"
Alex Ferguson - Cuốn Tự Truyện của Đời Tôi PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Alex Ferguson - Cuốn Tự Truyện của Đời Tôi PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Hồi Ký Alex Ferguson
Tác giả: Alex Ferguson
Người dịch: Nguyễn Dương Hiếu - Nguyễn Nhất Duy - Đặng Nguyễn Hiếu Trung
Nhà xuất bản Trẻ 2015
—★—
ebook©vctvegroup
19/08/2019
Dành tặng Bridget,chị gáicủa Cathy, người bạn tốt nhấtcủa tôi.
LỜI CẢM ƠN
T
ôi muốn cảm ơn một vài người vì sự giúp đỡ của họ trong việc hình thành cuốn sách này.
Đầu tiên là người biên tập Roddy Bloomfield và trợ lý của anh, Kate Miles. Kinh nghiệm phong phú cùng sự hỗ trợ nhiệt tình của Roddy là điều may mắn lớn cho tác giả. Cùng với sự cần cù của trợ lý Kate, họ tạo thành một nhóm làm việc tuyệt vời.
Làm việc với Paul Hayward thật sự luôn dễ dàng, thoải mái và chuyên nghiệp. Anh giúp tôi không lan man, tập hợp các suy nghĩ của tôi và trình bày chúng theo một cách thức khiến tôi vô cùng hài lòng.
Nhiếp ảnh gia Sean Pollock đã có một công việc hoàn hảo khi chụp rất nhiều hình ảnh trong suốt khoảng thời gian 4 năm. Phong cách trầm lặng, kín đáo giúp anh chụp được những bức ảnh mình muốn mà không gây khó chịu quá mức cho người khác.
Les Dalgarno, luật sư của tôi, đã đưa ra những hướng dẫn rất hữu ích trong suốt quá trình chuẩn bị nội dung cuốn sách. Ông vừa là nhà tư vấn đáng tin cậy và trung thành nhất, vừa là một người bạn lớn của tôi.
Nói chung, đã có rất nhiều người dành nhiều thời gian để giúp tôi hoàn thành cuốn hồi ký này. Tôi đánh giá cao những nỗ lực của họ, và tôi cảm thấy có một nhóm làm việc tuyệt vời như vậy sau lưng là một niềm vui to lớn...
LỜI CẢM ƠN VỀ MẶT HÌNH ẢNH
Tác giả và nhà xuất bản xin cảm ơn các cá nhân / tổ chức sau đây đã cho phép sử dụng lại những hình ảnh trong cuốn sách:
Action Images, Roy Beardsworth/Offside, Simon Bellis/Reuters/Action Images, Jason Cairnduff/Livepic/Action Images, Chris Coleman/ Manchester United/Getty Images, Dave Hodges/Sporting Pictures/Action Images, Ian Hodgson/Reuters/Action Images, Eddie Keogh/Reuters/Action Images, Mark Leech/Offside, Alex Livesey/Getty Images, Clive Mason/ Getty Images, Mirrorpix, Gerry Penny/AFP/Getty Images, John Peters/ Manchester United/Getty Images, Matthew Peters/Manchester United/ Getty Images, Kai Pfaffenbach/Reuters/Action Images, Popperfoto/Getty Images, Nick Potts/Press Association, John Powell/Liverpool FC/Getty Images, Tom Purslow/Manchester United/Getty Images, Ben Radford/ Getty Images, Carl Recine/Livepic/Action Images, Reuters/Action Images, Rex Features, Martin Rickett/Press Association, Matt Roberts/Offside, Neal Simpson/Empics Sport/Press Association, SMG/Press Association, SNS Group, Simon Stacpoole/Offside, Darren Staples/Reuters/Action Images, Bob Thomas/Getty Images, Glyn Thomas/Offisde, John Walton/Empics Sport/Press Association, Kirsty Wrigglesworth/Press Association.
Những hình ảnh còn lại trong sách thuộc về Sean Pollock.
LỜI GIỚI THIỆU
T
ừ vài năm trước đây tôi đã bắt đầu tập hợp những suy nghĩ và ghi chép vào những lúc công việc cho phép để chuẩn bị cho cuốn sách này. Khi viết hồi ký, dự định của tôi luôn luôn là làm sao để có được một câu chuyện hấp dẫn đối với cả người trong và ngoài giới bóng đá.
Vì thế, mặc dù việc tôi về hưu khiến nhiều người trong giới ngạc nhiên, tôi đã suy nghĩ về cuốn hồi ký này trong nhiều năm trước đây. Nó là sự tiếp tục của một cuốn sách trước đó của tôi mang tựa Managing My Life (Quản trị cuộc đời). Do đó, cuốn hồi ký này chỉ nói sơ qua về những năm tuổi trẻ của tôi ở Glasgow và những người bạn lâu năm ở Aberdeen, còn lại đa phần tập trung vào những năm tháng tuyệt diệu của tôi ở Manchester! Bản thân tôi rất thích đọc sách, nên tôi cũng hào hứng muốn viết ra một cuốn sách có thể làm sáng tỏ đôi điều bí ẩn trong công việc của tôi.
Trong suốt hành trình cuộc đời cùng bóng đá, bạn hẳn sẽ phải trải qua những thăng trầm, thất bại và tuyệt vọng nữa. Ngay từ những ngày đầu làm công tác huấn luyện tại Aberdeen và Manchester United, tôi đã hiểu rằng muốn có được lòng trung thành và niềm tin từ phía các cầu thủ, bản thân tôi phải trung thành và tin tưởng vào họ trước. Đây chính là điểm khởi đầu cho mối dây ràng buộc và gắn kết giữa mọi người, nền tảng cho sự phát triển của những tổ chức vĩ đại. Thực ra thì kỹ năng quan sát và chú ý đã giúp tôi rất nhiều. Có nhiều người ít để ý đến mọi việc xung quanh, nhưng bạn nên mở to mắt và quan sát, bạn sẽ thấy nhiều điều. Tôi đã sử dụng kỹ năng này để nhận xét, đánh giá việc tập luyện, tâm trạng và ứng xử của các cầu thủ.
Tất nhiên là tôi sẽ rất nhớ không khí vui nhộn trong phòng thay đồ và cả những huấn luyện viên đối thủ. Đó là những nhân cách lớn của trường phái huấn luyện cũ, những người đã rất nổi tiếng khi tôi đến với United năm 1986. Người tiền nhiệm Ron Atkinson không hề tỏ thái độ cay cú khi rời United, ngược lại vẫn dành những lời ngợi khen cho chúng tôi. Jim Smith là một tính cách tuyệt vời, một người bạn tốt, tính hiếu khách của ông khiến bạn khó mà về sớm trong những lần gặp mặt. Trong những dịp như thế, khi về đến nhà thì chiếc áo sơ mi của tôi luôn dính đầy tàn thuốc xì gà...
Ngoài ra phải kể đến HLV Coventry City, ông John Sillett “Mập”, cũng là một người bạn quý. Tôi cũng không thể nào quên John Lyall nay đã quá cố, người đã tận tình và không tiếc thời gian để hướng dẫn tôi trong những ngày đầu. Với Bobby Robson, lần đầu tiên tôi gặp ông là khi CLB Aberdeen của tôi đánh bại Ipswich tại UEFA Cup năm 1981. Khi đó Bobby đã vào tận phòng thay đồ và bắt tay từng cầu thủ Aberdeen. Tôi sẽ không bao giờ quên sự lịch lãm và tình bạn của ông, sự ra đi của ông sau này quả là một mất mát lớn cho chúng tôi.
Ngoài ra còn nhiều “cựu binh” nữa, những người đã sống sót trên chiếc ghế HLV vì họ có đạo đức nghề nghiệp rất đáng ngưỡng mộ. Đó là những HLV John Rudge và Lennie Lawrence, hay một trong những HLV giỏi nhất của Oldham - tôi muốn nói đến ông Mập Joe Royle. Oldham đã từng gây ra cho chúng tôi những giờ phút thật sự khó khăn khi hai đội gặp nhau. Harry Redknapp và Tony Pulis cũng là những nhân cách xuất sắc trong thế hệ của tôi, còn Sam Allardyce đã trở thành một người bạn cực kỳ thân thiết.
Tôi thật may mắn có đội ngũ nhân viên tuyệt vời và hết sức trung thành ở MU, một vài người trong số họ từng sát cánh với tôi suốt hơn 20
năm. Thư ký riêng Lyn Laffin đã làm việc với tôi đến khi tôi nghỉ hưu tại MU và nay vẫn tiếp tục làm thư ký cho tôi ở văn phòng mới. Những người khác có thể kể tên là Les Kershaw, Dave Bushell, Tony Whelan và Paul McGuinness. Kath Phipps, người phụ trách lễ tân và những buổi làm việc sau trận đấu tại Old Trafford, cũng có thâm niên 40 năm tại đây. Ngoài ra còn có Jim Ryan (nay đã về hưu), em trai tôi Martin - người phụ trách công tác tuyển trạch tại nước ngoài trong suốt 17 năm (một công việc cực khó!), và Brian McClair nữa...
Tôi cũng luôn nhớ Norman Davies, người phụ trách trang phục của CLB - anh là người bạn trung thành, một con người tuyệt vời. Anh vừa qua đời mấy năm trước đây. Người thay thế anh, Albert Morgan, cũng là một nhân cách lớn, luôn trung thành với Man United. Rồi còn phải kế đến những nhân viên như bác sĩ Steve McNally, người phụ trách vật lý trị liệu Rob Swire và chuyên viên Tony Strudwick cùng đội ngũ các nhà khoa học thể thao, những nhân viên giặt ủi và nấu bếp, những nhân viên văn phòng như John Alexander, Anne Wylie và nhiều người khác nữa... Kế đến là Jim Lawlor và đội ngũ tuyển trạch viên, huấn luyện viên thủ môn Eric Steele; nhóm phân tích kỹ thuật qua video của Simon Wells và Steve Brown; đội ngũ nhân viên hỗ trợ tại sân thi đấu, dẫn dắt bởi Joe Pemberton và Tony Sinclair; những nhân viên chăm chỉ ở đội bảo trì: Stuart, Graham và Tony. Có thể tôi quên tên một vài người, nhưng chắc chắn mọi người đều hiểu rằng tôi tôn trọng và đánh giá cao tất cả trong số họ.
Các trợ lý và huấn luyện viên đã hỗ trợ tôi rất nhiều tại Manchester United. Đó là Archie Knox - một đồng minh thực sự trong những ngày đầu, rồi Brian Kidd, Nobby Stiles, và Eric Harrison - một HLV tuyệt vời của đội trẻ MU. Steve McClaren là một HLV tràn đầy năng lượng và ý tưởng mới.
Carlos Queiroz và René Meulensteen cũng là những HLV xuất sắc, còn trợ lý Mick Phelan là con người thuần túy bóng đá, rất cẩn trọng và khôn khéo. Nền móng cho sự nghiệp lâu dài của tôi tại MU được xây dựng bởi Bobby Charlton và Martin Edwards. Món quà lớn nhất tôi nhận được từ họ là thời gian cùng nhau xây dựng một câu lạc bộ bóng đá MU, chứ không chỉ đơn thuần xây dựng một đội hình thi đấu mà thôi. Sự hỗ trợ của họ được tiếp nối bởi David Gill, người mà tôi có một quan hệ cộng tác hết sức tốt đẹp trong suốt hơn một thập kỷ cuối cùng tại United.
Có rất nhiều điều tôi muốn kể lại trong cuốn sách này. Tôi hy vọng các bạn sẽ vui thích khi cùng tôi đi lại từng bước, từng bước một trong hành trình đó.
MỞ ÐẦU
G
ần ba thập kỷ đã trôi qua kể từ ngày tôi bước ra sân Old Trafford trong trận đầu tiên trên cương vị HLV trưởng MU với cảm giác hồi hộp và lạ lẫm. Đứng ở vòng tròn giữa sân, tôi vẫy tay chào khán giả trên khán đài Stretford End và được giới thiệu là tân HLV trưởng của Manchester United. Hôm nay, tôi cũng bước ra sân vận động ấy, tràn đầy tự tin, để nói lời chia tay.
Sự kiểm soát mà tôi có được ở Manchester United trong vai trò HLV trưởng là một đặc quyền mà rất ít người đồng nhiệm nào khác may mắn có được. Mùa thu 1986, khi từ Aberdeen đến Manchester, tuy tôi hoàn toàn tự tin vào năng lực của bản thân, tôi vẫn không thể nào hình dung được mọi chuyện sau này lại diễn ra như thế.
Sau khi chia tay CLB vào tháng 5-2013, thời khắc quyết định trong sự nghiệp huấn luyện tại Manchester như tràn về trong trí óc tôi. Đó là trận đấu vòng 3 cúp FA gặp Nottingham Forest vào tháng 1-1990, trận đấu mà bàn thắng của Mark Robins đã đưa MU đi tiếp, khi mà vị trí HLV trưởng của tôi đang lung lay dữ dội khi MU không thắng nổi trận nào trong cả tháng trước đó, và những thất bại đang làm xói mòn cả sự tự tin của chính tôi.
Nếu không đoạt được cúp FA sau chiến thắng trong trận chung kết trước Crystal Palace gần 4 năm sau khi nắm đội, có lẽ những nghi ngờ về sự phù hợp của tôi với ghế HLV trưởng MU sẽ không thể bị dập tắt. Không bao giờ tôi biết mình đã gần với việc bị sa thải tới mức nào, vì quyết định đó
chưa từng được Ban Giám đốc MU bàn đến. Nhưng nếu không có chiến thắng cúp FA tại sân Wembley năm đó, đám đông cổ động viên có thể thất vọng cùng cực và gây ảnh hưởng lên quyết định của CLB.
Bobby Charlton luôn phản đối mọi ý tưởng về việc sa thải tôi. Ông hiểu rõ những việc tôi làm, từ việc phát triển cầu thủ trẻ, những mảnh ghép và điều chỉnh trong đội hình mà tôi thực hiện, cũng như thời gian tôi dành riêng để cải tiến cách vận hành đội bóng tại ManU. Chủ tịch Martin Edwards cũng thấu hiểu những điều này, đó là lý do tại sao hai vị này có đủ dũng khí sát cánh với tôi ngay cả trong những giai đoạn khó khăn nhất của tôi trên cương vị HLV trưởng. Hẳn là Martin đã từng nhận được vô số những lá thư giận dữ yêu cầu sa thải tôi.
Chiến thắng tại cúp FA năm 1990 đã tiếp thêm sinh lực cho Manchester United, đồng thời làm tôi vững tin rằng đây là một đội bóng thực sự tốt, một đội bóng có thể giành được các danh hiệu. Chiến thắng này mở đường cho những ngày tươi đẹp sau đó. Nhưng ngay buổi sáng hôm sau trận chung kết, một tờ báo đã viết như sau: “OK, anh đã chứng minh được anh có thể giành cúp FA cho Manchester United. Xong. Giờ thì mời anh quay lại Scotland giùm!”. Tôi không bao giờ quên được bài báo đó.
một
NHỮNG SUY NGẪM
N
ếu cần có một kết quả trận đấu cụ thể để tiêu biểu cho mọi thứ về Manchester United thì với tôi đó chính là trận đấu cuối cùng - trận đấu thứ 1.500 tôi cầm quân tại đây. Đó là trận hòa 5-5 giữa chúng tôi và West Bromwich Albion: một trận bóng điên cuồng, tuyệt vời, đầy đam mê và vô cùng kỳ lạ.
Nếu bạn đang trên đường đến sân xem MU thi đấu, bạn sẽ được thưởng thức những bàn thắng và cả những kịch tính trên sân cỏ. Trái tim bạn sẽ được thử thách ra trò! Hôm đó tôi chẳng thể than phiền gì khi chúng tôi đánh mất lợi thế dẫn bàn 5-2 trước West Brom chỉ trong vòng... 9 phút. Tôi vẫn có những cử chỉ thể hiện sự thất vọng như thường lệ, nhưng các cầu thủ đều hiểu rõ điều đó. Tôi nói với họ, “Cám ơn, các chàng trai. Các anh đã dành cho tôi một buổi chia tay tuyệt vời đến điên cuồng...”
David Moyes đã được chọn là người kế nghiệp tôi tại MU, và khi ngồi trong phòng thay đồ sau trận đấu, Ryan Giggs đã pha trò, “Ối, David Moyes vừa từ chức rồi đó...”
Bất chấp những yếu kém trong phòng ngự tại trận đấu chia tay đó, tôi vẫn thấy tự hào và nhẹ nhõm khi trao lại đội ngũ cầu thủ và nhân viên đầy tài năng tại MU vào tay David. Công việc của tôi thế là xong. Gia đình tôi cũng đang ở đó, trên khán đài Regis tại sân nhà của West Brom, và một cuộc đời mới đang mở ra trước mắt tôi...
Và đó chỉ là một ngày trong số bao ngày với MU, những ngày trôi qua như một giấc mơ. Trong buổi chia tay đó, West Brom tổ chức thật long trọng và quan tâm đến tôi một cách vô cùng đặc biệt. Sau đó họ còn tặng tôi bản danh sách thi đấu (team sheet) hôm đó, với chữ ký của cầu thủ hai bên. Gần như cả gia đình tôi đều có mặt: ba con trai, tám đứa cháu, và một hai người bạn thân. Sự hiện diện của họ là niềm vui cho tôi, và cũng thật tuyệt vời khi tất cả chúng tôi được trải qua màn cuối cùng này bên nhau. Rồi cả gia đình tôi cùng nhau bước ra.
Khi bước xuống xe buýt bên ngoài sân vận động của West Brom, ý định của tôi là hưởng thụ trọn vẹn từng khoảnh khắc sắp diễn ra. Việc ra đi không khó khăn với tôi, vì tôi biết đã đến lúc phải làm như vậy. Đêm trước trận đấu, các cầu thủ tuyên bố sẽ có một màn trình diễn để đánh dấu sự về hưu của huấn luyện viên. Món quà quý giá nhất của họ là một chiếc đồng hồ Rolex năm 1941, năm sinh của tôi. Giờ trên đồng hồ cũng được cài đặt vào đúng 3 giờ 3 phút chiều, chính là thời gian mà tôi ra đời ngày 31-12-1941 tại Glasgow. Họ cũng tặng tôi một album hình tóm tắt lại toàn bộ những ngày với MU của tôi, với hình của các cháu tôi cùng gia đình ngay trang giữa. Rio Ferdinand, người rất mê đồng hồ, là tác giả chính của ý tưởng về các món quà cho tôi.
Sau khi trao quà và những tràng vỗ tay vang dội khắp phòng, tôi chợt để ý thấy một nét gì đó là lạ trên gương mặt một số cầu thủ. Đây là thời khắc mà vài cầu thủ rõ ràng không biết xử trí ra sao, vì họ đã luôn có tôi ở bên cạnh, với một số người thì thời gian này đã lên tới 20 năm. Tôi có thể thấy những vẻ mặt trống rỗng và ngơ ngác của họ, những vẻ mặt như muốn hỏi “rồi mọi chuyện tới đây sẽ ra sao?”. Một số cầu thủ MU chưa từng làm việc dưới quyền huấn luyện của bất kỳ ai khác ngoài tôi.
Nhưng vẫn còn một trận đấu dưới quyền cầm quân của tôi, và tôi muốn nó phải diễn ra hoàn hảo. Sau nửa giờ thi đấu chúng tôi đã dẫn 3-0, nhưng rõ ràng đối thủ West Brom không hề muốn tôi có một buổi chia tay êm ả chút nào. Bàn thắng đầu tiên của MU trong thời kỳ tôi làm HLV được ghi bởi John Sivebaek ngày 22-11-1986, và bàn thắng cuối cùng do Javier Hernández ghi ngày hôm đó, 19-5-2013. Trong trận đấu với West Brom, khi dẫn 5-2 thì MU hoàn toàn có thể kết thúc với thắng lợi lên tới 20-2; nhưng khi bị gỡ hòa 5-5 thì có cảm giác chúng tôi có thể bị thua ngược với tỷ số... 5- 20! Về mặt phòng thủ, chúng tôi chơi thật hỗn loạn: West Brom ghi ba bàn liền trong vòng có 5 phút, với Romelu Lukaku lập được một hat-trick.
Bất chấp việc liên tục thủng lưới vào cuối trận, không khí trong pḥòng thay đồ sau trận đấu là khá nhẹ nhàng. Sau tiếng còi chung cuộc, toàn đội ở lại sân và vẫy tay chào các khán giả trên khu vực khán đài dành cho các cổ động viên của MU. Giggs đẩy tôi ra phía trước và toàn đội đứng ngay sau. Tôi đứng đó giữa một rừng những gương mặt hạnh phúc. Các fan của MU đã ca hát, hò hét và nhảy múa suốt cả ngày. Tôi muốn đội nhà thắng 5- 2 hơn, nhưng kết quả hòa 5-5 cũng không phải là một cái kết quá tệ. Đây là trận hòa 5-5 đầu tiên trong lịch sử Premier League cũng như trong cả sự nghiệp của tôi: 90 phút cuối cùng đó đã thành một phần của lịch sử.
Trở về Manchester, một tá những bưu phẩm đã được gửi tới văn phòng của tôi. Real Madrid đã gửi một món quà tuyệt đẹp: mô hình bằng bạc của đài phun nước La Plaza de Cibeles ở Madrid, nơi họ tổ chức những buổi mừng công, cùng với một bức thư dễ thương từ Florentino Pérez, chủ tịch của Real. Một món quà khác đến từ câu lạc bộ Ajax và một từ Edwin van Der Sar. Thư ký của tôi, Lyn, đã phải làm việc với hàng đống thư từ.
Trong trận đấu trên sân nhà gặp Swansea City cuối tuần trước đó, trận
cuối của tôi ở Old Trafford, tôi không biết mình nên kỳ vọng điều gì, ngoài việc bảo vệ danh dự của đội bóng. Lúc đó chúng tôi đang ở cuối một tuần căng thẳng khi phải thông báo cho gia đình, bạn bè, các cầu thủ và nhân viên việc tôi đã lựa chọn bước sang một trang mới trong cuộc đời của mình.
Những ý nghĩ khiến tôi có quyết định về hưu xuất hiện vào mùa đông năm 2012. Vào khoảng thời gian Giáng sinh ý nghĩ đó trở nên rõ ràng và mạnh mẽ hơn trong đầu tôi, “Mình phải về hưu thôi.”
“Sao anh lại quyết định như vậy?” Cathy hỏi.
“Mùa giải trước MU để tuột mất danh hiệu trong trận đấu cuối cùng. Anh không thể chịu được điều đó thêm lần nào nữa,” tôi trả lời. “Anh chỉ hy vọng có thể giành được chức vô địch Premier League lần này và vào đến trận chung kết Champions League hay Cúp FA. Đó sẽ là kết thúc tuyệt vời nhất.”
Lúc đó, vợ tôi Cathy vừa mất đi người chị Bridget vào tháng Mười và đang cố gắng lấy lại thăng bằng trong cuộc sống. Cathy nhanh chóng đồng ý rằng đó là lựa chọn đúng đắn. Cathy nghĩ rằng nếu tôi muốn thử làm gì đó khác trong cuộc sống thì điều đó nghĩa là tôi vẫn còn chưa già! Theo hợp đồng, tôi có nghĩa vụ phải thông báo cho câu lạc bộ chậm nhất là ngày 31-3 nếu tôi nghỉ hưu vào mùa hè năm đó.
Đột nhiên David Gill gọi cho tôi vào một ngày Chủ nhật trong tháng Hai và hỏi xem ông ấy có thể đến nhà gặp tôi hay không. Một chiều Chủ nhật? Tôi nói ngay với vợ, “Anh cá là ông ta đến để báo tin ông ta từ chức Giám đốc điều hành.” Còn vợ tôi thì bảo, “Vâng, đúng là như vậy, hoặc là... chính anh sắp bị sa thải.” Và đúng như thế, David cho tôi biết ông sẽ nghỉ hưu vào cuối mùa giải. “Quái quỷ thật, David,” tôi thốt lên, rồi cũng thông báo về quyết định tương tự của tôi.
Trong những ngày sau đó, David gọi cho tôi bảo tôi chờ cuộc gọi từ nhà Glazer. Khi ông chủ Joel Glazer gọi điện, tôi giải thích rõ ràng rằng quyết định của tôi không dính dáng gì đến việc David không còn điều hành ở United nữa. Tôi đã có quyết định của mình từ dịp Giáng sinh năm ngoái, tôi nói với Joel như vậy. Tôi trình bày các lý do: Chị gái của Cathy qua đời vào tháng Mười đã thay đổi cuộc sống của chúng tôi, riêng Cathy cảm thấy rất cô đơn. Joel hiểu điều đó. Chúng tôi đồng ý gặp nhau ở New York, tại đó ông ấy đã cố gắng thuyết phục tôi không về hưu. Tôi nói rằng tôi rất cảm kích những nỗ lực của ông, và cám ơn sự ủng hộ của ông. Joel cũng thể hiện sự biết ơn đối với tất cả những cống hiến trong công việc của tôi.
Cảm thấy không thể thay đổi suy nghĩ của tôi, buổi thảo luận chuyển sang vấn đề ai sẽ là người thay thế tôi. Về điểm này thì chúng tôi đã có sự nhất trí: người kế nhiệm tôi sẽ là David Moyes.
David Moyes tới gặp chúng tôi để bàn về thời gian ông ta có thể tham gia MU. Một điều rất quan trọng đối với nhà Glazer là sau khi có thông tin chính thức về việc tôi nghỉ hưu, CLB thông báo sớm về HLV kế nhiệm, không để khoảng thời gian kéo dài cho những đồn đại và phỏng đoán của dư luận.
Rất nhiều người Scotland mang trong mình một ý chí mạnh mẽ. Dân Scotland rời quê hương chỉ vì một lý do, đó là để gặt hái được thành công. Không phải để chạy trốn quá khứ, mà họ ra đi để bản thân họ thành công hơn. Bạn có thể thấy điều này khắp thế giới, đặc biệt là ở Mỹ và Canada. Rời bỏ mảnh đất quê hương sẽ mang lại một giải pháp chắc chắn. Đó không phải là một lớp mặt nạ, đó là quyết tâm hoàn thành những mục tiêu. Sự khắc khổ của người Scotland mà người ta hay nói tới đôi lúc cũng đúng với tôi.
Những người Scotland ở nước ngoài không thiếu khiếu hài hước. David Moyes không thiếu tài dí dỏm. Mặc dù vậy, trong công việc, những người Scotland rất nghiêm túc với lao động của mình, một phẩm chất vô giá. Người ta thường nói với tôi, “Tôi chưa bao giờ thấy anh cười suốt trận đấu.” Tôi trả lời, “Tôi không ở đó để cười đùa, tôi ở đó để giành chiến thắng trận đấu.”
David cũng có một số nét tính cách như vậy. Tôi có biết về gia đình của ông: cha ông ta là một huấn luyện viên tại Drumchapel, nơi tôi thi đấu khi còn trẻ, ông cũng tên là David Moyers. Đó là một gia đình có nề nếp và truyền thống. Tôi không nói đó là lý do để bổ nhiệm một ai đó, nhưng rõ ràng chúng ta muốn thấy những người có nguồn gốc gia đình tốt ở những vị trí cao như vậy. Tôi rời Drumchapel vào năm 1957 khi David Moyes (cha) vẫn còn là một chàng trai trẻ, vì vậy tuy không làm việc trực tiếp với nhau lâu, nhưng tôi biết về họ.
Nhà Glazer thích David. Họ ngay lập tức có ấn tượng tốt với ông, trước tiên vì David là một người ăn ngay nói thẳng. Thẳng thắn về bản thân mình là một đức tính tốt. Ngoài ra, tôi sẽ không hề can dự vào công việc của David sau này. Sau 27 năm làm huấn luyện viên, sao tôi còn muốn tiếp tục dính dáng đến công việc này nữa? Đây là lúc tôi bỏ lại cuộc sống đó ở phía sau. David cũng sẽ không gặp vấn đề gì với việc nắm bắt những truyền thống của MU. Ông là người giỏi trong việc đánh giá các tài năng và đã cống hiến thứ bóng đá tuyệt diệu tại Everton khi có cơ hội ký hợp đồng với một lứa cầu thủ đẳng cấp hơn.
Tôi đã tự nhủ sẽ không có điều gì phải hối tiếc về quyết định nghỉ hưu. Điều đó sẽ không thay đổi. Ở lứa tuổi bảy mươi, sức khỏe và tinh thần của bạn rất dễ xuống dốc nhanh chóng. Tuy nhiên, tôi lại rất bận rộn kể từ thời
điểm về hưu, với nhiều dự án tại Mỹ và những nơi khác. Không có nguy cơ nào đối với việc tôi rơi vào tình trạng thất nghiệp, vì tôi vẫn tìm kiếm những thách thức mới.
Một trong những khó khăn lớn nhất trong những ngày trước và sau thời điểm quyết định về hưu của tôi được thông báo, là nói chuyện này với các nhân viên tại Carrington, sân tập của chúng tôi. Tôi nhớ rất cụ thể mình đã nhắc đến những thay đổi trong cuộc sống của tôi và sự qua đời của chị gái Cathy, và nhận thấy một sự cảm thông chân thành từ mọi người. Điều đó thực sự đã vượt qua những rào cản của tôi, khiến tôi cảm thấy rất xúc động.
Những tin đồn bắt đầu xuất hiện vào ngày trước khi có thông báo chính thức. Thời điểm đó tôi thậm chí còn chưa báo tin cho em trai tôi Martin nữa! Thật khó để kiểm soát những tin đồn đó, đặc biệt là từ cách nhìn của Sàn Giao dịch Chứng khoán New York, vì vậy một phần tin tức rò rỉ ra đã làm tổn thương mối quan hệ giữa tôi và một số người tôi muốn nói riêng chuyện này.
Vào sáng thứ Tư, ngày 8-5, mọi nhân viên đều có mặt trong phòng phân tích video, đội ngũ nhân viên chính ở căn tin và các cầu thủ ở trong phòng thay đồ. Tôi bước vào phòng thay đồ để thông báo với đội rằng thông tin chính thức đã được đăng trên website của câu lạc bộ.
Không ai được phép dùng điện thoại di động. Tôi không muốn bất cứ ai nói về tin tức này trước khi tôi có cơ hội nói với mọi người trên sân tập. Mặc dù vậy, thông qua những tin đồn, họ có lẽ cũng đã biết điều gì đó quan trọng sắp xảy ra.
Tôi nói với các cầu thủ, “Tôi hy vọng tôi không làm ai thất vọng, bởi có thể các bạn từng quyết định tham gia vào CLB này vì nghĩ rằng tôi còn ở
đây.” Ví dụ, chúng tôi từng nói với Robin van Persie và Shinji Kagawa rằng tôi sẽ không về hưu sớm, và điều đó thực sự đúng vào thời điểm đó. “Mọi thứ đã thay đổi,” tôi tiếp tục. “Sự qua đời của chị gái vợ tôi là một biến cố rất đau buồn. Và bản thân tôi cũng muốn ra đi ở vị thế là người chiến thắng. Và tôi đang ra đi đúng với vị thế như vậy.”
Có thể nhận ra sự sửng sốt trên gương mặt của họ. “Hãy đi xem và tận hưởng cuộc đua ngựa hôm nay nhé các chàng trai,” tôi nói. “Hẹn gặp mọi người vào ngày thứ Năm.” Tôi đã cho các cầu thủ nghỉ vào chiều thứ Tư để đến Chester. Và mọi người đều biết điều đó. Đó là một phần trong kế hoạch: tôi không muốn mọi người nghĩ rằng các cầu thủ vô cảm khi đến xem đua ngựa ở Chester vào ngày mà HLV trưởng thông báo việc về hưu của mình, do đó tôi đã thông báo rộng rãi cả tuần trước đó rằng họ sẽ được đi xem đua ngựa.
Sau đó tôi đi lên lầu gặp đội ngũ nhân viên và thông báo với họ. Tất cả họ vỗ tay, một hai người thậm chí còn pha trò, “Thật vui khi thoát khỏi sếp, sếp ạ!”
Trong hai nhóm chính được thông báo, các cầu thủ tỏ ra sợ hãi hơn. Trong những tình huống như vậy ngay lập tức các câu hỏi sẽ lấp đầy tâm trí của họ, “Liệu huấn luyện viên mới có thích mình? Liệu mình có còn ở đây mùa giải tới?” Tương tự, các huấn luyện viên có thể sẽ nghĩ, “Đây có thể là dấu chấm hết đối với mình.” Thời gian sau đó là khoảng thời gian để tôi rút lui khỏi những thứ liên quan đến việc thông báo, giải thích về quyết định này và sắp xếp lại những suy nghĩ của mình.
Tôi đã quyết định trước là sẽ về thẳng nhà vì tôi biết sẽ có một cơn địa chấn trong giới truyền thông. Tôi không muốn rời sân Carrington mà phải đi qua một đám đông phóng viên cùng những ánh đèn flash.
Về đến nhà, tôi khóa cửa ở trong phòng một mình. Jason, luật sư của tôi và Lyn liên tục nhắn tin lúc thông báo được công bố. Lyn đã nhắn tin cho tôi liên tục trong 15 phút. Nghe nói 38 tờ báo trên thế giới đã đưa tin này lên trang nhất, bao gồm cả tờ New York Times. Vài tờ báo tại Anh đăng hẳn những phần phụ trương về đề tài này, dài 10-12 trang.
Rõ ràng báo chí đã quá quan tâm đến đề tài này. Tôi đã nhiều lần cãi nhau với các phóng viên suốt nhiều năm, nhưng tôi chưa bao giờ giữ trong lòng mối thù hận nào cả. Tôi biết các phóng viên phải chịu rất nhiều áp lực. Họ phải cố gắng đánh bại các phương tiện truyền thông khác như truyền hình, mạng Internet, Facebook, Twitter v.v..., ngoài ra còn phải chịu sức ép từ ban biên tập luôn hối thúc họ từ phía trên. Đó là một nghề đầy khó khăn.
Việc tin tức đó được báo chí đăng và bình luận tràn lan cũng cho thấy giới truyền thông không hề có ác cảm nào với tôi, dù chúng tôi đã có nhiều xung đột. Họ công nhận giá trị sự nghiệp của tôi và những gì tôi từng mang tới các cuộc họp báo. Họ thậm chí còn làm một món quà: bánh kem với một chiếc máy sấy tóc ở trên, cộng thêm một chai rượu ngon. Một món quà rất đáng nhận!
Trong trận đấu gặp Swansea loa của sân vận động chơi bài ‘My Way’ của Sinatra và ‘Unforgettable’ của Nat King Cole. MU đã thắng trận đấu theo cách mà chúng tôi từng làm rất nhiều lần qua 895 trận đấu mà chúng tôi giành chiến thắng: một bàn thắng muộn vào phút thứ 87 của Rio Ferdinand.
Bài phát biểu của tôi trên sân vận động hoàn toàn không được chuẩn bị trước, tôi không có kịch bản nào cả. Tất cả những gì tôi biết là: tôi sẽ không khen ngợi bất kỳ một cá nhân nào cả, dù là những giám đốc điều hành,
những người ủng hộ đội bóng hay các cầu thủ. Tôi sẽ chỉ nói về câu lạc bộ bóng đá Manchester United.
Trong bài phát biểu, tôi thuyết phục các cổ động viên ủng hộ huấn luyện viên trưởng mới, David Moyes. “Xin các bạn nhớ rằng chúng ta đã từng trải qua những khoảng thời gian tồi tệ ở đây,” tôi nói qua loa phóng thanh. “Khi đó, câu lạc bộ đã luôn ủng hộ tôi. Đội ngũ huấn luyện, các nhân viên và cầu thủ đều đã ủng hộ tôi. Vì vậy việc của các bạn bây giờ là hãy ủng hộ, hãy luôn sát cánh với huấn luyện viên trưởng mới của chúng ta. Điều đó rất quan trọng.”
Nếu tôi không nhắc đến David, người ta sẽ thắc mắc, “Chuyện đó là như thế nào vậy, có đúng Ferguson muốn Moyes kế nhiệm ông ta hay không?” Chúng tôi cần phải thể hiện sự ủng hộ vô điều kiện cho David. Câu lạc bộ phải tiếp tục chiến thắng. Đó là điều mong ước chung của tất cả chúng tôi. Giờ đây, là một giám đốc điều hành của câu lạc bộ, tôi mong muốn MU tiếp tục thành công như bất kỳ người nào khác. Và từ nay tôi có thể thưởng thức các trận đấu theo cái cách mà Bobby Charlton đã làm từ khi ông ấy nghỉ hưu. Hãy nhìn Bobby sau một trận thắng của MU, bạn sẽ thấy đôi mắt của ông rực sáng, ông liên tục xoa hai bàn tay của mình: ông đam mê cảm giác đó! Và tôi, tôi cũng muốn điều tương tự. Tôi muốn có thể tham dự các trận đấu ở châu Âu và nói với mọi người: tôi tự hào về đội bóng này, đây là một câu lạc bộ vĩ đại.
Trong bài phát biểu, tôi cũng nhắc tới Paul Scholes. Tôi biết cậu ta không thích được vinh danh như vậy, nhưng tôi không thể kìm lòng mình được. Paul cũng sẽ giải nghệ. Tôi cũng cầu chúc cho Darren Fletcher gặp được những điều tốt đẹp nhất trong quá trình hồi phục căn bệnh về ruột kết, căn bệnh rất hiếm người mắc phải.
Vài ngày sau đó tại một sân bay, một anh chàng tiến tới trước mặt tôi với một phong bì và nói, “Tôi có cái này định gửi cho ông.” Đó là một bài viết từ một tờ báo ở Ireland nói rằng tôi đã rời câu lạc bộ đúng theo cái cách mà tôi quản lý nó: quyền lực thuộc về tôi, theo những điều kiện mà tôi đặt ra. Tức là “đúng kiểu Ferguson”, tác giả bài báo viết như vậy. Tôi rất thích bài báo đó. Đó là cách làm việc của tôi trong khoảng thời gian đương nhiệm ở United, và tôi tự hào khi thấy điều đó được mô tả đúng như vậy.
Khi tôi rời khỏi Manchester United, David đã mang về 3 trợ lý riêng của ông - Steve Round, Chris Woods và Jimmy Lumsden. Ông ấy cũng chọn Ryan Giggs và Phil Neville, điều này đồng nghĩa với việc René Meulensteen, Mick Phelan và Eric Steele mất việc. Đó là lựa chọn của David. Tôi nói với David rằng tôi sẽ vui nếu ông có thể giữ lại các nhân viên của tôi, nhưng tôi không có quyền can thiệp hay ngăn cản việc ông mang theo những trợ lý riêng của mình.
Jimmy Lumsden đã làm việc với David một thời gian dài. Tôi biết ông ta từ hồi tôi còn ở Glasgow. Quê Jimmy chỉ cách chỗ tôi khoảng một dặm, ở khu vực liền kề với Govan. Ông là một người nhỏ nhắn và là một cầu thủ giỏi. Thật đáng thất vọng khi những người giỏi mất việc, nhưng trong bóng đá điều này vẫn hay xảy ra. Nhưng chuyện đó đã được xử lý tốt đẹp. Tôi đã nói với ba người bọn họ rằng tôi rất tiếc khi thấy họ không ở lại câu lạc bộ nữa. Mick, người đã làm cùng tôi 20 năm, nói rằng tôi không việc gì phải xin lỗi, và cảm ơn tôi vì cả quãng thời gian tuyệt vời mà chúng tôi đã chia sẻ cùng nhau.
Khi nhìn lại, tôi không chỉ tập trung vào những chiến thắng mà còn có cả những thất bại. Tôi đã thua 3 trận chung kết Cúp FA trước Everton, Arsenal và Chelsea. Tôi đã thua những trận chung kết Cúp Liên đoàn khi
gặp Sheffield Wednesday, Aston Villa và Liverpool. Và hai trận chung kết Champions League trước Barcelona nữa. Một trong những điều góp phần tạo nên Manchester United chính là sự trở lại, khả năng bật dậy sau những lần thất bại. Tôi luôn giữ trong đầu ý nghĩ rằng: bóng đá không chỉ có những chiến thắng và những cuộc diễu hành trên đỉnh cao. Khi thua trận chung kết Cúp FA trước Everton vào năm 1995 tôi đã nói, “Thế đấy, tôi sẽ thực hiện những thay đổi ngay tại đây.” Và chúng tôi đã làm được điều đó. Chúng tôi đưa vào đội hình chính các cầu thủ trẻ, những người được gọi bằng cái tên Thế hệ 92. Chúng tôi đã không thể kìm hãm họ lâu hơn nữa, đó là một nhóm những chàng trai rất đặc biệt, rất tuyệt vời.
Thua những trận cầu ở Manchester United tạo ra những ảnh hưởng to lớn đối với bạn. Vật lộn với rắc rối đó trong một khoảng thời gian và sau đó tiếp tục làm việc theo cách cũ không phải là một lựa chọn của tôi. Việc thất bại trong một trận chung kết ảnh hưởng đến bạn rất sâu sắc, đặc biệt khi đội bóng đã có 23 cú sút về phía khung thành đối phương trong khi đối phương chỉ có hai cơ hội, hay khi bạn thua trong một loạt sút luân lưu... Suy nghĩ đầu tiên của tôi luôn luôn là: “Hãy nghĩ thật nhanh về điều nên làm lúc này!” Trí óc của tôi nghĩ ngay đến việc cải thiện tình hình và giúp đội bóng hồi phục trở lại. Khả năng đưa ra những toan tính nhanh nhạy vào những lúc người ta dễ nản lòng nhất đã trở thành một thứ tài sản quý giá đối với tôi.
Đôi khi những thất bại lại là những kết quả tốt nhất. Phản ứng tích cực trước những khó khăn, nghịch cảnh là một phẩm chất, một đặc tính: ngay cả ở những giai đoạn đội bóng có phong độ tệ nhất bạn cũng vẫn cho thấy được sức mạnh của mình. Có một câu nói nổi tiếng: lại một ngày nữa trong lịch sử của MU. Nói cách khác thì chống lại nghịch cảnh là một phần thể
hiện sự tồn tại của chúng tôi. Nếu bạn tỏ ra yếu đuối trước những thất bại, chắc chắn thất bại sẽ đến với bạn nhiều hơn nữa. Thường thì chúng tôi đánh rơi hai điểm trong một trận đấu do đối phương ghi bàn thắng trong pha bóng cuối cùng, và sau đó chúng tôi sẽ có một chuỗi thắng lợi từ 6-7 trận tiếp theo. Đó không hề là một sự ngẫu nhiên.
Đối với những fan hâm mộ, họ phải đi làm vào thứ Hai sau khi bị tràn ngập bởi những cảm xúc đến từ trận đấu cuối tuần. Một anh chàng đã viết thư cho tôi vào tháng 1-2010 như sau: “Ông có thể hoàn lại cho tôi 41 bảng mà tôi đã trả để mua vé xem trận đấu vào ngày Chủ nhật không? Ông đã hứa là trận đấu sẽ rất hấp dẫn, nhưng thực tế thì không, tôi chẳng tìm thấy được sự hấp dẫn nào vào ngày Chủ nhật hôm qua cả! Tôi có thể lấy lại 41 bảng của mình không?” Đó, fan bóng đá là vậy đó! Ý nghĩ của tôi là viết thư trả lời nói rằng, “Anh có thể vui lòng ghi nợ 41 bảng đó vào tài khoản lợi nhuận của tôi suốt 24 năm qua không?”
Bạn giành chiến thắng những trận đấu với những đối thủ lớn như Juventus và Real Madrid, rồi một ai đó đòi lại tiền vé chỉ sau một ngày Chủ nhật đội bóng thi đấu hơi trầm lắng! Liệu có câu lạc bộ nào trên thế giới có thể cống hiến cho bạn những phút giây hào hứng đến nghẹn thở nhiều hơn Manchester United? Trong bất cứ bản giới thiệu đội bóng nào tôi cũng gửi lời cảnh báo đến những người ủng hộ: nếu chúng tôi đang bị dẫn trước 1-0 và trận đấu còn 20 phút, hãy về nhà ngay, hoặc bạn có khả năng... được khiêng ra khỏi sân khi hết giờ thi đấu. Bạn cũng có thể thấy mình kết thúc việc xem trận đấu ở bệnh viện Manchester Royal Infirmary.
Tôi hy vọng không ai phản đối khi tôi nói: không có ai bị lừa đảo. Trận đấu chưa bao giờ tẻ nhạt cả.
hai
NGUỒN GỐC GLASGOW
P
hương châm của gia tộc Ferguson ở Scotland là “Dulcius ex asperis”, câu này có nghĩa “Qua khó khăn thành quả sẽ ngọt ngào hơn”. Tinh thần lạc quan ấy giúp tôi rất nhiều trong suốt 39 năm huấn luyện bóng đá. Trong quãng thời gian đó, từ bốn tháng ngắn ngủi ở East Stirlingshire vào năm 1974 cho đến tận năm 2013 ở Manchester United, tôi luôn nhìn thấy được thành công sau nghịch cảnh. Những hành động quản lý sự thay đổi lớn lao từ năm này qua năm khác được duy trì bởi niềm tin vững chắc rằng chúng ta sẽ vượt qua bất kỳ đối thủ nào.
Cách đây nhiều năm, tôi đã đọc một bài báo viết về mình: “Alex Ferguson đã thành công trong cuộc sống dù xuất thân từ Govan.” Hãy chú ý cụm từ nghe có vẻ xúc phạm “xuất thân từ Govan”. Chính vì khởi đầu từ khu đóng tàu ở Glasgow mà tôi đạt được những gì hiện có trong bóng đá. Nguồn gốc xuất thân không bao giờ là rào cản ngăn ai đó thành công. Xuất thân khiêm tốn có thể giúp ích hơn là gây trở ngại. Nếu bạn tìm hiểu những người thành công, hãy nhìn vào cha mẹ của họ, nghiên cứu những gì họ đã làm để tìm ra những manh mối về năng lượng và động lực của họ. Nhiều cầu thủ vĩ đại nhất của tôi xuất thân từ tầng lớp lao động, nhưng đó không phải là một rào cản, trái lại, đó thường là một phần nguyên do để họ trở nên xuất sắc trong bóng đá.
Trong thời gian ngồi trên băng ghế huấn luyện, tôi đã tiến từ việc quản
lý các cầu thủ East Stirling với mức lương 6 bảng một tuần lên đến việc bán Cristiano Ronaldo cho Real Madrid với giá 80 triệu bảng. Đội hình St Mirren của tôi được trả lương 15 bảng một tuần và buộc phải tự lo cho bản thân trong mùa hè bởi họ chỉ là những cầu thủ bán thời gian. Mức lương tối đa của bất kỳ cầu thủ đội một nào của Aberdeen trong suốt tám năm tôi huấn luyện tại Pittodrie là 200 bảng một tuần, đây là mức lương trần do chủ tịch Dick Donald ấn định. Vì vậy, hành trình tài chính của hàng ngàn cầu thủ mà tôi từng quản lý và huấn luyện trong gần bốn thập kỷ là từ 6 bảng một tuần cho đến 6 triệu bảng một năm!
Tôi hiện còn giữ bức thư của một người đàn ông nói rằng trong khoảng thời gian 1959-1960 ông ta từng làm việc tại xưởng sửa tàu ở Govan và thường đến một quán rượu. Ông ta nhớ lại có một người khuấy động phong trào trẻ tuổi đi vào với một hộp quyên tiền cho quỹ đình công của những người thợ học việc, anh này có một bài phát biểu thật kích động. Điều duy nhất ông ta biết về chàng trai hồi đó là cậu ta chơi cho đội St Johnstone. Bức thư kết thúc bằng một câu hỏi, “Người đó là ông phải không?”
Thoạt tiên, tôi không nhớ chút gì về việc trò đấu tranh chính trị này, nhưng mẩu thư nói trên buộc tôi phải lục lại bộ nhớ và cuối cùng tôi nhớ ra, đúng là hồi đó tôi từng đi khắp các quán rượu trong vùng để quyên tiền cho cuộc đình công. Tôi không hề có ý tham gia chính trị. Gọi việc la hét của tôi là một “bài diễn thuyết” tức là gắn cho nó phẩm chất hùng biện - cái mà nó tuyệt nhiên không có. Tôi nhớ mình đã huênh hoang hệt như một thằng ngốc khi được hỏi về lý do của việc quyên tiền. Thực ra trong quán rượu thì mọi người có lẽ đều đã chếnh choáng và đều có tâm trạng muốn nghe người quyên góp trẻ tuổi giải thích “sự nghiệp” mà anh ta đang theo đuổi.
Quán rượu là một mảng lớn của những trải nghiệm đầu đời. Ý tưởng kinh doanh sớm nhất là sử dụng thu nhập khiêm tốn của tôi để bước vào kinh doanh bia rượu, nhằm bảo đảm tương lai. Điểm kinh doanh đầu tiên nằm ở ngã ba đường Govan và đường Tây Paisley, khu công nhân xưởng tàu. Quán rượu đã dạy tôi về con người, những ước mơ và thất vọng của họ, theo một cách thức sau này giúp tôi hiểu rõ hơn về ngành bóng đá, dù vào lúc đó tất nhiên tôi chẳng thể nhận ra điều này.
Chẳng hạn như trong một quán rượu của mình, chúng tôi có “câu lạc bộ Wembley”, theo đó khách hàng góp tiền dần dần trong 2 năm để có được tấm vé đến Wembley xem trận Anh gặp Scotland. Bất kể họ góp được bao nhiêu, tôi sẽ bỏ thêm một số tiền bằng chừng đó, và thế là đủ để họ đến London trong bốn hoặc năm ngày. Hoặc nói đúng hơn thì trên lý thuyết là như vậy! Về phần mình, tôi sẽ đi cùng họ vào ngày diễn ra trận đấu. Bạn thân nhất của tôi, Billy, lên đường đi Wembley vào ngày thứ Năm và chỉ trở về sau đó bảy ngày. Điều không tránh khỏi là việc kéo dài chuyến đi đột xuất sẽ gây xào xáo trong gia đình anh ấy.
Vào một ngày thứ Năm nọ, sau trận đấu vào thứ Bảy tuần trước tại Wembley, điện thoại reo khi tôi đang ở nhà. Anna, vợ của Billy, gọi đến và nói, “Cathy, chị hỏi giùm Alex xem Billy chồng tôi đang ở đâu”. Tôi thề là mình không biết gì hết. Có lẽ 40 khách hàng làm một chuyến đến Tòa Tháp đôi chơi và tôi không có cách nào biết được vì sao Billy đã vắng mặt không lý do. Nhưng với những người lao động ở thế hệ của tôi, một trận cầu lớn là một cuộc hành hương thiêng liêng, và mọi người yêu thích sự tụ họp bù khú với bạn hữu cũng nhiều như yêu các trận bóng.
Quán rượu của chúng tôi nằm ở Main Street, Bridgeton - một trong những khu Tin Lành lớn nhất của Glasgow. Ngày thứ Bảy trước cuộc đi bộ
diễu hành Orange (nguyên văn là Orange Walk - một cuộc diễu hành tổ chức mùa hè hàng năm ở Bắc Ireland, Scotland và một số vùng khác trong Khối Liên hiệp Anh, để kỷ niệm chiến thắng của Hoàng tử William xứ Orange theo đạo Tin Lành trước vua James II theo Công Giáo trong trận đánh nổi tiếng trên sông Boyne ở Ireland năm 1690 để giành quyền cai trị Anh, Ireland và Scotland - ND), Tam Lớn, người đưa thư, đến nói với tôi, “Alex này, bọn nhóc hỏi sáng thứ Bảy tới anh mở cửa lúc mấy giờ, vì có cuộc đi bộ. Chúng tôi sẽ xuống Ardrossan,” nằm ở duyên hải phía tây của Scotland. “Xe buýt xuất bến lúc mười giờ,” Tam nói. “Tất cả các quán rượu đều mở cửa. Quán của anh cũng nên vậy.”
Tôi bối rối. “Vậy à, vậy nên mở cửa lúc nào?”
Tam nói, “Bảy giờ.”
Vậy là tôi đến quán lúc 6 giờ 15, với cha, em trai Martin và một cậu nhỏ làm thuê người Ý. Chúng tôi chuẩn bị kỹ vì Tam đã nói, “Trữ hàng nhé, anh bạn sẽ cần có rất nhiều thức uống ở đây.” Tôi mở cửa lúc 7 giờ sáng. Quán chẳng mấy chốc đầy những người tham gia cuộc đi bộ, họ nói to hết cỡ và cảnh sát đang đi ngang qua nhưng không nói tiếng nào.
Từ 7g-9g30 sáng, tôi thu vào 4 tờ lớn. Vodka bán được gấp đôi và thêm các thứ linh tinh khác nữa. Cha tôi chỉ biết ngồi và lắc đầu. Đến 9 giờ 30 chúng tôi phải hết sức vất vả để quán có thể sẵn sàng đón những người khách khác. Cọ rửa quán, chúng tôi cũng phải tự làm lấy, nhưng bù lại tôi có được 4 tờ lớn trong ngăn tiền.
Điều hành quán rượu là công việc khó khăn. Đến năm 1978 tôi đã sẵn sàng thoát được trách nhiệm nặng nề từ hai quán rượu. Quản lý đội Aberdeen thì không còn thời gian đánh vật với mấy bợm nhậu hoặc làm sổ sách cho quán nữa. Nhưng những kỷ niệm tốt đẹp trong những năm này
vẫn tồn đọng trong ký ức, và chỉ riêng những điều này cũng có thể đủ để tôi viết ra thành một cuốn sách. Những người phu khuân vác tại cảng thường dẫn vợ đến quán vào sáng thứ Bảy, họ đã nhận lương từ tối thứ Sáu và gửi tiền để tôi giữ hộ trong két sắt sau quầy bar. Vào tối thứ Sáu, bạn cảm thấy mình như thể triệu phú - không thể nào biết được tiền trong két là của mình hay của họ. Hồi đầu, Cathy vợ tôi thậm chí còn phải đổ tiền ra thảm để đếm!!! Tới sáng thứ Bảy tiền sẽ lại ra đi khi những người phu khuân vác đến để thu lại. Sổ sách lưu lại các giao dịch này gọi là sổ ghi nợ.
Có một khách nữ quen tên Nan đặc biệt cẩn trọng theo dõi tiền bạc của chồng. Cô ta có giọng điệu hệt như một phu khuân vác. “Ông nghĩ tụi này ngớ ngẩn hết sao?” Cô ta nói, đưa tôi vào tầm ngắm.
“Chuyện gì vậy cô?”, tôi cố kéo dài thời gian.
“Ông nghĩ tụi này ngớ ngẩn hết sao? Tôi muốn xem quyển sổ nợ.” “Ồ, cô không xem được đâu,” tôi ứng biến. “Cái này bất khả xâm phạm. Nhân viên thuế vụ không cho phép. Họ kiểm tra hàng tuần. Cô không được phép xem sổ.”
Nan quay sang ông chồng đang nhẫn nhục chờ đợi, và nói, “Đúng vậy không?”
“À, à, anh cũng không chắc lắm,” người chồng nói.
Giông bão đã tan! Nan đành hăm he, “Nếu tôi tìm ra tên chồng tôi trong đó, tôi sẽ không bao giờ quay trở lại quán.”
Đó là những kỷ niệm còn mãi, khi trải qua thời trẻ quanh những người có tính cách tuyệt vời và kiên cường. Đôi khi họ còn hung tợn nữa. Nhiều lúc, tôi về nhà bị tét đầu hay bầm mắt. Cuộc sống ở quán rượu là vậy đó. Khi mọi người quá hồ hởi hay sắp xảy ra đánh nhau, đó là lúc cần nhảy vào để lập lại trật tự. Bạn sẽ cố gắng tách các nhân vật chính ra nhưng thường
thì bị dính một đòn vào cằm. Thế nhưng, khi nhớ lại tôi thấy cuộc sống đó mới tuyệt làm sao. Cứ như là các nhân vật trong một vở hài kịch lớn của cuộc đời.
Tôi nhớ hoài có một gã tên Jimmy Westwater đi vô quán trong tình trạng gần như không thở nổi, người y xám ngoét. “Lạy Chúa, ông có sao không?”, tôi hỏi. Hóa ra y đã tự quấn lụa Shantung khắp mình để lẻn ra khỏi bến cảng mà không bị bắt - cả nguyên bành lụa Shantung trên người! Thế nhưng y dại dột quấn chặt đến nỗi gần như không thở được.
Còn một Jimmy khác, gã làm thuê có nhiệm vụ giữ vệ sinh cho quán, đêm nọ lại xuất hiện với áo thắt nơ. Một khách quen hoài nghi: “Thắt nơ ở Govan? Ông giỡn hả.” Rồi một tối thứ Sáu nọ, tôi quay về quán thì phát hiện ai đó bán những túi thức ăn cho chim ở quầy bar. Trong khu vực này của Glasgow, mọi người đều nuôi chim bồ câu.
“Cái gì đây?” Tôi hỏi.
“Thì thức ăn cho chim.” Câu trả lời cứ như thể chuyện đó là hiển nhiên vậy.
Lại có một chàng Ireland tên Martin Corrigan tự hào có thể cung cấp mọi đồ gia dụng. Đồ sành sứ, dao kéo muỗng nĩa, tủ lạnh - bất cứ thứ gì bạn cần. Một gã khác bước vào thông báo: “Có cần ống nhòm không? Tôi rỗng túi rồi” và rút ra một ống nhòm thật đẹp, được bọc trong giấy dầu. “Chỉ một tờ 5 bảng thôi,” gã nói.
“Với một điều kiện,” tôi nói. “Tôi trả anh 5 bảng miễn là anh uống rượu tại đây, không đi qua quán Baxter.” Gã là một chàng trai tốt, tuy ăn nói không mạch lạc cho lắm. Vì vậy, tôi lấy cái ống nhòm và gã lập tức tiêu 3 bảng tại quầy bar.
Khi tôi mang những món đồ mua được về nhà, Cathy sẽ nổi khùng. Tôi
còn nhớ có lần mang về nhà chiếc bình hoa của Ý tuyệt đẹp mà sau này Cathy thấy bán trong một cửa hàng giá 10 bảng. Vấn đề là tôi đã trả 25 bảng cho chiếc bình hoa khi ở quán bar. Một ngày nọ tôi vác về một chiếc áo vest da lộn mới cóng và thực sự nhìn giống y hàng thật.
“Bao nhiêu vậy?” Cathy hỏi.
“Bảy tờ nhỏ,” tôi nói, tươi cười rạng rỡ.
Vậy là tôi treo nó lên. Hai tuần sau chúng tôi sẽ đến dự một tiệc nhỏ ở nhà em gái Cathy. Tôi mặc nó vào dịp đó, và tôi đứng trước gương ngắm các đường cắt. Rồi tôi kéo nhẹ hai ống tay áo cho vừa vặn hơn, và hai tay áo rớt ra trong bàn tay của tôi. Thế là tôi đứng đó với một chiếc áo vest không tay!
Cathy cười bò khi tôi hét lên, “Tôi sẽ giết hắn!” Ngay cả một lớp vải lót cũng không có trong chiếc áo vest khốn khổ đó.
Trên một bức tường trong phòng snooker tôi treo hình của Bill, bạn thân nhất của tôi. Billy đúng là một gã trai đoảng vị, ngay đến một tách trà cũng không biết cách pha. Một hôm nọ, chúng tôi về nhà Bill sau khi đi ăn ở ngoài. Tôi bảo Bill, “Bắc ấm lên bếp.” Bill bước ra ngoài phòng và mất tiêu trong khoảng 15 phút. Hắn đi tới chỗ quái quỷ nào nhỉ? Thì ra hắn gọi cho Anna, vợ hắn, chỉ để hỏi, “Em pha trà như thế nào?”
Có một đêm Anna để một chiếc bánh nhân thịt trong lò nướng lúc Billy đang nằm xem phim The Towering Inferno (Tháp hỏa ngục) trên TV. Hai giờ sau Anna về nhà phát hiện khói đang phun ra từ nhà bếp.
“Lạy Chúa, anh không tắt lò nướng hả?” Cô ta há hốc miệng. “Nhìn khói kìa.”
“Anh tưởng khói từ TV!” Billy la lên. Hóa ra hắn nghĩ đó là một hiệu ứng đặc biệt từ tòa tháp đang cháy.
Mọi người luôn tụ tập lại nhà Billy, như bướm đêm bay theo ánh sáng vậy. Tuy nhiên, họ không gọi hắn là Billy mà gọi là ông McKechnie. Hai cậu con trai, Stephen và Darren, là niềm tự hào của hắn và Anna, và vẫn còn rất thân với các con tôi. Billy giờ đây không còn nữa, nhưng tôi vẫn luôn nhớ người bạn này cùng tất cả những chuyện vui chúng tôi san sẻ cùng nhau.
Tôi có một nhóm bạn cực thân từ những ngày đó. Duncan Petersen, Tommy Hendry và Jim McMillan là bạn cùng học nhà trẻ từ năm lên bốn. Duncan là một thợ sửa ống nước, làm việc cho ICI tại Grangemouth và đã nghỉ hưu từ rất sớm. Anh có một nơi ở nhỏ rất xinh xắn tại Clearwater, Florida và họ thích đi du lịch. Tommy bị bệnh tim, anh là kỹ sư và Jim cũng vậy. Người thứ tư, Angus Shaw, phải chăm sóc vợ ốm. John Grant, cũng rất thân với tôi, đã chuyển đến Nam Phi vào thập niên 1960. Vợ và con gái anh John hiện điều hành một doanh nghiệp bán buôn.
Khi tôi rời đội bóng thiếu nhi Harmony Row, điều đó tạo ra một sự ngăn cách lớn giữa tôi và các cậu bé ở Govan. Họ nghĩ rằng tôi đã sai lầm khi rời bỏ hàng ngũ để đến Drumchapel Amateurs. Mick McGowan, người quản lý Harmony Row, không bao giờ nói chuyện với tôi nữa - ông quả là một người rạch ròi và không khoan nhượng. Mick McGowan “chột” là một người đam mê đáng kinh ngạc đội bóng Harmony Row, cho nên ông thực sự xóa tên tôi khi tôi bỏ đi. Nhưng các chàng trai ở Govan và tôi vẫn cùng nhau đi chơi, đi khiêu vũ cho đến tuổi 19 hay 20. Tất cả chúng tôi đều bắt đầu hẹn hò với bạn gái vào khoảng thời gian đó.
Và rồi cũng đến lúc chúng tôi xa cách nhau, mọi người trôi dạt khắp nơi. Tôi lập gia đình với Cathy và chuyển lên đến Simshill. Bạn bè tôi cũng lần lượt lập gia đình, tình bằng hữu ngày xưa dường như bị chia cắt, liên lạc bị gián đoạn. John và Duncan đã chơi cùng tôi tại Queen’s Park, vào
khoảng 1958-1960. Làm HLV bóng đá, bạn gần như không có thời gian cho bất cứ điều gì ngoài những yêu cầu của công việc. Tại St Mirren, dĩ nhiên tôi cũng không có thời gian. Nhưng những tình cảm bạn bè đã không hề sứt mẻ. Vào năm 1986, khoảng hai tháng trước khi tôi rời Aberdeen, Duncan đã gọi điện mời vợ chồng tôi dự kỷ niệm 25 năm ngày cưới của vợ chồng anh vào tháng Mười. Tôi vui vẻ nhận lời, và hôm đó thật sự là một sự kiện đặc biệt trong cuộc đời tôi. Cả bọn đều ở đó và bữa tiệc đưa chúng tôi trở lại với nhau. Chúng tôi nay đã là những người đàn ông trưởng thành, có gia đình riêng. Tôi chuyển đến United vào tháng sau, và chúng tôi vẫn giữ mối liên hệ thân thiết kể từ ngày đó.
Khi bạn tới tuổi đó, tầm 19 đến 20, cuộc sống mọi người có hơi tách biệt, nhưng tất cả bọn họ vẫn gắn bó với nhau. Chỉ mình tôi sống kiểu khác. Nói gì thì nói, tôi không trốn tránh cuộc sống như kiểu của các bạn tôi, đây đơn giản chỉ là cách mà cuộc sống của tôi đã diễn ra. Tôi đã điều hành hai quán rượu và là huấn luyện viên của St Mirren. Rồi sau đó là công việc tại Aberdeen vào năm 1978.
Những tình bạn này giúp tôi đứng vững tại Manchester United. Cả bọn sẽ kéo đến nhà tôi ở Cheshire ăn buffet và hát hò, rồi chúng tôi đem hết các đĩa hát xưa ra. Tất cả bọn họ đều là ca sĩ giỏi. Khi đến lượt tôi hát, rượu đã truyền cho tôi cảm giác phóng đại về khả năng ngâm nga của mình. Giống như là tôi hát hay ngang ngửa Frank Sinatra vậy. Trong đầu tôi không chút nghi ngờ là sẽ chiêu đãi thính giả một màn trình diễn hay nhất của bài “Moon River”. Than ôi, chỉ mới hát hai từ, tôi mở mắt và thấy căn phòng trống trơn. “Mấy bồ đến ăn đồ ăn của tôi rồi qua phòng bên xem TV khi tôi hát hay sao?” Tôi phàn nàn...
“Tụi mình không nghe thứ đó, nghe kinh lắm!” bọn họ trả lời. Họ là
những người bạn tốt nhất hạng. Hầu hết đều đã kết hôn hơn 40 năm. Ơn Chúa, họ đã trách phạt tôi. Họ “đập” tôi liên tục. Họ làm được như vậy vì họ quá giống tôi, như những con ngựa cùng nòi vậy! Họ đã cùng tôi trưởng thành, và luôn thông cảm với tôi. Khi họ đến Manchester thăm tôi, MU thường thắng trận. Nhưng nếu chúng tôi thua thì họ vẫn thông cảm và nói, “Đây quả là công việc khó khăn.” Các bạn nghe nhé, câu nhận xét của bạn tôi không phải là “Thật rác rưởi!”, mà chỉ là “Đây quả là công việc khó khăn.”
Bạn bè của tôi ở Aberdeen vẫn rất gần gũi. Điều tôi học được về Scotland là càng lên phía Bắc người ta càng ít nói hơn. Phải mất nhiều thời gian hơn để trui rèn tình bạn, nhưng khi đã làm bạn thì mối quan hệ này thật sâu đậm. Một số bạn bè luôn đi nghỉ cùng gia đình tôi, như Gordon Campbell, luật sư của tôi Les Dalgarno, rồi Alan McRae, George Ramsay và Gordon Hutcheon.
Khi tôi dấn sâu hơn vào công việc tại United, cuộc sống ngoài bóng đá của tôi giảm hẳn. Tôi không còn ra ngoài đi chơi vào tối thứ Bảy, đơn giản vì bóng đá đã vắt kiệt sức tôi. Trận đấu thường bắt đầu lúc 3g chiều và tôi không thể về nhà trước 8g45 tối. Đó là cái giá của sự thành công: 76.000 người trở về nhà cùng một lúc và đều chẳng còn mấy nhu cầu đi chơi tối hôm đó nữa! Nhưng tôi cũng có thêm các tình bạn bền vững: Ahmet Kurcer, người quản lý của khách sạn Alderley Edge, Sotirios, Mimmo, Marius, Tim, Ron Wood, Peter Done, Jack Hanson, Pat Murphy và Pete Morgan, Ged Mason, Harold Riley tuyệt vời, và dĩ nhiên là những cộng sự của tôi, những người hết mực trung thành. James Mortimer và Willie Haughey là hai người bạn cũ ở quê tôi, còn có Martin O’Connor và Charlie Stillitano ở New York và Eckhard Krautzun ở Đức, tất cả đều là người tốt.
Khi thu xếp được, chúng tôi có những buổi đi chơi cùng nhau thật tuyệt vời.
Trong những năm đầu ở Manchester tôi kết bạn với Mel Machin, huấn luyện viên của Manchester City, người bị sa thải không lâu sau khi họ đánh bại chúng tôi 5-1. Lý do được đưa ra, tôi nhớ hình như là do Mel cười không đủ nhiều. Tôi có lẽ đã bị sa thải từ lâu nếu logic này được áp dụng tại United! Trong những ngày đó, John Lyall, huấn luyện viên của West Ham, là người tôi tin cậy. Tôi không biết hết tất cả các cầu thủ ở Anh và cũng không tin vào bộ phận tuyển trạch tại United. Tôi gọi điện cho John thường xuyên và anh ta sẽ gửi cho tôi báo cáo về các cầu thủ để bổ sung vào danh sách của riêng mình. Tôi có thể tin cậy và tâm sự với anh rất nhiều. Khi United chơi không tốt, anh sẽ nói, “Tôi không thấy Alex Ferguson trong đội bóng đó.”
Jock Wallace, cựu HLV nóng tính của Rangers, cũng từng nói với tôi trong một khách sạn vào đêm nọ, “Tôi không thấy Alex Ferguson trong đội bóng đó. Ông nên đem ông Alex Ferguson trở lại đây đi.” Những người này tình nguyện cho tôi lời khuyên và bạn biết họ quan sát đội bóng trên cơ sở bạn bè. Tôi gọi đó là những tình bạn tốt nhất. Bobby Robson là huấn luyện viên của đội tuyển Anh, vì vậy lúc ban đầu đó là một mối quan hệ hoàn toàn khác, nhưng rồi chúng tôi cũng trở nên thân thiết. Một người bạn nữa vào thời ấy là Lennie Lawrence, và giờ đây chúng tôi vẫn rất thân thiết.
Bobby Robson và tôi tái lập liên lạc gần gũi tại trận đấu tôn vinh Eusébio ở Bồ Đào Nha, khi đó ông đang huấn luyện Porto và Sporting Lisbon. Eric Cantona ra mắt trong trận đấu đó. Bobby đến khách sạn của chúng tôi và tôi sẽ luôn luôn nhớ là ông đã đi tìm Steve Bruce để nói, trước mặt tất cả các cầu thủ, “Steve, tôi đã có lỗi với anh. Lẽ ra tôi phải gọi anh
vào đội tuyển Anh, tôi muốn xin lỗi vì điều đó.”
Phần lớn những gì tôi biết trong công tác huấn luyện là tôi đã học được trong những ngày đầu đó, đôi khi tôi không nhận ra những bài học đã dần ngấm vào mình lúc nào không biết. Tôi đã học hỏi nhiều điều về bản chất của con người rất lâu trước khi tôi đi về phía nam, đến United.
Đôi khi người khác có quan điểm về bóng đá hay về những việc khác không hề giống bạn, và bạn phải chấp nhận thực tế này. Ví dụ, Davie Campbell là cầu thủ của tôi ở St Mirren, cậu ta chạy rất nhanh nhưng không hề khéo léo, không có thể ghi lấy một bàn thắng. Lúc nghỉ giữa hai hiệp, tôi đang ngồi với cậu ta trong phòng thì cửa mở và bố cậu ta xuất hiện. “Davie, con chơi thật sáng chói, chúc mừng con!”, ông ta nói rồi biến mất.
Một ngày nọ, chúng tôi đến Cowdenbeath đấu với đội East Stirling và phạm sai lầm khi không kiểm tra trước thời tiết. Mặt sân cứng như đá. Vậy là chúng tôi đi vào Cowdenbeath để mua 12 đôi giày bóng chày (thời đó vẫn còn chưa có đế cao su). Chúng tôi bị dẫn 0-3 khi hết hiệp một. Vào hiệp hai, tôi thấy Billy Renton, một đồng đội cũ, đang vỗ vỗ vai mình. Anh nói, “Alex, tôi muốn giới thiệu con trai tôi với anh.”
Tôi nói, “Lạy Chúa, Billy, chúng tôi đang bị dẫn ba bàn mà.” Cũng ngày hôm đó, Frank Connor, một người đàn ông đáng yêu tính nóng như lửa, gặp một quyết định chống lại ông và ném chiếc băng ghế vào sân. Tôi nói, “Chết tiệt, Frank, bên anh đang dẫn 3-0 kia mà!” “Nhưng quyết định đó là một sự sỉ nhục,” Frank độp lại.
Và đó chính là những kỷ niệm đầy đam mê, luôn còn mãi trong tâm trí tôi.
Tôi nhớ lại câu chuyện về cuộc đụng độ của Jock Stein và Jimmy
Johnstone, một cầu thủ xuất sắc và cũng là tay chơi bời rượu chè khét tiếng. Một buổi chiều, Jock thay Jimmy ra trong một trận đấu để phạt Jimmy vì không muốn chơi trong một trận tranh cúp châu Âu trên sân khách. Khi Jimmy đi ra khỏi sân, anh ta nói, “Ê, cha mập một chân khốn kiếp!” và tung cước vào buồng ngồi trên sân của ban huấn luyện. Sau đó Jimmy chạy vào đường hầm và Jock Mập lập tức đuổi theo. Jimmy chạy vào phòng thay đồ và chốt cửa lại.
“Mở cửa,” Jock hét lên.
“Không đâu, ông sẽ đánh tôi hả?” Jimmy trả lời.
“Mở cánh cửa đó ra!” Jock nhắc lại. “Tao cảnh cáo mày.”
Jimmy mở cửa và nhảy thẳng vào bồn tắm, đang chứa nước rất nóng. Jock hét lên, “Nhảy ra khỏi đó mau.”
“Không, tôi không ra đâu,” Jimmy nói. Ngoài kia, trên sân, trận đấu vẫn đang diễn ra.
Huấn luyện bóng đá là một chuỗi những thách thức không có hồi kết. Rất nhiều trong số đó là việc tìm hiểu về những yếu đuối, khiếm khuyết của con người. Có một lần, một số cầu thủ Scotland sau một đêm nhậu đã quyết định nhảy xuống chèo thuyền chơi. Kết cục là Jimmy Johnstone, tức Jinky bé nhỏ, bị tuột mái chèo và dòng nước cuốn anh ta ra xa trong khi anh ta vẫn đang hát váng lên. Khi tin tức truyền về Celtic Park, Jock Stein được thông báo rằng Jinky đã được nhân viên cứu hộ bãi biển cứu thoát từ một chiếc thuyền chèo ở tận vùng biển Firth of Clyde. Jock nói đùa, “Lẽ nào hắn không bị chết đuối? Chúng tôi đã làm giấy chứng tử cho hắn, chúng tôi đã chăm sóc Agnes, và tôi vẫn còn tóc trên đầu mà.”
Jock rất vui nhộn. Trong thời gian cùng nhau làm việc ở đội tuyển Scotland, chúng tôi từng đánh bại đội Anh 1-0 ngay tại sân Wembley vào
tháng Năm 1985. Sau đó cả đội bay đến Reykjavik để đối đầu với Iceland trong tâm trạng thoải mái và khá hài lòng với chính mình. Đêm đó ban huấn luyện dự một bữa tiệc đầy tôm, cá hồi và trứng cá muối. Jock không uống rượu bao giờ, nhưng tôi mời ông một ly vang trắng để ăn mừng chiến thắng của chúng tôi trước đội Anh.
Trong trận đấu với Iceland, chúng tôi phải vật vã mới thắng 1-0 - một màn trình diễn thật thảm hại. Và sau đó Jock Mập quay sang tôi và nói, “Thấy chưa? Do anh và món vang trắng của anh đó.”
Mặc dù đã có tất cả những kinh nghiệm này, tôi vẫn cảm thấy mình có cách riêng trong những năm đầu ở Manchester United. Ngay cả việc tôi dễ dàng nổi nóng cũng có lợi, bởi khi đó tôi để lộ tính cách của mình ngay. Ryan Giggs cũng nóng nảy, nhưng chậm hơn. Tính dễ cáu của tôi là một công cụ hữu ích, vì tôi ngay lập tức thể hiện được quan điểm của mình. Tính cách đó đã giúp tôi khẳng định quyền lực của mình, nó nói với các cầu thủ và nhân viên rằng tôi không phải là người làm việc tào lao.
Luôn có những người muốn đối đầu hay thách thức bạn. Khi bắt đầu nghề huấn luyện, thậm chí ngay trong thời gian đầu tiên tại East Stirling, tôi đã có một cuộc đối đầu quan trọng với trung phong của đội, anh này chính là con rể của Bob Shaw, một trong những giám đốc của CLB.
Chuyện xảy ra như sau: cầu thủ Jim Meakin, báo với tôi rằng cả gia đình anh ta sẽ đi nghỉ vào một dịp cuối tuần trong tháng Chín. Đó là một truyền thống.
“Ý anh là sao?” Tôi nói.
“Thì ông biết rồi đấy, tôi sẽ không chơi vào một ngày thứ Bảy tới đây,” Jim nói.
“OK, nghe đây anh bạn,” tôi nói. “Anh có thể không chơi vào thứ Bảy, rồi
sau đó cũng chẳng cần quay về đội nữa.”
Thế là anh ta đành ra sân thi đấu, và ngay sau đó phóng xe xuống Blackpool tụ họp với gia đình.
Vào thứ Hai tôi nhận được một cuộc gọi điện thoại, “Sếp à, tôi bị hư xe.” Ở Carlisle, tôi nghĩ là anh ta ở đó. Chắc anh ta cho tôi là thằng ngốc. Nhanh như chớp, tôi nói, “Tôi không nghe rõ, cho tôi số điện thoại của anh, tôi sẽ gọi lại.”
Anh ta im lặng.
“Đừng quay về đội nữa,” tôi nói.
Thế rồi ông giám đốc Bob Shaw rất không hài lòng về tôi. Điều này tiếp diễn suốt tuần này sang tuần khác. Ông chủ tịch nói, “Alex à, làm ơn đi, đừng để Bob Shaw làm phiền tôi nữa, cho Jim quay về đội đi.”
Tôi nói, “Không được, thưa ông Willie, anh ta xong phim rồi. Ông thử nói xem, làm sao tôi có thể làm việc với những gã quyết định khi nào họ sẽ đi nghỉ?”
“Tôi hiểu vấn đề anh nói, nhưng cấm ba tuần là không đủ hay sao?” ông hỏi.
Vào tuần kế tiếp, ông theo tôi vào tận nhà vệ sinh ở Forfar, đứng bên cạnh tôi rên rỉ, “Làm ơn mà, Alex, liệu còn chút thông cảm nào trong người anh không?”
Sau khi im lặng một lúc, tôi nói, “Thôi được rồi.”
Và ông ta hôn tôi. “Ông làm cái gì vậy, lão già quái quỷ ngớ ngẩn,” tôi nói. “Ông đang hôn tôi trong một nhà vệ sinh công cộng đấy!” Vào tháng 10-1974, trong giai đoạn học nghề kế tiếp, tôi đến huấn luyện cho St Mirren. Ngày đầu tiên, tôi được chụp một tấm hình để đăng lên tờ
báo Paisley Express. Khi xem tờ báo, trong hình tôi nhìn thấy tay đội trưởng đưa hai ngón tay làm dấu chữ V sau lưng tôi. Ngày thứ Hai kế tiếp, tôi gọi anh ta vào và nói, “Anh được phép chuyển nhượng tự do nếu muốn. Không có chỗ cho anh ở đây. Anh sẽ không được ra sân.”
“Tại sao vậy?” Anh ta hỏi.
“Ngay ngày đầu, làm dấu hiệu chữ V phía sau huấn luyện viên khi chụp hình chứng tỏ anh không phải là một cầu thủ giàu kinh nghiệm, hoặc là một người trưởng thành. Tôi cần một người thực sự trưởng thành trong vai trò đội trưởng. Đây chỉ là trò khỉ của bọn nhóc còn đi học. Anh bạn phải đi.”
Bạn phải ghi dấu ấn của mình. Như Jock Mập nói với tôi về những cầu thủ: Không bao giờ được đem lòng yêu họ, vì họ sẽ cắm sừng anh. Tại Aberdeen tôi đã phải đối phó với tất cả các loại vi phạm. Tôi bắt gặp rất nhiều. Và sau đó bạn chết cười với phản ứng của bọn họ. “Tôi ư!?” Họ sẽ nói, với vẻ mặt biểu lộ tổn thương sâu sắc. “Đúng rồi, chính là anh.”
“Ồ, tôi đã đến thăm một người bạn.”
“Ồ phải vậy không? Những ba giờ? Và kết cục là say bí tỉ?” Mark McGhee và Joe Harper thử thách tôi rất nhiều. Tương tự là Frank McGarvey ở St Mirren. Một ngày Chủ nhật năm 1977, 15.000 fan hâm mộ đã theo chúng tôi đến trận tranh cúp tại Fir Park nhưng để thua 1-2. Đội Motherwell đã hạ gục chúng tôi, còn cá nhân tôi thì đã phải làm tường trình với SFA vì cho rằng trọng tài đã không đủ cứng rắn.
Tối Chủ nhật đó, điện thoại nhà tôi reo. Bạn tôi, John Donachie, nói qua điện thoại, “Tôi không muốn kể cho nghe trước trận đấu vì tôi biết anh
sẽ nổi trận lôi đình, nhưng tôi thấy McGarvey trong quán rượu, say bí tỉ vào tối thứ Sáu.” Tôi gọi điện đến nhà anh ta. Mẹ anh ta nghe máy. “Frank có nhà không ạ?”
“Không có,” bà nói. “Nó xuống phố rồi. Tôi giúp gì được cho ông không?” “Bà vui lòng nói anh ấy gọi điện cho tôi khi về đến nhà. Tôi sẽ thức chờ. Tôi sẽ không ngủ cho đến khi nói chuyện được với anh ấy.” Lúc 11g45 tối, điện thoại reo. Một tiếng Pip vang lên, vì vậy tôi biết đó là loại điện thoại trả tiền công cộng. “Tôi đang ở nhà,” Frank nói. “Nhưng tôi lại nghe có tiếng pip!”, tôi nói.
“Vâng, chúng tôi có lắp điện thoại trả tiền,” Frank nói. Có thể đúng thật là vậy, nhưng tôi không sao tin nổi là anh ta đang điện thoại từ nhà mình. “Anh đã ở đâu vào đêm thứ Sáu?”
“Tôi không thể nhớ nổi.”
“Được rồi, tôi sẽ cho anh biết. Anh đã ở quán bar Waterloo, đúng là chỗ đó. Anh bị treo giò suốt đời. Đừng quay về nữa. Anh bị đuổi khỏi đội tuyển U21 Scotland. Tôi rút anh ra khỏi đội tuyển. Anh sẽ không bao giờ được đá trái bóng nào khác suốt đời.” Và tôi cúp điện thoại.
Sáng hôm sau, mẹ anh ta gọi cho tôi, “Frank con tôi không uống rượu. Ông đã nhìn nhầm người.” Tôi trả lời bà, “Tôi không nghĩ vậy. Tôi biết mọi bà mẹ đều yêu mến và nghĩ tốt về con trai họ, nhưng xin bà về nhà hỏi lại anh ta.”
Trong ba tuần sau đó tôi đã treo giò anh ta hoàn toàn, và tất cả các cầu thủ đều thì thầm về chuyện này.
Sắp diễn ra trận quyết định với Clydebank và tôi đã bảo với trợ lý, Davie Provan Mập, “Tôi cần anh ta quay lại chơi trận này.” Một tuần trước trận
cầu sinh tử này, câu lạc bộ mở tiệc ở tòa thị chính ở Paisley. Tôi bước vào bữa tiệc với Cathy, và đột nhiên Frank nhảy xổ ra từ phía sau một cái cột, van nài, “Huấn luyện viên, xin ông cho tôi một cơ hội.” Ôi, đúng là món quà từ trên trời rơi xuống: tôi đang đau đầu nghĩ xem làm sao đưa anh ta trở lại đội bóng mà không bị mất mặt thì anh ta lại xuất hiện ngay trước mặt tôi! Tôi bèn bảo Cathy đi trước, còn tôi vẫn giữ giọng lãnh đạm hết mức với Frank, “Tôi đã bảo rồi, cậu bị loại vĩnh viễn.” Đứng bên cạnh theo dõi cuộc nói chuyện, Tony Fitzpatrick bước tới và nói, “Thưa Sếp, cho anh ta một cơ hội khác đi, tôi chắc chắn rằng anh ta sẽ cư xử phải phép.”
“Sáng mai đến nói chuyện với tôi,” tôi nói. “Giờ không phải là lúc thích hợp.” Tôi cùng Cathy bước vào sảnh, đắc thắng. Thế rồi trong trận đấu với Clydebank sau đó, chúng tôi thắng 3-1 và Frank ghi hai bàn!
Với những người trẻ, bạn phải cố gắng truyền đạt cho họ ý thức trách nhiệm. Nếu họ ý thức nhiều hơn về điều này bên cạnh năng lượng và tài năng của họ, họ sẽ có được phần thưởng là một sự nghiệp rất thành công.
Một tài sản quý của tôi khi bắt đầu nghiệp huấn luyện là việc tôi có thể đưa ra quyết định. Tôi chưa bao giờ lo về điều đó, ngay cả khi còn là một cậu học sinh tự ý tham gia việc chọn đội hình. Thậm chí tôi đã hướng dẫn các đồng đội, “Cậu chơi ở đây, còn cậu kia chơi ở đằng này...” tôi thường bảo với họ thế. Willie Cunningham, một trong những huấn luyện viên đầu tiên của tôi, thường bảo, “Cậu phiền phức quá đi thôi.” Đáp lại, tôi bàn chiến thuật với ông ta và hỏi, “Ông có chắc hiểu rõ mình đang làm gì không?”
“Kẻ gây phiền toái, chính là cậu đó,” ông trả lời.
Các cầu thủ khác sẽ ngồi đó nghe tôi xen vào và cho rằng tôi sắp bị giết vì không vâng lời. Nhưng tất cả chỉ là vì tôi lúc nào cũng có thể đưa ra quyết định. Tôi không biết nó đến từ đâu, nhưng tôi biết rằng từ lúc nhỏ
tôi đã là một người tổ chức, một người hướng dẫn, người chọn đội hình. Cha tôi là một người lao động bình thường, rất thông minh, nhưng không phải là một nhà lãnh đạo theo bất kỳ phong cách nào, vì vậy tôi không hề bị ảnh hưởng gì từ cha mẹ trong lĩnh vực này.
Mặt khác, tôi hiểu rõ một phần nữa của bản thân mình, đó là sự cô độc, không giao tiếp. Khi 15 tuổi và chơi cho đội bóng học sinh Glasgow, tôi trở về nhà sau khi ghi bàn vào lưới đội Edinburgh - hôm đó là ngày trọng đại nhất của cuộc đời tôi - và nghe cha tôi bảo có một câu lạc bộ lớn muốn nói chuyện với tôi. Phản ứng của tôi làm cả hai ngạc nhiên, “Con chỉ muốn ra ngoài chơi. Con muốn đi xem phim.”
“Có chuyện gì với con vậy?”, Ông nói.
Nhưng thực ra không có gì với tôi cả, chỉ là tự tôi muốn tách biệt. Tôi không biết tại sao, cho đến tận bây giờ tôi vẫn không biết lý do vì sao tôi đã làm thế. Tôi phải ở một mình. Cha tôi đã rất tự hào và vui mừng còn mẹ đang nhảy múa và nói, “Thật là tuyệt vời, con trai à.” Ông bà tôi thì quay cuồng. Ghi bàn vào lưới đội bóng học sinh Edinburgh là chuyện lớn lao. Tuy nhiên, ngay vào lúc đó tôi đã phải trốn vào khoảng trời riêng bé tẹo của mình, bạn có biết không?
Từ đó đến nay là một khoảng cách mênh mông. Khi tôi bắt đầu tại Manchester United vào năm 1986, Willie McFaul là huấn luyện viên của Newcastle United. Manchester City có Jimmy Frizzell, còn George Graham huấn luyện tại Arsenal. Tôi quý George: một con người tốt, một người bạn tuyệt vời. Khi tôi gặp vấn đề với Martin Edwards trong bản hợp đồng của tôi, Sir Roland Smith đang là chủ tịch Câu lạc bộ. Đôi lúc, Câu lạc bộ có thể gây rắc rối. Bạn sẽ phải chờ đợi các vấn đề được giải quyết. Một ngày nọ Sir Roland gợi ý rằng Martin, Maurice Watkins, luật sư của câu lạc bộ, và tôi
nên đi qua để đảo Man để bàn thảo về hợp đồng mới của tôi. George hiện có mức lương gấp đôi tôi tại Arsenal.
“Tôi sẽ đưa cho anh bản hợp đồng của tôi, nếu anh muốn,” George nói. “Anh có chắc là không phiền chứ?” Tôi hỏi.
Vậy là tôi qua đảo Man, cầm theo bản hợp đồng của của George. Martin là một chủ tịch tốt với tôi. Ông ta là người có cá tính rất mạnh mẽ, chỉ có điều ông luôn nghĩ mỗi penny CLB chi ra là tiền của chính bản thân ông. Do đó, Martin chỉ trả cho bạn những gì ông ta muốn. Không chỉ riêng với tôi - tất cả mọi người đều vậy.
Khi tôi đưa cho ông hợp đồng của George, ông không tin điều đó. “Vậy điện cho David Dein đi,” tôi đề nghị. Martin làm như vậy, nhưng David Dein (Chủ tịch Arsenal) phủ nhận rằng George được thanh toán số tiền trên hợp đồng. Quả là một trò hề, vì chính George đã đưa tôi bản hợp đồng của anh ta do David Dein ký. Nếu không phải vì Maurice và Roland Smith thì tôi có lẽ đã bỏ việc ngay vào ngày đó. Dù sao thì tôi cũng đã rất gần với chuyện bỏ việc.
Bài học đạo đức ở đây, cũng như trong cả 39 năm chiến đấu của tôi, là bạn phải đứng lên vì chính bản thân mình. Không có cách nào khác.
ba
CHƯA THỂ VỀ HƯU!
C
huyện xảy ra vào đêm Giáng sinh năm 2001, khi ấy tôi đang coi TV trên sofa và ngủ thiếp đi. Một cuộc nổi dậy đang chuẩn bị nổ ra tại nhà bếp. Căn phòng họp truyền thống này của chúng tôi là nơi diễn ra cuộc tranh luận sẽ làm thay đổi cuộc đời của mỗi thành viên trong gia đình. Người đứng đầu cuộc nổi dậy tiến đến và đánh thức tôi. Tôi có thể nhận ra ba dáng người quen thuộc ở cửa nhà bếp: các con tôi đều đang đứng đó với một sự đoàn kết cao độ.
“Em và các con vừa bàn bạc xong,” Cathy nói. “Mọi người đã quyết định, anh sẽ không nghỉ hưu.” Tôi chưa vội phản đối vì thực sự đây là vấn đề tôi cần phải xem xét rất cẩn thận. “Thứ nhất, sức khỏe của anh vẫn tốt. Thứ hai, em chưa cần anh ở nhà. Và thứ ba, anh vẫn còn quá trẻ.” Cathy khởi đầu buổi nói chuyện như thế. Các con tôi thì đứng ngay sau lưng cô ấy. Họ thật sự là một khối thống nhất. “Ba thật ngốc nghếch,” mấy đứa trẻ nói với tôi. “Đừng làm thế, Ba còn có thể cống hiến rất nhiều, Ba có thể xây dựng cả một đội bóng mới ở Manchester United.” Những điều này đã thuyết phục tôi phải đồng ý với họ. Cuối cùng tôi đã tiếp tục sự nghiệp cầm quân thêm 11 năm nữa!
Lúc đầu, một trong những lí do khiến tôi muốn nghỉ hưu là do lời bình luận của Martin Edwards* sau trận chung kết Champions League tại Barcelona năm 1999. Sau khi được hỏi rằng liệu tôi sẽ có vai trò gì không
sau khi thôi làm huấn luyện viên, ông ấy đã trả lời, “À, chúng tôi không muốn có thêm một trường hợp tương tự Matt Busby* nữa!”. Tôi không thích câu trả lời đó. Không thể so sánh hai thời kỳ này được. Ở thời của tôi, bạn phải làm việc với tất cả những yếu tố phức tạp phát sinh từ đội ngũ nhân viên của bạn, từ các hợp đồng chuyển nhượng và từ giới truyền thông. Không một ai muốn dính vào mớ rắc rối đó sau khi kết thúc công việc huấn luyện của mình. Tôi thậm chí còn không hề muốn để tâm tới các trận đấu hoặc sự phức tạp của thị trường chuyển nhượng.
Ngoài điều đó ra thì còn gì khác khiến tôi lần đầu có ý định nghỉ hưu? Cái đêm kì diệu ở Barcelona khi tôi đạt đến đỉnh cao sự nghiệp luôn có một ý nghĩa đặc biệt. Trước đó, đội bóng của tôi luôn bị loại sớm ở Cúp châu Âu và tôi luôn phải theo đuổi thứ hào quang đỉnh cao đó. Một khi bạn đạt được hoài bão của bản thân, bạn sẽ tự hỏi khi nào bạn sẽ đạt được điều đó lần nữa. Khi Martin Edwards bình luận như vậy về việc không muốn có thêm một trường hợp như Matt Busby, ý nghĩ đầu tiên của tôi lúc đó là “vô nghĩa”. Ý nghĩ thứ hai ập tới là, “Sáu mươi tuổi là thời điểm thích hợp để nghỉ hưu.”
Vậy là đã có 3 ý nghĩ len lỏi vào tâm trí tôi: sự thất vọng khi nghe Martin đề cập đến trường hợp của Matt Busby, ý nghĩ về việc liệu khi nào tôi sẽ giành được Cúp châu Âu lần thứ hai, và con số 60 đầy ám ảnh. Tôi đã là một huấn luyện viên từ năm 32 tuổi.
Khi sống được đến 60 tuổi, cuộc đời của bạn sẽ có những thay đổi sâu sắc. Bạn sẽ nghĩ rằng mình đang bước vào một thế giới khác. Ở tuổi 50, một thời điểm quan trọng sẽ đến. Một nửa thế kỷ. Nhưng bạn không ấn tượng về con số 50 đó. Ở tuổi 60, bạn mới thốt lên rằng, “Chúa ơi, tôi có thể cảm thấy điều đó: tôi đã 60 tuổi.” Bạn sẽ phải trải qua nó. Bạn nhận ra đó là
một sự thay đổi về khái niệm, về con số. Hiện giờ tôi không cảm thấy như thế về tuổi tác của mình, nhưng khi tôi bước vào tuổi 60 thì quả thật con số đó là một rào cản tâm lý trong tâm trí tôi. Nó khiến tôi không thể cảm nhận được sự trẻ trung tươi mới. Nó thay đổi cảm giác của tôi về sức khỏe của bản thân. Việc giành được cúp châu Âu khiến tôi cảm thấy mình đã hoàn thành được tất cả những giấc mơ của bản thân và tại thời điểm đó tôi đã có thể nghỉ ngơi một cách mãn nguyện. Đó thực sự là chất xúc tác trong suy nghĩ về việc nghỉ hưu của tôi. Nhưng khi nghe Martin cho rằng tôi sẽ thành một bóng ma phiền phức bên cạnh huấn luyện viên mới, tôi tự lẩm bẩm rằng, “Thật là nực cười.”
Đương nhiên, đó là động lực để tôi hoàn toàn từ bỏ ý định nghỉ hưu. Nhưng tôi vẫn phải thảo luận những vấn đề thực tế hơn với Cathy và các con.
“Ba không nghĩ ba có thể làm khác được, ba đã nói với câu lạc bộ.” Cathy nói, “Tốt thôi, nhưng anh không nghĩ họ sẽ nể mặt và cho phép anh thay đổi quyết định của mình sao?”
“Có thể họ đã dành cái ghế đó cho ai khác,” tôi nói.
“Nhưng sau tất cả những gì anh cống hiến, không lẽ họ không để anh quay lại?”. Cathy kiên nhẫn nói.
Ngày hôm sau tôi gọi cho Maurice Watkins (một thành viên Ban lãnh đạo MU - ND). Ông ấy cười lớn khi tôi nói về quyết định trở lại của mình. Các nhân viên tuyển dụng sẽ gặp một ứng viên thay thế vị trí của tôi vào tuần tới. Tôi tin Sven-Goran Eriksson sẽ là người đó. Đó là cách nghĩ của tôi, nhưng Maurice chưa bao giờ thừa nhận. Sau này tôi đã hỏi ông ấy, “Tại sao lại là Eriksson?”.
“Anh có thể đúng, hoặc cũng có thể sai,” Maurice trả lời.
Trước đó tôi nhớ mình đã từng hỏi Paul Scholes, “Scholesy, CLB đã đề nghị gì với Eriksson?”. Nhưng Scholes không hé lộ điều gì. Động thái tiếp theo của Maurice là liên lạc với Roland Smith, lúc đó đang là chủ tịch Công ty TNHH Manchester United. Khi Roland Smith và tôi nói chuyện cùng nhau, ông nói, “Tôi đã nói với anh rồi. Chẳng phải tôi đã nói đó là điều ngốc nghếch sao? Chúng ta sẽ phải ngồi xuống và thảo luận thêm về vấn đề này.”
Roland là một người già dặn và từng trải. Ông có một cuộc sống giàu sang và hoàn hảo, từng nếm trải tất cả những điều thú vị trong cuộc sống và có thể kể những câu chuyện tuyệt vời nhất mà bạn từng nghe. Roland đã kể cho chúng tôi nghe về bữa ăn tối của Margaret Thatcher với Nữ hoàng. Nữ hoàng muốn trang trí lại chiếc máy bay của Hoàng gia. Khi ấy Roland cũng có mặt ở đó và thấy 2 người họ đang đứng quay lưng vào nhau.
“Roland,” Nữ hoàng gọi. “Anh sẽ nói với người phụ nữ này rằng tôi muốn làm gì trên máy bay của mình chứ.”
“Thưa Nữ hoàng,” Roland nói. “Tôi sẽ bắt tay vào việc ngay bây giờ.” Đó là tất cả những gì tôi muốn ông ấy làm khi chúng tôi nói về việc thay đổi quyết định của tôi. Tôi cần ông ấy bắt tay vào việc ngay. Điều đầu tiên tôi muốn khi làm việc với Roland là tôi cần có một bản hợp đồng mới. Hợp đồng cũ của tôi sẽ kết thúc vào mùa hè. Chúng tôi cần tiến hành nhanh việc này.
Khoảnh khắc tôi thông báo thời điểm nghỉ hưu của mình, tôi nhận ra mình đã sai lầm. Những người khác cũng nghĩ như thế. Bobby Robson luôn luôn hù dọa tôi, “Cậu dám về hưu à?”. Bobby là một nhân vật vĩ đại. Một buổi chiều nọ chuông điện thoại nhà chúng tôi vang lên. Đó là Bobby Robson.
“Alex, Bobby đây. Cậu có bận không?”
“Anh đang ở đâu vậy?” Tôi đáp.
“Tôi đang ở Wilmslow.”
“Tôi sẽ tới ngay,” tôi nói với ông ấy.
“Tôi đang đứng ngay trước cửa nhà cậu,” ông ấy trả lời.
Bobby thực sự là một người đàn ông luôn tươi trẻ. Ngay cả ở tuổi 70 ông ấy vẫn muốn trở lại làm việc tại Newcastle sau khi bị mất việc tại đây vào đầu mùa giải 2004-2005. Bobby không phải loại người thích nhàn nhã, và ông không chấp nhận sự thật rằng công việc huấn luyện tại Newcastle đột nhiên vượt quá khả năng của ông. Tính ngang ngạnh đó luôn tồn tại trong con người ông, đồng thời cũng cho thấy ông yêu môn thể thao này nhiều như thế nào.
Khi tôi quyết định việc mình nghỉ hưu, tôi đã ngừng lên kế hoạch. Và khi tôi thay đổi quyết định đó, tôi lại bắt đầu vẽ ra những bước đi mới cho mình. Tôi tự nói với bản thân, “Chúng ta cần có một đội bóng mới.” Năng lượng lại tràn đầy trong cơ thể tôi. Một lần nữa tôi lại cảm thấy được sự thúc đẩy của bản thân. Tôi nói với các tuyển trạch viên, “Chúng ta vào việc thôi.” Chúng tôi cảm thấy hứng khởi trở lại và điều đó thật tuyệt.
Không có trở ngại nào về sức khỏe có thể ngăn tôi tiếp tục công việc của mình. Khi làm huấn luyện viên trưởng đôi khi bạn sẽ trở nên rất dễ tổn thương. Bạn thắc mắc không biết giá trị thực của mình là như thế nào. Tôi nhớ một người bạn của tôi, Hugh MacIlvanne, đã làm một serie phim tài liệu gồm 3 tập về Stein, Shankly và Busby trên kênh Arena TV. Theo nghiên cứu của Hugh thì những người này quá vĩ đại so với câu lạc bộ của họ và họ đã bị đánh giá thấp hơn so với tầm vóc của mình. Tôi nhớ Jock Lớn (Jock Stein - ND) đã nói với tôi về những giám đốc điều hành và những ông chủ
câu lạc bộ như thế này, “Nhớ lấy, Alex, chúng ta khác với họ. Chúng ta không phải là họ. Họ điều hành cả câu lạc bộ. Chúng ta chỉ là công nhân của họ.” Jock Lớn luôn cảm thấy như vậy. Đó là “chúng ta” và “bọn họ”, hoàn toàn khác nhau, như địa chủ và tá điền vậy.
Cách mà họ đối xử với Jock Stein tại Celtic, ngoài việc đáng khinh bỉ ra, thật sự rất lố bịch. Họ yêu cầu ông ấy trông coi các hồ bơi. Sau khi mang về cho Celtic 25 chiếc Cúp, họ giao cho ông ấy việc trông coi các hồ bơi. Còn đối với Bill Shankly, ông ấy chẳng bao giờ được mời vào Ban Điều hành tại Liverpool và kết quả là ông ấy đâm ra hận Liverpool. Thậm chí sau đó ông ấy còn đi coi cả những trận đấu của Manchester United, hoặc là của Tranmere Rovers. Ông ấy đã từng xuất hiện tại sân tập The Cliff của chúng tôi, cũng như đến cả sân tập của Everton!
Cho dù bạn từng có sự nghiệp tốt đến như thế nào đi chăng nữa, thì sẽ có những lúc bạn thấy bản thân dễ bị tổn thương và sẽ gặp khó khăn bất cứ lúc nào. Mặc dù vậy, trong những năm cuối cùng làm việc cùng David Gill, môi trường mà tôi làm việc là hoàn hảo nhất. Mối quan hệ của chúng tôi rất tốt đẹp. Nhưng một khi làm huấn luyện viên trưởng, bạn sẽ luôn mang trong mình nỗi sợ thất bại, đồng thời bạn rất hay đơn độc. Thi thoảng bạn sẽ muốn đánh đổi bất cứ thứ gì chỉ để không phải chịu cảnh cô độc với những suy nghĩ của mình. Có những chiều khi tôi ở trong văn phòng của mình, sẽ không ai gõ cửa bởi đơn giản họ nghĩ tôi đang bận làm việc. Có lúc tôi chỉ hy vọng sẽ có một tiếng gõ nhẹ vào cánh cửa đó mà thôi. Tôi muốn thấy Mick Phelan hay René Meulensteen bước vào và nói, “Anh có muốn dùng một cốc trà không?”. Tôi đã phải đi tìm ai đó để nói chuyện; bước vào không gian của họ. Bạn cần phải giao tiếp. Nhưng họ lại nghĩ rằng bạn luôn bận rộn với những việc quan trọng của mình và vì vậy họ không dám
lại gần bạn.
Thường thì từ sáng đến khoảng 1g chiều sẽ có rất nhiều người đến gặp tôi. Họ là các cầu thủ trẻ của học viện, Ken Ramsden, thư ký, và các cầu thủ của đội một. Như thế thật đáng hài lòng, vì điều đó có nghĩa là họ tin tưởng tôi, thông thường là họ tham vấn tôi về những việc gia đình. Tôi luôn luôn thoải mái với các cầu thủ khi họ tâm sự với tôi, ngay cả khi họ muốn nghỉ tập một ngày vì mệt mỏi, hoặc nói về các điều khoản trong hợp đồng.
Nếu một cầu thủ xin tôi được nghỉ tập, chắc chắn là có lí do chính đáng, bởi ai lại muốn bỏ lỡ một buổi tập tại United? Tôi luôn luôn đồng ý. Tôi luôn tin tưởng họ. Bởi nếu bạn trả lời với họ, “Không - tại sao cậu muốn nghỉ tập?”, họ sẽ trả lời, “Vì bà tôi vừa qua đời”, sau đó bạn sẽ thực sự gặp rắc rối. Nếu phát sinh vấn đề tôi luôn luôn mong muốn sẽ tìm ra giải pháp cho vấn đề đó.
Tôi đã làm việc với những người có tính cách giống tôi như đúc. Chẳng hạn như Les Kershaw, Jim Ryan và Dave Bushell. Tôi mang Les về làm việc cho tôi vào năm 1987. Anh ta là một trong những hợp đồng tốt nhất của tôi từ trước đến giờ. Les là người Bobby Charlton giới thiệu cho tôi. Tôi không rành lắm về cuộc sống ở Anh, nên những lời khuyên của Bobby luôn vô giá đối với tôi. Les đã từng làm việc tại các học viện bóng đá của Bobby và từng là tuyển trạch viên tại Crystal Palace. Cậu ta cũng từng làm việc cùng George Graham và Terry Venables. Theo cách nhìn của Bobby thì chắc chắn Les sẽ thích làm việc cho Manchester United. Vì vậy tôi đã liên lạc với Les. Cậu ấy thật năng động và sôi nổi. Đặc biệt là sự say mê, nhiệt tình. Cậu ấy chẳng bao giờ ngừng nói cả. Tối Chủ nhật nào cậu ấy cũng gọi cho tôi lúc 6g30 để cập nhật cho tôi các báo cáo tuyển trạch. Rồi khoảng một tiếng sau, vợ tôi Cathy sẽ lại chỗ tôi và hỏi, “Anh vẫn còn nghe điện thoại à?”.
Thời điểm bạn ngắt lời Les, cậu ấy sẽ tăng tốc độ trình bày. Đúng là một nhân viên mẫu mực. Cậu ấy đã từng là giáo sư hóa học tại Đại học Manchester. Dave Bushell là người đứng đầu điều hành các trường nói tiếng Anh dành cho học sinh dưới 15 tuổi và tôi thuê cậu ấy khi Joe Brown về hưu. Jim Ryan về làm tại Manchester từ năm 1991. Mick Phelan từng là cầu thủ tôi huấn luyện và sau đó trở thành một trợ lý xuất sắc của tôi, nếu không kể đến việc cậu ấy nghỉ việc vào năm 1995 và trở lại vào năm 2000 với tư cách là huấn luyện viên. Paul McGuinness thì làm việc với tôi từ khi tôi gia nhập câu lạc bộ. Cậu ấy là con trai của một cầu thủ và cũng là huấn luyện viên trưởng trước đây tại United Wilf McGuiness, và bản thân cậu ấy cũng từng là một cầu thủ. Tôi giao cho cậu ấy làm huấn luyện viên của học viện.
Thường thì một huấn luyện viên trưởng sẽ có một trợ lý dưới quyền và người này sẽ luôn bên cạnh bạn. Trường hợp của United có hơi khác, vì các trợ lý của tôi tại đây đều có bề dày kinh nghiệm và họ luôn trở thành mục tiêu săn đuổi của các câu lạc bộ khác. Tôi đã mất người trợ lý Archie Knox về tay Rangers chỉ 2 tuần trước khi trận chung kết Cup C2 năm 1991 diễn ra! Và vì sự vắng mặt của Archie, tôi đã phải dùng Brian Whitehouse trong chuyến hành quân đến Rotterdam và bảo đảm rằng tất cả đội ngũ nhân viên sẽ cộng tác tốt với cậu ấy.
Sau đó tôi bắt đầu tuyển dụng vị trí trợ lý thứ 2. Nobby Stiles nói, “Sao anh không đưa Brian Kidd lên?” Brian hiểu rõ câu lạc bộ và cậu ấy đã cải tiến mạng lưới tuyển trạch địa phương, đã lôi kéo những người bạn của cậu ấy, những thành viên United và các giáo viên tại các trường học địa phương về làm việc cho Man United. Đó là những điều tốt nhất mà Brian đã thực hiện. Thành công đó thật sự lớn lao. Vì thế tôi đã giao vị trí đó cho
Brian. Cậu ấy đã làm rất tốt, thân thiện với các cầu thủ và đưa ra những bài tập hiệu quả. Thậm chí cậu ta còn sang Ý để theo dõi các đội bóng tại Serie A và mang về rất nhiều thông tin hữu ích.
Khi cậu ấy rời Manchester để về đầu quân cho Blackburn vào năm 1998, tôi đã nói, “Tôi hy vọng cậu biết mình đang làm gì?”. Khi một huấn luyện viên rời đội, người ta luôn luôn hỏi tôi, “Anh nghĩ gì?”. Với trường hợp của Archie tôi đã không thể thuyết phục Martin Edwards đưa ra những đề nghị hấp dẫn cho Archie tương đương với những mời chào từ CLB Rangers. Với Brian, tôi không cảm thấy cậu ấy phù hợp làm một huấn luyện viên trưởng. Với Steve McClaren, tôi chẳng hề nghi ngờ gì về trình độ huấn luyện của cậu ấy. Tôi chỉ nói với Steve rằng: cậu nên chắc rằng mình chọn đúng câu lạc bộ, đúng chủ tịch. Đó là điều tối cần thiết, luôn luôn là như vậy. Khi đó West Ham và Southampton là những đội bóng muốn có sự phục vụ của Steve.
Không hiểu từ đâu, Steve nhận được một cuộc gọi của Steve Gibson, chủ tịch của Middlesbrough, và lời khuyên của tôi khi đó là: “Không có gì phải do dự cả, hãy nhận lời”. Brian Robson, mặc dù bị mất việc tại đây, luôn luôn đề cao Steve Gibson, nói rằng ông ấy là người trẻ trung, tươi mới và luôn sẵn lòng chi tiền. Họ có một khu huấn luyện tuyệt vời. “Đó là công việc của anh,” tôi nói với Steve.
Biết sắp xếp, mạnh mẽ và luôn luôn tìm kiếm những ý tưởng mới, Steve sinh ra để làm huấn luyện viên trưởng. Cậu ta nhiệt tình, tràn đầy năng lượng và là một người tốt.
Carlos Queiroz, một trợ lý số 2 khác của tôi, là một người tài giỏi. Rất tài giỏi. Thậm chí vượt trội. Một người đàn ông tài giỏi và kỹ tính. Khi chúng tôi bắt đầu tìm kiếm nhiều hơn các cầu thủ ở phía nam bán cầu và cần có
một huấn luyện viên ở ngoài khu vực Bắc Âu, người có thể nói được một hoặc hai ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh, Andy Roxburgh đã giới thiệu Carlos. Andy đã hoàn toàn đúng. Carlos thật sự tuyệt vời. Ông ấy đã từng huấn luyện đội tuyển Nam Phi, vì vậy tôi đã mời Quinton Fortune lên gặp để tham khảo ý kiến. “Tuyệt vời,” Quinton nói. “Ở phương diện nào, theo cậu?”, tôi hỏi. Quinton đáp, “Bất kỳ phương diện nào.” “À,” tôi nghĩ. “Điều đó đã đủ thuyết phục tôi.”
Khi Carlos đến Anh vào năm 2002 để nói chuyện với chúng tôi, tôi mặc một bộ đồ thể thao chờ ông ấy. Carlos ăn mặc không chê vào đâu được. Ông thể hiện sự khéo léo của mình qua cách ăn mặc. Ông cũng rất ấn tượng với việc tôi đề nghị ông ấy làm việc ngay. Carlos gần như một huấn luyện viên trưởng thực thụ tại Manchester vậy, chỉ là không chính thức mà thôi. Ông nhận lãnh trách nhiệm trong đủ thứ việc, thậm chí là cả những việc ông không nhất thiết phải dính vào...
“Tôi cần nói chuyện với anh.” Carlos gọi cho tôi một ngày vào năm 2003 khi tôi đang đi nghỉ ở miền Nam nước Pháp. Chuyện gì vậy nhỉ? Ai đứng sau ông ấy? “Tôi chỉ muốn nói chuyện với anh thôi,” ông nhắc lại.
Sau đó Carlos đáp máy bay tới Nice và tôi đón taxi tới Sân bay Nice, chúng tôi tìm một góc khuất để nói chuyện.
“Tôi nhận được lời mời về làm việc tại Real Madrid,” ông nói. “Tôi sẽ nói với anh hai chuyện. Thứ nhất, anh sẽ không thể từ chối. Thứ hai, anh đang rời khỏi một câu lạc bộ tuyệt vời. Anh có thể sẽ không thể trụ được hơn một năm tại Real Madrid. Còn ở Man United, anh có thể làm cả đời ở đây.”
“Tôi biết,” Carlos nói. “Tôi chỉ cảm thấy đây là một thử thách thú vị.” “Carlos, tôi không thể bảo anh từ chối. Bởi nếu tôi làm vậy, và một năm
nữa Real Madrid giành được Cúp châu Âu, anh sẽ bảo rằng ‘Lẽ ra tôi đã ở đó’. Nhưng mà tôi chỉ nói với anh điều này thôi, đó là một công việc rất khó khăn!”.
Và chỉ ba tháng sau, Carlos đã muốn rời khỏi Real Madrid. Tôi bảo với ông ấy rằng chưa thể làm vậy. Tôi bay tới Tây Ban Nha gặp Carlos và chúng tôi dùng bữa trưa cùng nhau ở căn hộ của ông. Lời nhắn nhủ của tôi là: anh chưa thể bỏ cuộc, hãy cố lên, và về lại United năm tới. Mùa bóng đó tôi không thuê trợ lý bởi vì tôi chắc chắn Carlos sẽ quay trở lại. Tôi đã hợp tác với Jim Ryan và Mick Phelan, hai chàng trai tốt, nhưng tôi không muốn người nào trong bọn họ làm trợ lý cho tôi, vì Carlos sẽ quay trở lại. Tôi đã phỏng vấn Martin Jol, một tuần trước khi Carlos gọi cho tôi và bảo mọi việc không thuận lợi ở Madrid. Martin đã gây ấn tượng tốt và tôi đã có ý định dành vị trí trợ lý này cho ông ấy, nhưng sau đó Carlos gọi cho tôi, và tôi đã phải quay lại gặp Martin và bảo, “Có lẽ lúc này tôi phải để trống vị trí đó.” Tôi đã không thể nói với ông ấy lí do tại sao tôi làm như vậy.
Trợ lý huấn luyện viên trưởng tại Manchester United là một vị trí rất quan trọng. Đó là một vị trí nền tảng trong bóng đá. Khi Carlos rời Manchester lần thứ hai vào năm 2008, ông ấy đang nhớ nhà, vì vậy tôi hiểu rằng ông ấy đang muốn trở về Bồ Đào Nha. Nhưng tất cả những gì ông đã thể hiện thật xuất sắc, Carlos. Ông ấy có hầu hết mọi phẩm chất để trở thành huấn luyện viên trưởng tiếp theo của Manchester United. Có thể ông là một người đàn ông thiên về cảm xúc. Tuy nhiên trong tất cả những người đã làm việc cùng tôi, ông là người giỏi nhất, không phải nghi ngờ về điều đó. Là một người cực kỳ chính trực, Queiroz sẽ bước vào phòng và nói thẳng với bạn rằng: Tôi không hài lòng với điều này, hay điều kia...
Ông ấy rất hợp với tôi. Ông ấy là một con Rotttweiler. Ông ấy bước
thẳng vào văn phòng của tôi và bảo rằng chúng tôi có việc phải hoàn thành. Ông ấy phác họa mọi thứ lên bảng. “Được rồi, OK, Carlos, Yeah.” Tôi sẽ nói như vậy, trong đầu thì nghĩ “Ôi, tôi đang bận mà!”. Nhưng đó là phẩm chất tốt bạn nên có, nó giúp thúc đẩy mọi việc được hoàn tất.
Cấu trúc của đội bóng đang rất mạnh vào năm mà tôi hủy bỏ kế hoạch nghỉ hưu của mình, mặc dù vào thời điểm đó chúng tôi đã không còn sự phục vụ của Peter Schmeichel và Denis Irwin. Bây giờ chúng ta nói về một cầu thủ, Denis Irwin. Chúng tôi luôn gọi cậu ấy là Denis tám-điểm-trên mười. Rất nhanh nhẹn vào khéo léo: đầu óc nhanh nhạy. Tôi nhớ tại một trận đấu với Arsenal, khi Denis để cho Dennis Becgkamp vượt qua và ghi bàn, báo chí bèn tuyên bố, “Chúng tôi thất vọng về Denis.” Khi đó tôi đã trả lời, “À, cậu ấy đã chơi cho chúng tôi nhiều năm và cậu ấy chưa từng mắc sai lầm nào cả. Tôi nghĩ chúng ta có thể bỏ qua cho cậu ấy lần này.”
Thử thách lớn nhất đối với tôi là vị trí thủ môn. Kể từ lúc Schmeichel rời câu lạc bộ để gia nhập Sporting Lisbon vào năm 1999 - rồi tới việc bỏ lỡ Van Der Sar - tôi đành phải mò mẫm thử nghiệm như việc ném những trái bóng lên trời và hy vọng một trái trong số chúng sẽ rơi vào đúng chỗ của nó. Raimond van der Gouw là một thủ môn tuyệt vời và vững vàng, và là một huấn luyện viên trung thành và chu đáo, nhưng cậu ấy không phải là lựa chọn số 1. Mark Bosnich theo quan điểm của tôi là một thủ thành chuyên nghiệp nhất mà chúng tôi lẽ ra nên nhận ra trước đó. Massimo Taibi đơn giản là không thể hiện được và đã trở về Ý, nơi anh ấy thành công lần nữa với sự nghiệp của mình. Fabien Barthez là thủ môn của đội vô địch thế giới, nhưng có thể việc vợ cậu ta sinh con ở Pháp khiến cậu ta trở nên sao nhãng, mất tập trung, vì đi đi về về quá nhiều trong thời gian đó. Barthez là một chàng trai tốt, rất giỏi trong việc chặn các cú sút, có khả
năng ra vào hợp lý. Tuy nhiên khi một thủ môn mất tập trung, anh ta sẽ gặp rắc rối.
Khi đội bóng nghĩ tôi sẽ nghỉ việc, họ trở nên uể oải. Một trong những mẹo của tôi là luôn khiến các cầu thủ cảm thấy căng thẳng, luôn giữ cho họ nghĩ rằng đó là vấn đề “sinh tử” - cái gọi là phương pháp “phải thắng” trong các trận đấu. Tôi đã thôi không nhìn trái bóng tròn quen thuộc nữa, tôi suy nghĩ xa xôi về tương lai, và tự hỏi ai sẽ thay thế tôi. Trong những tình huống như vậy, bản năng của con người sẽ thôi thúc bạn thư giãn và tự nhủ với bản thân, “Mình sẽ không ở đây vào năm tới.”
United đã quá quen thuộc với sự tồn tại của tôi, nên vào thời điểm tôi muốn nghỉ hưu câu lạc bộ không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Đó chính là một sai lầm. Tôi nhận thấy điều đó trong thời gian đầu của tháng 10-2000. Vào giai đoạn đó tôi chỉ muốn mùa giải mau chóng kết thúc. Tôi đã không thể tận hưởng mùa giải này. Tôi tự nguyền rủa mình, “Mình thật ngu ngốc, tại sao lại đề cập đến chuyện đó nhỉ?”. Tôi đã không thể hiện được đúng khả năng của mình trên sân cỏ. Tôi bắt đầu nghi ngờ về tương lai của bản thân mình. Tôi sẽ đi đâu, tôi sẽ làm gì? Tôi biết mình sẽ nhớ tính chất thú vị và đầy đam mê của công việc tại United.
Mùa giải 2001-2002 là một mùa giải bỏ đi đối với chúng tôi. Chúng tôi kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Premier League và vào đến vòng bán kết Cúp C1, thua Bayer Leverkusen, và đã không có bất cứ chức vô địch nào trong năm tôi thay đổi quyết định nghỉ hưu của mình. Điều này xảy ra sau một chuỗi 3 danh hiệu vô địch Premier League liên tiếp trước đó.
Mùa hè năm đó chúng tôi đã chi rất nhiều để mang về 2 cái tên Ruud van Nistelrooy và Juan Sebastián Verón. Laurent Blance cũng về chơi tại
Old Trafford sau khi tôi bán Jaap Stam - một sai lầm mà tôi đã thừa nhận nhiều lần sau đó. Lí do mua Blanc, như tôi nói vào thời điểm đó, là bởi chúng tôi cần một cầu thủ có thể nói chuyện và tổ chức được các cầu thủ trẻ. Phần đầu của mùa giải đó rất đáng nhớ, nhất là trường hợp Roy Keane ném bóng vào người Alan Shearer (và nhận thẻ đỏ) trong trận MU thua Newcastle với tỉ số 3-4 trên sân khách, và trận thắng 5-3 ngoài sức tưởng tượng khi thi đấu với Spurs vào ngày 29-9-2001. Trong trận đấu đó, Tottenham đã ghi ba bàn trước nhờ công của Dean Richards, Les Ferdinad và Christian Ziege trước khi chúng tôi thực hiện một trong những cuộc lội ngược dòng ngoạn mục nhất.
Kí ức về trận đấu đó rất rõ ràng. Khi tôi bước vào phòng thay đồ, với ba bàn bị dẫn trước, các cầu thủ đang căng thẳng chờ đợi cơn giận dữ từ tôi. Thay vì vậy, tôi ngồi xuống và nói, “Tôi sẽ nói với các cậu điều các cậu sẽ phải làm. Chúng ta sẽ ghi bàn thắng đầu tiên trong hiệp hai và thử xem bàn thắng đó sẽ thay đổi trận đấu thế nào. Chúng ta sẽ tấn công ngay và có bàn thắng đầu tiên trong trận đấu này.”
Teddy Sheringham là đội trưởng của Tottenham và ngay khi hai đội chuẩn bị vào sân thi đấu hiệp hai từ hành lang, tôi thấy Teddy dừng lại và nói, “Bây giờ đừng để họ có bàn thắng sớm.” Tôi luôn luôn ghi nhớ hình ảnh đó. Chúng tôi đã ghi bàn ngay phút đầu tiên của hiệp hai.
Bạn có thể thấy lúc đó Spurs đã mất tinh thần còn chúng tôi rất hưng phấn. Còn đến 44 phút của hiệp đấu. Và chúng tôi đã ghi thêm bốn bàn nữa. Ngoài sức tưởng tượng. Hơn nữa, vị thế của Tottenham trong làng bóng đá Anh khiến chiến thắng đó càng hoành tráng hơn, so với việc lội ngược dòng với năm bàn thắng trước một đối thủ yếu hơn, như Wimbledon chẳng hạn! Cái cách chúng tôi đánh bại một câu lạc bộ bóng
đá tuyệt vời như Tottenham mang nhiều ý nghĩa lịch sử. Trong phòng thay đồ của chúng tôi sau đó là hình ảnh các cầu thủ liên tục lúc lắc đầu, họ còn không dám tin vào những điều họ vừa làm được.
Lời cảnh báo của Teddy đối với đội bóng của cậu ấy ngày hôm đó thể hiện chúng tôi đã thành công như thế nào khi át vía được đối thủ bằng cách ghi những bàn gỡ vào đúng thời điểm của trận đấu. Chúng tôi làm cho đối thủ nghĩ rằng ghi bàn vào lưới chúng tôi đồng nghĩa với việc sẽ nhận lại một kết quả thảm khốc nhất. Hầu hết các câu lạc bộ không bao giờ có thể thoải mái khi dẫn trước chúng tôi. Họ luôn luôn phải chờ đợi những cú đấm trả.
Tôi thường gõ vào đồng hồ của mình để đe dọa đối thủ chứ không phải cổ vũ học trò của mình. Nếu bạn muốn tôi tóm tắt cho bạn biết vị trí huấn luyện viên trưởng ở Manchester United là như thế nào, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy trong 15 phút cuối trận. Đôi lúc nó thật kỳ lạ, ví dụ như khi trái banh bị mắc trong lưới. Thường các cầu thủ biết trái banh sẽ được lấy ra. Lúc đó các cầu thủ biết họ sắp có một bàn thắng. Điều đó không thường hay xảy ra nhưng cả đội luôn tin vào điều đó. Đó là một phẩm chất tốt phải có.
Tôi luôn luôn mạo hiểm. Kế hoạch của tôi là: không sợ hãi cho đến 15 phút cuối trận, giữ bình tĩnh cho đến khi chỉ còn vỏn vẹn 15 phút, rồi sau đó là liều lĩnh và tận hưởng trận đấu hết mức có thể.
Trong một trận đấu Cup với Wimbledon, Peter Schmeichel lên tham gia tấn công hòng tìm kiếm bàn thắng và chúng tôi để Denis Irwin ở giữa sân kèm một tiền đạo của đối phương. Schmeichel tham gia tấn công trong hai phút. Wimbledon chuyền bóng lên cho tiền đạo to cao của họ và Denis nhỏ bé đã tì đè phía trước tiền đạo này và đưa banh trở lại vùng cấm địa của Wimbledon. Thật hào hứng. Schmeichel có thể hình rất tốt. Cậu ấy và
Barthez luôn thi đấu đến cùng! Barthez là một cầu thủ xuất sắc, mặc dù cậu ấy nghĩ cậu ấy giỏi hơn thực tế. Trong chuyến du đấu tại Thái Lan cậu ấy liên tục đề nghị được chơi ở tuyến trên, và tôi đã đồng ý vào hiệp hai. Các cầu thủ khác liên tục chuyền bóng ra hai góc và Barthez đã thở không ra hơi sau những tình huống xuống biên đó. Cậu ấy bị kiệt sức.
Không có đội bóng nào tới Old Trafford dám nghĩ rằng United sẽ phải bỏ cuộc. Sẽ không dễ chịu chút nào khi họ biết rằng chúng tôi sẽ không bao giờ nản lòng. Khi dẫn trước 1-0, hay 2-1, huấn luyện viên của đối phương biết ông ấy sẽ phải đối mặt với 15 phút cuối trận thời gian mà chúng tôi sẽ điên cuồng giành lại bóng. Nỗi sợ đó luôn luôn hiện hữu. Bằng cách tấn công điên cuồng và liên tục xông vào vùng cấm địa, chúng tôi đặt ra một câu hỏi: Bạn có chịu nổi sức ép đó không? Mục tiêu cao nhất của chúng tôi sau tất cả những nỗ lực không mệt mỏi đó là kiểm tra khả năng phòng thủ của đội đối phương. Và họ biết điều đó. Khi đó bất cứ khuyết điểm nhỏ nhất nào của đối thủ cũng có thể trở thành thảm họa! Tất nhiên thực tế thì không phải lúc nào cũng vậy. Nhưng một khi điều đó xảy ra, bạn sẽ cảm nhận được niềm vui của kẻ chiến thắng cuối cùng. Luôn luôn đáng để mạo hiểm. Hiếm khi chúng tôi bị ghi bàn khi chúng tôi đang tìm kiếm bàn gỡ. Chúng tôi thua Liverpool một lần khi Luke Chadwick phạm lỗi và bị đuổi khỏi sân. Mọi cầu thủ đều ở trong vùng cấm địa. Để phòng ngự tốt, các đội thường có nhiều cầu thủ quay về tham gia phòng ngự và vì vậy khó có cơ hội cho họ phản công.
Sau khi kết thúc hiệp một trận đấu với Spurs, chúng tôi như bị chôn vùi. Nhưng giống với những gì tôi nói ở cuối mùa giải đó: “Khi ở trong khủng hoảng, tốt nhất là bạn phải giữ cho mọi người được bình tĩnh”. Chúng tôi đã ghi năm bàn để giành thắng lợi chung cuộc, với hai bàn thắng
cuối trận thuộc về Verón và David Beckham. Tuy nhiên khoảng thời gian đó chúng tôi lại gặp vấn đề với vị trí thủ môn. Trong tháng Mười, Fabien Barthez phạm hai sai lầm lớn. Chúng tôi cũng thua 1-2 tại sân nhà khi gặp Bolton và thua Liverpool 1-3. Trận đấu đó Fabien đã lao ra đấm bóng và cậu ấy đấm hụt bóng. Trong trận gặp Arsenal trên sân khách vào ngày 25-11, thủ môn người Pháp của chúng tôi đã chuyền bóng thẳng vào chân Thierry Henry và bị ghi bàn. Sau đó là tình huống băng ra cứu bóng lỗi. Lại là Henry: 3-1.
Tháng 12-2001 khởi đầu cũng không tốt hơn, khi chúng tôi thua Chelsea 0-3 trên sân nhà, trận thua thứ năm sau 14 vòng đấu. Mọi việc được cải thiện ở thời điểm này. Ole Gunnar Solskjaer tạo được mối quan hệ tốt với Van Nistelrooy (Andy Cole chuẩn bị rời Old Trafford để đến chơi cho Blackburn vào tháng 1-2002), và chúng tôi nhanh chóng lên đầu bảng vào đầu năm 2002. Trong trận thắng Blackburn 2-1, Van Nistelrooy ghi bàn liên tiếp mười trận, và vào cuối tháng 1-2002 chúng tôi đứng đầu bảng xếp hạng với khoảng cách bốn điểm so với đội xếp dưới.
Sau đó vào tháng 2-2002, tôi thông báo mình sẽ không nghỉ hưu nữa. Khi vấn đề nghỉ hưu được giải quyết, phong độ của chúng tôi nhanh chóng lên cao. Chúng tôi thắng 13 trong 15 trận. Tôi có niềm tin mãnh liệt rằng chúng tôi sẽ hành quân tới Glasgow để thi đấu trận chung kết Cúp C1 năm 2002. Tôi chắc chắn đến nỗi tôi đã tìm thuê khách sạn trong thành phố đó. Tôi đã cố gắng kìm hãm ý tưởng đó nhưng hình ảnh tôi dẫn đội ra thi đấu ở sân Hampden Park ám ảnh tôi.
Trong hai trận bán kết gặp Bayer Leverkusen, chúng tôi đã có ba cú sút bị phá ra ngay trên vạch cầu môn đối phương trong trận lượt về tại sân của Bayer Leverkusen và bị loại vì luật bàn thắng sân khách với tổng tỉ số 3-3.
Micheal Ballack và Oliver Neuville là hai cầu thủ ghi bàn tại Old Trafford. Trong đội hình hôm đó của Leverkusen còn có cả chàng thanh niên Dimitar Berbatov, người sau này từ Tottenham chuyển sang thi đấu cho chúng tôi.
Nhưng ít ra thì tôi vẫn được tiếp tục làm việc. Vào ngày đầu năm mới, cả gia đình tổ chức sinh nhật cho tôi tại khách sạn Alderley Edge. Đó là lần đầu tiên sau một khoảng thời gian dài chúng tôi mới được ở cùng nhau. Mark, đứa con trai ở London, cũng về đây với chúng tôi, cùng với Darren, Jason và Cathy. Tất cả những kẻ tham gia cuộc nổi dậy bữa Giáng sinh 2001 đều có mặt tại đây.
Khi các cầu thủ nghe tin tôi sẽ tiếp tục công việc, tôi đã sẵn sàng cho những lời bàn tán về vấn đề này. Tôi sẽ không thể tránh khỏi việc bị chỉ trích, giễu cợt khi thông báo như vậy.
Ryan Giggs là bậc thầy trong lĩnh vực chế nhạo, đùa cợt một ai đó. “Ôi không, tôi không thể tin được chuyện này,” Ryan nói. “Tôi vừa kí một hợp đồng mới.”
bốn
KHỞI ÐẦU MỚI
K
hi mùa giải 2002 bắt đầu, trong tôi tràn đầy nguồn năng lượng tươi mới, với cảm giác giống như đang bước vào ngày đầu tiên của một công việc hoàn toàn mới vậy. Tất cả những hoài nghi do dự định về hưu của tôi đã bị xóa sạch và tôi đã sẵn sàng làm mới đội hình sau mùa giải đầu tiên không có bất kỳ danh hiệu nào kể từ năm 1998. Những thay đổi chấn động này thực sự kích thích tôi. Tôi biết đã có cơ sở vững chắc để xây dựng một đội hình chiến thắng mới.
Đã từng có thời kỳ hoàng kim, từ năm 1995 đến năm 2001, khi ấy chúng tôi giành chức vô địch giải ngoại hạng năm lần trong sáu năm và giành được chiếc cúp đầu tiên trong số hai chiếc cúp Champions League của tôi. Lúc khởi đầu giai đoạn sáu năm đó, chúng tôi đã đưa lên đội một các cầu thủ thuộc lò đào tạo của câu lạc bộ. David Beckham, Gary Neville và Paul Scholes được thi đấu thường xuyên dù thất bại 1-3 trước Aston Villa đã khiến Alan Hansen nói trên truyền hình, “Bạn không thể giành được bất cứ điều gì với bọn trẻ con!”
Sau hat-trick danh hiệu tại giải ngoại hạng đó, chúng tôi mắc sai lầm khi để Jaap Stam ra đi. Tôi nghĩ 16,5 triệu bảng là một mức giá tốt đồng thời tin rằng cầu thủ này đã xuống phong độ sau ca phẫu thuật gót Achilles. Nhưng đó là một sai lầm của tôi. Đây là cơ hội để tôi chỉ ra, chỉ một lần thôi, rằng cuốn tự truyện gây tranh cãi của Stam chẳng có liên
quan gì đến quyết định bán Stam của tôi (mặc dù đúng là tôi đã gọi cậu ta đến để giải thích về cuốn sách đó ngay lập tức). Trong cuốn tự truyện, Stam viết rằng MU đã tự ý tiếp xúc riêng với cậu ta mà không có sự cho phép của câu lạc bộ PSV.
“Cậu đang nghĩ gì vậy?” tôi hỏi. Nhưng quả thật cuốn tự truyện đó hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến quyết định của tôi. Không lâu sau đó, một người môi giới cho tôi biết rằng đại diện của Roma quan tâm tới Stam và đề nghị mức giá chuyển nhượng 12 triệu bảng. Tôi từ chối lời đề nghị này. Tuần sau đó, đến lượt Lazio tiếp cận. Tôi đã không quan tâm cho tới khi mức giá mà họ đề nghị là 16,5 triệu bảng. Lúc đó Jaap đã 30 tuổi và chúng tôi hơi lo ngại về khả năng phục hồi của cậu ta sau chấn thương gót Achilles. Dù gì đi nữa, đó cũng là một giai đoạn thảm họa. Phải báo tin này khi Jaap đang ở một trạm đổ xăng trên đường thực là đau đớn, bởi vì tôi biết cậu ta là một người đàn ông tử tế, mong muốn chơi cho câu lạc bộ và được người hâm mộ yêu mến. Đó là một trong những khoảnh khắc đáng quên của tôi. Thực ra tôi đã cố gắng nói chuyện với Jaap trên sân tập hai ngày trước hạn chót mà không được. Và vào lúc tôi nói chuyện được với cậu ta qua điện thoại cầm tay thì Jaap đã trên đường về nhà. Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi vì thế đã diễn ra ở một trạm xăng bên ngoài đường cao tốc...
Tôi biết mình có thể có được Laurent Blanc theo dạng chuyển nhượng tự do. Tôi luôn ngưỡng mộ Laurent Blanc và lẽ ra phải có được cầu thủ này từ nhiều năm trước. Blanc rất điềm tĩnh và rất giỏi chuồi trúng bóng từ phía sau. Tôi nghĩ kinh nghiệm của Blanc có thể giúp John O’Shea và Wes Brown phát triển. Chính những đánh giá sai lầm kiểu đó đã khiến tôi để Jaap ra đi.
Vị trí trung vệ luôn là một phần quan trọng trong kế hoạch huấn luyện
của tôi và Rio Ferdinand là một thương vụ quan trọng trong mùa hè năm 2002, thời điểm mà lẽ ra MU phải đi đến trận chung kết Champions League tại quê nhà của tôi ở Glasgow. Với tôi điều đó sẽ rất đặc biệt - được cầm quân ngay tại nơi mình sinh ra trong trận chung kết với Real Madrid, tại nơi mà tôi lần đầu xem trận chung kết cúp C1 châu Âu, trận đấu mà Real đánh bại Eintracht Frankfurt 7-3. Hôm đó, tôi nằm trong nhóm học sinh làm hàng rào chào đón (vì vào thời gian này tôi đang chơi cho Queen’s Park) và được vào sân bằng cổng chính! Nhưng tôi đã rời sân ba phút trước khi kết thúc trận đấu để bắt xe buýt về nhà, vì sáng hôm sau tôi phải đi làm. Thế là tôi đã bỏ lỡ buổi lễ ăn mừng sau trận chung kết, một điều khá hiếm trong bóng đá vào khoảng thời gian đó. Real làm cuộc diễu hành lớn với chiếc Cup, nhảy múa khắp công viên, thế mà tôi đã không ở lại để xem. Sáng hôm sau, mở báo ra đọc, tôi chỉ còn biết nhìn hình trên báo và chua chát nghĩ, “Mẹ kiếp, mình đã bỏ lỡ không xem buổi ăn mừng này rồi.”
Sân Hampden Park đầy nghẹt với 128.000 người. Khi ra về sau những trận đấu lớn, chúng tôi phải chạy hàng dặm ra khỏi sân hướng tới trạm cuối, và bắt xe buýt ở đó. Phải chạy 3-4 dặm mới tới trạm, nhưng ít nhất chúng tôi cũng lên được xe buýt. Dòng người xếp hàng tại sân sẽ dài hàng dặm, đúng vậy, hàng dặm! Các ông bố sẽ chặn các xe tải và bạn sẽ trả cho họ mỗi người sáu pence để ngồi chất đống trong thùng xe. Đó là một con đường khác để đến và ra khỏi sân. Tuy vậy, nếu MU của tôi được đá trận chung kết tại Hampden năm 2002 (trận chung kết mà Real Madrid thắng Bayer Leverkusen 2-1), thì việc dẫn đội bóng ra sân hôm đó sẽ là một kỷ niệm chẳng thể nào quên...
Một khởi đầu khác trong cùng năm là việc Carlos Queiroz gia nhập làm trợ lý cho tôi. Ngoài ra, Arsenal đã giành được cú đúp vào mùa trước và Roy
Keane bị đuổi về nước ngay trước thềm World Cup 2002, vì vậy có rất nhiều việc để tôi bận tâm khi bắt đầu một hành trình khác. Khi Roy bị đuổi khỏi sân sau khi đánh Jason McAteer của Sunderland, tôi gửi cầu thủ này đi phẫu thuật hông, tách cậu ta hoàn toàn khỏi cuộc chơi trong bốn tháng. Ngay sau đó chúng tôi có phong độ rất kém, thua Bolton trên sân nhà và Leeds trên sân khách. Chúng tôi chỉ có hai chiến thắng trong sáu trận đầu và chôn chân ở vị trí thứ chín trong bảng xếp hạng. Tôi bèn đánh một canh bạc nhỏ: gửi một số cầu thủ đi phẫu thuật, hy vọng rằng họ sẽ trở lại để tiếp sinh khí cho chúng tôi trong nửa sau của chiến dịch.
Tuy nhiên, vào tháng 9-2002, mọi người đã không còn thân thiện với tôi. Bản chất của công việc huấn luyện là công chúng sẽ tấn công bạn khi mọi việc dường như chệch hướng. Hơn nữa, tôi chưa bao giờ thân thiện với báo chí để trông mong họ giúp đỡ. Tôi không bao giờ xã giao nhiều với họ, không cung cấp cho họ những câu chuyện hay ghi nhớ danh thiếp của họ, ngoại trừ với Bob Cass của tờ Mail on Sunday, đó là trường hợp ngoại lệ đặc biệt. Vì vậy, họ không có lý do để quý mến tôi hay hỗ trợ tôi qua thời kỳ khó khăn. Các huấn luyện viên khác có nhiều kỹ năng vun đắp các mối quan hệ với báo chí. Điều này có thể giúp họ kéo dài thời gian chút đỉnh nhưng không phải là vô thời hạn, bởi kết quả khi thi đấu vẫn là cái quyết định chiếc máy chém vẫn treo đó hay chém xuống.
Áp lực truyền thông thường ở lúc mọi việc bắt đầu xấu đi. Mỗi khi rơi vào giai đoạn tồi tệ tôi thường nhìn thấy những câu tương tự như sau trên báo: “Hết giờ rồi, Fergie; giờ là lúc ông phải ra đi.” Một câu cũ rích về thời hạn sử dụng. Bạn có thể cười vào nó, nhưng bạn không được để nó làm mình bối rối kích động, vì cuồng loạn là bản chất của con thú truyền thông. Trong nhiều năm qua đã có rất nhiều bài báo khen ngợi hay ca tụng tôi. Họ
không thể không viết như vậy sau tất cả những thành công của MU. Để được gọi là một thiên tài, bạn cần phải chấp nhận rằng có khi bạn cũng sẽ bị gọi là một kẻ ngốc!
Matt Busby từng nói, “Tại sao phải đọc báo khi đội bóng của bạn đang có kết quả xấu? Tôi không bao giờ làm vậy.” Nhưng vào thời của ông, báo chí chưa phổ biến như ngày nay. Matt từng luôn cưỡi lên các con sóng khen chê mà không quá bận tâm về cả hai chuyện này.
Điều mà chúng tôi luôn làm, trong lúc thành công hay khi gặp nghịch cảnh, là đảm bảo tính bất khả xâm phạm của câu lạc bộ: những bài tập, sự tập trung, và các tiêu chuẩn chúng tôi duy trì không bao giờ bị hạ thấp. Rốt cuộc, các nỗ lực nhất quán đó sẽ cho kết quả tích cực vào những ngày thứ Bảy hàng tuần. Bằng phong cách này, phong độ và kết quả kém với một cầu thủ MU đơn giản là không thể chấp nhận được đối với chính anh ta. Sự thực thì ngay cả những cầu thủ tốt nhất đôi khi cũng mất tự tin. Eric Cantona cũng đã có những lúc tự nghi ngờ dữ dội về phong độ bản thân. Nhưng nếu văn hóa xung quanh sân tập là đúng đắn, các cầu thủ biết rằng sớm muộn họ có thể lấy lại phong độ, sự tự tin, và trở lại với đội bóng cũng như có thể trông cậy vào ý kiến chuyên môn của đội ngũ nhân viên.
Cầu thủ duy nhất mà tôi từng huấn luyện hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi những sai lầm của mình chính là David Beckham. Cậu ta có thể chơi một trận tệ hết cỡ mà vẫn không tin rằng mình đã chơi dưới sức. David sẽ từ chối chấp nhận các ý kiến phê bình, tự bảo vệ mình đến mức không thể tin được. Tôi không rõ liệu tính cách đó được phát triển do những người xung quanh cậu ta hay không. Tuy nhiên, nói ngắn gọn thì Bekham sẽ không bao giờ thừa nhận mình có một trận đấu tồi tệ, không bao giờ chấp nhận mình đã mắc sai lầm.
Bạn phải ngưỡng mộ điều đó. Theo một cách nào đó thì đây là một phẩm chất tuyệt vời. Không quan trọng là David mắc bao nhiêu sai lầm (sai lầm theo quan điểm của tôi, chứ không phải của cậu ta!), cậu ta vẫn luôn luôn muốn có bóng. Sự tự tin của Beckham không bao giờ bị ảnh hưởng. Ngược lại, cảm giác mất tự tin dạng này luôn tồn tại ở mọi cầu thủ và nhiều huấn luyện viên. Sự săm xoi, chê bai từ bên ngoài sẽ xuyên thủng vỏ bọc của bạn, cho dù đó là từ công chúng, báo chí hay người hâm mộ.
Vận rủi đến trong tháng Mười một, trong trận derby cuối cùng tại sân Maine Road: một chiến thắng 3-1 cho City, được nhớ đến do sai lầm của Gary Neville, chần chừ tiếp bóng và bị Shaun Goater đoạt bóng ghi bàn thứ hai cho City.
Sau đó tôi phải đặt câu hỏi về tinh thần của các cầu thủ, một lựa chọn mà tôi rất hiếm khi sử dụng. Phòng thay đồ là một nơi khủng khiếp khi bạn thua trận derby. Trước trận đấu, Keith Pinner, người bạn cũ của tôi và là một fan hâm mộ trung thành hết mực của City, nói, “Vì đây là trận derby cuối cùng tại sân Maine Road, anh sẽ đến uống với tôi sau trận đấu chứ?”
Thích thú bởi sự táo bạo của yêu cầu này, tôi nói, “Đồng ý thôi, nếu chúng tôi thắng.”
Sau khi chúng tôi thua 1-3, tôi đã nhận được điện thoại khi đang lên xe buýt. Pinner ở đầu dây.
“Anh đang ở đâu, không đến sao?”
“Cút đi,” tôi trả lời, hoặc đại khái là vậy. “Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy anh nữa.”
“Ôi, anh bạn thật là một kẻ thua cuộc tồi tệ!” Pinner cười phá lên. Và thế là tôi đã đến uống với anh ta.
Cuối mùa giải đó Gary Neville nhận xét, “Lúc đó là một thời khắc trọng đại của chúng ta. Tôi đã nghĩ rằng các fan sẽ tấn công chúng ta vào ngày hôm đó.”
Đôi khi một huấn luyện viên phải trung thực với các cổ động viên hơn là với các cầu thủ. Họ không phải là ngu ngốc. Miễn là bạn không chỉ trích cá nhân cầu thủ trước công chúng, còn khiển trách cả đội là tốt, không phải là một vấn đề lớn. Toàn đội phải san sẻ trách nhiệm về một kết quả kém khi thi đấu, cả huấn luyện viên, ban huấn luyện và các cầu thủ. Khi thể hiện đúng, việc chỉ trích có thể được xem là việc nhận trách nhiệm tập thể.
Do bị áp lực bởi kết quả xấu, chúng tôi đã thay đổi cách chơi. Đội bóng bắt đầu chuyền bóng lên trên nhiều và nhanh hơn chứ không tập trung vào tỷ lệ kiểm soát bóng. Với sự hiện diện của Roy Keane, giữ bóng không bao giờ là một vấn đề lớn với MU. Tôi nói với ban huấn luyện và các cầu thủ ngay từ giây phút Keane chuyển đến câu lạc bộ, “Anh chàng này sẽ không bao giờ để mất bóng.” Kiểm soát bóng được tôn thờ tại Man United, nhưng chỉ kiểm soát bóng mà không tấn công, không thọc sâu vào vòng cấm địa của đối thủ lại chỉ là sự lãng phí thời gian. Chúng tôi bắt đầu thiếu khả năng tấn công thực sự đó. Với một cầu thủ như Van Nistelrooy trên hàng tiền đạo, chúng tôi cần nhanh chóng cung cấp bóng cho anh ta, bao gồm việc chuyền bóng nhanh, tạt bóng từ hai cánh, hoặc chọc khe qua hàng phòng ngự. Đó chính là nơi bắt buộc phải thay đổi.
Chúng tôi đã thử nghiệm đưa Diego Forlán lên đá phía trên, tuy nhiên chúng tôi đã chơi rất nhiều trận với Verón, Scholes và Keane ở hàng tiền vệ. Verón chơi tự do và Scholes xâm nhập vòng cấm địa. Beckham chơi cánh phải, Giggs cánh trái. Chúng tôi có những tài năng tuyệt vời trong đội hình
đó. Vũ khí ghi bàn của chúng tôi là phía cánh phải. Van Nistelrooy không ngừng ghi bàn. Beckham thường ghi khoảng mười bàn một mùa bóng; Scholes thậm chí còn ghi bàn nhiều hơn con số đó.
Phil Neville cũng rất xuất sắc ở vị trí tiền vệ trung tâm. Một cầu thủ trong mơ. Cậu ta và Nicky Butt là những đồng minh hoàn hảo của tôi. Hai cầu thủ này chỉ muốn chơi cho Man United và chẳng bao giờ muốn rời đội. Thời điểm để những cầu thủ dạng này ra đi là khi bạn thấy rằng mình đang làm tổn thương hơn là giúp họ, khi buộc phải sử dụng họ ở vị trí cầu thủ dự bị.
Những cầu thủ này rốt cuộc bị mắc kẹt giữa lòng trung thành cực đoan và nỗi buồn vì không được tham gia nhiều hơn trong các trận đấu của đội một. Điều này thật khó khăn cho bất kỳ người nào. Phil đóng một vai trò rất lớn khi chúng tôi cần ổn định. Cậu ta rất có kỷ luật. Đây là dạng cầu thủ mà bạn có thể nói, “Phil này, tôi muốn anh chạy lên ngọn đồi kia, chặt cái cây đó rồi quay về đây.”
Và cậu ta sẽ nói, “Vâng, thưa Sếp, cưa máy để ở đâu?”
Tôi có một vài cầu thủ như thế. Phil sẽ làm bất cứ điều gì cho đội, cậu ta chỉ nghĩ về đội bóng. Ngay cả khi chỉ được góp phần rất hạn chế trong sự vận hành thành công của đội, Phil vẫn tìm ra cách để hài lòng với điều đó. Mặc dù vậy, cuối cùng thì chính Gary (Gary Neville, anh trai của Phil Neville, cũng là cầu thủ của MU - ND) đến nói chuyện với tôi, để xem tôi cảm thấy như thế nào về vai trò ngày càng giảm sút của Phil tại MU.
“Tôi không biết phải làm sao nữa, Phil là một chàng trai tuyệt vời,” tôi nói với Gary.
“Vấn đề là ở chỗ đó,” Gary nói. “Nó không muốn đến nói với ông.” Bạn thấy đó, Phil thiếu tính thẳng thắn của Gary...
Tôi mời Phil đến nhà nói chuyện. Cậu ta đã đến cùng cô vợ Julie. Lúc đầu, tôi không thấy cô ta trong xe, nhưng sau đó tôi thấy và bảo vợ tôi, “Cathy, em hãy ra mời Julie vào nhà.” Khi Cathy ra tới nơi, Julie bắt đầu khóc. “Chúng tôi không muốn rời khỏi Man United,” cô nói. “Chúng tôi thích được ở lại câu lạc bộ.” Cathy mang cho cô một tách trà, nhưng cô không vào nhà. Tôi nghĩ rằng cô lo mình làm hỏng cuộc nói chuyện và làm chồng bối rối.
Quan điểm của tôi về Phil là: nếu cứ sử dụng cậu ta như hiện tại, trong vai trò cầu thủ dự bị, thì tức là tôi đang làm hại hơn là lợi cho Phil. Phil hiểu ra và đồng ý rằng mình cần phải ra đi. Tôi để cậu ta tự tìm cách nói với vợ mình ra sao.
Khi họ đã ra về, Cathy nói, “Anh sẽ không để Phil đi, đúng không nào? Anh không được để những người như thế rời khỏi MU.”
“Cathy,” tôi nói. “Vì điều đó tốt cho chính cậu ta, em hiểu không? Chuyện này làm anh đau khổ còn nhiều hơn Phil nữa kìa!” Tôi để cậu ta ra đi với giá rẻ, chỉ 3,6 triệu bảng. Thực ra Phil Neville đáng giá gấp đôi thế, vì cậu ta có thể chơi ở năm vị trí khác nhau - hậu vệ cánh trái, cánh phải hoặc những vị trí ở hàng tiền vệ. Phil thậm chí còn chơi trung vệ cho Everton, khi Phil Jagielka và Joseph Yobo bị thương. Để cho Nicky Butt ra đi là nỗi đau tương tự, mặc dù Nicky không gặp vấn đề khi tự bảo vệ mình. Nicky là một gã khá xấc xược, một cậu bé vùng Gorton, một chàng trai tuyệt vời. Cậu ta sẽ đi vào gặp HLV và nói thẳng, “Tại sao tôi không được chơi?”
Nicky là vậy đó. Tôi thích như thế, và tôi sẽ nói, “Nicky, cậu không ra sân vì tôi nghĩ rằng Scholes và Keane chơi tốt hơn cậu.” Đôi khi, trên sân khách, tôi đưa Nicky ra sân và đá ở ngay phía trước Scholesy. Ví dụ như tại
trận bán kết Champions League với Juventus, tôi đã để Butt ra sân thay vì Scholes. Scholes và Keane đều đã dính hai thẻ vàng và tôi không thể không lo lắng nguy cơ cả hai vắng mặt trong trận chung kết do bị treo giò. Nhưng rốt cuộc thì chuyện đó vẫn xảy ra: tôi đưa Scholes vào thay Butt khi Nicky bị chấn thương, rồi Paul bị dính thẻ vàng. Cuối cùng tôi bán Nicky cho Bobby Robson của Newcastle với giá 2 triệu bảng. Newcastle quả là đã mua với giá hời!
Trời quang mây tạnh dần dần vào năm 2002 khi chúng tôi thắng Newcastle 5-3 vào cuối tháng Mười một. Diego Forlán, người đã mất đến 27 trận mới ghi bàn thắng đầu tiên cho chúng tôi - một quả phạt đền trước Maccabi Haifa - là nhân tố chính trong chiến thắng 2-1 của chúng tôi tại Liverpool. Jamie Carragher đánh đầu trả bóng lại cho Jerzy Dudek và bị Forlán lẻn xuống ghi bàn. Sau đó chúng tôi đánh bại Arsenal 2-0 và Chelsea 2-1, và Forlán lại ghi bàn quyết định. Trên sân tập vào mùa đông năm đó, chúng tôi rất nỗ lực tập luyện đội hình phòng thủ.
Vào tháng 2-2003 chúng tôi thua ở vòng năm cúp FA trước Arsenal 0-2 trên sân nhà. Trong trận đó Ryan Giggs đã bỏ lỡ một pha ghi bàn vào lưới trống, sút bóng chân phải vọt xà ngang khi đối phương không còn ai bảo vệ mành lưới. “Ái chà, Giggsy,” tôi nói, “cậu đã ghi bàn thắng đẹp nhất lịch sử Cup FA, và bây giờ cậu có thêm pha bỏ lỡ tệ nhất.” Trong pha bóng lịch sử đó, cậu ta có quá nhiều thời gian để chỉnh bóng, thậm chí có thể đi bộ mà đưa bóng vào lưới cũng được.
Trận đấu đó làm tôi nổi cơn thịnh nộ, hơn nữa nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến mối quan hệ của tôi với một người khác của lứa cầu thủ đã đoạt Cup FA dành cho cầu thủ trẻ vào năm 1992. Chiếc giày tôi đá đi trong cơn nóng giận đã tình cờ bay thẳng vào chân mày của David
Beckham. Dù vết xước đó được dán bằng miếng băng cá nhân nhưng “vết thương” kia vẫn chẳng thể nào khép miệng.
Sau khi thua trong trận chung kết Carling Cup trước Liverpool, chúng tôi gặp một đối thủ lớn khác vào thời điểm đó. Vào cuối sự nghiệp huấn luyện của tôi, Leeds United không còn là một mối đe dọa với MU, nhưng vào mùa xuân năm 2003 thì họ đúng là một mối nguy cơ lớn, mặc dù chúng tôi đã thắng trận đó với tỉ số 2-1. Tôi sẽ nói thêm một chút về cuộc cạnh tranh cực kỳ căng thẳng với Leeds trong thời kỳ đó.
Khi lần đầu đến Manchester, tôi chỉ biết về trận derby với Manchester City và các cuộc chạm trán với các đối thủ thuộc vùng Merseyside của United, đó là Everton và Liverpool. Tôi không hề biết về sự thù địch giữa United và Leeds. Trong một trận đấu ở Giải hạng Nhất (nay là Premier League - ND), Archie Knox và tôi đến xem trận Crystal Palace đánh bại Leeds. Hiệp một kết quả là 0-0, nhưng trong hiệp hai thuộc về Leeds. 20 phút trôi qua, Leeds bị từ chối một quả penalty và đám đông phát điên lên. Một fan hâm mộ Leeds bắt đầu hét vào mặt tôi: “Ê, thằng Manchester khốn kiếp kia!”
“Mấy chuyện này là sao, Archie?” tôi hỏi.
“Tôi không biết,” Archie trả lời.
Tôi nhìn xung quanh tìm kiếm người thuộc ban tổ chức trận đấu. Khu chỗ ngồi hạng nhất tại Leeds rất nhỏ, khắp xung quanh bạn là đám đông người hâm mộ. Rồi Crystal Palace tấn công và ghi bàn. Đám đông thực sự mất bình tĩnh. Archie muốn chúng tôi rời sân, nhưng tôi khăng khăng ngồi lại. Palace lại ghi bàn, và đó là lúc anh bạn mới quen nói trên dùng một chiếc ly Bovril đánh vào lưng tôi. Sự lăng nhục này thật đáng kinh ngạc. “Thôi chuồn đi!”, tôi nói với Archie.
Ngày hôm sau tôi nói chuyện với người phụ trách trang phục của câu lạc bộ vào thời điểm đó, Norman Davies. Ông ta nói, “Tôi đã nói với anh về Leeds rồi mà. Chỉ có hận thù thôi!”
“Nhưng từ đâu chứ?”
“Từ những năm sáu mươi,” Norman đáp.
Leeds từng có một người gác cổng tên Jack, ông ta sẽ lên xe buýt khi chúng tôi đến sân Elland Road và hét to, “Thay mặt giám đốc, cầu thủ và ủng hộ viên của Leeds United, chào mừng đến Elland Road.” Mỗi lần như thế, tôi chỉ biết nhủ thầm, “OK, OK, rồi sẽ ổn thôi.”
Một số người hâm mộ còn công kênh những đứa con trên vai, bộc lộ sự thù địch thật không thể tin nổi. Trong trận bán kết League Cup tại Leeds vào năm 1991, họ hơi ép sân hiệp hai, nhưng Lee Sharpe đã ghi bàn duy nhất cho MU khi chỉ còn hai phút là hết trận. Bàn thắng này dường như đã được ghi trong tình huống việt vị cả 5 mét. Khi ấy tôi đang đứng ngoài đường biên còn Eric Harrison ngồi trong khu dành cho ban huấn luyện. Rất nhiều người nhầm Eric với tôi. Một cổ động viên của Leeds chắc chắn cũng nghĩ thế, vì anh ta giáng cho Eric một cú đánh. Anh chàng đó nghĩ rằng đang đánh tôi, rồi các fan của Leeds cũng xô đến... Thật quái quỷ. Thế nhưng, bất chấp những chuyện như thế, vẫn có điều gì đó trong bầu không khí thù địch tại Elland Road mà tôi rất thích.
Trong những năm dưới thời Peter Ridsdale, khi mà Leeds đang “sống trong mơ”, như tên mà vi Chủ tịch nói trên sau này đặt cho giai đoạn đó, tôi đã cảm nhận câu lạc bộ đó như một lâu đài xây trên cát. Khi tôi nghe về cách họ trả lương, tôi đã gióng lên hồi chuông báo động. Khi chúng tôi bán Lee Sharpe cho họ, tôi tin rằng họ đã tăng lương gấp đôi cho cầu thủ này!
Nhưng họ đã xây dựng một đội rất cừ, với những con người như Alan
Smith, Harry Kewell, David Batty. Quay lại thời điểm năm 1992, họ đã vô địch giải ngoại hạng với một trong những đội hình chất lượng bình thường nhất từng giành danh hiệu, nhưng quả là họ đã thi đấu hết sức quyết tâm. Ngoài ra, Leeds còn có sự dẫn dắt tuyệt vời của HLV Howard Wilkinson. Một thập kỷ sau, chúng tôi nghe chuyện về một cầu thủ trẻ tên Seth Johnson từ Derby gia nhập Leeds. Cậu ta và các đại diện của mình bàn bạc và quyết định đòi mức luơng tuần là 25.000 bảng. Nhưng rốt cuộc đề nghị của Leeds lại là... 35.000 bảng một tuần, và có thể lên đến 40.000-45.000 bảng...
Nhiều câu lạc bộ đã không rút ra được những bài học tương tự. Những cảm xúc của trò chơi đã gài bẫy họ.
Tôi nhớ có một doanh nhân địa phương của Manchester đến gặp tôi nói, “Tôi đang nghĩ đến việc mua lại Birmingham City, ông thấy sao?” Tôi nói, “Nếu ông có một trăm triệu bảng để phiêu lưu thì xin mời.”
“Ồ không, không,” ông nói. “Họ chỉ đang nợ mười một triệu bảng mà thôi.”
“Nhưng ông có nhìn thấy sân vận động chưa?” tôi hỏi lại. “Ông sẽ cần xây một sân vận động mới, có lẽ tiêu tốn sáu mươi triệu, và rồi thêm bốn mươi triệu để có thể đưa đội bóng ấy thăng hạng Premier League.”
Bạn thấy đấy, nhiều người cứ cố gắng áp dụng các nguyên tắc kinh doanh thông thường vào bóng đá. Nhưng bóng đá không phải là máy tiện, cũng không phải là máy phay, mà đó là một tập hợp của những con người. Đó là sự khác biệt.
Chúng tôi phải đối mặt với một số trận đấu quyết định trước khi kết thúc mùa giải đó.
Đầu tiên là trận đấu ở giải vô địch Anh, MU thắng Liverpool 4-0 trên
sân nhà, với tình huống Sami Hyypia bị đuổi khỏi sân ở phút thứ 5 vì truy cản pha đi bóng của Van Nistelrooy. Sau đó là hai trận đấu với Real Madrid tại Champions League. Trong trận lượt đi mà MU thua 1-3 tại Madrid, Van Nistelrooy là cầu thủ duy nhất ghi bàn cho chúng tôi, trong khi ba bàn của Real thuộc về Luis Figo và Raul (hai bàn). Trong trận lượt về tại Old Trafford, tôi để Beckham trên băng ghế dự bị. Đây là một trận đấu hay cực kỳ, và nghe đâu sau khi xem trận đấu này Roman Abramovich - phấn khích vì chiến thắng 4-3 của chúng tôi và từ hat-trick của tiền đạo người Brazil Ronaldo - đã quyết định tham gia vào giới bóng đá qua việc mua lại CLB Chelsea!
Tuy bị dẫn chín điểm khi kết thúc giai đoạn một, nhưng chúng tôi chạy đua rút được tám điểm sau trận thắng 4-1 trước Charlton vào tháng 5-2003, trận đó Van Nistelrooy lập hat-trick nâng số bàn thắng trong mùa giải của anh lên thành 43 bàn. Vào tuần áp chót, Arsenal cần đánh bại Leeds tại Highbury để có cơ hội bắt kịp chúng tôi, nhưng Mark Viduka đã giúp chúng tôi với một bàn thắng muộn cho kình địch vùng Yorkshire. Đồng thời, trong chiến thắng 2-1 tại Everton, David Beckham ghi bàn từ một quả phạt trực tiếp trong trận đấu cuối cùng cho chúng tôi. Thế là Manchester United lại là nhà vô địch - lần thứ tám trong 11 mùa giải. Các cầu thủ đã nhảy múa và hát, “Chúng ta đã lại mang chiếc cúp của mình về nhà.”
Chúng tôi giành lại được chức vô địch giải ngoại hạng nhưng phải nói lời chia tay với Beckham.
năm
BECKHAM
N
gay từ khi bắt đầu chơi bóng, Beckham đã cho thấy khát khao mãnh liệt muốn khẳng định bản thân và tài năng của mình. Cậu ấy và tôi cùng giã từ “sân khấu lớn” của bóng đá trong cùng một mùa hè, khi đó Beckham vẫn là ngôi sao xuất chúng của bóng đá châu Âu, với rất nhiều cơ hội vẫn mở ra trước mắt. Giống việc tôi về hưu tại United, cậu ấy chơi mùa bóng cuối cùng của mình tại Paris St- Germain và giải nghệ hoàn toàn do ý nguyện của bản thân mình.
Đôi khi bạn phải lấy đi một thứ gì đó mới có thể khiến ai đó hiểu được họ yêu quý nó nhiều như thế nào. Khi Beckham tới Mỹ chơi cho LA Galaxy, tôi tin cậu ấy đã nhận ra rằng mình đang từ bỏ một phần trong sự nghiệp bóng đá. Cậu ấy đã nỗ lực hết sức để có thể trở lại thời kỳ đỉnh cao phong độ, và thể hiện nhiều quyết tâm hơn tại những thời điểm khó khăn của các trận đấu, khác hẳn với những ngày cuối còn chơi cho chúng tôi.
David không có nhiều lựa chọn tại thời điểm cậu ấy chuyển từ Real Madrid sang chơi tại Giải nhà nghề Mỹ (MLS) vào năm 2007. Tôi nghĩ cậu ấy cũng đã để mắt đến Hollywood và những ảnh hưởng của nó lên giai đoạn tiếp theo của sự nghiệp. Không hề có bất kỳ lí do chuyên môn giải thích cho việc cậu ấy sang Mỹ. Beckham đã từ bỏ bóng đá đỉnh cao và sự nghiệp thi đấu quốc tế, mặc dù vào giai đoạn đó cậu ấy vẫn cố gắng để có thể trở lại đội tuyển Anh. Điều đó chứng minh cho quan điểm của tôi rằng
đã có sự thất vọng lớn trong giai đoạn sau của sự nghiệp Beckham. Rõ ràng Beckham đã dựa vào một yếu tố quá mỏng manh trong nỗ lực lấy lại hình ảnh của mình như trong thời kỳ đỉnh cao.
David đối với tôi như một đứa con trai vậy, vì tôi đã chứng kiến cậu ấy trưởng thành cùng với Giggs và Scholes. Thời điểm cậu ấy gia nhập United vào tháng 7-1991, David chỉ là một đứa trẻ sống tại London như bao đứa trẻ khác. Chỉ sau một năm cậu ấy đã được xem là một phần của thế hệ 92, thế hệ của những Nicky Butt, Gary Neville và Ryan Giggs. Những chàng trai này đã đoạt Cúp FA dành cho các cầu thủ trẻ năm đó. Beckham đã chơi tổng cộng 394 trận cho United và ghi được 85 bàn thắng, trong đó phải kể đến bàn thắng từ giữa sân trong trận đấu với Wimbledon, chính bàn thắng này đã làm cho tên tuổi cậu ấy được biết đến trên toàn thế giới.
Khi tôi rời United vào tháng 5-2013, Giggs và Scholes vẫn chơi cho United nhưng lúc đó đã tròn mười năm kể từ khi David rời Manchester và chuyển sang chơi bóng ở Tây Ban Nha. Vào ngày thứ Tư, 18-6-2003, chúng tôi thông báo cho Sàn Giao dịch Chứng khoán rằng Beckham sẽ gia nhập Real Madrid với giá chuyển nhượng là 24,5 triệu bảng Anh. Khi ấy David 28 tuổi. Tin tức này nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới. Đó là một trong những khoảnh khắc khiến câu lạc bộ nổi tiếng trên toàn cầu.
Tôi thực sự không có hiềm khích hay thù oán gì đối với David. Tôi thích cậu ấy. Tôi nghĩ cậu ấy là một chàng trai tuyệt vời. Nhưng bạn không bao giờ được quên mình giỏi lĩnh vực nào.
David là cầu thủ duy nhất tôi huấn luyện muốn làm người nổi tiếng. Cậu ấy muốn được biết đến không chỉ trên sân cỏ mà còn ngoài đời nữa. Wayne Rooney đã có thể bị thay đổi như vậy. Cậu ấy đã được chọn làm mục tiêu của giới truyền thông ngay từ lúc chập chững vào nghề, và đã
nhận được hàng tá những lời đề nghị sẽ khiến bạn phải do dự. Thực sự Rooney kiếm được từ những lĩnh vực ngoài bóng đá nhiều gấp đôi số tiền mà CLB trả cho cậu ta. Giggs cũng ở trong tầm ngắm của họ, nhưng đó không phải là những gì cậu ấy muốn.
Trong mùa giải cuối cùng tại United, chúng tôi nhận thấy nhiệt huyết của David không còn cao như trước. Cùng lúc đó cũng xuất hiện những tin đồn cho rằng Real Madrid đang theo đuổi chữ ký của cậu ấy. Vấn đề chính lúc này là cậu ấy đã không thể hiện được nhiều như những năm trước đó.
Xung đột giữa chúng tôi nổ ra tại một trận đấu thuộc vòng 5 Cúp FA tại Old Trafford. Sự kiện đó đã làm tốn không ít giấy mực của báo chí. Trong trận đấu đó chúng tôi đã thua Arsenal 2-0.
Lỗi của David trong trận đấu đó chính là việc cậu ấy không chịu về hỗ trợ phòng thủ trong bàn thua thứ hai ghi bởi Sylvain Wiltord. Có thể nói trong pha bóng đó cậu ta chỉ như đi bộ mà thôi, và Wiltord đã dễ dàng vượt qua và ghi bàn. Vào cuối trận tôi trách mắng Beckham, và như thường lệ cậu ấy phản đối những lời chỉ trích của tôi. Có thể cậu ấy bắt đầu nghĩ rằng mình đã qua giai đoạn phải tích cực tham gia phòng ngự, mặc dù chính những tố chất này đã giúp Beckham thành công.
David ngồi cách tôi khoảng 4 mét, giữa chúng tôi là một dãy giày. David đã chửi thề. Tôi tiến đến cậu ấy và sút vào một chiếc giày. Chiếc giày đó đã trúng vào phía trên mắt của Beckham. Ngay lập tức cậu ấy đã đứng dậy và xông vào tôi nhưng lúc đó các cầu thủ khác đã kịp thời ngăn lại. “Ngồi xuống,” tôi quát. “Cậu muốn nói gì cũng được, nhưng cậu đã làm cả đội thất vọng.”
Ngày hôm sau tôi đã gọi cho cậu ấy để cùng xem lại băng ghi hình. Thật tệ là cậu ấy vẫn không chịu nhận lỗi của mình. Khi ngồi đó nghe tôi nói,
"""