất yếu là sự nổi lên của chủ nghĩa hòa bình, từ bỏ chính sách cường quyền của đế quốc, các lợi ích vật chất được thúc đẩy.
Không chỉ ý tưởng về thành bang (cái chung) bị hạ thấp trong cuộc đấu tranh khó khăn của cuộc sống thực tế, nó còn bị lung lay bởi lý thuyết của những trí thức hàng đầu. Chủ nghĩa cá nhân, được thuyết giảng trong cuộc cách mạng trí tuệ sâu rộng vào thế kỷ thứ năm, đã đe dọa nghiêm trọng đến cảm giác vốn đã thịnh hành cho đến nay về chủ thể nhà nước. Đối với luật pháp, các nhà hùng biện phản đối quyền tự nhiên của cá nhân, và tuyên bố luật chỉ là pháp lệnh thông thường của con người. Khi tuyên bố quyền của kẻ mạnh hơn, họ đã đánh vào gốc rễ của nền dân chủ. Việc chuyển dịch những học thuyết này vào thực tế có thể gây nguy hiểm, xuất hiện từ nỗ lực cố ý của
Akibiades. Socrates chắc chắn đã chống lại sự sai lệch này. Sự sụp đổ thực sự của đồng Pel, diễn ra vào thế kỷ thứ tư, dẫn đến sự củng cố của chủ nghĩa cá nhân và từ bỏ ý tưởng về một nhà nước thống trị. Quan niệm về một cá nhân đủ kiến thức và đạo đức để không cần nhà nước, đã khiến Antisthene, người sáng lập Trường phái Cynic, con trai của một phụ nữ Thracia, người không thể trở thành công dân của Athens với lý tưởng về một cộng đồng toàn nhân loại; và nảy sinh ý tưởng về vũ trụ, được phát triển thêm bởi học trò Diogenes của Sinope, người đã đặt ra từ cosmopolites –
“công dân toàn cầu”. Tuy có sự khác biệt với đế chế do Alexander tạo ra, nhưng ý tưởng về “công dân toàn cầu” là một trong những nhân tố của thế kỷ thứ tư TCN, đã chuẩn bị tâm trí cho người Hy Lạp trước đế chế vũ trụ của ông.
Trường phái Cynic (chủ nghĩa yếm thế) là một trường phái triết học Hy Lạp cổ đại. Triết lý của thuyết yếm thế cho rằng mục tiêu của cuộc đời là sống một cuộc sống đức hạnh hòa hợp với thiên nhiên.
Nhưng có một phản ứng chống lại khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân này. Nhiều nhà tư tưởng đã xuất hiện, những người, mặc dù chán ghét thời cuộc, sẽ không phủ nhận ý tưởng về
nhà nước. Ý tưởng táo bạo nhất là Plato, người Athen vĩ đại nhất thời bấy giờ, đã vẽ ra trạng thái lý tưởng về nhà nước trong Republic. Sau đó, ông nhận ra lý tưởng này chỉ phù hợp với các vị thần, và vào cuối đời, ông đã vẽ ra một bức tranh lý tưởng mới, chú ý nhiều hơn đến thế giới thực - thế giới Laus, trong đó ông đặt lên hàng đầu sự gắn kết pháp lý chặt chẽ mà ông đã từ chối trong Republic.
Republic (Cộng hòa - “công việc chung”) là một hình thức chính phủ trong đó quốc gia được coi là “vấn đề chung”, không phải là mối quan tâm riêng hay tài sản của những người cầm quyền. Các vị trí quyền lực chính trong một nước cộng hòa đạt được thông qua dân chủ chứ không phải do bất kỳ
dòng họ hoặc nhóm nhất định nào chiếm giữ. Nó đã trở thành hình thức chính phủ đối lập với chế độ quân chủ.
Tính đến năm 2017, 159 trong số 206 quốc gia có chủ quyền trên thế giới sử dụng từ “cộng hòa” như một phần của tên chính thức - không phải tất cả những nước này đều là nước cộng hòa theo nghĩa có chính phủ được bầu cử, cũng không
phải từ “cộng hòa” được sử dụng trong tên của tất cả các quốc gia có chính phủ dân cử.
Platon (tiếng Hy Lạp: Platōn, có nghĩa là “Vai Rộng”, hay còn được Anh hóa là Plato, 428/427 hay 424/423 - 348/347 TCN) là nhà triết học người Athen trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại, người sáng lập trường phái tư tưởng Platon, và Học viện - cơ sở giáo dục đại học đầu tiên ở thế giới phương Tây.
Ông được coi là nhân vật quan trọng trong lịch sử triết học phương Tây và Hy Lạp cổ đại, cùng với người thầy của mình, Socrates, và học trò nổi tiếng nhất của ông, Aristotle. Plato cũng thường được coi là một trong những người sáng lập ra tôn giáo và tâm linh phương Tây. Những cái gọi là chủ nghĩa Tân Platon của các nhà triết học như Plotinus và Porphyry ảnh hưởng rất lớn đến Kitô giáo qua các Giáo Phụ như Augustine. Alfred North Whitehead từng lưu ý: “đặc điểm chung nhất của truyền thống triết học Châu Âu là nó bao gồm một loạt các chú thích của Plato.”
Plato là người phát minh ra thể loại đối thoại bằng văn bản và các hình thức biện chứng trong triết học. Plato cũng được coi là người sáng lập ra triết học chính trị phương Tây. Đóng góp nổi tiếng nhất của ông là lý thuyết về hình thức được biết đến bởi lý trí thuần túy, trong đó Plato trình bày một giải pháp cho vấn đề phổ quát được gọi là chủ nghĩa Platon (còn được gọi một cách mơ hồ là chủ nghĩa hiện thực Platon hay chủ nghĩa duy tâm Platon). Ông cũng được nhắc đến trong tình yêu Platon và khối đa diện đều Platon.
* Trong toán học, các khối đa diện Platon là các đa diện lồi đều. Trên thực tế chỉ có đúng 5 đa diện Platon đó là tứ diện
đều (tetrahedron), hình lập phương (hexahedron), bát diện đều (octahedron), thập nhị diện đều (dodecahedron) và nhị thập diện đều (icosahedron).
* Tình yêu Platon: là tình yêu thuần túy không bao gồm tình dục. Nó được đặt theo tên của triết gia Hy Lạp Plato, mặc dù triết gia không bao giờ sử dụng thuật ngữ này.
Những ảnh hưởng về triết học lớn nhất của chính ông thường được cho là cùng với Socrates, Pythagoras tiền Socra, Heraclitus và Parmenides, mặc dù một số tác phẩm của những người đi trước ông vẫn còn tồn tại và phần lớn những gì chúng ta biết về những nhân vật này ngày nay bắt nguồn từ chính Plato. Không giống như tác phẩm của gần như tất cả những người cùng thời với ông, toàn bộ tác phẩm của Plato được cho là vẫn tồn tại nguyên vẹn trong hơn 2.400 năm. Mặc dù mức độ nổi tiếng của chúng dao động trong những năm
qua, các tác phẩm của Plato chưa bao giờ thiếu độc giả kể từ khi chúng được viết ra.
Mặc dù xuất phát điểm và kết luận của các nhà lý thuyết khác nhau nhiều, nhiều người trong số họ đồng ý ở một điểm, chế độ quân chủ là
hình thức chính phủ lý tưởng. Sự thức tỉnh về ý tưởng chế độ quân chủ là một trong những ảnh hưởng đã mở đường ở Hy Lạp cho những thành công của Philip và Alexander. Nó có thể bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân của thế kỷ thứ năm. Trên thực tế, nó được thúc đẩy không chỉ bởi sự suy yếu của thành bang mà còn bởi sự xuất hiện của những nhà cai trị mạnh bên ngoài Hy Lạp, những người bảo vệ hoặc nâng cao các lợi ích của Hy Lạp, chẳng hạn như Dionyriu I của Syracuse, người bảo vệ Người Hy Lạp phương tây chống lại Carthage, hay Jason của Pherae, chúa tể mạnh mẽ của Thessaly, hay thậm chí là Euagorat của Cyprus. Người đầu tiên trong số các nhà lý thuyết đưa ra giải pháp chế độ quân chủ là mô hình Cynic của Antisthene (đã nói ở trên). Kinh nghiệm của thời đại là nhìn lại quá khứ để tìm cơ sở cho các yêu cầu của tương lai, và Antisthene đã mô tả Heracles như một hình mẫu - ân nhân của nhân loại; và từ lịch sử, ông đã chọn Cyrus vĩ đại (vị Hoàng đế khai quốc của Đế chế Ba Tư), và khắc họa ông như một
huyền thoại - vị vua lý tưởng quan tâm đến mọi thần dân. Xenophon cũng coi Cyrus là hình mẫu lý tưởng của người thống trị thế giới, đại diện cho chế độ quân chủ, một hình thức chính phủ công bằng nhất, bởi vì nó đơn thuần - trái ngược với sự cào bằng máy móc ảm đạm của các nền dân chủ. Khi đã cao tuổi Socrates, triết gia vĩ đại, cho rằng chế độ quân chủ sẽ chữa trị cho những đau khổ hiện tại. Trong bài viết gửi cho hoàng tử Síp Nicocles (vào những năm bảy mươi của thế kỷ thứ tư TCN), ông nói khá rõ ràng về lợi thế của chế độ quân chủ. Cuối cùng thì chính ý tưởng quân chủ này đã dẫn ông đến với Philip.
Ngay cả trong nền chính trị ảm đạm của nền văn minh Hy Lạp thế kỷ thứ tư vẫn tiếp tục truyền thống vĩ đại của thế kỷ thứ năm; cả trong lĩnh vực trí tuệ và nghệ thuật, nó đã tạo ra những thành tựu tuyệt vời, Athens dù có sụp đổ về mặt chính trị vào cuối Chiến tranh Peloponnesian, vẫn duy trì vị trí trung tâm hàng đầu mà nó đã giành được vào thế kỷ thứ
năm từ Ionia. Nếu nền văn minh Attic mang đặc điểm Hy Lạp, thì đế chế Attic của thế kỷ thứ năm, bất chấp thời gian tồn tại ngắn ngủi đã có đóng góp không nhỏ. Từ Athens, người đứng đầu một đế chế với hàng trăm thành phố phụ thuộc, nền văn minh Attic đã lan rộng ở Hy Lạp và trên khắp các hòn đảo của Biển Aegean: Luật pháp và thể chế Attic, lời nói và phong tục của Attic đã lan xa, đặc biệt là ở Ionia. Nhưng ảnh hưởng này không chỉ giới hạn trong đế chế. Vì Athens, với bến cảng Piraeus, đã trở thành trung tâm kinh tế không chỉ của các đồng minh mà của thế giới Hy Lạp, nó cũng đã trở thành trung tâm của nền văn minh, có sức hút đối với những trí thức và nghệ sĩ lỗi lạc từ mọi nơi. Các nhà hùng biện được tìm thấy ở Athens, diễn thuyết bằng ngôn ngữ Attic, thậm chí còn giúp xây dựng phong cách văn xuôi Attic, mặc dù hiếm khi một nhà hùng biện là người gốc Athens.
Tất cả những ảnh hưởng này đã ăn quá sâu để có thể xóa bỏ bởi sự sụp đổ của đế chế. Socrates, đã nói một cách đầy tự hào rằng thành phố quê hương đã vượt xa những nơi khác về tư duy và ngôn ngữ — về triết học và hùng biện — những học giả của nó đã trở thành thầy của những người khác, điều đó khiến ngôn ngữ Hy Lạp không còn là của riêng
mà đã là phương thức suy nghĩ, và điều đó được gọi là Hellenes.
Trong thần thoại Hy Lạp, Hellen là tổ tiên của Hellenes. Tên của ông cũng có nghĩa là tiếng Hy Lạp, một người gốc Hy Lạp hoặc liên quan đến văn hóa Hy Lạp, và nguồn gốc của tính từ “Hellenic”.
Trong những thập kỷ tiếp theo, văn hóa Hy Lạp đã thâm nhập sâu hơn vào các khu vực bên ngoài. Hiện tượng này có tầm quan trọng lớn đối với sự hiểu biết của chúng ta về di sản của Alexander.
Chính tình trạng vô vọng ở đất mẹ, đã khiến nhiều thành phần sôi nổi tìm kiếm hy vọng ở nước ngoài. Chúng ta đã nói về quần chúng vượt biển làm lính đánh thuê ở Tiểu Á hoặc Ai Cập để chống lại Ba Tư. Hàng ngàn lính đánh thuê, những người sống ở nước ngoài trong nhiều thập kỷ, là lực lượng quan trọng, dù có ý thức hoặc vô thức, góp phần vào việc truyền bá phong tục và cuộc sống của người Hy Lạp ở các vùng đất xa lạ. Các nghệ sĩ cũng tham gia vào quá trình này. Ở Peloponnese, nơi các
trường Sicyon phát triển rực rỡ, vào đầu thời kỳ này chúng ta nghe thấy những công trình như ngôi đền nổi tiếng Athena Alea ở Tegea, được xây dựng bởi Scopas, nổi tiếng về kích thước và vẻ đẹp, và những tòa nhà ở Hieronof Epidauru; nhưng Athen vẫn còn nghèo nên các nghệ sĩ Attic đã ra nước ngoài.
Alea là một văn bia của nữ thần Hy Lạp Athena, nổi bật trong thần thoại Arcadian, theo đó bà được thờ phụng tại Alea, Mantineia và Tegea. Alea ban đầu là một nữ thần độc lập, nhưng cuối cùng bị đồng hóa với Athena. Một bức tượng của Athena Alea tồn tại trên con đường từ Sparta đến Therapne.
Nguồn cung từ Hy Lạp đã tìm thấy nhu cầu tương ứng; vì các satraps và những người cai trị ở Tiểu Á muốn tô điểm cho các thành phố của họ bằng nghệ thuật Hy Lạp đã thu hút các nhà thơ, nhạc sĩ và nhà hùng biện Hy Lạp đến với triều đình của họ. Nguyên nhân của hiện tượng này, được coi là “tiền thân của chủ nghĩa Hy Lạp”, được tìm thấy trong nhiều thế kỷ của nền văn minh Hy Lạp, tiếp tục từ Ionia, đã thâm nhập sâu vào Lydia, Caria và Lycia. Người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho trào lưu này
là Maussollu của Caria. Ông đã mở rộng và cho trang trí những cung điện và đền đài sang trọng được thực hiện bởi các nghệ nhân Hy Lạp. Là một người ngưỡng mộ văn hóa Hy Lạp, nên khi ông qua đời vào năm 353, góa phụ
Artemisia đã tổ chức một cuộc thi giữa các nhà thơ và các nhà hùng biện Hy Lạp tại đám tang của ông, và bắt đầu việc xây dựng lăng mộ khổng lồ mà có lẽ chính ông đã lên kế hoạch. Nó là một trong số Bảy kỳ quan của Thế giới cổ đại và được gọi là Lăng mộ, một thuật ngữ vẫn được áp dụng cho những ngôi mộ lớn. Lăng mộ là tác phẩm của nghệ nhân hàng đầu Hy Lạp, kiến trúc sư Pytheus và Satyas, trang trí điêu khắc bởi Scopas và Lcochares. Từ đó cái tên Maussollu được hiểu là “Lăng mộ” –
Mausoleum.
Một ví dụ phương Đông khác về nghệ thuật Hy Lạp trong thời kỳ này là quan tài bằng đá cẩm thạch, được làm bởi nghệ nhân Attic cho các vị vua thế kỷ thứ tư của Sidon. Nhưng có
lẽ ví dụ nổi bật nhất về sự du nhập văn hóa Hy Lạp vào những vùng đất này là do một chư hầu của Ba Tư, Hermias Atameus, người thân thiết với Platonisu Erastu và Goriscus, vì lòng biết ơn đã gán tên của họ cho thành phố của mình. Sau cái chết của Plato, Aristotle định cư ở đó và dành ba năm quan trọng của cuộc đời để nghiên cứu và giảng dạy, trong tình bạn thân thiết với Hermias.
Trong khi chúng ta có thể quan sát sự khởi đầu của quá trình thâm nhập văn hóa Hy Lạp ở phương Đông, cũng như ở Ý, Carthage và phương Tây, ý tưởng về một cuộc chiến tranh giữa một Hy Lạp thống nhất chống lại Ba Tư đã nảy sinh cùng lúc và được nhân lên mạnh mẽ. Ý tưởng này, có tầm quan trọng lớn đối với sự hiểu biết của Philip và Alexander: vì chính họ, vì lợi ích của chính sách, đã chấp nhận ý tưởng theo cách riêng của họ, và nó đã được thực thi. Trong cuộc chiến tranh Ba Tư vĩ đại, chính sự thể hiện của cảm giác dân tộc mạnh mẽ đó đã góp phần quyết định vào sự tiến bộ
đáng kinh ngạc của quốc gia trong thế kỷ thứ năm.
Sự phản đối này chắc chắn sẽ được cảm nhận rõ hơn bởi những người đang cố gắng ngăn chặn các cuộc nội chiến liên miên của người Hy Lạp, khi mà Ba Tư lại bắt đầu can thiệp vào Hy Lạp. Họ cũng không bị lạc lối bởi thực tế là trong khi đó các nhà hùng biện, bắt đầu tuyên bố quyền bình đẳng của tất cả mọi người và phân biệt Hy Lạp với những kẻ man rợ (Ba Tư). Người đầu tiên công bố điều đó một cách công khai là Gorgias, khi quân Hy Lạp được tập hợp để tham dự Thế vận hội tại Olympia - thật không may, chúng ta không biết nó diễn ra vào năm nào - đã thúc giục họ hòa hợp và chiến đấu chống lại Ba Tư, và kêu gọi họ không chọn các thành bang Hy Lạp mà là lãnh thổ của người Ba Tư như là giải thưởng.
Gorgias là nhà triết học người Hy Lạp. Ông là nhân vật chính trong đối thoại Gorgias do Plato viết.
Olympia là một nơi chứa đựng các công trình văn hóa của Hy Lạp cổ đại ở Elis, địa điểm tổ chức các Thế vận hội trong thời
kỳ cổ đại, về tầm quan trọng ngang hàng với Pythian Games được tổ chức ở Delphi.
Lý tưởng của Gorgias thường xuyên được nhắc đến bởi các nhà hùng biện sau ông, và chúng đã khơi dậy sự quan tâm của công chúng. Lần
đầu tiên nó được Isocrates, học trò của Gorgias nâng lên thành tầm quan trọng lịch sử. Vào năm 380, sáu năm sau hiệp ước “Hòa bình của Nhà vua”, ông đã cho ra đời kiệt tác của mình, đã tạo nên tiếng tăm với tư cách là nhà văn chính trị đầu tiên. Về hình thức, nó là một bài phát biểu trước lễ khai mạc Olympic, theo mô hình của Gorgias; trên thực tế, nó là một cuốn sách nhỏ đã được lưu hành và đọc khắp Hy Lạp.
Isocrates đã trả lời câu hỏi chưa có lời giải bởi những người tiền nhiệm, bằng câu trả lời kép, Athens và Sparta, những người đầu tiên cần hòa giải vì mục đích chung. Tuy nhiên, bằng cách miêu tả một cách dài dòng về sự phục vụ tuyệt vời mà Athens đã cống hiến cho Hy Lạp, cuối cùng ông đã tìm cách chứng tỏ Athens có quyền lãnh đạo cao hơn. Để chắc chắn, Athens trước hết phải kiểm soát các vùng biển một lần nữa, và với quan điểm này, ông đã rất khéo léo đưa ra ý tưởng về một liên minh hải quân Attic mới.
Isocrates là một trong mười nhà hùng biện lớn, có ảnh hưởng nhất ở Hy Lạp.
Ông biện minh cuộc chiến chinh phục Ba Tư sẽ xóa bỏ sự nghèo đói của Hy Lạp, căn nguyên của mọi tranh chấp — ngoài ra, từ quan điểm danh dự quốc gia, hiệp ước “Hòa bình của Nhà vua” là nổi hổ thẹn phải bị hủy bỏ và người Hy Lạp ở Tiểu Á phải được tự do.
Lợi ích cuối cùng của cuộc chiến là người Hy Lạp sẽ đảm bảo một nền hòa bình vĩnh viễn.
Quan điểm của ông đã nhận được sự hưởng ứng vì nó liên quan đến vị thế cường quốc biển mới của Athens; trong ba năm sau đó, và chắc chắn một phần do ảnh hưởng của ông đối với dư luận, liên đoàn hải quân Attic thứ hai được thành lập. Mặt khác, ý tưởng về một sự hòa giải giữa Athens và Sparta và sự chia sẻ quyền lãnh đạo trên biển và đất liền, mà ông đã nhiệt tình thúc giục, đã được chứng minh là không thực tế. Vì Sparta sẽ không dễ dàng từ bỏ quyền chỉ huy tối cao cho Athens. Trong những năm tiếp theo, khi sự đối kháng của các thành bang hàng đầu ngày càng bộc lộ sâu sắc hơn, Isocrates sớm nhận ra Hy Lạp sẽ không bao giờ đạt được hòa giải và từ đó đáp ứng các điều kiện cho một cuộc chiến tranh chung. Vì vậy, ông ấy, giống như nhiều người khác như chúng ta đã thấy, đã chuyển sang giải pháp quân chủ, và nhìn quanh thế giới Hy Lạp để tìm một người đàn ông mạnh mẽ, người
không bị ràng buộc bởi luật pháp và hiến pháp của một thành bang, có quyền lực và thiên hướng để nhận ra ý tưởng thống nhất. Ông đã liên tiếp trình bày quan điểm của mình cho một số nhà cai trị, cho Jason của Pherae, người thống trị mạnh mẽ của Thessaly, được cho là ủng hộ cuộc chiến tranh với Ba Tư, và sau đó là Dionysius I, người cai trị vĩ đại của phương Tây. Nhưng người đầu tiên bị sát hại ngay sau đó (370), còn người thứ hai đã sớm qua đời (367).
Tuy nhiên, Isocrates có thể chờ đợi. Bất chấp thất vọng, ông vẫn kiên trì theo đuổi ý tưởng thống nhất Hy Lạp. Trước sự bành trướng của Macedonia dưới thời Vua Philip, ông nhận thấy ở phía bắc có một thế lực lớn đang phát triển. Do đó, vào năm 346 TCN, sau nhiều năm chiến tranh, Athens đã ký hiệp ước hòa bình với Philip dựa trên quan điểm của Isocrates — lúc đó đã chín mươi — trong niềm vui lớn về sự khôi phục hòa bình, đã viết một bức thư ngỏ cho nhà vua, đặt trước Philip lý
tưởng thống nhất với mong mỏi hòa giải người Hy Lạp và dẫn dắt họ chống lại Ba Tư, kẻ thù truyền thống. Philip này là ai, mà Isocrates có thể hy vọng sẽ thực hiện được ước muốn của ông.
Sự khởi đầu của lịch sử Macedonia bị bao phủ hoàn toàn trong bóng tối. Có một cuộc tranh cãi gay gắt về vấn đề dân tộc học, liệu người Macedonia có phải là người Hy Lạp hay không. Khoa học ngôn ngữ chỉ lưu trữ rất hạn chế số lượng ngôn từ Macedonia, và việc khám phá khảo cổ học Macedonia hầu như chưa bắt đầu. Tuy nhiên, khi chúng tôi xem xét các điều kiện chính trị, tôn giáo và đạo đức của người Macedonia, niềm tin của chúng tôi được củng cố rằng họ là một chủng tộc Hy Lạp và giống với người Dorian. Ở lại cực bắc, họ không thể
tham gia vào nền văn minh tiến bộ của các chủng tộc tiến xa hơn về phía nam, và vì vậy, họ không được coi là người Hy Lạp, mà như những kẻ mọi rợ.
Khi Alexander I của Macedon, mặc dù là một chư hầu của Xerxes, đã tham gia Chiến tranh Ba Tư, đưa ra nhiều bằng chứng về sự đồng cảm của mình với chính nghĩa Hy Lạp, muốn tham gia Thế vận hội Olympic mà chỉ có người
Hy Lạp mới có quyền tham dự, lúc đầu ông đã từ chối với tư cách là một kẻ man rợ, và chỉ khi bằng một câu chuyện hư cấu táo bạo, ông truy tìm lại phả hệ của nhà mình, có quan hệ với nhà Argeadae của Argos, ông mới được thừa nhận. Kể từ đó, các vị vua của Macedonia đã được công nhận là người Hy Lạp, và là hậu duệ của Heracles; nhưng, như trước đây, dân chúng vẫn bị coi là những kẻ man rợ.
Mặc dù trong thời gian đó, nhiều vị vua đã làm rất nhiều để đưa văn hoá Hy Lạp vào đất nước của họ. Ngay cả trong thời của Philip, người Hy Lạp đã thấy ở Macedonia một dân tộc ngoại lai không phải người Hy Lạp, và chúng ta phải nhớ điều này nếu chúng ta muốn hiểu lịch sử của Philip và Alexander, đặc biệt là sự phản kháng và những trở ngại mà họ gặp phải từ người Hy Lạp. Vấn đề quan trọng hơn nhiều so với niềm tin hiện đại của chúng ta rằng người Hy Lạp và người Macedonia là anh em; điều này đều không được biết đến đối với cả
hai, và do đó có thể không có ảnh hưởng chính trị.
Hoàn toàn khác với sự chia cắt cục bộ của hai dân tộc, ấn tượng man rợ mà người Macedonia tạo ra đối với người Hy Lạp được giải thích bởi mối quan hệ thân thiết mà người Macedonia đã sống trong nhiều thế kỷ với những người hàng xóm man rợ của họ, người Illyrian (tổ tiên của người Albania ngày nay) ở phương Tây, và người Thracia ở phương Đông. Ngay cả vùng đất bằng của Macedonia, phía bắc của núi Olympus, trên vùng hạ lưu của các con sông Haliacmon và Axius, nơi mà người Macedonia đã xâm nhập vào trong cuộc tiến công về phía đông từ núi Bermius ra khỏi vùng miền núi Thượng Macedonia, sau đó bị người Illyrian chiếm đóng ở phần phía tây và ở phía đông bởi người Thracia. Người Macedonia phải giành lấy nó dần dần bằng cách chiến đấu. Điều này được chứng minh qua tên của hai thủ đô Macedonia, Aegae và Pella, lúc đầu đặt tên theo tiếng Illyrian là Edessa (thành phố nước)
và Bunomus. Mặc dù hầu hết các cư dân cổ đại đã bị trục xuất, nhưng chắc chắn, như thường lệ, nhiều người ở lại, và tất nhiên, theo thời gian, ở bất kỳ mức độ nào trong nền văn minh, bị đồng hóa với các tầng lớp thấp hơn của những kẻ chinh phục - điều tương tự cũng xảy ra với người Hy Lạp, những người đi xa hơn về phía nam và người Anatolian ban đầu được tìm thấy ở đó. Do đó, ảnh hưởng mạnh mẽ của người Illyrian và người Thracia có thể được nhận ra trong cách nói và cư xử của người Macedonia. Tuy nhiên, những điều này chỉ là chuyện vặt so với ký tự Hy Lạp của quốc tịch Macedonia; ví dụ, tên của người Macedonia, đặc biệt là của các hoàng tử và quý tộc, hoàn toàn là tiếng Hy Lạp.
Núi Ólympos hay núi Olympus, là ngọn núi cao nhất tại Hy Lạp với độ cao 2.919 m. Do chân núi nằm gần như ngang với mực nước biển, nên nó là một trong những ngọn núi cao nhất tại châu Âu khi tính theo độ cao tương đối từ chân tới đỉnh.
Núi Olympus nằm tại tọa độ 40°05 Bắc 22°21 Đông, trong lòng Hy Lạp. Nó cách Thessaloniki, thành phố lớn thứ hai của Hy Lạp, khoảng 80 km.
Núi Olympus đáng chú ý vì sự giàu có về quần thể thực vật của nó với một số loài đặc hữu. Đỉnh cao nhất trên núi Olympus là Mitikas, trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “mũi”. Mitikas là đỉnh núi cao nhất tại Hy Lạp, đứng thứ hai là Skolio
(2.912 m). Các cuộc leo núi đều bắt đầu từ thị trấn Litochoro, còn được gọi là thành phố của các thánh thần do vị trí của nó tại chân núi.
Trong thần thoại Hy Lạp, núi Olympus là nhà của Mười hai vị thần, các vị thần chính trong đền bách thần (pantheon) ở Athen. Người Hy Lạp cổ đại cho rằng nó được xây dựng bằng các lâu đài pha lê mà trong đó các vị thần, như thần Zeus (chúa tể của các vị thần) đã sinh sống. Trong thần thoại Hy Lạp người ta cũng kể rằng sau khi nữ thần Gaia (nữ thần mẹ đất) sinh ra các thần khổng lồ (Titan - tổ tiên của các thần) thì họ đã dùng các ngọn núi ở Hy Lạp làm ngai vàng do họ quá to, và Cronus (vị Titan trẻ nhất và hùng mạnh nhất) đã ngồi trên núi Olympus. Ý nghĩa của từ Olympus không được rõ ràng, và nó có thể có nguồn gốc trong ngôn ngữ tiền Ấn-Âu.
Trên hết, các đặc điểm cơ bản của thể chế chính trị Macedonia không chỉ là tiếng Hy Lạp mà là tiếng Hy Lạp nguyên thủy. Chế độ quân chủ phụ hệ cũ đối với người dân và quân đội kéo dài ở đây cho đến thời của Philip và Alexander, là một chế độ quân chủ đã từng tồn tại ở tất cả các chủng tộc Hy Lạp, cho đến khi nó phải nhường chỗ cho các hình thức chính phủ quý tộc sau sự tan rã của người Polis. Một trong những yếu tố giải thích cho sự duy trì lâu dài của chế độ quân chủ cũ là tư tưởng tiến bộ của người Polis đã không xâm nhập vào Macedonia. Một điểm khác là quyền lực của nhà vua - vị tướng tối cao, quan tòa và thầy tế lễ, giống với cộng đồng Hy Lạp cổ đại, mà trong đó vai trò của nhà vua - vốn đã từng tồn tại trong thời nguyên thủy Hy Lạp - duy trì cho đến thời Alexander, và xa hơn nữa, trong việc tập hợp quân đội - vốn có những đặc quyền nhất định. Đội quân này, mặc dù bị ràng buộc bởi quyền cha truyền con nối của nhà Argead, nhưng có quyền và nghĩa vụ bầu vị vua mới, nghĩa là xác nhận ông ta bằng cách
tung hô. Không ai được coi là vị vua hợp pháp ngoài người được cả hội đồng quân đội công nhận. Một quyền khác mà quân đội sở hữu là các phiên tòa xét xử tội phản quốc phải được tiến hành trước nó. Hội đồng quân đội xử lý cả
bản án và việc thi hành. Ở các khía cạnh khác, nhà vua là người đại diện cho công lý.
Nhưng Argead ban đầu không phải là lãnh chúa của cả đất nước Macedonia. Ban đầu là các bộ lạc ở Thượng Macedonia, Lyncestae, Orestae và Elimiotae có hoàng tử hoặc vua của riêng họ. Những cuộc chiến tranh đã đưa họ vào nhà nước Macedonia, chỉ được hoàn thành dưới thời Philip, từ đó nhà nước Macedonia thống nhất đã được hình thành.
Quân đội ban đầu bao gồm giới quý tộc gắn liền với đất đai, những người này phải phục vụ hoàng tử hoặc vua của họ trên lưng ngựa. Mối quan hệ cá nhân của họ với nhà vua được thể hiện bằng tước hiệu tộc trưởng Hetairoi - những tín đồ của nhà vua, một danh hiệu nhắc lại các điều kiện của Hy Lạp thời kỳ đầu. Khi
nhà vua thành lập một hội đồng gồm một số Hetairoi này, các thành viên được gọi là “Hetairoi của đoàn tùy tùng hoàng gia”. Nhưng đây không phải là nguồn gốc của danh hiệu, tước hiệu tôn vinh Homeric cũ vẫn tồn tại ở Macedonia trong nhiều thế kỷ. Đó là điển hình của mối quan hệ của nhà vua với giới quý tộc, rằng ông không bị phân biệt với họ qua cách ăn mặc. Ông không có biểu tượng đặc biệt của hoàng gia, và màu tím của chlamys (áo choàng) và ca-ra-vat (mũ rộng vành) cũng được mặc bởi giới quý tộc. Bên cạnh đội kỵ binh quý tộc này, những người nông dân tự do và những người chăn cừu có thể thỉnh thoảng đến để tham gia chiến đấu, nhưng chỉ đến thế kỷ thứ tư, họ dường như đã được tổ chức thành bộ binh chính quy, được tuyển chọn và bố trí, giống như kỵ binh, theo các quận. Sau đó, danh hiệu danh giá Hetairoi cũng được trao cho bộ binh, dưới hình thức Pezhetairoi (bạn đồng hành). Theo một tuyên bố không rõ ràng, điều này được thực hiện dưới thời Alexander I, anh trai của Philip; tuy nhiên, nó
chỉ được hoàn thành khi Philip tổ chức lại quân đội. Dù sao đi nữa, sự ra đời của danh hiệu Pezhetairoi biểu thị rằng bộ binh từ đó có cùng mối quan hệ cá nhân với nhà vua mà kỵ binh quý tộc từ lâu đã có. Có lẽ chỉ sau khi được phong tước hiệu Pezhetairoi, bộ binh mới được phép tham gia tập hợp quân đội và được hưởng các đặc quyền của quân đội.
Với việc trao các quyền và tự do, chế độ quân chủ Macedonia hoàn toàn dựa vào người dân. Nếu đôi khi có xích mích giữa nhà vua và giới quý tộc, thì toàn cõi Macedonia đều trung thành với nhà vua và tỏ ra tôn trọng ông. Theo phong tục, người lính phải cởi mũ sắt khi đang nói chuyện với vua, mặt khác nhà vua có quan hệ đồng chí với các sĩ quan của mình. Người Macedonia là một dân tộc khỏe mạnh, được đào tạo không giống người Hy Lạp, mà giống như người La Mã, bằng nghĩa vụ quân sự. Nhưng bên cạnh nhiều điều tốt, họ có nhiều thói quen thô bạo hơn, vẫn được giữ lại từ thời trước, chẳng hạn như uống rượu quá mức, có
xu hướng khiến họ xuất hiện như những kẻ man rợ trong mắt người Hy Lạp. Điều này là do người Macedonia đã phát triển thành một thành bang lớn đáng tự hào, với ý thức dân tộc phát triển cao đã coi thường người Hy Lạp. Thực tế này cũng có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự hiểu biết về lịch sử sau này.
Việc tiến xa hơn đến biên giới phía đông của Macedonia, mà dưới thời Alexander I đã tới sông Strymon (Struma), đã bị chặn lại bởi sự phát triển rực rỡ của Athens, đứng đầu Liên minh Delian. Athens đã thành lập liên minh trên bờ biển phía bắc của Aegean bao gồm cả
bờ biển Macedonia, làm chủ thể cho các thành phố trên bán đảo Chalcidice, và cuối cùng thành lập thuộc địa Amphipolis gần cửa sông Strymon, nhanh chóng trở nên thịnh vượng. Nhưng khi thảm họa khủng khiếp ở Sicily (413) khiến Athens sụp đổ với tư cách là một cường quốc, và Macedonia giống như các quốc gia khác đã tìm thấy cơ hội, Archeclaus, người sau đó lên ngôi, đã lợi dụng tình hình để nâng
cao tầm quan trọng về quân sự và chính trị cho thành bang của mình; ông đã xây dựng các pháo đài, đường quân sự và tổ chức lại cơ bản quân đội, đặc biệt chú ý đến trang bị của kỵ
binh. Theo Thucydides, ông đã làm tốt hơn tám người tiền nhiệm của mình. Sự can thiệp của ông vào các cuộc xung đột của giới quý tộc Thessalian là minh chứng cho sức mạnh nổi bật ngày càng tăng của Macedonia. Ông cũng có công lao trong việc giới thiệu văn hóa Hy Lạp, thậm chí còn kỹ lưỡng hơn cả nỗ lực của Alexander I.
Tại triều đình ở thủ đô mới Pella, ông đã thành công trong việc phát triển một đời sống tri thức phong phú, bằng cách mời đến đó những nhà thơ và nghệ sĩ nổi tiếng nhất đương thời. Euripides đã ở bên ông những năm cuối đời, và tại đó đã viết Bacchae để vinh danh ông. Timotheus, người sau đó được đánh giá cao với tư cách là nhạc sĩ và nhà thơ, là một trong những khách mời; ông đã khiến cung điện của
mình tại Pella được trang trí bằng những bức tranh của Zeuxis.
Zeuxis là một họa sĩ nổi tiếng ở thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên.
Tại Dion ở Pieria dưới núi Olympus, nơi có một sự sùng bái lâu đời của các Muses, ông đã tổ chức các cuộc thi để vinh danh thần Zeus và các Muses (thần) trên đỉnh Olympus. Chúng ta không biết các quý tộc Macedonia có thái độ như thế nào đối với việc giới thiệu văn hóa Hy Lạp của nhà vua. Có thể là không dễ dàng
để họ hòa nhập. Nhưng lịch sử sau đó cho thấy hạt giống đã không được gieo một cách vô ích.
Uy tín mà Archelaus giành được đã không tồn tại được lâu. Sau khi bị giết (399), bắt đầu một thời kỳ tai họa kéo dài bốn mươi năm. Các cuộc giao tranh khốc liệt bên trong và bên ngoài, các ứng viên cạnh tranh cho ngai vàng, và cuộc xâm lược từ Illyria và Thrace đã làm suy yếu nhà nước Macedonia và cuối cùng nó phải phụ thuộc vào các thành bang lớn khác, dưới quyền Amyntas họ phải cống nạp cho người Illyria. Sự tồn tại của Macedonia bị đe dọa khi vào năm 359, Vua Perdiccas, con trai của Amyntas, bị người Illyria đánh bại trong một trận chiến lớn và bị giết cùng 4000 người của ông. Từ mọi phía, kẻ thù tràn vào, và không dưới ba kẻ giả danh, được hỗ trợ bởi các thế lực ngoại bang, đã chống lại Philip, em trai út của Perdiccas, người nắm quyền nhiếp chính thay cho cháu trai Amyntas, cậu con trai nhỏ của Perdiccas. Vào thời điểm quan trọng nhất của lịch sử Macedonia, Philip, khi đó hai mươi
bốn tuổi, đã hành động với nghị lực và kỹ năng đáng kinh ngạc. Bằng những chiến công xuất chúng và bằng kỹ năng ngoại giao khôn khéo và tinh tế nhất, ông đã nhanh chóng thành công trong việc giải quyết các mối nguy hiểm từ bên ngoài và bên trong, và được quân đội Macedonia tôn vinh là vua.
Trong năm đầu tiên trị vì Philip đã đạt đến đỉnh cao quyền lực. Khả năng phi thường của ông với tư cách là một tướng lĩnh, một chính khách và một nhà ngoại giao, đã giúp cứu Macedonia. Tuy nhiên, sự vĩ đại của người đàn ông này vẫn chưa được hiểu cho đến thế kỷ 19. Không chỉ danh tiếng của ông bị che lấp bởi những thành tựu lấp lánh của con trai Alexander. Nhà hùng biện vĩ đại nhất của Hy Lạp, Demosthenes, là đối thủ chính trị của ông, đã cuồng nhiệt tấn công ông trong các bài phát biểu có một không hai của mình, và vì lợi ích của bản thân, đã trình bày cho người Athens một bức tranh - bị bóp méo bởi lòng thù hận - cho Philip là “người man rợ”. Đặc
biệt là trong thời điểm mọi người đều bị lóa mắt bởi những thành công của Demosthenes, và chấp nhận chúng theo nghĩa đen, đánh giá thành tựu của Philip hoàn toàn theo quan điểm của người Athen — và nó cũng là quan điểm của Demosthenes. Điều này được nhấn mạnh bởi các khuynh hướng chính trị của thời kỳ đó. Để ước tính chính xác về Philip, khoa học lịch sử trước tiên phải được giải phóng khỏi quan điểm Athen - Demosthenic. Chỉ riêng nghiên cứu hiện đại, theo sự dẫn dắt của J. G. Droysen, ngày càng có xu hướng đặt ra quan điểm đúng đắn hơn; Vua Philip của Macedonia chỉ được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn về lợi ích của người Macedonia.
Nếu chúng ta làm được điều này, Philip sẽ đứng trước chúng ta như một trong những nhà cai trị vĩ đại của lịch sử thế giới, không chỉ bởi ông đã đặt nền móng cho những chiến công của người con trai vĩ đại Alexander, mà còn với tư cách là một người có mục tiêu và tầm nhìn xa. Philip, bắt đầu từ đất nước nhỏ bé, đã tiến
lên dần dần, ở phía tây ông ấy chiến đấu với người Illyria và giành được ảnh hưởng trước Epirus, ở phía đông chiến đấu chống lại Người Thracia, ở phía bắc đến sông Danube, và phía nam được bảo đảm bằng cách giành được bờ biển, rất cần thiết cho sự phát triển của Macedonia và cả bán đảo Chalcidic, đã chiến thắng Thessaly, và can thiệp ngày càng quyết liệt hơn vào các vấn đề của Hy Lạp. Tất cả
những chủ trương đó chỉ là sự phản ánh của một ý tưởng tuyệt vời, đã có trong ông từ khá sớm, có lẽ ngay từ đầu - biến người Macedonia thành chủ nhân toàn bộ bán đảo Balkan. Chủ
trương này đã được nâng lên một tầm cao hơn nhờ chính sách giới thiệu văn hóa Hy Lạp kỹ lưỡng hơn của ông và do đó biến Macedonia trở thành một quốc gia thực sự văn minh: chính điều này đã làm cho chủ trương của ông trở nên sâu sắc hơn. Ví dụ về Archelaus đã được theo sau bởi Perdiccas, người đã liên kết với Euphraeus theo chủ nghĩa Platon và học từ ông ấy hình học và triết học. Philip cũng đã thu hút nhiều người Hy Lạp nổi tiếng đến triều
đình của mình. Ông đã rất thành công khi mời Aristotle đến để dạy Alexander, và thực hiện bước quan trọng nhất trong việc thích nghi với văn hóa Hy Lạp: ông đưa ngôn ngữ Athens vào triều đình của mình và cả trong quản lý hành chính, trong việc hình thành hệ thống quân sự theo mô hình Hy Lạp. Điều này chỉ ra ý định chính của ông, Hy Lạp hóa mạnh mẽ Macedonia.
Aristotle (384 – 322 TCN) là một nhà triết học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Plato và thầy dạy của Alexander Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lĩnh vực như vật lý học, siêu hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, luận lý học, tu từ học, ngôn ngữ học, kinh tế học, chính trị học, đạo đức học, sinh học, và động vật học. Ông được xem là người đặt nền móng cho môn luận lý học, và được mệnh danh là “Cha đẻ của Khoa học chính trị”. Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Cùng với Plato và Socrates, Aristotle là một trong ba trụ cột của văn minh Hy Lạp cổ đại.
Chính sách văn minh hóa này đã có một hệ quả; đó là một phần trong kế hoạch của Philip nhằm thống trị không chỉ bán đảo Balkan mà còn cả Hy Lạp, nhưng ông đã không thể kết hợp người Hy Lạp, như đã làm với người Illyria và người Thracia, vào đế chế Macedonia của mình, ông phải tìm kiếm một số công thức liên kết, điều này sẽ giữ thể diện cho người Hy Lạp. Ông chắc chắn biết rằng việc kiểm soát Hy Lạp sẽ kéo ông vào một cuộc xung đột với đế
chế Ba Tư: bởi vì theo hiệp ước “Hòa bình của Nhà vua”, Đại vương Ba Tư có quyền kiểm soát tối cao đối với Hy Lạp. Mặt khác, Philip muốn giành được Thrace và các bờ biển phía
bắc của Propontis và Bosphorus, để đảm bảo con đường thủy quan trọng này, ông không thể thực hiện được nếu không có chiến tranh với Ba Tư. Ngoài mục tiêu trước mắt là bảo vệ
bán đảo Balkan, ông còn bị ám ảnh bởi ý tưởng - một mục tiêu xa hơn, sự thống nhất Hy Lạp và một cuộc chiến chống lại Ba Tư.
Dĩ nhiên là Philip, một bậc thầy về ngoại giao, đã giữ kín những ý tưởng và kế hoạch cho tương lai trong đầu mình. Việc ông tổ chức lại quân đội Macedonia là một công trình thực sự thiên tài mà sau này Alexander đã tiếp quản.
Điều quan trọng là Philip thời trẻ đã sống ba năm ở Thebes như một con tin, và do đó đã làm quen với các phương pháp chiến lược của Epaminondas. Khi lên ngôi, ông tiếp quản và lấy điểm khởi đầu cho việc tái tổ chức quân đội của mình bằng “chiến lược đánh tạt sườn”, một phát minh của Epaminondas - đã tạo ra một cuộc cách mạng về chiến thuật. Cho đến nay, người Hy Lạp thường chiến đấu theo các đường song song. Epaminondas chia mặt trận
của mình thành một cánh tấn công và một cánh phòng thủ để quyết định các trận chiến. Cánh quân mạnh được tuyển chọn từ những đội quân tốt nhất. Nhiệm vụ của nó là thực hiện một cuộc tấn công tập trung, đột phá và quyết định, trong khi cánh yếu hơn tiến về phía trước một cách chậm rãi và lo phòng thủ nhiều hơn, do đó tại thời điểm xung trận, mặt trận của chiến tuyến thực sự theo hình xiên. Epaminondas, người đã tổ chức cả hai cánh từ bộ binh hạng nặng — kỵ binh của ông chỉ có nhiệm vụ bảo vệ hai bên sườn — cánh trái là hướng tấn công chủ lực. Vì thông thường trong các đội hình chiến đấu song song, quyết định thắng thua thường được thực hiện bởi cánh phải, cuộc tấn công của ông ấy bằng cánh trái càng gây bất ngờ hơn. Những chiến thuật đã mang lại cho Epaminondas chiến thắng tại Leuctra và Mantineia hiện đã được Philip áp dụng, nhưng được sửa đổi để phù hợp với quân đội Macedonia. Ông giao nhiệm vụ tấn công cho các kỵ binh xuất sắc của mình - Hetairoi, và phòng thủ cho bộ binh phalanx.
Ông không giới hạn cuộc tấn công ở một cánh, mà tung ra các cuộc tấn công của kỵ binh đôi khi ở cánh phải, và đôi khi, như ở Chaeronea, ở bên trái, có thể là theo đặc thù của mặt đất hoặc vị trí của địch.
Phalanx, thường được chuyển ngữ Việt là Phương trận, là một đội hình quân sự số đông hình chữ nhật, thường được tập hợp từ bộ binh hạng nặng được vũ trang giáo, kích, hoặc những vũ khí tương tự như vậy. Thuật ngữ này đặc biệt sử dụng cho đội hình chiến tranh Hy Lạp cổ đại.
Để thực hiện những chiến thuật này, về cơ bản ông phải tổ chức lại quân đội của mình. Các phi đội gắn kết mà ông tiếp quản đã chuyển thành kỵ binh chính quy, chia nó thành các trung đoàn (Ilae), các đơn vị chiến thuật, được
tuyển chọn theo các quận. Những Hetairoi này được trang bị mũ sắt, áo nịt ngực và kiếm, chiến đấu bằng một ngọn giáo đâm bằng gỗ.
Việc tổ chức lại bộ binh còn triệt để hơn. Để thực hiện đội hình xiên, điều cần thiết là tạo ra bộ binh thích hợp cho cánh phòng thủ. Điều này giải thích cho các thiết bị đặc biệt và việc sử dụng Phalanx. Trên mô hình của những
chiếc áo giáp vũ trang hạng nhẹ được giới thiệu bởi Athen - Iphicrates, những người được trang bị giáo dài và chỉ có một chiếc khiên tròn nhỏ (pelta), Philip đã lấy Phalanx làm vũ khí
chính, bên cạnh thanh kiếm, những ngọn giáo dài hơn và nặng hơn - sarissae, và ngoài ra còn có một pelta nhỏ được đeo trên tay, một chiếc mũ bảo hiểm, và có lẽ cả những miếng da được bảo vệ bằng kim loại, phù hợp để tiến chậm và duy trì khả năng phòng thủ hơn là di chuyển nhanh, mặc dù trong trường hợp cần thiết vẫn có thể chuyển trạng thái. Được bố trí trong đội hình dày đặc là các trung đoàn (taxeis), trong trận chiến, họ có mặt ở cánh phòng thủ để hổ trợ cuộc tấn công của kỵ binh và kìm chân đối phương. Bên cạnh đó, Philip còn có bộ binh vũ trang hạng nhẹ, Hypaspists, có nhiệm vụ xông lên phía trước khi cần di chuyển nhanh và tạo mối liên kết giữa kỵ binh và phalanx. Đây là hạt nhân của quân đội Macedonia, sau đó được bổ sung thêm quân phụ trợ từ Thrace và các thành bang lân cận khác.
Philip chiếm một vị trí nổi bật trong lịch sử nghệ thuật chiến tranh, là người đầu tiên kết hợp tất cả các đơn vị chiến đấu thành một đội hình chiến thuật. Ông cũng tạo ra bước ngoặt trong việc phát triển chiến lược; vì ông là người
đầu tiên có mục tiêu hủy diệt toàn bộ kẻ thù. Trong khi những trận chiến trước đó thường được người Hy Lạp coi là cuộc cạnh tranh, kẻ chiến thắng là người trấn giữ trận địa và dựng chiến tích, trong khi phe thất thế rút lui, thì Philip sau khi giành được chiến thắng đã tự
mình dẫn đầu đội kỵ binh truy đuổi kẻ thù đến hơi thở cuối cùng. Đó là một cuộc rượt đuổi hoang dã.
Philip cũng đánh dấu một kỷ nguyên trong nghệ thuật bao vây thành. Phương pháp cũ là bỏ đói kẻ thù, đối với ông là không đủ. Ông là người đầu tiên sử dụng máy bắn đá. Các cuộc bao vây Perinthus và Byzantium (340) mặc dù không thành công, nhưng đã tạo nên một kỷ nguyên trong khoa học quân sự. Từ đó Athens và các thành phố khác bắt đầu chuyển các bức tường thành bằng đá thay cho gạch.
Rõ ràng là tất cả những đổi mới này, đặc biệt là việc thực hiện đội hình chiến đấu xiên, đòi hỏi sự huấn luyện của quân đội nhiều hơn. Vì
vậy, họ đã được huấn luyện và tập luyện tốt để chiến đấu, hành quân và cơ động. Như Demosthenes đã công nhận với sự ngưỡng mộ, mùa hè hay mùa đông, ngày hay đêm không có gì khác biệt đối với hoạt động của Philip. Trong khi ở các quốc gia tự do của Hy Lạp, thích dùng lính đánh thuê hơn, thì những người Macedonia, quý tộc và nông dân, đều nhiệt thành đi theo vị vua của họ, người đã dẫn dắt họ đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, và như đã được thể hiện qua những vết sẹo trên cơ thể mình, chính ông đã chia sẻ tất cả những nguy hiểm và gian khổ cùng họ. Đặc biệt Philip đã thành công trong việc gắn bó chặt chẽ với các sĩ quan của mình bằng cách tạo ra các “quân đoàn hoàng gia”. Bằng cách cho những thanh niên quý tộc đích thân tham dự khóa huấn luyện thể chất và trí tuệ tại triều đình, ông đã tạo ra một loại thiếu sinh quân cho các sĩ quan của mình. Nó cũng là một phương tiện gắn bó lâu dài với lợi ích của triều đình mà giới quý tộc Macedonia, trước đây thường hờ hững.
Ở các khía cạnh khác ngoài lĩnh vực quân sự, chế độ quân chủ này cũng vượt trội hơn. Ông là người duy nhất điều hành chính sách đối ngoại. Trong khi ở các thành bang khác, bị
giằng xé bởi các phe phái nội bộ, các câu hỏi về chính sách đối ngoại được quyết định theo đa số sau những cuộc tranh cãi kéo dài. Điều này cũng được Demosthenes công nhận là một lợi thế lớn cho Macedonia. Điều này giúp hình thành một chính sách đồng nhất về tầm nhìn; kế hoạch và điều hành, chính khách và tướng lĩnh được hợp nhất bởi một người.
Đó là vị trí quyền lực của ông. Isocrates vào năm 346, đã khen ngợi việc thực hiện ý tưởng thống nhất của ông. Trong phần đầu tiên của chuyên luận, Isocrates đề cập đến việc hòa giải các thành bang Hy Lạp. Ông đưa ra đề xuất thiết thực với Philip, trước tiên nhà vua nên hòa giải với bốn thành bang hàng đầu là Athens, Sparta, Thebes và Argos, và sau đó các thành bang nhỏ sẽ tự tuân theo. Với tư cách là hậu duệ của Heracles thì điều đó
không có gì khó khăn, vì mỗi thành bang này đều có mối liên hệ nào đó với tổ tiên Heracles của ông. Tình trạng tuyệt vọng sẽ khiến họ nghiêng về một thỏa thuận hòa bình và Philip sẽ giành được vinh quang và thiện chí trên khắp Hy Lạp. Trong phần thứ hai của chuyên luận, ông thảo luận về cuộc chiến với Ba Tư. Đây là thời điểm thuận lợi, vì Đế chế Ba Tư đã thực sự suy yếu do cuộc nổi dậy từ các vùng lãnh thổ rộng lớn. Philip chỉ cần đi đến Tiểu Á và tuyên bố tự do, nhiều satraps sẽ chào đón ông như một người bạn. Ở đây Isocrates cũng chỉ ra tổ tiên của mình là Heracles, người đã từng vượt qua thành Troy trong vài ngày, và Philip cũng có thể sánh ngang với Heracles về lòng nhân ái và thiện chí với người Hy Lạp. Nếu có thể, ông nên tiêu diệt toàn bộ chế độ quân chủ Ba Tư, nhưng nếu không thể, ông nên cắt bỏ Tiểu Á từ Cilicia đến Sinope, tạo nơi định cư cho những người lang thang vô gia cư, những người từng là nỗi kinh hoàng đối với Hy Lạp, và do đó đảm bảo an toàn cho Hy Lạp bằng cách xây dựng một bức tường thành
chống lại phương Đông. Nếu điều này cũng là không thể, thì ít nhất ông cũng nên giải phóng người Hy Lạp ở Tiểu Á khỏi ách thống trị của Ba Tư. Ông chắc chắn nhận được vinh quang và lòng biết ơn lớn nhất từ người Hy Lạp.
Phần màu đỏ là những thành bang Philip đã thống nhất được.