"
Ajaan Mun - Ajahn Maha Bua PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ajaan Mun - Ajahn Maha Bua PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Phra Acharn Mahā Boowa Ñāṇasampanno
Phra Acharn Mun Bhūridatta Thera
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
“Quà Pháp bảo cao quý hơn mọi món quà khác!” Đức Phật
Phra Acharn Mahā Boowa Ñāṇasampanno
Phra Acharn Mun Bhūridatta Thera
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
Phra Acharn Mun Bhūridatta Thera
Không được phép bán Pháp như hàng hóa ở chợ. Được phép tái bản sách này dưới mọi hình thức để phát miễn phí như món quà Pháp bảo, và không cần xin bất kỳ giấy phép nào nữa. Cấm hoàn toàn việc tái bản sách này dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích thương mại.
Tác giả: Phra Acharn Mahā Boowa Ñāṇasampanno
Dịch sang tiếng Anh: Siri Buddhasukh
Dịch sang tiếng Việt: Sumanā Lê Thị Sương và Sunanda Phạm Kim Khánh Hiệu đính bản dịch Việt: PT Diệu Hạnh
Thiết kế bìa và ruột: PT Diệu Hạnh
ISBN: 978-604-86-4085-9
In tại xí nghiệp in Fahasa
774 Trường Chinh, P15
Quận Tân Bình, TP HCM
Liên hệ xin sách và góp ý xin gửi email tới d.dieuhanh@gmail.com
Mục lục
Lời của tác giả 15 Lời người dịch tiếng Anh 16 Lời của người hiệu đính 17 Thuở thiếu thời 18 Điềm mộng tiên tri 19 Linh ảnh khi nhập định 22 Tìm ra phương pháp đúng 23 Tình trạng xuống dốc vào giai đoạn đó 24 Luôn luôn giữ chánh niệm 25 Cách độ thực của Ngài 27 Hạn chế của việc không có thiền sư tài giỏi hướng dẫn 28 Những phát nguyện trong quá khứ 29 Một cái tâm rất dũng mãnh và lanh lẹ 31 Mạo hiểm tại động Sarika 35 Dấu hiệu nhuốm bệnh đầu tiên 36 Gặp một bầy khỉ 40 Nỗi buồn vô hạn 43 Vị tỳ khưu già hành thiền minh sát 44 Thời Pháp của chư vị đệ tử A La Hán 46 Chứng đắc Đạo Quả A Na Hàm 49 Rời khỏi động Sarika 50 Tại Bangkok với Ngài Chao Khun Upali 51 Phra Acharn Sitha mạo hiểm với cọp 52 Vài vị đệ tử của Ngài Acharn Mun 54 Hạnh đầu đà 56 Chuyện vị tỳ khưu sợ ma 63 Con chó dị thường 64
Tên phù thủy vĩ đại 65 Mật ngọt của những bài giảng 67 Chuyến thứ nhì trở lại vùng Đông Bắc – Cách chiến thắng kinh sợ 69 Vị tỳ khưu đầu đà đương đầu với đau khổ như thế nào 70 Nơi ma quỷ và thánh thần ngự trị 71 Trả lời thẳng người hỏi thay vì trả lời câu hỏi 72 Linh ảnh phát sanh khi hành thiền cần được khảo sát tỉ mỉ 75 Thân tâm tự do – Hạnh phúc và an lạc của vị tỳ khưu đầu đà 76 Cách chư thiên tôn kính Giao cảm giữa tâm và tâm 78 Chữa bệnh đậu mùa – Rải tâm từ hàng ngày 80 Lợi ích của vùng hoang vu – Tâm và ô nhiễm 82 Sợ hãi và Giáo Pháp 84 Xả ly và buông bỏ 85 Sống thiếu thốn dựa trên Giáo Pháp là con đường giải thoát 88 Ngũ lực 90 Nói với lòng tự tin cam đảm 91 Trau dồi tâm là chữa bệnh tâm loạn 95 Long vương và chư thiên viếng thăm 98 Pháp hành thường nhật vào tuổi trung tuần Thuyết giảng cho những vị
khách vô hình 99 Những thời Pháp cho người và chư thiên So sánh khả năng lĩnh hội 100 Một hòn núi kiêu hãnh 101 Khu rừng nhiễm bệnh sốt rét 103 Chuyện đào giếng – Thiên nhãn của Ngài 104 Nghiêm trị người có tội 107 Kinh nghiệm hành thiền của Ngài 109 Hiệu quả tạo thói quen của thiền định 110 Trung Đạo của bậc Thánh Bất Lai Những ô nhiễm khéo lẩn trốn 111 Ca khúc hòa tấu của chúa sơn lâm Ảnh hưởng của tâm từ thanh khiết 113 Cuộc đời của con người quả thật ngắn ngủi 115 Thái độ của chư thiên đối với con người 116 Bản chất tự nhiên của chúng sanh vô hình 118 Đi Ubol Rajathani 119 Linh ảnh thấy các loại đệ tử 120 Ép suy nghĩ vào kỷ luật Hai hạng đệ tử 122 Voi đầu đàn đơn độc trong rừng sâu 124 Ở Bangkok và sau đó đi Chiengmai 126
Thời Pháp tại Chiengmai 127 Chiến đấu một mất một còn để thành tựu mục tiêu cuối cùng 129 Đại niệm và Đại tuệ 131 Chứng ngộ cuối cùng 134 Giáo Pháp về sự Giải Thoát 137 Chư thiên bày tỏ lòng thán phục 139 Bà vợ của Ngài (trong những kiếp trước) 140 Hôn nhân có thể tạo địa ngục hay thiên đàng trên cõi trần gian 143 Lời tán dương của chư Phật và chư vị đệ tử A La Hán 145 Tôn kính dựa trên sự phân biệt giữa phàm phu và chư vị đã tuyệt đối
giải thoát 148 Xác chết không có nghĩa địa 149 Đường lối thực hành và giảng dạy tại Chiengmai 150 Trường hợp tình yêu sét đánh 152 Tìm lỗi người vì lòng từ bi 156 Đối thoại trong tâm và vũ khí chiến lược 156 Trường hợp một tỳ khưu võ sỹ 158 Giải Thoát – trạng thái vượt ra ngoài không gian và thời gian 160 Những con cọp trá hình 162 Cuộc chia tay bi tráng của Ngài 168 Hối tiếc và ăn năn vô ích 170 Sự trợ giúp thâm sâu và rộng rãi 171 Tác dụng của đôi mắt soi xét của Ngài 171 Không thương xót đánh vào tự ngã 173 Phế truất ma quỷ 174 Sự giúp đỡ rộng rãi của Ngài Acharn tại Chiengmai, đặc biệt giúp
chúng sanh vô hình 176 Một cuộc viếng thăm của những vị trời từ Đức Quốc 177 Huyết mạch của vị tỳ khưu đầu đà 178 Cuộc mạo hiểm với một con voi 180 Trường hợp một vị tỳ khưu có tính nói lắp 183 Khả năng đặc biệt thích nghi với hoàn cảnh 185 Giai thoại về Ngài khi còn tại gia 185 Cuộc viếng thăm của vua trời Sakka Tâm là Giáo Pháp 187 Trường hợp một cái tháp xây dở 189 Tai hại của tâm luyến ái 192 Linh ảnh ba con voi 193
Giúp đỡ chúng sanh trong cảnh ngạ quỷ và địa ngục 195 Tiết lộ sự thật về cảnh trời và địa ngục 197 Bơi trên đất liền và máu chảy đầy ngực 201 Hang động thánh thiện trên đỉnh núi 202 Vị long vương tìm lỗi 204 Ảnh hưởng của thói quen và sự lặp đi lặp lại 209 Cách viên tịch của các vị đệ tử A La Hán 210 Niết Bàn 212 Độc quyền nhưng mọi người đều có thể thành tựu 213 Hiệu quả chữa bệnh của Giáo Pháp 214 Đau khổ tinh thần và vật chất phải được quán niệm rồi buông xả 215 Khả năng nội tâm và những lời dạy sôi nổi của Ngài 217 Sống như đã chết 218 Tiếng gầm của sư tử 219 Bản chất của tâm phàm tục 221 Tâm bất thối chuyển 221 Thời Pháp tại Chiengmai nhân ngày Phật Đản 222 Sự ra đời của Đức Phật và sự ra đời của những người khác 224 Không nên khinh miệt nghiệp của người khác 224 Từ Chiengmai đi Bangkok 226 Kiểm soát tâm là cốt lõi của giới đức 227 Câu hỏi của một vị trưởng lão 228 Không đói tức vô ngã 231 Tại Udorn Thani 233 Tình yêu trong những kiếp quá khứ 234 Nhà sư trong tâm 238 Thời gian biểu hàng ngày - Năng lực ý chí 239 Nghĩa địa trong tâm 241 Cây Bồ Đề trong tâm 242 Đi đến thị trấn Sakol Nakhorn Những bức ảnh của Ngài 244 Võ sỹ trứ danh nhưng không biết chuyện trò – Chánh tinh tấn 245 Dạy những gì đã chứng nghiệm chứ không phải phỏng đoán 247 Ngày đầu tiên gặp Ngài Acharn 249 Cách dạy đầy tài ứng biến 251 Khuyên dạy, nhắc nhở và khuyến khích riêng cho từng người 251 Lợi ích vô biên nhờ ảnh hưởng của bậc trí tuệ và đức hạnh 253 Khu rừng ẩn dật Nong Phue Trung tâm của các vị tỳ khưu đầu đà 254
Cuộc sống ẩn dật trong rừng 256 Đi bộ - một loại tinh tấn 257 Kết quả đền đáp lại mọi sự nhẫn nại và hy sinh 259 Giáo Pháp không bao giờ không thích hợp, không thể thực hành,
hay lỗi thời 260 Chuẩn bị cho điều không thể tránh 260 Kiềm chế vật thực 261 Dưỡng nuôi ô nhiễm – chỉ có dấu hiệu tượng trưng ắt không đủ 262 Sự thách thức của Giáo Pháp 264 Một vị thiền sư giúp đệ tử như thế nào 264 Lý do Ngài Acharn lưu lại một nơi nào đó 266 Khả năng tha tâm thông của một bà tín nữ 267 Đương đầu với thử thách 269 Giáo Pháp hộ trì người thực hành Giáo Pháp 270 Gương trí tuệ và sự kham nhẫn 271 Cái chết của hai vị tỳ khưu 273 “Một người cứng cỏi” không sợ cọp – Hãy coi những gì mình sợ là thầy
của mình 275 Tại làng rừng Nong Phue 280 Pháp hành khắc khổ để ít nhất là làm ô nhiễm kinh sợ tránh xa 282 Cơn bệnh cuối cùng của Ngài Acharn 284 Dòng người đến thăm Ngài không dứt 285 Thời Pháp vi diệu của Ngài Acharn 286 Gương kham nhẫn và buông xả khỏi tình trạng của thân 288 Lệnh của Ngài bảo rời Ngài đi nơi khác 289 Sự ra đi của Ngài Acharn 290 Tại Bahn Phoo khách thăm vô cùng tận 291 Đến Sakol Nakhorn, nơi Ngài Acharn hoàn toàn viên tịch 292 Hoàn toàn viên tịch 293 Bản chất tâm phàm phu 294 Người nghèo nhất và người giàu nhất 295 Người dân tuyệt vời của Sakol Nakhorn 296 Lễ hỏa táng 296 Phép lạ 298 Gỗ trầm dùng để hỏa táng Phân phát tro 298 Tâm toàn quyền điều khiển việc tiến bộ hay thụt lùi 299 Thời gian chán nản và cảm thấy cô đơn 300
Tro của Ngài Acharn trở thành xá lợi 302 Tại sao tro trở thành xá lợi 304 Những vị thiền sư nổi tiếng trong sự phát triển của đất nước 305 Phát triển tâm – nền tảng của sự phát triển ngoài đời 306 Độ chín muồi của từng người quyết định mức độ tiếp thu 308 Chân thật là một phẩm hạnh của chư thiên 308 Những chiều sâu khác nhau của lòng chân thật 309 Điều không biết và điều không thể biết 310 Trường hợp một cái tâm lươn lẹo 311 Long vương để lại dấu chân 313 Tuệ minh sát đa dạng của Ngài 313 Kiểm tra khả năng tha tâm thông của Ngài Acharn 315 Phra Acharn Chob mạo hiểm với cọp 316 Cuộc mạo hiểm của Ngài Acharn Chob tại Miến Điện và một con cọp
cận vệ 318 Một vị trời dâng vật thực 320 Liên hệ giữa Ngài Acharn và chư vị đệ tử 323 Những lời dạy cuối cùng của Ngài Acharn 325 Sám hối và chúc phúc 329
Phra Acharn Sao Kantasīlo
(1859 - 1942)
Phra Acharn Mun Bhūridatta Thera
(1870 - 1949)
Phra Acharn Mun Bhūridatta Thera
(1870 - 1949)
Phra Acharn Mahā Boowa Ñāṇasampanno
(1913 - 2011)
Lời của tác giả
Cuốn tiểu sử này được viết ra để hé mở về cuộc đời và cách tu tập của vị Đại sư đã quá cố Phra Acharn Mun Bhūridatta. Đây là kết quả của việc góp nhặt những thông tin do một số các đệ tử cùng thời với Ngài, những người đã được Ngài chỉ dạy vào những thời điểm khác nhau, hảo tâm cung cấp. Do vậy, mức độ chính xác của những thông tin này là khá đáng tin cậy, dù vậy, đương nhiên, không thể trông cậy từng vị đệ tử của Ngài nhớ lại được từng từ chỉ dạy của Ngài, từng địa điểm và từng sự kiện trong cuộc đời của Ngài. Tuy vậy, không thể chờ để có thể thu thập được thông tin hoàn hảo và đầy đủ. Ta càng chờ lâu, những chi tiết quan trọng chắc chắn sẽ phai dần trong trí nhớ của các vị đệ tử thời đó. Những thế hệ tương lai sẽ mất dần một tấm gương cao cả, một người họ có thể ngưỡng trông và noi theo. Vì lưu ý tới sự thật này nên cuốn tiểu sử này được viết ra, với hy vọng là ít nhất có được cái gì đó có thể tốt hơn là không có gì cả.
Phương pháp trình bày ở đây tuân theo phương pháp của các vị viết tiểu sử các Vị đệ tử Cao cả thời cổ trong các bài kinh kệ khác nhau, với hy vọng rằng đó sẽ là những ví dụ khích lệ các thế hệ tương lai. Nếu bất kể cái gì liên quan tới cố Đại sư Phra Acharn Mun mà có vẻ là “không thích hợp”, người viết xin độc giả thứ lỗi. Đây là vì những người quan tâm đến khía cạnh này của Phật Pháp mà người viết cố gắng làm việc này. Người viết phải thừa nhận rằng người viết không thể không cảm thấy lo lắng về cố gắng của mình.
Boowa
Lời người dịch tiếng Anh
Bản dịch này đã cố gắng hết sức để tóm bắt được ý nghĩa đầy đủ của bản gốc tiếng Thái, mà trong vài trường hợp là thể hiện ẩn ý, và do vậy bản dịch này không thể gọi là dịch từng từ. Mọi từ mà người dịch thêm vào được để trong ngoặc. Thấy cần phải thêm chú thích để làm rõ nghĩa của các từ vì không như vậy có thể hiểu theo các nghĩa khác, hoặc vì người phương Tây, độc giả của cuốn sách này, không đủ quen với các thuật ngữ Phật giáo hoặc việc tu tập của các tỳ khưu. Phần Chú Giải Bổ Sung ở cuối sách cũng là nhằm mục đích này.
Người dịch xin hồi hướng nỗ lực của mình trong công trình này tới tất cả những ai quyết tâm chuyển Pháp từ Kinh tạng vào tâm mình, và tới những ai dám dũng cảm chịu đựng đau khổ dẫn tới việc kết thúc đau khổ, và những ai mong muốn nhìn được dấu chân “tươi rói” của Đức Phật và các vị đệ tử Cao cả của Ngài trong thời đại này.
Siri Buddasukh
22/12/2519/1976
Lời của người hiệu đính
Đây là bản chép lại từ bản dịch Việt của Sumanā Lê Thị Sương và Sunanda Phạm Kim Khánh do Nārada Center phát hành, được dịch từ bản dịch tiếng Anh của Siri Buddhasukh. Cuốn sách này được hoàn thành với mong ước rằng tất cả những ai đọc cuốn sách này sẽ được khích lệ trong việc tu tập theo Giáo Pháp của Đức Phật.
Quá trình thực hiện cuốn sách này được bắt đầu từ việc đánh máy lại nguyên bản dịch. Tiếp đó là hiệu đính lại những lỗi chính tả rõ ràng và một số từ ngữ sau khi đã đối chiếu với nguyên bản. Trong quá trình hiệu đính, những chỗ khó hiểu đã được đối chiếu với bản dịch tiếng Anh khác của Bhikkhu Dick Sīlaratano và được chỉnh lại khi cần thiết. Phần Chú Giải Bổ Sung ở cuối sách được lược bớt đi vì thấy không cần thiết đối với độc giả Việt Nam. Nếu quý vị nào có nhu cầu đọc phần này, xin gửi email tới d.dieuhanh@gmail. com, chúng tôi xin cung cấp.
Có tới gần 10 người tham gia vào công trình này, trợ giúp trong các việc đánh máy, hiệu đính, đọc bản bông. Mỗi người trong số họ đều đáng được nhiệt thành tán dương. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do sức lực và khả năng có hạn, khó lòng có thể tránh được sai sót trong lần xuất bản này. Xin quý vị độc giả rộng lòng tha thứ và xin góp ý để lần tái bản sau được hoàn thiện hơn. Mọi góp ý, phê bình xin gửi email về d.dieuhanh@gmail.com.
Nhóm chép sách
8 tháng 3 năm 2014
Thuở thiếu thời
Ngài Phra Acharn Mun (đọc là Acharn Măn) là vị thiền sư lỗi lạc, nổi danh nhất trong thời của Ngài. Ngài được tất cả các vị đệ tử thân cận thật sự kính mộ. Khi lắng nghe những thời Pháp và những lời dạy của Ngài về Giáo Pháp vi diệu, những môn đệ sống gần Ngài nhận thấy rõ rằng Ngài đã đạt đến một tầng liễu ngộ rất cao siêu. Cảm tưởng mạnh mẽ và sâu đậm khó phai mờ ấy về sau luôn luôn được chứng minh tỏ rõ. Hàng đệ tử của Ngài bao gồm các bậc xuất gia cũng như các vị cư sỹ tại gia từ khắp nơi trong xứ Thái và xứ Lào lân cận. Từ buổi thiếu thời đến ngày cuối cùng, cuộc đời của Ngài thật vô cùng vẻ vang rực rỡ, dù khi còn là cư sỹ hay đến lúc đã xuất gia. Đời của Ngài quả thật hy hữu, quả thật rất tinh khiết và trong sáng, bất luận kim cương hay ngọc báu nào cũng khó có thể sánh bằng.
Ngài sanh trưởng trong gia đình họ Kankaew, cha là Cụ Ông Nai Kamduang và mẹ là Cụ Bà Nang Jan, cả hai đều sống theo truyền thống Phật Giáo. Ngài ra đời vào ngày thứ Năm, 20 tháng 1, năm 1870, Phật lịch 2413, tại tỉnh lỵ Ubol Rajathani, tổng Khambong, quận Khongjiem. Trong tám anh chị em của Ngài chỉ có hai người còn sanh tiền lúc Ngài viên tịch. Ngài là anh cả, vóc người nhỏ nhắn và nước da ngăm ngăm. Từ thuở còn thơ ấu, Ngài lanh lẹ và đầy khí lực, thông minh và tháo vát. Vào năm lên mười lăm tuổi, Ngài xuất gia sāmaṇera tại tu viện Khambong trong làng. Vì bẩm tính vốn ưa thích học hỏi Giáo Pháp nên không bao lâu Ngài đã thuộc lòng nhiều bài kinh khác nhau do thầy dạy. Tính tình và tác phong Ngài đúng mực, chân thật, không bao giờ gây phiền phức cho bạn hữu hay thầy tổ.
Sau hai năm làm sāmaṇera ở chùa, Ngài vâng lời cha hoàn tục, nhưng nếp sống phạm hạnh của đời tu sỹ đã thấm nhuần và ảnh hưởng tới Ngài một cách sâu đậm. Ngài không bao giờ quên, và quyết định sớm muộn gì cũng trở lại. Đó có thể là năng lực hùng mạnh và đức tin (saddhā) bất thối chuyển đã vững chắc ăn sâu vào tâm tính Ngài. Về sau, vào năm lên hai mươi hai tuổi, hình
19
như không còn có thể cưỡng lại tiếng gọi của đời sống đạo hạnh thiêng liêng, Ngài xin phép giã từ cha mẹ, vào chùa tu. Ông bà vốn ước muốn cho con xuất gia tỳ khưu nên rất sẵn lòng và hoan hỷ chuẩn bị các lễ vật cần thiết để Ngài thọ Cụ túc giới tại chùa Wat Liab, trong tỉnh lỵ Ubol Rajathani, ngày 12 tháng 6 năm Phật lịch 2436 (1893 DL), với Ngài Phra Ariyakavi làm Thầy Tế độ, Ngài Krū Sithā làm thầy truyền giới và Ngài Phra Krū Prajak Ubolguṇa làm giáo thọ trong buổi lễ. Ngài được đặt Pháp danh là Bhūridatta, có nghĩa là đầy đủ trí tuệ. Sau ngày lễ xuất gia, Ngài thực hành thiền minh sát với Ngài thiền sư Acharn Sao Kantasīlo tại chùa Wat Liab.
Điềm mộng tiên tri
Trong những ngày đầu tiên thực hành thiền minh sát với thiền sư Phra Acharn Sao, Ngài chọn tiếng “Buddho” làm đề mục, nhưng không thấy an tĩnh như mong mỏi. Điều này đôi khi làm cho Ngài hoài nghi về pháp hành, nhưng vẫn gia công tiếp tục chuyên cần đến ngày thâu gặt thành quả, đủ an lạc để làm cho tâm mát mẻ. Rồi một đêm nọ Ngài nằm mộng.
“Ngài thấy mình đi ra khỏi làng và đi thẳng vào một khu rừng già, cây cao to lớn và lùm bụi rậm rạp, hầu như không thể vào sâu hơn nữa. Nhưng rồi Ngài cũng tìm được cách xuyên qua tất cả, và sau cùng vượt đến một đồng cỏ mênh mông trải dài trước mắt đến tận chân trời. Ngài lại tiếp tục cuộc hành trình, liên tục gia công chuyên cần. Trên đường đi Ngài gặp một thân cây to lớn ngã nằm trên mặt đất. Theo tiếng Thái loại cây này được gọi là “jat.” Súc gỗ khổng lồ ấy nằm đó từ nhiều năm trước nên một phần đã bị chôn vùi dưới đất, vỏ và lớp ngoài của thân cây đã mục nát. Lúc ấy Ngài trèo lên và đi trên khúc gỗ, nhìn và quán tưởng rằng cây này sẽ không còn có thể mọc lên được nữa1. Ngài biết rằng Ngài sẽ không còn tái sanh trong vòng luân hồi sanh tử triền miên nữa. Ngài so sánh khúc gỗ “jat” nằm ngã dưới đất không còn đâm chồi sống lại được nữa với những lần sanh “jāti” trước (bao gồm cả chết nữa). Hiểu rằng không còn mọc lên được nữa cũng là tượng trưng – nếu Ngài không bỏ dở nỗ lực tu luyện mà cứ kiên trì tinh tấn thì đây
1. Điềm mộng này có ý nghĩa tượng trưng. Người Thái gọi loại gỗ này là “jat”, phát âm tương tự như chữ “jāti” trong tiêng Pāli có nghĩa là “sinh.”
20
sẽ là lần sanh cuối cùng của Ngài. Đồng cỏ trải rộng ra tứ phía mút tận chân trời, là những kiếp “tái sanh” và “tái tử” nối tiếp nhau vô cùng tận, không khác nào con rắn cắn cái đuôi của nó.
Trong khi Ngài đứng trầm ngâm chiêm nghiệm về ý nghĩa của hình ảnh tượng trưng ấy thì có một con ngựa trắng xuất hiện và đi về phía Ngài. Ngài có ý muốn cưỡi ngựa và, ngay vào lúc ấy, thấy mình đang ngồi trên lưng ngựa cho ngựa sải thật nhanh. Ngài không biết mình đi về đâu hay tại sao đi, nhưng cảm thấy như ngựa chở mình đi khá xa trên trảng đồng cỏ mênh mông hầu như vô cùng tận ấy. Trên đường đi, Ngài chợt thấy một cái hộp bằng kính trong đó có bộ Tam tạng Kinh (Tipiṭaka). Hộp mầu trắng bạc rất đẹp, kiểu hộp thật là công phu. Dường như hiểu ý Ngài, con ngựa chạy ngay lại cái hộp đựng Tam tạng Kinh. Ngài xuống ngựa với ý định mở cái hộp ra để xem Tam tạng Kinh nằm trong đó. Trong khi ấy, đã làm xong nhiệm vụ, con ngựa liền biến mất. Địa điểm này nằm vào phần cuối cùng của trảng đất mênh mông. Từ nơi đây, Ngài có thể trông thấy một khu rừng rậm hoang vu, gai góc chằng chịt, không thể nào đi xuyên qua. Bây giờ, Ngài bước lần đến cái hộp, định mở ra xem bộ Tam tạng nằm trong đó, nhưng ngay vào lúc ấy thì giật mình tỉnh dậy.”
Điềm mộng tiên tri này làm cho Ngài thêm vững lòng tin chắc rằng nếu không ngừng kiên trì cố gắng thì Ngài sẽ có thể thành tựu mục tiêu trong kiếp sống hiện tiền. Kể từ đó, Ngài càng chuyên cần tinh tấn thực hành, ngày đêm chăm chú niệm buddho, kiểm soát từng khoảnh khắc và mọi cử động ngày và đêm. Ngài tiếp tục hành trì hạnh đầu đà dhūtaṅga mà từ lúc mới xuất gia đến khi tịch diệt lúc nào cũng nghiêm túc thực hành. Các hạnh đó là: vị tỳ khưu chỉ đắp y may bằng vải vụn ráp lại, không thọ lãnh y đã may xong và dâng đến tay; đi ra ngoài trì bình khất thực, ngoại trừ ngày nào muốn nhịn ăn; chỉ thọ vật thực nào đã được sớt vào bát mình trong khi đi trì bình, không thọ ngoài lúc đi bát; chỉ độ thực (ăn) ngày một lần và không thọ nhận vật thực nào được dâng đến sau đó; ăn từ trong bát; chỉ có ba lá y (ngoài cái chăn để đi tắm mà hiện thời trở thành rất cần thiết); và sống trong rừng sâu hoang vắng, có thể là dưới một cội cây, trong những thung lũng, trong các động đá, hoặc dưới một gọp đá (ngoại trừ một đôi khi rất ngắn ngủi, có người thỉnh vào thành phố).
Đôi khi Ngài cũng hành các giới khác trong hạnh đầu đà. Ngài hành hạnh đầu đà một cách rất chặt chẽ và trong sạch, thời này không dễ có ai khác thực hành được nghiêm chỉnh như vậy. Ngài luôn luôn cương quyết và kiên trì
21
bám sát vào giới luật. Đã quyết định, Ngài không bao giờ thối chuyển. Đã lập tâm nhất quyết làm bất luận gì, dù ở “bên ngoài”, như hạnh đầu đà, hay “bên trong”, như hành thiền, Ngài không bao giờ do dự hay chùn bước, chểnh mảng. Ngài dành trọn cuộc đời phạm hạnh của mình nhằm vào mục tiêu Giải thoát, tập trung nỗ lực vào việc theo dõi và kiểm soát mọi hành động, quyết tận diệt ô nhiễm. Mặc dù lúc bấy giờ còn là phàm nhân (puthujjana), Ngài không để tính ngã mạn tự cao lọt vào tâm mình. Mặc dù chưa đắc tầng Thánh nào, Ngài không giống như những người khác ở điểm là luôn luôn giác tỉnh canh phòng, luôn luôn sẵn sàng nghênh chiến và tấn công ô nhiễm một cách can đảm. Chúng ta được biết điều này qua những câu chuyện mà Ngài thuật lại sau này.
Khi cảm thấy tâm đã vững chắc an trụ để quán niệm, Ngài nhớ lại điềm mộng tiên tri ngày nào và nhận rõ rằng đời sống tại gia quả thật là tổ hợp của đủ loại đau khổ, chẳng khác nào một khu rừng rậm mênh mông đầy chông gai chằng chịt, sào huyệt của tất cả các loại hiểm họa. Trong khi ấy cuộc sống phạm hạnh của đời tu sỹ, với sự hỗ trợ của cố gắng xả ly xuất gia, có thể giúp Ngài vượt qua khỏi vùng đất hiểm nguy, đến tận trảng cỏ bao la bát ngát, phần đất trống trải an toàn, không có gì cản ngăn tầm mắt. Con ngựa trắng to lớn là pháp hành nghiêm chỉnh có tiềm lực đưa Ngài vượt đến Giải thoát, đến cái hộp kính đựng Tam tạng Pháp Bảo có thiết kế phức tạp. Tuy nhiên, vì Ngài còn khuyết điểm nên không thể mở được cái hộp và do đó chưa đủ thuần thục để tinh thông pháp học. Như vậy, Ngài chưa có đủ bốn tuệ patisambhidā ñāna (phân tích và biện giải) mà người có đầy đủ khả năng về phương pháp và cách thức giảng dạy cần phải có. Vị này phải có trí tuệ mênh mông cao vọi như trời và sâu thẳm như biển và nhờ đó có thể giáo hóa tất cả các loại chúng sanh trong Tam Giới. Bởi vì số lượng ba-la-mật (pāramī) tích trữ chưa đủ, Ngài nói như vậy, cho nên dù có đủ duyên lành được nhìn bên ngoài cái hộp đựng Tam tạng nhưng Ngài không thể đọc những gì chứa đựng bên trong. Điều này có nghĩa rằng Ngài chỉ có thể dạy người khác phải làm gì, chứ không đủ khả năng để tạo thành từ ngữ kỹ thuật chính thức. Điểm này đúng hay không, có một điều rất rõ rệt đối với các đệ tử thân cận có diễm phúc được Ngài chỉ dạy và những người được Ngài dẫn dắt hành thiền là mọi và mỗi chủ đề của những lời chỉ dạy và Pháp thoại của Ngài quả thật kỳ diệu và xúc tích, vượt khỏi mọi năng lực diễn tả của ngôn ngữ. Trong thời hiện đại này tìm đâu ra một lối giảng dạy Giáo Pháp tuyệt vời, không bao giờ có thể quên được như vậy trên thế gian?
22
Linh ảnh khi nhập định
Một ngày, tại chùa Wat Liab, trong lúc ngồi thiền niệm buddho thì tâm Ngài nhập định. Bỗng nhiên hiện đến Ngài hình ảnh (nimitta) một xác chết sình to cùng với đàn kên kên, quạ và chó xâu lại, chen lấn, xô đẩy nhau để giành giật, cắn xé cái xác chết sình thối ra từng mảnh và tung rải khắp nơi ngay trước mắt Ngài. Ngài cảm thấy xúc động mạnh mẽ, vô cùng chán chê ghê tởm. Sau khi xuất thiền, Ngài vẫn đều đặn ngày đêm có hình ảnh ấy trong tâm, từng khoảnh khắc, trong mọi oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Lúc ngồi thiền trở lại Ngài lấy hình ảnh cái xác chết làm đề mục. Tiếp tục quán niệm, Ngài thấy cái thây sình dần dần trở thành một đĩa kính tròn lửng lơ trước mắt Ngài. Quán niệm cái đĩa sâu hơn nữa Ngài thấy một quang cảnh bao quát vô cùng tận trong đó có nhiều vật thể và cảnh vật khác nhau, đây rõ ràng là một mô hình thay đổi liên tục không dứt, là hậu quả của việc “đuổi bắt” hay của tính hiếu kỳ, lòng mong mỏi không bao giờ biết đủ, muốn xem cái gì sẽ xảy đến tiếp theo. Một lúc thì Ngài thấy mình đang trèo lên một đỉnh núi cao, rồi thấy tay đang cầm một thanh kiếm, chân đi giầy, đi tới đi lui trên núi. Vào lúc khác thì Ngài đến trước một bức tường có một cánh cửa. Ngài mở cửa và thấy bên trong có một vài vị tỳ khưu đang ngồi hành thiền. Rồi quang cảnh mở rộng ra để cho Ngài thấy những mỏm đá dựng đứng và những hang động có vài tu sỹ ẩn dật đang hành đạo. Rồi lúc khác nữa Ngài thấy một cái gì như cái nôi hay cái thúng từ trên mỏm đá dựng cao thòng xuống. Ngài thấy mình bước vào thúng và được kéo lên khỏi vực thẳm, và từ trên cao Ngài thấy một chiếc thuyền to lớn trên đó có một cái bàn vuông. Hòn núi cao trọn vẹn nằm trong ánh sáng chói ngời rực rỡ. Rồi Ngài thấy mình độ thực trên núi. Đó là quang cảnh luôn luôn biến đổi mở rộng trước mắt Ngài mà không dẫn đến đâu.
Trong ba tháng trường, mô hình đổi thay vô cùng tận và không thể tả phát sanh đến Ngài trong khi hành thiền mà không có dấu hiệu chấm dứt. Thành quả thâu gặt từ nội tâm quả thật không có gì đáng hài lòng. Sau những thời tọa thiền như vậy, tâm Ngài vẫn bị những ảnh hưởng vọng động của ngoại cảnh xâm nhập vào và đưa đến những cơn buồn vui từng chập như xưa. Nỗ lực hành thiền của Ngài không làm cho tâm an trụ hay quân bình. Đến đó, Ngài quả quyết nhận định rằng đây chắc chắn KHÔNG PHẢI là con đường chân chính dẫn đến Giải thoát. Nếu đúng là Chánh Đạo thì tâm phải
23
quân bình an lạc chứ không chứa đựng những xúc cảm khuấy động như vậy. Đây là loại xúc cảm chỉ phát sanh đến những người tầm thường, không biết gì đến việc phát triển tâm. Và Ngài đi đến kết luận rằng loại rượt bắt, hướng sự chú tâm ra ngoài để chạy theo những cảnh vật và những diễn biến bên ngoài đi ngược lại những quy tắc của pháp luyện tâm, vì thế tâm Ngài không thanh bình an lạc, không thật sự vắng lặng, tự tại như lẽ ra phải vậy.
Kể từ đó, Ngài đảo ngược chiều hướng chú tâm, hướng tâm trở vào thân, đưa xuyên qua toàn thân, ở nhiều tầng lớp, nhiều vị trí khác nhau - theo chiều dọc, chiều ngang, lên trên, xuống dưới và sang hai bên - cặp mắt tỉ mỉ chú niệm (sati) luôn luôn theo dõi chặt chẽ. Ngài dành phần lớn thì giờ để đi kinh hành (caṅkama). Đôi khi cũng có tọa thiền. Trong những lúc ngồi thiền Ngài không để tâm an trú trong trạng thái định vào một điểm mà luôn luôn giác tỉnh quán chiếu những phần khác nhau trong thân. Trước lúc ngủ cũng là thiền về thân.
Tìm ra phương pháp đúng
Sau khi thử thực hành phương pháp này trong vài ngày, Ngài bắt đầu ngồi thiền lấy bản chất của thân làm đề mục chính, lần này cho tâm an trụ vào nhất điểm để nhìn những gì sẽ xảy ra. Vì tâm đã được rèn luyện thích hợp và thuần hóa trong nhiều ngày mà chưa được an nghỉ, nên khi Ngài vừa gom lại thì tâm định an trụ dễ dàng và nhanh chóng một cách bất ngờ. Ngay vào khoảnh khắc ấy thân hình như phân ra làm hai phần và phát sanh sự hiểu biết tự nhiên và tự động rằng “không còn hoài nghi gì nữa, đấy chắc chắn là con đường đúng.” Trạng thái tâm nhất điểm có đặc tính là chú niệm vững chắc trong thân, và như thế, ngăn ngừa không để tâm phóng “ra ngoài” vởn vơ đó đây một cách bất định và vô ích. Đó là phương pháp tự quán chiếu mà Ngài áp dụng và về sau, sửa đổi đôi chút cho những cố gắng và pháp hành ở mức độ cao hơn. Đó là bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc đời tận lực chuyên cần tu tập của Ngài. Ba tháng trước đó đã bị hoang phí chạy theo những ảo ảnh bên ngoài, một hạn chế khi thiếu sự hướng dẫn và trông nom của một vị thiền sư tài giỏi. Hạn chế này ít ra cũng gây chậm trễ không cần thiết, mà nếu nguy hại hơn, còn có thể dẫn dắt hành giả lầm đường lạc lối, đưa vào những hoàn cảnh hiểm nguy và khốn khổ.
24
Tình trạng xuống dốc vào giai đoạn đó
Phra Acharn Mun thường nói rằng vào giai đoạn Ngài dấn thân vào pháp hành để trau dồi và rèn luyện tâm, rất ít người lưu ý đến tầm quan trọng của khía cạnh này trong Phật Giáo. Đối với hàng tại gia cư sỹ, thực hành để trau dồi tâm hình như là điều gì xa lạ, không liên hệ đến Phật Giáo. Khi thấy một vị tu sỹ dhūtaṅga từ xa đến thì người ta sợ hãi. Nếu ở gần làng, người ta bỏ chạy vào xóm, hoặc chạy vào khu rừng gần đó, lẩn núp trong lùm bụi. Trong chốc lát, vị tỳ khưu bỗng thấy mình còn trơ trọi một mình. Thử tưởng tượng, bị bỏ rơi như vậy vị ấy cảm thấy bơ vơ dường nào, nhất là khi đến một vùng xa lạ, muốn hỏi đường đến làng hay quận gần nhất.
Đi trên núi, đôi khi vị tỳ khưu thấy vài phụ nữ và trẻ con đang hái rau hay bắt cá dưới suối. Vừa thấy dạng nhà sư từ xa đến họ sợ hãi, vội vã kêu réo nhau, “Kìa! Ông sư Ăn trưa đến kìa!” Rồi họ vứt giỏ, thúng, hay bất kể những gì đang cầm trong tay, không sợ có gì có thể vỡ hay mất, hớt hải chạy đến chỗ núp gần nhất. Còn trẻ con, bị bỏ rơi một mình sau cơn kêu la kinh hoàng của mẹ thì hoảng sợ. Chúng chạy rối loạn đầu này đầu kia không biết chạy về đâu, trong khi mẹ chúng vẫn còn quá sợ hãi đang ẩn trốn không dám ra. Trong tình trạng rối ren hỗn loạn ấy, “Nhà sư Ăn trưa” sững sờ, không còn lựa chọn nào khác là buồn bã tiếp tục con đường của mình. Mọi cố gắng để dỗ dành các em bé sẽ làm cho tình thế càng trở nên trầm trọng hơn, và làm tiếng la hét càng to hơn và sợ hãi hơn. Chỉ đến khi “Nhà sư Ăn trưa” đi khỏi tầm mắt, cảnh hỗn loạn mới chấm dứt. Khi đó các bà mẹ mới trở ra dỗ con và, thấy không mất gì, họ nhắc lại câu chuyện gặp “vật” khủng khiếp, cười với nhau về sự la hét và chạy bán sống bán chết của chính họ. Rồi họ trở lại công cuộc hái rau và bắt cá hàng ngày.
Đó là lối nhìn các nhà sư tu hạnh đầu đà của những người ở trong vùng Ngài. Hình dáng các nhà sư này thật khác thường và chắc chắn gây nên những cảm xúc lo ngại và kinh hãi, nhất là đối với phụ nữ và trẻ con. Như vậy lẽ dĩ nhiên, vào lúc Ngài mới bắt đầu tu hạnh đầu đà không mấy ai biết đến. Tuy nhiên, có những lý do làm cho ta dễ hiểu điều này. Trước tiên, Ngài luôn luôn tự thu thúc một cách rất nghiêm chỉnh, không dễ dàng làm quen với bất cứ ai, ngoại trừ người đã có quen biết lâu ngày; thứ đến, vì bộ tam y - y lót, y nội và y ngoại - cùng với các vật dụng cần thiết khác của Ngài, có mầu sắc trông rất tối tăm cũ kỹ. Mới nhìn, người ta cảm thấy ghê sợ hơn là hoan hỷ và thích thú.
25
Trong thời gian du phương, Ngài không ở cố định một nơi nào và đắp y mầu vàng nâu sậm nhuộm bằng mủ cây mít. Ngài mang bên vai cái mà tiếng Thái gọi là “klod”, một thứ dù lớn hơn dù thường dùng, có thể treo trên cành cây thòng xuống làm mùng, đặc biệt làm riêng cho các nhà sư dhūtaṅga - để tránh muỗi khi ngồi thiền. Bên vai kia là cái bát đựng trong bao để dùng khi đi trì bình. Khi các nhà sư này đi chung với nhau, vị này đi sau vị kia thành một hàng dài. Đối với những ai chưa từng bao giờ nhìn thấy cảnh nhà sư dhūtaṅga đi trong rừng thì bộ y vàng sậm của các Ngài (cách đắp y và mang những vật dụng khác như ấm nước treo lủng lẳng bên vai) xem có vẻ khác thường, nhưng với người đã quen thuộc với lối tu hạnh đầu đà này thì hình dáng nghiêm trang và từ tốn của các Ngài quả thật cảm kích và thích thú.
Nhiều người, lúc đầu còn xa lạ với Ngài Phra Acharn Mun, về sau dần dần ngày càng kính phục và cảm mến khi Ngài đến ở với họ. Lòng kính mộ của họ càng tăng trưởng khi được nghe Ngài giảng dạy. Tự nhiên họ cảm thấy quý mến muốn đến gần để được nghe dạy Giáo Pháp. Ngài đặt họ đúng vào con đường của Chánh Pháp. Đó là cách mà một vị tỳ khưu chân chính tu hạnh đầu đà, noi theo con đường chính trực (trực hạnh) có thể tiếp cận dân chúng. Đó là thái độ của chính Ngài, là tác phong mà Ngài tự tạo cho mình, đúng theo Giáo Pháp mà Ngài giảng dạy và điều đó có sức hấp dẫn và thu hút dân chúng vào con đường chân chính.
Luôn luôn giữ chánh niệm
Truyền thống của các nhà sư dhūtaṅga là hàng năm, sau khi an trú ba tháng ở một xóm làng trong mùa an cư kiết hạ thì ra đi, tìm cảnh rừng núi hoang vu hẻo lánh nhưng không quá xa một khu dân cư thưa thớt để có thể trì bình khất thực và dành trọn thời gian để diệt tận ô nhiễm trong tâm. Ngài Phra Acharn Mun sống theo truyền thống này. Ngài đi đó đây trong vùng Đông bắc xứ Thái Lan nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trong nước vì vùng này có nhiều rừng, nhiều núi, gần những thị trấn như Nakhorn Panom, Sakol Nakhorn, Udorn Thani, Nongkhai, Loey, Lomsak. Ngài cũng sống nhiều trong vùng rừng rậm núi cao gần các tỉnh của vương quốc Lào như Tha Kaek, Vientiane và Luang Prabang. Đối với Ngài, điều quan trọng nhất là tận diệt ô nhiễm, dù ở nơi nào, trong oai nghi nào, đi, đứng, nằm, ngồi, và bất luận giờ
26
phút nào, ngày cũng như đêm. Trong tâm Ngài không bao giờ có cơ hội để cho những tư tưởng ô nhiễm phát triển. Tất cả mọi nỗ lực đều tập trung vào việc tận diệt ô nhiễm và trau dồi phát triển tâm. Với mục đích này, Ngài luôn luôn thích sống ẩn dật, đi đó đây đơn độc một mình, chỉ có Giải thoát làm mục tiêu duy nhất.
Ngài luôn luôn cương quyết, đó là đặc tính của tất cả mọi cố gắng của Ngài. Từ khi khám phá ra phương pháp đúng đắn, Ngài đều đặn kiên trì tu luyện và vững chắc tiến bộ. Thân không ngừng được mổ xẻ rồi phân tách và làm tiêu tan trước “Nhãn quan của trí tuệ” cho đến khi kinh nghiệm được tinh thuần và hiểu biết thấu đáo. Tâm được củng cố bởi nỗ lực không gián đoạn nên ngày càng thanh bình an lạc. Theo lời của Ngài, bất luận ở đâu và bất cứ lúc nào, không có một cử động nào tách rời ra khỏi ý niệm diệt trừ ô nhiễm. Dù trong lúc đi trì bình, lúc quét nhà, rửa ống nhổ, may vá, hay nhuộm y, lúc độ thực, đi tới hay đi lui, lúc ở trong chùa hay ở ngoài, chú niệm luôn luôn hiện hữu để kiểm soát những yếu tố đằng sau những cử động và oai nghi ấy, làm dụng cụ để thâu gặt nhiều thành quả lớn lao. Chỉ có lúc ngủ, tâm mới không niệm. Khi vừa tỉnh giấc thì Ngài dậy liền, không bao giờ ngủ rốn vì nó sẽ dưỡng nuôi thói quen lười biếng và ham ngủ. Thay vì ngủ rốn, Ngài dậy liền, đi rửa mặt và bắt đầu nỗ lực diệt trừ ô nhiễm. Nếu sau khi rửa mặt mà vẫn còn cảm thấy buồn ngủ thì Ngài lui việc ngồi thiền một lúc, sợ rằng mình có thể ngủ trở lại mà không hay biết. Để chống lại cơn buồn ngủ dẻo dai, Ngài áp dụng phương pháp đi kinh hành (thiền hành) bước nhanh chân để đẩy lui cảm giác buồn ngủ. Khi hết buồn ngủ hoặc khi cơ thể mệt mỏi cần nghỉ ngơi, Ngài trở lại ngồi thiền.
Vào buổi sáng, khi đến giờ đi trì bình Ngài đắp vào bộ tam y - y nội, y vai trái và tăng già lê. Đeo cái bị đựng bình bát lên vai, Ngài đi vào làng, luôn luôn an trú trong chánh niệm làm việc đi trì bình trở thành một sự luyện tập nữa về niệm, liên tục theo dõi và kiểm soát tâm. Trở về đến nơi mà Ngài đang cư trú lúc bấy giờ, Ngài mới sớt thức ăn để ra ngoài. Thông thường, Ngài không nhận những vật thực dâng đến sau khi đi bát về mà chỉ thọ những vật thực nào mà thí chủ sớt vào bát trong khi đi trì bình. Chỉ đến lúc về sau, khi thật già yếu Ngài mới tự cho phép thọ nhận vật thực sau khi đi bát về.
27
Cách độ thực của Ngài
Một khi đã sớt trở lại bát một số lượng vật thực mà Ngài nghĩ rằng vừa đủ thì ngưng lại để quán về tính cách không đáng được ưa thích của vật thực (paccavekkhana)2. Quán tưởng như vậy là để ngăn ngừa ngọn lửa tham của ái dục (thèm khát và luyến ái vào những thức ăn mà ta ưa thích hương vị, và chán ngán, ghét bỏ những món nào mình không thích), không để cho ái dục khởi sanh, mà thấm nhuần ý tưởng rằng cơn đói làm cho cơ thể mệt mỏi là một chứng bệnh tự nhiên. Sau khi quán tưởng xong, Ngài bắt đầu dùng thức ăn trộn lẫn trong bát. Suốt trọn quá trình ăn, tâm chú niệm liên tục theo dõi canh phòng từng miếng, từng cử động, luôn luôn quán tưởng tính cách không đáng được ưa thích của vật thực. Đây là phương cách độ thực chân chính của một nhà sư. Sau khi thọ thực xong, Ngài rửa bát, lau chùi sạch sẽ và phơi ngoài nắng một ít lâu cho thật khô rồi mới để lại trong cái bao và cất một nơi an toàn, giữ cho bát khỏi hư bể.
Rồi cuộc chiến đấu trong nội tâm bắt đầu trở lại, ngày càng cố gắng tăng trưởng nỗ lực săn tìm và tiêu diệt ô nhiễm bên trong. Khỏi cần phải mô tả dài dòng ta cũng có thể hiểu rằng một cuộc chiến đấu như vậy ắt phải gặp khó khăn và thất bại dễ dàng như thế nào. Lắm khi người tấn công bị đánh bại, người đi săn lại bị săn. Ô nhiễm, lẽ ra phải bị tiêu diệt, lắm khi lại là người tiêu diệt, tất cả những nguyện vọng tốt đẹp và những lý tưởng cao cả mà người tu hành ôm ấp sâu kín từ lâu phải tiêu tan ra mây khói. Ô nhiễm quả thật là gian trá xảo quyệt và điêu luyện trong đường lối sử dụng quyền năng phá hoại của nó. Chính ngay trước mắt ta nó ru ngủ, quyến rũ ta lọt vào vòng thế lực của nó rồi kiềm giữ lại không cho thoát. Chỉ có Đức Phật là vị đầu tiên có khả năng tận diệt, tuyệt trừ ô nhiễm trong tâm Ngài. Đã vẻ vang thành tựu chiến thắng có tính cách cực kỳ quan trọng như vậy, với lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh đau khổ, Ngài không quản ngại gian lao phát quang đường Đạo cho những ai có tinh thần hướng đạo. Một số người muốn và dám bước theo dấu chân Ngài đã quả cảm và kiên trì dấn thân vào cuộc chiến với sự hỗ trợ của một niềm tin không lay chuyển và sau đó trở thành Tăng Bảo, ngôi báu thứ ba trong Tam Bảo, các vị Thánh đệ tử, trong ý nghĩa cao cả nhất của từ này. Ngài Phra Acharn Mun đã noi theo Con Đường ấy với tâm đạo nhiệt thành và niềm tin bất thối chuyển.
2. Quán tưởng rằng vật thực này chỉ để cho cơ thể được khỏe mạnh chứ không phải để cho có sắc đẹp, cho mập hay cho ốm, và chắc chắn không phải để thích thú.
28
Hạn chế của việc không có thiền sư tài giỏi hướng dẫn
Sau khi độ thực xong Ngài Acharn đi tới lui trên đường kinh hành rồi dành trọn thời gian còn lại trong ngày để diệt trừ ô nhiễm vốn trói chặt chúng sanh vào vòng luân hồi vô tận. Ngài không bao giờ để cho ô nhiễm chế giễu, khinh thường hay phỉnh gạt mình. Ngài luôn luôn tăng cường hành thiền định và tuệ minh sát của Ngài liên tục tăng trưởng mạnh mẽ, cả hai cùng được trau dồi và phát triển và đồng điệu với nhau. Hiếm khi định tâm của Ngài không được vững chắc và thọ hưởng hạnh phúc an lạc phát sanh từ đó. Tuy nhiên, cũng có lúc Ngài gặp phải những trở ngại hình như không thể giải quyết và cảm thấy rơi vào một đường cùng tối tăm. Vì thiếu một vị thiền sư tài giỏi hướng dẫn, Ngài chỉ có thể trông chờ vào những cuộc chiến đấu không ngừng của mình. Những cuộc chiến đấu này gây nhiều ngưng trệ trước khi có thể giải quyết vấn đề và chọc thủng, đi lọt qua con đường cùng tối tăm, và những trở ngại như vậy luôn hăm dọa tạo thêm hiểm nguy và tai hại. Điều này xác nhận sự thật về tầm quan trọng của người bạn lành (kalyāṇamitta, người bạn tốt, hay vị thầy giỏi) đối với người có nguyện vọng trau dồi tâm (mà Đức Phật cũng đã nhắc tới). Mặt khác, việc thiếu một người bạn lành (kalyāṇamitta) vừa gây nên ngưng trệ và hiểm nguy, và là một trở ngại nghiêm trọng của tất cả các hành giả.
Đôi khi trên bước đường du phương, Ngài cùng đi với Ngài Phra Acharn Sao là vị thiền sư của Ngài. Tuy nhiên, khi Ngài nhờ thiền sư Acharn Sao giải quyết khó khăn thì vị này chỉ nói rằng vấn đề ấy nằm ngoài kinh nghiệm của mình và do vậy không thể đề xuất cách giải quyết.
Ngài Acharn Sao nói: “Tâm của Sư thật là hiếu động và có khuynh hướng đi đến cực đoan. Khi thì bay bổng tận trời cao lúc thì độn sâu trong lòng đất, lúc khác nữa lặn xuống đại dương rồi vọt nhảy lên không trung trở lại. Trên thế gian này ai có thể kiềm chế, nắm giữ lại được một cái tâm như vậy? Sư phải tự mình kiểm thảo và giải quyết vấn đề khó khăn của chính Sư.”
Với lời khuyên như vậy, rõ ràng là Ngài phải dựa vào đức tinh tấn kiên trì của chính mình, dù có phải đau khổ như thế nào, trước khi có thể cuối cùng vượt qua mọi trở ngại chặn ngang trên đường Đạo!
Theo lời Ngài Acharn Mun, bẩm tính của Ngài Acharn Sao rất trầm tĩnh và vắng lặng. Khả năng đặc biệt duy nhất của Ngài Acharn Sao là trong khi
29
ngồi thiền thân mình Ngài dâng bổng lên cao và Ngài cảm giác như mình đang bay trên không. Điều này làm cho Ngài ngạc nhiên và đâm ra hoài nghi. Một lần nọ, để kiểm tra cảm giác của mình, Ngài xuất thiền và mở mắt. Lúc ấy Ngài đang ở trên cao cách mặt sàn khoảng một thước, và xuất thiền thình lình như vậy làm Ngài té rơi bịch xuống sàn. Việc này làm Ngài đau xương chậu nhiều ngày. Lần sau Ngài thận trọng hơn. Khi cảm thấy thân mình bổng lên cao thì Ngài từ từ hé mắt trong chú niệm, không xuất hẳn ra khỏi thiền, và thấy mình vởn vơ bay bổng lên sàn nhà! Một lần nữa, để biết chắc chắn hơn, trước khi ngồi thiền Ngài nhét một vật nhỏ giữa hai lá buôn lợp trên nóc tịnh thất. Khi cảm thấy bay bổng mình lên thì Ngài không xuất thiền mà từ từ, với tâm luôn luôn chú niệm, lấy món đồ cầm nơi tay, rồi từ từ hạ mình xuống sàn. Thấy mình vẫn còn nắm món đồ trong tay Ngài mới tin chắc là mình đã bay bổng lên khỏi sàn nhà trong khi tọa thiền. Lẽ dĩ nhiên, không phải hiện tượng này xảy ra mỗi khi Ngài ngồi thiền nhưng chứng tỏ rằng nó đã có xảy ra mấy lần. Tuy nhiên, trên một phương diện khác, tâm của Ngài Acharn Sao không luôn luôn phóng nhảy và ương ngạnh khó kiềm chế như tâm Ngài Acharn Mun, và lối thực hành của Ngài cũng không ngoạn mục, rủi ro và phong phú trong phương thức và thành quả như của Ngài Acharn Mun.
Những phát nguyện trong quá khứ
Nghe nói rằng trong quá khứ Ngài Acharn Sao có lời nguyện sẽ trở thành một vị Phật Độc giác (Pacceka Buddha, cũng gọi là Bích Chi Phật)3. Vào những giai đoạn đầu tiên trong pháp hành, mỗi khi Ngài gia tăng nỗ lực thì lời phát nguyện xa xưa ấy chen vào và kiểm tra tiến bộ của Ngài theo hướng chứng đắc Đạo Quả Phật Độc giác. Phát nguyện ấy rõ ràng trở thành một chướng ngại, không để Ngài thành tựu “Chấm dứt đau khổ” trong kiếp sống này. Do đó Ngài quyết định bỏ lời nguyện ấy nhằm đặt xuống gánh nặng phải chịu sanh tử, tử sanh quá lâu dài trong vòng luân hồi và tập trung nỗ lực thành đạt mục tiêu tối hậu trong chính kiếp sống hiện tiền. Từ đó Ngài tiến bộ vững chắc và nhanh chóng hơn cho đến khi tới được bến bờ An toàn. Dù
3. Vị Phật Độc Giác có khả năng thành Phật nhưng không đủ khả năng dẫn dắt người khác đắc Quả Phật. Chỉ Thành Đạo vào khoảng thời gian không có Giáo Pháp của một vị Phật trong thế gian.
30
sao, Ngài không có nhiều tài năng trong nghệ thuật giáo hóa người khác, có lẽ bởi vì ý nguyện của Ngài là thành đạt Đạo Quả Độc giác Phật, tự mình giác ngộ nhưng không chú trọng nhiều đến việc chỉ dạy người khác. Đã có lời phát nguyện trong quá khứ nhưng lúc bấy giờ Ngài còn có khả năng thay đổi ý nguyện ấy có lẽ là vì lúc ấy ý nguyện của Ngài không thật sự quyết liệt đến mức không thối chuyển, và do đó còn có thể thay đổi.
Chính Ngài Acharn Mun cũng đã phát nguyện trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng tôi có nghe Ngài nói như vậy. Nhưng rồi khi bắt đầu du phương sống hạnh đầu đà, Ngài từ bỏ ý nguyện ấy vì nhận ra rằng muốn thành đạt nguyện vọng cao cả như vậy phải mất hàng mấy a-tăng
kỳ, trải qua nhiều kiếp sống-chết, chết-sống, triền miên quanh quẩn trong vòng luân hồi và chịu những khổ đau không thể tả. Cũng như trường hợp của Ngài Acharn Sao, trong những giai đoạn đầu tiên hành đạo, mỗi khi Ngài nỗ lực tinh tấn gia công thì có phát sanh những khuynh hướng do dự ngập ngừng, hướng về lời nguyện xa xưa. Sau khi quyết định từ bỏ lời phát nguyện ấy, Ngài mới cảm thấy nhẹ nhàng như đã đặt xuống gánh nặng và từ đó vững vàng tiến bộ trên Con Đường dẫn đến Đạo Quả. Sở dĩ Ngài có thể đổi hướng lời phát nguyện là bởi vì nó không đủ cứng rắn vững mạnh đến độ không thể đổi thay.
Trong những ngày hành đạo đầu tiên, hai Ngài thường đi chung với nhau đó đây đến các châu quận và tỉnh thành vùng Đông bắc. Mặc dù tâm tính và khuynh hướng khác nhau, hai Ngài vẫn thích đi chung với nhau. Ngài Acharn Sao thì ít nói, cho nên khi giảng dạy Ngài chỉ vắn tắt vài lời. Tâm Ngài không bay nhảy lanh lẹ và dũng mãnh như tâm Ngài Acharn Mun. Ngài ít kinh nghiệm về giáo huấn và cũng không thích dạy. Mỗi khi cần phải thuyết một thời Pháp, Ngài chỉ nói một cách cô đọng trong vài câu như: “Quý vị phải tránh làm điều ác và nên cố gắng tạo nghiệp lành. Không nên hoang phí kiếp sống làm người. Chúng ta hơn loài thú. Không nên hành động như thú, bằng không chúng ta còn tệ hơn loài súc sanh vì sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục, còn khốn khổ hơn cảnh khổ của loài thú nữa.” Ngài chỉ nói vài lời như vậy rồi rời khỏi Pháp tọa và trở về tịnh thất, không quan tâm tới ai nữa. Đó là cái thường thấy ở những người như Ngài, cả ngày chỉ nói chừng vài ba câu. Nhưng hành động của Ngài thì thật sự là gương mẫu. Ngài nổi tiếng là có thể ngồi một chỗ trong nhiều tiếng đồng hồ. Thời kinh hành của Ngài cũng kéo dài nhiều tiếng. Dung mạo và tác phong của Ngài quả thật là tôn nghiêm và khả kính, luôn làm những ai đến gặp Ngài đều thấy hoan hỷ và kính phục.
31
Cũng như Acharn Mun, Ngài có rất đông đệ tử, trong hàng xuất gia cũng như trong giới tại gia cư sỹ.
Cả hai vị thiền sư này được biết là rất tôn trọng và kính nể lẫn nhau và cũng rất thân nhau. Thời gian đầu, hai vị thường ở chung và đi chung với nhau, trong mùa an cư kiết hạ cũng như trong những ngày thường. Chỉ đến lúc lâu về sau hai Ngài mới tách rời ở xa nhau, nhưng không xa cách lắm để có thể thỉnh thoảng thăm viếng nhau. Cũng là vì về sau số đệ tử của mỗi Ngài đều tăng ngày càng đông, nếu ở chung một nơi thì trở thành gánh nặng quá lớn cho thí chủ phát tâm cúng dường tứ vật dụng. Dù sao, cả hai vị đều lo lắng sức khỏe cho nhau, vị này lo cho vị kia. Mỗi khi có một thiện tín ở chùa kia đến đảnh lễ thì các Ngài thường thăm hỏi sức khỏe lẫn nhau. Các Ngài cũng thường nhờ đệ tử trao lời nhắn thăm của mình đến vị kia, luôn luôn nhắc đến đức độ của vị kia với những lời lẽ tôn kính cảm phục và mến yêu. Không bao giờ có lời chỉ trích hay khiển trách biểu lộ lòng phiền giận.
Một cái tâm rất dũng mãnh và lanh lẹ
Ngài thiền sư Acharn Mun thấy lời góp ý thẳng thắn của Ngài Acharn Sao là đúng. Tâm của Ngài quả thật không chịu yên, luôn luôn phóng nhảy và rất năng động, do đó rất khó rèn luyện và kiểm soát. Nó có chiều hướng tiến đến cực đoan, không biết đâu là điểm quân bình – khi thì bay vọt lên tận trời cao, lúc lặn sâu thẳm trong lòng đất, rồi nhanh chóng vượt đại trùng dương. Ngay từ những ngày đầu tiên hành thiền, mỗi khi tâm Ngài đạt đến mức độ tĩnh lặng nào đó thì trong chớp nhoáng nó đã bị hút vào một ngoại cảnh nào đó, làm cho Ngài rất ngạc nhiên và thất vọng. Một trường hợp như vậy đã được ghi nhận ở phần trên – hình ảnh một xác chết đổi thành phong cảnh rộng lớn trong đó có vô vàn sắc tướng và hình thể khác nhau vô cùng tận liên tục xảy diễn. Thậm chí đến sau khi Ngài đã tìm ra cách đúng, tâm vẫn thường lẩn thoát vọt chạy khi nó đạt đến một mức độ nhất điểm nào đó. Nó “vượt ra”, hay biết nhiều điều mà trước kia Ngài không bao giờ mơ tới. Đôi khi nó phóng đến những cảnh trời, thưởng ngoạn trong mấy tiếng đồng hồ những lạc thú và những vinh quang trên đó. Có những lúc khác nó chìm xuống những khổ cảnh, đi vòng quanh nhìn xem và động lòng trắc ẩn, xót
32
thương những chúng sanh đang đau khổ vì đã tạo nghiệp bất thiện trong quá khứ.
Nhiều lần Ngài tự dấn thân vào những cuộc “hành trình du ngoạn” như thế mà không để ý rằng mình đã phung phí bao nhiêu thì giờ. Vào lúc bấy giờ Ngài chưa được trang bị đầy đủ trí tuệ có thể phân biệt kinh nghiệm thực và những gì do trí tưởng tượng hay không thật. Về sau, Ngài khuyên dạy hàng môn đệ chỉ nên thử dấn thân vào những loại mạo hiểm như thế sau khi tâm đã được trí tuệ phân biện bảo vệ đầy đủ để ngăn ngừa sự thu hút không cần thiết và ảo tưởng. Đối với một cái tâm năng động và lanh lẹ, chỉ một khoảnh khắc bất cẩn thiếu chú niệm cũng đủ cho nó thoát chạy và hòa điệu với những tình thế khác nhau ở ngoại cảnh. Sau khi tâm đã được rèn luyện tinh thục và kiểm soát chặt chẽ, ta có thể chủ động gửi nó ra thâu nhận những thông điệp bên ngoài và chừng đó nó trở thành một bảo vật vô giá.
Vào những lúc ban sơ, khi Ngài còn chưa nắm vững được cái tâm lanh lẹ và vô cùng năng động thì nó thường trốn đi chơi và gây nhiều phiền phức. Ví dụ, khi Ngài bắt nó quán chiếu thân từ đỉnh đầu đến chân thì nó vụt chạy ra khỏi thân và chui xuống đất. Lúc khác, khi Ngài kéo trở về thân thì trong khoảnh khắc nó lại phóng lên không trung, vui vẻ hân hoan chạy tới nhảy lui, không có vẻ gì muốn trở về. Chỉ đến lúc vận dụng năng lực của niệm kéo nó về mới có thể làm cho nó vâng lời ở lại trong thân để dùng nó cho mục đích quán chiếu. Trạng thái tâm nhất điểm vào giai đoạn này vững chắc và thâm diệu đến mức niệm có thể theo kịp. Giống như một người bất ngờ rớt xuống vực sâu, trong khoảnh khắc đã lọt tới đáy, nhưng tâm chỉ ở tình trạng vững chắc và thâm sâu ấy trong giây lát. Rồi nó xuất ra khỏi đó và nhập vào một tầng an trụ thấp hơn gọi là upacāra samādhi, cận định (theo nghĩa từng chữ là: “nhập vào sự thênh thang quanh quẩn bên trong”), rồi nó thênh thang đó đây bất định không có kiểm soát, ngó nghiêng chỗ này chỗ nọ (trong nhiều tầng tâm thức khác nhau).
Lúc bấy giờ, Ngài rất bực mình khó chịu với cái tâm khinh thường mọi câu thúc, bởi vì nó còn lanh lẹ và dũng mãnh hơn sức kiềm chế của niệm. Vì đó là phần việc cá nhân thuộc về nội tâm của chính Ngài, và Ngài cũng không có ai để tham khảo ý kiến, điều này làm cho Ngài rất thất vọng trong một thời gian. Sức mạnh của niệm phải được phát triển và tăng cường để chống trả và khắc phục cái tâm luôn luôn bay nhảy. Thời kỳ nhất quyết chiến đấu chống lại cái tâm vô cùng năng động của mình quả thật là đau khổ và đáng chán. Nhưng con ngựa hoang dại trong tâm Ngài cuối cùng đã được chế ngự, và một khi đã chịu sự kiểm soát của Ngài và ngoan ngoãn nghe lời thì đó là một
33
lợi thế vô giá. Sức mạnh cực kỳ huyền diệu của nó, cộng thêm niệm và tuệ, trở thành chiếc nhẫn thần có thể dùng trong nhiều việc bất ngờ và gần như trong mọi mục tiêu.
Ngài Phra Acharn Mun quả thật gan dạ và minh mẫn một cách cao quý. Ngài có những phương pháp rèn luyện rất hữu ích cho chính Ngài và cho người khác. Về khía cạnh này trong đức tính của Ngài, quả thật không ai trong hàng môn đệ có thể sánh bằng. Người viết đã sống với Ngài Acharn Mun và đã tự bản thân chứng nghiệm, có thể khẳng định rằng Ngài quả là có một không hai. Về tính cách, Ngài là người rất hào hiệp và cũng cứng rắn không kém và không hề nao núng trong cách thực hành. Những phương pháp Ngài dùng để thuần hóa con ngựa tâm hoang dại thay đổi một cách khéo léo để thích ứng với hoàn cảnh, đôi khi cứng rắn hăm dọa, lắm lúc dịu hiền với lời chỉ dạy nhẹ nhàng, để điều hợp với cái tâm nhiều khả năng và rất ương ngạnh, chống lại mọi cố gắng để uốn nắn nó. Đó là loại tâm luôn luôn nghĩ ra vô số lý do và những việc đen tối nhằm làm thối chí hoặc xao lãng mỗi khi hành giả lơ đễnh không canh phòng, dù trong khoảnh khắc.
Tất cả những khổ ải và tất cả những đình trệ này, theo Ngài Acharn, là vì không có một vị thầy đầy đủ khả năng hướng dẫn hoặc ban cho một vài gợi ý hữu ích, chỉ dẫn nên theo cách nào. Lối sống của Ngài thật sự là lối sống của con người tự lập phi thường, không bao giờ cho phép mình chùn bước trước một trở ngại trên đường Đạo. Đây là trường hợp một dũng sỹ đơn độc, can đảm và bền gan chiến đấu chống lại những sức mạnh to lớn như núi đang bao vây mình. Không có một chiến sỹ nào mà Ngài biết được đã trải qua đoạn đường khó khăn này để có thể cho những bài học giúp cho Ngài đỡ mất thì giờ. Ngài thường nhắc nhở chư môn đệ điểm lợi ích mà họ đang được hưởng khi được ở cùng với Ngài và được Ngài khuyên bảo. Ngài khuyến cáo họ không nên quá tự tin và bất kỳ khi nào có hoài nghi thì có Ngài sẵn sàng ở đó để giúp đỡ và chỉ dạy.
Trong những ngày đầu tiên hành thiền Ngài Acharn đi đến thị trấn biên giới Nakorn Phanom rồi qua vùng núi tỉnh Tha Kaek của vương quốc Lào, nơi đây Ngài đã đạt được ít nhiều thanh bình an lạc trong tâm. Khu này có nhiều cọp dữ, người ta nói rằng cọp ở đây dữ hơn cọp Thái Lan, phần lớn ăn thịt người và thường tấn công người Việt Nam cư ngụ trong vùng. Dù sao những người này xem hình như thờ ơ, không mấy lưu tâm đến. Hình như không bao giờ họ học được bài học tự vệ, mặc dù vài người bạn đã bị cọp tha đi trước đó không lâu ngay trước mắt họ. Họ lại tiếp tục mạo hiểm vào những
34
nơi mà người ta nói có nhiều cọp dữ đang gầm thét, những nơi mà bạn của họ bị cọp tha đi mấy ngày trước. Có lẽ đây là trường hợp “thân quá hóa nhờn.” Có một điều kỳ lạ là những người Việt Nam này không bao giờ hợp nhau lại để cứu một người bạn đang lâm nguy. Trong khi lưu ngụ nơi nào trong rừng để nghỉ qua đêm chẳng hạn, nếu người nằm gần đó bị cọp tấn công thì những người khác tung ra bỏ chạy tứ phía, mạnh ai người nấy tìm cách thoát thân, mặc cho nạn nhân ở đó cho số phận. Rồi không bao lâu sau, họ hợp nhau trở lại gần đó để nghỉ đêm, hoàn toàn thờ ơ, không nhớ gì đến thảm kịch rùng rợn mà họ trải qua trong đêm trước. Hình như họ không thông minh hơn trẻ con, không rút kinh nghiệm và đơn giản là không có tim. Người viết có một vài kinh nghiệm và quen biết những người này, có thể nói như vậy. Người ta nói mấy người Việt Nam này đôi khi vào chặt và kéo cây gỗ ở các miền hẻo lánh xa xôi trong rừng sâu đầy cọp dữ. Đơn độc một mình hay từng nhóm, họ ở qua đêm mà không có dấu hiệu gì sợ hãi. Ban đêm họ đi vào làng hay từ làng về chỗ tạm trú, họ đi một mình, hoàn toàn thản nhiên. Hỏi họ đi như vậy có sợ không, họ nói cọp Thái Lan không ăn thịt người, vài con lại còn sợ người nữa. Họ nói bên xứ họ cọp lớn hơn nhiều và thường ăn thịt người. Chúng dữ hơn và người đi đường mà muốn ở lại nghỉ đêm phải dựng lên một cái thum như chuồng heo. Ở một vài nơi dân làng không dám ra khỏi nhà ban đêm. Cọp có thể tấn công người mà không sợ gì hết. Họ cho rằng mấy người Thái không dám vào rừng là nhát gan.
Dù sao, trong lúc Ngài Phra Acharn Mun lưu ngụ tại một nơi đầy cọp dữ, không có con nào quấy rầy Ngài. Chỉ thấy có dấu chân và ban đêm nghe được tiếng gầm đâu đó, không có con cọp nào thật sự đến làm cho Ngài sợ hay ăn thịt Ngài. Chính Ngài cũng không mấy quan tâm đến cọp, bởi vì Ngài đang lo không Chấm Dứt Đau Khổ trong kiếp sống này còn hơn là sợ những con thú dữ ấy. Ngài thường kể lại cho đệ tử nghe những cuộc du hành trong vùng đất nguy hiểm, xem những cuộc đi và những đêm lưu trú như vậy không có gì là lạ hay khác biệt với những nơi khác. Không bao giờ Ngài nói gì đến kinh sợ.
Ngài Phra Acharn Mun đi khắp đó đây trong các làng mạc và thị xã vùng Đông Bắc từ lúc mới bắt đầu hành thiền cho đến khi có đủ sức kháng chống lại sự thất thường đặc thù của cái tâm quá năng động của Ngài, cũng như những kích thích của ngoại cảnh. Sau đó Ngài đi dần xuống vùng trung phần xứ Thái và nhập hạ tại Wat Pathoomwan. Nơi đây Ngài thường đến thọ giáo, và tham khảo ý kiến với Ngài Chao Khun Phra Upāli Guṇūpamācariya (Siricando) chùa Wat Boromnivas tại Bangkok.
35
Sau mùa an cư kiết hạ, Ngài lên thị xã Lopbury và lưu ngụ tại nhiều động đá như động Phaikwang, núi Khao Phra Ngam và động Sinto (Sư tử). Ở tất cả những nơi này Ngài tăng cường nỗ lực, thường xuyên trau dồi thiền định và thiền tuệ. Tâm Ngài đều đặn vững chắc dũng mãnh chống trả những ảnh hưởng của nội tâm và ngoại cảnh với thiền định phát triển khả quan và tuệ minh sát càng sắc bén sâu đậm tương ứng. Đối với cái tâm như thế, tất cả mọi sự vật đều là sự rèn luyện và bài học nhằm nâng lên một tầng cao hơn, tuệ minh sát càng thâm sâu hơn. Thỉnh thoảng Ngài đi đến chùa Wat Boromnivas để thọ lãnh những lời khuyên của Ngài Phra Upāli, rồi Ngài lại ra đi, tìm nơi vắng vẻ, lần này đến động Sarika tại Khao Yai (Núi lớn) trong tỉnh Nakhorn Nayok.
Mạo hiểm tại động Sarika
Ngài lưu ngụ tại động Sarika một năm, và những gì xảy ra trong thời gian ấy đặc biệt đáng chú ý cả về chuyện xảy ra bên ngoài và phát triển nội tâm. Khi đến một ngôi làng ở gần động, tên làng này có lẽ là Bahn Kluey, Ngài nhờ dân làng đưa đến động ở trên núi. Tuy nhiên, người trong làng không muốn đưa Ngài đi. Họ nói rằng nơi ấy rất khủng khiếp và họ kể cho Ngài nghe chuyện nhiều vị sư trước kia đã đến đó cư ngụ và ngã bệnh trầm trọng phải dời đi. Vài vị đã chết vì bệnh. Người ta tin rằng một con Quỷ Lớn có nhiều uy quyền đã chiếm cứ động ấy làm của riêng. Con Quỷ Lớn ấy dùng thần lực chống lại bất cứ ai đến trú ngụ tại động “của nó”, nhiều khi làm người ta sợ đến chết. Dường như nó thích thách thức những vị tỳ khưu nào dám lai vãng vào lãnh thổ của nó, dù vị ấy khôn ngoan tài giỏi, bùa phép hay huyền thuật thế nào, rồi cũng thình lình lâm trọng bệnh, hoặc chết sớm một cách bất ngờ. Dân làng không muốn đưa Ngài đến đó, e rằng Ngài cũng sẽ vong mạng như bao nhiêu vị tỳ khưu trước.
Ngài Acharn Mun hỏi dân làng con Quỷ Lớn ấy làm thế nào cho mình biết nó. Họ nói rằng ngay trong đêm đầu, bất cứ ai đến cư ngụ tại động sẽ nằm mơ thấy con quỷ to và đen ấy đến với họ, mặt nó nhăn lại trông dữ tợn lộ vẻ muốn giết mình. Rồi con Quỷ Lớn tuyên bố rằng nó là chủ, là thần bảo vệ động, là người duy nhất thống trị lãnh địa này. Nó sẽ không dung tha kẻ xâm phạm và sẽ tức khắc đánh đuổi bất kể ai xâm nhập vào lãnh thổ của nó,
36
và đa số những người mạo hiểm vào đó đều không ở được lâu. Nghe nói có vài vị đã rời ngay sau đêm đầu tiên, mặt mày hốt hoảng kinh sợ gần như điên, thề không bao giờ trở lại nữa. Những vị khác thì chết luôn trong đó. Cách đây không lâu có bốn vị tỳ khưu, khoe mình bùa phép cao cường khi mới đến, cùng lên động và rồi không bao giờ thấy các vị ấy nữa.
Đó là câu chuyện động Sarika, nơi mà người ta đồn là có chứa một miếng kim loại nhiều thần lực, làm nhiều người muốn lên động, nhưng chẳng có ai tìm được gì.
Câu chuyện của dân làng không làm cho Ngài Acharn Mun ngã lòng. Ngài nhất quyết đến tận nơi để chính tự mình diện kiến bất cứ gì xảy ra. Thay vì bị cơn sợ áp đảo, Ngài xem đó là cơ hội để trau dồi chú niệm và học những bài học quý giá. Ngài khiêm tốn nói với dân làng rằng câu chuyện mà họ tường thuật quả thật vô cùng khủng khiếp nhưng Ngài vẫn muốn lên đó một lần. Nếu thấy quá đỗi ghê sợ Ngài sẽ trở về, nhưng Ngài muốn người làng đưa đến đó. Ngài nói đã từ lâu Ngài có ý định đến ngắm cảnh ngoạn mục của chốn này, và vì Ngài vẫn yêu cầu, dần làng cuối cùng bằng lòng đưa đi.
Dấu hiệu nhuốm bệnh đầu tiên
Hai ba đêm đầu tiên ở động không xảy ra chuyện gì, thân và tâm Ngài nghỉ ngơi thoải mái do cảnh vật hoàn toàn yên vắng và cô tịch. Chỉ thỉnh thoảng có tiếng kêu của vài con thú hoang trong khu rừng. Qua đêm hôm sau, Ngài bị đau bụng, chứng bệnh mà trước kia đã có lần bị, nhưng lần này hình như trầm trọng hơn nhiều. Đôi khi Ngài đại tiện ra máu và có vẻ như hoàn toàn không tiêu được thức ăn, ăn gì tiêu ra y như vậy. Ngài nhớ đến lời kể của dân làng về câu chuyện bốn vị tỳ khưu đã chết tại đó. Ngài nghĩ rằng nếu bệnh mãi kéo dài thế này, rất có thể Ngài là vị tỳ khưu thứ năm. Vào buổi sáng, khi vài dân làng ghé lại viếng thăm, Ngài nhờ họ lấy rễ và cây quanh động sắc cho một món thuốc nam, nhưng thuốc vô hiệu. Tình trạng đau bụng ngày càng thêm trầm trọng, thân càng yếu dần và ý chí rõ ràng mòn mỏi. Trong khi uống thuốc, Ngài cố gắng tự khích lệ mình, nghĩ rằng nếu đúng thuốc ắt nó phải có công hiệu, nhưng sau nhiều ngày vẫn không thấy hiệu quả gì. Vậy thì uống thuốc nữa ích gì?
37
Nghĩ đến đấy, Ngài quyết định ngưng uống thuốc thông thường, mà tìm cách chỉ tự chữa trị bằng Giáo Pháp, dù thân có thế nào. Ngài tự nhủ: “Hãy để cho thân này chết tại đây, trong động này, nếu sức mạnh của Pháp không đủ để chữa trị. Ta đã tiến bộ khá xa trong pháp hành để vững lòng tin nơi Đạo, Quả, và Niết Bàn. Tại sao ta thối chí và suy nhược vì cơn đau khổ này? Nếu mới có từng này đau khổ mà ta đã chịu thua thì còn hy vọng gì khi thể xác tan rã, khi hết cơn đau này đến cơn đau khác dồn dập đập tan các vòng phòng thủ của ta ra từng mảnh?”
Nghĩ như vậy, Ngài ngừng uống thuốc và bắt đầu hành thiền, chỉ nương nhờ nơi oai lực của Giáo Pháp để chữa trị. Bám níu vào sự sống được buông bỏ, nhờ đó thân được phép trải qua quá trình chữa bệnh tự nhiên của nó. Chú niệm và trí tuệ cùng hợp với đức tin và tinh tấn đập mạnh vào tâm, cái tâm vốn không chết nhưng luôn sợ chết. Không còn quan tâm đến bệnh xem có chữa được nó hay không, hoặc nó có hủy hoại cơ thể này không nữa, mà mắt phân tách của trí tuệ hướng vào vedanā (cảm giác hay cảm xúc đau khổ), và các tập hợp khác (uẩn, khandha) được phân tích cặn kẽ. Thân (rupā, sắc), cảm giác (vedanā, thọ), nhận thức (saññā, tưởng), và hoạt động tâm linh (saṅkhāra, hành), tất cả đều được phô bày tỏ rõ để niệm và tuệ khảo sát tỉ mỉ, liên tục đào sâu và khám phá thêm nhiều chân lý uyên thâm. Cuộc chiến ác liệt bắt đầu từ hoàng hôn đến nửa đêm và chấm dứt với cái tâm đầy năng lực, đủ khả năng nhận thức bản chất thiên nhiên của các uẩn, luôn cả nỗi đau đớn nhức nhối muôn phần tự nó biểu hiện trong thân. Cơn bệnh hoàn toàn tan biến và tâm Ngài an trú trong trạng thái tuyệt đối không lay chuyển của nhất điểm tâm.
Đến đây chấm dứt ba điều: nỗi đau nhức, cơn bệnh, và sự phản ứng của tâm. Sau đó, khi tâm xuất ra khỏi trạng thái ấy và trở vào một trạng thái kém thâm sâu hơn, phản ứng nhiều hơn đối với thân gọi là upacāra (cận định) thì hình như có một ánh sáng phát ra từ thân Ngài và do ánh sáng ấy Ngài thấy một người đen đúa to lớn độ mười thước bề cao. Người ấy cầm trong tay một thiết trượng dài khoảng bốn thước và to khoảng bằng chân ông ta. Người ấy hầm hừ đến gần Ngài và nói, “Nếu Sư không rời khỏi chỗ này tôi sẽ đập nát Sư với cây thiết trượng to lớn này. Tôi đã từng đập nát một con voi chỉ bằng một trượng thôi.”
Ngài Acharn Mun đàm thoại với người ấy bằng thần giao cách cảm. Ngài hỏi, “Tại sao ông muốn giết tôi? Nào tôi có làm gì sai quấy. Vì sao tôi đáng phải chịu tử hình trong khi không làm gì tổn hại ai ở đây?”
38
Con Quỷ to trả lời, “Từ lâu ta được phép cai quản hòn núi này và sẽ không dung tha kẻ nào dám thách thức hoặc cố gắng khuất phục ta.” “Nhưng nào tôi có thách thức ai, tôi cũng không cố gắng khuất phục ai.” Ngài Acharn nói, “Tôi đến đây chỉ để thách thức và khuất phục những ô nhiễm ngự trị trong tâm con người. Ông không nên gây tổn hại đến tôi là một tỳ khưu, đệ tử của Đức Phật mà tâm từ tỏa rộng khắp tam giới.” Rồi Ngài nói tiếp, “Nếu thật sự ông có nhiều thần thông như đã khoe, vậy thì ông có bùa phép nào vượt ra ngoài Nghiệp (Kamma) và Giáo Pháp (Dhamma), vốn là những định luật rộng lớn chi phối toàn thể chúng sanh trong tam giới?” “Không”, quỷ trả lời.
“Đức Phật có quyền năng diệt sạch trong tâm Ngài lòng ham muốn thống trị và làm hại người khác. Ông có quyền năng như vậy không?” “Không”, quỷ thú nhận.
Ngài Phra Acharn Mun mở lời khuyên dạy, chỉ rõ cho con quỷ thấy rằng năng lực của nó, nếu có, thì cũng là thô và tàn bạo, chỉ gây tổn hại cho chính nó. “Năng lực như thế chỉ đem lại kết quả đáng sợ, vì ông không nhận thức được rằng trong khi tiêu diệt người khác, ông chỉ tàn phá chính ông. Đó quả thật là gây nghiệp bất thiện rất nặng. Tôi là một tỳ khưu, noi theo con đường chân chính vì lợi ích cho cả tôi và những người khác. Đó là ước nguyện của tôi. Bây giờ ông đến với ý định gây tổn thương và giết tôi mà không nghĩ rằng tội ác này sẽ lôi ông vào khổ cảnh. Tôi không lo ngại nhiều cho đời tôi nhưng thương ông sẽ phải bị sa đọa vì lầm tin nơi quyền năng huyền ảo của mình. Hãy dừng tay lại và suy ngẫm, xét coi trên thế gian này có quyền năng nào có thể chống lại hậu quả của nghiệp bất thiện mà ông sắp thực hiện không? Ông có quyền năng nào đối với hòn núi này mà cao hơn Nghiệp và Giáo Pháp không? Nếu có thì ông muốn làm gì tôi cũng được. Tôi không sợ chết vì dù sao tôi cũng phải chết khi thời điểm đến, dù ông có cố gắng giết tôi hay không. Thế gian này là nơi của những người phải chết, trong đó có cả ông, ảo tưởng về sức mạnh nhất thời của mình.”
Trong suốt thời gian Ngài Acharn Mun khuyên dạy, quỷ hình như chết cứng, không cử động hoặc nói nên lời. Nếu nó là người thì ắt sợ hãi khủng khiếp và xấu xa hổ thẹn trong sự thất bại của mình. Nó say mê đứng lắng tai nghe đến cùng những lời vừa dạy vừa khiển trách của Ngài Acharn. Sau cùng nó vứt bỏ thiết trượng xuống, hàng phục và hóa thành một Phật tử hiền lành với tâm đạo nhiệt thành theo cỡ một người thường, và tạ lỗi cùng Ngài vì đã có những cử chỉ cục cằn vô lễ và những ý định hung tợn xấu xa.
39
Quỷ nói, “Vào mấy hôm trước, khi vừa thấy Ngài thì tôi đã hết sức kinh ngạc và bất ngờ. Tôi bị một làn ánh sáng mạnh mẽ và kỳ diệu hình như từ thân Ngài phát ra quật mạnh vào. Nó có một hiệu lực lạ thường làm suy yếu và tê liệt những ý định hung bạo của tôi. Giây phút bị bao phủ trong làn ánh sáng vô cùng cảm kích ấy tôi cảm thấy nhàm chán, không còn muốn làm gì xúc phạm đến Ngài. Tôi không hiểu tại sao. Tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy. Dù sao Ngài có thể tin chắc một điều là các hăm dọa của tôi chỉ là giả vờ, không thật. Những ma quỷ trong vùng này coi tôi là chúa. Tôi phải làm ra vẻ như vậy để họ thấy quyền uy. Chúng tôi thường dùng năng lực để làm những việc xấu xa hung tợn. Đã là chúa tể thì dù muốn dù không, tôi phải làm gì đó để bảo vệ danh tiếng của mình. Sau khi đã được tắm sạch trong ánh sáng ấy, tôi không còn có ý định nào muốn làm tổn thương Ngài. Cầu xin Ngài Acharn từ bi tha thứ những lỗi lầm nào mà tôi đã phạm đến trong ngày hôm nay. Cầu xin Ngài mở lượng khoan hồng làm nhẹ bớt, vơi đi gánh tội lỗi nặng trĩu, quá nặng mà tôi đã mang trên vai.”
Rồi Ngài Acharn hỏi quỷ - giờ đây là một thiện nam nhiệt thành - xem có phải chịu đau khổ không vì có thân phi vật lý, không phải kềnh càng nặng nhọc như người. Ngoài ra, không phải vất vả làm ăn sanh sống hay tìm chỗ trú ngụ như người.
Người thiện nam sùng đạo trả lời, “Nhìn ngoài mặt thì hình như vậy, nhưng thật sự nói cho đúng không cảnh giới nào là khỏi đau khổ một cách tuyệt đối. Khổ nhiều hay khổ ít, vẫn phải khổ.”
Cuộc đàm thoại giữa quỷ và Ngài Acharn còn kéo dài về vấn đề thần bí, nhưng quá thâm sâu để có thể ghi lại hết nơi đây. Tác giả xin thành thật cáo lỗi cùng bạn đọc về sự thiếu sót này.
Khi cuộc đàm thoại chấm dứt, vị thiện nam huyền bí, trước kia là con quỷ hung tợn, lấy làm cảm kích với giáo huấn của Đức Phật, xin quy y Tam Bảo với Ngài Phra Acharn, và tự xem mình là một Phật tử, đệ tử của Ngài. Ông hứa sẽ hết lòng bảo vệ Ngài và bày tỏ lòng chân thành ước mong Ngài lưu ngụ vĩnh viễn tại động, ông sẽ canh phòng không để ai phá quấy làm hại Ngài. Trong thực tế ông ta không phải là con quỷ đen to lớn, mà chỉ giả dạng hiện ra cho Ngài Acharn trông thấy trong khi ngồi thiền. Thật sự ông là người đứng đầu chư thiên trên quả địa cầu (rukkhadeva, đúng theo nghĩa từng chữ là thần cây) với một nhóm đông tùy tùng trong vùng rừng núi của nhiều thị trấn trong vùng, như tỉnh lỵ Nakkhorn Nayok.
Ngài Acharn nhập toàn định (appaṇā samādhi, trạng thái tâm vững chắc an trụ vào đề mục) vào khoảng nửa đêm. Lúc xuất ra khỏi trạng thái ấy Ngài
40
đàm thoại với con quỷ hối cải đến bốn giờ sáng. Khi Ngài xuất ra khỏi trạng thái cận định (upacāra samādhi) để nói chuyện thì cơn bệnh đau nhức hoành hành trước khi nhập định đã hoàn toàn tan biến. Bây giờ Ngài không cần dùng thuốc theo quy ước chế định của thế gian mà tự chữa trị bằng sự hiệu quả trị liệu của Giáo Pháp (Dhamma). Ngài tiếp tục hành thiền đến sáng, không cần ngủ nghỉ vì những mệt mỏi đau đớn lúc trước đã được thay thế bằng sức mạnh và sanh lực.
Ngài Acharn lúc bấy giờ cảm nhận và hiểu biết nhiều điều kỳ diệu cùng một lúc. Trước tiên, oai lực của Giáo Pháp với khả năng cảm hóa một chúng sanh trong cảnh vô hình, đem họ về Con Đường Chân Chánh; thứ nhì, tâm Ngài đã nhập vào trạng thái không lay chuyển, hạnh phúc an lạc trong nhiều giờ, trong thời gian ấy bao nhiêu điều huyền diệu của tâm cao thượng đã tràn ngập đến Ngài; thứ ba, chứng bệnh trầm kha làm cho Ngài khó chịu trong nhiều ngày đã hoàn toàn chấm dứt; thứ tư, tâm Ngài đã đạt đến một tầng mà nhiều hoài nghi đã được sáng tỏ; thứ năm, vật thực mà Ngài độ sau đó trong buổi sáng đã được tiêu hóa bình thường; và cuối cùng, nhiều loại kiến thức đã phát sanh đến mà trước kia không bao giờ Ngài mơ tưởng, cả cho việc diệt trừ ô nhiễm và cách áp dụng những phương pháp ấy để diệt trừ ô nhiễm cho những cá nhân có tâm tính hay khuynh hướng khác nhau.
Các đêm sau, Ngài an nghỉ yên lành với tâm hỷ lạc tĩnh lặng và thân hoàn toàn khỏe mạnh, không còn chi khuấy động nữa. Quá nửa đêm, Ngài tiếp đón một nhóm đông chư thiên trên quả địa cầu từ nhiều nơi trong vùng được vị thiện tín trước kia là quỷ, người cầm đầu của họ, hướng dẫn đến đảnh lễ. Lúc nào không có khách thì Ngài vui trong hỷ lạc từ nỗ lực tinh tấn hành thiền.
Gặp một bầy khỉ
Một buổi chiều nọ, sau thời ngồi thiền, Ngài Acharn ra khỏi động để nghỉ ngơi, ngồi trước động không xa. Ngài suy niệm về Giáo Pháp mà Đức Phật đã khám phá và ban truyền cho nhân loại, thấy rằng Giáo Pháp ấy quả thật thâm sâu huyền diệu mà nhiều người khó hiểu và khó làm theo. Ngài nghĩ quả là một sự kỳ diệu nhiệm mầu, một phước lành cho Ngài hiểu, đi theo và nhờ đó chứng ngộ nhiều chân lý của Giáo Pháp. Trạng thái chứng ngộ của
41
Ngài chưa được trọn vẹn như mong mỏi, nhưng có phần khá chắc chắn rằng Mục Tiêu Cuối Cùng sẽ sớm thành tựu nếu Ngài không yểu mạng. Ngài suy niệm như thế về nhiều khía cạnh của Giáo Pháp: Đạo, Quả và trạng thái Trọn Vẹn Chấm Dứt Đau Khổ. Trong khi ấy một đàn khỉ đông đảo đi ngang qua. Khỉ đầu đàn đi trước không xa, chợt thấy Ngài Acharn ngồi liếc nhìn nó. Có lẽ lấy làm ngạc nhiên thấy cái gì ngồi đó, nó nhảy nhót qua lại, tới lui trên cành, nhưng lòng hoài nghi không biết Ngài làm gì đây và lo ngại cho sự an toàn của đàn. Ngài Acharn có thể hiểu cảm xúc của khỉ đầu đàn và lấy làm thương hại. Ngài bắt đầu rải tâm từ (mettā) cho nó và bằng tâm Ngài cho nó hiểu rằng Ngài là người đi theo con đường của Giáo Pháp, không bao giờ làm hại ai, cũng không bao giờ làm tổn thương chúng sanh nào, rằng đàn khỉ không nên sợ, cứ tự do đi lại khắp chốn này và tùy ý lưu lại bao lâu cũng được. Khỉ đầu đàn vội vàng chạy trở lại bầy, ríu rít kêu “Koke!”, có nghĩa “Coi chừng! Có gì kìa!” Đàn khỉ chưa thấy gì, ríu rít trở lại, “Koke!” “Ở đâu!” Khỉ đầu đàn kêu “Koke!”, “Kìa!” và quay mặt về hướng Ngài Acharn, giống hình như muốn chỉ “nó” đó.
Lẽ dĩ nhiên, đối với người thường, ngôn ngữ của thú quả thật quá bí ẩn, nhưng Ngài Acharn hiểu được. Khỉ đã ra dấu hiệu báo động cho bầy, con đầu đàn bảo mấy con kia không nên hấp tấp và phải thận trọng, rồi nó quay lại xem cho tận tường “vật gì” ở trước động. Khỉ đầu đàn bỗng nhiên sợ hãi, vừa tò mò vưa lo lắng cho tình trạng an ninh của đàn, vẫn còn đang chờ ở phía sau. Nó nhảy nhót tới lui trên cành một ít lâu, cách Ngài Acharn độ hai mươi thước, trong khi Ngài dùng tâm theo dõi quan sát những cảm xúc và tư tưởng của nó. Cuối cùng khỉ nhảy về báo tin cho đàn bằng giọng kêu rõ ràng “Koke”, “Cứ tiếp tục đi tới!” “Bây giờ không còn nguy hiểm nữa!”
Theo Ngài Phra Acharn, nếu ta có thể hiểu được những tiếng ríu rít của khỉ, cảnh này vừa buồn cười vừa đáng thương. Đối với người thường, tiếng kêu khọt khẹt của khỉ nghe chừng như không có gì lạ và do đó không có ý nghĩa gì. Nhưng đối với Ngài Acharn tiếng kêu qua lại của khỉ thật rõ ràng và có ý nghĩa như tiếng nói của người. Từ lúc khỉ đầu đàn nhận thấy Ngài ngồi ở đó, giọng kêu của nó khác biệt rõ ràng.
“Koke!” “Hãy nhìn kìa!” khỉ đầu đàn kêu.
“Koke!” “Cái gì đó” “Koke!” “Có việc gì?” đàn khỉ hỏi lại.
“Koke! Kake!” “Có vật gì kìa! Có thể là nguy hiểm!” khỉ đầu đàn cho hay, và dấu hiệu báo động được tiếp nối loan truyền trong bầy. Tiếng xôn xao ồn ào vang dậy và bầy khỉ bồn chồn rối rít nhảy nhót ngược xuôi, mỗi con chích
42
choét tới lui hỗn loạn. Rất giống một nhóm người đang lo sợ một hiểm họa sắp đến và đang rối loạn.
Khỉ đầu đàn cố gắng trấn an bằng những tiếng kêu “Koke!” “Chờ đây! Tôi sẽ đi xem xét một lần nữa.” Nó trở lại nơi Ngài Phra Acharn ngồi và theo dõi, quan sát tỉ mỉ cả tính cách và cử động của Ngài. Giờ đây, thấy chắc rằng Ngài vô hại và bầy khỉ sẽ được an toàn, nó trở lại đàn và kêu, “Koke! Kake!” “Không có hiểm họa! Cứ tự nhiên tiến hành!” Rồi tất cả bầy khỉ cùng đi đến nơi Ngài Acharn ngồi, chúng nó nhảy lên nhảy xuống nhìn Ngài một cách hoài nghi và hỏi với nhau Ngài là ai, tại sao đến ngồi đây.
Đoạn này của câu chuyện được tường thuật đúng như Ngài Acharn đã kể lại cho các đệ tử nghe, nhằm cho người đọc ý niệm rằng tiếng kêu chích choét của bầy khỉ vẫn có ý nghĩa và chúng vẫn nói chuyện, truyền cảm, và hiểu lẫn nhau. Dù sao ta có thể hiểu được tại sao loài thú này vẫn nghi ngờ con người vì chúng thường là nạn nhân của bao cái bẫy, bao nhiêu hành động tàn ác của loài người. Vì thế, không thể nào chúng nó không nghi kỵ Ngài Acharn mà ríu rít cò ke giống như con người nói chuyện với nhau.
Một ít lâu sau, khỉ yên tâm sống thoải mái và không quan tâm đến “vật” mà chúng nó biết là không làm tổn hại chúng. Kể từ đó bầy khỉ tự do nhảy nhót quanh quẩn và Ngài Acharn tiếp tục lưu ngụ tại đó, thoải mái và an lạc.
Phương cách sanh tồn “sống và để người khác sống” theo đó mỗi chúng sanh có thể sống hòa hợp với các chúng sanh khác mà không nghi kỵ lẫn nhau, chính tự nó là trạng thái hữu phúc an lạc. Ta thường thấy rằng nơi nào có các vị tỳ khưu hành đầu đà tu ẩn dật ở rừng sâu thì nơi đó thú rừng lớn hay nhỏ, tụ họp về từng đàn rất đông. Hình như chúng được thu hút vào vầng hào quang từ bi của Ngài, và cũng như loài người, chúng thích nơi trú ẩn an toàn. Loài thú khác với con người là chúng không đầy đủ sáng suốt, do đó chỉ được bản năng sanh tồn dẫn dắt và hàng ngày chỉ có những ý nghĩ mưu tìm thức ăn và chỗ ở.
43
Nỗi buồn vô hạn
Một đêm, Ngài Acharn cảm thấy vô cùng buồn (saṁvega)4 tràn ngập, làm Ngài cảm động đến tuôn nước mắt. Khi ấy, vào lúc hành thiền, tâm hoàn toàn an trụ trong trạng thái nhất điểm, Ngài quán niệm về bản chất của thân. Ngài đạt được mức độ buông bỏ rất vi diệu khi tâm ở vào trạng thái “vắng lặng” hoàn toàn. Lúc bấy giờ đối với tâm Ngài, toàn thể thế gian đã tan biến. Khi xuất ra khỏi trạng thái thâm sâu ấy, Ngài quán niệm Giáo Pháp và Giới Luật (Dhamma và Vinaya) mà Đức Phật đã ban truyền nhằm phá tan vô minh (avijjā) trong tâm con người. Càng quán niệm Giáo Pháp, Ngài càng nhận thức rằng Giáo Pháp quả thật vô cùng huyền diệu, vô cùng thâm sâu, và càng thấy rõ bản chất vô minh của con người trong đó có Ngài. Người ta cần được dạy phải ăn, ngủ và phế thải những chất dư thừa như thế nào; họ cũng cần được dạy phải đi, đứng, cử động, mặc quần áo, tắm rửa như thế nào v.v., đó là những phương cách để giữ gìn sức khỏe cho cả thân lẫn tâm. Nếu không được dạy từ trước thì tất cả mọi người, không phân giai cấp, chủng tộc hay quốc tịch, đều có khuynh hướng làm sai và do đó chồng chất thêm đau khổ cho mình. Con người cũng như trẻ con, cần phải được người lớn dạy dỗ và hướng dẫn trước khi có thể phát triển cân bằng và khỏe mạnh.
Và đối với tâm vô minh, tính tự kiêu ngã mạn và thân kiến luôn luôn tạo cho họ vô vàn nguy hại. Sự vĩ đại của họ đặt trên thân, trên dòng dõi, tên tuổi, chức phận, hoặc trên địa vị mà họ cho là quan trọng. Nhưng không bao giờ trí tuệ của họ được mở mang đủ rộng lớn để đem lại hạnh phúc và an lạc cho họ và cho người khác. Càng tệ hại hơn, họ không quan tâm đến, và quên hẳn trí tuệ. Vì vậy, có quá nhiều vấn đề khó khăn và phiền muộn ở khắp mọi nơi.
Đó là nỗi buồn vô hạn (Saṁvega) của Ngài trong đêm đó.
4. Saṁvega – tạm dịch ở đây là “nỗi buồn vô hạn”, là một cảm xúc pha lẫn trạng thái bừng tỉnh, nhận thức sự cuồng si của mình và của người khác, là buông bỏ, không bám níu, là mệt mỏi nhàm chán hoàn cảnh hiện tại, đôi khi tiềm tàng một loại cảm xúc thương hại hay cảm xúc bi mẫn đối với kẻ khác. Saṁvega luôn luôn là dấu hiệu của sự phát triển trí tuệ ở mức độ cao hay thấp và rõ ràng không phải là kích thích hay thất vọng suông.
44
Vị tỳ khưu già hành thiền minh sát
Dưới chân núi dẫn đến cái động có nhiều sự kiện đó có một trung tâm gọi là “vipassanā” của một vị sư già ở đơn độc một mình. Đêm nọ, Ngài Phra Acharn muốn biết vị sư già đang làm gì. Ngài hướng tâm về với sư và biết ngay, lạ lùng thay, rằng vị tỳ khưu ấy đang bận rộn lo tính những công việc gia đình. Hầu như lúc nào sư cũng lo lắng những chuyện trong gia đình mà sư đã bỏ lại sau lưng! Cũng trong đêm ấy lúc về khuya, Ngài Acharn “nhìn lại” vị sư già và nhận thấy rằng sư vẫn còn âu lo và tính toán. Vào lúc rạng đông, lần thứ ba, Ngài thử đọc tâm của nhà sư. Kết quả vẫn y như vậy. Vị sư già hành vipassanā không thể ngưng lo lắng về những chuyện gia đình, sư không thể ngưng toan tính những gì sư phải làm và những gì sư không nên làm cho các con các cháu. Tất cả lo âu và toan tính ấy là phần việc của người tại gia cư sỹ, không có bất luận liên hệ nào với việc thực hành và phát triển vipassanā.
Buổi sáng, Ngài Acharn xuống động, vào làng trì bình. Trên đường về động, Ngài ghé lại thăm vị sư già. Trong câu chuyện, Ngài hỏi thoáng qua về tiến triển của dự tính xây cất nhà mới và về cách sắp xếp cho bà vợ cũ và các con trước kia của sư. “Sư có nhiều việc để toan tính và lo lắng quá,” Ngài nói “Sư không nghỉ ngơi gì được trong đêm qua.”
Ngạc nhiên, vị sư già hỏi với nụ cười ngượng nghịu, “Làm sao huynh biết tất cả như vậy?”
“Vấn đề không phải là làm sao tôi biết”, Ngài Acharn trả lời. “Chính huynh phải biết điều ấy rõ hơn tôi, bởi vì huynh là người đã lo lắng và tính toán cả đêm. Suốt đêm huynh không có nghỉ ngơi được chút nào.”
Nghe vậy vị sư già tái mặt, vừa hổ thẹn vừa kinh sợ. Sư ú ớ lầm bầm gì trong miệng và có vẻ như muốn xỉu. Nhận thấy rằng mình đã làm vị sư già sợ hãi quá nhiều, Ngài nói sang vấn đề khác và sớm từ giã sư, quay trở về động.
Ba ngày sau, một thiện tín đệ tử hầu cận của vị sư già lên thăm động. Ngài Acharn hỏi ông về vị sư già. Ông thiện tín nói rằng sư đã rời từ sáng ngày hôm qua. Ông nói, ông có hỏi sư tại sao đi, thì được sư nói rằng Ngài Acharn đã giảng cho sư nghe một thời Pháp nghiêm chỉnh làm cho sư gần xỉu. Hình như thời Pháp đã làm cho sư còn khổ tâm hơn là những lời khiển trách hay chỉ trích trực tiếp, bởi vì đó là loạt súng của Giáo Pháp, làm sư vô cùng hổ thẹn. Theo lời ông thiện tín, sư nói hình như Ngài Acharn biết hết những gì sư sâu
45
ẩn suy tính trong tâm và như thế sư không thể ở lại đây lâu hơn nữa, làm gánh nặng cho Ngài.
Ông thiện tín nói rằng ông cố gắng khuyên lơn và thuyết phục sư đừng rời thiền viện. Ông nói với sư, nghĩ rằng sư sẽ làm gánh nặng cho Ngài Acharn thì không hợp lý. Gánh nặng, nếu có, thì nó là gánh nặng của chính sư mà thôi. Ông khuyên sư nên nhờ Ngài Acharn giải tỏa, dẹp gánh nặng ấy đi, có phải bao nhiêu lần tốt đẹp hơn là lẩn tránh, bỏ chạy để trốn nó. Dù vậy, vị sư già quá kinh hãi nhất quyết bỏ đi. Hỏi đi đâu, sư chỉ trả lời là sư sẽ đi xa. Bản thân sư cũng không biết sư sẽ chạy đi đâu. Một người con của ông thiện tín đưa sư đi một đoạn xa, nhưng cũng không biết sư đi đâu vì sư không nói gì.
Nghe kể lại câu chuyện, Ngài Acharn bồi hồi, lòng rất thương cho vị sư già. Biết ra thì những gì Ngài làm với ý tốt muốn giúp sư giờ đây đã đem lại hậu quả trái ngược. Vị sư già hoàn toàn hoảng hốt sợ hãi. Từ đó Ngài Acharn không bao giờ thử đọc lại tâm của sư, nghĩ rằng làm vậy có hại nhiều hơn lợi. Ngài kể qua cho ông thiện tín nghe một cách không trực tiếp những gì Ngài nói với vị sư già, và thêm rằng Ngài không nghĩ vị sư đó lại xem những lời ấy là quá nghiêm trọng. Cái được gọi là trung tâm thiền vipassanā giờ đây hoang vắng vì thế.
Tất cả những gì xảy ra liên quan đến vị sư già là một bài học cho Ngài Acharn về cách đối xử với những người đến gặp Ngài. Kể từ đó Ngài không bao giờ trực tiếp phê bình thẳng những suy nghĩ của người khác. Ngài đề cập đến, nhưng chỉ nói một cách xa gần cho đương sự hiểu Ngài muốn nói gì mà không chạm tự ái ai. Tâm của người bình thường không được rèn luyện, cũng giống như em bé mới tập đi. Dĩ nhiên nó phải ngả nghiêng qua lại. Người lớn chỉ có thể trông chừng, bảo vệ cho nó khỏi bị té đau mà không thể cấm nó lững thững, vấp váp. Cũng như vậy, không thể làm cho một cái tâm chưa từng được trau dồi khỏi phải xiêu vẹo ngả nghiêng theo những suy nghĩ và xúc cảm đột biến.
Trong khi lưu ngụ tại động này, Ngài còn nhận chân thêm những sự thật “mới”, từ bên trong và từ nguồn chân lý vô tận bên ngoài. Ngài phấn khởi và hưởng hỷ lạc trong pháp hành, không để ý đến thời gian trôi qua. Càng ngày càng có nhiều chân lý từ nội tâm bừng lên rọi sáng cho Ngài như một dòng suối cuồn cuộn tuôn trào trong mùa mưa. Vào những buổi chiều quang đãng, Ngài rảo bước dài theo đường mòn quanh co dưới những bóng cây, thưởng ngoạn cảnh vật và thọ hưởng trạng thái cô tịch trong khi trau dồi và phát triển tuệ minh sát. Ngài trở về động lúc hoàng hôn, giữa cảnh chim chóc nhộn nhịp về tổ và đủ loài muông thú không ai sợ ai, trên một vùng đất phì nhiêu.
46
Không khí an lành một cách kỳ diệu, mỗi chúng sanh ung dung tiến bước trên con đường của mình, lo chuyện của riêng mình, không ai có lý do gì để sợ lẫn nhau. Tất cả đều nhìn nhau với cặp mắt thân thiện quen thuộc, biết rằng chắc không ai muốn gây tổn hại cho ai.
Ngài Acharn nói rằng Ngài thích có chúng làm bạn, luôn luôn rải tâm từ đến tất cả. Tất cả đều chung nhau những nỗi thống khổ sanh, già, bệnh và chết, và như vậy Ngài nghĩ rằng không ai có lợi thế hơn ai về mặt này. Mức độ phát triển sự bình an trong nội tâm (pāramī) giữa loài thú và loài người có khác nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt này đôi khi được thấy là xảy ra theo nghịch lý, có con thú còn hoàn thiện hơn một số người. Con người, vì đôi khi phải thọ nhận hậu quả của vài nghiệp xấu đã tạo trong quá khứ, tạm thời phải chịu khổ đau nên phải sanh vào cảnh thú. Thậm chí trong cảnh người, cũng có thể thấy song song những người sống trong cảnh khốn cùng (gần như không hơn cảnh thú mấy). Họ phải chịu khốn khổ trong những trạng thái ấy cho đến khi trả hết nghiệp xấu, hoặc đến khi hội đủ duyên cho nghiệp tốt trổ sanh, thay thế nghiệp xấu. Người Phật tử được khuyên dạy không nên khinh rẻ loài thú, bởi vì bên trong tất cả mọi chúng sanh đều có nghiệp xấu và nghiệp tốt pha trộn lẫn lộn, người cũng như thú5.
Đến chiều tối, Ngài Acharn quét sạch phía trước động và tiếp tục nỗ lực tận diệt ô nhiễm, ngồi thiền rồi đi kinh hành, đi rồi ngồi, thiền tọa và thiền hành xen kẽ. Ngài vững chắc và bền bỉ trau dồi cả định và tuệ, quán chiếu các uẩn, phân tích, phân loại và tiêu hóa chúng trên nền tảng ba đặc tính của sự tồn tại (vô thường, khổ, vô ngã). Nhờ vậy tuệ giác của Ngài được trau dồi, giúp Ngài càng chắc chắn tiến đạt Mục tiêu Cuối cùng.
Thời Pháp của chư vị đệ tử A La Hán
Vào lúc trời về đêm, thỉnh thoảng chư vị đệ tử A La Hán của Đức Phật đến giảng Giáo Pháp trong khi Ngài Acharn tọa thiền. Theo lời dạy của một
5. Theo Phật Giáo, chỉ khi nào chứng đắc Đạo Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hườn, Sotāpanna) mới bảo đảm khỏi phải tái sinh vào cảnh thú. Đạo Quả Tu Đà Hườn như vậy, Đức Phật dạy là hơn chinh phục thế giới, còn hơn cảnh Trời, còn hơn chinh phục tất cả tam giới một cách không thể tả được.
47
vị A La Hán, khi đi kinh hành phải canh phòng nghiêm ngặt, thận trọng theo dõi thân cũng như tâm.
“Tâm chú niệm phải được đặt vững chắc trên đề mục đã chọn, dù đề mục hành thiền (kammaṭṭhāna) là một phần của thân hay bất luận uẩn nào trong ngũ uẩn. Không nên xao lãng. Xao lãng là có chao động, có lay chuyển. Niệm phải đến trước mọi cử động. Chớ nên cựa mình nhúc nhích như người đang ngủ, không có niệm canh phòng. Hàng ngày, khi đi ra ngoài để trì bình, khi độ thực, đi đại hoặc tiểu tiện, phải hành động như các bậc Thánh nhân, không như phàm nhân, những người chưa được rèn luyện đầy đủ. Luôn luôn sống theo cách của bậc sa môn (samaṇa) – trầm tĩnh, an lạc và vắng lặng. Trong mỗi tư thế của thân không được không phát triển niệm và tuệ, là điều giúp lật tẩy những ô nhiễm ẩn tàng. Trong khi độ thực, luôn luôn quán niệm bản chất (ô trược) của thức ăn. Không bao giờ để cho hương vị của vật thực trở thành độc dược đầu độc tâm mình. Cơ thể có thể được chất dinh dưỡng của vật thực bồi bổ sức khỏe sau khi ta nuốt vào mà không có quán niệm, nhưng trong lúc ấy tâm bị cướp đi phần tiến bộ bởi hương vị ngon ngọt ấy. Đó là cắt đứt tiến bộ của mình bằng cách nuôi dưỡng thân mà làm hại tâm. Tất cả những điều ấy xảy ra vì thiếu niệm.
“Bất luận nơi nào mà người tu ẩn dật đi đến hoặc lưu ngụ, vị ấy không nên tích trữ ô nhiễm tinh thần, vốn gây tổn hại cho mình, cũng không nên để ô nhiễm tinh thần của mình vượt sang đến, và làm tổn hại người khác.” Trên phương diện thực hành của bậc thánh nhân, ô nhiễm được xem là những gì thật đánh kinh sợ. Như vậy, sư phải tự mình không ngừng đề cao cảnh giác, hay biết mỗi biểu hiện của luồng trôi chảy như một dòng suối của chúng, mỗi biểu hiện có năng lực tàn phá mạnh như nhau. Đi, đứng, nằm, ngồi, tiểu tiện hoặc đại tiện, hoặc khi nói, không bao giờ để thiếu niệm kiểm soát. Đó là con đường mà tất cả các vị Thánh nhân đều trải qua. Sống không chú niệm hay không tự kiểm soát là tạo môi trường cho ô nhiễm và tội lỗi phát sanh, là vướng mắc kẹt cứng trong vòng sanh tử, tử sanh. Những ai muốn phá vỡ vòng luân hồi để vượt thoát ra khỏi những kiếp sanh tồn triền miên đều phải lánh xa con đường đưa đến vực thẳm, con đường chỉ biến họ thành những tu sỹ xấu xa, không ai ưa thích. Thức ăn xấu không giúp được ai. Không ai muốn sống trong một căn nhà xấu. Không ai thích nhìn một bộ y xấu. Tất cả những gì xấu đều không ưa thích. Một tâm hồn xấu bị các bậc thanh cao đạo hạnh tránh xa. Tệ hại hơn nữa là nhà sư xấu, cả chư thiên và nhân loại đều nhờm gớm, ghê tởm. Do đó, tự kiểm soát là điều quan trọng, thiết yếu và phải có.
48
“Trong tất cả những sự nuôi dưỡng trên thế gian, dưỡng nuôi tâm là tối thượng. Tối thượng trong thế gian là tâm. Một cái tâm được dưỡng nuôi đầy đủ là tâm kiên cố vững chắc trong Giáo Pháp. Một cái tâm tự hiểu biết chính nó là tâm hiểu biết Giáo Pháp. Một cái tâm đạt đến được chính nó là tâm đã biết Giáo Pháp. Tâm của ta là một kho tàng vô giá. Chớ nên khinh thường nó! Người đánh mất cái tâm của mình là người không chăm sóc đầy đủ cái kho tàng vô giá của mình. Một ngàn lần sanh của người như vậy cũng chỉ là một ngàn lần mất mát. Đã biết rằng tâm là vô giá thì không nên làm mất nó khi vẫn biết vậy. Điều đó chỉ làm cho ta hối tiếc. Đã biết trước như vậy không được để cho điều ấy xẩy ra.
“Con người là một chúng sanh thông minh. Không nên để cho thấy là ta kém thông minh, vì thông minh là điều mà con người phải có. Như vậy thì quả thật là một tội ác thê thảm. Việc làm của người tu sỹ ẩn dật, cả bên trong lẫn bên ngoài, là làm việc mà cả thế gian có thể ngưỡng trông lên với sự tin tưởng. Cả việc cần phải làm và phương cách thực hiện việc làm ấy phải trong sạch và không khuyết điểm. Nó phải đứng đắn, thanh nhã, chân chính và phải được phát triển vững chắc, vì sự phát triển của chính mình. Một tu sỹ ẩn dật mà say mê trong việc trì giới, hành thiền chú niệm, trau dồi trí tuệ và nỗ lực tinh tấn thì chắc chắn sẽ trở nên một sa môn (samaṇa), theo ý nghĩa thật sự của từ này, ngay trong hiện tại hay trong một tương lai gần.
“Đó là Giáo Pháp của người tinh tấn, nhẫn nại và bền bỉ chịu đựng, quyết tâm chiến đấu để đạt đến Châu Toàn và Tuyệt Đỉnh. Đó là Giáo Pháp của người tuyệt đối giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, không còn bị cột trói và bị bắt buộc phải làm gì. Đó là Giáo Pháp của Đức Phật, bậc hoàn toàn giải thoát và độc lập, Đấng Tôn Sư của toàn thể Tam Giới. Chứng ngộ ý nghĩa của Giáo Pháp này, sư sẽ sớm vượt thoát ra khỏi mọi ô nhiễm. Đây là bức thông điệp của Giáo Pháp để sư thận trọng suy ngẫm. Sư sẽ chứng nghiệm những gì nhiệm mầu huyền diệu của tâm mình. Chính tự bản chất của tâm đã là huyền diệu.”
Thời Pháp chấm dứt và vị A La Hán ra đi. Ngài Phra Acharn ôn lại những lời chỉ giáo, và thận trọng nghiền ngẫm suy tư từng chi tiết. Nhờ giáo huấn của mỗi vị A La Hán đã tơi thăm Ngài, càng ngày Ngài càng tiến triển và có thêm khả năng, ý chí càng tăng trưởng, niệm và tuệ càng kiên cố vững bền.
49
Chứng đắc Đạo Quả A Na Hàm
Ngài Phra Acharn nói rằng khi lắng nghe thời Pháp của vị A La Hán, Ngài tưởng chừng như đang nghe chính Đức Phật, mặc dù chưa bao giờ thấy Đức Phật. Ngài hoàn toàn say sưa tắm mình trong niềm hỷ lạc vô hạn. Thời gian hình như ngưng hẳn, và dường như chỉ có tâm được bao trùm trong vầng hào quang của Giáo Pháp. Chỉ đến khi xuất ra khỏi trạng thái thâm diệu này Ngài mới hay rằng mình vẫn còn mang cơ thể vật chất nặng tựa như một hòn núi. Sự cấu hợp của ngũ uẩn, mỗi uẩn tự chính nó là một khối đau khổ. Mỗi chuyến viếng thăm của các vị A La Hán và những lời chỉ dạy của các Ngài trong nhiều trường hợp khác nhau là những kinh nghiệm vàng ngọc, so với các diễn biến ở những nơi khác. Cũng trong động này Ngài tiến đạt đến Đạo Quả A Na Hàm.
Theo kinh điển, chúng ta được biết rằng với sự chứng đắc này, hành giả đã tháo gỡ năm trói buộc đầu tiên (saṁyojana): ảo kiến lầm lạc về ta hay bản ngã (sakkāyadiṭṭhi); hoài nghi hay lưỡng lự (vicikicchā); dính mắc trong niềm tin vào nghi thức lễ bái (silabbataparamasa); dục vọng (rāga); và sân hận (paṭigha). Người thành đạt Quả này không bao giờ còn tái sanh trở lại trong cảnh người, với thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa cấu thành. Nếu Đạo Quả cuối cùng, A La Hán, chưa được thành tựu trong kiếp sống này, vị ấy sẽ tái sanh vào một trong năm cảnh giới Vô Thiên Phiên của chư vị Phạm Thiên, gọi là aviha (cảnh giới trường cửu), attapā (cảnh giới êm đềm tĩnh lặng), sudassā (cảnh giới đẹp đẽ), sudassi (cảnh giới quang đãng), và akanitthā (cảnh giới tối thượng). Những cảnh giới này chỉ khác nhau ở mức độ vi tế của mỗi cảnh.
Chính Ngài Acharn đã tiết lộ với các đệ tử thân tín rằng Ngài đã chứng đắc Đạo Quả A Na Hàm tại động này. Người viết quyết định ghi lại nơi đây và sẵn sàng tiếp nhận những lời phê bình của độc giả. Nếu tường thuật như trên có gì không đúng đắn, người viết xin nhận lãnh mọi khiển trách về điều thiếu sót này. Dù sao, ai cũng biết rằng Ngài Phra Acharn đã nỗ lực cố gắng để tận diệt ô nhiễm tại động này trong nhiều tháng. Ngài đã hành theo đường lối mà chư vị sa môn đã hành Giáo Pháp với tâm vắng lặng và mát mẻ.
50
Rời khỏi động Sarika
Ngài Acharn đã thâu hoạch nhiều kinh nghiệm quan trọng và bất ngờ trong lúc hành thiền, và những kinh nghiệm này lặp đi lặp lại trong nhiều đêm liên tiếp nên Ngài vững lòng tin. Vào một đêm nọ, Ngài cảm thấy tâm từ và tâm bi của mình đối với các huynh đệ tỳ khưu phát khởi mạnh mẽ lạ lùng. Đêm ấy, nỗ lực hành thiền của Ngài thâm sâu khác thường, và Ngài hiểu biết sáng tỏ thêm nhiều vấn đề - trong nội tâm cũng như ở ngoại cảnh. Điều này làm Ngài xúc động đến ứa nước mắt, hồi nhớ lại trước kia mình vô minh như thế nào, lợi ích của sự tinh tấn và công sức chiến đấu mà giờ đây mình đang gặt quả lớn lao làm sao, lòng bi mẫn vô biên của Đức Phật, băng rừng mở lối cho những ai bước theo dấu chân Ngài, và định luật nghiệp quả chi phối toàn thể loài người và loài thú vật vô cùng phức tạp. Tất cả những điều này được tóm lược trong câu kinh Pháp Cú: “Chúng sanh được sanh ra do nghiệp của mình và là chủ sở hữu của nghiệp của mình.” Ngài cũng tự giác cảnh cáo rằng dù đã thâu gặt thành quả có nhiều khía cạnh kỳ diệu, sự chấm dứt đau khổ cuối cùng vẫn chưa được thành tựu. Cần thêm sức mạnh, tinh tấn và mức độ “niệm và tuệ” cao hơn, kết hợp với lòng kiên trì nhiệt thành thì mới thành đạt mục tiêu cứu cánh.
Ngài cũng được thêm phần thoải mái vì chứng bệnh đau bao tử kinh niên đã từ lâu làm khó chịu, nay đã được chữa trị nhờ phương pháp trị liệu của Giáo Pháp. Kể từ đây, tâm của Ngài đã được kiên cố vững chắc và mặc dù chưa trọn vẹn tận diệt tất cả ô nhiễm, Ngài không còn hoài nghi nào về pháp hành, vốn tiến bộ đều đặn và không còn thay đổi lên xuống như trước. Ngài đã tuyệt đối vững lòng rằng trong pháp hành của mình không còn gì để suy đoán hay mò mẫm như đi trong đêm tối, và sự Chấm Dứt Đau Khổ Tuyệt Đối không còn bao xa nữa. Trong thời gian này niệm và tuệ của Ngài lớn mạnh bền vững và chắc chắn, không cần phải tiếp sức hay cưỡng bách. Một luồng kiến thức về những vấn đề bên trong và bên ngoài đều đặn trôi chảy như một dòng suối ngang qua tâm nhãn, làm cho Ngài càng thêm hỷ lạc trong Giáo Pháp. Ngay vào lúc ấy, Ngài phát tâm từ bi với các tỳ khưu đệ tử và ước muốn những vị này cũng chia sẻ thành quả chứng nghiệm với Ngài. Lòng từ mẫn ấy thúc đẩy Ngài rời động Sarika để sang các tỉnh miền Đông Bắc, mặc dù ở đây Ngài đang sống rất thoải mái và an lành.
51
Vài ngày trước khi Ngài lên đường, một số chư thiên trên quả địa cầu, do vị lãnh đạo vừa quy y với Ngài vài tháng trước hướng dẫn, đến thăm và xin nghe lời Ngài chỉ giáo. Sau khi khuyên dạy họ xong, Ngài cho biết là sẽ rời nơi này trong vài ngày. Chư thiên đồng thanh tỏ ý không bằng lòng và yêu cầu Ngài tiếp tục lưu lại vì phúc lợi và sự thịnh vượng của họ. Ngài Acharn nói rằng Ngài phải ra đi vì tinh thần trách nhiệm. Ngài khuyên họ không nên quá đỗi âu sầu, và rằng nếu có thể và hoàn cảnh cho phép, Ngài sẽ trở lại. Chư thiên không thể cầm lòng sầu muộn vì họ rất thành tâm tôn kính, mến yêu và sùng bái Ngài.
Tại Bangkok với Ngài Chao Khun Upali
Trước ngày lên đường, Ngài Acharn Mun nghĩ đến vị cao tăng lỗi lạc của chùa Wat Boromnivas, ở Bangkok, Ngài Upāli Gunūpamācāriya, và muốn biết lúc này Ngài Upāli đang làm gì. Ngài hướng ánh sáng nội tâm về bắt nhịp hòa hợp với tâm Ngài Upāli, và tức khắc biết rằng Ngài Upāli đang suy ngẫm về pháp Thập Nhị Nhân Duyên (Paṭicca Samuppāda, định luật Tùy thuộc Phát sanh). Ngài ghi lại ngày giờ và sau đó, khi về đến Bangkok, kiểm nhận lại với Ngài Upāli để xem có đúng không. Vị cao tăng Upāli xác nhận là đúng, và rất vui mừng nói, “Sư quả thật là rất sáng suốt! Tôi là thầy nhưng không bì kịp với Sư. Chính Sư làm cho tôi hổ thẹn.” Rồi Ngài thêm, “Đây là điều mà mình phải trông chờ nơi một đệ tử của Đức Phật. Chúng ta không nên tự mãn nguyện, nghĩ rằng mình đã bước theo dấu chân của Đức Phật và bấy nhiêu là đủ. Phải có những vị để cho kẻ khác nhìn lên, xem đó là biểu tượng của sự kết tinh của Giáo Pháp. Điều này chứng minh chân lý nói rằng Giáo Pháp phi thời gian, không bị thời gian và nơi chốn giới hạn, mà chỉ bị chính sự lười biếng của con người giới hạn. Cũng bởi sự lười biếng của con người mà Giáo Pháp của Đức Phật sẽ mất đi trong thế gian. Thật là đáng khích lệ là Ngài Acharn Mun đã tự mình làm một tấm gương như vậy.”
Ngài Upāli thường khen ngợi và tán dương Ngài Acharn Mun. Khi không giải quyết được vấn đề gì đó, vị cao tăng Upāli lại cử người đi tìm Ngài Acharn để hỏi xin ý kiến.
Sau một thời gian, Ngài Acharn Mun rời Bangkok đi các tỉnh miền Đông Bắc.
52
Phra Acharn Sitha mạo hiểm với cọp
Ngài Acharn Mun thường thuật cho các đệ tử nghe những mẩu chuyện mạo hiểm của Ngài với cọp. Lần nọ, khi Ngài lưu ngụ ở một nơi hẻo lánh gần vùng núi trong vương quốc Lào, có một con cọp to lớn thích đến cách Ngài một khoảng xa xa, tò mò xem Ngài đi kinh hành vào lúc ban đêm. Cọp không bao giờ tỏ thái độ đe dọa mà chỉ quanh quẩn bên cạnh, thỉnh thoảng gầm to lên khi thích gầm thôi. Từ lâu Ngài đã quen sống với thú rừng nên không quan tâm đến việc này.
Đêm nọ, một con cọp thật to đến thăm vị tỳ khưu dhūtaṅga cùng đi chung với Ngài, nhưng vị này ngụ trong làng khác, cách đó một đoạn xa. Tên vị này là Sitha. Đêm ấy tỳ khưu Sitha đang bận đi kinh hành, đường kinh hành có hai cây đèn cầy để trong lồng đèn, mỗi đầu một ngọn. Cọp ngồi cách xa đó chừng vài thước, và dường như cũng đã khá lâu rồi. Nó ngồi giống hệt như một con chó nuôi trong nhà, xoay mặt hướng về nhà sư, và lặng lẽ nhìn sư đi tới đi lui thiền hành. Nó không làm gì khác mà chỉ ngồi nhìn. Một lúc sau, Ngài Acharn Sitha đến gần nơi nó đang ngồi và cảm thấy như có vật gì lạ, có lẽ chỉ thấy thoáng qua ở khóe mắt. Ngài quay nhìn sang và thấy con “chó giữ nhà” của mình ngồi đó không nhúc nhích. Nó giống như một con thú nhồi bông để bầy chơi, hơn là con vật sống. Acharn Sitha không thấy sợ, mà cũng không thấy cọp có vẻ gì muốn làm hại mình.
Sư bình thản tiếp tục thời thiền hành như không có gì xảy ra, nhưng một thời gian khá lâu sau sư bắt đầu cảm thấy thương hại cọp, nghĩ rằng nó đang phí thì giờ, chỉ ngồi nhìn sư. Phải chi trong khi đó nó đi tìm thức ăn thì tốt hơn. Sư vừa nghĩ đến đó thì cọp gầm lên một tiếng rống chát tai, vang rầm cả khắp vùng. Thấy cọp phản ứng như vậy Acharn Sitha vội vã thay đổi ý nghĩ. Bằng tâm, sư nói với cọp rằng sở dĩ sư nghĩ như vậy là vì thương hại cọp, dù sao cọp cũng phải đi tìm thức ăn để sống. Tuy nhiên, nếu cọp cảm thấy hoan hỷ và thỏa thích làm công việc trông chừng cho sư thì càng tốt. Chừng đó cọp không phản ứng gì và tiếp tục ngồi nhìn sư đi tới đi lui kinh hành, không quan tâm gì đến nó. Cọp tiếp tục ngồi đó như con chó nhà ngồi trông cho chủ, thản nhiên và bất động.
Một lúc sau, Acharn Sitha chấm dứt thời thiền hành và rời đường kinh hành về chỗ nghỉ ngơi gần đó. Chỗ nghỉ của sư chỉ là một cái chõng tre. Nơi đây sư bắt đầu đọc kinh rồi ngồi thiền, trước khi đi ngủ. Sư thức giấc lúc ba giờ
53
sáng và thiền hành trở lại, nhưng giờ đây không còn thấy cọp ở đâu. Sư không biết nó đi đâu hay đi lúc nào, mà cũng không thấy nó trở lại trong những đêm sau đó.
Về sau, sư thuật lại cho Ngài Acharn Mun nghe diễn biến lạ lùng này và nói rằng tiếng gầm của cọp lúc ấy làm sư dựng cả tóc gáy, đầu thấy tê cứng, dường như bị dồn trong một cái mũ quá nhỏ. Sư nói không biết ngay lúc bấy giờ có sợ hãi không, nhưng sâu ẩn trong tâm thì có thể là có. Sau đó một lúc, sư cảm thấy bình thường và tiếp tục thời thiền hành một cách bình thản. Trong những đêm kế, sư vẫn còn nghe tiếng cọp gầm rống đâu gần đó, nhưng không thấy lai vãng. Ngài Acharn Sitha không hề quan tâm đến tiếng rống và hoàn toàn thản nhiên gia công chuyên cần hành đạo.
Acharn Sitha đồng tu hạnh đầu đà trong rừng với Acharn Mun cùng một thời kỳ, nhưng cao tuổi hơn đôi chút. Ngài chỉ thích sống ẩn dật đơn độc. Ngài là một trong những vị tỳ khưu có tác phong trang nghiêm và đã kiên cố vững chắc trên Con Đường chân chính (Chánh Đạo). Ngài thích sống trong những vùng rừng núi của vương quốc Lào hơn là ở Thái Lan. Ngài chỉ ở Thái trong một thời gian ngắn.
Vào những giai đoạn sơ khởi trên bước đường du phương, Ngài Acharn Mun đi đó đây hành hạnh đầu đà, xuyên qua các tỉnh thành Nakhorn Phanom, Sakoi Nakhorn, và Udorn Thani sang qua Miến Điện, rồi trở về Thái qua Chiengmai trên miền Bắc. Kế đó, Ngài sang Lào, đến Luang Prabang và Vientiane, và trở lại thành phố Loey của Thái Lan, nơi đây Ngài nhập hạ trong làng Bahn Khok, gần động Phāpū. Mùa nhập hạ năm sau Ngài cũng trải qua tại thị trấn ấy, nhưng ở động Phā Bueng. Tất cả những nơi ấy là rừng rậm núi cao, đầy thú đủ loại. Đây là nhưng vùng thưa thớt dân cư đến độ lắm khi Ngài đi suốt cả ngày mà không gặp làng mạc. Người mà lạc lối trong một địa thế hoang vu và hiểm trở như thế chắc chắn là thật sự nguy khốn, vì phải ở lại đêm giữa những loài thú dữ. Kế đó Ngài xuống Bangkok, nhập hạ tại Wat Pathumvan.
Chính sau thời gian đó, Ngài mới lên vùng Khao Yai (Núi Lớn) và cư ngụ tại động Sarika. Trong cuộc du phương vùng Đông Bắc, Ngài chỉ đi một mình, ngoại trừ một vài lúc ngắn ngủi, có đệ tử đi theo.
Phương cách thực hành của Ngài là khắc khổ và cương quyết, không có chiều hướng phải hợp đoàn với người khác. Luôn luôn Ngài giữ thói quen dù ở đâu, đi đâu, và bất luận nơi nào, cũng đơn độc một mình. Chỉ đến lúc hoàn toàn tin chắc vào năng lực của nội tâm mình Ngài mới mở lòng từ mẫn dìu dắt khuyến dạy các vị tỳ khưu khác. Cũng vì lý do ấy mà Ngài rời bỏ cuộc sống
54
tiện nghi ở động Sarika, đi trở lại vùng Đông Bắc. Nơi đây, Ngài có một nhóm đệ tử tỳ khưu và sāmaṇera đã được huấn luyện trong những năm Ngài mới bắt đầu hành hạnh đầu đà. Khi Ngài trở lại đó thì tất cả các vị này sẵn sàng đón mừng và chăm sóc Ngài như sư phụ của họ.
Vài vị đệ tử của Ngài Acharn Mun
Có một số rất đông các vị đệ tử theo học với Ngài, cả tỳ khưu, sāmaṇera, thiện nam và tín nữ. Tất cả những vị này đều tận tâm nhiệt thành với Giáo Pháp và sẵn sàng dấn thân vào lối tu nghiêm khắc và cương quyết, vốn là điểm nổi bật của phương pháp mà Ngài dạy. Có những vị mà trước kia đã được kính nể như Acharn (thầy), mặc dù tuổi cao và địa vị quan trọng ngoài đời, sẵn sàng từ bỏ chức tước, đẳng cấp và những hoạt động xã hội, đặt mình dưới sự giảng dạy và nỗ lực rèn luyện của Ngài. Về sau, một số khá đông các vị này kiên cố vững chắc trong phương pháp thực hành và trong những thành quả nhằm khai triển nội tâm của phương pháp này, đã có đủ khả năng và tư cách để dạy người khác.
Những vị trong nhóm đệ tử đầu tiên xứng đáng được nêu ra đây là Ngài Acharn Suwan, trước kia trụ trì Wat Aranyikhavas trong tỉnh lỵ Nong Khai, Ngài Phra Acharn Singh Khantyāgamo, trước kia trụ trì Wat Sālawan trong tỉnh lỵ Nakhon Rājasimā và Ngài Phra Acharn Mahā Pin Paññābalo, trước kia trụ trì Wat Saddhārāma trong tỉnh lỵ Nakhon Rājasimā. Cả ba vị đều là người tỉnh Ubol Rajathani, và cả ba đều đã viên tịch. Phra Acharn Singh và Phra Acharn Pin là hai anh em và cả hai đều có học vấn cao. Hai anh em rất cảm phục lối giảng dạy và thực hành của Ngài Acharn Mun nên từ bỏ mọi hãnh diện, mọi tham vọng, quyền uy, chức tước và trách nhiệm ngoài đời, tự đặt mình dưới sự hướng dẫn của Ngài. Về sau hai vị này giúp Ngài rất nhiều trong việc đào luyện đệ tử.
Ba vị Acharn kể trên là đệ tử nòng cốt rất quan trọng trong nhiệm vụ tiếp nối Ngài Acharn Mun để giảng dạy và rèn luyện người khác, chư vị tỳ khưu cũng như hàng ngũ tại gia cư sỹ. Một số đệ tử của ba vị này hiện vẫn còn sống.
Kế đó là Ngài Phra Acharn Tet Desaraṅsi, với cấp bậc Phra Nirodharaṅsi trong hàng giáo phẩm. Hiện nay Ngài cư ngụ tại Wat Hin Mark Peng trong tỉnh Nong Khai. Ngài là một trong những vị đệ tử lão thành của Ngài Acharn
55
Mun. Giới hạnh nghiêm túc và tác phong trang nhã của Ngài được cả miền trong xứ kính mộ. Phương pháp thực hành của Ngài trơn tru và đều đặn, tính tình hiền hòa, từ tốn, lời nói dịu ngọt, và dáng điệu thanh nhã. Những tâm tính nổi bật như vậy làm cho Ngài được các đệ tử quý mến và những người đệ tử này, thực học những tư cách dễ mến của Ngài, sẽ cũng được người sống xung quanh quý mến.
Nên ghi nhận rằng những tính cách nổi bật và tác phong đặc thù của mỗi vị Acharn không thể trông chờ sẽ có ở một vị khác. Một vài tính cách và tác phong của một vị Acharn vị khác có thể học tập được và làm cho mọi người liên hệ cảm thấy thoải mái dễ chịu, nhưng có những tính cách chỉ duy nhất có ở một vị Acharn, và nếu có ai cố bắt chước làm theo thì chỉ gây khó chịu và ác cảm với người xung quanh.
Bẩm tính tự nhiên của Ngài Acharn Tet thuộc về nhóm đầu, lúc nào cũng dịu hiền và dễ mến đối với mọi người. Đây cũng là tính tình rất thích hợp với địa vị một nhà sư, phải là gương sáng của mẫu người trầm tĩnh và dịu hiền. Đến nay người viết vẫn tôn trọng Ngài là bậc Acharn (thầy). Ngài có một số đông đệ tử và ban bố rất nhiều lợi ích cho rất nhiều người. Cuộc đời của Ngài là một gương lành, lỗi lạc và mẫu mực.
Phra Acharn Fahn Ᾱcāro là vị đệ tử có hạ kế đó. Hiện nay Ngài cư ngụ tại Wat Udomsomphorn, trong làng Bahn Na Hua Chang, tỉnh Sakol Nakhon. Cũng như Ngài Phra Acharn Tet, Ngài được nhiều người biết đến là đã kiên cố vững chắc trên Đạo Lộ và trong Pháp Hành chân chính. Ngài cũng được quý trọng cùng khắp các miền trong xứ. Lòng từ bi của Ngài quả thật rất cảm kích và vô lượng vô biên, giúp đỡ người khác trong cả lãnh vực vật chất và tinh thần.
Phra Acharn Khao là một Tăng Bảo khác phải được ghi nhận nơi đây. Ngài cư ngụ tại Wat Tham Klong Phane trong tỉnh Udorn Thani. Ngài cũng nổi tiếng về lối thực hành và về tuệ giác đã liễu chứng. Lúc nào cũng thích sống ẩn dật, là gương mẫu của lối tu khắc khổ và cương quyết, Ngài được xem là đứng hàng đầu trong những vị cố gắng hành hạnh đầu đà. Hiện nay Ngài đã tám mươi hai tuổi nhưng vẫn không tự cho phép mình dể duôi, kém tinh tấn. Có những người lo ngại cho sức khỏe của Ngài và thắc mắc tại sao đã tiến đạt đến mức không còn gì nữa phải chiến đấu để thành tựu mà Ngài vẫn tiếp tục cố gắng như vậy. Để giải đáp những thắc mắc trên Ngài nói rằng: “Đối với người không còn bị bạo quân áp chế hay thống trị thì không còn dể duôi hay lười biếng. Không phải như những người khác, quý vị ấy không biến một tổ mối thành một hòn núi khi phải gặp khó khăn. Chính cái khuynh hướng rúm
56
ró trước khó khăn, thật sự hay tưởng tượng – dù nhỏ như tổ mối mà xem là to như hòn núi – chính khuynh hướng ấy làm cho ta thất bại và khuất phục, chịu thua một cách nhục nhã, không có gì làm cho mình hãnh diện khi nhìn lại phía sau. Chỉ có tình trạng nghèo nàn và phiền muộn tràn ngập do lo âu và lười biếng làm trầm trọng thêm. Đối với những vị đã loại trừ được bạo quân ra khỏi tâm mình thì không còn thái quá bệnh hoạn như vậy. Tâm của các Ngài chỉ thuần túy là Giáo Pháp và lúc nào cũng trang nghiêm và châu toàn. Quả thật là gương mẫu cho tất cả.”
Trên đây chỉ là một vài vị trong nhóm đệ tử của Ngài Acharn Mun, mỗi vị là một Tăng Bảo sáng chói, lúc nào cũng là ánh đạo phong phú dồi dào, là niềm vui cho những ai hiểu các Ngài. Có những vị khác chứng đắc được ít hơn. Tất cả các đệ tử ấy, tăng chúng cũng như tại gia cư sỹ, là thành quả của công trình giảng dạy và huấn luyện của Ngài trên bước đường du phương hành hạnh đầu đà. Điềm mộng tiên tri của Ngài Acharn Mun đã thành sự thật. Phương cách giáo huấn và đường lối thực hành của Ngài làm cho rất nhiều người vô cùng cảm kích và hoan hỷ. Ngài dạy những gì chính Ngài đã chứng ngộ, không phải là những gì Ngài suy đoán. Những gì Ngài nói, Ngài đã “biết.” Điều gì Ngài dạy người khác làm, chính Ngài đã làm. Như vậy, Ngài đã thành tựu ước vọng dưỡng nuôi từ khi còn ở động Sarika: dạy dỗ và huấn luyện các đệ tử cũ và những người mới.
Hạnh đầu đà
Sau đây là những hạnh đầu đà khác nhau mà Ngài Acharn Mun khuyên dạy các đệ tử nên hành:
1. Đi trì bình khất thực (pindapāto). Đây là nhiệm vụ cần thiết mà một vị tỳ khưu hoặc sāmaṇera hành hạnh đầu đà không thể thiếu sót, ngoại trừ những ngày họ quyết định nhịn đói. Trên đường, từ chỗ ở đến xóm làng và từ làng trở về, phải liên tục giác tỉnh chú niệm, không ngừng tự kiểm soát. Đây là thực hành chú niệm trong lúc gia công làm phận sự, luôn luôn hay biết mình đang làm gì. Không để tâm sa ngã theo ảnh hưởng nguy hại của những quyến rũ (dĩ nhiên là có rất nhiều trong làng: phụ nữ hay thiếu nữ ăn mặc không kín đáo). Những cám dỗ ấy có thể lén lút nhập vào mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý của vị tỳ khưu. Vì lẽ ấy, vị tỳ khưu đi trì bình phải hết sức thận trọng mỗi khi
57
vào làng hoặc trở về, phải chú tâm theo dõi và kiểm soát mỗi hành động, mỗi cử chỉ của mình. Trong thực tế, đây là một cách tinh tấn.
2. Không thọ nhận vật thực dâng cúng trễ. Vật thực nào được sớt vào bát, dù ít hay nhiều, cũng là thích hợp với người tự rèn luyện mình đức tự hài lòng. Không cần phải thọ nhận thêm vật thực được dâng cúng trễ, tức là sau khi đi bát từ làng về. Thọ nhận thức ăn này là tự bó tay đầu hàng tính lợi dưỡng, một thói quen xấu càng lúc càng khó chế ngự. Biết thấy đủ với bất cứ vật thực nào được sớt vào bát là mục đích của pháp hành này, trong khi tham muốn thêm là đặc tính của hạng ngạ quỷ, vốn bị tật xấu thèm khát vô độ của chính mình thiêu đốt và làm hao mòn, chỉ chiến đấu để dồn thức ăn vào miệng, dù tâm bị tổn hại. Giới này trong hạnh đầu đà có tác dụng đè nén lòng thèm khát vật thực và cũng rèn luyện tâm biết đủ đối với vật thực.
3. Chỉ Độ thực một lần mỗi ngày. Đây là giới hạnh thích hợp nhất cho vị tỳ khưu hành đầu đà, đặt nặng nỗ lực vào việc trau dồi tâm và phải bỏ xuống gánh nặng vật thực càng nhiều càng tốt. Giới này đương nhiên giúp cho vị tỳ khưu dứt bỏ lòng mong muốn có thêm thức ăn ngon, chỉ nuôi dưỡng thân, làm cho cơ thể dễ chịu trong khi gây tổn hại cho phẩm hạnh của người mong cầu Chấm dứt Đau khổ. Đôi khi cũng cần giảm bớt vật thực của bữa ăn một lần trong ngày đó để tránh ăn quá no làm buồn ngủ và dã dượi. Sự bớt ăn này là một phước lành cho người hành thông thường và có nhiều lợi ích cho người cần tu tập theo cách này. Đây là một phương pháp khác để tiêu trừ lòng thèm khát vật thực, vốn làm mất phẩm giá vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà.
Ngoài đời có nhiều phương cách để loại trừ một năng lực đối nghịch hay một sức mạnh gây tổn hại, dù đó là một con chó, một con rắn, một con cọp, một con voi, một chứng bệnh hay một con người cũng vậy. Trong Phật giáo cũng có những phương pháp để vị tỳ kheo hành hạnh đầu đà bị sự thèm khát vật thực ám ảnh sử dụng. Tuân thủ giới này là một cách để chống lại sức mạnh đối nghịch như vậy.
4. Độ thực trong bát. Việc này thích hợp nhất với vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà luôn luôn di chuyển, bất luận ở đâu cũng chỉ là tạm thời. Nó làm vơi bớt gánh nặng phải mang theo những đồ dùng kềnh càng và phiền phức, nặng nhọc cho cả thân lẫn tâm. Một lợi ích khác của pháp hành này là việc trộn chung các thức ăn trong bát có tác dụng tăng cường chú niệm và trí tuệ trong khi quán tưởng đến bản chất của vật thực (sự gớm guốc của nó) và mục đích của việc ăn.
Theo Ngài Phra Acharn Mun, pháp quán niệm vật thực và việc thực hành hạnh đầu đà này và các hạnh khác giúp hành giả vững vàng đi sâu vào
58
sự thật. Vì lẽ ấy, Ngài lúc nào cũng hành trì rất nghiêm túc. Dùng vật thực để chung trong bát là phương cách kìm hãm lòng ham muốn buông lung chiều theo cái miệng. Trong khi ăn, tâm quán niệm hướng về bản chất của thức ăn (sự gớm guốc của nó) và lý do tại sao ăn, chỉ để nuôi dưỡng sự sống chứ không phải bị lệ thuộc trong những yêu thích hay ghét bỏ, dù thức ăn có ngon miệng hay không. Pháp quán niệm này giúp giữ tâm quân bình, dù vật thực ngon dở thế nào.
5. Đắp y bằng vải lượm từ Đống rác. Ngài Phra Acharn Mun luôn luôn tự ép mình không được thỏa thích trong những gì làm đẹp mắt nên lúc nào cũng nghiêm túc trong sạch thực hành giới này. Ngài lượm nhặt những mảnh vải mà người ta bỏ ở những nơi như nghĩa địa rồi may ráp lại thành tấm y hay một miếng vải lớn dùng vào việc khác. Đôi khi Ngài “kéo cái y ra”6 từ một tử thi trong nghĩa địa khi ấy đã được chủ nhân của xác chết hứa dâng cho Ngài. Trong khi đi trì bình, từ chỗ ở vào làng hay từ làng trở về, Ngài thường lượm nhặt những mảnh vải rách bỏ rơi bên đường, dù vải đó là vải gì. Đem về, Ngài giặt sạch rồi dùng để vá y hoặc làm gì khác. Khi các thiện tín thí chủ biết được lối hành đầu đà này thì dâng y đến ngài bằng cách đem bỏ ở nghĩa địa nằm bên đường mà Ngài thường đi trì bình hoặc trong khu vực Ngài cư ngụ. Về sau Ngài thay đổi đôi chút pháp hành này để thích hợp với hoàn cảnh và tự cho phép “kéo cái y ra” ở nhiều địa điểm khác nhau. Ngài giữ hạnh này cho đến tận ngày viên tịch.
Ngài Acharn Mun thường nói rằng vị tỳ khưu muốn tĩnh lặng cho nội tâm phải tự xem mình như mảnh vải rách vô dụng (trong mắt người thế gian). Với thái độ, tinh thần như vậy, vị ấy không bị phiền nhiễu bởi những vấn đề ăn uống, ngủ nghỉ và sống chung với người khác. Vị ấy không kiêu căng, ngã
mạn với lòng tự phụ hay tự cao, tự đại, hiểu rằng những gì nâng cao phẩm giá vị tỳ khưu ẩn dật là khả năng làm xẹp cái tự ngã của mình, không phải khả năng tự thổi phồng. Đó là giới luật, hoặc hơn thế nữa, là sự trưởng thành, sự thuần thục mà người tu ẩn dật được trông đợi phải đạt đến. Hành giả phải để mắt trông chừng, không cho tính tự cao xâm nhập vào lãnh địa của Giáo Pháp, nếu không vị ấy sẽ suy sụp và trở thành giống cầm thú hơn loài người. Để thuần hóa khái niệm “tự ngã”, xem nó chỉ như những miếng giẻ rách và không để cho nó thò cái đầu tự phụ lên là tiêu chuẩn đo lường sự tiến bộ
6. “Kéo cái y” ở đây là dịch từng chữ từ tiếng Thái, có nghĩa là chấp nhận cái y bằng cách kéo hoặc rút xuống từ nơi nó được phơi hoặc đặt, trên cái xác, trên cành cây hay ở bãi rác. Đây là để phân biệt với cách nhận cái y như vậy từ tay của tín chủ, và y loại này được gọi là pansukulo trong tiếng Pāli, nghĩa là “y bằng vải lượm trong đống rác.”
59
trong Giáo Pháp. Như quả địa cầu mênh mông rộng lớn, một cái tâm như thế không hề lay chuyển và không bị hoàn cảnh làm chao động. Đã được thanh lọc trong sạch tất cả mọi hình thái và mọi mức độ của tự cao và tự đại, một cái tâm như thế có đủ khả năng giữ quân bình trong mọi trường hợp. Thực hành hạnh đầu đà đắp y bằng vải lượm từ đống rác là phương tiện nhằm giảm bớt và tiêu trừ khái niệm về “tự ngã.”
6. Sống trong rừng núi hoang vu. Từ những ngày đầu tiên tu tập, Ngài Acharn đã nhận thức được lợi ích lớn lao của việc sống trong núi rừng hoang vu mà nhờ đó Ngài đã được hưởng sự cô tịch an bình. Cảnh vật xung quanh khơi động trạng thái giác tỉnh chú niệm. Trong khi đi, đứng, ngồi hay nằm, chú niệm luôn luôn hiện hữu với trí tuệ để suy ngẫm về Pháp, trong nội tâm cũng như ở ngoại cảnh, và liên tục không gián đoạn, ngoại trừ lúc ngủ. Trong mỗi oai nghi, hành giả đều cảm thấy nhẹ nhàng và thoải mái. Không bị ràng buộc hay lôi cuốn đè nặng trong tâm, viễn ảnh Giải thoát ngày càng sáng tỏ. Càng đơn độc và xa cách những nơi dân cư đông đúc, càng sống giữa những nơi mà thú rừng qua lại tự do, tâm càng được chuẩn bị để triển khai khả năng vượt lên khỏi vực thẳm của ô nhiễm, lúc nào cũng như chim trời, sẵn sàng cất cánh tung bay. Ô nhiễm vẫn còn đó, tiềm tàng sâu thẳm trong tâm, nhưng giữa môi trường như vậy, năng lực của tâm tăng trưởng mạnh mẽ và như thể đã diệt trừ được hàng trăm ô nhiễm, chỉ còn lại đôi chút. Đó là lợi ích của hoàn cảnh thuận lợi lúc nào cũng khuyến khích hành giả.
Ý nghĩ đối với loài thú được dựa trên nền tảng từ bi nhiều hơn là sợ sệt. Giống loài người, chúng cũng chia sẻ hoàn cảnh khổ đau của sanh, già, bệnh, chết, nhưng khác người ở chỗ chúng không có khả năng hiểu biết điều nào là thiện, điều nào bất thiện, cái gì là phước báu, cái gì là tội khổ. Vậy người mà không phân biệt điều phải lẽ quấy thì không có gì hơn loài thú. Từ “thú” do loài người đặt ra một cách độc đoán. Không biết “loài thú” đặt tên gì để gọi con người. Nếu có, chưa chừng chúng gọi ta là “quỷ sứ”, hay “yêu tinh” để mô tả đúng hành động thông thường của con người, giết chóc bừa bãi để ăn thịt cũng như để giải trí. Trong thực tế, nếu chúng gọi ta là như vậy thì phần lớn là đúng và hợp lý, không có gì quá đáng, bởi vì có nhiều chúng sanh tự gọi mình là “người” mà không dung tha cả thú lẫn người, thường dùng những phương tiện hung bạo và giết chóc để nuôi dưỡng ngọn lửa hiểm nguy và kinh sợ trong xã hội loài người cũng như xã hội loài thú. Vì lẽ ấy, loài thú tự nhiên nghi kỵ con người.
Hình như có một liên hệ thân hữu giữa vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà với loài thú, kể cả những con thú hung bạo mà thông thường là đáng kinh sợ và
60
tránh xa. Theo Ngài Acharn, có một lần nọ, trong khi Ngài đang thiền hành thì gặp một con heo rừng tình cờ đi ngang qua. Thay vì kinh sợ bỏ chạy, heo rừng không mấy lưu tâm đến Ngài và vẫn tiếp tục đi một cách thản nhiên. Có
lẽ nó đã hiểu rằng dù sao Ngài Acharn không phải yêu tinh. Nơi đây, người viết cũng muốn thuật lại một chuyện tương tự xảy ra tại Thiền viện Bahn Tard trong buổi ban sơ, khi khu này vừa được khai quang để làm nơi cư ngụ cho Chư Tăng.
Lúc bấy giờ đã có nhiều tỳ khưu và sāmaṇera ở tại khu rừng này, nhưng một bầy heo rừng vẫn thường lẩn quẩn tới lui quanh tịnh thất của các sư, lắm khi thản nhiên ngủ ngay trước đó. Chúng không sợ mà cứ lai vãng cách đường kinh hành chừng vài thước, gần đến độ nghe được tiếng chúng ủi đất. Lúc ban đầu, vài vị tỳ khưu không biết phải làm sao, kêu các vị khác đến để tận mắt xem, nhưng rồi bầy heo rừng vẫn không động đậy. Chẳng bao lâu sau, người và heo không ai để ý đến ai nữa, ai nấy cùng chung sống an lành, thoải mái.
Ngày nay, có rất ít thấy những chuyện tương tự vì nhiều “yêu tinh” ngang nhiên vi phạm định luật “sống và để cho người khác sống” và đã giết hại heo rừng mỗi khi gặp (có lẽ khi các nhà sư tạm thời vắng mặt, hoặc khi heo rừng đi lạc vào xóm làng lân cận), và trong một thời gian ngắn, không còn thấy chúng đâu nữa. Điều này xác nhận rằng loài thú thích tìm chỗ ẩn náu nơi có Chư Tăng ở, kể cả ở thành thị. Những con chó chẳng hạn, thường có hàng trăm con trong các tự viện. Hình như chúng biết rằng, ở đó sẽ không bị tổn hại (ít ra là các sư không làm gì hại chúng, mặc dù đôi khi vài chú thanh niên trong chùa cũng nóng nảy trút cơn giận vào chúng). Điều này cũng chứng tỏ rằng Giáo Pháp luôn mang lại tình trạng an lành và bất bạo động cho tất cả, thú cũng như người.
Theo Ngài Acharn, sống trong rừng có vô số cơ hội để quán niệm về những cảnh vật bên ngoài cũng như những chuyển biến bên trong. Tâm luôn luôn xuôi chiều hướng về Giải Thoát và lúc nào cũng kiên trì gia công tiến đạt Mục tiêu ấy. Đây là chiến trường đối với người có nguyện vọng Chấm Dứt Đau khổ, đúng theo lời giáo huấn sơ khởi mà vị Thầy Tế độ ban truyền cho giới tử trong buổi lễ xuất gia tỳ khưu.
Ngài Acharn hành giới sống trong rừng rất nghiêm chỉnh suốt phần lớn thời gian, ngoại trừ đôi khi bị bắt buộc phải ở nơi khác (như ở thành phố trong một thời gian ngắn). Khi sống giữa rừng sâu hoang vắng, ta luôn luôn được nhắc nhở về sự đơn độc và ẩn dật. Có rất ít cơ hội để tự mãn. Đối với người có nguyện vọng Chấm Dứt Đau Khổ thì đây là nơi tốt đẹp để phát triển mọi hạnh lành.
61
7. Sống dưới cội cây. Cũng như đời sống giữa rừng sâu, cuộc sống dưới cội cây đem lại nhiều lợi ích. Theo Ngài Acharn, khi tâm Ngài giải thoát khỏi mọi trói buộc của thế gian, đó vào lúc ban đêm khi Ngài ngồi dưới tán của một cội cây lẻ loi trơ trọi giữa rừng. Sự kiện này sẽ được tường thuật trong phần sau. Người viết xin quý độc giả thông cảm cho sự dời lại về sau giai đoạn rất quan trọng này.
Ở dưới tán của một cội cây, nơi mà không có che chắn hay bất kỳ sự bảo vệ nào thì hành giả có thể trông đợi đem lại nhiều lợi ích cho hành giả trong phát triển chú niệm. Với niệm không ngừng phát triển, khả năng tiêu trừ ô nhiễm càng vững chắc. Những nền tảng của niệm - thân, thọ, tâm, pháp – là những chủ đề tuyệt hảo để bảo vệ hành giả và diệt trừ ô nhiễm. Tâm luôn luôn chăm chú vào những nền tảng của niệm hay những Diệu Đế nhờ sống cô độc hoặc gặp hiểm nguy là cái tâm được bao bọc bên trong áo giáp và có sẵn khí giới phòng thân trong cuộc chiến cao quý để thành tựu Giải Thoát. Do đó có lời khuyên dạy hành giả muốn gia công cố gắng nên tìm nơi ẩn cư dưới tán một cội cây. Đây là lối sống có thể giúp đem lại nhiều tiến bộ trong Giáo Pháp.
8. Sống trong nghĩa Địa (bên trong hay bên ngoài). Pháp hành này là phương pháp tuyệt hảo giúp hành giả đề cao cảnh giác, không dể duôi buông lung hay tự mãn. Phần đông chúng ta cố tránh suy tưởng hay nghĩ đến sự chết mà quên rằng trong từng khoảnh khắc, chính mình đang tiến dần đến cái chết. Hãy nghĩ lại xem, bao nhiêu người đã từng sống và đã gửi thân trong những nghĩa trang khác nhau! Những xác chết đã chiếm đầy những giàn hỏa thiêu hay nằm đầy dưới các mộ phần đã từng là những người sống, những người đang đi dần đến cái chết không thể cưỡng, như chúng ta đây. Vậy làm thế nào chúng ta, những người đang sống, có thể thoát khỏi hiện tượng tự nhiên ấy? Viếng thăm một người bạn hay một thân nhân nằm trong nghĩa địa có thể đem lại hai điều hữu ích: trước tiên là nó gợi cho ta những kỷ niệm về người quá cố, và thứ đến là, từ tưởng nhớ người xưa, ta tưởng đến phận mình, tự so sánh với họ và nhận ra rằng chúng ta cũng đang tiến dần đến đó, không thể kháng cự.
Một vị tỳ khưu là biểu tượng sống động cho cuộc chiến nhằm thành tựu Giải Thoát. Vị ấy cần phải nghiên cứu Vòng Sanh Tử - cả bên trong và bên ngoài. Ở bên ngoài, vị ấy có thể nhắm vào những nơi mà tử thi được mai táng, hỏa táng hay vứt cho thú vật ăn. Bên trong, vị ấy được khuyên dạy nên quán niệm về chính cái thân của mình, được cấu hợp bằng vô số những con thú mà chúng ta tích vào đó mỗi ngày. Suy niệm như vậy, khi được trí tuệ hướng dẫn
62
phù hợp sẽ đưa đến “nỗi buồn vô hạn” và tuệ minh sát. Vậy, một hành giả, dù là tỳ khưu hay cư sỹ, ưa thích viếng thăm nghĩa địa – cả bên trong lẫn bên ngoài – quán niệm sự chết như sự sống, tuổi trẻ, sức khỏe, địa vị xã hội, đẳng cấp, chức tước… Một người như thế không thể bị tính kiêu mạn tự cao hay lòng tự phụ chiến thắng, luôn luôn có khuynh hướng nhìn vào lỗi lầm của mình để sửa sai, hơn là tìm điều xấu xa của kẻ khác rồi cố tình vạch trần với ác ý phơi bày. Đây là thói quen được phần lớn mọi người tích trữ, chỉ làm tăng trưởng kho tội mà họ có. Bất hạnh thay! Đây là chứng bệnh truyền nhiễm rất khó chữa trị nhưng lan tràn rất dễ dàng và nhanh chóng.
Nghĩa địa là hội trường lớn nhất của con người, không phân biệt tuổi tác, giai cấp, đẳng cấp hay quốc tịch. Không có cách nào vượt qua khỏi đó, ngoại trừ bằng con đường mà Đức Phật và các Thánh Đệ Tử đã vượt qua. Nhưng công cuộc vượt qua này không thể thiếu việc nghiên cứu kỹ càng về sanh, lão, bệnh và tử. Những ai hành động như con đà điểu để quên những sự thật này thì không có hy vọng nào thoát khỏi, vì những sự thật ấy luôn ở đó, dính liền với họ. Sống trong nghĩa địa là tự mình tu tập để đối diện với sự thật và được sự thật khuyến khích. Đối với tâm thế gian, mới nghe qua hình như vô lý, nhưng pháp này đã được ứng dụng và đem lại thành quả tốt đẹp trong giới những người thực hành Phật Giáo, những người đặt niềm tin vào Đức Phật và các vị Đệ Tử cao cả của Ngài. Hạnh đầu đà này được Đức Phật khuyên dạy như cách làm giảm thiểu những hãnh diện của đời sống và lòng tự phụ, và cũng là cách giúp chúng ta chuẩn bị giờ phút lâm chung trước khi quá muộn. Đến hơi thở cuối cùng, mọi phương cách bảo vệ đều vô hiệu quả. Định luật vĩ đại về cái chết xảy ra. Việc phải làm duy nhất còn lại là thiêu những gì còn lại. Không còn giữ giới, không còn bố thí hay hành thiền, hay các cách tạo phước báu khác có thể bắt đầu hay tiếp tục.
Ngài Acharn luôn luôn khuyên dạy nên viếng nghĩa địa, bên trong và bên ngoài, vì những lợi ích này. Trong hàng đệ tử của Ngài có những vị, mặc dù bản tính sợ sệt, cũng can đảm chiến đấu, để hành hạnh đầu đà này.
63
Chuyện vị tỳ khưu sợ ma
(Câu chuyện dưới đây do chính Ngài Acharn tường thuật.) Câu chuyện này được thuật lại để cho thấy vị tỳ khưu kinh sợ như thế nào lúc ban đầu và cuối cùng trở nên cam đảm ra sao. Chuyện có thể là bài học cho những ai ở trong hoàn cảnh tương tự.
Lần nọ, một vị tỳ khưu trên bước du phương tu hạnh đầu đà, dừng nghỉ đêm ở một nơi trong rừng. Vị ấy đến vào lúc trời vừa sẩm tối mà không quen biết vùng này, nên hỏi thăm dân làng xem nên nghỉ đêm ở đâu. Người ta đưa sư đến một nơi, nhưng không ai nói là nơi ấy nằm bên cạnh nghĩa địa. Đêm đầu tiên sư ngủ an lành, nhưng ngày hôm sau sư thấy người làng khiêng một tử thi đi ngang qua, rồi hỏa thiêu trên một giàn hỏa chỉ cách đó chừng vài thước, lẽ dĩ nhiên từ nơi sư ở trông thấy rõ ràng. Vào lúc sư nhìn thấy cái quan tài được khiêng đi ngang qua thì bắt đầu cảm thấy khó chịu, nhưng cố gắng tự trấn an rằng giàn hỏa thiêu chắc ở xa xa. Đến khi phát hiện rằng nó chỉ ở cách đó không bao xa và tại chỗ đang ngồi sư thấy rõ phần còn lại của tử thi đang được hỏa thiêu trước mắt, sư càng sợ gấp bội – cái sợ trong hiện tại và cái sợ cho đêm sắp đến. Vào lúc màn đêm buông xuống, nỗi kinh sợ càng tăng trưởng không thể tưởng tượng, đến độ hầu như không còn thở được nữa, dường như sắp chết.
Sau khi dân làng ra về, sư không ngừng bị cơn sợ hãi của chính sư dầy vò hành hạ. Sư đọc những đoạn kinh liên quan đến sự chết rồi ngồi lại hành thiền, nhưng không hết sợ. Mỗi khi nhắm mắt là sư thấy xuất hiện một đoàn ma quỷ rất dài đến thăm. Số ma hình như vô cùng tận, những khuôn mặt mới lạ liên tiếp hiện trong nhãn quan làm cho sư không kịp thở. Đây là cơn sợ khủng khiếp nhất từ khi sư xuất gia.
Sau nhiều giờ được những con ma đó đến thăm, sư bắt đầu thắc mắc tự hỏi rằng tất cả những con ma lảng vảng trong đầu phải chăng chỉ là những hình ảnh do trí tưởng tượng bệnh hoạn của sư tạo ra. Sư tự nhắc nhở rằng một tỳ khưu dhūtaṅga thường được xem là người không bao giờ sợ, người có khả năng đương đầu với cái chết, với ma quái, với bất luận hiểm nguy nào. Sư là một trong những tỳ khưu đó! Tại sao sư lại sợ ma một cách không biết hổ thẹn như vậy? Nếu còn chịu thua sự áp đảo của kinh sợ là mất danh vị tỳ khưu hạnh đầu đà.
64
Tự khuyến khích mình như thế trong cuộc chiến đấu, sư nhất quyết đi tới nơi mà sợ hãi phát sanh và đương đầu với bất luận cái gì ở đó. Sư đắp y đi thẳng đến giàn thiêu, trên đó một phần tử thi vẫn còn đang cháy trong ánh sáng chập chờn của ngọn lửa. Tuy nhiên, chỉ bước được vài bước thì sư không thể di chuyển nữa. Dường như hai chân của sư thình lình bị đóng đinh dính chặt xuống đất. Tim sư đập mạnh, trong mình mồ hôi nhỏ giọt như bị thiêu đốt dưới sức nóng của mặt trời giữa trưa đứng bóng. Biết rằng mình cần thêm sức mạnh, sư tự ép mình bước tới. Sư bước nhanh chân hơn, sợ rằng còn chần chờ thì sẽ dừng lại nữa. Sư biết cần phải tự chủ thêm để phấn đấu kiềm chế thân và tâm đang chao động nhằm đánh đuổi những ý tưởng như thôi miên cho rằng mạng sống đã đến hồi sắp chấm dứt. Vận dụng tất cả năng lực của ý chí, sư kéo lê cái thân do dự của mình đến giàn hỏa thiêu, tự nhủ trong lòng: “Cái gì sắp xảy ra, hãy để cho nó xảy ra”, nhưng vẫn chưa chiến thắng.
Sư thở hổn hển một cách nặng nề vì vừa cố gắng và thấy như muốn xỉu. Sư cố gắng giữ bình tĩnh, nhìn cái tử thi đã rụi đi một phần và phần còn lại đang cháy, nhưng khi thấy cái sọ cháy trắng trong lửa, sư cảm thấy sắp gục ngay tại đó, ngay lúc đó. Sư đẩy lui nỗi sợ, đến ngồi cách xa tử thi chừng một thước và nhìn thẳng vào đó, lấy đó làm đề mục hành thiền. Sư ép cái tâm lúc bấy giờ rất chao động phải đọc đoạn kinh về sự chết: “Tôi sống đây để rồi chết, cũng như tử thi này. Tại sao tôi phải sợ? Sớm muộn gì cũng phải chết. Sợ có ích gì? Tôi sẽ chết và sẽ giống như tử thi đây. Tại sao sợ? Không nên sợ!”
Con chó dị thường
Trong khi tụng kinh như thế để chiến đấu chống lại cơn sợ ma thì sư nghe thấy một tiếng động lạ thường từ phía sau lưng mình. Tiếng chân đi! Ai đó đến từ phía sau! Tiếng chân bước không đều, dừng một chập rồi lại đi nữa. Có người chuẩn bị tấn công sư từ phía sau! Cơn sợ tràn ngập, hoàn toàn làm chủ sư. Hơi thở của sư càng lúc càng mạnh, chỉ tẹo nữa là sư nhảy vụt lên, bỏ chạy, la bải hải như điên, “Ma! Ma! Cứu tôi với!” Nhưng rồi sư cố gắng lấy lại bình tĩnh, tự buộc mình cứ ngồi yên và chờ xem “nó” sắp làm gì đây. Sư có thể nghe nó nhón chân đến gần, cách sư độ vài thước, rồi có tiếng ai hay cái gì nhai vật gì giòn kháu. “Khi nó ăn xong thức ăn giòn rụm kia thì chắc thế nào
65
cũng nhai ngấu ta, cũng giòn như như thế! Vậy thì đời ta sắp tàn!”, sư nghĩ như vậy.
Sư không thể tự kiềm chế được nữa và chuẩn bị đứng vụt lên bỏ chạy. Mở mắt nhìn xem “nó” là cái gì. Sư nghĩ thầm: “Có thể tìm cách thoát thân để rồi trở lại đây, chiến đấu chống “nó” một ngày nào đó. Còn hơn là bó tay quy hàng trong đêm nay!”
Sư mở mắt nhìn. Trước mắt sư là một quang cảnh bất ngờ, làm sư bật cười vì sự nực cười và hèn nhát của mình. Cái đang chuẩn bị tấn công và ăn thịt sư không gì khác hơn là con chó trong xóm, đánh mùi loanh quanh để kiếm ăn những gì người nhà đem đến cúng còn để lại. Chó không màng để ý đến ai, dù là vị tỳ khưu đang sợ hãi. Nó chỉ quan tâm đến cái gì có thể ăn được còn bỏ lại trên đất.
“Như vậy là con chó đã làm mình điếng hồn từ nãy giờ”, vị tỳ khưu nghĩ như thế và cảm thấy thương hại cho mình, tự thấy mình quá hèn nhát, mặc dù đã quyết tâm đối phó, bất luận gì có thể xảy ra. Nếu vào phút cuối cùng, sư không thể khắc phục cơn sợ bằng Giáo Pháp tự chủ, cái sợ ấy suýt làm sư mất trí.
“Hành động vừa rồi của ta là một sự sỉ nhục đối với người đã khoác y cà sa của Đấng Như Lai, bậc đại hùng Toàn Giác. Quả thật ta đã phụ lòng người để bát nuôi ta, phung phí cơm gạo của bá tánh vì một cơn sợ điên cuồng. Và nếu còn nhiều vị tỳ khưu khác như ta thì sao? Quả là ta đã làm ô danh Phật Giáo!”
Tên phù thủy vĩ đại
Với những ý nghĩ như vậy còn mới mẻ trong tâm, vị tỳ khưu nhất định không rời bỏ nơi này cho đến khi khắc phục kinh sợ, hoặc bỏ thân trong cuộc chiến. Sư nhận ra rằng một vị tỳ khưu mà nhát gan như thế thì hẳn là một gương xấu cho tất cả. Kể từ lúc bấy giờ, sư can đảm đương đầu với tâm hèn nhát sợ sệt bằng cách cứ ở ngay trong nghĩa địa ngày và đêm, so sánh những cái xác không có sự sống kia với cái xác còn “sống” của sư, quán niệm những thành phần và những nguyên tố đất, nước, gió, lửa cấu thành những cái xác kia với cơ thể sống này của chính sư. Không có tâm, cái xác đang sống biến
66
thành cái xác không có sự sống, những nguyên tố khác nhau của tứ đại tan rã và trở về nơi mà chúng từ đó tới.
Một bài học quý giá khác là con chó đã vô tình làm cho sư khiếp đảm đến gần chết. Đó là cái tâm sư không ngừng hoạt động, luôn luôn tạo ra một số điều, thực ra là rất nhiều điều làm tổn thương chính nó. Điều này cũng hé mở sự thật về trí tưởng tượng của con người, quả thật là tên phù thủy thiện xảo có tài trình diễn trò ảo thuật trong cái tâm đã sanh ra nó.
“Trí tưởng tượng của ta làm cho ta gần chết vì sợ hãi”, sư nghĩ. “Giờ đây đã đến lúc ta nắm lại quyền kiểm soát sự tưởng tượng này của ta. Ta phải đem hỏa táng tên phù thủy này, giống như người ta hỏa táng tử thi kia trên giàn thiêu.” Và sư nhất quyết bám sát cuộc chiến. Bất cứ lúc nào kinh sợ phát sanh, sư can đảm khắc phục ngay lúc ấy. Bất luận nơi nào mà kinh sợ hướng về, sư can đảm đi về hướng đó. Đêm đó không ngủ, sư quyết định vật lộn với kinh sợ. Trong những đêm kế đó, sư cũng giữ nguyên ý nguyện chiến đấu, quyết không chùn bước, và cuối cùng sư thành công trong việc “hỏa táng” nỗi sợ.
Câu chuyện trên có thật, nó cho thấy một vị tỳ khưu can đảm chiến đấu như thế nào để tiêu trừ nỗi sợ. Lúc đầu bị nỗi sợ tràn ngập, nhưng cuối cùng đảo ngược tình thế và khắc phục nỗi sợ. Đó là lợi ích của hạnh sống trong nghĩa địa.
9. Mặc tam y. Ngài Acharn Mun hành trì hạnh đầu đà này ngay từ ngày xuất gia. Chỉ đến lúc tuổi già, cơ thể gầy yếu dần, cần phải được ấm áp hơn và chăm sóc nhiều hơn, Ngài mới tự cho phép mình bớt nghiêm khắc hơn với chính mình và đắp thêm y. Vào thời của Ngài, quý vị tỳ khưu dhutaṅga thích đi đó đây sống trong rừng, ngoại trừ trong mùa nhập hạ. Phần lớn là họ đi bộ, vì lúc ấy không có phương tiện giao thông như ngày nay. Mỗi vị phải mang theo đồ dùng của mình, không ai có thể giúp ai khác. Kích cỡ và trọng lượng của đồ dùng mang theo phải được xem xét kỹ lưỡng vì nó có thể gây trở ngại nhiều hơn là tạo lợi ích, nếu không thực sự là cần thiết. Sau một thời gian, vị tỳ khưu dhutaṅga quen dần lối du phương gọn nhẹ và thích cho người khác xiêm y và các vật dụng mà thiện tín dâng cúng. Đối với những vị đã quen lối sống như vậy thì cất giữ và bận bịu mang theo những vật dụng thừa quả thật là một gánh nặng. Điều này cũng thích hợp với pháp hành đặc biệt của người tu ẩn dật, có một cuộc sống thanh bần và trong sạch. Vị tỳ khưu mà sau khi viên tịch không còn để lại vật dụng nào khác hơn là tứ vật dụng của một vị tỳ khưu thì càng được tôn sùng kính mộ. Khi còn tại tiền, vị ấy được tán dương vì cuộc sống thanh bần Thánh thiện. Sau khi cơ thể tan rã, vị ấy ra đi an lạc, vì tâm thảnh thơi buông xả, không dính mắc vào bất kể cái gì của mình. Đó là
67
chết giữa hoàn cảnh nghèo nàn và trong sạch, vị ấy luôn luôn được chư thiên và người có giới đức cảm phục. Hạnh đầu đà này là một vinh hạnh cho đời sống của nhà sư tu ẩn dật.
Ngài Acharn Mun thực hành hạnh đầu đà này rất nghiêm túc và vào thời của Ngài, ít có ai bì kịp, mà đến tận ngày nay cũng không ai sánh bằng. Ngài thường xuyên dạy các vị tỳ khưu đệ tử nên thận trọng quan tâm, tôn kính và giữ gìn trong sạch pháp hành này. Dưới sự hướng dẫn của Ngài, các vị ấy được dạy sống dưới cội cây, giữa rừng sâu, trên núi cao, trong hang động, bên ghềnh đá, hoặc trong nghĩa địa, toàn là những nơi mà thông thường người đời xem là hoang vu và đáng sợ. Vào buổi sáng, các vị tỳ khưu cũng được Ngài dẫn đi vào làng thọ bát và khước từ bất cứ gì được dâng cúng sau khi trì bình. Về sau thiện tín biết rõ hạnh này chỉ sớt bát đến các Ngài trong khi còn đi khất thực. Các đệ tử của Ngài được rèn luyện chỉ độ thực trong bát, khỏi phải bận tâm phiền phức đến chén đĩa bộn bề. Thức ăn thì để chung trong bình bát. Mỗi ngày chỉ ăn một lần. Hạnh này, Ngài trong sạch giữ gìn cho đến ngày cuối cùng của đời mình.
Mật ngọt của những bài giảng
Nhóm người đi theo Ngài, tỳ khưu, sāmaṇera và thiện tín cư sỹ ngày càng đông. Bất luận nơi nào mà Ngài cư ngụ, số người đến để Ngài dạy dỗ luôn luôn rất đông. Đôi khi sáu, bảy mươi vị tỳ khưu và sāmaṇera cùng ở chung một nơi với Ngài, không kể nhiều vị ở những nơi xa xôi khác cũng tụ hội về. Ngài bảo họ mỗi người ở một nơi riêng rẽ, nhưng không cách nhau quá xa để có thể gọi nhau, hoặc đi dễ dàng đến Ngài khi có thắc mắc cần hỏi, hay muốn nghe chỉ dạy.
Trong những ngày đọc Giới Bổn (Pāṭimokkha, hai lần trong tháng Chư Tăng tụ hội và đọc giới luật căn bản), tất cả các vị tỳ khưu đều tề tựu về nơi Ngài Acharn ở. Sau khi đọc xong Giới Bổn, Ngài thuyết giảng một thời Pháp và giải đáp những thắc mắc được nêu lên. Rồi chư vị tỳ khưu ai về chỗ nấy, dũng mãnh thêm lên do nhờ niềm vui trong Giáo Pháp mà Ngài chỉ dạy, tiếp tục chuyên cần diệt trừ ô nhiễm. Những vị tỳ khưu này tập trung nỗ lực vào ba pháp tu giới, định, và tuệ cùng với các nhiệm vụ đi kèm khác, và thâu gặt thành quả tương xứng với mức độ phát triển và chín muồi của mỗi vị.
68
Mặc dù nhiều khi có nhiều vị tỳ khưu và sāmaṇera cùng ở chung một nơi dưới sự hướng dẫn của Ngài, nhưng hình như không có vấn đề điều hành khó khăn nào, bởi vì những người đến đây gặp Ngài đều có chung một mục đích là được tu luyện trong hệ thống thực hành của Ngài. Và mặc dù có rất đông tỳ khưu và sāmaṇera cư ngụ trong vùng mà Ngài Acharn lưu ngụ, một khách lạ đến viếng nơi này sẽ lấy làm ngạc nhiên thấy rằng hầu như không có ai xung quanh, nếu khách tình cờ đến vào lúc không có họp, như lúc độ thực chẳng hạn, hoặc giờ thuyết giảng. Ngoại trừ vào những giờ ấy, tất cả đều bận thiền hành hoặc thiền tọa quanh chỗ của mình.
Trong giờ thuyết giảng, chỉ nghe tiếng của Ngài Acharn, còn các vị tỳ khưu và sāmaṇera trong hội trường, dù đông bao nhiêu, đều ngồi hoàn toàn yên lặng. Tiếng nói của Ngài và Giáo Pháp mà Ngài giảng làm cho cử tọa vô cùng cảm kích và hoan hỷ, tất cả những người nghe đều say mê, thời gian hình như ngừng trôi. Cơ thể không thấy mệt mỏi hay cứng tê. Tâm người nghe hòa đồng với Giáo Pháp, mải mê nuốt mật ngọt của Giáo Pháp.
Mỗi buổi họp để nghe giảng đều kéo dài nhiều giờ và được xem là bài học thực hành để trau dồi cả định và tuệ. Vì lẽ ấy, các vị tỳ khưu hạnh đầu đà đặc biệt kính cẩn chú tâm lắng nghe với lòng nhiệt thành tôn trọng vị thiền sư và luôn luôn vui sướng thọ nhận lời chỉ dạy của Ngài. Đối với các vị tỳ khưu ấy, vị thiền sư là tất cả cuộc đời họ, và thậm chí còn hơn thế nữa. Ngài Ānanda xưa kia sẵn sàng hy sanh mạng sống để cứu Đức Phật khỏi bị voi hại khi Devadatta cho voi uống rượu say chạy tới, cũng do lòng sùng kính trong sạch này.
Mức độ mà vị tỳ khưu hạnh đầu đà đặt trọn vẹn niềm tin của mình nơi Ngài Acharn được thấy rõ ràng trong cách họ vâng lời thi hành những chỉ thị của Ngài. Mỗi khi Ngài bảo vị nào đi đến hay ở lại hang động hay vùng rừng núi nào, vị ấy liền sẵn sàng và tự nguyện vâng lời ngay, dù tất cả mọi người đều biết vùng ấy nguy hiểm đến đâu. Thay vì sợ chết, vị ấy rất hoan hỷ được sự tin cậy của Ngài khuyến khích, biết chắc rằng sai biểu như vậy là Ngài gián tiếp tiên đoán sự thành công sắp tới của mình. Sự tiên đoán này cũng tương tự như lời tiên đoán của Đức Phật rằng Đức Ānanda sẽ thành tựu Mục Tiêu Cùng Tột trong ngày Giáo Hội Tăng Già kết tập Tam Tạng Pháp Bảo. Niềm tin trọn vẹn và hoàn toàn đặt nơi vị thiền sư là rất quan trọng đối với hành giả vì nó củng cố năng lực của tâm định, gia tăng tiến bộ và do đó rút ngắn thời gian và đỡ vất vả cho thiền sinh cũng như thiền sư. Niềm tin như vậy tránh cho thiền sư phải lặp đi lặp lại lời giảng làm mệt người dạy cũng như người được dạy.
69
Chuyến thứ nhì trở lại vùng Đông Bắc – Cách chiến thắng kinh sợ
Nhân chuyến du hành của Ngài lên miền Đông Bắc, một số rất đông người được khuyến khích và nhiệt thành theo chỉ dẫn và hệ thống thực hành của Ngài. Ngài đi qua hầu hết các thị trấn, giảng dạy và khích lệ nhiều người ở mỗi nơi dừng chân hay lưu ngụ. Ngài thường lui tới qua lại nhiều lần các tỉnh Nakhorn Rājasīmā, Srisaket, Ubol Rajathani, Nakhorn Phanom, Sakol Nakkhorn, Udorn Thani, Nong Khai, Loey, Lomsak và Phetchaboon trong địa phận Thái Lan và Vientienne, Tah Kheak trong vương quốc Lào. Trong các vùng ấy và những vùng phía Nam và Đông Nam thị trấn Sakol Nakhorn có nhiều rừng rậm và núi lớn. Ngài thích lưu ngụ lâu dài ở đó để diệt trừ ô nhiễm. Một nơi hoang vu và có đồi núi cao trong làng Pone Sawang tại Sawang Dandin mà Ngài nhập hạ một năm, đến nay vẫn thường được các vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà lui tới.
Vào mùa khô, có thể thấy những vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà thích nơi hoang vu và cô độc đi du phương quanh vùng. Giường của họ, nếu có, là những chõng tre cỡ hai thước chiều dài, một thước hay thước rưỡi chiều ngang, cao độ năm tấc, làm bằng cây tre đập dập. Chõng như vậy chỉ giành cho một người. Các chõng tre ấy được sắp cách xa nhau khoảng ba hay bốn mươi thước, tùy khu đất của vùng rộng hay hẹp. Trong vùng rộng thì các chõng tre cách xa nhau hơn nhiều. Số hành giả ở trên một khu đất càng ít thì càng có thể cách xa nhau hơn để chỉ thỉnh thoảng họ ho hay hắt xì thì người khác mới nghe thấy. Cây cối và rừng rậm giữa các chỗ ở thì để nguyên rậm rạp, mỗi người ở chỗ mình không thể thấy người gần nhất. Thiện tín phát quang cho mỗi vị một đường kinh hành độ mười tới hai mươi thước dài. Đường kinh hành này được sử dụng ngày và đêm.
Nếu trong nhóm tỳ khưu có một vị sợ ma hay sợ cọp, Ngài Acharn chỉ định cho vị ấy ở vành đai của khu vực, cách thật xa các vị khác. Ngài làm thế nhằm tập cho vị này giải quyết tính sợ của mình. Vị tỳ khưu ấy được giúp cho nhận ra rằng nỗi kinh sợ của mình chỉ do trí tưởng tượng và tính lo nghĩ xa xôi của mình tạo ra những điều không thật sự có. Một khi có đủ khả năng khắc phục tính lo nghĩ xa xôi hoang dại về hiểm nguy và đau khổ, vị ấy sẽ đặt xuống gánh nặng lo âu, không còn phải bận rộn mang kinh sợ theo dính bên mình, bất luận đi đâu, bất luận ở đâu. Theo Ngài Acharn, phương pháp đương đầu
70
để chiến đấu với tính sợ sệt có lợi ích hơn là bỏ chạy, vốn là tự bó tay quy hàng, vĩnh viễn tự làm nô lệ cho nó.
Vị tỳ khưu đầu đà đương đầu với đau khổ như thế nào
Nếu không có chõng tre, các vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà sẽ ngủ dưới đất, trên một lớp lá khô hoặc lá tươi, hay nơi nào tìm được rơm thì lót nằm. Trong vòng tháng giêng và tháng hai âm lịch (khoảng tháng 12 và tháng 1 dương lịch), vào cuối mùa mưa, khí hậu rất khó chịu. Mỗi lần mưa đổ, các vị tỳ khưu bị ướt sũng, lạnh thấu xương. Nếu mưa suốt đêm ắt không có ai ngủ. Cái “klod” (cây dù của các vị tỳ khưu dhutaṅga) không đủ che chở hành giả khỏi thời tiết khắc nghiệt, khỏi sự tàn phá của bão kèm với mưa to trút xuống. Mỗi vị ngồi trong cái “klod” của mình trong đêm tối, run lập cập vì lạnh giống như người mù ăn xin nghèo khổ khốn cùng. Ban ngày thì hoàn cảnh có phần dễ chịu hơn đôi chút vì các vị tỳ khưu có thể nhìn được xung quanh để tìm cái gì đó để dựng một chỗ trú để che mưa.
Phải cất giữ kỹ cái y tăng già lê và hộp quẹt trong bát rồi đậy lại thật kín. Dùng lá y ngoại làm mền hay áo đi mưa, trùm lại trong cơn mưa. Bỏ mùng trong cái klod xuống để đỡ bị mưa tạt vào, nhưng nếu trời mưa về đêm hoặc mưa suốt cả đêm thì sáng ra y cũng bị ướt. Như vậy thêm vấn đề khó khăn khi đến giờ vào làng trì bình.
Trong ba tháng kế (tháng hai, tháng ba, tháng tư) trời bắt đầu ấm áp dần. Chư tỳ khưu giờ đây đi tìm nơi cao ráo, ẩn trú trong hang động hoặc dưới mỏm đá. Vào những ngày đầu tháng hai, tháng ba, các nơi này còn ẩm thấp và rất ướt át. Nếu lưu ngụ ở những nơi như vậy thì thường hay bị sốt rét hoặc rét rừng, một chứng bệnh trầm kha làm cho con người mau suy nhược mà vào thời bấy giờ không có thuốc chữa trị. Vị nào mang bệnh này thì phải chịu đựng cho đến khi tự nó chấm dứt. Chính người viết cũng bị bệnh sốt rét và cũng như mọi người, phải sống với nó cho đến khi hết bệnh. Tất cả các vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà trong vùng này, từ Ngài Acharn trở xuống, mỗi vị đệ tử của Ngài đều bị bệnh sốt rét, thậm chí vài người đã chết vì bệnh này.
71
Những mẩu chuyện về đoạn đường gian nan lao khổ này cho thấy lòng can đảm của Ngài Acharn và các đệ tử của Ngài chịu đựng mọi thiếu thốn và bao nhiêu đau khổ trong cuộc chiến cao cả đi tìm Giải Thoát. Chỉ sau khi can trường đối phó với tử thần và sống sót, các Ngài mới đảm nhận việc dạy dỗ kẻ khác, chia sẻ với họ những kinh nghiệm mà mình đã trực kiến được về niềm tin và phương thức thực hành đúng cách.
Nơi ma quỷ và thánh thần ngự trị
Quả thật không phải là quá đáng khi nói rằng trước thời Ngài Phra Acharn Sao và Ngài Phra Acharn Mun, miền Tây Bắc xứ Thái này do ma, quỷ và thánh thần ngự trị. Người dân muốn khởi công khai khẩn ruộng đất hay làm vườn, muốn dựng nhà hay làm bất luận gì khác, đều phải đi coi thầy cúng hay thầy bói để xem ngày lành tháng tốt, đúng năm may, đúng giờ hợp tuổi. Rồi họ được dạy phải bày lễ vật cúng tế để vái làm vui lòng thần thánh trước khi xúc tiến hay toan tính công việc gì. Nếu không làm như vậy, bất luận điều không may nào xảy ra, dù nhỏ mọn hay không đáng kể, cũng đều được coi là do ma quỷ hay thần thánh phẫn nộ. Thậm chí đến những cơn ho hen hay nhảy mũi, rất thường xảy ra đối với những con chó, cũng được xem là do cảnh âm gây nên! Không có chức năng nào của cơ thể mà được độc lập không bị ma quỷ kiểm soát và thầy bói vào thời bấy giờ quả thật toàn tri và toàn năng một cách bất ngờ. Họ luôn luôn tìm ra một duyên cớ để chứng tỏ rằng người nào đó đã làm điều gì xúc phạm đến thần thánh hay ma quỷ nên các vị ấy nổi giận, giờ đây phải có lễ vật cúng tế và van vái thì các bệnh như nóng, lạnh, ho hen hay nhảy mũi hoặc bất luận cái gì khác đều được chữa trị và tiêu trừ. Mặc dù là trong thực tế, triệu chứng của chứng bệnh vẫn còn, người ta vẫn nghĩ rằng vì thầy, “người của quỷ thần” đã nói, điều gì rồi cũng suôn sẻ, viên thành. Rồi do tự kỷ ám thị, lương y và bệnh nhân đều cảm thấy vững dạ, an lòng tin tưởng nơi cái được gọi là oai lực của thần thánh. Thuốc men không mấy quan trọng trong những trường hợp này.
Sau khi hai Ngài Acharn khuyên dạy và dựa theo chân lý của Phật Giáo thức tỉnh họ, lối mê tín dị đoan tin tưởng vào những nghi thức cúng tế quỷ thần để cầu mong xin xỏ điều gì dần dần giảm bớt trong lòng dân chúng. Nhiều vị được gọi là “người của quỷ thần”, giờ đây đã được thuyết phục về
72
chân lý, trở về quy y Tam Bảo, thay vì tin tưởng nơi ma quỷ và thần quyền. Đó là di sản mà hai Ngài Acharn để lại cho dân chúng miền Đông Bắc và di sản tinh thần ấy đến nay vẫn còn được bảo tồn ở nhiều nơi. Người qua lại vùng này không còn phải dẫm chân lên những lễ vật để cúng tế quỷ ma được bày bừa bãi ngoài đường như trong những ngày đã qua. Về phương diện này, người vùng Đông Bắc có thể nói là đã được giải phóng khỏi ách nô lệ của ma quỷ nhờ lòng từ bi dạy dỗ của hai Ngài Acharn. Người vùng Đông Bắc hàm ơn sẽ còn mãi mãi tưởng nhớ phần di sản cao cả và quý báu này.
Trả lời thẳng người hỏi thay vì trả lời câu hỏi
Nỗi bận tâm chính của Ngài Acharn Mun lúc nào cũng là tự mình trau dồi và phát triển nội tâm. Ngài cũng tận tâm giáo huấn người khác, cư sỹ tại gia cũng như chư tỳ khưu và sāmaṇera. Nó cũng có nghĩa là mục đích của Ngài là tạo nên một “người” từ một con người. Trên bước đường du phương vào xóm làng, Ngài gặp những vị cao minh, kiến thức rộng rãi, đến với Ngài để biện luận và chất vấn. Một vài đề tài thường được thảo luận liên quan đến sự hiện hữu của ma quỷ, thánh thần, con người phát sanh từ đâu, nguyên nhân phát sanh tình yêu giữa người nam và người nữ, giữa thú đực và thú cái, trường học nào dạy người và thú về tình dục. Ngài Acharn giải đáp những câu hỏi như vậy và người viết ghi lại tóm tắt sau đây những phần còn nhớ được.
Có ma quỷ không? Để trả lời câu hỏi này, Ngài Acharn nói: “Bất luận gì hiện hữu thì tự chính nó hiện hữu, dù là ma quỷ, yêu quái, thần thánh hay gì khác. Những thứ đó hiện hữu không phục thuộc vào việc có ai tin hay không tin, điều đó không thay đổi vấn đề. Nguyên nhân làm cho ta đau khổ vì sợ ma quái nằm trong lo âu và tưởng tượng của chính ta. Một cái tâm mà không “đi ra ngoài để tìm” những câu chuyện kinh sợ như vậy đương nhiên sẽ không bị kinh sợ làm cho chao động. Do đó, nỗi kinh sợ hiển nhiên là do trí tưởng tượng của ta tạo ra. Không phải ma thật làm ta sợ.”
Ma có thực sự hiện hữu như một thực thể hay không? “Mặc dù trong thực tế ma quỷ là có thật, nhưng vẫn không có bằng chứng cụ thể hiển nhiên chứng minh có thể thuyết phục người hoài nghi, bởi vì đa số không thể chấp nhận sự thật này. Một tên trộm bị bắt quả tang chẳng hạn, không mấy khi chịu nhận tội của mình. Dù có nhân chứng nhìn mặt rõ ràng, và như vậy là
73
bắt buộc phải thú nhận, tên trộm vẫn cố gắng tự bào chữa bằng mọi cách. Đến khi vào tù, nếu có người hỏi anh bị tù vì tội trạng gì, thông thường anh ta sẽ nói rằng anh ta bị tố cáo là ăn trộm. Nói cách khác, anh ta vẫn không chịu nhận tội. Đó là khuynh hướng chung của đa số.
Con người Được sanh ra từ Đâu? Ngài Acharn giải đáp cho người đặt ra câu hỏi một cách khá dứt khoát rằng con người được cha mẹ sanh ra chứ không phải được “sanh ra từ bụng cây” (như một thành ngữ Thái nói, hàm ý rằng đời sống phát sanh từ sanh vật có sự sống). Ngài cũng nói rằng một câu hỏi như thế đáng ra không nên nêu lên.
Nói cho đúng sự thực, con người được sanh ra từ vô minh và ái dục (avijjā và taṇha), nhưng giải đáp như thế không giúp ích gì cho người hỏi, vì có bao nhiêu người sẵn sàng muốn học điều này và chịu cố gắng cần thiết để giảm thiểu vô minh và ái dục của họ? Rõ ràng người hỏi muốn thử Ngài hơn là muốn tìm hiểu chân lý. Dù sao, nên ghi nhận rằng nguyên nhân sự sanh của mỗi người nằm trong tâm mình, vốn bị cái gọi chung là ô nhiễm (kilesa) chế ngự. Nếu chúng ta phân chia các ô nhiễm ấy ra từng thành phần, các phần như vậy có thể được gọi là vô minh, ái dục… như thấy trong Thập Nhị Nhân Duyên – do vô minh nên có tạo nghiệp, v.v.; do có sự chấm dứt vô minh, sự tạo nghiệp chấm dứt… Hãy nhìn thẳng vào tâm ta, ta sẽ có thể hiểu biết con người được sanh ra từ đâu và hiểu biết nguyên nhân sanh đau khổ và phiền lụy trên thế gian. Không cần phải hỏi ai khác, và cũng không cần tìm câu trả lời ở đâu khác. Chính vì chỉ hướng sự suy tư và sự chú tâm ra ngoài mà con người mù quáng, không nhận ra bản chất thật sự của mình, không nhìn thấy những vấn đề của mình và quan trọng hơn cả, không hay biết những ô nhiễm của mình. Một cái tâm hoang dại và không được tu tập như thế hẳn bị lòng tự cao, tự mãn và tật ngoan cố của mình ám ảnh.
Vì sao mà mặc dù không Được giáo dục theo cách thông thường, nam và nữ vẫn tìm Đến nhau Để yêu nhau? Câu trả lời cho câu hỏi này của Ngài Acharn thật là thẳng thắn và bạo dạn:
“Không có sách nào dạy dục vọng mà dục vọng cũng không được dạy trong trường học nào, và không bao giờ có vị thầy nào dạy. Dục vọng ở trong tâm người nam và người nữ (nghĩ rằng) họ đang yêu, và cũng ở trong tâm của loài thú, mà (chúng ta cho rằng) chúng yêu. Dục vọng làm cho con người cũng giống như loài thú không biết hổ thẹn, dù ở lứa tuổi nào, giai cấp nào, chủng tộc hay quốc gia nào. Không cố gắng kiểm soát hay kiềm chế nó, xã hội sẽ sớm sụp đổ vì tâm của con người sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ của nó tràn ngập, không thể cưỡng. Phần lớn những đau khổ không thể tả của thế
74
gian đều do ô nhiễm này gây nên, vì chúng ta còn tôn thờ nó như thần linh và khuyến khích thái quá. Một cái tâm bị dục vọng tràn ngập (trá hình dưới hình thức yêu) gây đau khổ cho chính mình và cho người khác, nhiều hơn một dòng sông ngập lụt có thể gây thiệt hại cho dân chúng. Điều quan trọng hơn là lụt bên trong tràn ngập tâm quanh năm, không biết mùa khô ráo. Dục vọng là nguyên nhân làm phát sanh (cái mà chúng ta giả tưởng là) tình thương giữa nam và nữ.”
“Dưới quyền điều khiển của dục vọng, nam và nữ tìm đến nhau để yêu và thỏa thích lẫn nhau. Nhưng tính cách gian xảo quỷ quyệt của dục vọng rất vi tế. Một đằng thì nó đưa đến tình thương, một đằng khác nó nuôi dưỡng sân hận và thù nghịch – những tư tưởng và những tâm tính suy đồi khác. Lúc thì nó đem người nam và người nữ lại gần nhau và tưởng chừng như đây là mối tình thiên thu; lúc thì nó kéo họ tách rời xa nhau, người này chống đối người kia cho đến lúc không còn nhìn mặt nhau, không chịu đựng nhau được nữa.”
“Quý vị đã từng có kinh nghiệm hai mặt của tình yêu chưa?” Ngài hỏi những người chất vấn.
“Bạch sư, chúng con đã có kinh nghiệm”, họ thú nhận. “Thành thực mà nói, chúng con rất chán ngán các cuộc cãi vã giữa vợ chồng chúng con nhưng hình như không thể làm gì khác. Nó chỉ xảy đến, hình như một cách tự nhiên.”
“Quý vị có thực sự chân thành cố gắng tự cứu mình không? Một lối sống như vậy quả thật là tiêu cực, tai hại chẳng những cho một mình quý vị mà cả đến con cái vô tội của quý vị. Khi chịu ảnh hưởng của sân hận trong những cơn giận dữ và thù ghét, quý vị hãy nhớ lại lúc yêu thương. Kết cục là cái nhìn toàn diện cả hai mặt của đồng tiền – yêu thương và thù ghét. Trong nhiều trường hợp, mỗi người đã tỏ ra mình có quyền hay mình hoàn hảo, quên lãng điều gì có thể làm và điều gì không. Một thái độ tinh thần như vậy không khác nào “lấy hai tay chặn nước đại dương”, chắc chắn là thảm hại chua cay và thất vọng – đó chỉ là phần thưởng cho một ước vọng không thể thực hiện. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho những người khác trong gia đình, bạn bè, và cho người khác nữa. Tuy nhiên, nếu có người không chịu chấp nhận chân lý này, khăng khăng cố bám vào một ước vọng không thể thành tựu, thì đó là sai quấy và lỗi lầm của họ. Người chấp nhận chân lý được chân lý nâng đỡ (nghĩa là nhờ khả năng chấp nhận chân lý).
Đó là lời dạy về tình yêu của Ngài Acharn.
75
Linh ảnh phát sanh khi hành thiền cần được khảo sát tỉ mỉ
Khi các tỳ khưu và cư sỹ hội họp quá đông tại một nơi, Ngài Acharn phân ra và chia giờ dạy từng nhóm. Thiện tín họp từ bốn tới năm giờ chiều, còn buổi tối (từ bảy giờ trở đi) dành cho chư tỳ khưu và sāmaṇera. Sau buổi họp, chư tỳ khưu và sāmaṇera trở về chỗ ngụ của mình, tiếp tục gia công tu tập trau dồi tâm.
Nên ghi nhận rằng đây là lối sắp xếp của Ngài để giảng dạy các chư tỳ khưu và thiện tín cư sỹ trong thời gian cư ngụ tại miền Đông Bắc lần thứ nhất và thứ nhì. Trong lần thứ ba tại Đông Bắc, sau khi từ Chiengmai ở miền Bắc trở về và lưu ngụ tại Udorn Thani, phương pháp của Ngài đối với chư tỳ khưu và thiện tín đổi thay nhiều. Điều này sẽ được đề cập đến trong phần sau.
Ngài đặc biệt đặt trọng tâm vào việc rèn luyện chư tỳ khưu và sāmaṇera. Mỗi khi có một vị phát triển một tuệ giác riêng biệt nào, dù là về nội tâm hay ngoại cảnh, Ngài Acharn đặc biệt chú tâm đến cá nhân vị ấy và kêu vị ấy đến chỗ ngụ của Ngài để Ngài theo dõi tỉ mỉ và xem xét tận tường. Mỗi hành giả có khuynh hướng và khả năng riêng biệt, do vậy thành quả thâu gặt cũng riêng biệt cho mỗi người. Mặc dù vậy, kết quả chung cho tất cả mọi người là tình trạng an lạc, thanh bình. Có vài vị thấy những chuyện xảy diễn bên ngoài như ma quỷ, hay chư thiên đến thăm, hoặc thấy tử thi, bộ xương trơ trọi hay chính mình nằm bất động như chết.
Đối với những hành giả sơ cơ, vừa mới đạt đến trạng thái tâm an lạc và còn thiếu kinh nghiệm, ắt không thể hành động đúng cách mỗi khi có hình ảnh gì. Hơn nữa không ai có đủ khả năng để phân biệt hình ảnh nào là thực sự xảy diễn, và cái nào không thật sự hiện hữu mà chỉ do trí tưởng tượng tạo nên. Khi thiếu khả năng tự quán trạch hay phân biệt những hình ảnh thì hành giả dễ trở thành nạn nhân của tình trạng tự thôi miên, xem tất cả những gì mình thấy là thật hay thật sự có.
Điều này rất có hại cho sự tiến bộ của họ. Trong thực tế, số thiền sinh kinh nghiệm như vậy chỉ có vài người, chừng năm phần trăm. Nhưng đối với những vị này, được tu tập dưới sự hướng dẫn của một vị thiền sư đầy đủ khả năng là điều tối quan trọng. Bằng không, họ sẽ lạc lối và đi lầm đường.
Lắng nghe những vị tỳ khưu hành đầu đà trình Pháp, tức là nói lên với vị thiền sư những gì xảy ra trong khi hành thiền, quả thật là một hứng thú. Càng
76
hứng thú hơn khi được nghe những lời chỉ dạy của Ngài đối với họ. Mỗi giải đáp đi sâu vào chi tiết và dựa trên lý trí, Ngài dạy họ làm thế nào để ứng xử phù hợp với mỗi hình ảnh trong mỗi trường hợp đặc biệt.
Có nhiều loại hình ảnh, và như vậy, có nhiều phương cách để ứng xử phù hợp với mỗi loại. Sau khi nghe giải thích, cuối cùng vị đệ tử có hình ảnh rất hài lòng, thỏa mãn với lời giải thích và cùng lúc, được khích lệ, phấn khởi, vững chắc trong pháp hành. Người không thấy hình ảnh gì thì mô tả cho Ngài Acharn họ hành thế nào và được an lạc, hạnh phúc ra sao. Lắng nghe những kinh nghiệm khác nhau của mỗi thiền sinh trình pháp là một niềm vui và một nguồn năng lực tinh thần đối với người cùng nhau tu học, cùng gia công nỗ lực theo một chiều hướng tiến đến mục tiêu chung. Có những vị, khi nhập cận định upacāra samādhi thì du hành trên các cảnh trời trong nhiều giờ. Cũng có những vị khác đi vào những cảnh đen tối cùng cực, và chạnh lòng xót thương cho những chúng sinh đang gặt quả xấu của nghiệp trong quá khứ. Những vị khác nữa có thể tới thăm cả hai cảnh vô hình này, và thấy những khác biệt cách xa giữa những hoàn cảnh sinh sống đó. Vài vị có thể hay biết rằng có chư thiên đến thăm mình và nghe được tiếng kêu của ma quỷ. Những người khác thọ hưởng hạnh phúc, an lạc, thanh bình nhờ tâm an trụ nhất điểm, tùy thuộc mức độ gom tâm hay định. Vài vị còn sơ cơ, tiến bộ từng lúc như các em bé mới chập chững biết đi, một lúc đứng lên rồi một lúc té xuống lại. Cũng có vị, khi nghe người khác trình pháp với Ngài Acharn thì quệt nước mắt vì sung sướng thấy chính mình cũng có những kinh nghiệm tương tự. Rồi cũng có những người giống như cái muôi nằm trong nồi canh hay nồi cari, không hay biết gì đến hương vị của canh hay của cari, làm mất danh tiếng của thầy. Trong một xã hội gồm đủ thành phần, tất nhiên có đủ hạng người. Người trí thì hiểu biết thế nào để chọn điều hữu ích và gạt bỏ những gì nguy hại.
Thân tâm tự do – Hạnh phúc và an lạc của vị tỳ khưu đầu đà
Trong chuyến đi lần thứ nhì lên miền Đông Bắc, Ngài Acharn lưu lại đây nhiều năm, mỗi năm nhập hạ tại một nơi. Sau ba tháng an cư kiết hạ, Ngài lại ra đi, tiếp tục trở lại cuộc du phương trong các vùng rừng núi hoang vu, buông
77
bỏ tất cả không nấn ná gì, người cũng như vật, như chim trời cất cánh tung bay, không mang gánh nặng nào khác hơn là thân mình và bộ lông. Cành nào chim cũng đậu, ao nào chim cũng đáp xuống kiếm ăn, không có bất kỳ luyến ái nào. Không cố giữ lấy gì với những ý nghĩ như cái cây này “của tôi”, hoặc đây là cái ao vũng “của tôi.” Cũng như vậy, vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà cũng có lối sống giống như chim, nhẹ nhàng và tự do như chim. Đúng rằng đối với đa số, loại hạnh phúc và nhàn nhã này quả thật khó hiểu, vì một người thường khó có thể sống theo lối này, bởi con người là một chúng sanh có lối sống hợp đoàn. Con người thích sống hợp quần, tụ hội với nhau và cùng ở chung với nhau.
Không phải tất cả mọi người đều có thể làm được như Ngài Acharn đã làm, sống cuộc sống khắc khổ, cuộc đời cương quyết và tinh tấn của một vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà. Đối với người thường, cố gắng làm như Ngài không khác nào bắt một con vật thường sống trên bờ thả xuống cho sống dưới nước. Tuy nhiên, khi tâm hòa hợp nhịp nhàng với Giáo Pháp thì thái độ của nó đảo ngược. Sống đơn độc và ẩn dật là hạnh phúc thực sự. Một người với cái tâm như vậy thích sống đơn độc một mình, đi đây đi đó một mình, hành động một mình. Tâm của vị ấy là một “cái tâm đơn độc” – đã vượt ra khỏi mọi vấn đề khó khăn và mọi phiền lụy, nhưng luôn luôn thấm nhuần hạnh phúc của Giáo Pháp. Như vậy, một người được diễm phúc có tâm nhất điểm, một cái tâm chỉ kiên cố bền chặt trong Giáo Pháp, cũng được diễm phúc có tâm không bị che lấp, sáng chói và an lạc thanh bình. Người ấy chỉ có thân, không còn gánh nặng nào khác nữa. Và tâm người ấy vượt ra ngoài mọi chao động. Nguồn hạnh phúc của một cái tâm như thế là vô tận và không biến đổi, không bị thời gian hay không gian hạn chế. Nó đã vượt lên trên tất cả mọi giả thuyết và mọi ảo tưởng sai lầm. Cuộc đời của Ngài Acharn là như vậy, luôn luôn sống trong trạng thái an lành và hạnh phúc, dù ngồi, đi, đứng, hay nằm hoặc hướng dẫn chư vị đệ tử tỳ khưu và cư sỹ thiện tín. Một số các vị đệ tử này cũng đã vững chắc tiến bộ trong định và tuệ, và cũng như Ngài, nhận lãnh trách nhiệm một cách hoàn toàn vị tha, tận tâm gánh vác việc dạy dỗ người khác cho đến ngày nay.
Đôi khi trên đường vào xóm trì bình trong buổi sáng, Ngài đề cập đến những con thú gặp bên đường, lấy đó làm đề tài giảng dạy, chỉ cho các đệ tử thấy nỗi gian lao khổ cực của những con thú ấy, đang gặt hái quả dữ của nghiệp bất thiện nào mà chúng đã tạo trong quá khứ. Ngài dạy không nên đối xử tệ bạc và khinh khi chúng chỉ vì chúng là thú. Vì trong quá khứ có lần đã gieo nhân xấu nên giờ đây chúng phải đau khổ gánh chịu hậu quả. Đời người
78
cũng thế, lúc thì phải gánh chịu quả dữ, lúc khác hưởng quả lành của những nghiệp quá khứ. Gà, chó, trâu, bò cũng thường là những đề tài để Ngài chỉ dạy. Một phần, có lẽ đó là vì Ngài động lòng bi mẫn, thương xót những con thú đang đau khổ. Phần khác, có lẽ Ngài muốn cho thấy rằng hiện nay chúng ta là người, nhưng vào một thời nào, cũng có lúc, ta mang lông đội sừng, và như vậy nên thận trọng. Phần khác nữa, tâm của chúng ta thay đổi vô chừng, luôn luôn chao động và phóng đi rất xa. Nó sâu kín lẩn núp và lừa đảo ta một cách rất xảo quyệt. Nếu không thận trọng đối phó đúng cách, không kìm giữ nó lại theo con đường chân chính thì mối nguy hiểm đang núp kín ấy vẫn còn trong tâm và không thể chấm dứt trạng thái tâm vọng động, hoặc không thể có an toàn do những ảnh hưởng nội tâm. Những đề tài trên đường trì bình có thể là hữu hiệu cho những ai biết lấy đó làm bài học.
Cách chư thiên tôn kính
Giao cảm giữa tâm và tâm
Trong thời gian lưu ngụ tại vài tỉnh thành Đông Bắc, Ngài Acharn biết rằng đôi khi có chư thiên trên quả địa cầu đến nghe Ngài giảng cho các đệ tử lúc về khuya. Cả chư thiên trên quả địa cầu và chư thiên ở cảnh trời đều vô cùng tôn kính Ngài. Mỗi khi xuống nghe thuyết Pháp lúc về khuya, những vị trời ấy không đi qua khu cư ngụ của chư Tăng mà đến bằng một ngả khác. Khi đến, các vị ấy đi nhiễu quanh Ngài Acharn ba vòng, luôn luôn để vai phải về phía Ngài. Rồi họ ngồi, tất cả giống nhau trong một tư thế, rất lễ phép. Vị lãnh đạo trình với Ngài từ đâu họ đến và muốn nghe Ngài giảng về điểm nào trong Giáo Pháp. Ngài Acharn chào đón bằng tâm và trong một lúc, “rút vào im lặng”, rồi xuất ra với một đề tài thích hợp với họ. Ngài bắt đầu thời Pháp, giải thích nhiều sắc thái khác nhau của Pháp làm cho họ hoan hỷ. Họ rất hoan hỷ cảm tạ Ngài bằng cách nói lên ba lần như người “Sādhu! Sādhu! Sādhu!” (có nghĩa “Lành thay”) mà chỉ ai có tai chư thiên mới nghe được họ, chứ những người có “tai sứ” hay “tai trầu không” không thể nghe được. Sau đó, một lần nữa, họ nhiễu ba vòng quanh Ngài như lúc đến rồi ra đi.
Cung cách ra đi của chư thiên thật là thanh nhã, dịu hiền và dễ mến, con người không thể sánh bằng. Có lẽ điểm khác biệt này là do cơ thể họ tế nhị
79
và nhẹ nhàng hơn người. Khi đi ra khỏi khu vực thiền viện hoặc nơi cư ngụ của chư tăng, họ bỗng nhiên dịu dàng tung bay lên không trung như bông gòn trước gió. Lúc họ đến cũng như vậy, họ tụ họp phía ngoài khu vực và từ ngoài, trang nghiêm kính cẩn tiến đến Ngài Acharn. Cách đi của họ quả thật đoan trang từ tốn trông rất đẹp mắt. Không phải như một vài nhóm người, chư thiên trân trọng giữ im lặng không một tiếng động khi đến gần người mà họ tôn sùng kính mộ. Có lẽ đây là điểm họ hơn con người (cho đến lúc nghe giảng Giáo Pháp vài người vẫn không thể ngừng chuyện). Trong khi nghe giảng, họ hoàn toàn tự chủ, không bao giờ nhìn ngó quanh quẩn, không bao giờ tự phụ, kiêu hãnh chen vào thời Pháp để chất vấn giảng sư.
Thông thường Ngài Acharn được báo trước về mục đích viếng thăm của họ. Chẳng hạn họ muốn đến vào lúc nửa đêm, thì chiều tối hôm đó Ngài đã biết. Trong trường hợp như vậy, Ngài hủy buổi họp của chư tăng tối hôm đó và ngồi thiền sau khi đi kinh hành. Gần đến giờ, Ngài (xuất ra khỏi tầng nhập định thứ ba gọi là appaṇā, toàn định) hạ xuống tầng (thứ nhì) upacāra samādhi, cận định7. Nếu họ chưa đến, Ngài nhập lại trạng thái toàn định một thời gian rồi quay lại cận định. Đôi khi họ đến sớm, chờ ở ngoài, những khi khác họ vừa đến và nhanh chóng tụ hội chật kín khu vực. Có khi họ xin đến vào lúc hai hay ba giờ sáng, rất ít khi ba giờ. Như vậy Ngài ngủ một chút sau khi đi kinh hành và ngồi thiền, rồi thức dậy đúng giờ hẹn.
Nhóm chư thiên đến nghe Ngài giảng ở vùng Đông Bắc không được đông đảo như những vị ở vùng phía Bắc. Nhưng cũng có vài vị lén đến nghe, khi Ngài giảng cho các vị tỳ khưu đệ tử. Khi biết điều này, Ngài Acharn liền ngưng giảng và giải tán buổi họp. Ngài ngồi thiền để giao tiếp với họ rồi giảng cho họ một thời Pháp. Khi họ ra về, Ngài tiếp tục những hoạt động hàng ngày đến sáng hôm sau.
Giao tiếp với chư thiên, những chúng sanh vô hình, là điểm đặc thù của Ngài. Lời hẹn không được xê dịch vì họ luôn luôn giữ đúng lời hứa và khiển trách vị nào đến không đúng giờ. Một đặc điểm khác của những chúng sanh vô hình này là họ rất kính nể và vâng lời vị lãnh đạo, luôn luôn lắng nghe và
7. Định, samādhi, ở tầng đầu tiên có tên là khaṇika, định tạm thời, hay tạm định. Đây là tâm an trụ tạm thời cho người chưa có rèn luyện tâm. Trạng thái tâm định này không đủ khả năng tiếp nhận những thông điệp từ bên ngoài, hoặc giao tiếp với các chúng sanh vô hình. Định, samādhi, ở tầng thứ ba được gọi là appaṇā, hay toàn định, trạng thái định trọn vẹn, quá thâm sâu để nhận các thông điệp từ bên ngoài và giao tiếp với chúng sinh vô hình. Tầng appaṇā toàn định này dùng để ẩn dật và nghỉ ngơi để tĩnh dưỡng tình thần, hoặc để củng cố tầng định thứ nhì có tên là appaṇā, cận định.
"""