🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ai giết anh em Ngô Đình Diệm Ebooks Nhóm Zalo 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm vietmessenger.com Quốc Đại https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 1/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm 1. Định mệnh an bài Sáng sớm ngày 2-11-1963, sau một đêm dài không ngủ, trong lúc tiếng súng vẫn còn nổ lẻ tẻ đâu đây với nhiều đám khói tại trung tâm Sài Gòn, từ các máy thu thanh phát ra lời loan báo của phe đảo chính, đã hạ được dinh Gia Long thủ phủ cuối cùng của chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng anh em ông Diệm đã trốn thoát. Khoảng 10 giờ cùng ngày, Đài phát thanh Sài Gòn loan một tin vắn tắt: “Anh em ông Diệm bị bắt tại Chợ Lớn, và đã tự tử”? Dư luận bàn tán xôn xao, phần đông nghi ngờ: Không tin anh em ông Diệm đã chết và nhất là không tin anh em ông Diệm tự sát. Vì ai cũng biết: Tổng thống Diệm là một trong những người ngoan đạo, mà Thiên Chúa cấm tự sát. Trong khi ấy phe đảo chính không cho biết thêm tin tức nào về cái chết của Diệm, Nhu. Và báo chí không dám nói rằng anh em ông Diệm bị giết. Ngày 6-11-1963, nhật báo New York Time in hình xác Tổng thống Diệm bị còng tay với lời chú thích “suicide with no hand” (tự sát không có tay). Có ý mỉa mai lời thông báo của phe đảo chính rằng anh em ông Diệm đã tự sát. Về sau, người ta đã có thể công khai nói rằng anh em cố Tổng thống bị giết. Nhưng ai giết? Và ai ra lệnh giết? Đó là một nghi vấn cho đến nay vẫn chưa hoàn toàn phơi bày ra trước ánh sáng. Người viết không dám làm công việc của một sử gia, mà chỉ muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc soi sáng cho một giai đoạn gay go của lịch sử, một giai đoạn đầy những biến chuyển và bí mật. Giây phút cuối cùng Trước khi nhận định toàn bộ về con người Ngô Đình Diệm và chế độ của ông ta chúng tôi xin ghi lại những giây phút cuối cùng của cuộc đời một Tổng thống “Việt Nam Cộng Hòa”. Nhân dịp tiếp các phái đoàn quân chính trong ngày 26-10-1963, Tổng thống Diệm, bằng một giọng ai oán, thoáng buồn ông nói: “Chế độ này tuy còn nhiều khuyết điểm, cũng còn hơn nhiều chế độ khác... Người ta chê là độc tài nhưng chỉ ngại còn những thứ độc tài khủng khiếp hơn. Tôi tiến thì theo tôi, tôi lui thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi”. Trong thời gian này tinh thần của Tổng thống Diệm đang trải qua cơn dao động cực độ. Những nhân vật gần ông đều nhận thấy ông trở nên nóng nảy bất thường, hay thở dài, nét mặt đăm chiêu thoáng buồn. Có lẽ Tổng thống Diệm đã linh cảm được tai họa sắp đến với ông ta, gia đình và chế độ. Ông Ngô Đình Nhu lại càng biểu hiện một cách mau chóng. Ông Nhu già hẳn đi, nét mặt chảy dài. Bức hình của ông Nhu đăng trên tuần báo Express số 909 - (15-12-1968) chính là mấy bức hình chụp vào những ngày cuồi cùng trong đời ông. Khuôn mặt ông Nhu càng in một vẻ căm giận cùng với vẻ đẹp của đường nét điêu khắc. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 2/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Tuy nhiên ông Nhu vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh và sẵn sàng đối phó... Sáng sớm ngày 30-10-1963 ông Diệm lững thững đi xuống vườn hoa trước cửa dinh Gia Long, ngắm mấy chậu non bộ nhỏ mới đắp xong và đặt dưới gốc cây. Ông bận bộ đồ xám nhạt, đội mũ len chống chiếc ba toong như khi đi thăm địa điểm dinh điền. Ông ngắm vài phút ngó lên bức ảnh lớn của ông treo cao đằng sau bàn giấy của ông Đổng Lý Bộ Phủ tổng thống rồi mỉm cười lên lầu. Tiếp khách lần cuối Ngày 31-10, hầm trú ẩn xây trong dinh Gia Long đã hoàn tất, để có thể chịu đựng được loại bom 500 kilôgam. Cũng vào ngày đó, ông Ngô Đình Nhu tiếp kiến các đại diện Ủy ban Liên hiệp Bảo vệ Phật giáo. Cùng ngày phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc về vụ Phật giáo miền Nam đáp máy bay ra Huế để tiếp tục cuộc điều tra. Đại sứ Cabot Lodge đã nhận được đầy đủ tin tức về kết quả và thái độ của Phái đoàn này tại Sài Gòn và thấy rằng sẽ bất lợi cho những toan tính âm mưu của ông. Vụ đàn áp Phật giáo phải được duy trì để lấy cớ lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm như ông Lodge mong muốn. Sáng 1-11 nhằm vào ngày lễ các Thánh, công sở đều được nghỉ, Tổng thống Diệm đã tiếp người bạn “đồng minh” Hoa Kỳ cuối cùng trong đời ông. Đó là Đô đốc Harry D.Felt, Tổng tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình dương. Đô đốc Harry D.Felt chắc hẳn biết rõ những gì xảy tới, trong mấy giờ nữa sẽ kết thúc chế độ của Tổng thống Diệm mà ông ta theo lễ nghi vẫn xưng tụng như một nhà lãnh đạo anh minh của miền Nam. Hồi 13 giờ 30 súng bắt đầu nổ từ nhiều nơi trong đô thành... Ai gây nên tiếng súng đó? Bắt đầu từ một thế lực nào? Tướng lãnh? Quần chúng? Mỹ? Thực ra, những âm mưu lật đổ Tổng thống Diệm đã sắp đặt từ tháng 5-1963, rồi được âm thầm tiến hành... Buổi tối ngày 28-10, do sự sắp xếp từ trước Trung tướng Trần văn Đôn đã tiếp xúc bí mật với giới chức Mỹ tại nhà một nha sĩ 1. Tướng Đôn luôn luôn nhắc nhở người Mỹ giữ bí mật hoàn toàn và không thảo luận vấn đề này với bất cứ một ai, ông ta đã cố gắng thuyết phục Đại sứ Cabot Lodge chấp nhận chương trình hành động của nhóm ông và làm như thế nào để Hoa Kỳ đồng ý cho bật đèn xanh càng sớm càng tốt. Lúc đầu nhóm đảo chính dự định khai hỏa vào ngày 31-10 (theo sự tiết lộ của Đại tá Lu Conein). Trước nữa, nhóm đảo chính cùng với sự đạo diễn của mấy chuyên gia CIA đã dự định đảo chính nhân ngày kỷ niệm 26-10. Nhưng đêm 25-10 ông Nhu đã nhận được báo cáo đầy đủ: Nhóm đảo chính với các tướng Đôn, Minh ra tay hành động trong cuộc duyệt binh tại đường Thống Nhất vào sáng 25-10. Dịp này sẽ bắt sống Tổng thống Diệm và ông Nhu sau đó sẽ thanh toán dinh Gia Long và thành Cộng Hòa. Vào phút chót, ông Sinh Trưởng phòng CIA Tòa đại sứ Mỹ (người thay thế Đại tá Rieharson) đã thông báo kịp thời cho Lu Conein biết là chưa thể bật đèn xanh bởi có kẻ trong Tòa đại sứ Mỹ tiết lộ cho ông Nhu. Hiển nhiên là Cabot Lodge đã đóng vai trò một nhà “lãnh đạo” đứng bật đèn cho cuộc đảo chính 1-11-1963. Cabot Lodge được coi như tiếng nói có thẩm quyền của phe “Tự do” Harriman. Những nguyên nhân nào khiến cho Mỹ phải gấp rút tìm mọi cách lật đổ chế độ Tổng thống Diệm? Hẳn nhiên, về phía Mỹ không phải là nguyên nhân Phật giáo. Đơn giản vì quyền lợi nước Mỹ trước hết. Cái gai chính yếu của Đại sứ Cabot Lodge cũng như Smith Conein và nhóm đảo chính là tướng Tôn Thất Đính. Làm sao nhổ được cái gai này? Tuy nhiên, cho đến ngày 28-11 tướng Đôn có thể đã tạm yên tâm về mặt tướng Đính. Điều mà phe đảo chính lo ngại nhất là Lực lượng đặc biệt của Đại tá Lê Quang Tung. Lực lượng này vẫn được coi như thành phần nòng cốt của chế độ Ngô Đình Diệm. Ngày 29-12, tướng Tôn Thất Đính với tư cách Tư lệnh Quân đoàn III (và từng là Tổng trấn Sài Gòn-Gia Định) ra lệnh cho các đơn vị thuộc Lực lượng đặc biệt di chuyển ra khỏi Sài Gòn. Đó cũng là một phần kế hoạch nhằm vô hiệu hóa những lực lượng trung thành với chế độ. Hơn nữa, tướng Đính đang được lòng tin cậy của ông Nhu. Theo dư luận đồn đại sau ngày đảo chính, ngày 1-11-1963 thì chính ông Nhu đã giao phó cho tướng Đính thực hiện một cuộc đảo chính giả với danh hiệu Bravo I và II nhằm phá vỡ kế hoạch đảo chính thực của nhóm tướng lĩnh đang liên kết với Cabot Lodge. Nếu thực sự cuộc đảo chính sẽ xảy ra, ông Nhu chấp nhận một cách không nghi ngờ việc tướng Đính “móc nối” với nhóm Đôn, Minh. Chính ông Nhu đã từng nói với tướng Huỳnh văn Cao: “Khánh với Đính là chỗ người trong nhà cả. Không lo”. Ông Nhu tuy cao tay lắm nhưng đâu có thể học được chữ ngờ qua trường hợp https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 3/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm của tướng Đính! Tương kế tựu kế, tướng Đính nắm cơ hội này để quật ngược lại thế cờ Không có sự tham gia của tướng Đính, cuộc đảo chính 1-11-1963 không thể thành công. Cái lối của ông Nhu là cái lối của một nhà chiến thuật và chiến lược, nhìn và tiên liệu quá xa phạm vi hạn hẹp của chiến thuật, giai đoạn. Hơn nữa, vì lòng tin cậy, ông Nhu đã chọn nhầm một người mà chính trước đây ông Nhu cho là “khó xài” Nhưng vẫn sử dụng vì cho rằng mình cao tay ấn. Mặt khác, trước đó Đại tá Đỗ Mậu quyền Giám đốc Nha An ninh quân đội, một môn đệ tin cậy của Ngô Đình Diệm đã phúc trình cho hai ông Nhu, Diệm biết VC 2 đang tập trung tại vùng ven đô và âm mưu đánh phá Sài Gòn. Dĩ nhiên đây chỉ là bản phúc trình giả với mục đích làm lạc hướng theo dõi của chính quyền và đồng thời có cớ để phân tán một số đơn vị trung thành của Diệm ra khỏi Sài Gòn. Như vậy phe đảo chính sẽ giảm thiểu được sức chống đối của phe Chính phủ 3. Hồi 12 giờ 30 ngày 1-11, tướng Trần văn Đôn cùng một số tướng tá nòng cốt triệu tập Hội nghị trong Bộ Tổng tham mưu với sự tham gia của hầu hết các tướng lãnh và một số Tư lệnh quân binh chủng. Tướng Tôn Thất Đính không có mặt trong Hội nghị này, lúc đó ông ta đang phải túc trực tại tổng hành dinh Quân đoàn III. Người thì cho rằng đến giờ phút quyết liệt, phe đảo chính vẫn chưa tin hẳn tưởng Đính. Và có lẽ đó cũng là lý do tướng Đính không có mặt trong Hội nghị quan trọng đó. Thiện chí nhà giàu Theo tiết lộ của Georges Chaffard qua bài báo tựa đề La paix manquée en 1963 4, để lôi kéo tướng Đính vào phe đảo chính, Mỹ đã trao cho tướng Đính một số tiền ứng trước là một triệu Dollars do kết quả sự thương lượng giữa tướng Đôn và Đại sứ Cabot Lodge ngày 24-10. Số tiền ứng trước này được coi là thiện chí cụ thể của Mỹ giúp phe đảo chính có chút phương tiện để thực hiện kế hoạch 5. Tưởng cũng nên nhắc lại, khoảng cuối tháng 10, dư luận trong chính giới và ngoại giao đoàn đã đồn đại về những hoạt động của nhóm mật vụ Pháp thuộc Sở “Hành Động” (Action) do tướng De Gaulle gởi qua Sài Gòn vì nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho hai anh em ông Diệm. Sáng 1-11, Đại sứ Cabot Lodge hướng dẫn Đô đốc Felt đến dinh Gia Long thăm xã giao Tổng thống Diệm. Nhân dịp này Tổng thống Diệm đã Cabot Lodge biết là đang có dư luận về một cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống. Ông Diệm nói như thế là có ý bảo cho ông Cabot Lodge biết, ông ta luôn luôn theo dõi đường đi nước bước của Mỹ trong âm mưu lật đổ chế độ hiện hữu. Đại sứ Cabot Lodge vẫn một nụ cười vồn vã hứa chắc với ông Diệm, nếu có sự chẳng hay xảy ra như dư luận đồn đại, người Mỹ sẽ đảm bảo cho cá nhân Tổng thống. Cũng vào khoảng thời gian đó, Đại tá Lu Conein đã đến gặp tướng Đôn và túc trực bên phe đảo chính trong suốt ngày 1 và ngày 2 tại Bộ Tổng tham mưu. Ông ta là trung gian giữa Tòa đại sứ Mỹ và phe đảo chánh. Hay đúng hơn, ông ta thủ vai trò của kẻ điều động và thực hiện kế hoạch đã được thảo luận và quyết định chung giữa Tòa đại sứ Mỹ và phe đảo chính 6? Khi ở dinh Gia Long trở về, Đại sứ Lodge đã nhận được đầy đủ tin tức từ Bộ Tổng tham mưu báo cáo cho biết kế hoạch tiến hành. Rồi một ngày trôi qua như mọi người đều biết, cuộc đảo chính hoàn toàn thành công với sự xuất hiện của các tướng lãnh mang danh xưng là những con người cách mạng và ở trong tổ chức mới, lúc đầu mệnh danh “Hội đồng các tướng lãnh” sau đổi thành “Hội đồng Quân nhân Cách mạng”. Nhằm vào đúng ngày lễ các đấng linh hồn, một trong những ngày lễ quan trọng nhất của tín đồ Thiên chúa giáo, hai anh em Tổng thống Diệm cùng bị thảm sát sau khi đã dâng trọn những lời cầu nguyện cuối cùng tại nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn, với sự chứng kiến của Linh mục Jean - Một Linh mục thuộc Hội Thừa sai Pa-ri (MEP). Chi tiết về cái chết của Tổng thống Diệm đến nay tuy không còn là điều bí mật song đã có quá nhiều những chi tiết mâu thuẫn nhau. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 4/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Trong những giờ phút cuối cùng, Ngô Đình Diệm đã tỏ ra hoàn toàn mệt mỏi và không còn tin tưởng bao nhiêu khi phe đảo chính báo cho anh em ông biết là đã bắt Đại tá Tung và ông này cùng lực lượng của ông đã đầu hàng phe “Cách mạng” 7. Tổng thống Diệm bây giờ chỉ còn đặt tin tưởng vào Quân đoàn 3 của tướng Huỳnh văn Cao và nhất là Quân đoàn 2 của tướng Khánh mà ông Nhu hoàn toàn tin cậy. Song tướng Cao đã không làm được gì khác hơn. Sư đoàn 7 nằm trong tay Đại tá Nguyễn Hữu Có phụ tá Tư lệnh Quân đoàn. Anh em ông Diệm chỉ còn lại lực lượng phòng vệ trong dinh. Tất nhiên lực lượng này không còn phương thế hoạt động nào khác hơn là đành thúc thủ trong bốn bức tường thành Cộng Hòa và dinh Gia Long. Trước một tình thế bi đát như vậy, ông Nhu quyết định ra đi - Tổng thống Diệm mặc nhiên chiều theo quyết định của em “Đi mô... đi thì đi...” Đó là lời nói gió cuốn mây trôi của Tổng thống Diệm. 8 giờ 30 Tổng thống Diệm, ông Nhu, Đại úy Đỗ Thọ và Đại úy Bằng rời khỏi dinh Gia Long trên bước đường của định mệnh. Khi tiếp thu dinh Gia Long, Trung tá Phạm Ngọc Thảo không tìm thấy anh em ông Diệm nên đã cấp báo cho tướng Trần Thiện Khiêm rõ. Tướng Trần Thiện Khiêm ra lệnh cho Trung tá Thảo phải tìm kiếm... Theo tiết lộ của những người trong cuộc, tướng Khiêm dặn Phạm Ngọc Thảo phải tìm mọi cách đón anh em ông Diệm, phải bảo vệ an ninh cho anh em ông ta, có được như vậy thì tướng Khiêm và phe của Trung tá Khải mới có thể thực hiện được kế hoạch lật ngược thế cờ. Khi được tin dinh Gia Long đã thất thủ thì lúc ấy chính là lúc trong Hội đồng Quân nhân cách mạng và nhóm tướng tá đảo chính cũng đã chia thành năm bảy phe qua những xu hướng chính trị và quyền lợi trái ngược nhau. Riêng Trung tá Phạm Ngọc Thảo từ trước ngày đảo chính đã có những liên lạc mật thiết với Đại tá Đỗ Mậu và tướng Khiêm. Ông Thảo là người được tướng Khiêm tin cậy và cả hai đều là những tướng tá được chế độ tin dùng. Riêng tướng Khiêm sau vụ đảo chính hụt, ông trở thành vị tướng lãnh thân cận của Tổng thống Diệm và được coi như người con “tin cẩn” trong gia đình Tổng thống. Trong đường lối và trong thâm tâm của phe Phạm Ngọc Thảo chỉ muốn thay đổi cơ cấu của chế độ mà thôi... Song tình thế đã biến chuyển khác hẳn và trái với ước mong của Phạm Ngọc Thảo từ buổi đầu. Ông Thảo hẳn đã biết rõ những xu hướng khác nhau trong Hội đồng Quân nhân cách mạng trong đó đã có một xu hướng chủ trương phải giết anh em ông Diệm để trừ hậu họa và đó cũng là chủ trương của một số nhân vật Mỹ mà ông Fisthel là đại diện. Ông này vẫn chủ trương: Chế độ Ngô Đình Diệm phải được cải tổ toàn bộ nếu Tổng thống Diệm không chịu thì Tổng thống phải ra đi hoặc bị thủ tiêu. Xu hướng thanh toán Tổng thống Diệm quy tụ ử mấy tướng lãnh đã sẵn lòng bất mãn với Diệm từ lâu... Đó là các tướng Trần Tử Oai, Mai Hữu Xuân. Mặc dầu những người như Trung tướng Trần văn Đôn từng được chế độ của Tổng thống Diệm đặc biệt ưu đãi, tin cẩn trong suốt chín năm cũng muốn thay đổi Chính phủ Diệm. Tướng Đôn liên tiếp được giao phó những chức vụ quan trọng, từ Tư lệnh vùng I đến Tư lệnh lục quân, rồi quyền Tổng tham mưu trưởng. Ba tướng Đôn, Kim, Oai được coi là thành phần nòng cốt của Hội đồng Quân nhân cách mạng. Người Mỹ tin cẩn vào tướng Đôn hơn cả. Sở dĩ tướng Dương văn Minh được Mỹ giao phó vai trò chính vì đối với quân đội lúc ấy và trong hàng tướng lãnh thì uy tín của tướng Minh nổi bật hơn cả. Có thể nói năm tướng Minh, Đôn, Kim, Oai, Xuân đứng riêng một phe. Chưa có chứng cớ nào rõ rệt để nói rằng tướng Khiêm, Đại tá Mậu, Trung tá Thảo đứng về một phe khác không mấy thân thiết và tín cẩn đối với phe kia. Nhưng dù sao tướng Khiêm vẫn là người tỏ ra ôn hòa với chế độ Ngô Đình Diệm mà chính ông ta đã trưởng thành trong chế độ ấy. Còn Trung tá Phạm Ngọc Thảo - một tín đồ Thiên chúa giáo có đầu óc tiến bộ và quốc gia cực đoan, kể từ biến cố Phật giáo, ông quyết liệt chủ trương phải thay đổi thành phần và cơ cấu của chế độ. Trung tá Thảo là người thứ nhất đã can đảm trình bày với tướng Khiêm đang nắm quyền Tham mưu trưởng Liên quân, cái trục hên lạc thân thiết của Trung tá Thảo: Thảo, Mậu, Tuyến. Thảo là bạn tâm tình của bác sĩ Trần Kim Tuyến và chính Thảo cũng đã thẳng thắn tỏ bầy ước vọng và kế hoạch của ông cho bác sĩ Tuyến rõ. Kể từ đầu tháng 5-1963 theo sự lượng tính và tiên liệu của bác sĩ Tuyến nếu không kịp thời có một chương trình hành động để cứu nguy chế độ thì khó lòng ngăn ngừa được cuộc đảo chánh. Trung tá Thảo cũng lo âu như thế. Từ khi ông Tuyến ra đi thì Thảo không còn gì ràng buộc mật thiết với chế độ. Song Thảo vẫn tiếp tục móc nối với một số tướng tá vẫn được coi là người của chính quyền, nhằm thực hiện một cuộc đảo chính cốt sửa sai, hơn là san bằng đồng thời có thể ra tay trước phe tướng Minh và vô hiệu hóa mọi âm mưu trong kế hoạch của họ và lật ngược thế cờ để nắm phần chủ động. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 5/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Thảo đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đảo chính 1-11-1963 và Thảo được đặt dưới quyền sử dụng trực tiếp của Khiêm. Dù chủ trương như thế nào, Thảo cũng đã là một trong những người thân tín của chế độ Diệm. Ông Thảo đã được Hội đồng Quân nhân cách mạng giao phó phần phát thanh. Đây mới là thứ vũ khí sắc bén nhất để xô đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Ví như không có phần phát thanh từ lúc đầu thì cục diện chưa chắc đã thay đổi mau lẹ. Khi phe Minh, Đôn, Kim nhận được tin Ngô Đình Diệm đang ở Chợ Lớn đã cấp tốc ra lệnh cho Đại tá Dương Ngọc Lắm đem thiết quân vận M 113 vào đón bắt. Đại tá Lắm lúc ấy đang nắm quyền Tổng giám đốc Địa phương quân (một trong số tướng tá được chế độ đặc biệt ưu đãi, tin dùng). Ông Lắm là người theo đảo chính vào phút chót. Tất nhiên là ông đã không được sự tin cậy của phe chủ chốt. Do đó, Mai Hữu Xuân được Minh chỉ định đi theo giám sát Lắm. Tóm lại, đã có hai toán quân vào Chợ Lớn tìm bắt anh em Tổng thống Diệm. Mỗi toán có thể nói thuộc về một phe, nhằm mục đích riêng. Nếu Trung tá Thảo biết rõ anh em ông Diệm đang ở nhà thờ Cha Tam thì cái chết đã không đến với hai anh em ông Diệm, ít nhất là đã cứu thoát được ông Diệm. Song Thảo lại chỉ đến lục soát nhà Mã Tuyên trong lúc anh em Tổng thống Diệm đang dâng lễ ở nhà thờ Cha Tam. Ông Thảo trở về tay không đồng thời cũng mang theo sự thất bại của nhóm ông. Và có phải chính ông Diệm báo tin cho Khiêm để nhận sự đầu hàng và cho biết đang ở nhà thờ Cha Tam không? Một nghi vấn cho rằng: Có lẽ viên sĩ quan tùy viên của ông vào phút chót đã phản phúc và báo cho phe đảo chính biết nơi hai anh em đang trú ẩn. Sự thực không phải Đại úy Đỗ Thọ đã phản phúc. Đại úy Đỗ Thọ được Tổng thống bảo đi gọi điện thoại về Bộ Tổng tham mưu cho Khiêm nhưng Thọ lại gọi điện thoại trực tiếp cho Đỗ Mậu là chú ruột của mình. Vậy thì hai anh em ông Diệm có đầu hàng phe đảo chính không? Những diễn biến tại dinh Gia Long và tại nhà Mã Tuyên từ 12 giờ 30 ngày 1-11-1963 đến 4 giờ đêm ngày 2-11 sẽ giúp cho sử gia sau này đi đến một kết luận rõ rệt hơn. Khi Đại tá Lắm đem quân đến nhà thờ Cha Tam thì lúc đó Hội đồng Quân nhân cách mạng vẫn chưa có quyết định dứt khoát về số phận chung của anh em ông Diệm. Một người trong cuộc cho biết: “Anh nào cũng run hết trước một quyết định dứt khoát quan hệ đến sự thành bại của cuộc đảo chánh”. Hội đồng chia thành 3, 4 phe: Một phe nhất định phải thanh toán ngay anh em ông Diệm. Tuy nhiên phe này chỉ rỉ tai bàn kín với nhau thôi. Phe khác chủ trương để anh em ông Diệm lưu vong ra ngoại quốc. Phe thứ ba giữ thái độ dè dặt... Phe quyết định thanh toán Diệm lấy cớ rằng, nếu anh em ông Diệm còn sống thì cuộc đảo chính sẽ bất thành, vì tay chân của ông không sớm thì muộn cũng sẽ phản công. Vả lại, phe này thấy rằng ngay trong Hội đồng Quân nhân cách mạng cũng đã quá phần nửa từng là người thân tín của Diệm và Nhu. Điều lo ngại hơn nữa là họ vẫn chưa nắm được tướng Tôn Thất Đính mà binh quyền đang nằm gọn trong tay Đính cũng như một số tướng tá khác như Nguyễn Khánh Quân đoàn II, Huỳnh văn Cao Quân đoàn IV, Cao văn Viên Tư lệnh nhảy dù và Huỳnh Hữu Hiền Tư lệnh Không quân (Hai sĩ quan Viên và Hiền đã thẳng thắn từ chối tham gia phe đảo chính). Giả sử nếu đưa anh em ông Diệm về trình diện Hội đồng Quân nhân cách mạng thì biết đâu sự hiện diện của anh em ông lại không thể làm nản lòng và gây xúc động lương tâm của những người thân tín cũ của ông. Nếu chỉ nhằm đến mục đích hoàn thành cuộc đảo chính và tránh mọi hậu họa thì phe này khi ra tay hạ sát Tổng thống Diệm cũng không có gì khó hiểu. Đao phủ Ai giết anh em Tổng thống Diệm? Theo Robert Shaplen trong cuốn The Lost Revolution thì có hai dữ kiện: Dữ kiện thứ nhất theo đó chính Mai Hữu Xuân đã ra lệnh giết anh em ông Diệm. Dữ kiện thứ hai và có đủ yếu tố thì chính Dương văn Minh Chủ tịch Hội đồng Quân nhân cách mạng đã trực tiếp ra lệnh hạ sát. Người thi hành lệnh đó là Đại úy Nhung. Trước vụ thảm sát này, một số tướng lãnh trong Hội đồng Quân nhân cách mạng đã phản đối và đặc biệt tướng Đính đã nổi giận dữ dằn, đập điện thoại và gục đầu khóc ngay tại văn phòng của ông ở trại Lê văn Duyệt (mặc dù theo ký giả David Habertam của tờ New York Time số ra ngày 6-1-1963 thì ông Đính là người phản bội ông Diệm, nếu không có sự phản bội của tướng Đính thì cũng chưa có cuộc đảo chánh 1-11-1963). Thi hài anh em Tổng thống Diệm được đặt trong hai bộ quan tài thuộc loại trung bình rồi được âm thầm an táng trong vòng thành Bộ Tổng tham mưu với sự hiện diện của người cháu gái. Hai anh em ông được làm thủ tục khai tử tại quận Tân Bình. Về nghề nghiệp của Tổng thống Diệm được ghi là Tuần vũ và ông Nhu là Quản thủ Thư viện. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 6/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Khi tướng Nguyễn Hữu Có làm Tổng tham mưu trưởng đã nghe lời một thầy địa lý và bói số cho rằng, nếu không cải táng anh em ông Diệm đến một nơi khác thì sẽ còn đảo chánh. Do đó di cốt anh em Tổng thống Diệm được đưa ra nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. -------------------------------- 1 Theo bản báo cáo mật của Cảnh sát đặc biệt thuộc thẩm quyền của ông Dương văn Hiếu - Phó tổng giám đốc cảnh sát quốc gia. 2 Thời đó chính quyền Sài Gòn gọi những chiến sĩ cách mạng là Việt cộng viết tắt là VC. 3 Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập ở miền Nam Việt Nam. 4 Tuần báo Express số 909. 5 Theo một tài liệu khác thì tướng Đôn đã nhận ba triệu đồng VNCH để chia cho các đơn vị tham gia đảo chính và các tướng lãnh khác. 6 Theo sự tiết lộ của Lu Conein thì ông được mời đến với tư cách Cố vấn Mỹ tại Bộ Nội vụ tham dự phiên họp thường lệ của Bộ Tổng tham mưu và sau khi đảo chính xảy ra thì tướng Đôn giữ khéo Lu Conein ở lại Bộ Tổng tham mưu như một thứ con tin và một bảo đảm an ninh cho các tướng lãnh. 7 Chỉ phe cánh đảo chính. 2. Người sống và người chết 1 giờ 30, Sài Gòn ngái ngủ trong ánh nắng gay gắt. Từng loạt đạn nổ làm thức giấc dân đô thành. Tin đảo chính lan truyền trong dư luận từ mấy tháng nay bây giờ đã thành sự thực. Nhưng ai làm vụ này và rồi sẽ ra sao? Ai sẽ lãnh đạo? Những khuôn mặt lớn nào sẽ xuất hiện? Lúc ấy, dám chắc rằng không một ai có thể nghĩ Phó tổng thống Thơ sẽ làm “Cách mạng”. Nhưng cũng không ai ngạc nhiên thấy Trung tướng Dương văn Minh trở thành Chủ tịch Hội đồng Quân nhân cách mạng. Sáng ngày 2-11-1963 Sài Gòn bừng bừng trong khí thế vũ bão. Đường phố đông nghẹt những người... Thế là cáo chung một chế độ! 9 giờ 15, Đài phát thanh loan tin: “Anh em ông Diệm và ông Nhu đã tự tử”. Tại sao lại tự tử? Từng đoàn thanh niên nam nữ kéo nhau đi đập phá trụ sở Việt Tấn xã và 9 tờ báo được coi là thân chính quyền Ngô Đình Diệm. 26 trụ sở các hội đoàn được coi là của chính quyền cũng bị đập phá tan hoang. Tướng Dương văn Minh trở nên một thần tượng mới. Tướng Đôn, Đính được suy tôn như các vị anh hùng lỗi lạc. Tư thất của một số nhân vật thuộc chế độ cũ cũng bị đám đông kéo đến đập phá. Thiệt hại nặng nề về tư thất là các ông Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỹ. Chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung trước hết là do kết quả của những chùm mâu thuẫn nội bộ và sự góp công lật đổ chế độ của một số viên chức thư lại chỉ biết cúi đầu thi hành, không có một sáng kiến làm mới và xây dựng chế độ. Anh đi đường anh tôi đường tôi Sự xuất hiện của tướng Khánh trên chính trường miền Nam cùng với sự ủng hộ tích cực của Mỹ qua vai trò của Cabot Lodge cùng hai ông Minh, Thơ đã trở thành những người bạn tâm giao, thân thiết. Ông Thơ, ông Minh cũng như tấm tình thân thiết đối với ông Ngô Trọng Hiếu và ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Khi đảo chính thành công thì tứ tài tử chia làm hai ngả: ông Hiếu và ông Nghĩa rủ nhau vào khám Chí Hòa. Ông Thơ và ông Minh lên đến hàng tột đỉnh “công danh”. Tại sao lại như https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 7/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm vậy? Một lớp người từng lương cao bổng hậu của chế độ cũ song một phần thì nối tiếp nhau đi vào khám Chí Hòa, hay nếu không cũng bị vong gia bại sản. Còn một phần khác nối đuôi nhau tiến lên theo ngọn triều đổi ngôi, chẳng qua đó cũng chỉ là bức tranh “vân cẩu” muôn đời của thế sự. Những lý do nào đã khiến cho đôi bạn Thơ, Hiếu trong phút chốc kẻ được trọng hậu như một vì “bán anh hùng” còn người bị lên án như một hung thần “tay sai” của vợ chồng ông Nhu? Trước năm 1954, khi ông Thơ còn làm Tỉnh trưởng Long Xuyên, thì ông Hiếu làm Trưởng ty Ngân khố và hai người trở thành bạn tri giao thân thiết. Ngoài tướng Minh với ông Hiếu, ông Thơ còn một người bạn tâm giao khác là ông Huỳnh Hữu Nghĩa nguyên Bộ trưởng Lao động. Phút chốc thế sự đổi thay, anh đi đường anh tôi đi đường tôi... Ngô Trọng Hiếu sau khi ra tù, ở ngay trong một căn nhà bình dân trong xóm Thị Nghè, sáng chiều leo lên chiếc Vespa cũ gỉ để đi dạy học, vào lớp nói tiếng Tây, thả đàn ngâm Kiều, đọc Chinh phụ ngâm. Đêm đêm nằm vắt tay lên trán mà suy ngẫm trò đời. Cựu Phó tổng thống Thơ từ ngày “thôi làm” Thủ tướng lui về vui thú trong cảnh tọa hưởng kỳ thành, lâu lâu đi Pháp một chuyến, đi Nhật một chuyến... Sự thực đối với chế độ cũ, Phó tổng thống Thơ đã có công với rất nhiều người. Nhờ sự đề bạt của Thơ mà nhiều người có lương cao, bổng hậu, áo đạt lên Tổng thống Diệm (Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập ngày 7-7-1954, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã đề nghị ông Ngô Trọng Hiếu là Tổng trưởng Thông tin nhưng có sự trục trặc nên ông Bùi Kiên Tín giữ chức vụ này). Chính ông Nguyễn Ngọc Thơ đã giới thiệu và vận động để Hiếu đi làm Đại diện Chính phủ tại Cămpuchia (hàng Đặc sứ). Sau này đôi bạn Hiếu, Thơ trở thành xa lạ nhau trước hết chỉ vì nguyên nhân: Hiếu được coi là người thân tín của Ngô Đình Nhu, còn Thơ lại được Tổng thống Diệm không những kính nể mà còn coi nhau như tình anh em. Ông Nguyễn Ngọc Thơ rất kiêng kỵ những ai được coi là “người” của ông Nhu. Tại sao như vậy? Báo chí ngoại quốc nói rằng tướng Minh bị ông Nhu ganh ghét và loại trừ. Điều đó có đúng không? Ông Cố vấn Nhu đã nghĩ về tướng Minh như thế nào? Nhất là vai trò của Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ra sao trong 9 năm của chế độ cũ và ba tháng sau đảo chính? Một công hầu Sau ngày 1-11-1963, một số đông chính khách đã có bụng mừng thầm là phen này thế nào họ cũng được Hội đồng Quân nhân cách mạng chiếu cố. Cụ thể hơn là cố làm sao vận động cho mình và phe đảng mình được tướng lãnh và các “Thầy” đề bạt vào ghế nào đó trong Chính phủ mới, mà tướng Dương văn Minh đang thăm dò để chọn một số vị “lương đống quốc gia” chèo lái con thuyền miền Nam Việt Nam trong một giai đoạn mới. Trong hai ngày 2 và 3-11 tướng Minh rất bận rộn và phải dành nhiều thì giờ tiếp xúc với một số chính khách có tên tuổi. Nhiều người được coi là có nhiều hy vọng được chỉ định làm Thủ tướng Chính phủ: Như Trần văn Vân, Phan Huy Quát, Vũ văn Mẫu, Trần văn Hương, Nguyễn Ngọc Thơ... Ai cũng tưởng Hội đồng Quân nhân cách mạng sẽ không bao giờ đề cử cựu Phó tổng thống Thơ làm Thủ tướng vì như vậy rất “khó coi” nếu xét về tình cảm và “không thể được” nếu xét về lý. Song như lịch sử đã diễn biến, cuối cùng chỉ có ông Nguyễn Ngọc Thơ được quân đảo chính lựa chọn. Nói là Hội đồng Quân nhân cách mạng lựa chọn chỉ là cách nói theo nguyên tắc và trên văn từ. Thực tế không phải như vậy. Bàn tay phù thủy https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 8/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Trước khi Đại sứ Cabot Lodge thừa lệnh Wasington cho bật đèn xanh vào giờ H để các tướng lãnh bắt tay vào đại sự thì cũng là lúc, trục liên lạc Wasington Sài Gòn bắt đầu hoạt động từng giờ từng phút. Công việc đảo chính đã trở thành “thứ yếu” Điều quan hệ nhất đối với Wasington là tìm được người thừa kế Chính phủ Ngô Đình Diệm cho hợp tình hợp lý. Cái tình ở đây phải hiểu là hợp với “hảo ý” của giới chức Mỹ, phải được lòng “các thầy” trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo và đồng thời có thể làm cho đồng bào Thiên chúa giáo được an tâm. Ông Lodge vốn là “cao thủ” trong ngành ngoại giao Mỹ và từ lâu bị nghi ngờ có những hoạt động riêng cho cơ quan CIA. Tuy vậy ông ta luôn luôn tỏ ra tôn trọng những nguyên tắc ngoại giao. Từ sáng ngày 2 ông Lodge đã tiếp xúc rộng rãi với ngoại giao đoàn nhất là mấy vị Đại sứ vốn được coi là “Voix” 1 có ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ tại miền Nam Việt Nam và cả khu vực châu Á. Tòa Đại sứ mà ông Lodge quan tâm nhất đó là các Đại sứ Anh, Đại sứ Nhật sau nữa là Tòa Khâm sứ đại diện cho Tòa thánh Vatican tại miền Nam Việt Nam. Dĩ nhiên là Tòa Khâm sứ đã hoàn toàn dè dặt và chỉ cư xử với ông Lodge theo mức độ ngoại giao bình thường. Lúc đầu đã có một vài ứng cử viên được giới chức Mỹ lưu tâm và dùng làm trái ball nhỏ để thăm dò. Đó là giáo sư Vũ văn Mẫu, cựu Ngoại trưởng của Tổng thống Diệm. Một vài người Mỹ thuộc phòng chính trị Tòa đại sứ Mỹ, cho rằng ông Mẫu vừa có tiếng trong giới ngoại giao, vừa có thành tích đối với Phật giáo nhân vụ giáo sư Mẫu “xuống tóc” và qua Ấn Độ hành hương để gọi là phản đối Chính phủ về vụ Phật giáo. Ông Mẫu lại là một luật gia tên tuổi khéo léo mềm mỏng. Tuy vậy, một vài người Mỹ không bằng lòng vì một điểm duy nhất: giáo sư Vũ văn Mẫu là người di cư. Lập trường của ông Mẫu lại không rõ rệt, ông không được lòng tin cậy của Phật giáo, cũng như các nhà “lãnh đạo mới”, đồng thời một số người khác lại coi giáo sư Mẫu như một người có trách nhiệm về sự ám sát tinh thần (Assassinat Moral) đối với chế độ của Ngô Đình Diệm. Theo giới am tường chính sự tại Hội đồng Quân nhân cách mạng thì ngay các tướng lãnh cũng “lờ mờ” không biết ai sẽ được chỉ định làm tân Thủ tướng và nhiều vị tướng trong Hội đồng cho đến phút chót mới biết được tin ông Thơ được chỉ định. Trọn ngày 3-11, giới chức Mỹ vẫn chưa dứt khoát “khuyến cáo” tướng Minh trong việc chỉ định ai. Ngoại trưởng Dean Rusk cũng như Thứ trưởng Harriman dĩ nhiên trong cương vị của mình không thể bày tỏ ý định nào. Nhưng qua những cuộc đàm đạo với Đại sứ Lodge và một số chính khách họ cũng đã hiểu được rằng: Người Mỹ muốn có một Thủ tướng thuộc tư tưởng “ôn hòa trung dung”, được hiểu theo nghĩa thư lại bàn giấy. Giới chức Mỹ muốn được tiếp tục đều đặn như không có chuyện gì xảy ra, nghĩa là ông Diệm chết là chuyện riêng, còn chế độ của ông thì vẫn cần phải duy trì, miễn sao thuận với tình cảnh mới. Sau này, người ta cho rằng, Đại sứ Lodge bị Phật giáo cho vào mê hồn trận và xỏ mũi và đồng thời Mỹ cũng như Hội đồng Quân nhân cách mạng đã bị chi phối bởi áp lực rất mạnh mẽ của phái Phật giáo. Sự thực như thế này: Hội đồng quân nhân cách mạng có thể chịu sự chi phồi mạnh mẽ như vậy, song ông Đại sứ Lodge thì không. Cái vẻ bên ngoài thì Đại sứ Lodge nghiêng hẳn về phía Phật giáo của các Thượng tọa Tâm Châu và Trí Quang. Nhưng trong đường hướng mới của Mỹ, ông Lodge đã “lựa chọn” phía Phật giáo Nam Việt (Mai Thọ Truyền). Đơn giản vì Phật giáo Nam Việt trong quá khứ được coi là hiền hòa, không có những tham vọng chính trị, là một tập thể tương đối thuần về phương diện tôn giáo. Hơn nữa phía Phật giáo Nam Việt sau ngày 01-11-1963 đã tỏ ra dè dặt hay đúng hơn là tách khỏi các thầy Tâm Châu và Trí Quang. Trong chiến thuật giai đoạn thì Đại sứ Lodge phải đi với Phật giáo của các Thượng tọa Tâm Châu và Trí Quang. Trong chiến lược và từ cục bộ đến toàn bộ, thì ông Lodge không thể sử dụng người của khối này trong tư thế Thủ tướng Chính phủ vì đây được coi là khởi điểm của lộ trình mới. Do lẽ đó, Đại sứ Lodge đã khuyến cáo tướng Minh nên tìm người này người nọ. Ông Lodge rất khôn khéo không chỉ rõ đích danh ai nhưng với một số tiêu chuẩn nào đó tướng Minh có thể tìm ngay được vị Thủ tướng hợp với ý ông lại hợp với ý Đại sứ Mỹ. Tuồng mới kép cũ Người đó, như lịch sử đã ghi: Theo Hiến ước tạm thời số 1: tướng Minh với tư cách Quốc trưởng đã chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ thành lập Chính phủ; Sắc lệnh lại do chính ông Nguyễn Ngọc Thơ ký đóng dấu. Thành phần gồm 14 Tổng Bộ trưởng chia ra 4 sắc thái rõ rệt: 1. Chuyên viên như kỹ sư Trần Ngọc Oánh, Phạm Hoàng Hồ, 2. Chính trị gia không “ưa” chế độ cũ (nhưng lại có ít nhiều liên lạc bí mật) là giáo sư Âu Trường Thanh, 3. Tướng lãnh gồm 3 vị được coi là thân cận của https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 9/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm tướng Minh. 4. Còn lại là các vị thuộc chế độ cũ từng là then chốt trong guồng máy của chế độ đó (từng là Tổng thư ký Phủ tổng thống như ông Nguyễn Thành Cung đến kỹ sư Trần Lê Quang là một chuyên viên được Tổng thống Diệm thương yêu và coi như người nhà. Một vài vị khác được coi là chế độ cũ nếu hiểu như một công chức và quân nhân của mọi triều đại). Những Tổng Bộ trưởng là người của chế độ cũ tuy được xài tạm, song trước hết phải là người của ông Thơ. Ông Thơ có thể chấp nhận một cách vui vẻ nếu cộng sự là “con cái” của Tổng thống Diệm song ông sẽ quay mặt đi và coi như kẻ đáng ghét nhất nếu ai đến với ông mà trước lại là con người được ông Ngô Đình Nhu tin cẩn trọng dụng. Đó cũng là đầu mối của tấn thảm kịch “của chế độ Ngô Đình Diệm”. Việc chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ được làm Thủ tướng mặc dầu người Mỹ đã lượng tính được sự bất hợp tác của Phật giáo và các đảng phái, nhất là ông Thơ lại không thể tìm được cảm tình đối với đa số Phật tử Hòa Hảo... Tất nhiên là Cao Đài cũng không ủng hộ. Biết như thế người Mỹ vẫn tiến hành và tích cực khuyến cáo tướng Minh. Bởi vì đơn giản là người Mỹ đã có sẵn một giải pháp mà ông Cabot Lodge đang bỏ túi. Tạm thời trong lúc chuyển tiếp phải có ông Thơ, cũng như khi “giải pháp” ấy được ném ra tức là lúc tướng Nguyễn Khánh được đem lên diễn đàn thì ông Lodge vẫn phải khuyến cáo tích cực để tướng Minh đóng vai trò “tạm thời trong lúc chuyển tiếp”. Chế độ Diệm không Diệm Dù không được lòng ai, dù bị mang tiếng đã làm sống lại một chế độ “Diệm không Diệm” song sự lựa chọn ông Thơ có nhiều cái hợp lý: 1. Ông Thơ là bạn tri kỷ của tướng Minh. 2. Ông Thơ đã quen việc trong 9 năm của chế độ cũ. 3. Ông Thơ trước sau vẫn là Đốc phủ sứ với tất cả ý nghĩa của giới này trước năm 1945. Ông Thơ dầu sao vẫn là một địa chủ nên người Mỹ có đủ yếu tố để tin tưởng vào lập trường địa chủ của ông, 4. Ông Thơ tuy làm quan lại thời Pháp nhưng không phải là mẫu người được Pháp đào tạo từ truyền thống văn hóa Pháp như ông Ngô Đình Nhu hay kỹ sư Trần văn Vân v.v.. Đó là điều mà người Mỹ rất ngại. Có một dư luận trong chính giới thân Mỹ lúc ấy là: Nếu không có sự thảm sát anh em Tổng thống Diệm thì Đại sứ Trần văn Chương đã trở về nước và ông có nhiều hy vọng là Thủ tướng. Song vì con rể ông bị ám sát, một nhạc gia tất nhiên không thể làm như vậy (đây chỉ là dư luận được tung ra để thăm dò tin tức vào lúc ấy. Cũng nên ghi thêm, ngày 28-10-1963 nguyên Đại sứ Trần văn Chương đã lên tiếng công kích nặng nề chế độ Tổng thống Diệm và con rể ông). Kể từ ngày 4-11, phe các tướng Minh, Đôn, Kim, Xuân, Đính trở thành ngũ hổ, song sự phân hóa trong Hội đồng Quân nhân cách mạng càng trở nên rõ rệt, mỗi bên đều đề cao cảnh giác. Một số các đơn vị tham dự đảo chính được điều động ra khỏi đô thành. Một số sĩ quan cấp tá như Phạm Ngọc Thảo bị theo dõi rất sát sao, Đại tá Đỗ Mậu được thăng Thiếu tướng, nhưng vô quyền (sau được bổ nhiệm là Tổng lãnh sự miền Nam Việt Nam tại Hồng Công). Tuy mấy tướng lãnh như tướng Xuân, Đôn, Đính, Kim... đang có thực quyền sinh sát song sự hiện diện của một vài tướng lãnh cũng như sự xuất hiện của cựu Trung tá Trần Đình Lan đã làm cho giới chức Mỹ không hài lòng. Người Mỹ không những “kỵ” văn hóa Pháp mà “kỵ” cả những ai bị nghi ngờ “người của Pháp”. Như thế ta cũng hiểu được rằng, trong lúc mà Mỹ tin tưởng sẽ chiến thắng Cộng sản bằng con đường và nhận thức của Mỹ, thì ở đây, Mỹ có thể chấp nhận Cộng sản nằm vùng (nếu sự nằm vùng có lợi thế về phía Mỹ) song không thể chấp nhận sự hiện diện và thao túng của Phòng Nhì cũng như các tay phản gián Pháp. Đó cũng là lý do khiến Trần Đình Lan cũng như Vương văn Đông đã phải cuốn gói ra đi mặc dù hai người này đã có thành tích “diệt Cộng” khét tiếng những năm 1954 (Thực ra thì cơ quan CIA Mỹ cũng biết rõ rằng, Trần Đình Lan hay Vương văn Đông sẽ không làm nên trò trống gì nhưng họ lại dùng hai sĩ quan thân Pháp này như một bằng chứng cho “hồ sơ” được gọi là trung lập của bộ ba Minh, Kim, Xuân và bằng chứng đó là một phần “luận cứ” để biện minh cho cuộc chỉnh lý của tướng Khánh). Bàn tay móc nối Khi Phó tổng thống Thơ được chỉ định làm Thủ tướng và thành lập Chính phủ, đồng thời là lúc các đảng phái, Phật giáo cũng tiêu tan hy vọng mà họ vẫn hướng về Hội đồng Quân nhân cách mạng, coi như đấy là nơi sẽ có nhiều phép lạ xây dựng cơ đồ cho Việt Nam. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 10/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Thủ tướng Thơ trả lời báo chí là Thủ tướng đã có ý định từ chức Phó tổng thống từ dạo tháng 9 tháng 10... nhưng Trung tướng Dương văn Minh cản ngăn (?) vì sợ hỏng chuyện. Thủ tướng Thơ cũng cho biết ông có biết những kế hoạch lật đổ Tổng thống Diệm. Sau này, một vài người bạn rất thân của Thơ cho rằng, đó chỉ là cách Thơ biện minh cho sự hiện diện của mình khi được “cách mạng” trọng dụng. Sự thực, trước ngày 1-11-1963 kể cả bạn bè thân của Phó tổng thống Thơ chưa bao giờ thấy ông ngỏ ý từ chức Phó tổng thống, ông Thơ chỉ thực sự bị buộc từ chức Phó tổng thống khi cuộc đảo chính thành công. Vai trò của ông Nguyễn Ngọc Thơ đã liên hệ như thế nào đối với Tổng thống Diệm và Trung tướng Dương văn Minh sau này? Trước hết, tướng Minh khi còn là Trung tá đã được ông Nguyễn Ngọc Thơ đề đạt với Tổng thống Ngô Đình Diệm (1954) và cũng nhờ sự đề đạt của ông Thơ nên ông Diệm đã một thời hoàn toàn tin cậy tướng Minh. Khi Diệm còn hoạt động ở trong bóng tối, Huỳnh Hữu Nghĩa được coi là “cán bộ” giao liên tin cẩn. Chính ông Nghĩa đã có công “móc nối” giữa anh em Tổng thống Diệm và Trung tướng Trịnh Minh Thế. Đồng thời Tổng thống Ngô Đình Diệm quen biết Thơ lại là người móc nối Trung tá Dương văn Minh (1954) với Diệm. Đó cũng là cái “vòng vo thân hữu” trong giới chính trị miền Nam. Nhờ cái “vòng vo thân hữu” đó, nhiều khi không cần tài cho lắm, song nếu có anh em đưa đẩy đề đạt thì vấn đề tạo lập công danh kể như chuyện đi du ngoạn lại trúng số mà thôi. Địa phương Khi Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, có hai vấn đề mà Diệm quan tâm bậc nhất về phương diện nội bộ: 1. Yếu tố nhân sự và vấn đề nhân sự miền Nam. 2. Thành phần lãnh đạo trong quân đội. Ngô Đình Nhu mấy năm đầu vẫn quan niệm dứt khoát rằng: Bắc-Nam-Trung không thành vấn đề. Điều quan trọng họ có làm được việc không. Song Diệm tế nhị hơn ông em điều này: “Phải dùng người sinh quán tại miền Nam ít nhất cũng phải theo một tỷ lệ tương đối so với dân số nam phần”. Cũng bởi lý do đó, ngay từ buổi đầu, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã được Tổng thống Diệm lưu tâm đặc biệt ông Thơ lại có một quá khứ “hành chánh” hợp với nhãn giới của Diệm vì Thơ là một Đốc phủ sứ. Theo quan niệm của Diệm thì đó là một giới “biết việc” cho nên không chỉ một Đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Thơ được trọng dụng mà nhiều Đốc phủ sứ được Diệm đặc biệt cất nhắc, như trường hợp Đốc phủ sứ Hải, Đốc phủ sứ Công. Ngô Đình Diệm lại dùng Thơ như một tâm điểm để móc nối với hàng ngũ quan lại và địa chủ lại miền Nam. Trong hai năm đầu (1954-1956) Thơ đã thành công trong nhiệm vụ này. Uy tín của Thơ đối với Diệm ngày càng vững chắc, nhất là Thơ được coi như người có công lớn trong vụ tướng Hòa Hảo Ba Cụt cùng các vụ dàn xếp với mấy nhóm Hòa Hảo khác 2. Trong chế độ Ngô Đình Diệm có hai người được Diệm kính nể đó là Vũ văn Mẫu và Nguyễn Ngọc Thơ. Riêng ông Thơ, Diệm thường xưng hô là “Ngài”. Diệm thường nói với Thơ đại khái như: “Ngài thấy thế nào... Ngài đi thế tôi giùm việc này...” Trong những lúc không có mặt Thơ, ông Diệm vẫn thường: Một tiếng Phó tổng thống, hai tiếng Phó tổng thống. Cụ Phó như thế, Ngài như vậy. Rất ít khi Tổng thống Diệm gọi Thơ bằng “ông”. Về phía quân đội, khi về nước chấp chánh, Diệm coi như “tay trắng” không - có một tên quân, không có một tướng tá nào được coi là “người của mình”.. Trong lúc hoàn toàn thiếu người tin cẩn trong giới quân sự, Nguyễn Ngọc Thơ đã đề đạt Trung tá Dương văn Minh. Tất nhiên là Diệm rất hoan hỉ chấp nhận. Từ đó Trung tá Minh được coi là sĩ quan cấp tá được Diệm yêu mến tin cẩn nhất. Trung tá Minh lần lượt được trao phó các chức vụ quan trọng như Tư lệnh chiến dịch Rừng Sát và Chiến dịch bình định tại miền Tây. Diệm vẫn thường coi tướng Minh là một thứ “homme de bataille”... Sau vụ chiến thắng Rừng Sát, Đại tá Minh dẫn đầu đoàn quán tiến về Sài Gòn đi trên đại lộ Catinat rồi về dinh Độc lập... trước bao nhiêu tiếng hoan hô vang dậy. Báo chí lại được dịp thổi phồng, tán dương rất bay bướm. Tổng thống Ngô Đình Diệm buổi sáng hôm ấy đã đứng sẵn ở thềm dinh Độc Lập để dón mừng “Người anh hùng Rừng Sát”. Sau này Diệm thăng Đại tá Minh lên Thiếu tướng. Tướng không quân Xét về hai con người, thì một Phó tổng thống Thơ và hai là tướng Dương văn Minh, thì tướng Minh được Tổng thống Diệm trọng hậu ngay từ buổi đầu và nổi bật một cách dễ dàng. Minh trở thành ngôi sao sáng trong hàng tướng tá kể từ đầu năm 1955. Còn Thơ phải đợi đến năm 1956 mới được bổ nhậm Phó tổng thống, mặc dầu đã tham gia Chính phủ đầu tiên của Tổng thống Diệm với tư cách Bộ trưởng Nội vụ (7-7-1954) song vai trò của Thơ còn lu mờ và chỉ như một viên chức phụ tá Thủ tướng. Tướng Minh càng ngày càng được Tổng thống Diệm tín nhiệm và yêu mến nhờ hội đủ được mấy điều kiện mà Diệm cho là xứng đáng theo hai tiêu chuẩn. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 11/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm 1. Tướng Minh có vóc dáng một tướng lãnh đường hoàng. 2. Tướng Minh không có những vụ lem nhem về vấn đề “vợ nọ con kia hay bài bạc”. Hơn nữa, do sự kính mến Thơ nên Diệm cũng mến trọng Minh. Khi thành lập Bộ Tư lệnh hành quân Minh được chỉ định là Tư lệnh, lúc ấy Minh đã đeo ba sao và nguyên là Tư lệnh Quân khu Thủ đô 3. Giới thân cận với Diệm cho rằng Diệm đặc biệt lưu tâm đến Bộ Tư lệnh hành quân nên đề cử tướng Minh. Diệm coi đó là một tín nhiệm đặc biệt. Diệm rất mù mờ về lĩnh vực quân sự, hai tiếng “hành quân” đối với Diệm là một sự trọng đại. Khi chỉ định tướng Minh, Diệm đã cho rằng: Chỉ có tướng Minh mới xứng đáng, vì Tổng thống vẫn cho rằng tướng Minh là một “homme de bataile”. Tuy vậy, tướng Minh lại không mấy ham ở chức vụ “không quân” này. Tướng Minh thường tỏ ra không thiện ý với vị Trung tướng Tư lệnh Quân khu Thủ đô (trước ngày 11-11-1960). Tướng Minh vẫn phê bình công khai viên Trung tướng này “nhảy dù - đi tắt”.. Trước vụ 11-11-1960, chế độ cũ không hề thắc mắc tướng Mình, vì coi ông như người thân tín của “ông Diệm”. Nhưng sau ngày 11-11-1960, vì tướng Minh tuyên bố đứng trung lập giữa chính quyền và phe đảo chánh 4 rồi lại có báo cáo là trước ngày đảo chính tướng Đôn có vào Sài Gòn và gặp tướng Minh cũng như tướng Kim ở ngay Bộ Tư lệnh Hải quân, đó cũng là một lý do làm tướng Minh xa dần chế độ. Nước với lửa Giữa tướng Minh và ông Ngô Đình Nhu ít có sự liên lạc. Người thân cận nhất của Ngô Đình Nhu hiểu rõ hơn ai hết là Nhu để ý tướng Minh qua một vài biến cố quan trọng, như vụ Rừng Sát, chiến dịch thanh toán các lực lượng võ trang Hòa Hảo, vụ đảo chính hụt 11-11-1960, mặc dù Nhu có đọc trên báo Journal Extrême Orient thấy tường thuật tướng Minh tuyên bố “Je reste neutre” Nhu cũng làm thinh. Thực ra thì Nhu không để ý đến tướng Minh. Vì có “máu say” chính trị nên tướng lãnh như tướng Minh dưới mắt ông cũng chỉ là nhà quân sự bình thường. Nhu cho rằng tướng Minh có tài chiến đấu nhưng ở một mức nào thôi chứ không phải là một chiến lược gia quân sự. Nhu bắt đầu để ý tướng Minh kể từ tháng 9-1963, khi có những tin đồn về một cuộc đảo chính của tướng lãnh. Nhưng tại sao tướng Minh lại “kỵ” ông Nhu và cho rằng ông Nhu “ghen ghét” với mình? Theo báo chí có một phần lý do thầm kín như thế này: Sau vụ thanh toán Bình Xuyên tại Sài Gòn và Rừng Sát, dân chúng loan truyền “huyền thoại” nhằm suy tôn tướng Minh, là tướng Minh tịch thu được bao nhiêu vàng bạc đều đem nộp cho Tổng thống. Lại có một nguồn tin khác trong giới chỉ huy quân sự tại Sài Gòn dạo ấy là, khi tướng Minh là Tư lệnh hành quân đi dẹp Bình Xuyên, tịch thu được rất nhiều “bao bố” giấy bạc. Nhiều bao bạc bị rơi xuống nước nên ướt đẫm. Số giấy bạc này được mang về phơi khô và “ủi” cho phẳng phiu ngay tại dinh Tỉnh trưởng Chợ lớn. Sau đó, không hiểu được đem đi đâu và chia phần cho những ai? Có điều rõ rệt là chính quyền hồi đó không nhận được một đồng xu nào trong số bạc lớn này nếu có. Tuy vậy, chính quyền cũng không thấy lên tiếng về vụ tướng Minh đem nộp vàng bạc của Bình Xuyên cho Tổng thống Diệm cũng như số bạc lớn trên đây nếu có thì bỏ vào túi riêng của những ai? Phải chăng vì thế mà có sự tránh né. Một lý do khác nữa khiến tướng Minh “kỵ” ông Nhu, đơn giản vì Phó tổng thống Thơ cũng “kỵ” ông Nhu. Tuy được Tổng thống Diệm kính nể song Thơ lại tỏ ra không hài lòng với ông Nhu. Thường ngày, Thơ vẫn phải vào dinh nhưng chỉ vào thẳng văn phòng Tổng thống, đệ trình công việc có khi hàng tháng mới gặp ông Nhu một lần và hai người cũng chỉ trao đổi vài câu thăm hỏi xã giao. Ông Nhu thì cho rằng Thơ không biết gì về chính trị và cái khả năng hành chánh của Thơ cũng đã quá lỗi thời. Nhưng ông anh kính mến Thơ thì ông em cũng phải kính mến... Dưới mắt ông Nhu, Phó tổng thống Thơ cũng là người “được việc”, nhất là chịu khó đại diện cho Tổng thống trong các buổi hội hè, lễ nghi. Sự thực Nhu không bao giờ hỏi han Phó tổng thống Thơ về các việc chính trị, Nhu cho rằng Thơ không có khả năng trong lãnh vực này. Ông Nhu không ghét ông Thơ trái lại tỏ ra có thiện cảm, nhất là ông Thơ lại khôn khéo và luôn luôn tỏ ra khiêm tốn bình dị (Tuy là Phó tổng thống nhưng mỗi lần Thơ đi đâu đều im lìm... không kèn trống ồn ào, không cả xe hộ tống, ông lại có thói quen ngồi cạnh bên tài xế). https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 12/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Vào năm 1957, khi tiễn chân Tổng thống Diệm đi công du tại Mỹ, Phó tổng thống Thơ gặp ông Nhu tại Phi trường Tân Sơn Nhất đã nói nhỏ với ông Nhu: “Tôi không hiểu tại sao ông bác sĩ Tuyến cứ cho người theo dõi tôi hoài”. Mấy hôm sau, ông Nhu nói lại việc đó với Tuyến “Làm thế nào mà ông Phó tổng thống lại phàn nàn như vậy”. Bác sĩ Tuyến rất đỗi ngạc nhiên vì không cử người làm việc đó. Và cũng không nghĩ đến làm việc đó. Tới lui đúng lúc Ông Nguyễn Ngọc Thơ đã có một hành động hết sức đẹp trong dịp cải tổ Chính phủ ngày 24-9-1954 (với sự tham gia rộng rãi của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo) hành động đó như sau: ông Thơ nguyên Tỉnh trưởng Long Xuyên vốn là khu vực được coi như lãnh thổ của Hòa Hảo, giáo phái này đã từ lâu tỏ ra “thiếu thân thiện”, nếu không nói là hiềm khích đối với ông Thơ. Sau khi trở thành Bộ trưởng Nội vụ của Chính phủ Ngô Đình Diệm, ông Thơ lại càng bị Hòa Hảo nghi ngờ. Trong lần cải tổ Chính phủ vào tháng 9 kể trên, phe Hòa Hảo Trần văn Soái “lên tiếng” với Ngô Đình Nhu rằng: Họ chỉ tham gia Chính phủ với điều kiện này điều kiện kia trong đó có điều kiện không chấp nhận sự có mặt của Thơ trong thành phần nội các mới. Tổng thống Ngô Đình Diệm phản đối với lý do, từ ngày ông Thơ lên làm Bộ trưởng Nội vụ cho đến lúc ấy, chưa có một lầm lỗi nào, trái lại ông đã làm việc một cách tận tâm đắc lực. Ngô Đình Diệm nhất quyết không nhượng bộ phe Trần văn Soái về điểm này. Khi hai bên Chính phủ và Hòa Hảo còn đang tranh cãi, ông Thơ biết sự việc này, chính ông nói với Diệm xin tự ý rút lui để Diệm xử trí với phe Hòa Hảo. Vì biết phe Hòa Hảo coi Thơ như kẻ thù, Ngô Đình Diệm tìm cách để Thơ “vắng mặt” một thời gian, đó cũng là ý muốn của ông. Vì vậy, Thơ được bổ nhiệm làm Đại sứ cho Chính phủ miền Nam Việt Nam của Ngô Đình Diệm tại Nhật Bản. Vào tháng 4-1955 sau khi Chính phủ Liên hiệp quốc gia tan vỡ, Trần văn Soái, Lương Trọng Tường từ chức... Hòa Hảo chống lại Chính phủ Ngô Đình Diệm và miền Tây mịt mờ khói lửa, ông Đại sứ Nguyễn Ngọc Thơ được gọi về nước, vẫn giữ nguyên chức vụ Đại sứ, song ông được Tổng thống Diệm giao cho nhiệm vụ đặc biệt là giải quyết tất cả những vấn đề chính trị tại miền Tây. Ông Thơ được coi là đại diện Thủ tướng Chính phủ Ngô Đình Diệm trong việc kiểm soát chiến dịch bình định và thu xếp vụ Hòa Hảo. Sau khi vụ Hòa Hảo được coi như là thanh toán xong, ông Thơ trở lại Nhật, đó cũng là ý muốn của ông. Thực ra thì ông Thơ muốn “làm mờ” vai trò của mình trong vụ Hòa Hảo nhất là vụ bắt tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh mà ông Thơ là người có trách nhiệm. Ông trở lại Nhật mặc dù Diệm có ý giữ ông ở lại nước nhận một chức vụ quan trọng hơn. Ngày trở về Tháng 3-1956, tướng Hòa Hảo Trần văn Soái hợp tác với Chính phủ, tướng Dương văn Minh họp báo nói về trường hợp quy thuận này, chiến dịch miền Tây được coi như kết thúc. Tướng Minh cho biết, trong chiến dịch Hoàng Diệu, Soái đã tịch thu được 20 ki lô vàng, 16,5 triệu tiền mặt, số tiền này Soái đem nộp cho Chính phủ và dùng xây cất một Cô nhi viện. Đồng thời 56 sĩ quan và binh sĩ Hòa Hảo đã về hợp tác với Chính phủ trong một buổi lễ tại Cái Vồn (8-3-1956). Vấn đề Hòa Hảo miền Tây coi như xong. Ông Nguyễn Ngọc Thơ lúc ấy mới công khai tham chánh và được bổ nhiệm là Bộ trưởng Kinh tế thay thế Trần văn Mẹo (16-5- 1956). Tuy hai ông Diệm, Nhu muốn Thơ nắm Bộ Nội vụ vì Diệm coi đó là sở trường của ông Thơ, nhưng ông Thơ không nhận, chỉ thích Bộ kinh tế từ đó Thơ chính thức trở thành người của chế độ Diệm. Trong buổi tiếp tân vào tối ngày 26-10-1955, Thơ xuất hiện bên cạnh Tổng thống Diệm với tư cách Phó tổng thống. Buổi tiếp tân hôm ấy,trong bộ nhưng phục mới của cấp tướng, Thiếu tướng Minh được mọi người chú ý đặc biệt, vì ông đã trở thành “con cưng” của chế độ Ngô Đình Diệm và đang được Tổng thống thương yêu. Bạn bè của Phó tổng thống cũng lên vù vù từ đó. Nỗi buồn nho nhỏ Vì không mấy khi được ông Nhu tham khảo về chính sự, Phó tổng thống Thơ mỗi ngày càng xa cách ông Nhu với mặc cảm rằng, ông Nhu chỉ là một Cố vấn. Đối với công quyền, ông không có một quyền hành nào, vì cố vấn không phải là một “titre oflciel” 5, Phó tổng thống Thơ mới là nhân vật số 2. Do đó ông phải hơn https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 13/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm ông Nhu và sẽ không cần biết ông Nhu, chỉ cần biết Tổng thống. Tuy vậy, mỗi lần gặp ông Nhu, Phó tổng thống Thơ vẫn mềm mỏng, khôn khéo và tỏ ra rụt rè. Tuy bên trong, có lẽ Phó tổng thống Thơ vẫn không được hài lòng do một số những bất mãn nào đó, có khi chỉ là chuyện rất tầm thường. Thí dụ như vụ Thiếu tá Đỗ Kiến Nhiễu, Tỉnh trưởng Long Xuyên (1957). Thiếu tá Nhiễu được coi như người thân của gia đình Phó tổng thống Thơ và được ông Thơ đề bạt làm Tỉnh trưởng nơi quê hương mình. Ông Nhiễu làm Tỉnh trưởng tỉnh này đã khá lâu. Sau vì một vụ “xì-căng-đan-tình-ái” Nhiễu bị mất chức, vì xì-căng đan này đã làm sôi nổi dư luận miền Tây. Sự vụ là: Một sĩ quan cao cấp của Hòa Hảo bị bắt, ông ta có một cô vợ trẻ khá nhan sắc... Nghe đâu trong một dịp ông Nhiễu gặp mặt, mụ này đã làm ầm lên, gây xì-căng-đan lớn... không hiểu trong vụ này Hòa Hảo có âm ưu hạ uy tín ông Nhiễu hay không? Ông bị thuyên chuyển và Thiếu tá Nguyễn văn Minh được thay thế, Thiếu tá Minh là một sĩ quan trẻ, cũng có ít nhiều liên hệ với Phó tổng thống Thơ. Trước khi làm Tỉnh trưởng Long Xuyên, Minh là Thanh tra Bảo an tại mấy tỉnh vùng Hậu Giang. Sau vụ này, Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ tỏ ra phiền muộn không ít. Thiếu tá Minh bị “phe” của Thơ nghi ngờ là người của ông Nhu. Đó cũng là lý do sau ngày 1-11-1963 Nguyễn văn Minh bị “hành hạ” khá nhiều trước khi đi làm Tư lệnh Sư đoàn 21 đặc biệt (1966). Còn một chuyện “phiền muộn” khác nữa là năm 1957 Thiếu tá Nhan Minh Trang bị mất chức Tỉnh trưởng Rạch Giá. Phó tổng thống Thơ không nói ra nhưng coi đó như một điều phiền muộn. Thiếu tá Trang gọi Phó tổng thống Thơ là “dượng ruột” (sau đảo chính được thăng Đại tá và từng là Chánh văn phòng của Thủ tướng Thơ, sau làm Tỉnh trưởng Gia Định). Về vụ này, chính đương sự là Thiếu tá Trang không lấy gì làm bất mãn, vì lỗi không do ông mà do sự “lem nhem” của ông Trưởng ty Quan thuế và sự không khéo của chính quyền khi lựa chọn người thay thế, đã không hỏi ý Phó tổng thống Thơ, vì Thơ vẫn cho rằng mình rất am tường dân miền Tây, nhất là ba tỉnh Châu Đốc, Rạch Giá, Long Xuyên. Đó cũng là một điều làm Thơ không hài lòng, chính quyền hồi đó đã không hiểu tâm lý dân địa phương, nên thay vì bổ nhiệm một Tỉnh trưởng sinh trưởng tại miền Tây thì lại cử Trung tá Hoàng Lạc là người Bắc di cư. Kinh nghiệm cho biết phàm những tỉnh miền Đông hay miền Tây đã có một sắc thái đặc biệt thì chính quyền không bao giờ được bổ nhiệm một ông Tỉnh trưởng là người Bắc hay người Trung. Có thể chính quyền hồi đó cho rằng Rạch Giá với khu định cư Cái Sắn phải gắn bó chặt chẽ với khối dân định cư thì Tỉnh trưởng là người Bắc sẽ thuận tiện hơn. Cũng cần phải ghi nhận: Thiếu tá Nhan Minh Trang rất có công lao trong sự thành lập khu dinh điền Cái Sắn. Dù vậy đã tạo nên một số ngộ nhận, nhất là Trung tá Lạc trước khi làm Tỉnh trưởng lại là Tư lệnh một Lữ đoàn. Ngồi chơi xơi nước Tuy nhiên, sự việc không đơn giản như vậy. Đối với ông Thơ Chính quyền “của ông” lại gây cho ông một sự hiểu lầm to lớn khác. Khi Chính phủ cải tổ ngày 28- 5-1961, ông Thơ bị mất chức Bộ trưởng Kinh tế cho dù ông được nâng lên hàng Bộ trưởng Đặc nhiệm phối hợp phát triển kinh tế. Nhưng ông Thơ cho rằng chức đó chỉ “ngồi chơi xơi nước”... Ông đã hoàn toàn mất thực quyền về kinh tế. Tại một quốc gia tiến bộ, và trong một chế độ tiến bộ thì người lãnh đạo phải là người hoạch định và phối hợp kế hoạch chứ không thể là người chỉ biết cúi đầu thi hành kế hoạch. Nhưng chậm tiến như miền Nam Việt Nam thì người “lãnh đạo” không chịu như vậy họ chỉ thích đóng vai trò “thừa hành” để được thượng cấp sai khiến. Từ một tâm lý lãnh đạo như vậy, nên chức Bộ trưởng Đặc nhiệm phối hợp đã chả “nước nôi” gì. Hơn nữa, người thay ông Thơ lại quá trẻ tức ông Hoàng Khắc Thành (em kỹ sư Hoàng Kinh, tốt nghiệp cao học thương mại). Nhất là ông Thành lại thuộc giới khoa bảng, mới hồi hương. Trong khi đó ông Thơ tuy là Đốc phủ sứ song không phải là dân khoa bảng, ông Thành lại là người Bắc và bị coi là chân tay của Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần. Ông Thành là người trẻ, có khả năng, tính tình thẳng thắn, nhưng lại vụng về trong thuật xử thế cho nên ông Thơ cho rằng ông Thành đi thẳng với Phủ tổng thống về mọi vấn đề kinh tế, qua mặt ông là Phó tổng thống. Từ những sự kiện lặt vặt như vậy đã tạo cho Phó tổng thống Thơ có mặc cảm bị tước đoạt quyền hành và cho rằng phe ông Nhu đã “chơi” mình. Khi Thơ không còn làm Bộ trưởng Kinh tế thì ông Ngô Trọng Hiếu lại được cất nhắc lên làm Bộ trưởng Công dân vụ, một tay quán xuyến ba ngành Thanh niên, Thông tin và Công dân vụ (Thực tế chỉ có Công dân vụ). Ông Hiếu được coi là người của ông Nhu và mỗi ngày càng được chế độ Ngô Đình Diệm tin dùng. Có lẽ đó https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 14/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm cũng là lý do khiến cho đôi bạn Thơ, Hiếu mỗi ngày càng thêm xa cách nhau. Kể từ chiến dịch Rừng Sát uy tín của tướng Minh mỗi ngày một tăng lên trong Quân đội. Phải công nhận rằng. guồng máy tuyên truyền (Báo chí, Đài phát thanh) của chế độ cũ đã có công phát triển và hào quang hóa “anh hùng Rừng Sát”, nhất là từ đêm liên hoan tại vũ trường Pétrus Ký (1956). Các đoàn thể đã không tiếc lời ca tụng tướng Minh và các chiến binh Rừng Sát. Tướng Minh lại biết “tự làm vắng mặt mình” khi thấy cần, ít ồn ào và trầm lặng khó hiểu cho nên “huyền thoại Rừng Sát, miền Tây” lại càng có dịp thêu thùa hoa lá trong Quân đội, nhất là giới sĩ quan trẻ. Trước năm 1963, Tướng Minh cũng chỉ đủ dùng hàng ngày, không nghèo, không giầu đó là ưu điểm để tăng cường uy tín của ông trong giới trẻ. Ngài Ngoại trưởng Như trên đã viết, nhiều tướng tá nhờ sự đề bạt của Phó tổng thống Thơ nên suốt 9 năm cầm quyền của chế độ Ngô Đình Diệm đã được hưởng mũ áo xênh xang. Điển hình là ông Albert Nguyễn Cao. Ông Cao khi là sĩ quan cấp úy từng là sĩ quan tùy viên của tướng Nguyễn văn Hinh. Đáng lý ra khi tướng Hinh đại bại thì Cao cũng khó lòng tiến thân được. Nhưng rồi nhờ “uy thế” của ông Nguyễn Ngọc Thơ, Thiếu tá Cao từ trưởng khu dinh điền Cao nguyên leo lên Tỉnh ủy trưởng dinh điền. Thời Nguyễn Khánh được phong Chuẩn tướng và là Đổng lý Văn phòng của tướng Khánh. Bức tranh “vân cẩu” của thế sự đã diễn ra bao nhiêu “hình thù”, trong hào quang một phút rồi cũng chỉ đen tối trong một phút. Đã có bao nhiêu huyền thoại xây trên sự đổ vỡ và cái hèn mọn nhất của con người. Cũng nên nhắc lại nhân dịp nhắc đến “huyền thoại” này “huyền thoại” kia... trong 7, 8 năm làm Ngoại trưởng thì giáo sư Vũ văn Mẫu cũng là một huyền thoại. Mẫu vì được Diệm kính nể, cho nên mọi người cũng kính nể, có khi đến độ “thần thánh” nhà trí thức đại khoa bảng này. Giáo sư Mẫu là một luật gia uyên thâm (Thạc sĩ Tư pháp, giáo sư thực thụ của Đại học Luật khoa Sài Gòn). Sự ăn nói mạch lạc và cách đi đứng đường hoàng của ông đã dễ dàng thu hút được cảm tình và sự kính nể của Diệm. Nhưng ông Diệm “vỡ mộng” đau điếng khi ông Mẫu “xuống tóc”, cho đến lúc sau này Diệm vẫn biện minh cho lòng kính nể ông Mẫu “Ngài đàng hoàng đấy, nhưng phải làm thế cũng chỉ vì Ngài nể bà Ngoại trưởng” (ông Mẫu là người thứ hai sau ông Thơ được ông Diệm gọi là Ngài). Số là, giới cận thần tại dinh Gia Long và Bộ Ngoại giao lúc bấy giờ cho biết: ông Ngoại trưởng rất “vị nể” phu nhân do bà đau yếu luôn luôn và bị mất một lá phổi. Phu nhân cũng như gia đình Ngoại trưởng rất mộ đạo Phật. Thế nhưng trong vụ Phật giáo trước tháng 8, Ngoại trưởng rất im lặng, không hề tỏ một thái độ nào có thể bất lợi cho vị Tổng thống và chế độ mà ông phục vụ. Buổi sáng ngày 20-8, Ngoại trưởng Mẫu còn hướng dẫn tân Đại sứ Anh đến trình ủy nhiệm thư tại dinh Gia Long. Ông đã bày tỏ thái độ hoàn toàn đồng ý với Chính phủ. Song buổi chiều ngày 21-8 đột nhiên ông Ngoại trưởng lại xuống tóc phản đối. Đó là một hành động đẹp theo tinh thẩn kẻ sĩ Phương Đông. Nhưng dư luận cho rằng ông phải làm thế vì phu nhân làm áp lực dữ dội quá. Sau này, ông Nguyễn Đình Thuần thuật lại: “Nếu ông ấy xuống tóc và xin đi hành hương, nhưng đừng làmcái việc cố vận động chạy chọt để đổi thật nhiều dollars, ba bốn ngàn gì đó thì cũng còn coi được”. Ông Thuần mà phê bình giáo sư Mẫu thì kể cũng hơi lạ (Theo dư luận tại Viện Hối đoái thì Phủ tổng thống chỉ thị viện này để giáo sư cựu Ngoại trưởng được đổi 5.000 dollars). Vì tiếng súng đảo chính bùng nổ, ông Thuần tuy với tư cách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phụ tá Quốc phòng kiêm Bộ trưởng Phủ tổng thống) song lại chuồn lẹ nhất, đến nỗi trong dinh không còn biết ông ở đâu để liên lạc. Cháy nhà ra mặt chuột Đêm mùng 1-11, ông Thuần và ông Nguyễn Lương là hai Bộ trưởng đến trình diện tại Hội đồng Quân nhân cách mạng sớm nhất. Một vị tướng nói “Cháy nhà mới ra mặt chuột. Chế độ ông Diệm sụp đổ cũng chỉ vì có những Bộ trưởng như vậy. Khi đến trình diện thì rụt rè, khúm núm quá chả bù với khi còn thét ra lửa”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 15/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Nhờ sự đầu hàng sớm như vậy, cũng như sự rụt rè khúm núm, sợ hãi Thuần và Lương được quân đảo chính cho về nhà thong dong. Ít lâu sau Thuần qua Pháp, vì vợ con đã ở sẵn bên đó. Còn Nguyễn Lương được thong dong đến một năm sau, thời tướng Khánh, ông bị bắt vì tội tham gia đảng Cần Lao. Thật là số mệnh an bài... trước đó thì chả sao. Ông Nguyễn Lương được đưa vào khám Chí Hòa hôm trước, thì hôm sau ông bị đưa lên xe ra máy bay trục ra Côn Đảo. Cái gai cần nhổ Chính phủ Nguyễn Khánh kết tội Nguyễn Lương là nhân vật cao cấp của Đảng Cần Lao quả là bóp méo sự thật. Ông Lương thuộc hàng quan lại lớp cũ. Năm 1955, ông đã lên đến ngạch Chưởng lý tòa Thượng thẩm. Khi giáo sư Vũ Quốc Thông giữ Bộ Y tế và Xã hội thì ông Nguyễn Lương làm Tổng giám đốc Xã hội (Viên Chánh văn phòng của ông là Hoàng Thế Phiệt sau trở thành Nghị sĩ của Thượng viện Đệ II Cộng hòa) - Khi Nha Tổng giám đốc Xã hội tách khỏi Bộ Y tế và trực thuộc Phủ tổng thống thì đây là dịp ông Lương được gần Tổng thống Diệm. Nhờ tài ăn nói lưu loát và am tường luật pháp, ông Lương rất được Tổng thống Diệm tín nhiệm. Đứng trước Tổng thống Diệm, Lương luôn luôn chấp tay cung kính... Rồi trở thành Cố vấn luật pháp của Tổng thống và sau được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn công chức cách mạng quốc gia. Cái chết của Ngô Đình Diệm mang theo sự sụp đổ của chế độ Đệ nhất Cộng hòa, đồng thời tố cáo luôn bộ mặt thật của một số thư lại. Chính họ đã góp công lật đổ chế độ. Những viên đạn nổ vào đầu Ngô Đình Diệm chỉ là kết quả của bao nhiêu mâu thuẫn nội bộ sự phân hóa hàng ngũ quốc gia, đồng thời cũng là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng giữa Mỹ và Sài Gòn, hơn nữa là sự “thọc gậy bánh xe” của Pháp... Năm 1963 con số cố vấn Mỹ tại miền Nam đã lên tới 14.000 người, đồng thời tại Bộ Ngoại giao Mỹ thành lập một Ủy ban nghiên cứu hỗn hợp về sự sử dụng “sức mạnh” của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, Ủy ban ấy mang một danh từ thật đẹp “Việt Nam Task Force” mà người đứng đầu là Hilsman. Vấn đề chủ quyền quốc gia đối với ông Diệm đã trở thành đầu mối cho tấn thảm kịch Việt - Mỹ. Nếu Hilsman đặc trách Á châu sự vụ, có phận sự nghiên cứu những phương thức Mỹ nhằm tiêu diệt những người yêu nước tại miền Nam Việt Nam, thì song hành với công việc này Hilsman cũng đã “sửa soạn” theo kỹ thuật của Mỹ để “hạ” một Tổng thống cứng đầu thân Pháp như ông Ngô Đình Diệm. Lu Conein cũng như Smith và Hilsman, Fisthel nghĩa là cả guồng máy CIA đã góp công vào việc sửa soạn cuộc lật đổ này. -------------------------------- 1 Có tiếng, nổi tiếng. 2 Nhóm Hòa Hảo Trần văn Soái tự Năm Lửa, Lâm Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ. 3 Tức Sài Gòn. 4 Báo Joumal Extrême Orent (13-11-1960) 5 Chỉ người đứng đầu cơ quan. 3. Trong thời gian của quyền uy và cô đơn Câu hỏi giao du Sau ngày đảo chánh, một số đông các sĩ quan thuộc Liên đoàn liên biệt văn phòng Tổng thống đều bị bắt giữ. Mấy sĩ quan tùy viên đều phải trả lời một số những câu hỏi như: “Có thấy những người đàn bà nào vào phòng riêng của Tổng thống Diệm?” “Tổng thống Diệm có “giao du” với bà Nhu không?”. Đại úy Lê Công Hoàn, một sĩ quan tùy viên phục vụ Diệm năm năm đã trả lời trên giấy tờ: “Tôi quả quyết không bao giờ có chuyện như vậy nếu có mà tôi bảo là không tôi xin chịu mất đầu”. Vậy thì sự tương quan trong nếp sống gia đình thường nhật giữa vợ chồng ông Nhu và ông Diệm ra sao? Tổng thống Diệm ở trong một căn phòng riêng, ngủ trên tấm phản gỗ. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 16/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Mỗi tối, một ông già Ẩn chăng màn sẵn, sáng sớm lại tháo gỡ. Ông Diệm thường dùng bữa ngay trong căn phòng này. Ông vẫn ăn một mình trong suốt chín năm, trừ những buổi tiệc tùng dạ hội. Đối với gia đình ông Nhu thì Diệm sống một thế giới riêng. Rất ít khi ông Diệm ăn cơm chung với gia đình ông Nhu. Hoặc khi sang phòng ông Nhu dùng cơm thì ông Diệm dùng món ăn riêng của ông. Vì vậy trong dinh có hai đầu bếp. Một đầu bếp của vợ chồng ông Nhu. Một đầu bếp của ông Diệm. Thông lệ, mỗi buổi sáng sĩ quan tùy viên đem vào phòng ông một xấp báo đủ loại. Ông vừa đọc vừa ăn điểm tâm. Thỉnh thoảng có gì đặc biệt lắm ông mới sang phòng vợ chồng ông Nhu ngồi uống nước, nói chuyện lan man. Theo sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn cũng như Đại úy Bằng, ông già Ẩn, thì anh em ông Diệm và ông Nhu không mấy khi hàn huyên tâm sự. Ông rất kính trọng và vâng lời Đức cha Thục theo quan niệm “Quyền huynh thế phụ”. Trước khi qua Roma, dự Công đồng Vatican II, Đức cha Thục vào dinh ở lại vài ngày. Như thường lệ Đức cha Thục vào chào anh em Tổng thống. Theo sĩ quan tùy viên Hoàn thì anh em Tổng thống Diệm rất giữ lễ với nhau chứ không suồng sã tự nhiên. Khi về dinh, Đức cha Thục thường dùng cơm với ông bà Nhu và mỗi lần như vậy, Tổng thống Diệm lại ghé qua phòng ông em nhân tiện đáp lễ ông anh. Đức cha Thục nói gì thì ông Diệm nghe điều đó. Tuy nhiên, mỗi lần không vừa ý ông Diệm lại chỉ thở dài, cau có và hết sức bẳn gắt với sĩ quan tùy viên. Cũng không mấy khi ông bà Nhu vào phòng riêng của Tổng thống Diệm trừ mấy đứa con trai của ông Nhu. Căn phòng riêng của Tổng thống Diệm vừa là phòng ngủ, vừa là chỗ làm việc, bao giờ cũng có cận vệ gác ở ngoài cửa cùng với một sĩ quan tùy viên túc trực ngày đêm (thay phiên nhau như làm việc theo từng “ca”). Bất kỳ một ai thăm viếng về phía quân sự đều qua tay sĩ quan tùy viên (sự sắp xếp do Tham mưu biệt bộ). Sự thăm viếng về phía dân sự và ngoại giao đoàn đều do Nha Nghi lễ đảm trách. Không kể Đỗ Thọ đã chết, ba sĩ quan tùy viên còn sống sau cuộc đảo chính 1963 (trong đó có Đại úy Lê Châu Lộc) cùng với Đại úy Bằng hầu cận đều cho biết: “Họ không hề bị ông bà Nhu chi phối. Gặp ông bà ấy thì chào hỏi vậy thôi. Họ làm việc trực tiếp với Tổng thông Diệm và làm việc theo kiểu “người nhà” phi nguyên tắc luật lệ. Vào phòng ông Tổng thống lúc nào cũng được và cửa phòng ông không bao giờ khóa mà chỉ khép. Người được coi là ngang ngược và hay gây gổ với bà Nhu là Đại úy Bằng. Thế giới của ông Tổng thống là thế giới tình cảm”. Quy tụ quanh ông, phái cao cấp là ông Võ văn Hải, gần Tổng thống là ông Bí thư Trần Sử rồi đến bốn sĩ quan tùy viên, ông già Ẩn, Đại úy Bằng và mấy người thân cận khác. Tìm hiểu cuộc sống riêng tư và tâm tình của một Tổng thống không gì bằng tìm hiểu ngay những người thân cận quanh ông trong nếp sống thường nhật. Viết về giai đoạn lịch sử 1955-1963 không thể bỏ qua phần tìm hiểu con người Tổng thống Ngô Đình Diệm để từ đó soi sáng một phần tâm lý chính trị. Tâm lý chính trị này là một phần căn bản giúp cho sử gia dễ dàng phân tách và dẫn giải các sự kiện lịch sử qua hướng đi của nó,qua sự chèo lái của nhà lãnh đạo. Tổng thống Diệm thích làm thơ. Tất nhiên là thơ Đường luật, ông còn biết vẽ và nét vẽ rất đẹp. Bức vẽ cuối cùng của ông là ngôi Thánh đường, dự định sẽ xây cất ở khu Phượng Hoàng. Ông đã có ý định không ra ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ 19 và sẽ lui về an dưỡng ở khu Phượng Hoàng. Trước đó, đã có một dự án chỉnh trang toàn thể khu Cồn Hến tại Huế để làm nơi Tổng thống Diệm trở về vui thú điền viên. Khu này được coi là một trong mấy nơi thơ mộng nhất ở Huế, cách thôn Vỹ Dạ chỉ một con sông. Khi dự án được trình lên, Tổng thống không vừa ý và cho dẹp bỏ. Rồi tự tay ông phác họa khu Phượng Hoàng. Ngôi Thánh đường cũng tự tay ông vẽ. Tổng thống Diệm ưa thích đánh cờ tướng nhưng lại không phải là tay cao cờ. Nhiều lần, trong lúc cao hứng, ông cho gọi Đại úy Bằng và Ngô Đình Trác vào phòng riêng của ông bảo hai người đánh cờ để ông ngồi xem, ông có thể ngồi như vậy trong một, hai giờ liền. Thú vui lớn nhất của ông là chụp ảnh và rửa hình. Thỉnh thoảng cao hứng ông lại đưa bọn con ông Nhu ra chụp một vài “pô” hay chụp mấy sĩ quan tùy viên. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 17/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Tướng Lê văn Kim được coi là “người bạn” của Tổng thống về phương diện chụp hình và rửa hình. Một lần vào năm 1961, vợ chồng bác sĩ Trần Kim Tuyến đang coi Ciné ở rạp Đại Nam thì có thuộc viên tìm đến, cho biết “Tổng thống điện thoại gọi bác sĩ vào dinh gấp”. Hai vợ chồng bỏ dở buổi Ciné trở vào dinh. Bà vợ ngồi dưới xe chờ chồng từ 10 giờ sáng tới gần 2 giờ chiều mới thấy chồng trở ra. Bác sĩ Tuyến được ông Tổng thống tiếp bốn giờ liền không ngoài việc máy ảnh và chụp hình. Vì Tổng thống mới mua một cái máy Canon, cho nên gọi ông Tuyến vào để chỉ cho cách sử dụng. Mỗi lần như thế ông Diệm rất vui, cởi mở. Đặc biệt là Tổng thống Diệm không uống được rượu, chỉ cần uống một hớp nhỏ, mặt ông đã đỏ gay... Tuy vậy trong phòng ông cũng có một chai rượu nho, thỉnh thoảng ông nhấm nháp đôi chút và những lần như vậy giới hầu cận đều biết ngay là Tổng thống có chuyện vui. Đầu bếp trong dinh phải chế tạo riêng một loại sâm banh. Loại sâm banh này chỉ là nước ngọt cho vào chai và khi mở cũng nổ chát và sùi bọt như sâm banh thực. Khi tiệc lớn cùng với với các Đại sứ và quốc khách thì Tổng thống dùng sâm banh loại này. Tổng thống Diệm ăn uống không có giờ giấc nào cả. Bữa cơm chiều có thể là 8 giờ hoặc 10 giờ đêm... Khi gặp ai vui chuyện, ông Diệm có thể mạn đàm lan man cả 2, 3 giờ liền. Ông hay dùng thứ Paté Chaud ở Bưu điện và ông cho là ngon tuyệt hạng. Như trên đã viết ông Diệm rất kính trọng và vâng lời các anh. Ông lại luôn luôn sống xa mẹ. Sau khi từ chức Lại bộ Thượng thư triều đình Huế (1933) ông không về sống ở Phú Cam mà về ở trong một ngôi nhà của ông Ngô Đình Khôi tại Vĩnh Điện, Quảng Nam. Ngôi nhà đó chỉ có ông Diệm và ông Bằng. Ông Bằng lo việc cơm nước, quần áo và mọi sự cho ông Thượng thư, một vài tuần ông Diệm lại về Phú Cam một buổi, vài tháng lại vào Nam. Từ dạo đó, ông Diệm đã sống một cuộc đời khép kín, đi hay về không ai biết. Khi ông Ngô Đình Khôi bị giết năm 45, Đức cha Thục trở thành người có ảnh hưởng lớn nhất tới ông Diệm. Qua tập an bum gia đình họ Ngô ta thấy đức cha Thục và ông Diệm hay cùng nhau chụp ảnh, hai người tỏ ra tương đắc. Chúng tôi nêu lên sự kiện này như một sự kiện lịch sử để thấy rằng cái tình huynh đệ gia đình của một ông Tổng thống đã quan hệ đến cả vận mệnh quốc gia. Năm 1963 là năm Ngân khánh của đức cha Thục. Theo truyền thống Thiên chúa giáo thì đây là một dịp trọng thể; đánh dấu thành công trong sự nghiệp của một đời tu hành. Lễ này thường do giáo dân đứng lên tổ chức để tỏ bày sự kính mến đối với bậc chăn chiên của họ. Giả dụ đức cha Ngô Đình Thục không phải là anh ruột của Tổng thống thì lễ này có tổ chức long trọng đến mấy cũng không có gì đáng nói, vì đó là sự thường tình trong nếp sống tôn giáo. Nhưng Đức cha Thục lại là anh ruột của một ông Tổng thống (chúng ta sẽ phân tích rõ ở chương Phật giáo 1963) nên đó là một vấn đề lớn. Từ đầu tháng 1-1963, các giới chức địa phương và ở trung ương đã rộn dịp “góp công” vào việc tổ chức lễ Ngân khánh của Đức cha. Có một số địa phương tại miền Trung, Tỉnh trưởng lại đi thu góp tiền bạc để góp phần vào lễ Ngân khánh cho thêm phần long trọng. Rồi một Ủy ban toàn quốc được thành lập đứng đầu là ông Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ, sau là bác sĩ Cao Xuân Cẩm cùng các ủy viên gồm một số Bộ trưởng, Dân biểu, Linh mục Cao văn Luận Viện trưởng Đại học Huế cũng được mời tham dự. Cha Luận lấy làm khó chịu song không thể khước từ nên phải nói: “Là một Linh mục sống trong địa phận của đức cha thì có bổn phận kính vâng Đức cha. Ông Bộ trưởng Giáo dục, Viện trưởng Đại học Sài Gòn cũng tham dự thì Viện trưởng Đại học Huế cũng xin về tham dự”. Một mặt cha Luận biên thư cho ông Chủ tịch Quốc hội xin tham dự vào ủy ban để cho vừa lòng đẹp ý người đến mời. Mặt khác, cha Luận đến gặp riêng ông Ngô Đình Cẩn vì cha Luận vẫn được coi là người có nhiều ảnh hưởng đối với gia đình họ Ngô (cũng như Linh mục Nguyễn văn Thính, Linh mục Nguyễn văn Lập, Linh mục Nguyễn Viết Khai). Cha Luận khuyên ông Cẩn nên tìm cách ngăn cản để làm thế nào lễ Ngân khánh tổ chức trong vòng thân mật và thu hẹp, vì từ ngày Đức cha Thục ra trọng nhậm giáo khu Huế đã gây nên nhiều ngộ nhận trong giới Phật giáo. Nếu lễ Ngân khánh tổ chức quá rầm rộ ngay tại cố đô Huế e rằng bất lợi. Ông Cẩn cho là phải và rất đồng ý với cha Luận, nhưng ông Cẩn cho biết: “Từ ngày Đức cha về đây, đức cha có coi tôi ra cái gì đâu. Tôi làm sao nói được xin nhờ cha vào Sài Gòn gặp Tổng thống để nói rõ sự lợi hại”. Hôm sau, cha Luận vào Sài gòn xin gặp ông Ngô Đình Nhu. Ông Nhu cũng đồng ý như vậy và cho rằng không thể lẫn lộn tôn giáo với quốc gia, ông Nhu than thở với cha Luận là ông không biết làm thế nào vì nói thẳng sự thật sợ phật lòng Đức cha - bậc quyền huynh thế phụ đối với gia đình họ Ngô. Trước năm 1953 ông Nhu vẫn bị ngộ nhận là người chống lại hàng giáo phẩm. Ông Nhu phàn nàn với cha Luận đại ý: “Thân sinh tôi mất rồi thì chỉ còn đức cha là bậc quyền huynh thế phụ. Tôi không biết phải nói thế nào, Tổng thống thì cả nể Đức cha lắm. Từ ngày đức cha về Huế, ở đây tôi mới “rảnh rang”... Khi đức cha còn ở Vĩnh Long thì thứ bảy, chủ nhật nào bọn họ cũng rủ nhau xuống Vĩnh Long cả nội các, cả Quốc hội. Biết là phiền phức nhưng không làm thế nào được”. Ông Nhu lại một lần nữa nhờ riêng cha Luận nói rõ thiệt hơn với Tổng thống. Tất nhiên ông Nhu không dám nói thẳng với Tổng thống Diệm thì cha Luận sức nào dám nói thẳng sự hơn thiệt. Mặc dầu lễ Ngân khánh đã được sửa soạn chu đáo nhưng không được như dự định, vì xảy ra vụ Phật giáo (ngày 8-5-1963). https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 18/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Trước đó, Tổng thống Diệm cũng không dám bãi bỏ Ủy ban toàn quốc như vậy. Song ông Chủ tịch Quốc hội là Chủ tịch Ủy ban thì quả là điều “chướng mắt” khó coi, cho dù ông là giáo dân... Có lẽ vì vậy mà bác sĩ Cao Xuân Cẩm đứng ra làm Chủ tịch (?)... nhưng cũng không phá tan được sự ngộ nhận “dĩ công vi tư và lạm dụng ưu thế của Tổng thống Diệm”. Hành hương Vĩnh Long Tổng thống Diệm quá nặng tình nghĩa gia đình. Gia đình đó lại sống theo quan niệm “đóng cửa bảo nhau”. Cho nên, dù anh em mâu thuẫn bất hòa người bên ngoài cũng không mấy ai biết ngoại trừ những người thân cận sống lâu năm trong gia đình họ Ngô. Trong chín năm kháng chiến, Đức cha Thục không tỏ rõ một thái độ nào có thể minh chứng khuynh hướng chính trị của Đức cha. Khác hẳn với những giáo khu Phát Diệm, Bùi Chu, giáo khu Vĩnh Long luôn luôn đứng ngoài vòng cuộc chiến. Những gia đình quen biết Đức cha Thục như Phạm Ngọc Thảo, Kiều Công Cung đã đi theo kháng chiến ngay từ buổi đầu cho đến năm 1954. Linh mục Lư Vinh cũng như ông Sáu Nhân (tức Hoàng Xuân việt) đều được đức cha gởi vào ở tạm tại Nhà dòng Đồng công Thủ Đức. Cha Lư Vinh đã có lần tâm sự rất nhiều về đức cha Ngô Đình Thục và đều cho rằng đức cha trước năm 1954 rất khác đức cha sau năm 1954 và càng ngày càng bị vây hãm, bị lợi dụng, dấn mình quá sâu vào đời sống chính trị của các em. Vào khoảng tháng 6-1960, nhân một buổi lễ trọng thể tại Vĩnh Long (buổi lễ thuộc phạm vi tôn giáo), thế nhưng từ sáng sớm đã có hàng trăm xe hơi nối đuôi nhau trên con đường “hành hương” về Vĩnh Long. Hầu hết là các Bộ trưởng, dân biểu, tướng tá, công chức cao cấp. Vì có hàng trăm xe của nhân viên chính quyền cho nên Bắc Mỹ Thuận bị kẹt, xe hàng, xe dân bị ứ lại dài cả hàng cây số và phải đợi cả hàng 2, 3 giờ mới được khai thông. Một nhà báo Mỹ cũng bị kẹt trong đám xe đó. Khi trở về Sài Gòn ông ta tỏ ý phàn nàn và phê bình gay gắt Lương Khải Minh. Nhà báo Mỹ thì lúc nào chẳng tìm cách “xì-căng-đan” Lương Khải Minh tìm cách biện minh cho nhà báo vui vẻ, bỏ qua sự phiền muộn. Lương Khải Minh cho ông Ngô Đình Nhu biết rõ sự thật. Nhu đỏ mặt tía tai đập tay vào bàn rồi gọi điện thoại cho ông Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ: “Làm cái gì mà kỳ vậy. Xuống đấy làm cái gì mà lố vậy. Tôi nhờ ông bảo bọn họ ngưng ngay cái trò đó đi”. Ông Nhu không thích là chuyện của ông Nhu. Con đường Sài Gòn - Vĩnh Long vẫn tấp nập khách công hầu. Ông Nhu thường phàn nàn với Lương Khải Minh “Bây giờ Nội các và Quốc hội họp ở Vĩnh Long mà!”. Như trên đã viết, Tổng thống Diệm bị chi phối mạnh mẽ bởi tình nghĩa gia đình thân thuộc, chữ Lễ đối với ông là một điều quan trọng, không thể thiếu. Tiếc rằng chữ Lễ trong tinh thần Nho giáo tuy tạo được sự thể thống về phương tiện quốc gia, song thực tại của xã hội giữa thế kỷ 20 đã làm cho chữ Lễ của Tổng thống trở nên những hình thức phù du và làm cho ông lạc lõng và càng cô đơn xa lạ trong thế kỷ mà nấc thang giá trị cũ chỉ còn như một áng mây chiều. Một bọn nịnh thần lại luôn luôn bám vào chữ Lễ cũ của ông Diệm để che đậy những manh tâm... Chữ Lễ với giá trị cao cả của nó trong tình nghĩa của nếp sống Đông phương lại trở thành chiếc gậy thần của một số “phù thủy”, họ xúm nhau lại suy tôn và thần thánh hóa Ngô tổng thống... Ông Tổng thống càng thêm lạc lõng và chữ Lễ biến thành vùng ảo tưởng bao bọc lấy ông. Tổng thống Diệm làm việc ngay trong phòng riêng. Ông ngồi trên chiếc ghế bành trước một chiếc bàn tròn và ở đó ông phê chuẩn, khán ký, cũng như xem xét hồ sơ công việc và bàn xét quốc sự. Nếu không phải tiếp khách ngoại quốc hay các phái đoàn, ông làm việc trong phòng cả ngày. Thường thường ông mặc chiếc áo dài đen. Không bao giờ ông Tổng thống mặc đồ ngủ để tiếp khách dù đó là mấy ông thợ chụp hình. Khi phải ra phòng lớn tiếp khách thì theo thói quen ông cũng xốc lại cổ áo nắn lại chiếc Cravate rồi cầm lược chải đầu, gọi bồi lau lại đôi giầy... Chữ lễ trong tinh thần Nho gia https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 19/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Những ngày đầu vào dinh Gia Long làm việc, Lương Khải Minh còn trẻ, lại quen tính ăn mặc luộm thuộm. Mấy lần vào phòng làm việc của ông Tổng thống, chỉ mặc áo cổ bẻ, cộc tay bỏ ngoài quần và đi dép quai da, mà không để ý đến sự khó chịu của ông Tổng thống nên cứ tiếp tục ăn mặc như vậy. Sau Tổng thống Diệm gọi thẳng bà Nhu phiền trách: “Thiếm phải lo cho chú ấy ăn mặc đàng hoàng. Chú ấy ăn mặc lôi thôi mấy đứa nó bắt chước, mất cả thể thống. Thằng cha nó ăn mặc cái gì mà lôi thôi quá”. Từ đó Lương Khải Minh phải để sẵn trong văn phòng một bộ Complet, Cravate. Nếu Tổng thống cho gọi là phải ăn mặc cho đầy đủ lệ bộ. Giầy mà không có dây thắt, ông Tổng thống cũng cho là một sự thất lễ. Một lần Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần vào dinh, mặc chiếc “veste” mới may, xẻ phía sau lưng theo mode mới, liền bị Tổng thống nhìn một lúc lâu rồi khen “Ông Bộ trưởng mua chiếc áo xẻ lưng đẹp quá hỉ?”. Ông Tổng thống cho rằng làm lớn ăn mặc như thế không hợp với thể thống. Từ đó, Nguyễn Đình Thuần biết ý phải cố ăn mặc làm sao cho vừa lòng Tổng thống. Cũng vì một chữ thể thống mà một sĩ quan đã thắng được vụ kiện. Quan tòa là ông Tổng thống, bà Nhu là nguyên cáo. Khi Quốc vương và Hoàng hậu Thái Lan qua thăm Sài Gòn thì bà Nhu đóng vai “tiếp viên của Quốc gia” (Hotesse) để nghênh đón Hoàng hậu Thái Lan về dinh Độc Lập chào Tổng thống theo nghi lễ, rồi trở về dinh Gia Long nghỉ. Tổng thống cũng đến dinh Gia Long để đáp lễ, cùng đi theo có bà Nhu. Lúc trở ra, bà Nhu đi sau Tổng thống. Viên sĩ quan hậu cần cản lại và nói “Bà không được đi cùng. Theo lễ nghi bà phải đi sau 5 phút”. Bà Nhu nổi giận phản đối. Viên sĩ quan dẫn chứng theo “sách”: “Bà đâu có phải là vợ Tổng thống mà được phép trở về dinh cùng một lúc. Tôi cử theo lễ nghi của ông Hoàng Thúc Đàm. Tổng thống phải về dinh trước, năm phút sau bà mới được ra về”. Bà Nhu nổi giận mà đành chịu. Nhưng sau đó bà về mách ông Nhu và sang tận phòng Tổng thống kiện. Tổng thống sai gọi viên sĩ quan hầu cận (Đại úy Bằng) và “đối chất”. Bà Nhu nói theo lẽ của bà Nhu. Viên sĩ quan nói theo lẽ của viên sĩ quan và nhấn mạnh là, như thế để giữ thể thống Quốc gia. Ông Diệm không nói một câu rồi cho cả hai người ra về. Bà Nhu rất hậm hực về thái độ lặng thinh của ông anh Tổng thống. Sau buổi chiều ông qua phòng ông bà Nhu và tuyên án “Nó nói đúng. Tính nó ngang ngược như rứa, thôi bỏ qua”. Người em của bà Nhu là Trần văn Khiêm cũng đã gây nên nhiều sự phiền phức cho Tổng thống. Anh ta ưa phách lối, làm le và dọa nạt nhiều người. Có lần (tháng 10-1963) anh ta dọa ném lựu đạn giết chết cả nhà bác sĩ Trần Kim Tuyến. Sự lạm dụng và phách lối của Trần văn Khiêm đến tai Tổng thống Diệm, ông cũng không biết làm thế nào hơn là ra lệnh cho sĩ quan hầu cận mở cuộc điều tra riêng. Việc đến tai bà Nhu. Bà tìm mọi cách che chở cho em rồi tìm cơ hội “mách” với Tổng thống về những “lạm dụng” của đám người thân bên cạnh ông ta. Do đó, trong chín năm, ông Diệm luôn phải xử những “vụ án” ngay trong nội bộ của dinh. Nhiều người thân của Tổng thống Diệm cho rằng, đó là nỗi khổ tâm mà ông không thể nói ra và mỗi lần như vậy ông lại càng thêm bẳn gắt. Ví dụ: Một lần đám con ông bà Nhu lấy bút vẽ bậy bạ lên tường dinh phía phòng Tổng thống, sĩ quan hầu cận đe nẹt thì đám trẻ lại nặng lời với họ rồi về mách mẹ. Bà Nhu, bênh con lại nặng lời và đổ thừa cho đám cận vệ vẽ bậy. Lời qua tiếng lại bà Nhu lại vào thưa kiện với Tổng thống vì viên sĩ quan đã dám hỗn xược với bà. Ông Tổng thống lại mất công phân xử. Thường thường bao giờ ông cũng chỉ đỏ mặt, yên lặng, quay đi và lắng nghe hai bên trình bày, không nói một câu... Nếu cùng lắm thì chỉ phán quyết: “Thôi bỏ qua”. Một lần khác, vào đầu năm 1958 khi chế độ Ngô Đình Diệm đang vào thời kỳ cực thịnh, một buổi tối bà Nhu bận đồ ngủ, mặc áo choàng vào phòng ông Tổng thống để kiện cáo một vài chuyện lặt vặt, ông già Ân khép cửa đi ra... Bỗng Tổng thống quát tháo rầm rĩ, bấm chuông gọi ông Ân và ông Bằng mắng vu vơ trước mặt bà Nhu. Từ buổi đó, biết ý ông Tổng thống nên mỗi khi bà Nhu vào phòng Tổng thống thì ông Ân hay ông Bằng phải có mặt hoặc sĩ quan tùy viên. Nếu không thì y như là có sự la lối. Thường thường nói chuyện với bà Nhu hoặc bất kỳ một người đàn bà nào khác, mặt ông Diệm đều đỏ gay, mắt nhìn đi chỗ khác và trả lời đứt quãng, nhát gừng. Mỗi lần bà Nhu vào kiện cáo chuyện gì, ông yên lặng nghe. Khi bà ta đi ra cửa, ông lại lẩm bẩm nói nhát gừng: “Chuyện đàn bà con nít như rứa... thôi bỏ qua”. Một lần khác bà Nhu vào kiện cáo chuyện gia đình dòng họ, Tổng thống Diệm vẫn yên lặng nghe, rồi nói: “Thím cứ về rồi tôi tính cho”, bà Nhu không chịu lại la lớn tiếng. Bất thần ông Diệm cầm chiếc gạt tàn thuốc lá ném về phía em dâu. Có lẽ ông ném vờ vậy thôi. Chiếc gạt tàn văng vào tường vỡ tung, bà Nhu mở cửa chuồn lẹ. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 20/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Những người thân cận chung quanh Tổng thống Diệm đa số đều phục vụ cho ông từ nhiều năm trước thời kỳ 1945. Riêng viên sĩ quan tùy viên thì do Nha Nhân viên Bộ Quốc phòng tuyển chọn và đề bạt. Trước năm 1960, mỗi tùy viên phục vụ trong thời gian hai năm. Nhưng sau, thời hạn bất kể. Thông lệ mỗi năm vào lễ Giáng sinh ông ra lệnh cho gọi tất cả sĩ quan tùy viên cũ trở về dinh gặp ông và cho mỗi người một số tiền 2000$. Đối với Tổng thống Diệm số tiền này là to quá. Rút tiền mặt chi cho ai đồng nào, ông thường đếm đi đếm lại rất cẩn thận. Về cách chọn người của Tổng thống Diệm thì khó ai có thể lường trước được. Bác sĩ Tuyến xác nhận rằng: “80% các Tỉnh trưởng đều do ông Tổng thống chọn”. Khoảng năm 1958, Tỉnh trưởng Kiến Hòa lúc bấy giờ là một Thiếu tá người quen thân của Trung tá Phạm Ngọc Thảo và cũng là chỗ quen thân bác sĩ Tuyến. Một hôm, đương sự vào phòng Tổng thống trình bày công việc, bất thần Tổng thống hỏi: “Anh có biết sĩ quan nào quen việc hành chánh không chỉ cho hai người”. Tất nhiên đương sự không dám hỏi thẳng Tổng thống dùng hai sĩ quan ấy vào việc gì, liền đáp: “Thưa có, hiện nay ở sở của con có hai sĩ quan con đang chờ lệnh bổ dụng mà con chưa biết đặt ở đâu. Hai sĩ quan này đều làm quận trưởng bên Gia Định vừa mới bị thay thế”. Tổng thống gật đầu: “Được rồi. Tên?”. Hai sĩ quan này là Đại úy Lê Minh và Trung úy Q. Rồi ông Diệm lấy giấy ghi tên hai người. Theo thông lệ những việc nào có tính cách bí mật và tránh sự nhòm ngó của người xung quanh Tổng thống đều viết bằng chữ Hán. Cũng như người bồi phòng của Diệm, vì lo công việc hàng ngày trong phòng riêng của ông nên phải chọn một anh không biết chữ như bồi Bẩy Thạnh. Khoảng ba ngày sau, ông Đổng lý Quách Tòng Đức báo cho bác sĩ Tuyến biết là hai sĩ quan kể trên đã có nghị định bổ nhậm Tỉnh trưởng và Phó tỉnh trưởng Nội An, Kiến Hòa. Đại úy Lê Minh được lên Thiếu tá, Trung úy Q được lên Đại úy, Tuyến nghe tin này thì choáng váng cả người vì Thiếu tá Thảo bị thay thế là chỗ thân của ông. Riêng Lê Minh lại không muốn đi làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa. Sau khi bị thay thế Quận trưởng, Lê Minh đã chán hành chánh chỉ muốn có một chỗ tốt tại Sài Gòn. Bỗng đâu chỉ vì một lời giới thiệu vu vơ, Lê Minh trở thành Tỉnh trưởng rồi sau này lại bị ông Tổng thống nổi giận cắt chức Tỉnh trưởng. Trong chín năm có rất nhiều trường hợp “trúng số độc đắc” như vậy. Một thí dụ khác vào khoảng năm 1962, lúc ấy Bộ trưởng bộ Tư pháp là ông Nguyễn văn Lượng theo Lương Khải Minh, khi ông Bộ trưởng, bộ Tư pháp vào trình công việc của Bộ, rồi cũng bất thần bị ông Tổng thống hỏi: “Bên Tư pháp có ông thẩm phán nào biết việc hành chánh, quản trì nhân viên, ông Bộ trưởng tìm cho tôi hai người”. Bộ Tư pháp lúc ấy cũng có hai thẩm phán “ngồi chơi xơi nước” trong khi chờ lệnh bổ nhậm mới. Đó là ông Trần Thiện Đức, nguyên Biện lý ở Tòa sơ thẩm Mỹ Tho vì có sự bất hòa chống đối viên Tỉnh trưởng địa phương nên tạm thời được rút về Bộ. Còn ông Khánh thuộc Tòa Nha Trang vì vụ lỗi lầm gì đó nên bị thay thế và đang nằm đợi lệnh ở Tòa thượng thẩm Huế. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn văn Lượng đưa tên hai ông này trình lên Tổng thống Diệm, ông Tổng thống lại tự tay ghi chép. Ít hôm sau, có Nghị định bổ nhiệm ông Khánh làm đại biểu Chính phủ tại Cao nguyên Trung phần, ông Trần Thiện Đức làm Tổng đoàn trưởng Công dân vụ mà cả hai đương sự cũng không được thông báo trước. Trước khi có Nghị định bổ nhiệm, họ nhận được lệnh vào trình diện cũng chỉ có mục đích để Tổng thống xem tướng. Nhiều trường hợp chỉ vì “xấu tướng” đã không được Tổng thống bổ nhiệm. Riêng ông Đức vì sự giới thiệu tình cờ của ông Bộ trưởng Tư pháp mà trở thành Tổng đoàn trưởng Công dân vụ. Sau đảo chính 1963 ông bị điều tra “lên xuống” xem có phải là đảng viên Đảng Cần Lao hay không, có chạy tiền để vào chức vụ ấy không. Vụ xem tướng người của Tổng thống Diệm cũng có nhiều cái rất lạ. Như ông X, Tổng thống Diệm lắc đầu: “Mặt thịt, vai u nó làm được cái gì”. Như ông Y, Tổng thống Diệm thấy ăn mặc đường hoàng, nói năng dõng dạc, đi đứng trang nghiêm, ông gật đầu: “Thằng đó khá”. Anh nào nói không ra hơi ngôn bất xuất khẩu, ông lắc đầu ngay... Nhưng anh nào “nói leo” chưa hỏi đã nói cũng khó lòng lọt vào mắt xanh của ông. Điều tối kỵ đối với ông là anh nào có vợ hai, bị báo cáo là bài bạc, nghiện hút. Ông ghê sợ sự nghiện hút và kẻ nào vợ nọ con kia. Thiếu tá Trần Ngọc Châu được ông thương vì có tài nói và thuyết trình rất lưu loát. Tướng Đôn được Tổng thống Diệm sủng ái vì được coi là quân nhân có tác phong, đi đứng và chào lính trang nghiêm. Phó tổng thống Thơ dù lùn và lé nhưng Tổng thống Diệm coi như em vì “Cụ Phó chịu khó làm việc. Cụ Bà hiền đức”. Làm lớn https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 21/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Dù thế nào thì Tổng thống Diệm cũng vẫn là một ông quan trong tinh thần “phụ mẫu chi dân” và một ông quan trong giấc mộng kinh bang tế thế và được lập thành bởi tình thần nho gia “Dân chi sở ố, ố chi. Dân chi sở hiếu, hiếu chi”.. (Dân ghét cái gì, mình ghét cái đó. Dân thích cái gì, mình thích cái đó. Sách Đại Học). Sở dĩ phải dẫn sách Đại học ở đây vì ông Tổng thống thuộc lòng sách này và thường đem từng câu ra giảng cho thuộc cấp. Khi trở thành Tổng thống thì ông quan ấy trở nên một vì Hoàng đế với tiêu chuẩn “Thừa thiên hành đạo”. Ông cai trị dân với một “thiên mạng” của nho gia. Cho nên ta thường thấy ông luôn nhắc đến chữ “Thành”. Chữ Thành lấy ở sách Trung Dung. Nhưng từ giữa Thế kỷ 20 và trong thực tại ở miền Nam sau 1954, tuy tạo được quyền uy tối thượng, tuy giữ được thể thống quốc gia nhưng ông Tổng thống lại trở nên một pho tượng trong vườn ngự uyển. Trong khu vườn đó, ông tưởng ai cũng làm như ông và sống như ông sống. Ông lại quá tin nơi mình với mặc cảm đầy uy quyền và ông ghen với uy quyền đó (i alouse de son pouvoir). Ông làm việc theo lề lối của một vị đường quan và quần thần chủ nghĩa. Vì vậy mà công việc được giải quyết theo khẩu lệnh và quần thần cứ y như thế mà làm, không mấy ai dám ho he phản đối. Theo Lương Khải Minh làm việc trực tiếp với Tổng thống Diệm và ông Nhu trong chín năm thì có thể nói nếu so với đức cha Ngô Đình Thục hay ông Cẩn, Tổng thống Diệm và ông Nhu đều biết ai hèn hạ ai tâng bốc, nhưng biết mà không nói, biết mà vẫn dùng. Sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn kể lại rằng: Có một lần vào năm 1962 ở dinh Tổng thống trên Đà Lạt, ông Tổng thống cần đi gấp mà trong phòng lại không có đôi giầy. Ông la bồi. Lúc ấy bồi lại đi đâu vắng. Sĩ quan tùy viên vẫn đứng yên vì lấy giầy cho Tổng thống không phải là công việc của anh (những việc như thế để bồi nó làm. Tổng thống đã dặn vậy). Thấy Tổng thống la bồi biểu đi tìm giày, một ông Bộ trưởng chạy đi tìm và mang giầy lại. Ông Tổng thống mặt đỏ gay, nhăn nhó và gạt đi, nói một cách bực tức: “Hừ hừ... để bồi nó làm”. Ông Bộ trưởng tái mặt vì ngượng và sợ. Sĩ quan tùy viên nhìn ông Bộ trưởng mỉm cười. Nhiều ông lớn tỏ ra hèn hạ một cách công khai đã bị ông Tổng thống mắng thẳng vào mặt. Riêng ông Nhu, một lần thấy một ông Đại úy mặc quân phục đeo lon, đẩy xe cho ông Ngô Đình Luyện dạo qua dinh (vì ông Luyện đau chân nên phải ngồi xe có tay đẩy), ông Nhu cười “ruồi” chỉ cho một sĩ quan hầu cận của Tổng thống Diệm và nói: “Thằng cha sao nó lố như rứa”. Còn bao cảnh hèn hạ tuyệt vời khác như ông Đ cúi đầu tháo dây giày cho cậu Luyện, ông L kia ăn dở chén măng cua ăn thừa của Đức Cha một cách hoan hỉ. Lỗi lầm tai hại của chế độ Ngô Đình Diệm chính là ở điểm đã mặc nhiên chấp nhận những cái hèn hạ như vậy của cộng sự viên qua cái bản chất hèn của con người họ. Mà ở những con người ấy lại tiêu biểu cho quốc gia ở một ngành này hay ở một địa phương khác. Người ta thường cho rằng, trong chín năm Tổng thống Diệm chỉ “làm vì” và ông Nhu bao thầu mọi việc. Bác sĩ Tuyến cho rằng “như thế rất sai sự thực” ông Nhu chỉ là một thứ bổ xung cần thiết cho ông Diệm. Kể từ năm 1962, và nhất là khi thành lập ấp chiến lược thì công việc mới bắt đầu dồn lại phía ông Nhu. Nó dồn lại một cách mặc nhiên và ông Nhu cũng mặc nhiên chấp nhận. Nhưng Tổng thống Diệm vẫn giữ quyền của ông mà không ai chia sẻ được, kể cả ông Nhu. Nhiều sự bổ nhiệm trong quân đội cũng như hành chánh khi đã có nghị định, bấy giờ ông Nhu mới biết. Nếu muốn đặt để ai ở một chức vụ quan trọng, ông Nhu chỉ đánh tiếng bằng những lời khen: “Ông ấy, có khả năng, có tài về lĩnh vực ấy”. Khi chú Nhu đã nói như vậy thì ông Tổng thống tin ngay và chắc chắn đương sự được bổ nhiệm. Nhưng nếu mọi việc không có ý của ông Nhu thì ông Tổng thống cũng không yên tâm. Như việc thảo diễn văn chẳng hạn. Những năm đầu thì do ông Trần Chánh Thành viết, sau này do ông Lương Danh Môn (Tổng thư ký Bộ Quốc phòng) hoặc khi nào rảnh thì do ông Võ văn Hải. Ông Hải đảm trách phần vụ viết diễn văn bằng Anh ngữ. Nhưng ai viết cũng đều phải qua tay ông Nhu đọc lại. Diễn văn quan trọng thì tự tay ông Nhu viết. Nhưng dù ai viết và ông Nhu đã xem lại Tổng thống thế nào cũng đọc kỹ và sửa một vài chữ mới bằng lòng. Một lần theo lời viên sĩ quan hầu cận (Đại úy Bằng): “Ông Nhu đưa bài diễn văn qua phòng Tổng thống, ông đọc rồi lắc đầu quầy quậy”. Về diễn văn phải viết bằng tiếng Pháp thì do ông Nhu viết. Về Anh văn do ông Võ văn Hải hoặc Trương Bửu Điện và sau này là Tôn Thất Thiện viết. Dù vẫn phục ông Nhu về tài viết tiếng Pháp văn nhưng thế nào ông Diệm cũng đọc lại rồi giở từ điển ra coi, cân nhắc một vài “từ” cho chỉnh. Về Anh văn cũng thế, mặc dầu Tổng thống Diệm không có sở trường về Anh văn. Một lần viếng thăm một quân đoàn, ông tướng Tư lệnh của quân đoàn này đọc mấy lời: “Kính dâng Ngô Đình Diệm”... ông Diệm nhăn trán quắc mắt vì trong đó chữ Hán dùng sai. Buổi tối, trở về phòng trong lúc vui chuyện, ông bảo sĩ quan hầu cận: “Cái thằng nớ nó người Hoàng tộc sao mà nó ngu như rứa. Nó học hành đến đâu hè, ông thân sinh của nó xưa nghe giỏi chữ Hán...” Rồi ông nhớ mãi. Vào tháng 10-1963, có sự đề nghị của ông tướng này tham chánh, ông Tổng thống lại nhắc đến bài “Kính dâng” xưa kia và nói giận dữ. “Chữ, nó còn không thông thì nó còn biết cái mô tê chi”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 22/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Như trên đã viết, ông Nhu là một thứ bổ sung cần thiết cho ông Tổng thống. Trong bất cứ một vấn đề quan hệ nào nếu không có ý kiến của ông em thì ông anh không an tâm. Nhưng thế giới của ông anh là của riêng ông anh, ông em không thể nào “xía” vô. Hai thế giới cách xa nhau, màu sắc và bản chất cũng khác nhau. Căn phòng làm việc của ông anh Tổng thống thì hoàn toàn thiếu trật tự, giấy tờ hồ sơ ông để lung tung. Ông làm việc không theo giờ ấn định, không có lịch trình. Theo Đại tá Đỗ Mậu, khi vào trình Tổng thống về việc A... nhưng chỉ ít phút sau ông hỏi qua việc B rồi lan man qua phạm vi tử vi tướng số. Ông thích hàn huyên tâm sự, thích nói chuyện đời xưa... Trái lại văn phòng làm việc của ông Nhu rất trật tự. Hằng ngày ông làm việc theo giờ giấc và đúng lịch trình. Ông làm việc tại văn phòng, phía sau bàn giấy là tủ sách. Hồ sơ để theo thứ tự và xếp từng loại. Sự ngăn nắp này cũng dễ hiểu vì ông là một tổng quản thủ thư viện và văn khố... Nhưng Tổng thống Diệm gặp đâu làm đó lại luôn luôn giải quyết công việc bằng khẩu lệnh. Theo Lương Khải Minh người ta thường cho rằng ông Nhu nói gì ông Tổng thống nghe nấy, điều đó không đúng... ông Tổng thống chỉ nghe ông Nhu về những vấn đề quan trọng thuộc lãnh vực chiến thuật và chiến lược. Ngoài ra, những vấn đề khác nhất là những vấn đề thuộc lãnh vực hành chánh và dinh điền, ông Nhu đôi khi phải nhờ đệ tam nhân can thiệp với ông Tổng thống. Đệ tam nhân đó có thể là ông Nguyễn Đình Thuần, vừa là người của ông Tổng thống và là người được lòng ông Nhu. Trường hợp bổ nhậm Nguyễn Xuân Khương là điển hình. Tuy ông được bác sĩ Tuyến giới thiệu với ông Nhu khi ông Nhu muốn kiếm một người làm Tổng giám đốc Điền địa, có khả năng chuyên môn để phụ giúp Bộ trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa. Trong giới kỹ thuật, Lương Khải Minh thấy ông Khương là kỹ sư chuyên về địa chánh, ăn nói lại lưu loát Nhờ đó ông Khương được cất nhắc. Vì đang chú trọng đến công tác chỉnh trang lãnh thổ nên Khương luôn luôn có dịp ở bên Tổng thống. Ông Tổng thống lại là người ưa thích xem họa đồ,nói chuyện đất đai lãnh thổ. Ông Khương lại là người lanh chân, lẹ miệng nên được lòng Tổng thống. Từ khi địa vị đã vững vàng, theo sát chân Tổng thống, ông Thương lờ luôn cả ông Nhu, mọi việc ông Khương nhất nhất đều trình thẳng lên Tổng thống. Bởi vì nếu đã được lòng Tổng thống dầu rằng ông Nhu có ghét cũng không sao. Tháng 6-1963, Nguyễn Xuân Khương được cử thay thế Hồ Đắc Khương làm Đại biểu Chính phủ tại Trung Nguyên. Ông Nhu chỉ được biết ông Tổng thống đã quyết định bổ nhiệm ông Khương, ông Nhu đành bóp đầu bóp trán: “Hắn thì biết gì về chánh trị mà cử ra đó” nhưng ông anh đã quyết định thì ông em đành phải nghe theo rồi tìm đệ tam nhân “nắm” Nguyễn Xuân Khương. Một thí dụ khác, ông Võ văn Hải và ông Nhu hai bên không ưa nhau, ông Hải có thành kiến và ghét luôn những người làm việc với ông Nhu, ông Hải công khai công kích bà Nhu. Thế nhưng, hai người vẫn làm việc song song đối đầu nhau. Có những việc mật, chỉ ông Hải biết mà ông Nhu không hay, cho dù không ưa ông Hải, ông Nhu cũng chả làm được gì hơn. Trong gia đình đó kẻ làm em phải chịu lép vế. Theo Lương Khải Minh nhiều vấn đề ông Nhu rất không đồng ý với ông anh và nhiều lần công kích, nhưng khi gặp Tổng thống Diệm thì ông Nhu lại ngồi lặng thinh không dám nói. Cũng như ông Cẩn ở miền Trung,ông không ưa gì bà Nhu, thường nặng lời công kích, mạt sát, nhưng khi gặp ông anh trai và bà chị dâu thì ông Cẩn lại lặng thinh. Tuy cùng ở trong dinh, sống chết có nhau trong chín năm, ông Nhu rất ngại gặp ông Tổng thống. Theo sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn, từ khi vào dinh làm việc, từ năm 1958 đến năm 1963, Hoàn chỉ đến chào ông Nhu lần thứ nhất khi nhận việc theo sự chỉ dẫn của Tham mưu Biệt bộ. Lần ấy gặp ông Nhu, ông nhìn Hoàn mỉm cười, nói mấy câu ngắn ngủi: “Cám ơn, ở đây mà làm việc”. Ông Nhu hầu như không để ý đến thế giới của ông anh kể cả cộng sự viên thân tín của ông anh. Trường hợp Lê Công Hoàn được gọi về dinh cũng đầy bất ngờ như bao nhiêu trường hợp khác. Anh đang phục vụ trong ngành Công binh tại Pleiku thì có công điện gọi về trình diện tướng Đính tại Ban Mê Thuật. Gặp Hoàn tướng Đính nói: “Anh về Sài Gòn trình diện Tổng thống”. Rồi ngay đêm đó, ông Đính cho một chiếc xe Jeep thật tốt có người hộ tống Hoàn đi suốt đêm từ Ban MêThuật về tới Sài Gòn, Lê Công Hoàn rất hồi hộp không biết số phận hên sui ra sao. Sáng hôm sau, dù qua một đêm hành trình mệt mỏi, để vào gặp Tổng thống Hoàn cũng phải quần áo chỉnh tề ngay ngắn... Nhưng gặp ai và ai đưa vào trình diện Tổng thống? Lúc ấy Lê Công Hoàn còn là Trung úy, nên Hoàn đến trình diện Bộ Tổng tham mưu, ở đây lắc đầu không biết, Hoàn đến Bộ Quốc phòng, ở đây bảo qua Lữ đoàn Liên biệt phòng vệ. Bộ Tư lệnh Lữ đoàn cũng không biết và bảo qua Tham mưu Biệt bộ gặp Trung tá Cao văn Viên. Bấy giờ mới tìm đúng chỗ. Sau đó Hoàn được Trung tá Viên đưa vào trình diện Tổng thống Diệm. Trước hết, Tổng thống lừ mắt nhìn Hoàn từ đầu đến chân, ông nhìn thật lâu có lẽ để xem tướng Hoàn, dùng người ông Diệm có thói quen bắt tướng. Một lát ông gật đầu, hỏi qua Hoàn về gia đình. Ông hỏi Hoàn: “Đeo kiếng cận như vậy có bắn được không?” Lê Công Hoàn đáp: “Dạ thưa, gần thì con bắn được”. Ông Diệm lại hỏi: “Trúng không?” Hoàn thưa: “Dạ bắn được thôi, con không dám nói là trúng”, ông Tổng thống gật đầu cười. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 23/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Năm năm sống cạnh Tổng thống Diệm, sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn cho biết rằng: Hoàn cũng chẳng có quan niệm nào về Đảng Cần Lao, đã được ông Tổng thống tín nhiệm yêu thương thì khỏi cần đảng phái. Mà ông Tổng thống cũng rất ít nhắc đến Đảng. “Việc đảng phái đã có chú Nhu lo”. Tổng thống thường nói vậy. Người không hề tham gia đảng phái chính trị nhưng Đại tướng Lê văn Tỵ rất được ông Tổng thống tín nhiệm, thương yêu trong sự tương kính. Dù có chân trong Đảng hay được ông Nhu ông Cẩn tín nhiệm, nhưng Tổng thống không ưa gì thì đương sự cũng khó ngóc đầu lên được. Ông Nhu làm việc và tiếp khách đều theo lịch trình đã ấn định sẵn. Kể cả lúc đi săn cũng thể theo chương trình. Một vài năm ông lại về Huế 10 ngày và đọc sách. Đọc sách cũng có chương trình. Bằng ấy ngày nghỉ sẽ đọc bằng ấy quyển. Mỗi lần đều có sổ tay ghi chép. Ông Tổng thống thì không. Sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn cho biết: Mỗi lần ông Tổng thống đi kinh lý ở đâu,văn phòng đều có định trước chương trình. Ví dụ ông lên Đà Lạt thì 9 giờ thăm trường Võ bị, 14 giờ đi thăm ấp chiến lược... Rồi sẽ tiếp những ai. Tuỳ viên phải học thuộc lòng. Tổng thống hỏi nói ngay không bao giờ được lấy giấy ra coi. Tuy nhiên chẳng bao giờ Tổng thống theo chương trình, ngoại trừ trường hợp có các ông Đại sứ tháp tùng. Việc tiếp khách cũng thế, theo nguyên tắc Tham mưu Biệt bộ sắp đặt để Tổng thống tiếp ai, giờ nào, ngày nào. Nguyên tắc ấy thực tế không bao giờ được tôn trọng. Viên chức văn võ đến ngồi chờ trong phòng khách rồi tùy theo chức vụ cấp bậc và công việc gấp hay không gấp, sĩ quan tùy viên sẽ mời từng người vào “hầu”. Lúc ấy ông sĩ quan tùy viên trở nên quan trọng, có thể nói, tùy viên “khoái ai” thì đưa người đó vào trước... Không có cảm tình thì dù ở cấp bậc cao cấp tùy viên vẫn có thể cho ngồi chờ hai, ba giờ. Có người Tổng thống tiếp năm, ba phút, có người được tiếp lâu hai, ba giờ. Phía tướng lãnh người tương đầu hợp ý với Tổng thống Diệm là Đại tướng Tỵ. Mỗi lần Đại tướng Tỵ vào dinh gặp Tổng thống sẽ lâu tới một, hai giờ. Mọi người đều xác nhận, tuy tướng Tỵ không có tài thao lược nhưng lại rất tốt bụng, tướng Tỵ không khúm núm, không quỵ lụy, tướng Ty đề cử ai thì xem như chắc ăn 100%. Chính tướng Tỵ đích thân tuyển chọn Trung tá Sang lái máy bay riêng cho ông Diệm. Về nội bộ Quân đội, tướng Tỵ nói điều gì, Tổng thống Diệm tin điều đó. Tuy nhiên, tướng Tỵ đối với các tướng tá khác đều coi là đàn em, nên ông không gièm pha ai. Về việc tưởng thưởng Bảo quốc huân chương, Tổng thống “tiết kiệm” dè dặt. Ông Tổng thống coi thứ Huân chương này như nấc thang giá trì cao nhất tiêu biểu cho chiến công và sự nghiệp của người được thụ lãnh. Nhưng tướng Tỵ đề nghị cho ai thì người ấy được ngay. Ngoài tướng Tỵ ra, khó lòng ai có thể đề nghị cho người này người kia được Bảo quốc huân chương. Thí dụ trường hợp của Trung tá Khôi khi được cử làm Tuỳ viên quân sự tại nước ngoài. Ông Khôi là một sĩ quan tham mưu, nên huy chương không có nhiều. Ra ngoại quốc là sĩ quan tùy viên như vậy thì hơi kỳ, nên có người vận động Tổng thống cho ông Khôi được Bảo quốc huân chương. Dù là người thân cận tín nhiệm xin cho ông Khôi song Tổng thống vẫn gạt đi. Cuối cùng ông Khôi nghe lời bạn cứ ra tiệm mua đại một cái Bảo quốc huân chương đeo vào ngực cho có thể thống. Ông Nhu thì coi thường giai cấp quan lại cũ, ông Tổng thống vẫn hoài nhớ dĩ vãng xa xưa cho nên ông mới tái lập Kim khánh bội tinh. Lập lại cả chức vụ Chánh phó Tổng tại địa phương. Ông lại hay quan niệm gọi cấp bậc của thuộc viên từ thời Pháp. Chẳng hạn ông Tá X. Ông Tổng thống lại thường nói: “À ông Đội phẩm” (ông này vốn thuộc hàng xuất đội) ông Y, ông Tổng thống quen biết từ xưa nên lại thường gọi “À ông Huyện...” Không phải cứ quen thân ông bà Nhu là được Tổng thống Diệm tín nhiệm, nhiều khi lại ở thế kẹt. Ngô Đình Diệm là người nóng tính nhưng cả nể. Cũng vì sự cả nể nên bao nhiêu tai tiếng về vụ Trần văn Khiêm đến tai ông, ông đều bỏ qua, chỉ vì Khiêm là em ruột bà Nhu (sau đảo chính 1963 Khiêm bị khép tội mật vụ). Lương Khải Minh xác nhận, Khiêm chả có chức vụ gì cả, không một ai giao cho anh ta công việc gì. Nhưng dựa vào thế của người chị, Khiêm đã ra ngoài lộng hành, nhân danh người này người kia. Khi vào dinh thì chạy lăng xăng. Nể bà Nhu nên không ai để ý. Có mấy khi Khiêm được gặp Tổng thống Diệm đâu. Có một lần sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn ghi nhận: Hôm ấy Khiêm được Tổng thống Diệm cho gọi vào. Khiêm tưởng Diệm ban phát chức vụ bổng lộc, nên mặt mũi quan trọng, hất hàm bảo Đại úy Lê Công Hoàn “Nè, ông Đại úy ông đưa tôi vào gặp Tổng thống”, ông Hoàn nhã nhặn: “Thưa ông, Tổng thống đang bận, xin ông chờ”. Nhưng Khiêm ra vẻ quan trọng. “Tôi cần vào gặp Tổng thống ngay”. Nói xong Khiêm kéo tay nhìn đồng hồ rồi tiếp: “10 giờ tôi có hẹn gấp Tôi không thể chờ được lâu”, Hoàn đáp thủng thẳng: “Được xin ông cứ chờ”. Đáng lý ra Lê Công Hoàn đưa Khiêm vào gặp Diệm ngay sau đó nhưng “trả thù” cho bõ ghét, nên Hoàn cứ để cho Khiêm ngồi chờ đến 11 giờ trưa mới dẫn vào yết kiến ông Diệm. Sĩ quan tùy viên vừa khép cửa đã nghe thấy tiếng ông Diệm la mắng quát tháo Khiêm thật dữ dội. Một lát sau Khiêm đi ra mặt tái xám, tiu nghỉu, cắm đầu rảo bước. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 24/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Khiêm không có một chức vụ, một vai trò nào, ấy thế mà ở ngoài ai nghe thấy Khiêm cũng ngán. Khiêm chỉ là thứ cáo mượn oai hùm. Dưới chế độ Ngô Đình Diệm không thiếu những kẻ cáo mượn oai hùm như Khiêm. Nhưng bọn họ có khả năng tạo nên sự nghẹt thở trong các khối quần chúng, reo rắc thêm hoang mang trong dân gian, đi đến đâu chúng cũng nhân danh ông này, ông nọ để lấy le và để lường gạt cũng có... Bất cứ một chế độ nào muốn vững vàng, muốn dân chúng tín nhiệm thì phải sáng suốt trừ ngay những thành phần cáo mượn oai hùm, nhất là chúng con cáo đó lại là bà con anh em của người cầm quyền thì sự tác hại của nó đối với chế độ không phải là nhỏ. Gần những năm cuối cùng của chế độ, gia đình Tổng thống Diệm cũng bắt đầu phân hóa và mâu thuẫn lớn dần trong mấy anh em. Ông Nhu càng ít gặp ông anh Tổng thống. Nhiều việc ông anh tự quyết định mà không cần hỏi “chú Nhu”. Ngoài miền Trung, Cẩn bắt đầu uống rượu. Trước kia Cẩn chỉ nhấm nháp chút đỉnh rượu lễ. Từ năm 1961,1962 Cẩn đã uống cả ly lớn. Mỗi lần say ngất ngư, ông ta lại thét, chửi mắng. Cố vấn thì càng thêm say mê săn bắn. Đại úy Thạp, tùy viên của ông cho biết rằng, có khi ông Nhu nằm dưới hầm săn cọp hai đêm liền. Có khi phải theo ông ta đi bộ cả ngày trong rừng già Phan Rang. Đó cũng là dấu hiệu báo trước sự thay đổi lớn trong nội tâm của những cột trụ chế độ đang ở giai đoạn suy tàn. Trong năm 1963, giới thân cận Ngô Đình Cẩn cho biết: ông Cẩn ức mà thổ huyết ít nhất cũng ba lần. Một lần ngồi ăn cơm với các anh, không biết anh em “xào nấu” nhau ra sao (người ngoài không thể biết được) Cẩn mặt đỏ gay rồi thổ huyết ngay trong bữa ăn (nói nôm na là tức giận mà hộc máu). Cố vấn Nhu cũng như Ngô Đình Diệm bắt đầu bị ám ảnh nặng nề bởi tổ chức CIA. Ông Nhu vẫn cho rằng CIA thuộc loại ... “thứ đó hết xài nổi”. Dạo ấy muốn dèm pha ai, hại ai chỉ cần cấp báo với ông Nhu “người ấy hoạt động cho CIA”, đương sự kể như tan tành công danh, mất chức nghiệp. Thế giới của anh em Ngô Đình Diệm bắt đầu xa cách nhau. Xin đưa ra một thí dụ đã nói lên sự xa cách đó. Tháng 10-1963, Tổng thống Diệm với sự góp ý của Nhu đã ra lệnh giải tán ngay Văn phòng Cố vấn chỉ đạo miền Trung của Ngô Đình Cẩn, Diệm cho rằng mọi công việc đều do tòa Đại biểu Chính phủ giải quyết... Đại úy Nguyễn văn Minh rời khỏi chức vụ Chánh văn phòng Cố vấn chỉ đạo miền Trung. Đại úy Minh qua lời giới thiệu của cha Bửu Đồng (khi ông Minh còn đóng ở đồn Cửa Tùng) đã trở thành nhân vật cốt cán của Cẩn từ tháng 5-1954. Trong chín năm sống ở bên cạnh Ngô Đình Cẩn, hầu hết trong gia đình họ Ngô từ Tổng thống đến Đức Cha không còn xa lạ gì Đại úy Minh... Minh trở thành người trong gia đình và rất được tin cẩn. Tháng 10-1963, bỗng dưng Đại úy Minh bị gọi vào Sài Gòn qua thủ tục hành chánh. Một thủ tục chưa bao giờ áp dụng đối với người trong nhà. Bộ Nội vụ theo lệnh Tổng thống đánh công điện cho Tòa Đại biểu chỉ thị cho Minh vào trình diện Tổng thống. Mà Cẩn không được hỏi ý kiến. Điều ấy làm Cẩn tức giận không ít. Khi vào gặp Tổng thống Diệm, Tổng thống vẫn vui vẻ hỏi: “Tôi nghe nói ở ngoài đó anh liên lạc với người Mỹ nhiều lần hỉ?” Đại úy Minh trình bày sự liên lạc của ông với Lãnh sự và Phó lãnh sự Mỹ tại Huế. Đại cương ông Minh nói: “Con có gặp gỡ họ luôn. Đây là theo chỉ thị của ông Cậu ông Cậu bảo con nên tìm cách tiếp xúc người Mỹ và tìm hiểu xem thái độ của họ ra sao” - Tổng thống Diệm gật đầu không nói gì. Khi Đại úy Minh trở lại Huế vào gặp Cẩn và đưa cho ông ta xem sự vụ lệnh thuyên chuyển Minh lên trường Võ bị Đà Lạt thì vẻ mặt Cẩn lúc ấy đăm chiêu và lộ vẻ buồn rất sâu đậm. Ngô Đình Cẩn bảo Đại úy Mình: “Thôi thì anh cứ đi. Ông Cụ làm thế này là ông Cụ đập vào mặt tôi”. Hôm ấy là ngày 28-10-1963. Đại úy Minh sau chín năm phục vụ bên cạnh Ngô Đình Cẩn phải xếp hành trang rời bỏ cố đô Huế. Có điều đáng nhớ: Đại úy Minh sinh trưởng tại miền Bắc, khi trở thành Chánh văn phòng của Ngô Đình Cẩn mới trên 26 tuổi... Một số người vẫn cho rằng Cẩn không ưa người miền Bắc, nhưng trường hợp Đại úy Minh cũng như nhiều cộng sự viên thân cận của ông Cẩn gốc miền Bắc đã đủ nói lên đây chỉ là “dư luận”, có thể dư luận ấy xuất phát từ ngôn ngữ của Cẩn mỗi khi la hét những người gốc Bắc. Đại loại sự xa cách trong gia đình họ Ngô là như vậy. Chỉ có thể nói là xa cách còn sự bất hòa không mấy ai biết được ngoại trừ người thân thiết của ba anh em ông. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 25/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Ông Tổng thống nóng nảy chửi ai thì chửi thẳng vào mặt. Ông Nhu không ưa ai nhưng vẫn cười nửa miệng, lạnh lùng khó hiểu. Ông Cẩn hay quát tháo, xử dụng ngôn ngữ bình dân với thái độ hách dịch kiểu Đổng lý thời xưa. Uy quyền Đáng lý ra, những tiểu tiết thuộc vấn đề nhân sự không nên trình bày, song có một điều: Chính những tiểu tiết vụn vặt nhiều khi lại làm hỏng đại sự. Ngô Đình Diệm có cái uy của người lãnh đạo tối thiểu, nhưng ông lại luôn luôn bị chi phối bởi những chi tiết vụn vặt do cá tính của ông cũng như sự dị biệt trong cá tính của anh em ông. Về Ngô Đình Nhu, ai cũng phải công nhận rằng ông ta rất giỏi, thông minh, am tường và thông suốt nhiều vấn đề, nhưng lại quá kiêu ngạo, tính tình lại lạnh lùng khép kín. Tổng thống Diệm là một người giữ chữ Lễ, chữ Nghĩa theo tiết độ của nho gia đã trở thành cái khung chắc nịch nhốt ông vào trong đó. Do đó mà cái tôi tình cảm (le moi sensible) của ông không thể hiện được ra ngoài để thâu phục nhân tâm và hỗ trợ cho cái uy sẵn có của ông. Sau 1963, phải nhìn nhận rằng, trong hàng lãnh đạo quốc gia tại miền Nam, chưa có một nhà lãnh đạo nào chứng tỏ có cái uy như ông. Đó là ưu điểm và là điều cần thiết số một của một ông Quốc trưởng. Không có uy thì quốc gia còn gì phép tắc, thể thống và uy quyền? Những người thân cận đều xác nhận rằng: Phải sống lâu với Tổng thống mới nhận ra con người thực của ông. Con người ấy lại luôn luôn bị tình cảm chi phối, ông cả nể và cả nghe. Năm 1959 là năm ông đang say mê với công cuộc khẩn hoang và phát triển đồn điền. Cho nên nếu ai khéo nói, khéo trình bày hợp lý, là Tổng thống đều chấp thuận cho khai thác rừng để lập đồn điền. Tướng Xuân là một trong những người được ông cho phép khẩn hoang hàng trăm mẫu rừng tại Phước Long để trồng cao su. Có một báo cáo mật của địa phương cho rằng, ông Xuân chỉ giả vờ lấy cớ trồng cao su mà thực ra là để phá rừng lấy gỗ bán. Sau đó Ngô Đình Diệm có xem xét lại rồi gạt bản báo cáo đi, mắng một ông Bộ trưởng: “Bậy bạ. Người ta làm cho quốc gia mà mình cứ phá”. Ông Tổng thống tin mọi người cũng ngay thẳng như ông... Nên đã bao nhiêu giấy phép cho cúp rừng để lập đồn điền khai hoang nhưng “đồn điền” chỉ là cái cớ để lòe Tổng thống mà thôi. Định mệnh an bài Khoảng năm 1956-1960 có tin đồn Đại tướng Thái Quang Hoàng sẽ thay Đại tướng Tỵ. Cũng như năm 1961, có tin tướng Khánh sẽ thay tướng Tỵ. Theo Lương Khải Minh, Đại tướng Tỵ là cánh tay mặt của Tổng thống Diệm. Nếu tướng Tỵ không đi Mỹ chữa bệnh thì chẳng bao giờ tướng Đôn trở thành quyền Tổng tham mưu trưởng, như đã an bài, không ai lúc đó có thể ngờ rằng sự thay đổi chức vụ Tổng tham mưu trưởng lại trở thành một trong những yếu tố làm chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Tổng thống Diệm được một bác sĩ Mỹ cho biết: Bệnh ung thư phổi của tướng Tỵ không thể nào chữa khỏi và chỉ còn chờ ngày chết. Những người thân xin để Đại tướng Tỵ qua Pháp điều trị, ông Tổng thống gạt đi và quyết định đưa Đại tướng qua Mỹ. Từ bao lâu rồi, ông Tổng thống yên trí chỉ có Mỹ mới giỏi về khoa học, Tổng thống muốn tự tay ông lo cho tướng Ty. Trước ngày Đại tướng Ty lên đường sang Mỹ chữa bệnh, có đến cáo biệt Diệm. Hai người tâm sự một lúc lâu. Tổng thống hỏi: “Bà thân mẫu của Đại tướng còn không?” Rồi Tổng thống tâm tình: “Tôi thì thân mẫu còn sống, thân mẫu tôi đã già rồi, tôi cũng phải cố giữ gìn thân thể để còn trả chữ hiếu cho mẹ”. Tổng thống Diệm quý mến tướng Tỵ, trước hết vì tướng Tỵ thật thà lại hay hàn huyên tâm sự với Tổng thống. Tướng Tỵ có thể tiếp chuyện Tổng thống hàng nhiều giờ không phải là chuyện quốc sự hay quân cơ, mà thường là chuyện tình cảm. Tướng Tỵ là một trong mấy tướng chỉ xưng “tôi” mà không dùng tiếng “con” với Ngô Đình Diệm. Đại khái tướng Ty thường nói: “Thưa Tổng thống tôi... Tôi xin trình Tổng thống... Tôi xin thưa Tổng thống”. Tướng Tỵ ăn mặc rất chỉnh tề, đúng quân phong quân kỷ. Mỗi lần vào phòng Tổng thống tướng Tỵ đều chào theo đúng quy cách, đó là điều Tổng thống rất thích. Một ưu điểm khác nữa là tướng Ty không “xin xỏ” lôi thôi... không kéo phe kết đảng... Ông nói năng dõng dạc, nhưng với Tổng thống lại tỏ ra rí rỏm, tâm tình tỏ ra tương đắc. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 26/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Tổng thống Diệm tin cẩn tướng Tỵ từ năm 1954 trong vụ tướng Hinh. Lúc ấy tướng Tỵ đang làm Tư lệnh đệ nhất quân khu khi mà Tổng thống Diệm không có hơn một đại đội phòng vệ dinh, thì chính tướng Tỵ đã âm thầm tìm mọi cách ủng hộ Ngô Đình Diệm. Tháng 9-1954, tướng Hinh dựa vào lực lượng quân đội viễn chinh Pháp quyết liệt hạ cho bằng được ông Diệm, thì tướng Tỵ bên ngoài vẫn giữ tư thế quân nhân thuần túy, không đứng về phe tướng Hinh cũng không công khai ủng hộ Tổng thống Diệm, nhưng trong bóng tối ông đã có thái độ dứt khoát ủng hộ ông Diệm. Từ đó, ông Diệm cảm kích tấm lòng trung kiên của tướng Tỵ. Ông Nhu không ghét tướng Tỵ nhưng cũng không có nhiều thiện cảm đối với vị tướng xuất thân từ thế hệ lính Pháp. Giao lưu tình cảm và công việc giữa tướng Tỵ và ông Nhu gần như không có. Cả năm, tướng Tỵ mới gặp ông Nhu vài ba lần và mỗi lần đôi bên chỉ chào hỏi xã giao. Riêng tướng Tỵ, tỏ ra khâm phục ông Nhu và dành cho ông một sự kính trọng đặc biệt. Sau vụ đảo chính hụt 11-11-1960, Tổng thống Diệm lại càng thương yêu tướng Tỵ và hai con người cùng lớp tuổi đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Cũng sau cuộc đảo chính hụt ấy, một số nhân vật cao cấp có ý tìm cách để Tổng thống Diệm thay thế tướng Tỵ. Nhưng tướng lãnh lúc ấy xem ra cũng không còn ai hơn tướng Tỵ - người được điểm này lại mất điểm kia - ông Tỵ là loại “chung chung” tuy vậy ông cũng bị một số tướng tá trẻ gièm pha, nhất là một số tướng tá thuộc hàng con cưng của ông Cẩn. Thời Đệ nhất Cộng hòa, uy quyền tập trung vào một ông Tổng thống, do đó chức Phó tổng thống của ông Thơ vẫn ở tư thế một viên chức cao cấp hơn là một Phó tổng thống. Ông Thơ không có huy hiệu riêng - ngoại trừ những lần đại diện Tổng thống tham dự những buổi lễ lớn - xe của Phó tổng thống không có hiệu kỳ cũng không cắm quốc kỳ. Ông đi làm bình thường như một công chức: ngồi cạnh tàixế và cũng không có xe Harley hộ tống. Riêng Đại tướng Tỵ là người thứ hai của Đệ nhất Cộng hòa được chia sẻ quyền uy với Tổng thống. Mỗi lần ông vào dinh là một sự uy nghi... hơn cả ông Bộ trưởng Quốc phòng. Tư dinh của tướng Ty ở đường Cường Để, được xây dựng trên một ngọn đồi, chính là do chỉ thị đặc biệt của Tổng thống Diệm. Từ năm 1956, gần như không có một cuộc kinh lý nào của Tổng thống Diệm mà không có mặt Đại tướng Tỵ. Khi biến cố Phật giáo bùng nổ thì Đại tướng Tỵ lâm trọng bệnh. Khi tiễn chân Đại tướng Tỵ, Tổng thống Diệm tặng cho ông một chuỗi hạt và nói “Đại tướng nhớ cầu nguyện cho tôi... Tôi cầu xin ơn trên phù hộ cho Đại tướng” - Tướng Tỵ là một thứ tín đồ công giáo trong tâm hồn - ông thuộc nhiều kinh Công giáo và có lòng sùng mộ Đức Mẹ rất đặc biệt. Mặc dầu gia đình tướng Tỵ là Phật giáo thuần thành. Tổng thống Diệm ngậm ngùi phàn nàn với Đại úy Bằng: “Đại tướng khó qua khỏi... bệnh của Đại tướng không biết. sống chết thế nào, khó qua khỏi năm nay”. Tổng thống Diệm đỡ vai tướng Tỵ và đi cùng ông xuống đến tận thềm dinh Gia Long. Cánh cửa xe đóng lại, tướng Tỵ cúi đầu chào, Tổng thống vẫy tay với một vẻ ngậm ngùi. Tổng thống Diệm chỉ định cho Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng phải tổ chức nghi lễ tiễn chân Đại tướng Tỵ một cách trọng thể đặc biệt. Ngày Đại tướng Tỵ ra phi trường Tân Sơn Nhất đáp máy bay đi Hoa Kỳ, ông đã được hưởng đầy đủ nghi lễ dành cho vị Thống soái. Cửa phòng khách danh dự (VIP) của phi trường được mở rộng... Đây là một vinh dự đặc biệt vì chỉ có Tổng thống mới đi qua cửa này... Trước năm 1963, phòng khách danh dự phi trường Tân Sơn Nhất được xem như là nơi tiêu biểu cho uy quyền và thể thống quốc gia. Dù là ông Ngô Đình Nhu, Đức cha Thục, Phó tổng thống Thơ, Chủ tịch Quốc hội vẫn đi vào phi trường theo ngả thông thường. Năm 1961, vợ chồng ông Nhu công du qua Ma Rốc với tư cách đại diện chánh thức của Tổng thống Diệm thì lần ấy phòng khách danh dự mới mở cửa đón tiếp. Tuy là Tổng tham mưu trưởng nhưng Đại tướng Ty có uy thế rất nhiều so với Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng, đó là một ưu đãi đặc biệt của Tổng thống Diệm đối với ông. Tại Mỹ, khi nghe tin Tổng thống Diệm bị sát hại, Đại tướng Tỵ bàng hoàng rồi ôm mặt khóc. Sau này hồi hương, mỗi lần nghe ai nhắc đến Tổng thống Diệm thì Đại tướng Tỵ lại than thở: “Hồi ông tiễn chân tôi qua Mỹ, ông Cụ tưởng tôi chết... Ai dè ông lại chết trước tôi”. Trước giờ phút lâm chung, tướng Tỵ vẫn giữ trong tay chuỗi hạt của Tổng thống Diệm, ông coi đó như là một kỷ vật thiêng liêng. Mối tình bí mật của Tổng thống Ngô Đình Diệm Có một sự thực đã như thứ hỏa mù bao trùm miền Nam từ hơn chục năm qua: Đó là sự hiểu lầm, nghi quẩn lo quanh và dư luận. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 27/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Dư luận bao giờ cũng chỉ là dư luận. Thế nhưng dân chúng vốn dễ tin, dễ nghe cho nên dư luận về một người này hay một chuyện kia được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dư luận mặc nhiên trở thành sự thực. Hay ít ra cũng như thực. Rồi dân chúng sống trong sự thực đó mà phản kháng, mai mỉa hay bằng lòng với nó. Về sự hiểu lầm, nghĩ sai cũng thế, ngày này qua ngày khác, tích luỹ lại rồi bộc phát tùy theo hoàn cảnh mà trở nên ân oán nhau. Những người trong Chính phủ “quốc gia” miền Nam, tuy đứng cùng trong một chiến tuyến, nhưng rồi vì ngộ nhận, vì chính kiến dị biệt, về đường lối và cách thể... trong hơn mười năm qua, những con người “quốc gia” ấy đã quay lưng lại nhau “ra lườm vào nguýt và đánh đấm” nhau rất “chí tình”. Nói về sự ngộ nhận thì có cả trăm hình thức ngộ nhận. Từ đó dân chúng sẵn sàng “thêu hoa dệt gấm” cho nhau bằng cả cái gia tài tiếu lâm vô hạn. Về Tổng thống Ngô Đình Diệm chẳng hạn. Trước đây có dư luận truyền trong dân chúng là ông Diệm bất lực. Do đó Tổng thống Diệm không lập gia đình và cứ đứng gần đàn bà thì ông ta hay thẹn thùng. Nhiều người, kể cả những người gần gũi Tổng thống nhất cũng như trong hàng ngũ đối lập,đều thắc mắc về tiểu tiết mà họ cho là hấp dẫn, ly kỳ cần phải tìm hiểu: “Tổng thống có như một người bình thường về cơ quan sinh dục không”? Cái quan hệ gấp trăm ngàn lần thì chả để ý, song cái “tiểu tiết” đó xem ra thiên hạ thắc mắc lắm. Rồi ngườí ta sáng tác ra nhiều giai thoại rất ly kỳ và rất phù hợp với bản chất ưa trào phúng và tiếu lâm của dân chúng. Ông Phạm văn Nhu, nguyên Chủ tịch Quốc hội thời Tổng thống Diệm trong buổi trà đàm cho biết rằng, ông và Tổng thống Diệm thân nhau từ năm 11, 12 tuổi ở xứ Huế. Những năm thơ ấu đó trong lúc hai người sống rất tự nhiên theo sự tự nhiên của tuổi trẻ, Phạm văn Nhu không thấy có gì khác lạ nơi con người Ngô Đình Diệm, nghĩa là Tổng thống Diệm hoàn toàn bình thường về cơ thể như tất cả mọi người. Điều này thiết tưởng cũng nên tìm hiểu vì ai cũng hiểu rõ rằng, yếu tố sinh lý trong một con người đã rất quan hệ đến đời sống tâm lý con người đó. Năm 1948, cựu Thượng thư Ngô Đình Diệm vào miền Nam, khi thì ở Vĩnh Long với anh là Ngô Đình Thục, khi thì lên Sài Gòn lưu ngụ tại khu Thánh đường Saint Pierre. Có một thời gian ông Diệm đã sống tại nhà Cha Tam ở Chợ Lớn. Khu Thánh đường ấy, 15 năm sau (1948-1963) ông Diệm trở lại lần cuối cùng rồi vĩnh viễn ra đi về cõi thiên cổ. Ông Diệm thích tâm sự hàn huyên với cha Tam, nên dù đi đâu xa, ông vẫn lưu nhớ. Khi ở Vĩnh Long về Sài Gòn ông Diệm thường đến làm việc, họp với nhóm Tinh thần và Hoa Lư tức là hai tờ báo hoạt động theo khuynh hướng xã hội Công giáo, trụ sở của nhóm Tinh thần và Hoa lư đặt một phòng trên tầng lầu hai của cư thất luật sư Lê văn Kim (vị luật sư đậu nhiều bằng cấp khác nhau. Năm 1945 bị Nhật giết vì cho rằng luật sư Kim là gián điệp của quân đội Đồng minh). Ông Diệm hằng ngày đến trụ sở này để làm việc với một số cộng sự, trong số đó có Giáo sư Phạm văn Nhu vừa từ Huế vào. Giáo sư Nhu cho biết, anh em ông vẫn “tiếu lâm” với nhau sau những giờ làm việc mệt nhọc và cũng là cách để đỡ nhớ vợ con. Nhưng mỗi khi ông “Thượng thư” đến thì anh em ông lại phải bắt tay vào làm việc hội họp. Ông Diệm không thích chuyện tếu. Nhưng ông có thể ngồi nói chuyện liên miên hằng hai, ba giờ hết chuyện đất nước đến chuyện tây chuyện Mỹ, chuyện trên trời dưới biển. Những lúc tâm sự như thế, ông Diệm cười rất có duyên và yêu đời hơn cả những dân có “tình ái” yêu đời. Năm 18, 19 tuổi, khi ông Diệm còn đang là sinh viên trường Hậu bổ, vào một buổi sáng mùa hè nọ, ông đang ngồi đọc sách trên lầu tại nhà chị gái tức bà Cả Lễ, thì ba bốn cô gái Huế đến chơi nhà bà Cả. Vốn là những tiểu thơ khuê các trong một thời mà làn sóng lãng mạn phương Tây đang đổ xô vào tâm hồn giới trẻ (tiểu thuyết Tố Tâm năm 1922 là một thí dụ). Các nàng tiểu thơ kia đã tìm mọi cách chọc ghẹo, chài mồi cậu ấm Diệm, tuy lùn nhưng có bộ mặt điển trai. Vào một thời đại “phi cao đẳng bất thành phu phụ”, và ở giữa đất kinh thành của vua chúa quan quyền thì tất nhiên là cậu ấm Diệm trở thành đối tượng cho lòng say mê của biết bao nhiêu tiểu thơ. Nhưng hôm ấy, trước sự chài mồi,chọc ghẹo của các cô, cậu ấm Diệm bỗng nhiên nổi nóng, đứng trên lầu mà mắng các cô, những rằng “con gái gì mà hư thân trắc nết như rứa”. Thêm vào đó, cậu ấm Diệm khi còn học ở trường Pellerin đã từng nuôi mộng đi tu để trở thành một sư huynh sau này. Từ buổi cậu bất thần nổi giận với mấy cô, cả vùng Phú Cam các cô rỉ tai nhau: “Cậu Diệm sợ đàn bà con gái”. Cũng từ đó khi trở thành Tri phủ Hòa Đa, Tuần vũ Phan Thiết, ông Diệm đã “ở vậy” dù có rất nhiều gia đình “đường quan vị vọng” đánh tiếng gả con gái cho. Cho đến năm 1948, khi ông Diệm đã gần ngũ tuần, giới thân cận của ông không ai nghe thấy ông nói về chuyện đàn bà con gái. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 28/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Phần vì nể ông, cho nên trong những lần trò chuyện với ông cũng chẳng ai đề cập làm chi. Lại có một số người “đạo đức giả” mỗi khi gặp ông chỉ nói toàn chuyện đạo đức tu hành thánh hiền. Hóa cho nên trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, ông Diệm đã không có dịp nào sử dụng ngôn ngữ về thế giới đàn bà và tình ái. Rồi dần dần, mỗi khi nhắc đến ông Diệm, người thân và cộng sự của ông đã chỉ coi ông như một người đàn ông đứng riêng trong một thế giới không vướng mắc mùi “tục lụy”. Bí mật của những điều thầm kín Sau này khi ông Diệm chấp chính cho đến năm 1963, người ta lại càng hồ nghi, rồi trở nên tin tưởng ông “bất thường sinh lý”. Quanh cái tiểu tiết đáng tò mò này giới có ăn học lại thường đem ra phân giải theo sự ăn học. Giới bình dân thì lại rỉ tai nhau theo cái máu trào phúng của giới bình dân. Về điều gì chứ cái sự liệt của một người không đi tu dân Việt ta coi bộ không chịu và người đó bị coi là dân khó tính, dân không chịu chơi, dân mất thăng bằng và hay quan trọng hoá. Sau vụ 11-11-1960, một luật sư - người của chế độ cũ - lúc ấy đã phẩm bình trong hơi men chếnh choáng, đại ý rằng “ông Diệm thì liệt, ông Nhu thì coi bộ “lãnh cảm” nên bà Nhu mới tha hồ khống chế tung hoành, theo cái luật âm thịnh dương suy”. Như trên đã viết, ông Diệm là một người bình thường trong phần “cơ cấu quan trọng của thân thể”, giáo sư Phạm văn Nhu kể lại như sau: Vào một buổi sáng đẹp trời, năm 1948, ông Diệm từ nhà thờ Cha Tam đến tìm ông Nhu ở trụ sở nhóm Hoa Lư Tinh thần (nhà luật sư Lê văn Kim). Hôm ấy, ông Diệm vui tươi lắm, mất hẳn sự ưu tư khắc khổ. Ông Nhu nghĩ trong bụng: Có lẽ, “Cụ Thượng thư” mới nhận được tin gì tốt lành đây ông Diệm bảo ông Phạm văn Nhu: “Mọi công chuyện hãy xếp lại đó sáng nay bọn mình đi chơi sở thứ”. Ông Nhu đi mượn một chiếc xe hơi Limousine của một vị tướng Cao Đài, rồi hai người “thả ga” lên dọc sở thú. Dọc đường ông Diệm đề nghị “Bọn mình ghé tiệm nào đấy uống ly café chơi”. Và đó cũng là một điều lạ khiến ông Nhu thắc mắc: “Hẳn ông ấy phải có một chuyện chi quan hệ lắm đây”... Sau tuần café sữa, hai người lên sở thú, đi một vòng thưởng ngoạn cỏ cây hoa lá chim muông. Nhưng xem chừng ông Diệm có điều gì “nao nức” khác hơn là chuyện đi chơi sở thú. Ở sở thú ra, ông Diệm có vẻ ngần ngại, đắn đo một lúc lâu rồi bảo ông Nhu: “Ông cho tôi lên đường Pasteur nơi ngã tư Pasteur và đường Legland De Lahraye” (tức Phan Thanh Giản hiện nay). Đến nơi, ông Diệm bảo ông Nhu khóa xe rồi đi theo ông.. Hai người vào một căn nhà trên tầng lầu hai (một dãy nhà dài, gồm nhiều căn và hầu hết đều là nhà công chức người Pháp). Ông Nhu chỉ hỏi: “Ông vào nhà ai ở đây?”. Ông Diệm vẻ mặt tươi hẳn lên và đáp: “Tôi vào đây thăm con mệ nó”. Lần đầu tiên ông Nhu nghe thấy ông Diệm nói đến “con mệ nó”, ông đi thăm “con mệ nó”. Trước khi vào nhà ông Diệm nói: “Con mệ nó hiền đức lắm” - ông Diệm gõ cửa, một người đàn ông trạc 50 tuổi ra mở cửa, vừa trông thấy ông Diệm, ông ta đã cúi đầu kính cẩn thưa: “Mời cụ lớn vào”. Ông Diệm hỏi ngay “Bà có nhà không?” Người đàn ông thưa: “Bẩm cụ lớn, bà con mới ra Nha Trang, mời cụ lớn vào nhà dùng nước đã” - Vẫn theo lời giáo sư Phạm văn Nhu, ông Diệm đang tươi vui bỗng nhăn mặt lại, không vui. Ông nói trống không “Lạ chi hè, đi Nha Trang mà không cho biết hỉ”. Ông Diệm đứng bần thần một lúc rồi hỏi người dàn ông: “Ông có biết bà ra Nha Trang ở nơi mô không, ông có địa chỉ không?” Người đàn ông đáp là có biết. Ông Diệm bỗng vui hẳn lên rồi líu tíu quay sang phía ông Nhu: “Ông có mang giấy bút, ông ghi lại cho tôi ngay”. Ông Nhu thì nghĩ bụng hẳn ông Diệm hay lui tới căn nhà này luôn cho nên gia nhân mới thân mật, mời chào như vậy. Căn nhà đó lần đầu tiên ông Phạm văn Nhu đến thăm và ông cũng là người duy nhất được ông Diệm tin cẩn cho đi theo. Khi đã có địa chỉ trong tay rồi, ông Diệm rất mừng trở về và bảo ông Nhu phải sửa soạn hành lý đi ra Nha Trang ngay để thăm “cho biết”. Dọc đường trở về nhà ông Diệm đã tâm tình với ông Nhu là “con mệ nó” tuy lấy Tây, tuy là hạng đàn bà bị người khinh rẻ, nhưng lòng dạ tốt lắm và rất thương đồng bào. Nhờ “Con mệ nó” (ông Diệm nhắc đi nhắc lại nhiều lần) ông đã cứu được nhiều người quốc gia [1] bị mật thám bắt. Ông Diệm cho biết thêm, chồng “con mệ nó” là người Pháp tòng sự tại Sở Mật thám liên bang Bót Catinat (Surreté Fédérale) mỗi khi có bạn bè hay người quen thuộc phe quốc gia bị mật thám bắt ông Diệm lại nhờ “con mệ nó” lập tức, chồng “con mệ nó”, can thiệp trả tự do ngay. (Sau này cũng vì một vụ can thiệp như vậy do ông Diệm cậy nhờ qua trung gian là “con mệ nó” người chồng Pháp của bà ta bị thải hồi sau phải lên Đà Lạt làm cho một hãng sửa xe hơi. Rồi người chồng của bà ta bị chết trong một tai nạn máy bay trên không phận Sài Gòn). Ngày hôm sau hai ông đã có mặt tại Nha Trang. Ông Nhu đi kiếm địa chỉ trước, để về cấp báo cho ông Diệm “con mệ nó” của ông đang ở nơi mô. Khi gặp mặt bà ta, ông Nhu mới ngã ngửa người kinh ngạc. Người đàn bà này không ai khác hơn là cô gái Huế mới thuở nào hai người từng quen mặt biết tên và cô gái Huế xinh tươi thuở ấy cũng đã từng biết mặt, nghe tên “cậu ấm Diệm”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 29/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Qua bao nhiêu năm xa cách, ông Nhu không hiểu từ một duyên cớ nào cô ta đã phải đem thân lưu lạc đến tận đất Sài Gòn và trở thành vợ một người da trắng. Ông Nhu cho biết thêm: “Đây là người đàn bà thuộc loại sắc nước hương trời, ăn nói lại duyên dáng mặn mà”. Ông Diệm đã tâm tình với ông Nhu: “Tôi thương con mệ nó hiền đức, tuy lấy Tây mà nó vẫn còn tình, còn nghĩa với người đồng bào”. Bà ta ra Nha Trang lần ấy để thăm xứ Thùy Dương lần cuồi cùng, trước khi sang Pháp sống lưu lạc nơi quê chồng. Một nhà thơ Pháp từng than thở cho nỗi đoạn trường ân ái “Mon coeeur à son secret, mon amour à son mystère...” [2]. Biết đâu ông Diệm đã chẳng từng nuôi cơn mộng sầu nhớ thiên thu của tình trường. Chỉ biết rằng, vẫn theo lời giáo sư Nhu từ đấy rồi... thôi, riêng ông không bao giờ còn nghe thấy ông Diệm nhắc lại,ba tiếng “con mệ nó” với bao nhiêu nao nức như lần đi thăm sở thú và đến Nha thành... Một số người có khuynh hướng thần thánh hóa Ngô Đình Diệm (mà cựu Bộ trưởng Trần Chánh Thành là một), nên đã dựng lên những câu chuyện đầy bí ẩn về đời riêng của ông ta. -------------------------------- 1 Chỉ người của Ngô Đình Diệm. 2 Trái tim tôi thuộc về điều bí mật của ông ta, tình yêu tôi thuộc về sự huyền bí của ông ta. 4. Tổng thống Diệm và Công giáo Chúng tôi đơn cử một thí dụ về “mặc cảm Công giáo” đối với Tổng thống Diệm. Vào lần cải tổ Chính phủ năm 1961. Ông Nhu được ủy thác tìm một nhân vật giữ chức vụ Bộ trưởng Tư pháp. Ông cho mời bác sĩ Tuyến bàn luận và ngỏ ý : - Tôi muốn mời một luật sư Suy nghĩ một lát, ông nói : - Giới thẩm phán thì có chuyên môn nhưng “Sans caractère politique”. Bác sĩ Tuyến đáp : - Trong hoàn cảnh này, ông Cố vấn nên chọn người trong giới thẩm phán. Ông Nhu băn khoăn : - Khó lắm. Ông Sĩ đó cũng là thẩm phán! Bác sĩ Tuyến trình bày : - Giới thẩm phán có nhiều người rất khá. Ông Nhu hỏi : - Ai đấy? Liệu có làm được gì không hay cũng chỉ như... gagner quelque chose! Bác sĩ Tuyến đề nghị : - Phía nguời Bắc tôi thấy có ông tòa Nguyễn văn Lượng. Phía người Nam tôi thấy có ông tòa Trần Minh Tiết. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 30/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Ông Nhu không ngần ngại chấp nhận để ông tòa Trần Minh Tiết giữ Bộ Tư pháp vì ông Tiết có ba ưu điểm: Người Nam, thẩm phán cao cấp và ở tuổi tráng niên. Vì biết tính ông Diệm nên “chú Nhu” đưa cả Trần Minh Tiết và Nguyễn Xuân Lượng để tùy ý ông Diệm lựa chọn. Trước đó ông Nhu đã hết lời khen ngợi nồng nhiệt ông tòa Trần Minh Tiết trước Tổng thống Diệm. Ông Tổng thống chọn Trần Minh Tiết theo đề nghị của “chú Nhu”. Ông Nhu biết tâm lý ông anh nên đề nghị mà như không đề nghị. Muốn tiến cử ai, ông Nhu thường dùng lời nói khéo léo, gián tiếp khen ngợi nhân vật này. Trường hợp ông Trần Minh Tiết ông Nhu nói đại cương: “Tiết tương đối trẻ, tôi nghĩ giới thẩm phán tín nhiệm ông ta lắm... Tiết làm việc hăng hái...”. Ông Nhu chỉ cần nói như vậy là coi như ăn chắc. Nhưng nếu ông Nhu đề cử đích danh ai và có tính cách chỉ định thì coi như thất bại, ông Tổng thống sẽ lờ đi luôn. Nhưng sau một đêm thì ông thay đổi ý kiến ngay và gọi ông Nhu vào cho biết ông chọn thẩm phán Nguyễn văn Lượng. Ông Nhu trở về phòng gọi bác sĩ Tuyến vào cho hay: “Tổng thống nói cái gì cũng công giáo... công giáo”. Thẩm phán Trần Minh Tiết có ưu điểm là người Nam điều mà ông Tổng thống lưu ý trước nhất, nhưng ông Tiết lại là tín đồ Thiên Chúa giáo. Ông Nguyễn văn Lượng là một Phật tử, được trao chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Theo Lương Khải Minh, trong chín năm chế độ Ngô Đình Diệm, mọi sự bổ nhiệm cao cấp đều căn cứ theo hai yếu tố địa phương và tôn giáo vì ông Diệm muốn như vậy. Một trong mấy cộng sự thân tín của ông Tổng thống lại là một Phật tử như trường hợp ông Võ văn Hải. Ông Hải theo ông Diệm từ hồi còn thiếu niên, Bộ, Sở nào mà nhiều viên chức cao cấp người Bắc, ông Tổng thống cũng không chịu hoặc nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo ông cũng không ưng. Cuối cùng Bộ Tham mưu của Nhu đưa ra một giải pháp : Nếu Bộ trưởng là người Nam thì ông Đổng lý sẽ là người Bắc, ông Tổng giám đốc sẽ là người Trung. Trên thực tế, giải pháp này rất khó thực hiện vì vấn đề địa phương nếu có kỳ thị thì chỉ linh cảm thấy sự kỳ thị chứ thực ra làm gì có kỳ thị. Trước sau chỉ có mặc cảm và thành kiến địa phương do địa vị, quyền lợi tạo nên mà thôi. Vấn đề tôn giáo cũng vậy. Trong cuộc sống chung giữa cộng đồng dân tộc từ trước đến nay không có vấn đề kỳ thị tôn giáo, song trên phương diện quốc gia nhiều cái vụn vặt và tầm thường lại dễ dàng tạo nên những hiện tượng như là kỳ thị tôn giáo. Những cuộc rước xách với cờ xí rợp trời của tôn giáo cũng là những lý do vụn vặt từng tạo nên ngộ nhận. Tín đồ Thiên Chúa giáo lại hay tổ chức rước xách như vậy. Tuy là việc thiêng liêng và phải được chính quyền tôn trọng, nhưng nó cũng dễ dàng tạo nên sự khó chịu của những người không cùng tôn giáo. Mỗi khi có cuộc rước xách đồng bào Thiên Chúa giáo lũ lượt kéo đi và có khi kéo dài cả hàng cây số, giao thông bị tắc nghẽn. cũng dễ dàng gây nên sự khó chịu cho người không cùng tôn giáo. Linh mục X đến thăm Lương Khải Minh ông Minh phàn nàn : - Cho đến nay, tôi cũng không hiểu sao mối bất đồng giữa cha Lê Hữu Từ và Linh mục Hoàng Quỳnh lại như vậy... Chính quyền này là một chính quyền chống Cộng mà đức cha Lê cũng như cha Quỳnh đều là những chiến sĩ chống Cộng. Linh mục X đáp : - Thực ra thì có nhiều nguyên nhân. Theo tôi, điều mà làm cho Tổng thống Ngô Đình Diệm giận nhất là dạo cuối năm 1954, cha Hoàng Quỳnh lại ủy cho Trần Thiện tổ chức một trung đoàn Bắc tiến tại Bình Tây do Bình Xuyên tài trợ. Lương Khải Minh biết vụ đó và cho rằng, trong tình thế nguy nan lúc ấy, cha Hoàng Quỳnh ủy cho Trần Thiện làm như vậy chỉ vì cha có ý nếu chính quyền Ngô Đình Diệm bị Pháp lật đổ thì ít ra công giáo di cư còn có lực lượng để tự vệ. Linh mục X cho biết Linh mục mới vào yết kiến Tổng thống Diệm, Linh mục phàn nàn về việc Tổng thống Diệm có vẻ cấm đoán giáo dân treo cờ giáo hội. Lương Khải Minh cho biết : - Cách đây không lâu tôi cũng đề cập đến vấn đề này. Nhưng xử ta ở trong một tình trạng chậm tiến thì cái gì nó cũng chậm tiến cả.. Linh mục X nói : https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 31/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm - Cờ giáo hội là cả một sự thiêng liêng, cấm đoán sao được. Lương Khải Minh đáp : - Sự thục thì như vậy nhưng trên phương diện quốc gia thì cờ giáo hội Công giáo trước hết là quốc kỳ của Vatican. Tổng thống cũng có lý. Thời gian du học tại Pháp lại không thấy giáo dân Pháp treo cờ Vatican đầy đường như tại Việt Nam 1 . Linh mục X nói : - Pháp là một chuyện, Việt Nam là chuyện khác. Trên phương diện bang giao quốc tế thì Vatican đối với Việt Nam là hai quốc gia. Nhưng Vatican tiêu biểu cho cho thần quyền đối với chúng tôi. Linh mục X băn khoăn : - Nếu tôi trình việc này với Đức Tống Giám mục Nguyễn văn Bình thì chỉ tạo thêm sự hiểu lầm giữa Chính phủ với hàng giáo phẩm. Sau vụ bất hòa giữa Tổng thống Diệm và Đức cha Simone Hòa Hiền tôi nghĩ giới Công giáo cũng buồn lòng không ít. Lương Khải Minh góp lời bàn : - Cha nên gặp ông Bộ trưởng Bùi văn Lương. Theo tôi, Tổng thống nói thì nói thế thôi nhưng mai một là quên ngay. Tôi nghĩ cũng cha nên gợi lại. Đề cập đến vụ đất tại khu vườn cao su Phú Thọ, Linh mục X nói : - Hai bên còn đang giằng co, chúng tôi ở giữa bị kẹt. Nhưng khu vườn cao su Phú Thọ trên giấy tờ hợp pháp là tài sản của giáo khu Sài Gòn. Đức cha Nguyễn văn Bình ngài quá hiền lành nên không quyết liệt đấy thôi. Tại sao Tổng thống lạ ingăn cản không cho giáo khu Sài Gòn được phát triển, chỉnh trang khu vục này mặc dù giáo khu Sài Gòn là sở hữu chủ. Lương Khải Minh đáp : - Tôi cũng biết vụ đó. Mới hôm qua, tôi đưa các cháu đi dạo qua khu này. Khu đất rộng bao la. Nhưng Cha nghĩ coi Tổng thống đã quyết định thì không cách nào ngăn nổi. Nhưng đã thấy nhiều gia đình đến chiếm ngụ. Hình như đã có chương trình phân lô. Linh mục X nói : - Giả dụ, Giáo khu cứ cho giáo dân đến xây dựng nhà cửa và phát triển, ông nghĩ sao? Lương Khải Minh đáp : - Theo tôi ông Nhu chả dám nói với Tổng thống về tôn giáo, chỉ có Phó tổng thống Thơ có thể nói với Tổng thống thì Tổng thống mới tin. Tôi nhớ từ dạo 1959- 1960, Tổng thống đã cho lập chương trình chỉnh trang khu đất này. Chắc là chưa có ngân khoản nên chưa thực hiện. Nếu Tổng thống làm thế thì gặp phản ứng lớn. Tài sản của Giáo khu Sài Gòn chứ đâu phải của Quốc gia mà Tổng thống cho chỉnh trang sát nhập vào đô thành. Tổng thống Diệm rất ghét những chuyện “Áp phe xin xỏ”. Ông là người Quốc gia cực đoan, cho nên cứ cái gì dính với Tây là ông không chịu. Nếu ai hay tổ chức nào dùng áp lực đòi ông giải quyết thì không giải quyết được gì cả. Vụ cờ “Giáo hội Vatican” chỉ một ngày sau là êm rồi không ai nhắc tới nữa. Nhưng đến ngày Phật đản năm 1963 thì vụ cờ quạt lại nổ tung. Chính quyền ra lệnh cấm treo cờ vào dịp này. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 32/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Sáng ngày 5-8-1963 ông Đổng lý Quách Tòng Đức vào phòng Tổng thống để nhận chỉ thị, bỗng dưng Tổng thống Diệm có thái độ giận dữ. Ông la mắng vu vơ: “Đã ra chỉ thị mà không thi hành, quốc gia này còn chi là thể thống”. Tổng thống Diệm trong giây phút nóng giận như thế đã chỉ thị cho Đổng lý Đức đánh công điện về thể thức cấm treo cờ tôn giáo. Thực ra không có chuyện cấm treo cờ Phật giáo mà chỉ ấn định lại thể thức treo cờ tôn giáo tại nơi tôn nghiêm. ở nơi tôn nghiêm thì quốc kỳ phải được tôn trọng trên hết. Điều này rất đúng; mặc dầu tôn giáo là thiêng liêng nhưng trong cộng đồng dân tộc với nhiều tôn giáo khác biệt thì quốc gia phải trên hết. Quốc gia đứng trên tập thể. Ông Đổng lý vốn là một công chức gương mẫu lại có tính nhẫn nại và bao giờ cũng tuân hành đúng y lời chỉ của Tổng thống nên ngày hôm sau, bức công điện được gởi đi. Trong Phủ tổng thống không một ai hay kể cả ông Ngô Đình Nhu. Tại Huế, cố đô của những lăng tẩm chùa chiền, ngày lễ Phật đản mỗi năm đều như đại hoa đăng. Đồng bào Phật giáo ở đây chiếm đại đa số. Huế từ bao nhiêu năm vẫn là một hình ảnh của Thuận Hóa, của Phú Xuân, của tiếng chuông Thiên Mụ và ấp ủ trong chiếc nôi ru bằng từng hồi kinh chùa Báo Quốc, Diệu Đế, Từ Đàm. Cho nên, lễ Phật đản là một dịp thiêng liêng trọng đại. Trước ngày lễ, từ nhà đến chùa chiền đã tấp nập và cờ xí rợp trời. Phật kỳ tung bay nơi nơi. Mọi năm vẫn như thế. Bỗng dưng chỉ vì một cái công điện, Huế bắt đầu đổi thay và chuyển mình. Ngọn lửa nào đó gặp cơn gió lớn bắt đầu bốc cao. Hậu quả Vụ cấm treo cờ Phật giáo chỉ là nguyên nhân gần tạo nên cuộc biến động 1963. Giả thử không có vụ Phật giáo thì cũng có một vụ khác. Tuy nhiên vụ Phật giáo lại trầm trọng quá và hậu quả của nó thực ghê gớm và kéo dài mãi mãi đến sau này. Về vụ Phật giáo nếu xét theo khía cạnh chính trị thì chính quyền Ngô Đình Diệm đã mắc phải một lỗi lầm lớn. Nếu cắt nghĩa theo sự an bài của định mệnh (nếu cho là có định mệnh thì vụ Phật giáo quả là một “định mệnh” đối với Tổng thống và chế độ Ngô Đình Diệm. Ngay khi được hình thành chế độ Ngô Đình Diệm đã có sẵn cái mầm của sự tan rã... chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung vào ngày 1-11-1963 nhưng nó đã có khởi điểm của sự cáo chung ấy từ nhiều năm trước. Cá nhân và tập thể Nhiều người ngộ nhận rằng, Thiên Chúa giáo luôn luôn đứng đằng sau lưng “Ngô tổng thống” và một lòng hỗ trợ chính quyền Ngô Đình Diệm. Điều này không đúng. Nếu có thì chỉ có những cá nhân theo Thiên Chúa giáo hết lòng với chế độ Ngô Đình Diệm. Vụ “Chủng viện” năm 1958-1959 là một thí dụ. Vụ Chủng viện được coi như hành động của chánh quyền Ngô Đình Diệm nhằm hạn chế tự do của hệ thống giáo dục Công giáo. Tổng thống Diệm đã từng sống trong tu viện và hiểu rõ hệ thống giáo dục trong tu viện quan trọng như thế nào đối với Giáo hội Thiên Chúa giáo. Tại quốc gia phương Tây, hệ thống tư thục cũng như các Chủng viện đều được hưởng một quy chế tự do trên tinh thần tôn trọng tôn giáo, song vẫn được phép phát triển theo từng sắc thái và khuynh hướng riêng. Thế nhưng Tổng thống Diệm tuy là một tín đồ Thiên Chúa giáo nhưng ông lại làm trái tinh thần ấy và với quy chế tư thục, ông Tổng thống đã “thế tục hóa” hệ thống giáo dục Chủng viện và hạ thấp giá trị của các Chủng viện bằng cách xếp Chủng viện ngang hàng với trường tư. Hàng giáo phẩm Thiên Chúa giáo Việt Nam coi đây là một sự cưỡng chế tự do trong ngành giáo dục của Thiên Chúa giáo. Các Linh mục thuộc nhiều địa phận đồng loạt đứng lên phản đối. Sự thực, nếu không bị kẹt vì đức cha Ngô Đình Thục và nhất là Đức Khâm sứ tòa thánh lúc bấy giờ hàng giáo phẩm Thiên Chúa giáo không dễ gì để chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định một cách cứng rắn như vậy. Đức Khâm sứ tòa thánh trực tiếp can thiệp nhưng trước sau Tổng thống Diệm vẫn không thay đổi lập trường. Mọi sự dàn xếp bên trong cũng không đi đến đâu. Một số Linh mục xin vào yết kiến và trình bày nguyện vọng, Tổng thống nghe rồi nói ngắn ngủi: “Giáo hội ở trong quốc gia chứ không phải quốc gia ở trong Giáo hội”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 33/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Linh mục Joseph: “Xin Tổng thống cứu xét lại Các Chủng viện không thể nào đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của một Giám đốc Nha tư thục”. Tổng thống Diệm nhìn ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục rồi mắng vu vơ: “Anh không hiểu gì luật lệ cả. Anh phải chỉ vẽ cho người ta. Anh cứ ngậm miệng hoài”. Bộ trưởng Bộ Giáo dục tự nhiên bị lôi vào vòng chiến và bị mắng oan trước mấy vị Linh mục. Đó cũng là cách mà Tổng thống Diệm thường hay xử dụng để biểu lộ thái độ tức giận. Nói đúng ra thì ông đã mắng xéo các vị Linh mục đang hiện diện trước mặt. Trước khi vào yết kiến Tổng thống Diệm thì Linh mục nào cũng mạnh miệng. Một Linh mục hăng hái nhất nói: “Tôi sẽ nói thẳng cho Tổng thống rõ - Tôi sẽ nói hết không nể nang gì cả”. Tuy nhiên, khi gặp Tổng thống Diệm, các Linh mục mỗi người chỉ nói vài ba câu rồi im lặng, nghe Tổng thống Diệm thuyết giảng. Kết quả, Tổng thống Diệm không nhượng bộ. Giáo hội Thiên Chúa giáo đành chịu vậy nhưng trong lòng vẫn hậm hực. Vụ Chủng viện đến tai Tòa thánh Vatican. Tuy Tòa thánh không có một phản ứng nào (vì đường lối ngoại giao đối với Chính phủ Ngô Đình Diệm) nhưng có lẽ do vụ chủng viện vào năm 1960, khi mà đức cha Ngô Đình Thục qua La Mã xin triều kiến Đức Giáo Hoàng, đức cha đã phải chờ đợi cả nửa tháng mới được vào triều kiến. Kể từ vụ Chủng viện, mối bang giao giữa Tòa thánh Vatican và chính quyền Ngô Đình Diệm trở nên lạnh nhạt, bên ngoài không mấy ai rõ. Trong khi đó Tổng thống Ngô Đình Diệm lại cho rằng Tòa thánh Vatican không ủng hộ chính quyền của ông một cách cụ thể. Kể từ năm 1956 khi đã thành lập nền Đệ Nhất Cộng hòa, Tổng thống Diệm ngỏ ý muốn thiết lập bang giao với Vatican trên cấp bậc Đại sứ (Nonce). Tin đưa đi đưa lại và dàn xếp cả mấy năm vẫn không đạt được kết quả mong muốn. Ông Ngô Đình Nhu đã hiểu rõ được thế lực của Vatican trên thực tế. Ngoài Anh, Pháp Mỹ thì Vatican cũng là một “Voix” 2 trong thế lực quốc tế. Nếu được Vatican ủng hộ công khai thì chế độ miền Nam vừa có bề thế vừa tạo được một số yếu tố quan trọng để áp đảo miền Bắc trên mặt trận ngoại giao. Cuộc dàn xếp đã âm thầm diễn ra trong 7, 8 năm. Bác sĩ Tuyến cũng như Đại sứ Nguyễn Dương Đôn (tại Ý) Đức Khâm sứ Brini, Ngoại trưởng Việt nam Cộng hòa, ông Ngô Đình Nhu đều là những người đóng vai trò tích cực trong cuộc thảo luận để thiết lập bang giao với Vatican qua một đường hướng mới. Ta có thể mô tả cuộc dàn xếp đó theo một hình thức đối thoại như sau : - Tổng thống Diệm: Việt Nam Cộng Hòa đã thu hồi độc lập. Miền Nam là một lãnh thổ có chủ quyền, là một quốc gia muốn nối liên lạc với Vatican trên cấp bậc Đại sứ. - Tòa thánh Vatican: Vatican biết rõ như vậy. Trên phương diện tinh thần, Vatican ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa và cư xử với Chính phủ như một quốc gia độc lập. Nhưng trên thực tế Việt Nam còn bị chia cắt miền Bắc do Cộng sản nắm chính quyền, trên thực tế họ vẫn là đại diện có thẩm quyền của một nửa lãnh thổ Việt Nam và ở đó, Giáo hội vẫn có trách nhiệm với giáo dân. Hàng Giáo phẩm Miền Bắc vẫn thuộc quyền cai trị của Đức Giáo Hoàng. Và Tòa thánh Vatican còn dè dặt chưa thể dứt khoát, nhiều người thường lầm tưởng Khâm sứ Tòa thánh tại Việt Nam tương đương với một Đại sứ và như vậy Tòa thánh đã công nhận và thiết lập quan hệ bang giao với miền Nam Việt Nam. Sự thực vị Khâm sứ chỉ là vị đại diện có tính cách tôn giáo (Délégué Apostohque). Khâm sứ Tòa thánh tuy đi xe mang số dành cho ngoại giao đoàn và được hưởng quy chế ngoại giao thì đó chỉ là trường hợp đặc cách. Cấp bậc của vị Khâm sứ chỉ được xếp ngang hàng với một Tổng lãnh sự. Từ khi tuyên cáo thành lập chế độ Cộng hòa, Tổng thống Diệm rất mong mỏi được Vatican “chiếu cố” nâng hàng Khâm sứ lên hàng Đại sứ. Vatican vẫn hờ hững. Ông Ngô Đình Nhu đưa ra một điều kiện trong trường hợp Vatican chấp nhận đặt Đại sứ tại Sài Gòn. Điều kiện ông Nhu muốn Tòa thánh chấp nhận lại quá tế nhị, nhưng thực tại miền Nam phải nêu như vậy: “Tổng thống là một tín đồ Thiên Chúa giáo. Mà Thiên Chúa giáo chỉ có gần hai triệu người trong tổng số 14 triệu dân miền Nam Việt Nam. Nếu Tòa thánh đặt Sứ thần tại Sài Gòn thì vị Sứ thần đó có nên từ chối chức vị Niên trưởng ngoại giao đoàn không?”. Tòa thánh vẫn im lặng. Nhưng ông Nhu và Bộ tham mưu của ông lại băn khoăn: Trường hợp Vatican chấp thuận đặt Đại sứ tại Sài Gòn, lợi thì có lợi nhưng lại gặp một số tiểu tiết rất tế nhị theo truyền thông ngoại giao. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 34/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Vị Đại sứ Tòa thánh đương nhiên trở thành Niên trưởng Ngoại giao đoàn (một chức vị danh dự nếu không có Đại sứ nào ở miền Nam Việt Nam lâu năm nhất so với các Đại sứ khác). Như vậy sẽ không thuận lợi đối với tâm lý quần chúng nhất là quần chúng chiếm 85% không Thiên Chúa giáo (Cao Đài, Hòa Hảo, Ba hai, Phật giáo, Khổng giáo...) Vì rằng, nếu là Niên trưởng Ngoại giao đoàn thì vị Đại sứ Tòa thánh phải xuất hiện hàng đầu trong các cuộc lễ nghi chính thức và chính ông sẽ đại diện đoàn Ngoại giao chúc mừng Tổng thống theo truyền thống Ngoại giao quốc tế, hoặc can thiệp đến quyền lợi của Ngoại giao đoàn. Đây quả là một vấn đề nan giải. Cuối cùng theo ý ông Nhu thì cứ tạm thời duy trì như cũ, nghĩa là giữ nguyên cấp bậc Khâm sứ Mặt khác, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Ý sẽ linh động giao thiệp hẳn với Vatican theo mức quan hệ bình thường. Như trên đã viết, Tổng thống Diệm là một nhà quốc gia cực đoan. Trong đời sống cá nhân của ông thì tôn giáo là thiêng liêng nhất nhưng trong đời sống quốc gia nhiều khi địa vị tôn giáo đã trở nên mờ nhạt. Tuy nhiên nhiều chuyện vặt vãnh rất không đáng nói lại trở nên những yếu tố quan trọng tác động đến tâm lý, quần chúng có mặc cảm rằng Tổng thống Diệm đã “Công giáo hóa” quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Chẳng hạn sau mỗi bài diễn văn hay thông điệp Tổng thống Diệm bao giờ cũng kết luận: “Xin ơn trên phù hộ cho chúng ta” Sự thực đó là thành ý của ông và ông muốn chứng tỏ ông chống lại chủ nghĩa vô thần và tin nơi Thượng đế. Nhưng đồng bào không phải là tín đồ Thiên Chúa giáo lại cảm thấy khó chịu mặc dầu chữ phù hộ là một chữ quen dùng trong các lời khấn vái và văn sử cúng tế ông bà. Trên thực tế thì ông Diệm luôn luôn tỏ ra khó tính đối với Thiên Chúa giáo và nhất là những cha cố “cầu cạnh”. Với mặc cảm thượng tôn uy quyền quốc gia, Tổng thống Diệm qua nhiều trường hợp đã tỏ ra quá coi thường trong cách xử sự với hàng giáo phẩm Thiên Chúa giáo. Theo giới thân cận, vào khoảng tháng 3-1961 một vị Linh mục thừa phái từ Ban Mê Thuột về Sài Gòn và xin gặp Tổng thống Diệm. Sĩ quan tùy viên vào trình : “Thưa, có cha P xin vào hầu Tổng thống”. Tổng thống Diệm hỏi: “Còn có những ai ngoài đó”. Sĩ quan tùy viên kể thêm một số nhân vật quan trọng ngồi chờ ngoài phòng khách để được vào tiếp kiến. Khi nhắc đến Thiếu tá Nguyễn văn Minh,Tỉnh trưởng An Giang, ông Tổng thống nói “Gọi nó vô”. Ông Tổng thống tiếp ba người khoảng chừng 2 giờ sau đó mới bảo sĩ quan tùy viên: “Mời ông cha vô”. Cuộc tiếp xúc ngắn ngủi không đầy nửa giờ. Sau đó, thấy ông Tổng thống giận dữ mặt hầm hầm. Sau này Linh mục P tiết lộ: Linh mục đã trình bày thẳng thắn với Tổng thống về một số Linh mục miền Nam Việt Nam có những lạm dụng quá đáng về việc khai thác rừng lấy gỗ bán và làm cho thường dân rất bất mãn, nhất là đồng bào Thượng. Một tuần sau, bất thần Tổng thống Diệm đi kinh lý Cao nguyên. Sau đó có những chỉ thị rất nghiêm ngặt về việc khai thác rừng. Lần ấy ông nổi giận mắng Đại tá Lê Quang Trọng Tư lệnh Sư đoàn 23 “Mi làm Tư lệnh trông coi lãnh thổ mà mi không biết chi hết”. Ông Tổng thống ra lệnh: “Bất kỳ ai phá rừng chặt cây mi bắt bỏ tù cho ta”. Ông nhắc đi nhắc lại trong cơn tức giận “Bắt bỏ tù, bất kỳ ai”. Từ đó Tổng thống lại càng có mặc cảm đối với một số cha hay có tính “lo toan chạy chọt”. Tuy vậy tại các địa phương cũng như các cấp chỉ huy vì hèn cũng có, vì nhu nhược cũng có, vì quá sợ thượng cấp cũng có cho nên đã xúm nhau bợ đỡ các vị Linh mục tất nhiên là một thiểu số. Họ ngán “các cha cố” vì cho rằng. các cha cố có ảnh hưởng rất nhiều tới Tổng thống và nói gì Tổng thống nghe nấy. Do vậy, cứ áo dài đen vào cửa công nào thì công việc đều sẽ qua trôi chảy. Trong sự lạm dụng về những vụ lặt vặt như xin giấy tờ, xin môn bài cho đạo hữu, xin hợp thức hóa đất đai v.v.. Những “áp phe” 3 vặt vãnh đó đã gây nên nhiều chuyện ngộ nhận. Song thực tế giới thân cận nhất tại dinh Tổng thống đều xác nhận rằng Tổng thống Diệm (khác với ông Nhu và ông Cẩn) ông đều luôn hết lòng, cung kính hàng giáo phẩm. Nhưng ngoài Đức cha Ngô Đình Thục thì chẳng một ai có thể lay chuyển được ông Tổng thống... Nhiều Linh mục được ông hỏi ý kiến nhưng hỏi để mà hỏi thế thôi. Linh mục Hồ văn Vui được coi là một tu sĩ có nhiều uy tín trong giới Thiên Chúa giáo tại miền Nam. Dạo năm 1958, Linh mục Vui đã nhiều lần công khai phê phán chế độ và trong một bài thuyết giảng tại nhà thờ Đức Bà, Linh mục Hồ văn Vui đã lên tiếng phê bình Chính phủ một cách vô tư thẳng thắn. Khi nghe được tin https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 35/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Linh mục công kích Chính phủ, Tổng thống Diệm tỏ vẻ tức giận: “Nhà thờ là nơi tôn nghiêm tại sao lại đưa chính trị vào vô đó mà công kích Chính phủ”. Ông Nhu cũng tỏ vẻ tức giận nói với bác sĩ Trần Kim Tuyến: “Tại sao Đức cha Simone Hòa Hiền lại để cho Cha Vui nói lôi thôi như vậy, việc nhà thờ tại sao lại đem chuyện nhà nước xía vô”. Giận Linh mục Vui thì ít, nhưng không bằng lòng đức cha Hòa Hiền thì nhiều. Lời nói đi thì nhẹ, nói lại thì nặng. Tổng thống Diệm lại bị mấy ông Dân biểu và Bộ trưởng “xàm tấu” rằng: “Cha Vui công kích Tổng thống thế này, kết án Chính phủ thế kia”. Do đó càng tạo nên hố sâu ngăn cách cho nên thay vì tìm gặp Linh mục để tỏ rõ sự tình, ông Ngô Đình Diệm với uy quyền của một Quốc trưởng không gặp linh mục và cũng không công khai bày tỏ thái độ nào với địa phận Sài Gòn. Mặt khác ông lại bảo ông Chủ tịch Quốc hội và vài ông Dân biểu (là những giáo dân thuộc địa phận Sài Gòn) tìm cách khác để đức cha Simone Hòa Hiền thuyên chuyển Linh mục Vui đi một nơi khác. Qua vụ cha Của và cha Vui, giáo dân miền Nam tuy ngoài mặt vẫn vui vẻ với chính quyền nhưng thâm tâm đa số có mặc cảm rằng chính quyền Ngô Đình Diệm đã xử ức họ và coi thường giới công giáo Việt Nam. Riêng vụ cha Của thì lỗi cũng không phải do nơi cha mà quy hoàn toàn trách nhiệm cho Tổng thống Diệm cũng là oan. Số là sau khi quân đội Viễn chinh Pháp rút lui một vài sĩ quan người Pháp đã bán rẻ cho cha Của mấy chiếc xe thuộc loại phế thải. Sau Nha Công an Nam Việt do Trung tá Trần Bá Thành là Giám đốc đã làm nổ tung vụ này. Sự việc xảy ra mấy hôm sau mới đến tai Tổng thống Diệm. Nhưng ông lại không can gián và cứ để mặc đấy cho tòa xử để làm gương, nếu xét thấy có tội... Vụ này Trung tá Thành muốn chứng tỏ tinh thần vô tư và cứng rắn của Công an và ông đặt Tổng thống Diệm trước một việc đã rồi. Việc xét xử cha Của tuy tình ngay nhưng lý gian, đã gây nên mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền Ngô Đình Diệm và giáo dân thuộc Địa phận Sài Gòn. Lúc ấy dư luận xầm xì rằng, nếu cha Của thuộc đia phận Vĩnh Long của đức cha Ngô Đình Thục thì cho dù, có phạm pháp thực cũng không sao. Dư luận lại xầm xì rằng: Cha Của là con tốt thí vì sự bất hòa giữa đức cha Simone Hòa Hiền và gia đình Tổng thống Diệm. Từ đó sự liên lạc giữa Địa phận Sài Gòn và gia đình Tổng thống Diệm càng trở nên lạnh nhạt xa cách. Cuối cùng đức cha Simone Hòa Hiền lên trọng nhậm Địa phận Đà Lạt cũng là một cách tế nhị của Giáo hội Thiên Chúa giáo muốn tìm lại không khí tốt đẹp giữa chính quyền Ngô ĐìnhDiệm với địa phận Sài Gòn qua một con người trung dung hiền dịu là đức cha Nguyễn văn Bình. Chùm mâu thuẫn và ngộ nhận Năm 1961, 1962, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ngồi trên một nồi “Súp de” sôi bỏng đầy mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa chính quyền với các “khối quần chúng”, mâu thuẫn giữa chính quyền với quần chúng trong hệ thống ấp chiến lược của chính quyền, mâu thuẫn ngấm ngầm giữa chính quyền và các tôn giáo trong đó có cả Thiên Chúa giáo. Mâu thuẫn và nứt rạn phân hóa ngay trong giới thân cận của Tổng thống Diệm, mâu thuẫn giữa ông Nhu với ông Cẩn, mâu thuẫn giữa ông Cẩn với đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục. Rồi còn bao nhiêu những “mâu thuẫn” ở ngay trong hàng ngũ thượng tầng của chế độ. Cái chùm mâu thuẫn này không phải là mâu thuẫn về chính kiến mà lại mâu thuẫn do những cá tính dị biệt cùng thành kiến và ngộ nhận. Người có quyền thế nếu có thành kiến với ông A và ông A là Phật giáo, rồi ông A bị thất sủng thì y như rằng thành kiến cá nhân trở thành kỳ thị tôn giáo. Rồi ông Bộ trưởng người Nam có thành kiến và ngộ nhận về ông C do đó ông C bị thất sủng, ông C là người Bắc thì y như rằng thành kiến và ngộ nhận trở thành kỳ thị Nam-Bắc... Chúng tôi nêu ra hai trường hợp sau đây để có thể thẩm định ông Diệm có kỳ thị tôn giáo không? Đó là trường hợp ông Võ văn Hải, Chánh Văn phòng đặc biệt của Tổng thống và ông Nguyễn Đình Thuần. Ông Hải là người thân cận của Tổng thống Diệm và như ruột thịt của ông Diệm khi ông Diệm chưa chấp chánh. Có thể nói, hai người đó một già, một trẻ keo sơn với nhau như định mệnh đã an bài, và không thể rời bỏ nhau được. Nếu đòi hỏi điều kiện khoa bảng thì ông Hải là một nhà khoa bảng. Ông Hải lại là người cần cù biết việc, có đủ lòng tin cẩn của Diệm. Nhưng trong suốt chín năm ông Hải phải đóng vai trò của một người bị “ông Diệm sáng cằn nhằn, chiều la lối”. Song ông Hải trước sau vẫn chỉ là một Chánh Văn phòng bù đầu suốt tháng năm và ông đã không hề được chế độ đặt ông ở một vị trí khác (người nào ở trong trường hợp ông Hải mà chẳng mơ ước có thể thi thố được tài năng). Ông Hải lại kỵ ông Nhu. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 36/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Phải công nhận rằng, ông Hải tuy thân thiết với Diệm nhưng ông giữ được sự khí khái và lại xa cách ông Nhu. Đó cũng là lý do ông Hải là một Phật tử thuần thành, sinh trưởng trong một gia đình Nho giáo... nhưng không phải vì lý do tôn giáo khác biệt mà ông Hải không được làm việc trong bộ này hay bộ khác... ông Diệm coi ông quá thân thiết và chức vụ Chánh Văn phòng chính là phần trái tim ông Diệm trao cho ông ấp ủ khiến ông Hải phục vụ hết mình, nhưng bổng lộc của chế độ thì lại do những ai “nhanh chân lẹ miệng thụ hưởng”. Trong chế độ có rất nhiều người ở vào trường hợp ông Hải... nhưng lại được ông Diệm tin yêu, tín nhiệm như ruột thịt. Vấn đề tôn giáo ông không quan tâm vì nếu quan tâm thì hẳn nhiên ông Hải không được tin dùng... Tuy có điều, ai được ông Diệm coi như tâm huyết thì nhiều khi lại có cảm tưởng bị thất sủng, bỏ rơi. Đồng thời có một số người khác “may tay” lại lên như diều gặp gió. Đó là trường hợp ông Nguyễn Đình Thuần. Ai cũng biết, ông Thuần là “đàn em” của ông Trần Trung Dung, và đã làm báo cho ông Dung từ ngày còn ở Hà Nội. Ông Dung được coi như một bạn bè thân thiết của Ngô Đình Nhu. Ông thuộc gia đình công giáo đại gốc. Khi ông Dung là Bộ trưởng Phụ tá Quốc phòng thì cất nhắc đàn em là Nguyễn Đình Thuần lên Đổng lý Văn phòng. Ông Dung tuy là thân cận của ông Nhu và cũng là hàng con cháu trong gia đình nhưng đến năm 1960 thì ông Dung rời bỏ Bộ Quốc phòng (18-10-1960) và ông Thuần được cử thay thế. Dạo ấy có dư luận cho rằng ông Dung bị ông Thuần “đá” và tranh chức Bộ trưởng. Sự thực không đúng như vậy. Tuy tin cẩn ông Dung nhưng ông Diệm lại không “chịu” cách thức làm việc của ông. Ông Diệm vẫn thường cằn nhằn “Ông ta làm Bộ trưởng Quốc phòng mà không hiểu công việc gì cả. Khi hỏi đến chỉ nói những vấn đề đâu đâu”. Ông Dung tuy xuất thân từ một Tri huyện nhưng có lẽ cái “chất Tri huyện” chưa thấm sâu vào mạch máu ông cho nên ông không có cái cần cù mẫn cán của một người ngồi viết công văn, đọc báo cáo và ghi nhớ hồ sơ, cho nên khi ông Diệm hỏi đến các công việc gì ở Bộ Quốc phòng thì ông Dung chỉ tường trình một cách tổng quát. Tổng thống Diệm không chịu như vậy, cho nên ông phải gọi thẳng ông Đổng lý. Ông Đổng lý Thuần vốn là người thông minh, sắp đặt công việc có hệ thống tuy bị ghi nhận là quá lanh chân, lẹ miệng. Có lẽ nhờ vậy, mỗi khi ông Diệm hỏi đến công việc ông đã trả lời rất vừa ý ông Diệm. Hồ sơ này thế này, hồ sơ này thế kia... Mà thực ra trên phương diện tổng quát, ông Thuần lại thiếu khả năng của một Bộ trưởng Quốc phòng vào thời chiến. Thế nhưng ưu điểm của ông là “Tổng thống gọi thì thưa ngay, hỏi hồ sơ nào thì có liền”. Do đó, thay vì tìm sự công tác trên bình diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng ở nơi ông Trần Trung Dung, thì ông Diệm lại chỉ sai phái và hỏi han ông Đổng lý. Khi ông Dung vào làm việc với Tổng thống thì chỉ muốn mau chóng trình bày một cách tổng quát rồi tùy nghi thi hành, ông Thuần thì trái lại sẵn sàng có thể ngồi đến bao giờ cũng được để nghe lời “dạy”. Vốn là người cô đơn khắc kỷ và ưa được dài lời chuyện trò lan man qua công việc Tổng thống Diệm đã tìm được một người vừa ý như ông Thuần luôn luôn biết lắng nghe và làm rất vừa ý. Ngày này qua tháng khác và luôn chứng tỏ tài mẫn cán, ông Thuần trở thành người Tổng thống Diệm coi là giới “biết việc”. Khi luật sư Nguyễn Hữu Châu rời bỏ chức vụ Bộ trưởng Phủ tổng thống, ông Diệm chưa biết tìm ai thay. Ông Nhu biết ý ông anh nên để tùy ý ông anh “để ông muốn tìm ai thì tìm”, ông Nhu cũng không đoán nổi ông anh sẽ chọn ai. Có điều là cho đến phút chót khi Tổng thống Diệm quyết định chọn ông Thuần làm Bộ trưởng Phủ tổng thống, thì chính ông Nhu vẫn tưởng ông Thuần sẽ được ông Diệm bổ nhậm là Đặc sứ tại Tunisie. Ngay ông Thuần cũng không hay biết. Khi Lương Khải Minh gọi điện thoại báo cho ông Thuần hay: “Moa có lời mừng cho toa”. Ông Thuần ngạc nhiên: “Thưa anh có chuyện gì vậy?” “Toa được cử làm Bộ trưởng Phủ tổng thống”. Cho đến lúc ấy ông Thuần mới biết là mình đã được ông Diệm tín nhiệm ở chức vụ quan trọng như vậy. Ông Thuần trở thành Bộ trưởng Phủ tổng thống sau này kiêm nhiệm Bộ trưởng phụ tá quốc phòng (thay thế ông Trần Trung Dung) rồi lại được tạm giữ chức Bộ trưởng phối hợp An ninh (Chính phủ cải tổ ngày 28-5-1961). Giới thân cận Phủ tổng thống cho rằng: ông Thuần là người biết “chiều ý” Tổng thống đến tuyệt mức. Cái sự lên như diều gặp gió của ông Thuần cũng như sự “dẫm chân một chỗ” của bao nhiêu người khác đã tạo nên mầm bất mãn tuy không ai nói ra, và cái mầm bất mãn “trong nhà” đã không bùng nổ vì còn một Tổng thống Diệm. Vì thế những mâu thuẫn không tạo nên sức ép và những tia điện. Trong cuộc tiếp xúc và tâm tình với các “nhân chứng” thân cận Tổng thống Diệm, chúng tôi thấy rằng phần lớn những cộng sự viên thân tín của ông đều là Phật giáo. Điển hình là ông Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần, bác sĩ Bùi Kiện Tín, ông Võ văn Hải, Đại tá Đỗ Mậu cũng như Trung tá Cao văn Viên. Các Tư lệnh Lữ đoàn Liên biệt phòng vệ Phủ tổng thống như Đại tá Hoàng văn Lạc, Trung tá Lê Ngọc Triển đều là Phật giáo ngoại trừ Trung tá Nguyễn Ngọc Khôi, vị Tư lệnh cuối cùng của Lữ đoàn này là tín đồ Thiên Chúa giáo. Vì ông Tổng thống mặc cảm với Thiên Chúa giáo nên nhiều viên chức Công giáo ở trung ương đã không được Tổng thống Diệm cất nhắc nên chức vụ quan trọng... Tư lệnh các binh chủng như Lữ đoàn nhảy dù, Lữ đoàn Thủy quân lục chiến trước sau từ Đại tá Đỗ Cao Trí, Nguyễn Chánh Thi đến Cao văn Viên và Trung tá Lê Nguyên Khanh đều là Phật giáo... Vậy thì Tổng thống Diệm có kỳ thị Phật giáo hay không, sử gia sau này sẽ phán đoán https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 37/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm công minh. Điều rõ rệt là Tổng thống Diệm quá nhiều mặc cảm và thành kiến sâu nặng đối với một số chánh khách thuộc Đảng Đại Việt gồm quan lại đã từng tham chánh dưới thời Thủ tướng Trần văn Hữu và Nguyễn văn Tâm... -------------------------------- 1 Chính quyền Ngô Đình Diệm gọi miền Nam Việt Nam là Việt Nam. 2 Tiếng nói quan trọng. 3 Vụ buôn bán làm ăn. 5. Từ chế độ Ngô Đình Diệm và cái chết của Ngô Đình Cẩn Cái chết của một Tổng thống như ông Ngô Đình Diệm, tất nhiên không phải là một sự vô lý đơn giản như người ta thường nghĩ. Nó đã được sửa soạn tinh vi, vì làm thế nào để giết một ông Tổng thống đã cầm quyền chín năm không phải là chuyện “tùy hứng”. Người em út Quanh cái chết của Tổng thống Diệm đầy rẫy những sự vô lý nông nổi bi thảm. Sau khi ông chết đi, lại còn bao nhiêu sự vô lý khác. Chữ vô lý ở đây xin được hiểu theo sự suy đoán trong bản chất và tinh thần Việt Nam vốn trọng tình cảm, sự trung hậu và lễ nghĩa. Một trong những sự vô lý đó là cái chết của ông Ngô Đình Cẩn người em thứ 5 của Tổng thống Diệm. Cái chết này đã được công khai hợp pháp hóa vì ông Cẩn được ra tòa xét xử. Nếu bị viên công tố gay gắt buộc tội thì cũng chả có cái gì vô lý. Khi đảo chính bùng nổ thì Tướng Đỗ Cao Trí đang là Tư lệnh Vùng I chiến thuật. Ông tướng này là người có thẩm quyền duy nhất tiếpthu toàn vẹn những gì có ở bên trong căn nhà tổ ấm của gia đình họ Ngô. Ông Cẩn tưởng đã thoát thân... dù tấm thân chỉ còn hai bàn tay trắng. Trong cuốn Việt Nam Crisis, hai tác giả Stephen Pan và Daniel Lyons đã viết như sau: “Ông Cẩn lúc đầu ty nạn tại nhà dòng Chúa Cúu Thế. Nhưng những người từng được ông giúp đỡ sợ rằng: Nếu chứa chấp ông, sẽ có thể bị các nhà lãnh đạo đảo chính nghiêm trị nên ông Cẩn phải qua Tòa lãnh sự Mỹ tại Huế xin trú ẩn. Tòa Lãnh sự này phải xin chỉ thị của Tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Đại sứ Hennry Cabot Lodge trả lời rằng Lãnh sự Mỹ không được phép cho ông ta ty nạn nhưng lại, đồng thời ra lệnh đưa ngay ông Cẩn vào Tòa đại sứ Mỹ. Nhưng khi ông Cẩn đến Sài Gòn, Tòa đại sứ Mỹ liền trao ông Cẩn cho Hội đồng quân nhân cách mạng xét xử. Theo nguồn tin có thẩm quyền mà hai tác giả được biết, Tòa đại sứ Mỹ đã hội ý với Hội đồng quân nhân cách mạng và buộc Hội đồng phải cam kết ba điều kỉện thì Tòa đại sứ mới dẫn độ: 1) Phải được xét xử minh bạch và công khai. 2) Không được đối xử tàn nhẫn. 3) Không bị bắn hoặc giết”. Stephen Pan và Daniel Lyons viết: “Trong tình cảnh lúc bấy giờ, nếu tin tưởng vào cuộc xét xử minh bạch, công khai thì thật là ngây thơ. Mặc dù trong thời gian đó, ông Cẩn đang bị yếu nặng với hai căn bệnh áp huyết cao và tiểu đường. Với cách đối xử rất tồi tệ lại thiêú thuốc men, chăm sóc trong tù thì ông Cẩn chắc chắn sẽ không sống thêm được bao lâu. Nhưng dù quá yếu đến nỗi không đứng nổi, ông ta vẫn bị cột vào cái trụ đứng và bị bắn”. Stephen Pan và Daniel Lyons thắc mắc: “Người ta còn nhớ hồi tháng 8-63 một nhà sư (...) đã lánh nạn trong Tòa đại sứ Mỹ và được Đại sứ Cabot Loadge bảo vệ an toàn trong chín tuần lễ, nghĩa là cho đến ngày hai anh em ông Diệm bị giết. Hãy để cho lịch sử phán xét nhũng sự việc mâu thuẫn như trên”. Nếu ông Cẩn bị đem ra xử bắn trước cuộc chỉnh lý của tướng Khánh, thì cũng có thể giải thích được. Nhưng ông Cẩn lại bị xử tử khi tướng Khánh lên cầm quyền và Cabot Lodge vẫn còn tiếp tục là Đại sứ ông Lodge thường được coi như quan thầy quyền uy của tướng Khánh. Mấy ngày sau cuộc chỉnh lý, người ta cho rằng rất có thể ông Cẩn được tha và cho xuất ngoại. Vì dù sao tướng Khánh cũng là một trong mấy người con tinh thần của ông Diệm và tướng Khánh đã trung thành với ông Diệm cho đến phút cuối cùng dinh Gia Long bị mất vào tay quân đảo chính. Chiều ngày 11 tướng Khánh từ Pleiku còn gọi điện cho tướng Cao ở Cần Thơ, hối thúc ông Cao đem quân về cứu Tổng thống Diệm. Tướng Khánh cho biết không thể đem quân về được vì Quân đoàn 2 quá xa... Tướng Cao tin cho tướng Khánh rõ là tướng Minh, Khiêm và các Đại tá Đỗ Mậu, Nguyễn đức Thắng hứa là bảo đảm tính mạng Tổng thống Diệm và ông Nhu. Tướng Khánh trả lời: “Không tin https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 38/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm được tụi nó đâu chúng nó nói vậy mà làm khác”. Tướng Khánh vẫn giữ lòng trung thành cho đến phút chót. Thế nhưng... quyền lợi cá nhân và địa vị đã thay đổi lòng người. Khi ông Cẩn bị đưa ra tòa, người ta vẫn tin rằng có thể ông sẽ bị xử qua loa. Khi bị kết án tử hình người ta vẫn tin ông Cẩn sẽ được Quốc trưởng Dương văn Minh chấp thuận đơn ân xá. Cuối cùng vào một buổi chiều ánh nắng còn chan hòa, tử tội Ngô Đình Cẩn được khiêng ra pháp trường trong vòng thành khám Chí Hòa. Tay bị trói chặt vào cây cột giữa pháp trường và bị bắn gục trước sự chứng kiến của những người trước kia ra vào dinh ông Cẩn thường khúm núm như gia nhân. Đại sứ Lodge là người đã buộc “Hội đồng Quân nhân cách mạng” phải cam kết không được xử bắn ông Cẩn, khi ông Cẩn nhận từng loạt đạn, Lodge vẫn còn là vị Đại sứ Mỹ đầy uy quyền tại miền Nam Việt Nam. Rồi có các giả thuyết được nêu ra: 1. Ông Khánh làm như thế để chiều lòng những áp lực khác đang đè nặng lên ông. 2. Ông Khánh chủ trương thanh toán ông Ngô Đình Cẩn vì áp lực của “những người” từng ra luồn vào cúi dưới trướng “Cố vấn chỉ đạo”... 3. Ông Khánh chủ trương thanh toán ông Cẩn chỉ vì vụ “tài sản” của ông Cẩn mà ông Khánh đã được chia phần kể từ khi ông ra nhậm chức Tư lệnh Vùng chiến thuật I thay thế tướng Trí. Sét đánh ngang đầu Sáng ngày 2-11-1963 tại tư thất ông Cẩn chuông điện thoại reo vang. Âm vang của hồi chuông thật rền rĩ réo rắt trong buổi sáng tinh sương. Điện thoại gọi từ Đà Nẵng. Đại úy Minh nhấc máy lên. Từ phía đầu dây bên kia, vẫn giọng tướng Trí ngập ngừng, cắt quãng, rời rạc. Lời tướng Trí được ghi nhớ như sau: “Anh thông báo ngay cho Cậu biết, Sài Gòn vừa báo tin cho tôi hay là Tổng thống và ông Cố vấn chánh trị đã tự tử chết rồi. Tôi không hiểu ra sao nữa...”. Đại úy Minh chân tay bủn rủn, có cảm tưởng như đang nghe điện thoại trong cơn mê của giấc ngủ say. Ông hỏi đi hỏi lại tướng Trí hai ba lần. Tướng Trí xác nhận: “Sài Gòn vừa báo cho tôi hay như vậy”. Lúc ấy Đại úy Minh mới tin đây là sự thực - một sự thực phũ phàng ngoài trí tưởng tượng của ông. Nhưng tưởng tượng quả là vô lý? Khi báo cho ông Cẩn hay hung tin này, ông Cẩn vẫn không tin và nói: “Làm gì có chuyện động trời như vậy”. Nhưng Tổng thống Diệm và ông Nhu đã chết... dù ông Cẩn có không tin là thực thì sự thực vẫn tàn nhẫn xảy ra như thế. Ngay lúc đó, Đại úy Minh cho người đi báo hung tin cho cha Thuận. Sáng ngày 2-11 màn tang đã bao phủ căn nhà tổ ấm của gia đình Tổng thống Diệm ở miền Phú Cam nơi hai anh em ông Diệm đã sinh ra và lớn lên. Lúc đó chung quanh ông Cẩn vẫn còn đầy đủ các cộng sự viên thân tín, trong đó có ông Đào Quang Hiển Giám đốc nha Công an Trung nguyên Trung phần. Rồi chiều mùng 2, buổi chiều nặng nề như những phiến đá đè nặng trên phận người mong manh. Khoảng 1 giờ 30, Đại úy Minh được lệnh của ông Cẩn gọi điện thoại cho tướng Trí và mời tướng Trí ra Huế để báo cáo cho ông Cẩn rõ nội vụ. Huế cho đến lúc ấy vẫn tương đối yên tĩnh. Khoảng 3 giờ, bỗng nhiên đoàn thiết giáp của thiếu tá Tuấn đến bao vây vùng Phú Cam và căn nhà ông Cẩn (Thiếu tá Tuấn sau thăng Trung tá và bị chết thảm trong biến cố Tết Mậu Thân tại trường Thiết giáp Gò Vấp Sài Gòn). Tình hình Huế bắt đầu ngột ngạt, dao động và như cây nước giữa biển nặng đang bắt đầu vỡ ra và dâng cao. Trong giờ phút cuối cùng này, một nhân chứng thuật lại: ông Cẩn đã mất tinh thần vì xúc động trước cái tin hai ông anh bị giết chết. Chung quanh ông vẫn còn đầy đủ cộng sự viên như Minh, Trọng, Độ... Khoảng 9 giờ đêm mùng 2, Huế bắt đầu chuyển động như cơn sóng trong trận cuồng phong. Trời tê buốt hoang vắng và đầy đe dọa, bất trắc thê lương. Dân Huế vây quanh radio nghe đài Sài Gòn, BBC và VOA... Hồi hộp, rung động, kích thích... Rồi một nhóm người tự động quy tụ lại như một hình thức Hội đồng Quân https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 39/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm nhân cách mạng. Đứng đầu là Trung tá Mô, Thiếu tá Hiếu và ông Đào Quang Hiển. Ba viên chức này đến gặp Đại úy Minh đòi đưa họ vào gặp ông Cẩn. Lúc ấy đoàn thiết giáp của Thiếu tá Tuấn đang bao vây nhà ông Cẩn nhưng chỉ có tính cách giữ gìn an ninh trật tự và theo lời tướng Trí là “để bảo vệ sanh mạng của ông Cẩn và đề phòng một khi dân chúng làm hoảng”... quân đội có thể can thiệp kịp thời. Thể theo yêu cầu của Trung tá Mô cũng như Thiếu tá Hiếu... Đại úy Minh vào tìm gặp ông Cẩn trong khi đó ba viên chức vẫn đứng chờ ở ngoài. Nhà lúc ấy vắng ngắt không còn ai, không khí đầy một nỗi bi thương đổ vỡ. Bé gái Kính cho Đại úy Minh hay là ông Cẩn đã trốn khỏi. Để đánh lạc hướng phe ông Mô, Đại úy Minh cho bọn ông Mô hay là ông Cẩn hiện đang bị mệt và đang nằm nghỉ, mai sẽ vào gặp sau. Thực ra lúc ấy ông Cẩn đã vào trú ẩn tại nhà dòng Chúa Cứu thế. Tẩu vi thượng sách Trong bước đường cùng thì trong 36 kế, “tẩu vi thượng sách” chước “chuồn” vẫn là hơn cả. Tuy nhiên ông Cẩn rời căn nhà tổ ấm cùng với cơn đau của loài chim bị bắn trúng cả hai cánh khi đang tung bay. Qua ngày thứ 3, Huế vẫn còn tương đối yên tĩnh, tuy trong dân chúng bắt đầu chuyển động, đang bắt đầu một trận cuồng phong cho sóng đổ lên cao. Từ Đà Nẵng, tướng Trí gọi điện thoại cho biết ông sẽ trở ra Huế với tư cách đại diện cho Hội đồng Quân nhân cách mạng. Lúc ấy, ông Cẩn bắt đầu lâm bệnh, khuôn mặt hốc hác, đôi mắt như lạc mất tinh thần. Ông xúc động một cách khó tả trước cái chết của hai ông anh. Bên cạnh ông trong những giờ phút đó vẫn còn một số cộng sự viên thân tín như cha Thuận (người cháu ruột của ông). Cho đến giờ phút đó vẫn không thấy ông Cẩn quan tâm gì đến tiền bạc tài sản. Khi Đại úy Minh vào thăm ông (tại một căn nhà trong nhà dòng Chúa Cứu thế) ông rớm nước mắt và nói: Thôi hết rồi Minh ơi. Và những người có mặt đều khóc theo ông. Ông Cẩn nằm trên giường nệm, vắt chân chữ ngũ, nước mắt giàn giụa trên gò má. Căn bệnh áp huyết của ông bắt đầu tái phát. Ông bảo Đại úy Minh gọi điện thoại cho tướng Trí, nhắn tướng Trí vào Huế ngay để ông có đôi điều dặn dò. Huế lúc ấy bắt đầu sôi động. Thiếu tá Hiếu, Trung tá Mô, ông Đào Quang Hiển và một số “bá quan văn võ” đã đứng về phe đảo chính. Biến chuyển mau lẹ quá. Huế ngỡ ngàng, rồi Huế bùng lên trong cuộc nổi lửa. Chiều 3-11, tướng Trí từ ngoài Đà Nẵng vào Huế. Quân đội vẫn làm chủ tình hình Huế. Không có tiếng súng nổ, không đổ máu. Sự lặng lẽ trong cơn dao động hoang mang. Ảnh của Tổng thống Diệm vẫn còn được treo ở nhiều công sở. Người đầu tiên mà tướng Trí tìm gặp lại là Đại úy Minh. Đây là mẩu đối thoại giữa hai người : - Bây giờ Cậu ở đâu? - Tướng Trí hỏi. - Cậu đang ở trong nhà dòng Chúa Cứu thế. - Đại úy Minh đáp. - Anh em cứ an tâm, không có gì phải lo sợ. Mọi việc ở ngoài này đã có tôi. - Là sĩ quan của quân đội, tôi phải tuân theo lệnh của Thiếu tướng. - Anh cho tôi gặp ông Cậu. Tôi ra đây với tư cách đại diện Hội đồng Quân nhân cách mạng - Lời tướng Trí. Lúc ấy ông Cẩn vẫn nằm trên chiếc giường sắt, cơn đau đã bớt. Ông lấy trầu ra ăn. Ông Cẩn cho gọi một cộng sự viên thân cận và nói giọng thều thào “Chiếc bao bố ném ở dưới gậm giuờng (trong căn nhà Phú Cam) trong đó có 24 ki lô vàng. Chiếc valise gồm một số gia bảo và qúy vật v.v.. Mày lo liệu giữ gìn không thì tụi nó lấy hết. Số bạc mặt tao vẫn để trong tủ...”. Ông Cẩn còn dặn dò thêm: “Mày trao https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 40/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm cho Trí giữ hộ... Cứ trao cho Trí không sao đâu”. Buổi chiều ngày 3-11 tại nhà dòng Chúa Cứu thế, không khí thê lương ảm đạm như một ngày cuối đông miền hàn đới. Tình hình Huế lúc ấy đã náo động. Cha bề trên Nhã cúi đầu lần hạt đi đi lại lại trên hành lang, cha Nhã hỏi Đại úy Minh: “Anh đã đi tìm cha Thuận chưa”... Hai người nhìn nhau lặng lẽ, nỗi buồn thật mênh mông. Đại úy Minh lên phòng ông Cẩn... Lúc ấy ông Cẩn vẫn nằm vắt chân chữ ngũ, mắt ông đỏ ngầu vì khóc... Tướng Trí cũng vào phòng ông Cẩn cùng với Đại úy Minh. Đỗ Cao Trí vẫn niềm nở và trọng vọng ông Cẩn như xưa, ông giơ tay chào theo kiểu nhà binh. Ông Cẩn ngước mắt nhìn tướng Trí không nói một lời nào. Đôi mắt ông nặng trĩu nỗi đau thương. Dường như lúc ấy ông Cẩn như muốn khóc. Mẩu đối thoại giữa tướng Trí và ông Cẩn được ghi lại như sau: - Hội đồng Quân nhân cách mạng ủy con xin thưa lại với Cậu, Tổng thống và ông Cố vấn chết là do tai nạn ngoài ý muốn của các tướng lãnh. Tướng Trí không dấu nổi xúc động, ông yên lặng một lúc rồi nói tiếp: - Chuyện đã xảy ra như vậy bây giờ biết làm thế nào. Con được Hội đồng Quân nhân cách mạng ủy cho đến đây để xin thưa với Cậu, Hội đồng Quân nhân cách mạng kính mời Cậu tham gia và xin mời Cậu đứng trong thành phần của Hội đồng. Ông Cẩn đưa mắt nhìn một vài người thân yêu. Mọi người yên lặng. Tướng Trí nói trong niềm xúc động : - Việc đã xảy ra như vậy thì thế nào, Hội đồng Quân nhân cách mạng cũng áp dụng một số biện pháp đối với cậu, như tịch biên tài sản... Con nghĩ Cậu nên tính xem thế nào... Cậu có thể đưa cho con giữ hộ. Chuyện trò với ông Cẩn một lát rồi tướng Trí ra xe cùng về với Đại úy Minh. Lúc ấy tại vùng Phú Cam vẫn yên tĩnh. Đoàn Thiết giáp của Thiếu tá Tuấn đang giữ phận sự canh phòng và kiểm soát chặt chẽ. Nhà ông Cẩn vắng lặng chỉ có con bé Kính, một vài gia nhân. Con bé Kính sau này cho biết, Vali và bao bố vàng được đưa lên xe Jeep, rồi đoàn tùy tùng rời khỏi tư thất ông Cẩn. Ông Lãnh sự Từ khi tướng Trí và Đại úy Minh đi khỏi, bên cạnh ông Cẩn không còn ai. Một vài người thân yêu ngơ ngẩn ở trước cửa nhà dòng có ý đợi. Đại úy Minh xem ông Minh có quyết định sang tị nạn ở Tòa phó lãnh sự Mỹ hay không. Buổi sáng ở nhà Đại úy Minh, ông Phó lãnh sự Mỹ có đến tìm gặp và đề nghị : - Nếu Đại úy và gia đình cũng như viên chức nào thấy ở ngoài này không có an ninh và nguy hiểm cho tính mạng, tôi mời tất cả qua tị nạn Tòa lãnh sự. Đại úy Minh đáp : - Xin cảm ơn ông Lãnh sự, có lẽ không cần thiết. Ngày 2-11-1963 chính là ngày sinh nhật của ông Cẩn... ông có ngờ đâu đó cũng chính là ngày ông phải để tang hai người anh trai... Sau khi ông Cẩn sang tị nạn tại nhà dòng Chúa Cứu thế thì ông Lãnh sự và Phó lãnh sự có tìm gặp Đại úy Minh và đề nghị đưa ông Cẩn qua Tòa lãnh sự tị nạn cho an ninh hơn và ông cam kết sẽ để ông Cẩn được hưởng quyền lợi tị nạn như Tòa đại sứ Mỹ đã dành cho Thượng tọa Trí Quang trước đây. Nhưng ông Cẩn chỉ bằng lòng qua đó tị nạn với điều kiện ông phải được đem theo thân mẫu tức bà Ngô Đình Khả... Lãnh sự Mỹ không chấp nhận điều kiện này. Hơn nữa, các cộng sự viên thân tín tỏ ý dè dặt vì không hiểu lòng dạ của người Mỹ ra sao. Ngày 5-11 tướng Trí được lệnh của quân đảo chính đưa ông Cẩn về Sài Gòn cùng với bà cụ Khả. Lúc ấy bà cụ Khả vẫn chưa biết tin Tổng thống Diệm và ông Nhu bị thảm sát, vì trong nhà cố giữ kín tin này. Bà cụ Khả đã trên tuổi 90 và bán thân bất toại từ lâu... Khi về Sài Gòn thì mẹ con đôi ngả. Ông Cẩn vĩnh viễn xa mẹ từ buổi ấy. Ông bị giam trong một căn phòng “ghê rợn” nhất của khám Chí Hòa. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 41/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Cái đau khổ lớn của tù nhân không phải vì thân thể bị câu thúc mà trước hết đau khổ vì cô đơn. Nỗi cô đơn như một phi tần trong chốn lãnh cung. Có ai trải qua cơn phong trần mới thông cảm được nỗi “giết nhau chẳng cái lưu cầu, giết nhau bằng cái u sầu độc chưa” Trên sáu tháng trời ông Cẩn đã chết mòn trong cái u sầu thê lương như vậy của một cấm phòng đầy oan trái và hồn ma. Chắc hẳn trong những đêm dài thao thức, ông Cẩn chỉ còn sống theo dĩ vãng huy hoàng, chín năm trong đó bao nhiêu công hầu đã đến với ông, van lậy ông, một điều cậu, một điều con để mong ông ban phát bổng lộc. Điều đau khổ nhất đối với riêng ông Cẩn là những ngày tháng ông phải sống xa mẹ. Từ ấu thơ cho đến ngày lao lý, ông Cẩn không bao giờ phải sống xa mẹ. Trong gia đình Tổng thống thì chỉ có một mình ông Cẩn sống cạnh mẹ. Ông Diệm cho đến Đức cha Thục, ông Nhu, ông Luyện mỗi người mỗi ngả một năm mới về thăm mẹ đôi ba lần. Theo nhân chứng, ông Cẩn được thân mẫu thương yêu nhất mực về đức hiếu thảo. Kể từ ngày bà cụ Ngô Đình Khả bị bán thân bất toại, suốt ngày nằm trên ghế tựa, ông Cẩn luôn luôn có mặt bên cạnh không chịu xa mẹ lấy một đêm. Thế mà những ngày ấy ông phải sống xa mẹ. Và ngày 20-4-64, Tòa án “cách mạng” tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn mà chánh thẩm là Đại tá Đặng văn Quang (vợ chồng Đại tá Quang vốn là con đỡ đầu của thân mẫu Đức cha Nguyễn văn Thuận chị ruột của ông Cẩn). Trước tòa ông Cẩn nói: “Tôi quân sự không biết, hành chánh không biết, học tầm thường làm sao ra lệnh cho ai được?”. Bốn ngày sau khi tuyên án, ông Cẩn đệ đơn xin ân xá và hai ngày sau nữa tướng Dương văn Minh bác đơn xin ân xá với tư cách Quốc trưởng. Trong thời gian này, tướng Khánh đã “đau đầu”, rồi bối rối không biết làm thế nào để giải quyết mọi việc cho mọi bề êm đẹp. Bao nhiêu cuộc tiếp xúc, bao nhiêu cuộc trả giá, tấm thân của ông Cẩn trở thành món hàng để “bên này đưa ra điều kiện này bên kia đặt điều kiện khác”. Chữ “nếu” làm cho ông Khánh bù đầu. “Nếu không giết ông Cẩn chúng tôi sẽ có thái độ, hoặc không ân xá cho ông Cẩn chúng tôi sẽ hành động”. Các cố vấn của tướng Khánh thì cho rằng “Trong vụ này Thủ tướng cứ coi như vô can. Việc xử thế nào là do Tòa. Việc ân xá hay không là do tướng Minh. Nếu tướng Minh ân xá thì hợp ý với Thủ tướng và có thể xoa dịu được phe bên này, mà áp lực “búa rìu” của phe bên kia sẽ đổ hết vào đầu ông Minh và ngược lại...”. Cộng sự viên thân tín của tướng Khánh lúc ấy đều là những người cùng chống chế độ Ngô Đình Diệm và bị giam cầm như Phạm Thái, Tổng Trưởng thông tin hay thuộc Đảng Đại Việt như bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, Phó thủ tướng hoặc thuộc “gà nhà” như luật sư Nghiêm Xuân Hồng, Bộ trưởng phủ Thủ tướng... Hôm xử bắn ông Cẩn tại khám Chí Hòa, buổi sáng ông Khánh uống một hơi hết ly rượu mạnh, mắt ông lại lồi hẳn ra. Chết vì của Qua lời nguyền phục hận cho anh em Tổng thống Diệm mà tướng Khánh đã nhiều lần tỏ bày... ai cũng tưởng ông là một người một lòng một dạ sống chết với anh em ông Diệm. Nhưng với tướng Khánh thì “lời nói gió bay lên trời”, thảy đều không quan trọng. Sau khi đảo chính thành công, hầu hết các tướng tham dự đều được vinh thăng, nhưng trường hợp tướng Khánh lại bị chậm trễ. Trong quá khứ và thuở còn mang lon cấp tá, tướng Minh và Khánh quá biết rõ nhau. Đã từ lâu, không ai ưa ai. Ngày 5-11, tướng Khánh ở Pleiku bay về Sài Gòn một mặt trình diện tướng Minh. Mặt khác chạy lon. Vốn là người láu cá vặt, nên tướng Khánh chạy qua “cửa” Thủ tướng Thơ, và biết rằng ông Thơ hay bị xiêu lòng nếu chịu khó năn nỉ. Hơn nữa, ông Thơ vẫn có lòng tốt đối với bọn em út. Quả nhiên tướng Khánh đã thành công. Thủ tướng Thơ gọi điện thoại cho tướng Minh để “xin lon” cho tướng Khánh và ông Minh cũng đồng ý cho ông Khánh lên Trung tướng. Sáng hôm sau, tướng Khánh lại đến tư thất của Thủ tướng Thơ năn nỉ. Việc thăng Trung tướng, Thủ tướng Thơ đã dàn xếp xong. Tướng Khánh nóng lòng nên cho người lên phố mua cặp sao ngay. Tại tư thất, Thủ tướng Chính phủ vẫn còn mặc áo Pyjama, vốn là con người xuề xòa, không kiểu cách, Thủ tướng Thơ đã gắn lon Trung tướng cho Nguyễn Khánh trong lúc ông đang mặc đồ ngủ. Thực ra thì tướng Khánh cũng chẳng thương xót gì Tổng thống Diệm. Đối với ông ai cũng có thể là người “tri kỷ”, ai cũng có thể là bạn đường... Người như tướng Khánh khó lòng giữ được sự trung nghĩa. Vì tướng Khánh không chỉ bắt cá hai tay mà ba bốn tay. Cùng một câu chuyện, gặp ông A, tướng Khánh nói thế này, gặp ông B tướng Khánh lại nói cách khác. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị xử bắn tại khám Chí Hòa thì Phan Quang Đông bị xử bắn tại Huế. Ông Khánh bay ra Huế để lấy lòng dân chúng từ một trung tâm tranh đấu... nhưng ông lại bị dân chúng vây tại dinh Tỉnh trưởng Thừa Thiên. Ông phải “trốn lủi” đi cửa sau rồi dùng trực thăng rời khỏi cố đô. Sau một ngày hành trình toát mồ hôi, lại bị dân chúng la ó đả đảo, hôm ấy ông Khánh tìm lại giấc ngủ bình an sau khi ông Cẩn đã ra người thiên cổ. Chết là hết, ông Khánh được bình an vì những tưởng ông Cẩn sẽ mang theo tất cả những bí mật về phần tài sản của ông. Sự đời đâu có đơn giản như vậy. Cái kim trong bọc để https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 42/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm lâu ngày cũng lòi ra, huống chi tài sản của ông Cẩn không phải là ít từ của chìm của nổi. Nhiều người thân tín trong gia đình ông Cẩn cho rằng “Ông Cẩn chết vì tài sản đó”. Để gây quỹ cho đoàn thể Cần Lao, trong chín năm ông Cẩn đã ủy tên cho một số người đứng tên quản trị. Ông X đứng tên và quản trị một cơ sở kinh doanh này. Ông Y được trao phó đứng tên mua một thửa đất kia. Trong cái valise của ông Cẩn lại chất đầy những quý vật rồi lại có một trương mục tại ngân hàng do mấy người trong Đoàn thể đứng tên. Nếu ông Cẩn còn sống, các đương sự sẽ khó lòng chiếm đoạt nổi. Có thể tướng Khánh đã được chia một phần tài sản ấy về mặt của nổi để gọi là dùng vào quỹ mật. Tại nhà dòng Chúa Cứu thế ngày 3-11 khi được quân đảo chính mời tham gia, một vài người thân tín của ông Cẩn đã đề nghị: “Tình thế đã như vậy rồi nay Hội đồng mời Cậu tham gia thì Cậu cứ tham gia. Bao nhiêu tài sản, của cải của đoàn thể hiện do ai đứng tên, do ai cất giữ cậu khai hết rồi đem nạp cho Hội đồng để xung vào công quỹ Quốc gia”. Nếu ông Cẩn nghe lời nhân chứng B, công khai hóa tài sản và đem nạp cho Quốc gia thì ít nhất cũng không ai có thể nuốt được hết cho dù có “chấm mút” ít nhiều. Nói về tài sản của ông Cẩn, giới thân tín của ông đều ngao ngán: “Ông Cẩn không bao giờ tin nhũng cộng sự viên thân cận của ông mà ông vẫn cho rằng quá trẻ không hiểu gì về vấn đề kinh tài cho đoàn thể”. Dạo năm 1961 nhiều đảng viên Cần Lao bị thương, đau yếu túng quẫn, Đại úy Minh có đề nghị: “Cậu trích một số tiền trong quỹ đoàn thể giúp đỡ những người đã phải hy sinh hay thương tích vì quốc gia và đoàn thể”. Lúc ấy ông Cẩn nói: “Tiền đâu bây chừ... tao làm gì có tiền”. Mấy cộng sự viên rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu tiền bạc bấy lâu nay đi về đâu và ở những tay ai? Vào khoảng năm 1959, có người đề nghị ông Cẩn mua lại một số đất của hoàng tộc. Ông bảo Đại úy Minh và mấy người thân tín cùng ông đi coi xem đất cát ra sao. Một người lên tiếng cản ngăn: “Con nghĩ Cậu không nên làm như vậy. Mình vừa truất phế Bảo Đại xong bây giờ lại đứng ra mua lại đất đai của Hoàng tộc thì cho dù có trả tiền theo thời giá vẫn bị mang tiếng” ông Cẩn đáp: “Tao một thân một mình thì cần chi. Lo là lo cho bọn bay, đoàn thể mà không có vốn liếng thì làm sao hoạt động được? Tụi bay còn trẻ biết gì”. Từ đó mấy cộng sự viên thân tín không ai đả động gì đến việc này dù họ cũng biết rõ ông Cẩn đã ủy cho ai lo phần kinh tài. Theo người biết chuyện thì mẹ con bà Luyến và một số người khác đã làm hỏng ông Cẩn, nhất là vấn đề kinh doanh tiền bạc. Rồi khi tàn cuộc thì những “ai đó” phỗng tay trên. Trong suốt 9 năm cầm quyền đã có biết bao ông bà lớn tâng bốc bà Luyến lên mây xanh, một tiếng Dì, một tiếng Mợ. Một đằng Cậu Cẩn, một đằng Mợ Luyến. Do đó đã gây nên bao nhiêu dư luận xấu xa. Mà bà Luyến tuy anh em con dì với anh em ông Cẩn nhưng lại chỉ là thứ gia nhân lo việc nội trợ trong nhà. Phú hộ đồng quê Trong chín năm ông Cẩn đã cho tiền thiên hạ rất nhiều. Bản thân ông vốn là cậu ấm con quan Thượng thư Lễ bộ nhưng ông lại là con người tiêu biểu cho trạng thái quê mùa. Thường ngày, ông dùng cơm với cá kho, dưa chua. Ngay nhà ông bao giờ cũng muối sẵn từng vại dưa, vại cà, có khi ông còn tỉ mẩn đi muối hàng vại “dưa rau muống”. Một sáng kiến khá kỳ cục... vì chưa thấy ai dùng rau muống để muối dưa, vì ông lại không ăn được vây yến hay sơn hào hải vị!. Nhà ông ở Phú Cam nuôi hàng trăm con chim bồ câu. Nuôi là để dành dấy thôi. Ông Cẩn có tâm lý một nhà giàu xứ quê cho nên cái gì ông cũng thu vén chắt chiu, cái gì cũng cho vào trong kho hết, trong kho của nhà ông chứa đựng không biết bao tranh sơn mài đồ gốm, đồ cổ. Dĩ chí có nhiều người biếu ông miếng gỗ cẩm lai ông cũng cho cất vào kho để dành. Ngày 1-11 là sinh nhật ông cho nên khách bốn phương đổ về Huế tấp nập với bao nhiêu quà, ông không ăn, trong nhà cũng không thể ăn hết, tuy vậy dù là quà thuộc về thực phẩm, ông cũng đem cho vào kho cất đi. Mấy hôm sau để thối ra đấy người nhà lại mất công đem đi đổ... Con người ông Cẩn là một thế giới đầy mâu thuẫn, ông vừa có cái cốt phong kiến của con quan, ông lại có tính thu vén chắt chiu của một phú nông, cùng cái hách của Tổng lý thời xưa. Ông có bản chất và sắc thái của một ông già nhà quê. Ngoài thú câu cá, ông còn tự tay vót tre đan rổ rá. Rổ rá trong nhà ông phần lớn là do ông đan lấy và ông coi đó như một sinh thú. Công lý Ngày 20-4-64, ông Cẩn được xét xử trước Tòa án. Ông Cẩn cũng bị khép vào các tội như Phan Quang Đông chỉ khác tội cố sát. Trên đây, xét từ nguyên nhân sâu xa thì ông Cẩn chết vì lý do tài sản. Nhưng ra tòa, bản án tử hình dành cho ông lại bắt nguồn từ vụ án gián điệp miền Trung với Huỳnh văn Trọng, Nguyễn Đắc Phương bị người của ông Cẩn xô từ trên lầu xuống và Phương chết như vậy tức là Phương bị cố sát chứ không phải Phương tự tử (?). https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 43/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Buổi sáng ngày 20-4, khi tòa xử, có vợ Nguyễn Đắc Phương ra làm nhân chứng. Một vài tờ báo mô tả rằng: “Người vợ của ông Phuơng vì thương chồng phẫn uất quá nên ra tòa bị ngất xỉu”. Một người ở Huế biết quá rõ bà Phương nói rằng: “Bà Phương mới sinh được hai tháng đã phải ra tòa nên ngất xỉu”. Tại sao lại như thế? Chồng bà đã chết từ lâu cơ mà? Đại cương vụ án gián điệp tại miền Trung như thế này: Hồ sơ vụ này đã có từ thời ông Giám đốc Công an Trung phần Nguyễn Chữ. Đầu năm 1960 mấy Linh mục Đà Nẵng có lên gặp Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục trình bày về việc một số người bị bắt oan trong đó có cả tín đồ Thiên Chúa giáo. Đức cha Thục thay vì hỏi thẳng Phan Quang Đông (vì Đông có trách nhiệm trong vụ này) ngược lại Đức cha Thục lại vào thẳng Sài Gòn trình bày nội vụ với Tổng thống Diệm, sau đó Tổng thống Diệm ra lệnh cho Đại tá Đỗ Mậu mở cuộc điều tra. Đại tá Mậu đánh công điện cho Đại úy Thích, Trưởng khu An ninh Huế điều tra vụ này. Dĩ nhiên là động đến ông Cẩn, Đại úy Thích không dám đơn phương tiến hành. Đại úy Thích đến xin gặp Đại úy Minh bàn luận cùng ông Minh nên xử trí như thế nào. Ông Minh cho rằng, vụ này nên hỏi lại Phan Quang Đông và báo cho Đông biết sự thể nó như vậy. Sau đó sẽ trình báo với ông Cẩn. Đại úy Thích vào gặp ông Cẩn trình bày về bức công điện từ Sài Gòn. Phản ứng đầu tiên là ông Cẩn tái mặt, ông bảo Thích điều tra lại xem có điều gì oan ức không. Ông Cẩn nói: Giết oan người ta thì Chúa phạt đến đời con đời cháu. Sau An ninh Quân đội điều tra thì đều xác nhận vụ án gián điệp có thật. Ngày 20-4, Tòa xử ông Cẩn về vụ ấy. Người tử tù Một viên giám thị tại khám Chí Hòa (từng có nhiệm vụ canh gác phòng ông Cẩn) đã kể lại với chúng tôi: Có một đêm đã khuya lắm, anh ta đi qua phòng ông Cẩn, tò mò nhìn qua lỗ khoá. Anh ta thấy ông Cẩn đi đi lại lại quanh phòng rồi ông gục đầu vào tường. Anh nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Sau đó anh thấy ông Cẩn đi lại phía giường. Ông quỳ dưới chân tường gục đầu vào nệm, anh vẫn nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Một lần khác có việc vào phòng ông, ông lại có vẻ bình thản và hỏi: “Chú có nghe tin tức gì ở ngoài nớ không?”. Tất nhiên là anh ta chỉ ầm ừ rồi mau chóng đi ra (vì sợ bị nghi có liên lạc với tù nhân)... Lần nào gặp, ông Cẩn cũng có lời hỏi han anh như: lương bao nhiêu, có đủ ăn không, mấy con, bố mẹ còn không, có nuôi được bố mẹ không? Buổi sáng ngày ông Cẩn ra pháp trường, người con gái bà Ấm (cháu gọi ông Cẩn bằng cậu) được phép vào tận trong phòng giam thăm ông với sự hiện diện của viên chức quản lý. Chị ta giơ năm ngón tay ra hiệu cho ông Cẩn (có nghĩa là năm giờ bị xử). Ông Cẩn khẽ gật đầu. Vì không nén được xúc động, người cháu gái khóc bù lu bù loa và nặng lời nguyền rủa những ai phản phúc với ông cậu mình. Ông Cẩn thì vẫn điềm đạm. Lời ông nói với cô cháu gái được ghi nhận như sau: “Không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết. Làm chính trị thì phải biết sẽ có ngày như thế này”. Buổi chiều, có những viên chức đã đưa ông từ trại giam ra pháp trường: Đại tá Trang văn Chính, Giám đốc Cảnh sát Đô thành, Trung tá Nguyễn văn Đức, Ủy viên Chính phủ và luật sư Võ văn Quang cùng một số viên chức khác và có cả bà Ấm, người chị ruột của ông Cẩn. Trước đó ông Cẩn bị bệnh sưng khớp xương và những tháng nằm trong tù ông gần như bị tê liệt, mỗi khi đi đứng phải có người xốc hai vai. Song buổi chiều ra pháp trường một số người hiện diện đều ngạc nhiên, da mặt ông ta tự nhiên đỏ hồng, từ trên lầu xuống nhà ông vịn tường mà đi không cần người xốc nách. Ông vẫn thường nói với chị ông và các cháu (trong đó có bà Trần Trung Dung) “Không việc gì phải khóc lóc hay chửi rủa ai. Cứ cầu nguyện cho người ta. Cậu làm chính trị cậu đã nghĩ đến ngày phải như thế này”. Đại tá Chính và mấy người khác lên tiếng chào ông, ông cúi đầu thi lễ: “Xin chào các ngài”. Mọi người đều công nhận ông có vẻ thản nhiên và khỏe mạnh hơn mọi ngày thường. Khi ra pháp trường ông Cẩn lẻ loi một mình. Mặt ông vẫn thản nhiên, ông bị trói vào cột (như báo chí đã tường thuật). Trung úy Bảo, sĩ quan báo chí Phủ thủ tướng là người duy nhất đại diện báo chí nhà nước có mặt tại “sân bắn” lúc ấy. Trung úy Bảo thuật lại: Hai bàn chân của ông chỉ có năm ngón chấm đất, gót chân lơ https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 44/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm lửng. Ông Bảo tiếp lời: Biết đâu lúc ấy ông Cẩn không nhận ra tôi Trung úy Bảo đứng cách tử tội Ngô Đình Cẩn 15m về phía tay mặt. Đằng trước ông Cẩn là toán quân thực thi nhiệm vụ. Sau toán quân cách là báo chí. Do tình cờ của số phận, Bảo lại có mặt trong tư thế đại diện chính quyền trong buổi xử bắn ông Cẩn. Thật là éo le. Nhân chứng nói: “Nhìn ông Cẩn lúc ấy tôi rướm nước mắt song vẫn cố tình làm ra vẻ thản nhiên”. Định mệnh lịch sử có thật hay sao? Trước đó Bảo được Trung tá Khôi cho ra Huế mang thư riêng đến ông Cẩn. Khi được Đại úy Minh đưa vào yết kiến, Trung úy Bảo rất ngạc nhiên. Ông Cẩn nằm trên chiếc ghế xích đu kê ở hàng hiên. Ông đang nhai trầu bỏm bẻm. Thấy Bảo ông Cẩn ngồi nhỏm dậy và tự tay kéo ghế mời ngồi. Ông gọi đích danh Bảo rồi hỏi thăm chuyện trò lan man về tình hình Sài Gòn, về gia cảnh và công việc làm ăn của Trung úy Bảo. Vẫn khuôn mặt cũ, buổi chiều hôm ấy ra pháp trường, Trung úy Bảo thấy ông Cẩn vẫn giữ vẻ bình thản, da mặt đỏ hồng. Rồi một loạt súng nổ, ông Cẩn trở về cõi thiên cổ. Trước đó ông ta từ chối không chịu bịt mắt. Nhưng Trung tá ủy viên Chính phủ nói “Đây là luật lệ bắt buộc như vậy”. Ông Cẩn đành chịu, ông cũng không quên lên tiếng xin mọi người tha thứ cho ông và những người đồng đạo có mặt lúc ấy đã đọc cho ông một kinh lạy cha trong đó có câu “Xin cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha tội chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Khi bị trói vào cột, ông Cẩn được gặp riêng cha Thính thuộc dòng Chúa Cứu thế là vị quan linh hướng của ông. Rồi sau là luật sư Võ văn Quan... Luật sư Quan nói chuyện với ông Cẩn một lúc, rồi đưa tay gỡ cặp kính trắng trên mắt ông, không khí thật trầm lặng và căng thẳng trong nỗi thê lương. Cha Thính quay đi... mắt vị Linh mục long lanh hạt lệ. Luật sư Quan khẽ thở dài như tiếc thương cho một phận người. Chỉ một loạt đạn thứ nhất, ông Cẩn đi ngay. Đầu ông gục xuống, lắc lư... Trung úy Bảo đến bên ông... Màu da đỏ hồng biến thành mầu xám nhạt. Không ai giữ được tiếng thở dài nghẹn ngào. Ông được tháo dây trói và đặt trên băng ca khiêng trở lại khám đường. Bảo đi theo. Trong gian phòng hoang lạnh, không còn ai ngoài Bảo, người hiến binh áp giải và lát sau thì bà Ấm lật đật chạy vào. Ông Cẩn nằm trên băng ca, phủ tấm vải trắng loang lổ máu. Người chị ông khóc rưng rức, nước mắt giàn giụa trên gò má. Thế là xong một đời người. 6. Trường hợp bà Ngô Đình Nhu Bà Ngô Đình Nhu có điệu bộ vóc dáng của một minh tinh màn bạc hơn là một phu nhân theo cốt cách Đông phương. Trong chín năm chế độ Ngô Đình Diệm bà được suy tụng như một Đệ nhất phu nhân. Chính cái danh xưng này đã không thuận tai và làm cho dư luận đàm tiếu không ít. Ông Nhu tuy là một Cố vấn chính trị Phủ tổng thống, nhưng trên danh nghĩa ông không có một vị thế công quyền. Ông Tổng thống sống đời độc thân mà người em dâu lại được “suy tôn” như Đệ nhất phu nhân thì điều đó quả chướng tai, vì nó không chính danh và hợp với chữ Lễ. Nhưng từ nguyên do nào đã đưa bà Nhu lên địa vị một người đàn bà “uy quyền” khiến bao nhiêu khách công hầu của chế độ phải ra luồn vào cúi và coi bà như một nữ lãnh tụ? Ai phong cho bà Nhu tước vị Đệ nhất phu nhân? Không ai phong cho bà cả. Nếu có thì chỉ có cơ quan Thông tin thỉnh thoảng qua một vài bản tin, qua bích chương đã “bốc” bà lên hàng tột đỉnh công danh đó. Xin trở lại quá khứ: Tháng 4-1955 khi Sài Gòn đang ngút ngàn khói lửa, Bình Xuyên quyết ăn thua đủ với chính quyền, gia đình bà Nhu vẫn còn ở căn nhà của bác sĩ Cao Xuân Cẩn trước dưỡng đường Saint Pierre Sài Gòn. Khi thu hồi dinh Norodom, Tổng thống Ngô Đình Diệm dành một phòng phía bên trái cho vợ chồng ông Luyện. Trong hai người em dâu thì Tổng thống Diệm quý bà Luyện hơn. Giữa vợ chồng ông Luyện với Tổng thống Diệm có sự thân mật đậm đà và không xa cách như vợ chồng ông Nhu. Từ khi trở về nước chấp chính cho đến tháng 4-1955, vai trò của ông Ngô Đình Luyện mới là quan trọng. Vai trò của ông Nhu lúc ấy còn mờ nhạt... Nhưng có một điểm tâm lý như thế này: Tuy rất quý vợ chồng ông Luyện nhưng ông Luyện lại chỉ có toàn con gái. Tổng thống Diệm không thích cháu gái, ông rất yêu mến đám con trai của bà Nhu. Đó cũng là lý do dễ hiểu, khi cha con ông Ngô Đình Khôi qua đời (1945) thì mấy chú con trai của ông Nhu là kẻ nối dõi tông https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 45/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm đường của dòng họ Ngô Đình. Ngô Đình Trác đứng vào hàng đích tôn thừa tự và là bực trưởng của gia đình Ngô Đình sau này. Mấy chú con trai của ông Nhu trở thành nhịp cầu nối tiếp giữa vợ chồng ông Nhu và Tổng thống Diệm mặc dầu bản chất giữa Tổng thống Diệm và ông Nhu rất khác biệt nhau. Anh em không mấy khi gần nhau qua những phút tâm tình hàn huyên. Nhưng mấy đứa cháu trai lại trở thành nguồn hứng thú tinh thần của Tổng thống Diệm và đó cũng là nguồn hy vọng của ông Tổng thống còn nặng lòng với Nho giáo... trong tình cảm gia dình. Chính cũng nhờ ở điểm có mấy người con trai cho nên bà Nhu đã dễ dàng tạo được tư thế trong gia đình nhà chồng. Khi trận chiến giữa Bình Xuyên và chính quyền bùng nổ, Đại tá Huỳnh văn Cao bàn tính với Thiếu tá Vinh làm thế nào để di tản gia đình bà Nhu vào trong dinh, nếu không Bình Xuyên có thể làm “hoảng”, giết ông bà Nhu hoặc bắt cóc mấy đứa con của bà để làm điều kiện thương thuyết. Ý kiến này mọi người đều cho là phải. Trước đó Tổng thống Diệm cũng tỏ ý băn khoăn ngỏ ý với ông Bằng “Mi bàn với Vinh và Cao làm sao che chở gia đình ông Nhu ở Saint Pierre... Bình Xuyên nó làm dữ quá.”.. Mấy hôm sau, gia đình bà Nhu di tản vào dinh Độc Lập, ở trong một gian phòng phía góc trái. Lúc đầu ông Nhu nằm ghế bố vì không có giường... Bà Nhu tuy chỉ học hết lớp Đệ tam (classe de seconde) trường Albert Sarraut Hà Nội nhưng bà lại có một trì thông minh thiên bẩm. Sinh ra trong nhung lụa, lại thuộc gia đình quan lại vọng tộc, bà Nhu từ tấm bé đã ở trong một môi trường tháp ngà, hầu như không liên hệ với nếp sống Việt Nam. Có thể nói, bà thuộc một giai cấp không có trong xã hội Việt Nam. Cái giai cấp đó được hình thành trong chiếc nôi văn hóa của phương Tây. Bà là thứ trưởng giả thứ thiệt. Nhưng thứ trưởng giả này là một chất hỗn hợp giữa bản chất hoàng phái (dòng máu bên ngoại) cùng quan lại vọng tộc (dòng máu bên nội qua gia đình ông Trần văn Thông). Thân mẫu của bà là cô gái Huế thuộc hàng khuê các sông Hương núi Ngự. Thân phụ bà tuy hiền lành nhưng trong con người của ông Trần văn Chương đã có tới 80% chất Tây. Quê nội trong Nam, quê ngoại ở xứ Huế, lại sinh trưởng ở đất Bắc, bà trở thành một thứ lưu dân giữa ba miền Bắc, Trung, Nam. Từ nhỏ học trường Pháp, và trong gia đình sống theo lối Pháp, cha mẹ con cái chỉ nói tiếng Pháp như một ngôn ngữ mẹ đẻ, bà Nhu trở thành một thứ đầm con khi còn cắp sách đến trường. Tóm lại, môi trường và nếp sống của bà hoàn toàn xa cách với nếp sống của quảng đại quần chúng Việt Nam. Khi trở về làm dâu họ Ngô Đình bà Nhu trở nên lạc lõng. Giữa hai họ Ngô Đình và Trần Văn tuy là dòng quan lại cũ nhưng họ Trần Văn đã “tây hơn cả tây”. Họ Ngô Đình trước năm 1945 thường bị giới đường quan phê phán là “quê”. Quê có nghĩa là không biết ăn chơi, không có một đời sống thích nghi với nếp sống phương Tây và hầu hết giới quan lại thời đó đều coi đây là hình ảnh mâu thuẫn và hoàn toàn khác biệt giữa hai gia đình thông gia, Ngô Đình và Trần Văn. Qua tấm ảnh trong album của gia đình Ngô Đình chúng ta thấy cụ ông Ngô Đình Khả đứng cao lênh khênh, mặc áo đại quan, đeo bài ngà kim nhưng chiếc quần lại cao quá mắt cá chân, rộng thùng thình. Ông là hình ảnh một vị thượng quan thế kỷ 18. Bà Khả thấp, mặc áo dài đen, quần thì ống thấp ống cao, bế con. Chung quanh hai ông bà là một đàn con yêu vận quốc phục. Riêng Tổng thống Ngô Đình Diệm lại mặc một bộ đầm sọc (loại tây đã phế thải) và đi chân đất. Nhìn cảnh đó, ta có ngay một mối cảm tưởng sâu xa về cảnh hàn vi của một Lễ bộ Thượng thư Nam triều còn gia đình bà Nhu thì trái hẳn, ông Trần văn Chương mặc Smoking rất đúng điệu trưởng giả Anh quốc... Bà Chương lộng lẫy trong áo dài gấm, vấn tóc trần. Chính ảnh một phu nhân tân thời vào những năm 1930... trong khi con cái bà Chương đều mặc “đầm” rất đúng điệu. Chú con trai mới mấy tuổi cũng Com lê hoàn toàn trưởng giả. Trong gia đình ông Trần văn Chương, vợ chồng con cái đều dùng tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ. Bà Nhu vốn đã nổi tiếng là một mệnh phụ giao du rất rộng. Bà thuộc loại “đầm galăng”. Được ấp ủ và giáo dục trong một trường Tây phương, khi còn đi học bà đã nổi tiếng là một tiểu thư lả lướt, lãng mạn. Ông Nhu vốn là bạn của vợ chồng luật sư Chương. Cuộc tình duyên giữa chú Nhu và cô bé Lệ Xuân là một cuộc tình duyên “chú cháu”. Chú lớn hơn cháu trên cả hai mươi tuổi. Kể từ năm 1945, gia đình ông Nhu trải qua cuộc “phong trần” khi thì ở Đà Lạt, khi thì ở Sài Gòn... ông Nhu “thất nghiệp”... sáu, bảy năm trời. Khoảng thời gian này đều do tay bà Nhu tần tảo thu xếp. Từ nếp sống một tiểu thư trưởng giả đổi qua vai trò người vợ một ông chồng “lừng khừng và thất nghiệp chính trị” bà phải lo toan mọi bề và thời gian này với một người như bà Nhu không tránh khỏi tâm lý của kẻ tự tôn với dĩ vãng vàng son và tự ti với hiện tại cam go đầy sinh kế. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 46/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Dù có sự trợ cấp của Đức cha Thục, gia đình vẫn không thoát khỏi cơn khủng khoảng kinh tế kéo dài sáu năm. Thời gian này, chuyện xô xát giữa đôi vợ chồng trẻ khó bề tránh khỏi. Theo sự tiết lộ của một số gia nhân thân cận... thì bà Nhu luôn luôn to tiếng... với ông chồng. Ông Nhu không biết kiếm đâu ra tiền, mọi sự đành “một tay nhờ mụ nó”. Khi một người đàn ông, dù người đàn ông đó là loại siêu đẳng nhưng từ một điếu thuốc cũng do tiền vợ mua thì tất nhiên do kết quả tiệm tiến của một quá trình tâm sinh lý người đàn ông đó không thể nào không bị vợ chi phối. Vợ không khinh đã là đại phước lắm rồi. Nếu vợ vẫn trọng vọng mình thì lại càng tạo nên yếu tố tâm lý giúp cho ngườivợ dễ dàng khuất phục ông chồng và quyền uy của người vợ theo thời gian mà thấm vào trái tim và trí óc ông chồng, không bao lâu quyền uy của chồng trở thành quyền uy của vợ. Ông Nhu ở trong trường hợp này. Kể từ năm 1952, tình trạng kinh tế gia đình của vợ chồng ông Nhu càng thêm sa sút, đến độ tê liệt. Bà Nhu đã phải bán hết nữ trang. Từ năm 1952 chiếc vòng bà đeo cổ cuối cùng cũng phải đem đi phát mại. Khi ông Nhu quay sang làm tờ Tuần báo Xã hội thì cảnh nhà lại càng tệ hại. Những cộng tác viên của ông dạo đó phải mua tặng ông Nhu từng bao thuốc, đãi ông từng bữa quà sáng. Quần áo của ông Nhu cũng đã xác xơ. Ông chỉ còn lại một vài bộ đồ lớn còn lưu giữ từ thời tiền chiến. Bà Nhu thì đi xe đạp... ông chồng Nhu vẫn đi ké xe “muôn thuở” từ năm 1945 cho đến 1954. Bản chất ông Nhu vốn trầm lặng một cách khó hiểu, cho nên cứ mỗi lần bà Nhu la lối là ông ngồi im không một lời nói năng, nét mặt chảy dài. Xì căng đan như một biến cố tâm lý trong đời ông là dạo cuối 1953 bà Nhu đã dọa tự tử sau một trận xô xát. Trước sau ông Nhu vẫn là kẻ thua cuộc vì bất lực trong cuộc âm mưu sinh kế cho gia đình. Nguyên nhân chỉ vì cạn tiền không còn cách nào xoay xở để sinh sống. Với một con người trí thức cỡ nặng như ông Nhu trong tình cảnh ấy kéo dài qua nhiều năm thì áp lực và ảnh hưởng của vợ đối với chồng (nhất là chồng già vợ trẻ) mỗi ngày càng thấm sâu lan rộng... do đó bà Nhu càng dễ dàng khuynh loát, khống chế bao tỏa mọi việc... từ gia đình riêng đến giao tế bên ngoài. Trước năm 1952 đối với vợ ông là người cứng rắn, không thích ai bàn tính chuyện thế sự với bà vợ... mà ông cũng không bàn thảo gì với bà vợ còn non trẻ. Ông vẫn coi vợ là một cô cháu gái ngây thơ. Nhưng bà Nhu lại nhiều lần muốn chứng tỏ mình không còn nhỏ dại và đủ khả năng để giúp chồng làm việc lớn. Trong vụ tranh chấp giữa tướng Hinh và Tổng thống Ngô Đình Diệm, bà đã chứng tỏ bà có khả năng thực. Dạo ấy bà Nhu đã len lỏi đến nhiều nơi để vận động ông tướng Hinh và kể cả chuyện tham gia sách động biểu tình tháng 9 năm 1954. Giữa lúc tình hình gay go nhất, bà Nhu nhảy vào vòng với một lập trường dứt khoát là phải đuổi cổ anh “tây con” sang Pháp. Tháng 4 năm 1954, khi Tổng thống Diệm nhận được điện của Quốc trưởng Bảo Đại triệu qua Cannes, bà Nhu đã mạnh bạo tỏ thái độ quyết hệt và tìm cách ngăn không cho ông anh chồng sang Pháp và chủ trương lật đổ ông Vua này. Về vụ Bình Xuyên bà cũng nhảy vào vòng (dù không ai yêu cầu) nhưng bà lại chứng tỏ có khả năng và nhiều sáng kiến trong việc giúp anh và chồng giải quyết đại sự trong một tình thế sôi bỏng. Khi gia đình bà Nhu dọn vào dinh Norodom, lúc đầu chỉ có tính cách ở tạm ít lâu để lánh nạn Bình Xuyên. Gia đình ông Luyện tự động nhường căn phòng phía bên trái dinh cho vợ chồng ông anh và dọn ra ở tòa nhà trắng phía đường Nguyễn Du. Ông bà Nhu ở căn phòng này cho đến vụ ném bom 27-2-1962. Trong gia đình, ngoài Đức cha Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm thì không ai ưa bà Nhu cả. Riêng ông Luyện lại coi thường bà chị dâu và tỏ ra bất mãn khó chịu mỗi khi thấy bà chị dâu “can dự vào” chuyện quốc sự. Sự bất đồng giữa ông Nhu và ông Luyện trở nên rõ rệt qua vụ truất phế Bảo Đại. Ông Luyện là bạn thân của Bảo Đại từ hồi còn đi học và chính ông đã đóng vai trò giao liên dàn xếp với Bảo Đại qua vụ tướng Hinh và Bình Xuyên. Ông Nhu thì chủ trương phải truất phế cựu Hoàng Bảo Đại và thành lập chế độ Cộng hòa, dĩ nhiên là bà Nhu hùa theo. Bà lại thường dùng những ngôn ngữ đao to búa lớn... Thái độ và lời nói của bà vừa lấn át người đối thoại, vừa như mệnh lệnh khuất phục kẻ đối lập với bà. Trong thời gian ba tháng qua Pháp để dàn xếp với Bảo Đại vào đầu năm 1955 lúc ông Luyện trở về thì quyền Cố vấn đã hoàn toàn nằm trong tay ông Nhu, có nghĩa là bà Nhu cũng tham gia ít nhiều vào quyền Cố vấn đó. Tổng thống Diệm đã dặn riêng mấy người thân cận như Đại úy Cao, Thiếu tá Vinh như “ở nhà có chuyện gì xảy ra đừng có kể lại cho ông Luyện nghe”. Ý Tổng thống Diệm không muốn làm phật lòng ông em út mà Tổng thống Diệm thương nhất trong nhà, nhưng ông lại nể ông Nhu hơn và phục cái tài của ông em học giả. Từ dạo đó, quanh Tổng thống Diệm đã chia thành hai phe, một phe thân ông Luyện, một phe thân ông bà Nhu. Mấy gia nhân thân cận như ông Bằng cũng bắt đầu công khai va chạm với gia đình bà Nhu. Sở dĩ phải mô tả và nhận định về con người và bản chất thực của bà Nhu ở thiên bút ký này là vì những tình cờ của lịch sử và số phận hẩm hiu của Việt Nam, bà Nhu đã có cơ hội tham dự ít nhiều vào một số biến cố lịch sử năm 1963. Điều quan trọng hơn là bà Cố vấn Nhu có một phần trách nhiệm trong biến cố đó. Vấn đề đại sự quốc gia nhiều khi lại bắt nguồn từ những sự việc rất tầm thường. Biến chuyển lớn của lịch sử hơn một lần lại bùng nổ từ những xúc cảm và ý kiến phiến diện của cá nhân lãnh đạo cùng những ảnh hưởng cảm tình chung quanh cá nhân đó. Biến cố 1963 đã nói lên điều này và bà Nhu đã góp phần “đổ dầu thêm vào lò than hồng năm 1963”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 47/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Chẳng hạn như chiếc “ghế khoái lạc” của bà Nhu được triển lãm tại Phòng Thông tin Đô thành năm 1964 (đây chính là chiếc ghế ngồi uốn tóc). Từ năm 1962 thì bà Nhu không ra tiệm cắt uốn tóc nên một tiệm uốn tóc ở đường Catinat đã đưa chiếc ghế này vào dinh, mỗi tuần cho thợ vào một lần, chiếc ghế đó bỗng nhiên được đặt tên là ghế khoái lạc để chứng tỏ tội ác của bà Nhu cùng chế độ Ngô Đình Diệm... chiếc ghế khoái lạc đó đã ít nhiều kích động quần chúng tạo dựng nên bao nhiêu điều đáng tò mò qua con người đầy sôi nổi như bà Nhu. Trong chín năm đã có biết bao nhiêu “sự thực” như vậy được diễn tả một cách mê ly gay cấn trong dư luận quần chúng. Mà sự thực về bà Nhu như thế nào? Trước hết, nếu nói về tội thì bà có một “tội lớn” như thế này: “Bà không biết gì về chính trị nhưng lại hăng hái tham gia chính trị”. Sinh trưởng trong nhung lụa của một tháp ngà trưởng giả Tây phương, không thích nghi với đời sống của quảng đại quần chúng, nhưng lại công khai nhảy ra hoạt động hàng đầu... Tất nhiên bà phải dấn mình vào thực tế nhưng lại không thích nghi được, thực tại trở nên đối địch với chính bản chất trưởng giả và xa lạ quần chúng của bà. Thực ra thì chính quyền dạo đó cũng muốn tạo lực lượng phụ nữ... Vì đây là một lực lượng đáng kể và nếu biết cách tổ chức và vận động thì lực lượng này là một hậu thuẫn to lớn. Bà Nhu có thể làm được điều đó cùng với ưu thế và quyền hành (trong bóng tối mà trong bóng tối mới là quan trọng). Bà Nhu lại quyết tâm hoàn thành gíâc mộng trở thành lãnh tụ của giới phụ nữ miền Nam Việt Nam. Ngay trong gia đình nhà chồng - một gia đình thượng quan nho phong - bà Nhu còn không sống được cho thích nghi với đời sống, huống chi quảng đại quần chúng, nhất là quần chúng Việt Nam vốn trọng nam khinh nữ, người dân Việt Nam vốn chỉ tôn mộ khâm phục những người như bà huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh, Phan Bội Châu phu nhân... Những lý do nào khiến bà Nhu tạo được cơ hội nhảy vào sân khấu chính trị và từ năm 1956 bà đã gây được nhiều thanh thế trong dư luận quốc nội và quốc ngoại... Nói là bà quá ồn ào nhưng ồn ào có kỹ thuật trình diễn. Lý do gần như là tầm thường nhất đã giúp bà Nhu thành công trên con đường của bà, trước hết và đáng kể chỉ vì bà Nhu trở thành con dâu trong gia đình họ Ngô và độc quyền dành cho họ Ngô mấy cậu con trai để nối dõi tông đường (mãi sau này ông Luyện mới có con trai). Tổng thống Diệm độc thân và mấy đứa cháu trai trở thành nhu cầu cần thiết cho đời sống tình cảm của một con người còn nặng lòng với gia tộc và truyền thống như Tổng thống Diệm. Sau nữa là dù Phủ tổng thống đã có Nha Nghi lễ, có Sở Nội dịch, ông Tổng thống Diệm vẫn cần phải có một phụ nữ để lo toan công việc tiếp khách và nhiều vấn đề khác thuộc phạm vi giao tế nhân sự mà thiếu một người đàn bà cũng gây nên nhiều nan giải, bế tắc. Bà Nhu lại có sở trường giao thiệp, có đôi chút khiếu thẩm mỹ. Trong khi Tổng thống Diệm cũng như ông Nhu hoàn toàn mù mờ về thẩm mỹ và giao tế (lo toan việc nội trợ đều một tay bà Nhu điều động) như trang hoàng phòng khách, sắm sửa các đồ trang trí và trang sức. Bà lại luôn luôn tỏ ra con người mẫn tiệp, tháo vát và khéo léo (khi tiếp phái đoàn ngoại quốc) Bà lại nói Pháp ngữ và Anh ngữ rất lưu loát. Từ tư thế một nữ tiếp viên của dinh Độc Lập, lại thêm tham vọng lãnh tụ của phụ nữ cùng với uy thế và quyền hành của chồng và anh chồng, bà Nhu được mặc nhiên chấp nhận trên thực tế một uy quyền bất khả kháng và uy quyền đó, cách này hay cách khác đã chi phối ít nhiều trong sinh hoạt quốc gia và công vụ. Lực lượng phụ nữ của bà Nhu qua phong trào Phụ nữ Liên đới lại chỉ gồm toàn vợ mấy ông lớn cho nên không có tính cách quần chúng và chỉ nặng về trình diễn. Khi các bà lớn trình diễn chính trị thì quả thật không hấp dẫn được ai và trở thành trò cười cho thiên hạ. Bà Nhu chịu đọc sách lại có ông chồng “Cố vấn”, nên bà cũng có chút kiến thức. Tuy kiêu ngạo và tự tôn nhưng gặp việc khó khăn nan giải, bà vẫn chịu khó tìm hiểu ý kiến qua một vài cộng sự viên thân cận của ông Nhu. Bà đối đáp rất mau lẹ, phản ứng kịp thời. Đó là ưu điểm của bà. Nhưng trong hoạt động chính trị, phản ứng nóng nảy bốp chát của một người đàn bà ở địa vị bà Nhu đã trở nên bất lợi cho bà. Khuyết điểm lớn của bà là đã không tạo được những cử chỉ phong độ, ngôn ngữ hấp dẫn được quần chúng kể cả giới phụ nữ. Nếu ý thức được như vậy, lý ra bà Nhu phải hoàn toàn đứng trong bóng tối một cách khiêm nhường, đằng này bà Nhu lại xuất hiện với tất cả sự lộng lẫy loè loẹt với chiêng trống nhịp nhàng của một số các bà tướng tá, Bộ trưởng, Tổng giám đốc và kể cả mấy vị tu mi “râu mày nhẵn nhụi”... Trước hết là dịp lễ Hai Bà Trưng, bà Nhu muốn làm sống lại khí thế của hai vị nữ anh hùng Dân tộc này... và có nhẽ bà Nhu cũng muốn nhân cơ hội trở về nguồn lịch sử để tạo một thần tượng dẫn đạo phụ nữ. Theo bà Nhu “Nam giới có Lê Lợi, Quang Trung thì nữ giới cũng có Hai Bà Trưng như Pháp có Jeane d’Arc”. Trước năm 1963, lễ hội Hai Bà Trưng được mô tả như một lễ Quốc Khánh, không có ai công khai phản đối được. Nhưng vì trình diễn quá nhiều nên lại không thuận tình. Xin dẫn chứng về cái gọi là không thuận tình như thế này: Lễ đài trần thiết thật long trọng tôn nghiêm có bàn thờ, có tàn lọng, có đồ bát biểu, gươm đao, khí giới... trên bục lớn của lễ đài trải nhung đỏ (màu tiêu biểu cho sự thiêng liêng của dân tộc). Lễ nghi dành cho bậc anh hùng dân tộc như vậy là đúng. Nhưng người chủ lễ rất quan trọng. Dư luận luôn lưu ý về điểm này. Bà Nhu https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 48/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm với tư cách đại diện phụ nữ Việt Nam và Đại diện Tổng thống, nhất là Đại diện Tổng thống nên bà được hưởng đầy đủ nghi lễ, nào là xe dành riêng cho Tổng thống lại có đoàn xe Harley hộ tống, khi đến lễ đài lại có đủ mặt Bộ trưởng, tướng lãnh tăm tắp đứng lên “kính chào” theo nghi lễ quân cách. Trên nguyên tắc thì đúng là vị đại diện của Tổng thống đuợc quyền hưởng nghi lễ như vậy. Nhưng thực tế chính trị và tâm lý truyền thống Việt Nam không chấp thuận như vậy. Dù cho là vợ một Tổng thống, người Việt cũng cảm thấy khó chịu. Nếu vợ ông Tổng thống cũng được hưởng nghi lễ đón tiếp dành riêng cho vị nguyên thủ quốc gia ở Tây phương thì lại khác, huống chi bà Nhu chỉ là em dâu một Tổng thống vốn được tôn trọng theo hàng trưởng lão quốc gia. Do đó mà dư luận bàn tán mỉa mai thành ra “kính chẳng bõ phiền” không ít, giọng nói của bà Nhu qua các bài diễn từ cũng là một thất lợi vì giọng tuy mạnh thật, tuy có lửa nhưng lại vốn ra vẻ lãnh tụ, như răn dạy, truyền bảo, thêm vào đó tiếng nói lại thiếu ngọt ngào truyền cảm, thiếu nữ tính... Khi đã có quyền hành, có địa vị (dù là trong bóng tối) và một uy tín cần phải được bảo vệ trong tư thế lãnh đạo... Ông Nhu hay ai cũng không thể làm cách nào khác hơn là nhịn một người vợ hay lớn tiếng, dám làm những việc động trời như bà Nhu... ông Nhu trở thành bất lực không thể ngăn cản vợ... đó chỉ là hậu quả bản chất của kẻ nhu nhược. Vả lại dưới con mắt chủ quan của ông Nhu thì người vợ ông không làm gì quá đáng, trái lại công việc của bà Nhu lại hợp lý và hữu ích cho quốc gia. Lấy việc bà tham gia Luật gia đình là một thí dụ. Kể từ tháng 12-1957, Quốc hội họp bàn sôi nổi về dự án của Luật Gia đình, bà Nhu đã từng bỏ phòng họp ra về với thái độ, ngôn ngữ rất ngang ngược ngạo mạn. Đối với một tín đồ Thiên Chúa giáo thì đời sống lứa đôi chỉ có một vợ một chồng và không được ly dị, vấn đề đa thê không cần đặt ra. Nhưng xã hội Việt Nam không phải là xã hội phương Tây và dân chúng Việt Nam không phải tất cả đều là tín đồ Thiên Chúa giáo Thiên Chúa giáo chỉ chiếm (15% dân số) cho nên Luật này trên lý thuyết thì hay song thực tế không phù hợp với bản chất và nếp sống của quảng đại quần chúng lúc bấy giờ. Hơn nữa giới âm thầm phản đối chính là giai cấp tướng tá và công chức cao cấp cũng như những công kỹ nghệ gia giàu có, phần lớn các vị này đều bị kẹt nếu không có vợ bé thì cũng lén lút giao du. Bà Nhu đã lý luận “Đã đến lúc người phụ nữ đứng lên bình đẳng với người chồng ngay trong phạm vi gia đình, chỉ một vợ một chồng thôi... chỉ những kẻ hư hỏng không ra gì mới lấy vợ nhỏ rồi bỏ phế gia đình”. Bà Nhu vẫn tin là mình đi đúng đường với chủ trương cách mạng xã hội, giải phóng phụ nữ của thế giới, trước hết từ gia đình, để từ đó ra ngoài xã hội. Lý luận và chủ trương của bà nghe xuôi tai và hợp lý. Nhưng điều căn bản là cải tạo xã hội, không phải chỉ bằng một biện pháp, ban hành một vài đạo luật. Có thiện chí và hăng say song bà Nhu vẫn bị phản đối, dân chúng lại thờ ơ. Trước hết vì bà Nhu không nắm được một vài định luật rất giản dị, đơn giản của chính trị (Những nhà lãnh đạo của chính quyền ông Diệm sau 1963 đều mắc phải lỗi lầm như vậy, vì là một thứ lãnh tụ “non” thiếu học tập thiếu kinh nghiệm, không có căn bản chính trị). Một trong những “định luật chính trị” căn bản của người lãnh đạo là không bao giờ được lấy chủ quan của mình để biến đổi khách quan (tức thực tại chính trị) nhưng ngược lại phải biết biến hóa chủ quan lãnh đạo của mình. Và dung hòa chủ quan với khách quan tức là hòa đồng bản thân với thực tại để nắm thực tại. Bà Nhu là người có tài thực, có thiện chí, song tính kiêu ngạo và chủ quan cũng đã đủ làm cho bà trở thành đối tượng cho bao nhiêu điều phẩm bình, dị nghị đàm tiếu... Mẫu người như bà Nhu sẽ dễ dàng thành công trong xã hội Mỹ. Ngôn ngữ cử chỉ cùng những phản ứng lanh lẹ của bà sẽ dễ dàng thu hút được đám đông. Nhưng đám đông trong quần chúng Việt Nam lại trở nên xa cách với ngôn ngữ, dáng điệu và cử chỉ của bà Nhu. Qua mấy lần ra ngoại quốc tại Maroc, Brasil... bà Nhu đã thành công nhờ ưu điểm trên. Còn chuyến đi giải độc tại Hội nghị Quốc tế nghị sĩ tại Belgrade (Nam Tư 1963) và Mỹ quốc bà Nhu đã chứng tỏ được khả năng đặc biệt của mình và nhất là tại Mỹ quốc bà đã gây được nhiều sóng gió làm kinh động chính quyền Kennedy và Đảng Dân chủ Mỹ. Nhưng với xã hội Việt Nam, bà hoàn toàn thất bại trước đám đông. Người ta tự hỏi, tại sao một trí thức như ông Nhu lại không kiềm chế được người vợ? ông Nhu sợ vợ? Nói cho ngay tình thì ông Nhu không phải là một người sợ vợ, ông rất ghét “chuyện đàn bà dính vô”, nhưng ông đã bị bà dắt mũi. Bộ Luật Gia đình đã gây sôi nổi trong dư luận một thời. Thực tế thì Luật ấy cho đến khi ban hành và thực thi cũng không tạo được một tác dụng lớn lao nào trong tầng lớp dân chúng. Phản ứng của dân chúng đối với Luật gia đình không có gì đáng quan tâm, vì luật pháp hãy còn hết sức xa vời so với quảng đại quần https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 49/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm chúng Nam Việt Nam bởi nó không công bằng với tất cả... Dù có luật hay không luật, đời sống vợ chồng trong giới bình dân đều dựa trên căn bản tình cảm “yêu nhau giá thú bất luận tất”. Nhưng đối với giới thượng lưu và nhất là giới tướng tá và công chức cao cấp tuy ngoài mặt hân hoan chào mừng Luật Gia đình,nhưng trong lòng đau đớn không ít và chính mấy giới này đã góp công không nhỏ trong việc tạo dựng “dư luận xấu” về bà Nhu. Một số quan tòa xuất thân từ hàng quan lại thuộc địa, trở thành nạn nhân thứ nhất của Luật gia đình. Có ông Tòa hai ba vợ... như vậy thì trách chi không oán ghét bà Nhu. Bà Nhu thường bàn luận với mấy cộng sự viên của ông Cố vấn chính trị như thế này “Kinh nghiệm trong gia đình nội ngoại của tôi, tôi biết quá rõ. Ai có vợ nhỏ thì đang trong sạch cũng trở thành tham nhũng, gia đình chia rẽ, rồi dòng con này, dòng con kia cứ lung tung lộn xộn”. Khởi từ kinh nghiệm này, bà Nhu quyết thanh toán chế độ đa thê, mà bà nghĩ rằng nếu hoàn thành là bà đã giải phóng cho nữ giới cái thảm cảnh gia đình vợ nọ con kia (chém cha cái kiếp lấy chồng chung, kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng). Trước diễn đàn Quốc hội năm 1957, cũng đã có nhiều dân biểu mạnh dạn lên tiếng công kích dự án Luật này. Bà coi mấy ông dân biểu không đi đến đâu cả... bà Nhu coi thường không muốn nói là khinh miệt một số dân biểu như vậy cũng có nguyên nhân. Vì rằng bà cũng biết rõ chân tướng của các ông (Đời tư lẫn đời công cũng chẳng có gì đẹp đẽ). Chức dân biểu của họ phần lớn cũng do “công ơn ban phát...”. Do dó mà phản ứng của một số dân biểu trở thành vô hiệu. Trong một phiên họp vào khóa đầu năm 1959, bà Nhu công khai đả kích một số dân biểu ngay tại diễn đàn Quốc hội và cho rằng “Ai chống đối Luật Gia đình chỉ là những kẻ ích kỷ hèn nhát muốn lấy “vợ lẽ”. Thái độ chống đối đó thật là hèn”. Mấy ông dân biểu quyết làm lớn vụ này và đòi bà Nhu phải xin lỗi... về thái độ hống hách của bà. Sau đó bà Nhu tỏ ra phục thiện và ra một thông báo cải chính là bà không nói các dân biểu “thật hèn” nhưng bà chỉ nói dân biểu “thất hẹn”. Cách cải chánh của bà kể ra cũng thông minh và khéo léo. Tất nhiên ai cũng hiểu rằng, không ai lại nói “thái độ thất hẹn” cả. Nhưng ở đây bà bẻ quặt hai chữ thật hèn thành thất hẹn. Bà đã “chơi chữ” một cách thông minh và đúng lúc. Mấy ông dân biểu đành chịu đựng một cách hoan hỉ. Phụ họa với bà Nhu còn một số nữ dân biểu thuộc “gà nhà”. Nhưng hầu hết trình độ chính trị còn non kém lại thiếu thông minh nên mới có một nữ dân biểu lớn tiếng bênh vực luật gia đình và đưa ra một “định thức”: Đàn bà đẻ ra đàn ông. Nhờ câu nói “phàm phu tục tử” này mà cả mấy năm trời báo chí có đề tài đem ra “thị phi”. Thực tế là Luật Gia đình có nhiều điểm phù hợp với tinh thần thượng tôn hạnh phúc và bảo vệ trật tự xã hội qua trật tự gia đình. Thế nhưng lại có một số điều quá khắt khe, không phù hợp với thực tế, thiếu căn bản của một tinh thần xã hội trong truyền thống Việt Nam. Do đó mà cái hay cái đẹp đều bị che lấp bởi cái dở... Khi một người nhìn trang giấy trắng thường chỉ chú ý đến một vết mực đen (dù vết mực có nhỏ và ở ngoài lề). Bà Nhu hãnh diện với Luật gia đình nhưng luật ấy có tác dụng không lại là chuyện khác. Sau đó bà lại đưa ra dự án Lành mạnh xã hội. Trước đó tháng 5-1958 tại Quốc hội bà Nhu đưa ra đề nghị thành lập phong trào Phụ nữ Liên đới và kêu gọi các bà vợ công tư chức quân nhân tham gia phong trào. Quốc hội khóa II (tháng 8-1959) đã có chín nữ dân biểu trong đó có bà Nhu. Bà lại khởi công hoàn thành dự án Luật “Lành mạnh xã hội”. Sau cái tên này bị đả kích nên được đổi thành Luật Bảo vệ luân lý (ban hành năm 1962 bị bãi bỏ sau đảo chính bằng sắc luật 2-1963). Dự luật này cũng gây sôi nổi không ít. Xét cho công bằng, khi đưa ra dự luật này, bà Nhu nắm ngay được chính nghĩa vì rằng chỉ có một thiểu số là nạn nhân của Luật Bảo vệ luân lý. Thiết tưởng dù là ở một thời đại nào, ở một chế độ nào, (ngoại trừ chế độ của những kẻ hãnh tiến ăn chơi sa đọa và coi nhảy đầm như một lý tưởng đáng tôn thờ) không ai có thể tán thành cho các thiếu niên uống rượu hay hút thuốc hoặc ủng hộ cho nạn phá thai, đồng bóng. ấy thế mà người ta vẫn chống đối và hè nhau tạo nên niềm công phẫn. Bà Nhu lại trở thành trung tâm của bao nhiêu mũi dùi dư luận. Dĩ nhiên luật ấy cũng có những điểm quá đáng và thiếu thực tế. Trên quan điểm quần chúng cũng như phong tục truyền thống dân tộc thì dự Luật Bảo vệ luân lý của bà Nhu là một công trình tốt đẹp với thành ý xây dựng rất rõ rệt, 15 triệu đồng bào bất quá chỉ có vào khoảng nửa triệu ảnh hưởng đến luật này, nhưng chính lớp người thiểu số đó lại có tác dụng sa đọa hóa xã hội miền Nam Việt Nam và đồng thời vong bản hóa bản chất dân tộc cũng như bôi đen cả tập tục tốt đẹp của xứ sở. Do đó không thể nào buông thả cho một thiểu số này sống phóng đãng được trong khi quảng đại quần chúngvẫn phải sống đời lầm lũi cơ cực và trong khi mà nếp sống của quảng đại quần chúng vẫn tập thành trên căn bản của truyền thống cao đẹp. Về công trình này, bà Nhu đứng hẳn về phía quần chúng, lập trường là lập trường xã hội dân tộc. Nhưng bà lại gặp phải phản ứng dữ dội tuy ngấm ngầm. Nhiều tướng tá hay một số công chức cao cấp đều mê cái món nhảy đầm. Các bà lớn thì bài bạc. Phần nhiều con các ông lớn thì rượu chè thuốc sái (con nhà nghèo và trung lưu thì lấy tiền đâu ra)... Các vũ nữ lại là một thành phần liên kết ruột thịt với một số tướng tá công chức cao cấp, công kỹ nghệ gia ăn chơi và giới “văn minh” đô thị. Bà Nhu vô tình đã đụng độ với những địch thủ ghê gớm đó. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 50/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Quảng đại quần chúng từ nông thôn đến giới trung lưu không ai chê trách gì Luật Bảo vệ luân lý (có hay không đối với họ không quan trọng) nhưng một giới khác thì Luật này trở nên quan trọng. Việc cấm nhảy đầm của bà Nhu cũng gây bất mãn lớn trong giới ngoại kiều tại Sài Gòn (Tây phương coi nhảy đầm là một nghệ thuật, một trò giải trí thanh lịch truyền thống). Trong một cuộc gặp gỡ mấy bà, ông Taylor không đề cập đến vấn đề nào khác hơn là chuyện nhảy đầm. Ông cho rằng sự cấm đoán như vậy là kỳ quái, lỗ mãng, sống sượng. Đáng lý chuyện nhảy đầm nếu cấm thì cũng nên linh động uyển chuyển, nhưng kẻ thi hành lại quá hăng say trong việc lập công. Trường hợp nữ giới thuộc lãnh sự đoàn người Liban, cư ngụ tại đường Trương Minh Ký, đã bị nhân viên công lực gây phiền phức, tạo nên dư luận không tốt trong giới ngoại giao. Bà này đã có tuổi. Nhân dịp một tàu hàng Liban cập bến, một số thủy thủ đồng hương của bà đến thăm rồi nghe nhạc theo vũ điệu... Thế là cảnh sát cũng ập vào lập biên bản đem về bót. Rất nhiều trường hợp như thế đã xảy ra. Giới ngoại kiều càng thêm bất mãn và đó cũng là một sự bất lợi về “ngoại giao”. Trong khi triệt để cấm nhảy đầm thì mấy ông tướng tá vẫn cứ lén lút du dương. Riêng về việc cấm nhảy đầm, bà Nhu tỏ ra dè dặt. Bà cũng là dân nhảy nổi tiếng từ thuở còn đi học tại Hà Nội. Cấm nhảy đầm sẽ động chạm đến nhiều ông tai to mặt lớn. Trong một phiên họp của Ban chấp hành Phụ nữ Liên đới, vấn đề nhảy đầm được mổ xẻ cặn kẽ. Phiên họp này quy tụ rất nhiều quý bà “lừng danh”. Một số ý kiến cho rằng chỉ giới hạn việc nhảy đầm mà không nên cấm tuyệt đối. Một bà tướng Tổng thư ký của Phong trào Phụ nữ Liên đới lại “bảo hoàng hơn vua” đã yêu cầu “Bà Cố vấn” phải cấm triệt để. Bà Nhu vẫn lững lờ chưa quyết định hẳn, nhưng cuối cùng vẫn quyết định cấm nhảy. Việc cấm nhảy đầm được nhiều “bà lớn” tán thành triệt để vì các đức ông chồng quý của các bà đều thuộc loại hảo ngọt lẫy lừng. Thế nhưng cấm là một chuyện còn nhảy vẫn nhảy. Nhiều tướng tá vẫn “lén lút mở bar” ngay trong doanh trại hay tư dinh. Ai đã ở Nha Trang vào những năm 1960-1961 đều biết rõ chuyện ông Đại tá chỉ huy trưởng Đồng Đế vẫn mở bar đều đều, lại cho sĩ quan hầu cận về Sài Gòn kiếm vũ nữ và bao dàn cả tuần. Chuyện nhảy đầm lậu tại Nha Trang, Đà Nẵng cũng như Pleiku do mấy ông tướng tá cao cấp đỡ đầu đều lọt vô tai Tổng thống Diệm. Ông Tổng thống cố ý làm ngơ. Nhờ những yếu tố nào mà bà Nhu tạo được uy quyền trên thực tế? Đơn giản nhất là nhờ sự khôn khéo tinh ranh và nhiều sáng kiến với một tiềm lực tinh thần mạnh mẽ trực giác, bà Nhu đã ảnh hưởng sâu xa trong đời sống của năm anh em trong gia đình từ Tổng thống Diệm đến Ngô Đình Thục và kể cả ông Ngô Đình Cẩn. Ông Cẩn được coi là chống đối bà Nhu kịch liệt và chửi đổng chị dâu cũng không tiếc lời, nhưng ông Cẩn chỉ chửi “đổng” thế thôi. Trong gia đình ông vẫn chịu lép vế. Thí dụ trong việc lập Phong trào Phụ nữ Liên đới, ông vẫn bĩu môi khinh bỉ “Mấy con mụ đó mần được chi, chỉ ăn hại”. Trước năm 1961, nhiều bà vợ của các ông lớn tại miền Trung cũng muốn lập Hội để có ăn, nhưng ông Cẩn ghét như vậy nên đành chịu. Khi bà Nhu nhúng tay vào quyết định phát triển phong trào ra miền Trung... Ông Cẩn đành chịu thua. Bà lại còn chỉ thị cho Huế, Đà Nẵng phải tuân theo ý bà. Bà rất coi thường ông Cẩn nhưng cũng chỉ để trong lòng. Dịp ra Huế chủ tọa thành lập Phong trào là cả một việc trọng đại. Chung quy bà đã áp đảo được chú em chồng. Trước hôm đó, cả một đại đội Phủ tổng thống được gởi ra Huế để lo việc an ninh cho bà Cố vấn. Giới chức thẩm quyền toát mồ hôi vì phải lo tổ chức sao cho long trọng. Ông Cẩn trong lòng tức tối nhưng phải đành chịu và chính ông cũng phải đứng ra đôn đốc cho các giới chức lo liệu thực chu đáo. Điều nực cười nhất là hôm lễ khai mạc, bà Nhu như một nữ hoàng thì cậu Cẩn rụt rè khiêm tốn như một công tử miền quê có chút uy quyền. Trước đám đông ấy cậu Cẩn chẳng còn gì... khiêm tốn, bé nhỏ, nhọc nhằn. Trong khí đó từ cách đón tiếp đến chiếc ghế ngồi, qua ngôn ngữ và cử chỉ bà Nhu lấn át hoàn toàn chú em chồng. Đây là lần đầu tiên ông Cẩn đành chịu khuất phục uy quyền của bà chị dâu, người mà ông Cẩn rỉ rả công kích nhiều khi dùng cả chữ “con mụ” và “lăng loàn” để chỉ. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 51/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Khi bà Nhu trở về Sài Gòn thì Phụ nữ Liên đới cũng theo bà đi luôn. Miền Trung vẫn là đất của ông Cẩn... Phụ nữ Liên đới chỉ được “phép” phát triển tại Nam phần và mấy tỉnh Cao nguyên. Sở dĩ, trước mặt bà Nhu ông Cẩn phải chịu khuất phục vì bà ta đã biết sử dụng cái bề thế của bà chị dâu trong gia đình vốn khắt khe với những tôn chỉ lễ giáo. Còn Tổng thống Diệm thì như thế nào? Điểm quan trọng sau đây đã giúp cho bà Nhu thành công trong công việc thuyết phục ông anh Tổng thống. Thí dụ điển hình vẫn là những quan niệm về luân lý của bà Nhu. Quan niệm đó rất thích hợp với quan niệm và bản chất nho sĩ cũng như tu đức Thiên Chúa giáo trong con người của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Khi bà Nhu đưa ra dự án Luật “Bảo vệ luân lý” (lành mạnh hóa xã hội) thì trong gia đình họ Ngô hoàn toàn tán đồng và còn khích lệ. Nhưng báo chí và Quốc hội lên tiếng công kích, bình phẩm (tất nhiên là yếu ớt), Tổng thống Diệm lại cho rằng dư luận lầm lẫn vì có nhiều người ganh ghét bà Nhu mà tìm cách nói xấu gièm pha. Bà Nhu đã trình bày với ông anh Tổng thống như thế nào mà được Tổng thống dễ dàng chấp nhận và hết sức tán trợ. Trước hết xin đơn cử một vài chi tiết đã thể hiện quan niệm luân lý và tâm tính bất thường của Tổng thống Diệm qua khía cạnh này. Dạo năm 1959 một thời đại “vàng son” của Hội bảo vệ luân lý do linh mục Hoàng Yến làm Chủ tịch. Linh mục Hoàng Yến tất nhiên không thể thoát khỏi những lý do “méo mó nghề nghiệp” qua quan niệm tu đức và luân lý giữa thế giới tu hành và xã hội ngoài đời. Linh mục Yến qua nhưng lần đi quan sát ngoài phố, chụp được một số ảnh tượng bán thân và khỏa thân trưng bày tại mấy tiệm bán đồ điêu khắc và mỹ thuật, trong đó có mấy bức tượng được coi là hoàn toàn “lõa lồ” trưng bày tại tiệm Mai Lĩnh, đường Phan Thanh Giản. Thêm vào đó còn cả một số hình đàn ông đàn bà, trai lẫn gái tắm chung ở một bể tắm (dĩ nhiên là mặc đồ tắm). Đối với một người bình thường và qua những quan niệm bình thường trong đời sống thì những hình ảnh trên đây không có gì đáng chú ý. Tượng phụ nữ lõa thể chỉ là một công trình của nghệ thuật. Trai gái tắm với quần áo tắm hở hang cũng là chuyện quá thông thường. Nhưng nó lại trở nên quan trọng trước mắt một vị Linh mục Hội trưởng Hội bảo vệ luân lý. Linh mục Hoàng Yến làm một phúc trình dài kèm theo hình ảnh gởi lên cho ông Diệm. Chỉ mới xem qua những tấm hình đó, ông Tổng thống đã đỏ mặt, bất thần nổi giận. Ông dùng bút đỏ phê vào bản phúc trình “Ông Lương, cấm ngay”. Nguyễn Lương lúc đó là Tổng giám đốc xã hội. Nhận được bản phúc trình trên ông Lương đã hết sức lo âu, không biết phải xử trí như thế nào. Ông đành hỏi ý kiến của một số người trong Phủ. Tất nhiên là không có một ý kiến nào khác hơn là tìm cách khôn khéo nhất để áp dụng lệnh của ông Tổng thống. Ý kiến được nêu ra như sau: ông Nguyễn Lương cho người đến một vài tiệm mỹ thuật như tiệm Thế Hệ nói khéo để họ thông cảm trưng bày một cách kín đáo bức tượng bán thân lõa thể. Hai hôm sau ông Nguyễn Lương vào trình Tổng thống với hồ sơ đầy đủ để tỏ ra rằng đã tuân theo chỉ thị của thượng cấp. Tổng thống Diệm lại vui vẻ gật đầu: “Ờ, ừ thôi được” Từ đó ông Tổng thống quên cả chuyện cấm trai gái tắm chung, cũng như chuyện cấm trưng bày tượng bán thân. Với một quan niệm luân lý khắt khe và quá cổ như vậy lại có những phản ứng bất thường nên ông Diệm dễ dàng bị bà Nhu thuyết phục. Đây là một pha thuyết phục ông của bà Nhu do sĩ quan hầu cận kể lại (khi vào phòng Tổng thống trình bày việc gì thì luôn luôn phải có sự hiện diện của một sĩ quan hầu cận hay tùy viên). Bà Nhu thuyết phục ông Diệm để ông chấp nhận Luật bảo vệ luân lý, đại cương như sau: Luân lý Việt Nam hiện nay đang suy đồi. Trẻ con thì hư hỏng, người lớn thì bài bạc sa đọa... Một người như Tổng thống Diệm nghe nói như vậy thì tất nhiên là phải lo lắng cảm phục người em dâu nổi tiếng là văn minh tân thời nhưng lại tỏ ra thoát xác, biết nghĩ tới con đường thánh thiện. Bà Nhu biết điểm yếu của ông anh chồng... nên chỉ đưa ra đoạn mở đầu như vậy nhằm gây xúc động. Sau đó bà mới trình bày những biện pháp giải quyết. Những biện pháp ấy đều lý tưởng cả. Ông Diệm cho là em dâu có thành ý muốn xây dựng đất nước. Bà nhảy đầm thì rất tài hoa, mà nay thì lại đề nghị cấm nhảy thì ai mà không cho là hy sinh đáng quý. Ông Tổng thống đã tin tưởng như thế rồi thì đề nghị nào mà ông không chấp thuận. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 52/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Khi ông Tổng thống để hết mình ủng hộ dự Luật ấy thì còn ai dám chống đối. Một vài dân biểu lên tiếng công kích một số sai lầm và sự không thực tế của dự Luật này. Tuy nhiên sự công kích chỉ là dàn cảnh để tạo ra dư luận có vẻ dân chủ thế thôi. Trong những buổi họp của Ban chấp hành Phụ nữ Liên đới bà Nhu trở thành một chiến sĩ tiên phong trong cuộc giải phóng phụ nữ. Còn thực tế có giải phóng không thì 9 năm qua đã trả lời đầy đủ. Tuy nhiên phải công minh mà nhận rằng bà Nhu đã làm được nhiều điều, dù làm theo chủ quan của bà. Chẳng hạn như vấn đề cấm triệt để thiếu niên không được uống rượu, hút thuốc lá, cấm hẳn bài bạc (trừ món tổ tôm được tòa án cho là không thuộc loại đổ bác sát phạt). Bà Nhu có một ý kiến như thế này về giá trị thân xác đàn bà. Tưởng cũng nên ghi lại đây về việc cấm thi sắc đẹp của đàn bà, bà cho rằng “Thời Trung cổ người Tây phương trưng bày nô lệ tại phố cho bọn nô lệ xếp từng hàng cho nguời ta đến xem xét đánh giá như mua bán súc vật, con này mông to, con kia ngực nở con nọ giống tốt... Với những giá bao nhiêu. Thi sắc đẹp tuyển lựa hoa khôi của phương Tây xuất phát khởi thủy từ các cuộc mua bán nô lệ thời Trung cổ. Ở xứ ta không chấp nhận được cái trò đó”. Bà Nhu nói riêng với bà Lương Khải Minh: “Ăn mặc hở hang, để cả ngực cả đùi cho đàn ông họ nhìn ngắm rồi họ đánh giá, họ cho điểm làm như vậy ô nhục lắm, hạ thấp nhân phẩm của người phụ nữ ngang với nô lệ thời Trung cổ. Phụ nữ Á đông không thể chấp nhận được như vậy...”. Cho nên ông Diệm cũng như ông Nhu và những người hiểu biết không đến nỗi nông cạn lắm đều cho là bà Nhu có thiện chí và sáng suốt. Do đó mới có vụ cấm luôn các cuộc thi sắc đẹp, tuyển lựa hoa khôi và kể cả thi lực sĩ khỏe đẹp. Bà Nhu luôn nhắc nhở “đàn ông họ ích kỷ lắm... Phụ nữ không thể là trò chơi cho họ mua vui được. Mãi dâm và gái nhảy là những việc ô nhục đồi bại nhất cho những người phụ nữ”. Giá như bà Nhu không phải là em dâu của Tổng thống đương nhiệm thì thiện chí và những cố gắng giải phóng của bà Nhu thật đáng ca ngợi. Nhưng ở đây lại khác. Trong khi bà cố gắng hoàn tất dự Luật Gia đình cũng như dự Luật Bảo vệ luân lý thì trong gia đình từ thành đến tỉnh và nhất là trong giới thượng lưu đã đồn đại rất nhiều về những cái gọi là “lem nhem bê bối” thuộc đời tư của Bà. Dư luận thì nhiều lắm. Nhưng đâu là bằng cớ? Tuy vậy quần chúng đông đảo vẫn lập luận rằng “nếu không có lửa thì sao có khói”. Rồi một số “phu nhân” vây bủa quanh bà xem phần đức hạnh cũng không có gì được bảo đảm cho lắm của bà. Quan trọng là chỗ đứng. Chỗ đứng của bà Nhu không thuận lợi cho mọi đề xướng cải cách của bà khi những cải cách đó hoặc còn quá sớm hoặc không phù hợp với tập quán cổ truyền. Dư luận thêu dệt rất nhiều về cuộc tình của bà với ông tướng Đôn... lại có dư luận cho rằng Nolting bị bà Nhu mê hoặc trong lưới tình dục. Tục ngữ có câu “ghét ai ghét cả đường đi lối về”. Trong chín năm qua với cử chỉ và ngôn ngữ của mình, bà Nhu đã làm cho nhiều giới và nhiều người “mếch lòng” thực. Cái dễ ghét rất giản dị vì tâm lý và truyền thống không ưa đàn bà múa may hay lợi dụng chức vị của chồng mà “lớn lối” - chỉ nguyên một chuyện sử dụng ngôn ngữ đao to búa lớn của bà đã làm cho người ta dễ ghét. Trong cái dễ ghét đó tất nhiên là do sự ghen tức nhau. Các ông thường bị ảnh hưởng của các bà. Các bà thấy bà Nhu như vậy nếu không có cơ hội được gần bà thì trở nên ghen ghét nói xấu. Ai nói xấu thì không đáng kể chứ đàn bà nói xấu nhau thì quả là một nghệ thuật qua khả năng sáng tạo và trí tưởng tượng. Nhiều câu chuyện “mê ly gay cấn” chung quanh con người bà Nhu hầu hết do một số phu nhân dựng đứng lên... rồi lan rộng ra dư luận và dư luận lâu ngày trở nên như là thực. Tổng thống Diệm không được nghe những dư luận đó và chỉ nhận được những lời công kích bà Nhu qua việc làm của bà. Một số báo Mỹ tiết lộ bà Nhu có một gia tài đồ sộ tại Braxin (đồn điền café) và Thụy Sĩ. Tổng thống Diệm không tin vì ông vốn có thành kiến với báo chí Mỹ. Còn sự công kích Luật Gia đình cũng như Luật Bảo vệ luân lý ông đều cho là ganh tị phá hoại và do một số người có vợ nhỏ “dông dài ham chơi” nên cố ý phá bà Nhu. Tóm lại, bà Nhu hiểu rõ tâm tính và cuộc đời của ông anh chồng. Bà lợi dụng ngay những đặc điểm đó để tạo ảnh hưởng với ông Diệm. Khi đã tạo được ảnh hưởng với ông Diệm... thì hàng bộ trưởng, tướng tá đối với bà chả có nghĩa lý gì cả. Tuy vậy, vì biết rõ tính ông anh, bà Nhu không bao giờ công khai bày tỏ một ý kiến nào về hoạt động của Chính phủ cũng như các nhân vật văn võ. Trước mặt ông Diệm, bà luôn tỏ ra rằng mình chỉ biết lo công việc của phụ nữ. Khi nào có đại biến như vụ tướng Hinh, vụ Bình Xuyên và cuộc đảo chính hụt 11-11-1960 bà Nhu mới nhảy vào vòng. Ảnh hưởng của bà Nhu đối với Đức cha Thục Ảnh hưởng của bà Nhu đối với Đức cha Ngô Đình Thục như thế nào? Ảnh hưởng ấy người ta chỉ có thể cảm thấy một cách bàng bạc. Mỗi khi về ở dinh, Đức cha Thục đều dùng cơm chung với gia đình ông Nhu. Trong bữa cơm thân mật gia đình đó anh em tỏ ra tương đắc từ chuyện hàn huyên đến việc quốc gia đại sự. Bà Nhu không những đóng trọn vai trò của người em dâu mà luôn luôn tỏ ra là một con chiên hết sức kính cẩn, vâng phục một vị Giám mục. Bà theo đạo chồng (gọi https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 53/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm nôm na là Đạo theo) nhưng từ ngày vào ở trong dinh bà tỏ ra là một tín đồ ngoan đạo. Mặc dầu đã mấy lần bà Nhu công khai phê bình một số Linh mục với lời lẽ phạm thượng sỗ sàng, nhưng với ông anh chồng là đức cha thì lại khác, Đức cha Ngô Đình Thục thường ngợi khen bà Nhu trước mặt nhiều người “Bà cố vấn tốt đạo lắm, siêng năng xưng tội rước lễ lắm”. Chỉ một lời khen đó ta cũng thấy Đức cha tin tưởng người em dâu như thế nào. Về mặt tâm lý, ảnh hưởng của bà Nhu đối với Đức cha Ngô Đình Thục cũng dễ hiểu. Dù là Giám mục hay ở một tước vị cao sang nào cũng vẫn chỉ là một con người cùng với những “yếu điểm tâm lý” của con người. Kinh nghiệm và sách vở đã cho ta thấy, trong một sứ Đạo với một vị Lịnh mục già thì bà quản gia mới là người có ảnh hưởng nhiều nhất đối với Linh mục. Trường hợp Cha Ngô Đình Thục cũng không thoát khỏi những phản ứng tự nhiên đó. Những phản ứng thân yêu trong trái tim con người tương tự như của bà mẹ đối với cậu con trai hay một ông bố già đối với một người con dâu hiếu thảo khéo léo. Mỗi khi Đức cha Thục về dinh Độc Lập thì bà Nhu lo toan từ món ăn thức uống và lúc đó trước mặt đức cha bà Nhu chỉ là một cô em gái ngoan, dịu hiền ăn nói ngọt ngào dễ thương. Đức cha đã dùng tất cả mọi ảnh hưởng của mình để hỗ trợ hai dự luật của bà Nhu, nhất là Luật Gia đình. Đức cha Ngô Đình Thục hết lòng hỗ trợ và bênh vực Luật Gia đình cũng là điều dễ hiểu vì nó đã thể hiện đầy đủ tinh thần luyến ái quan Thiên Chúa giáo. Với một tín đồ Thiên Chúa giáo thì việc cấm ly dị là điều hiển nhiên theo phép hôn phối. Bà Nhu lại có sáng kiến đưa ra Luật ấy lẽ dĩ nhiên, ông anh đức cha phải lấy làm cảm phục và cho rằng cô em dâu đã làm những việc cao quý trong tinh thần Phúc âm. Từ Luật Gia đình cùng những ngôn ngữ cử chỉ khéo ăn khéo ở của bà Nhu đã giúp bà tạo được những yếu tố sống động gây ảnh hưởng mạnh mẽ nơi cha Ngô Đình Thục. Nhưng Luật Gia đình đã làm cho bà thất bại hơn là những dư luận đồn đại về đời tư của bà. Bởi luật đó chỉ tạo nên những thị phi và đàm tiếu của quần chúng. Trên thực tế, trai gái vẫn tự do giao du, lấy nhau cứ việc lấy nhau, hôn thú chưa phải là điều chính yếu. Luật cấm con ngoại hôn không được hưởng gia tài, không được hưởng một quyền lợi của người cha nhưng thực tế thì người Việt vẫn sống theo một thứ luật bất thành văn trên tinh thần con nào cũng là con. Dư luận đàm tiếu không phải là đàm tiếu về nội dung luật đó. Hầu hết quảng đại quần chúng có mấy ai tìm hiểu luật pháp mà biết nó hay hoặc nó dở. Duy có một điều Luật Gia đình của bà Nhu cấm không cho đàn ông lấy vợ nhỏ, nhưng cô chánh văn phòng của bà (gọi là cô cho danh chính vì, theo luật thì cô chưa lấy chồng) ai lại không biết cô là vợ nhỏ của một ông văn nhân (thường tình nếu cô ta không phải là chánh văn phòng của bà Nhu thì chả ai chú ý thị phi, vì vợ lớn vợ nhỏ cũng đều là vợ cả miễn sao được chồng thương yêu). Đằng khác dư luận giới cao cấp không ngớt bàn ra tán vào về đời tư của mấy bà “lớn” trong Ban chấp hành Phụ nữ liên đới. Nào là vợ nhỏ sau “đá vợ cả” của ông tướng để lên ngôi chính thất. Nào bà tá B vốn đã có một đời chồng rồi sau “mèo chuột” bỏ chồng lấy ông tá B... Dư luận đàm tiếu tùm lum như vậy. Mà dư luận ấy có thật chứ không phải do sự thêu dệt. Nhưng từ đó dư luận được dịp phụ đề thêm “hoa lá”. Đó cũng là một cái nguy cho một cá nhân trong guồng máy lãnh đạo khi cá nhân đó trở thành một cái đinh của dư luận. Trong khi đó, nhờ Luật Gia đình cũng như những công tác xã hội mà bà Nhu đề ra, càng làm tăng cường ảnh hưởng của đức cha Thục. Ảnh hưởng của bà Nhu đối với ông chồng Còn ông Nhu? Giới thân cận nhất của ông đều xác nhận trước năm 1955, bà Nhu không tạo được ảnh hưởng chính trị nào đối với ông chồng “đa mưu túc kế” rất uyên thâm. Nhưng nó lại như thế này, từ khi ảnh hưởng tâm sinh lý của bà vợ đã dễ dàng biến thành ảnh hưởng chính trị... Trước năm 1945, ông Ngô Đình Nhu chỉ coi bà vợ như một cô em gái không biết gì về chính trị. Nhưng mấy năm sau, trong văn phòng của ông lại treo một bức hình bán thân của bà vợ tràn đầy nhựa sống. Một người thường thì không nói làm gì nhưng ở vào trường hợp của ông Nhu và nhất là con người trí thức như ông Nhu, thì khi treo bức hình đó ngay tại văn https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 54/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm phòng chính thức của một vị cố vấn chính trị Phủ tổng thống quả là điều chướng mắt... Đáng lý ra nên treo trong phòng riêng. Dĩ nhiên ông Nhu cũng cảm thấy như thế khi tự tay bà treo bức hình đó, song ông Nhu không phản đối. Bức hình treo ở một nơi trang trọng trong văn phòng đã đủ nói lên việc ông Nhu chấp nhận sự hiện diện của bà vợ trong đời sống của mình (vì văn phòng ấy là nơi ông Nhu tiếp quan khách ngoại quốc, bộ trưởng, tướng lãnh, quan sĩ... nghĩa là đủ mặt mọi giới). Qua sự kiện này cũng đã đủ nói lên ảnh hưởng của bà Nhu, đã chinh phục toàn diện được con người ông chồng mà nhiều khi chính ông Nhu cũng không biết, ảnh hưởng của bà vợ đối với ông chồng là một cuộc hành trình bằng những chất liệu “vô hình” thấm dần vào tim vào óc nói ra không được mà chỉ mơ hồ cảm thấy hoặc không thể cảm thấy và chỉ có người ngoài mới nhìn rõ được. Bởi vậy cô nhân tình của một nhà lãnh đạo nhiều trường hợp lại ảnh hưởng sâu xa đến chuyện quốc gia đại sự mà chính nhà lãnh đạo đó cũng không hay. Do vậy, nhà lãnh đạo dù tài ba cũng cần phải đặt mình trong guồng máy lãnh đạo và phải chấp nhận mọi sự và phê bình về cá nhân mình qua những nhân viên của trong guồng máy. Tuy vậy giới thân cận với ông Nhu biết rõ rằng ông không bao giờ nghe vợ bàn góp ý kiến. Sự thực một người tự kiêu như ông Nhu, với khả năng tri thức như vậy khó lòng có thể tin theo ý kiến của bà vợ còn nhỏ tuổi, mà trước mắt ông, bà vẫn chỉ là hình ảnh một nữ sinh trường Pháp, chưa đậu tú tài. Tuy nhiên, đã có một vài trường hợp ngoại lệ ông Nhu theo ý kiến của bà, nhưng đó chỉ là ý kiến xuất phát từ khả năng trực giác dồi dào của một người đàn bà thông minh, nhạy cảm (qua vụ đảo chính hụt 11-11-1960). Nhưng ông Nhu vốn sợ “xì căng đan” đó cũng là yếu điểm của ông. Bà Nhu vốn nóng như lửa nói năng bất chấp và dễ gây gổ làm lớn chuyện. Hễ một khi bà vợ lớn tiếng thì ông Nhu đành im. Quá lắm thì ông Nhu chỉ đập bàn mắng mấy câu tiếng Pháp cho thỏa lòng rồi đành chịu thua (giới có học bị vợ lấn át và mang tiếng sợ vợ phần lớn cũng chung một cảnh ngộ tâm lý như vậy). Ông Diệm cũng là người sợ sự lớn tiếng gây gổ. (Đại úy Bằng kể lại, một lần ông Diệm bảo Bằng đi theo sang phòng ông bà Nhu. Ông Tổng thống đang có điều gì vui mừng. Nhưng đến cửa phòng nghe thấy bà Nhu đang la lối ông chồng, ông Diệm quay gót trở về phòng khẽ lắc đầu). Cứ nhận diện ông Nhu theo tướng số thì khuôn mặt ông không phải là người “sợ vợ”. Còn một chi tiết nhỏ này cũng đủ chứng tỏ, ảnh hưởng của bà Nhu đã thâm nhập sâu xa trong con người ông chồng: Trước kia ông muốn hút bao nhiêu thuốc lá thì hút, nhưng kể từ năm 1959-1960, bà Nhu giới hạn ông, mỗi ngày bà tự chia cho ông một vài điếu, hút cho đỡ nhớ mà thôi. Nhiều khi một điếu được cắt làm đôi. Một người nghiện thuốc lá nặng như ông Nhu mà đành chịu cũng là một điều lạ lùng. Trước năm 1955 ông Nhu là người ăn mặc xuề xòa... Khi trở thành cố vấn chính trị ông cũng vẫn thế, nhưng ông Diệm không bằng lòng vì cho rằng ăn mặc như vậy “mất cả thể thống... thím phải lo cho chú ấy ăn mặc đàng hoàng”. Từ đó tự tay bà Nhu lo liệu cho ông chồng, bà lựa chọn cho ông từng chiếc Cravat. Ngay văn phòng làm việc của ông, bà Nhu cũng tự tay trang trí cho có ngăn nắp, mỹ thuật. Một người già mà được cô vợ trẻ săn sóc thương yêu như vậy ai mà không cảm động. Từ chỗ cảm động đến chỗ bị “chi phối âm thầm” không bao xa. Ảnh hưởng của bà Nhu đối với đức ông chồng mỗi ngày càng mạnh, đó cũng là điều dễ hiểu xét theo khía cạnh tâm lý. Ông Nhu không phải là người ăn chơi, trước năm 1954 thì chìm đắm trong thế giới sách vở, sau năm 1954 sống trong một thế giới kín cổng cao tường của Phủ tổng thống. Ông Nhu cũng không phải là người quảng giao nên ít bạn bè. Rồi tuổi ông mỗi ngày một cao... Cô vợ với tuổi hồi xuân càng trở nên “ngào ngạt yêu thương” đó mới là nguyên nhân thầm kín tạo cho bà Nhu một “uy quyền” đối với ông chồng. Thứ uy quyền chỉ có thể cảm thấy nơi ông chồng có đời sống nội tâm... Bà vợ trái ngược, bà ham mê hoạt động hòa vào cuộc sống bên ngoài... Đó không phải là hai thái cực quá chi phối mà là hai “hố” mâu thuẫn để tạo thành một hậu đời sống vợ chồng theo một tương quan tình cảm. Một vài nhân vật thân cận nhất của ông Nhu bị ông cho ra “rìa” vì thất sủng trước hết do sự bất hòa và bất đồng với bà Nhu. Nói rằng ông Nhu nghe vợ thì không đúng... Nhưng quả vì sợ vợ mà ông đã bỏ rơi một vài người thân cận... Thật dễ hiểu, trong đời sống phòng the, nay nghe bà vợ rủ rỉ bên tai: “Thằng ấy nó như thế như thế” mai lại nghe bà vợ phàn nàn: “Ông ta như vậy như vậy”. Những lời nói ngọt ngào đó lúc đầu ông chồng bỏ qua vì cho rằng: “Chuyện đàn bà... đàn bà lắm chuyện” nhưng lâu ngày thì chuyện đàn bà biến thành chuyện đàn ông. Trong cái thời đại quân chủ, bao nhiêu bậc vua chúa đã mất ngai vàng vì nghe vợ thủ thỉ bên tai. Ở miền Nam này cũngvậy, bao nhiêu lãnh tụ đảng phái mất cả anh em đồng nghiệp rồi hủ hóa cũng một phần nghe vợ với cung cách trên. Muốn loại bỏ nhưng ảnh hưởng tiệm tiến vô hình đó thì lãnh tụ phải được biến thể theo khách quan của thực tại lãnh đạo. Thực tại lãnh đạo gần nhất là những người cận thân. Nếu nghe vợ hay vì cách này hay cách khác qua ảnh hưởng của vợ mà làm xa cách cộng sự thì sứ mệnh lãnh đạo không còn nữa. Bông hoa hồng của bà vợ cài https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 55/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm trên ve áo và cái đinh ốc trong guồng máy mà mình lãnh đạo cả hai đều quan trọng nhưng làm thế nào để không vì bông hoa hồng mà làm mất chiếc đinh ốc của guồng máy đó mới là điều quan trọng. Đó là một cuộc cách mạng nhạy cảm nhờ sự tham dự ngạt ngào hương thơm của phái yếu. Vậy thì muốn mưu đồ đại sự cũng cần có yếu tố nhạy cảm và phái yếu bổ xung để gợi cảm và xung động quần chúng. Vậy thì sự thành lập phụ nữ Liên đới cũng như tổ chức bán quân sự của Phụ nữ (tuy chỉ có hình thức để biểu dương) quả là điều cần thiết cho những chiến thuật chính trị. Nếu như bà Nhu chỉ đứng bên trong lèo lái và chọn một người tương đối xứng đáng đứng ra thành lập thì quả là tốt hơn. Nhưng đây thì lại khác, bà Nhu vừa là tác giả lại đóng luôn vai trò diễn xuất của “kép” chánh. Ông Nhu cũng như Tổng thống Diệm có “dính dáng” vào sự thành lập phong trào đó không? Có thể nói ông Diệm thấy cô em dâu làm được điều tốt với chủ ý hỗ trợ chính quyền tất nhiên ai ở địa vị ông cũng không có lý do gì ngăn cản. Còn ông Nhu? Ông cũng không đóng vai trò giật dây trong phong trào đó. Khi thấy việc làm của vợ có ích lợi cho chế độ thì ai ở địa vị ông cũng không có lý do gì ngăn cản. Mà thực ra thì ông Nhu muốn cản cũng không được. Giới thân cận được biết rằng, đối với bà Nhu thì “việc ông ông làm, việc tôi tôi làm, miễn sao tôi không chống lại ông”. Nhiều việc bà Nhu cứ “làm đại” nếu ông chồng biết thì sự đã rồi. Tuy nhiên những việc “làm đại” đó đối với ông Nhu đều là những việc hợp lý. Dư luận trước năm 1963 cho rằng, ông Nhu bị vợ “chế ngự, áp đảo”... Nhưng điều đó không đúng. Trong các việc chính sự quốc gia, có bao giờ ông hỏi “ý kiến” bà vợ đâu. Nhưng có điều như thế này, ông Nhu cũng phải ngán sự nóng tính và dữ dằn như hổ lửa của bà Nhu. Một lần bà Nhu hỏi ông chồng trước mặt một số người thân trong đó có bà Lương Khải Minh: “Tại sao mấy ông ấy (tức các ông lớn) lại khiếp tôi quá dữ vậy”. Ông Nhu mỉm cười trả lời: “Tui cũng còn khiếp bà nói chi mấy ông ấy”. Bà Nhu áp đảo được nhiều nhân vật cỡ lớn trước hết nhờ yếu tố bạo ăn bạo nói của bà. Trong các buổi họp Ban chấp hành Phụ nữ Liên đới, bà Nhu chủ tọa và hầu như chỉ có một mình bà ta độc thoại. Các bà khác ngồi lặng thinh lắng nghe chăm chú và luôn tỏ rõ sự thán phục. Một lần nọ vào năm 1962 một bà Liên đới đi họp muộn, bà Nhu hỏi lý do thì bà kia thực thà trình bày là có một vài nhân vật Mỹ đến thăm ông chồng do đó đến muộn. Trước đông đủ mọi người bà Nhu lớn tiếng: “Tiên sư mấy thằng Mỹ”. Đại để lời ăn tiếng nói của bà Nhu có những sỗ sàng như vậy. Nhưng nó lại quá sức thất lợi về phương diện giao tế chính trị. Chửi Mỹ sỗ sàng như vậy vào năm 1963 quả là “liều” nếu không phải là bà Nhu thì không ai trong giới quan chức chính quyền dám ăn nói như vậy. Nhưng bà Nhu nói, với tư cách Chủ tịch phong trào Liên đới lại là vợ một Cố vấn chính trị thì hẳn rằng giới chức Mỹ phải đặc biệt lưu ý (trong đám người hội họp hôm đó dĩ nhiên là phải có một vài bà về nói lại với ông chồng và ông chồng nói lại với Mỹ). Ngày 20-5-1958 trong một phiên họp Quốc hội, bà Nhu đã đưa ra một đề nghị thành lập một Phong trào phụ nữ với danh xưng “Phụ nữ Liên đới Việt Nam” và yêu cầu Liên Đoàn công chức để cho các bà vợ công chức được phép tham gia. Bốn năm sau phong trào đó mới được ông Diệm chính thức chấp nhận và được thừa nhận là một Hội đoàn Công ích (SL 84 Việt Nam 13-4-1962). Như trên đã viết, phong trào này không đạt được “quần chúng tính”. Trước sau đây chỉ là một hội đoàn của các phu nhân, vợ công chức, các nữ công chức và nữ quân nhân. Vì vậy hội đoàn ấy được xem như một hội đoàn bán chính thức của chính quyền. Ban chấp hành Trung ương ngoài một số nữ Dân biểu “gà nhà” của bà Nhu còn hầu hết là vợ một số công chức cao cấp và tướng tá. Vai trò của các bà cao thấp tùy thuộc theo địa vị người chồng cùng sự khôn lanh nịnh bợ bà Cố vấn. Một bà là vợ một ông tướng nên được làm Tổng thư ký, một bà là vợ ông Bộ trưởng nên được cất nhắc làm Phó chủ tịch v.v... Chúng tôi không bao giờ làrn công việc “bới móc” chuyện “đàn bà con trẻ” nhưng chuyện “đàn bà” của Phong trào Phụ nữ Liên đới lại có liên hệ đến sự tồn vong của một chế độ. Đáng lẽ, một phong trào như vậy thì phải tìm những phụ nữ có khả năng, có học vấn (học vấn không có nghĩa là có bằng cấp). Nhưng ở đây thì lại khác. Tuy bà X là vợ tướng lãnh thật nhưng chỉ vì “đàn ông quan tắt thì chầy, đàn bà quan tắt nửa ngày nên quan” cho nên bà ta chỉ có trình độ “biết viết” nhưng nhờ địa vị chồng nên phút chốc https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 56/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm đã leo lên địa vị “lãnh tụ” của phong trào. Như vậy phong trào ấy làm sao có lãnh tụ tốt, có sáng kiến tốt cho được. Tuy phong trào cũng có một vài bà luật sư, nhưng đa số chỉ là độc giả của tờ báo “SM” và nữ khán giả có một số bà chuyên mộ điệu tuồng “cải lương”... nếu không thì lại chỉ lo toan áp phe làm giàu. Bởi vậy mới có một bà Liên đới, phu nhân một bộ trưởng khi ngồi vào bàn hội nghị với tư cách chủ tọa đã lên tiếng ngay “Thưa chị em hôm nay đại diện bà Cố vấn tôi tuyên bố bế mạc hội nghị”. Cả hội nghị đều ngỡ ngàng tại sao chưa khai mạc lại bế mạc, sau mới rõ bà Bộ trưởng sử dụng chữ bế mạc thay cho chữ khai mạc? Rồi một phu nhân khác trong dịp đi vận động tranh cử (Khóa III) đến một trại gia binh đã nói với các bà vợ các quân nhân ở đấy rằng: “Chồng tôi làm đến Bộ trưởng... chồng tôi chức cao như vậy tôi đâu có ham, nhưng vì thương chị em tôi mới ra ứng cử để bênh vực quyền lợi cho chị em”. Bằng một giọng lớn lối như vậy bà Bộ trưởng đã khiến các bà vợ lính la ó... nhún vai nhổ nước bọt... Bà ứng cử viên dân biểu phải chuồn lẹ. Đại để các bà có những lỗi lầm ấu trĩ như vậy nhưng mấy bà lại “đua nhau” tham gia công tác phong trào để được bà Cố vấn sủng ái rồi chỉ định ra tranh cử dân biểu (khóa III. Trong Quốc hội Phong trào Liên đới đạt được 22 ghế dân biểu). Tất nhiên cũng không ai quá khắt khe chấp nhất những “lỗi lầm đáng bỏ qua” của quý bà. Nhưng có điều quan trọng như thế này: Các bà đã làm cho các ông mâu thuẫn, hiềm khích nhau... Rồi Chính phủ trở thành “Chính phủ đàn bà”. Bà Nhu trao cho bà tướng X công tác A. Bà tướng X hoàn toàn “mù tịt” nhưng cứ nhận đại rồi về nhà trao trách nhiệm thực hiện cho ông chồng, ông chồng lại gọi thuộc viên trao phó... Thuộc viên hùng hục làm cho xong vì họ đã thuộc lòng: “Lệnh của bà mới là điều quan trọng!!” ông chồng nào “nể vợ” thì làm tốt, ông nào “cứng đầu” với vợ thì làm qua loa. Hậu quả không những các viên chức cao cấp phải làm thêm công việc của các bà vợ mà còn tạo nên sự ganh ty suy bì... Bà X tâng công “Việc của em bà Cố trao phó cho em làm xong ngay còn việc của chị Y... chị ấy dựa vào thế lực chồng chị ấy chỉ có chỉ tay năm ngón!”. Các bà chia thành phe cánh ra lườm vào nguýt, cũng là điều dễ hiểu nhưng các bà lại kéo theo các ông... Còn một điều đáng nói nữa là dư luận quần chúng quanh bức tượng Hai Bà Trưng được dựng tại công trường Mê Linh (bến Bạch Đằng tháng 3-1962). Bức tượng Hai Bà sáng 2-11-1963 đã bị làn sóng biểu tình của học sinh sinh viên hè nhau kéo đổ rồi chặt đầu lôi quanh các đường phố, chỉ vì bức tượng đó giống bà Nhu và con gái bà tức Ngô Đình Lệ Thủy. Nhưng nguyên do từ đâu mà lại giống như vậy? Có phải mẹ con bà Nhu làm mẫu cho điêu khắc gia Nguyễn văn Thế tạc tượng ấy không (ông Thế đạt giải Á nguyên La Mã về điêu khắc). Bức tượng Hai Bà Trưng thật “kính chả bỏ phiền”. Bao nhiêu lời đàm tiếu chung quanh bức tượng đó. Mà sự đàm tiếu cũng rất phải, vì đây là sự bôi lọ anh hùng lịch sử. Lạ thay càng nhìn kỹ thì pho tượng càng giống hai mẹ con bà Nhu. Cũng vì vậy mà pho tượng trở thành trung tâm của bao nhiêu lời phê phán nghiệt ngã. Người thức giả trung dung cũng phải lên tiếng: “Pho tượng sừng sững thế kia thì còn gì là thể thống quốc gia. Lịch sử cũng chẳng còn giá trị gì nữa”. Rồi người ta suy luận rằng: “Bà Nhu dám can đảm dựng tượng mình như vậy thì chuyện gì mà bà ta không dám làm?”. Cách ăn mặc của bà Nhu cũng tạo nên nhiều dư luận bất lợi cho bà trong quần chúng. Bà luôn luôn “cách tân” các kiểu áo dài phụ nữ. Kiểu áo hở cổ mà hiện nay các bà các cô thường mặc thì chính bà Nhu đã “khởi đầu” từ dạo năm 1958. Rồi một số bà Liên đới cũng “a dua” mặc theo. Bà Nhu phỏng theo kiểu áo dài Việt Nam và áo dài của phụ nữ Chiêm Thành để tạo thành áo dài của bà. Áo dài của bà lại thường thêu hoa lá và chim phượng hoàng. Một bức ảnh cho ta thấy bà Nhu mặc một chiếc áo hở cổ, ngay trước ngực thêu một con chim phượng hoàng... bà Nhu coi đó như một việc “cách mạng” chiếc áo dài Việt Nam. Bà Nhu không muốn một ai phê phán mình. Tất nhiên như vậy thì chỉ chấp nhận sự ca ngợi tán tụng. Bất kỳ ai tỏ ra nổi hơn bà một chút, khác hơn bà một chút cũng đủ bị bà làm cho “thất sủng”. Khi bà vợ bị thất sủng thì ông chồng cũng dễ dàng bị thất sủng. Người đàn bà có tài và thông minh hầu hết đều mắc phải cái tật xấu này. Bà Nhu bị nhiều người ghen ghét, bị dư luận dân chúng chỉ trích nặng nề và nghiêm khắc trước hết do sự xuất hiện nặng về phần trình diễn của bà cùng tính cao ngạo và cố tạo ra vẻ có uy quyền để được mọi người thán phục tôn trọng. Nếu so với nhiều bà tai to mặt lớn hiện nay thì sự trưng diện áo quần của bà Nhu hãy còn giản dị lắm. Nhiều bà lớn bây giờ đeo cả hạt xoàn kim cương giá ba, bốn triệu đồng với kẻ hầu người hạ như một lãnh chúa cùng sự ăn chơi bài bạc vô cùng sa đọa. Nhưng chỉ có một giới nào biết rõ mà thôi. Song dù bà Nhu có cố tình có lúc mặc đồ nội hóa, không đeo kim cương hạt xoàn lộng lẫy thì dân chúng mọi giới vẫn chĩa mũi dùi vào bà. Tại sao? Giản dị vì bà lại tiêu biểu cho một phần uy quyền của chế độ, uy quyền ấy không được chính thức công nhận, nhưng thực tế thì không ai chối cãi được. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 57/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Bà Nhu sống trong khung cảnh “kín cổng cao tường” cho nên dễ dàng trở thành nơi “thâm cung bí sử”. Dân chúng bao giờ cũng tò mò muốn tìm hiểu sự thật, cho nên khi thấy cảnh bà Nhu đi xe hơi lộng lẫy, ăn mặc diêm dúa, lính tráng theo hầu canh gác cẩn mật, bằng ấy thứ làm cho dân chúng dễ dàng liên tưởng đến sự xa hoa đài các. Rồi thân hình của bà Nhu nữa, căng đầy nhựa sống và trang sức như một tài tử, dân chúng lại càng dễ liên tưởng đến một ẩn dụ sinh lý. Bởi vậy mới có dư luận hàng ngày cho bà Nhu tắm bằng sữa tươi để giữ cho nước da được đẹp. Sau 1-11-1963, đã biết bao dư luận được dựng lên xung quanh bà Nhu... nhất là một số chuyện tình ái lăng nhăng... Không hiểu xuất phát từ đâu có một số hình ảnh lõa lồ của bà Nhu và mấy bà Liên đới được tung ra công chúng và nói rằng bà Nhu buộc mấy bà Liên đới phải chụp ảnh lõa lồ như vậy để bà giữ làm điều kiện, ấy thế mà dư luận có vẻ tin thực. Tấm hình lõa thể của bà Nhu cũng vậy, nhìn qua thật là giống, nhưng so sánh, một người Việt Nam như bà dù nở nang nhưng với bốn mặt con và trên 40 tuổi không thể nào có bộ ngực tròn trĩnh và eặp giò chắc nịch như vậy. Tấm thân từ cổ trở xuống phải là tấm thân của một cô gái Tây phương khoảng 22, 23 tuổi. Sự thực thì ai cũng biết rằng, những tấm hình trên đã được các tay thợ ảnh lành nghề ráp nối lại. Nhiều bà tai to mặt lớn đã bị bọn “bất lương” tống tiền bằng cách dọa đăng báo hình ảnh lõa thể. Sau đảo chính 1963, bà Nhu được mô tả như một “ác phụ dâm loàn”. Tại sao như thế? Gia dĩ trong quá khứ bà đã gây nên nhiều nỗi bất bình nhất là ở giới thượng lưu. Ngô Đình Nhu: ông cố vấn Ông Nhu đậu cử nhân văn chương Đại học Sorbonne Pa ri và tốt nghiệp trường Chartes. Danh từ riêng “Chartinste” chỉ những người tốt nghiệp trường Chartes của Pháp cũng đồng nghĩa với sự uyên bác thông thái. Trường Chartes không tới 100 sinh viên nhưng thư viện lại chứa đựng 100.000 tài liệu và sách thuộc mọi ngành. Giáo sư hầu hết là học giả và các ông Hàn lâm. Mỗi lớp chỉ giới hạn 20 sinh viên. Tuy ấn định tú tài II mới được thi vào, nhưng sinh viên đều phải học qua hai năm luyện thi vào trường Chartes (tại trường danh tiếng Henri IV). Cố giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu bạn học của ông Nhu cũng theo học tại trường Chartes nhưng bị loại vì sự thi cử rất khắt khe. Trong 4 năm học sinh viên chỉ có quyền thi trượt một lần và mỗi năm chỉ có một kỳ lên lớp. Mỗi khóa năm thứ I vào khoảng 20 sinh viên thì khi tốt nghiệp chỉ lọt chừng một nửa. Chương trình học thuật là mênh mông. Tiếng La tinh là ngôn ngữ thông dụng. Sinh viên phải am tường về cổ tự, phải học về công văn thư, học Pháp chế sử... Ông Ngô Đình Nhu đã được đào tạo trong môi trường khoa bảng uyên thâm đó. Khi về nước ông trở thành quản thủ thư viện. Tại Tổng thư viện Hà Nội ông được mô tả như một “con mọt sách”. Quả thực một nửa đời người ông đã chìm đắm trong thế giới suy tư và chữ nghĩa kim cổ. Hai tác giả mà ông Nhu mê say và nghiên cứu rất kỹ đó là Thánh Ghandi và Mao Trạch Đông (tức từ triết lý bất bạo động đến triết lý cách mạng bạo động). Cho đến nay nhiều người vẫn phê bình ông Nhu là thâm hiểm, hẹp hòi. Sự thực thì ông quá kiêu ngạo và tự tôn. Hơn nữa ông lại vụng về lúng túng trong sự giao tế. Ông lại nói rất kém (tiếng Việt cũng như tiếng Pháp) và lại là người ít nói. Nhưng ông lại là người có khả năng tiên liệu, đa mưu túc kế. Với cuộc sống khép kín như vậy nên ngay cả cộng sự viên cận thân với ông trong bảy, tám năm cũng khó hiểu ông. Cuộc đời Ngô Đình Nhu được coi là “phong trần” kể từ năm 1945. Khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ tại Hà Nội thì ông Nhu cùng Hoàng Bá Vinh chạy về vùng ngoại ô Hà Nội. Rồi ngày đêm qua sự hướng dẫn của Hoàng Bá Vinh, Nhu trốn về Phát Diệm và lưu ngụ tại Nhà Chung. Ở đây ít ngày, Nhu được hướng dẫn vào Thanh Hóa. Trong thời gian này ông chịu ơn các Linh mục địa phận Thanh Hóa. Sau này ông còn nhớ mãi ân nghĩa đó. Linh mục Trọng đã phải cho ông Nhu mượn tấm áo Linh mục để hóa trang trên bước đường trốn tránh. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 58/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Khi trở về Sài Gòn ông Nhu “thất nghiệp chính trị” và “trùm chăn” để chờ thời. Từ đó sinh kế trong gia đình đều do một tay bà vợ lo liệu. Trong thời gian này, ông cộng tác chặt chẽ với Linh mục Parell trong việc nghiên cứu chính trị và xã hội. Vốn là con người lạnh lùng nên đời sống tôn giáo của ông Nhu cũng lạnh lùng. Tổng thống Diệm mộ đạo bao nhiêu thì ông Nhu thờ ơ bấy nhiêu. Đức tin của ông thật mạnh mẽ nhưng ông không biểu lộ đức tin đó bằng những hình thức nghi lễ. Tổng thống Diệm thì xưng tội rước lễ thường xuyên, ông Nhu trái lại không mấy khi rước lễ, xưng tội. Đại úy Bằng một người sống lâu năm trong gia đình họ Ngô cho biết, có khi cả năm sống trong dinh cũng không thấy ông Nhu xưng tội rước lễ. Mỗi lần xem lễ trong dinh, hai hình ảnh thật trái ngược: Tổng thống Diệm thì đăm đăm đọc kinh, coi sách lễ, ông Nhu tuy cũng quỳ gối nhưng hình như chỉ quỳ thế thôi. Lần nào, ông anh cũng mở từng trang sách lễ rồi trao sách lễ cho ông em,chỉ rõ từng trang. Ông Nhu cầm lấy nhưng chỉ cầm chiếu lệ mà không đọc. Một cộng sự viên thân cận khi đề cập đến Thiên Chúa giáo đã nói với ông Nhu: “Thánh Bernard cho rằng trong nhà thờ người ta thờ Chúa bằng chén vàng chén bạc, ngoài cửa nhà thì con chiên chết đói”, ông Nhu gật đầu đắc ý: “Đúng, đúng như rứa”. Mỗi lần nghe họ đạo nọ xây nhà thờ nguy nga, họ đạo kia dựng bức tượng Đức Mẹ rất lớn, ông Nhu lại nhăn mặt khó chịu vô cùng, nói với chung quanh: “Tại sao không xây nhà thương trường học mà cứ phải xây nhà thờ”. Ông Nhu rất ít tiếp xúc với các vị Linh mục trừ một số Linh mục thân thiết trong gia đình. Mỗi khi phải tiếp một vị Linh mục nào ông coi như chuyện bất đắc dĩ và tiếp cho mau chóng. Ông thường tâm sự: “Nhiều cha hay lợi dụng lắm chỉ lo affaire này kia”. Dư luận cho rằng, ông chống lại hàng giáo phẩm nhưng Linh mục nhận định: “Ông theo đạo một cách khác, ông không coi thường các hàng giáo phẩm nhưng không cho là quan trọng đến mức độ phải tôn thờ quỵ lụy”. Con người ông Nhu thật khó hiểu và ông không bao giờ tâm sự với ai, dè dặt mọi cuộc tiếp xúc không muốn đi ra ngoài và dè dặt với từng lời nói. Người ta vẫn có thành kiến cho rằng ông Nhu thâm độc và chủ trương độc tài. Trái lại ông có vẻ phóng khoáng và có tầm nhìn cởi mở của một chánh khách tây phương. Người độc đoán phải là Tổng thống Diệm, ông Nhu thì lại khác. Nhiều sự kiện đã chứng tỏ điều này. Thí dụ về kết quả cuộc bầu cử Quốc hội khóa II (31-8-1959) trong đó có bác sĩ Phan Quang Đán dẫn đầu tại quận II với 33. 166 phiếu và tiếp theo là Cụ Phan Khắc Sửu và ông Nguyễn Trân (nguyên Tỉnh trưởng Mỹ Tho) Tổng thống Diệm quyết định phải loại ba dân biểu này bằng mọi cách, nhất là ông Phan Quang Đán và Nguyễn Trân. Cả tháng trời ông Diệm cho gọi các luật gia như ông Trần Chánh Thành và giáo sư Vũ văn Mẫu, để nghiên cứu làm thế nào dùng biện pháp của luật để loại các dân biểu. Ông Nhu nói với bác sĩ Trần Kim Tuyến: “Làm chi mà quá như vậy. Thì người ta đắc cử thì để người ta vô Quốc hội, người vô làm được cái gì... Có ba người như vậy đâu có nhiều mà phải làm như vậy...”. Ông Nhu tỏ ra rất khó chịu và hoàn toàn bất đồng với Tổng thống Diệm về vấn đề này. Cuối cùng để chiều ý ông anh ông Nhu đành chịu. Tuy vậy riêng cụ Phan Khắc Sửu vì biết rõ uy tín cũng như đức độ của cụ trong dân chúng, nên ông Nhu đã ủy cho ông Bộ trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa liên lạc với cụ Sửu và dàn xếp mời cụ Sửu vào dinh Độc Lập gặp riêng ông Nhu. Cuộc gặp gỡ giữa cụ Sửu và ông Nhu lâu cả hơn một giờ. Theo bác sĩ Tuyến thì cụ Sửu cũng như ông Nhu tỏ ra thông cảm và cởi mở (cụ Sửu bị bắt trong cuộc đảo chính hụt 11-11-1960 song cụ bà vẫn được tiếp tục lãnh lương dân biểu). Thu xếp xong vấn đề cụ Phan Khắc Sửu nhưng còn hai trường hợp ông Phan Quang Đán và Nguyễn Trân, ông Nhu để mặc ông anh quyết định. Hơn nữa, đối với ông Nhu thì cụ Phan Khắc Sửu mới là điều quan trọng, vì không ai phủ nhận được đời sống đạo đức và thành tích tranh đấu của cụ trong dĩ vãng. Sau đó thì Ủy ban Hợp thức hóa quyết định không thừa nhận hai dân biểu kể trên. Đây cũng là một vết đen lớn của Quốc hội Đệ nhất Cộng hòa và dù cách nào hay dựa trên căn bản pháp lý cũng không thể biện minh cho sự vi phạm quy chế dân chủ một cách quá rõ rệt như vậy. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 59/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Về việc loại trừ bác sĩ Phan Quang Đán khỏi Quốc hội, xét về tâm lý cũng dễ hiểu. Bác sĩ Đán trúng cử tại một đơn vị chính Tổng thống Diệm đi bỏ phiếu và ở ngay khu trung tâm Sài Gòn. Vả lại Tổng thống Diệm đã biết rõ con người ông Đán, khi gặp ông bên Mỹ. Ông Nhu thì cho rằng ông Phan Quang Đán không quan trọng “Cứ để cho hắn vào”. Nhưng Tổng thống Diệm không chấp nhận. Đây cũng là điều quá hẹp hòi và sai lầm. Nếu cứ để ông Đán vào Quốc hội thì sớm muộn gì ông Đán cũng bị “cháy” do chính ông “đốt” ông. Nhưng khi loại ông Đán thì chính là cơ hội tạo cho ông Đán thêm nhiều tiếng tăm uy tín trong dân chúng, mà thực ra uy tín đó hết sức bấp bênh. Dạo đó dư luận đồn đại rằng, chính quyền Ngô Đình Diệm cố loại Phan Quang Đán vì ông Đán có thể sẽ tranh cử Tổng thống và ông Đán là “con bài nặng ký” của Mỹ. Dư luận cũng cho rằng ông Ngô Đình Diệm ghen tức với uy tín của ông Phan Quang Đán. Sự thực thì năm 1955 chính quyền Ngô Đình Diệm đã chấp thuận cho ông Đán hồi hương mà không do áp lực của Mỹ. Một vài lần ông Diệm có ý dành cho ông Đán một ghế Bộ trưởng không mấy quan trọng, nhưng ông Đán lại quá nhiều tham vọng muốn trở thành một lãnh tụ đối lập trong khi ông không có thực lực nhân dân, không có một số người cần thiết. Điều đó ông Nhu hiểu rất rõ nên để mặc ông Đán ăn nói rộng rãi trước các sinh viên Y khoa năm IV và sinh viên trường Cán sự y tế. Khi về nước, bác sĩ Đán được mời vào dạy môn y tế công cộng và y tế dự phòng tại hai trường Y khoa và Cán sự y tế (55-56). Ông Nhu chấp nhận những cá nhân đối lập cùng những ý kiến đối lập. Cũng vì vậy, Tổng thống Diệm quyết định loại Phan Quang Đán và Nguyễn Trân thì ông Nhu lại không đồng ý và cho rằng cứ để họ vào Quốc hội. Với một Phan Quang Đán, ông Nhu đã nhiều lần “miệt thị” và sẵn một thành kiến là Phan Quang Đán hèn, hết chạy theo Pháp và Bảo Đại bây giờ lại trở cờ. Khi qua Mỹ Phan Quang Đán móc nối được mấy tay thượng nghị sĩ và một vài viên chức CIA thì Phan Quang Đán lại trở cờ theo Mỹ. Ông cũng biết rõ, Phan Quang Đán không có một thực lực nào, Đảng Dân chủ của ông ta chỉ là đảng ma và thứ đảng phái “cò mồi” cho Mỹ. Ngay trong dinh Độc Lập đã có sự đối lập rồi. Một bên là Tổng thống Diệm với các ông Võ văn Hải v.v.. Một bên là ông Nhu với mấy cộng sự viên thân cận. Ông Võ văn Hải theo Tổng thống Diệm từ thời thiếu niên, một Phật tử thuần thành, nhưng đối với ông Nhu lại “mặt trăng mặt trời”. Sau cuộc đảo chính hụt 11-11-1960 ông Hải bị nghi oan có liên hệ với phe đảo chánh, ông tức giận làm một bản phúc trình dài gởi thẳng Tổng thống Diệm và kết luận đại ý rằng: “Tôi theo Tổng thống, trung thành với Tổng thống, tôi chỉ biết một lòng với Tổng thống thôi...” Bản phúc trình ấy có ý nói gián tiếp là không cần biết ông Nhu, ông Nhu được xem bản phúc trình đó không biết lòng dạ ông thế nào nhưng không tỏ thái độ gì cả. Rồi mỗi người mỗi phận, mỗi việc. Nói năng kém hoạt bát, giao tế lại ngượng ngùng. Đó là cái yếu nhất của một nhà chính trị. Ông Nhu mấy lần cũng cố gắng mở cuộc tiếp xúc với một số chính khách nhưng cũng vì sự giao tế ngượng ngùng mà kết quả không đi đến đâu, không tìm được sự hợp tác. Sau cuộc đảo chính hụt 11-11-1960 ông Nhu được khuyến cáo cần phải mở rộng chính quyền phải kết hợp các thành phần vẫn được coi là đối lập. Một cộng sự viên được ông Nhu ủy cho vai trò móc nối và dàn xếp. Nếu mời các chính khách vào dinh Độc Lập thì rất bất tiện. Vả lại các vị này vốn mặc cảm sợ mang tiếng “luồn lọt”. Do đó phải tổ chức cuộc gặp gỡ ở bên ngoài. Lần thứ nhất cuộc gặp gỡ được tổ chức ở nhà riêng của giáo sư Vũ Quốc Thúc. Nhưng khi ông Nhu đến thì ông lại trở thành người cô đơn lạc lõng. Mấy vị chính khách thì ngồi tận xa còn mình ông trơ trọi trên chiếc ghế bành, kết quả không đi đến đâu, và không cởi mở với nhau được những gì cần cởi mở. Lần thứ hai tại nhà riêng bác sĩ Phan Huy Quát. Lần này khá đông, nhưng khi ông Nhu đến thì mọi người lại né tránh, ông vẫn là người trơ trọi. Vốn ít nói, lại nói “trọ trẹ” khó nghe nên ông càng thêm trơ trọi. Trong khi đó không ai gợi chuyện để hiểu tính nhau và tìm đường thông cảm với nhau. Người ta cho rằng, ông Nhu thâm hiểm, nhưng sự thực như trên đã viết, tâm hồn ông quá khép kín, vui buồn không bộc lộ ra ngoài, không mấy khi tâm sự với ai kể cả người thân. Ông lầm lì, trù tính những gì không ai hay biết. Nhưng ông lại là người biết nghe cộng sự viên trình bày những điều hợp lý, phải lẽ. Nhưng có mấy ai trình bày nguyện vọng thực của mình để ông có thể nhìn rõ thực trạng? https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 60/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Đối với một công việc dù quan hệ đến đâu nếu do tay ông giải quyết thì ông giải quyết ngay, không do dự. Thí dụ năm 1957, nhân một chuyến đi dạo quanh đô thành, Tổng thống Diệm đi qua bến Bạch Đằng... ông nổi giận đùng đùng vì cảnh bến sông thật là “bê bối”... hàng quán san sát, chiêu đãi viên cùng thực khách đùa giỡn lả lơi, ông Diệm sau đó chỉ thị cho giới chức đô thành phải giải tỏa ngay, ông Tổng thống cho rằng thủ đô là tiêu biểu cho thể thống quốc gia để cho hàng quán tùm lum ở bến sông, ở hè phố như vậy thì còn gì là thể thống. Theo quyết định của Tổng thống, Đô trưởng Sài Gòn khẩn cấp ra lệnh giải tỏa. Hàng ba trăm bạn hàng dọc theo bờ sông bến Bạch Đằng và một số nơi khác ở các vỉa hè lớn bị giải tỏa Trước khi giải tỏa họ chỉ được thông báo và thông báo một cách cấp kỳ như vậy trong một thời gian quá ngắn làm sao thu xếp được công ăn việc làm. Các bạn hàng cấp tốc quy tụ lại thành một nghiệp đoàn để tranh đấu (đặt dưới sự bảo trợ của Tổng Liên đoàn Lao công) do ông Nguyễn văn Vượng làm Chủ tịch và dự định biểu tình làm lớn chuyện. Ông Nhu biết được như vậy thì tìm cách giải quyết ngay. Ông cho gọi ông Nguyễn văn Vượng vào dinh để giàn hòa. Nếu ông Diệm quá khắt khe trong quan niệm luân lý và thuần phong mỹ tục thì ông Nhu lại tỏ ra rộng rãi, mặc dù ông không phải là người bài bạc ăn chơi. Khoảng năm 1959 Tổng thống đi xe từ trại Quang Trung về đến ngã ba Chú Ía (gần nhà thương Cộng Hòa) thì có cả mấy chục cô gái giang hồ phấn son lòe loẹt dừng bên đường vẫy tay cười nói, ông Tổng thống mặt đỏ bừng bừng: “Mấy con mụ đó nó làm chi mà dị hợm rứa” (chữ dị hợm này, Tổng thống Diệm đã dùng để nhận định về con người ông Phan Quang Đán). Viên sĩ quan tùy viên cứ ngay tình nói thẳng: “Bẩm, mấy đứa nó là gái giang hồ, vùng này nhiều lắm”. Ông Tổng thống lại hầm hầm mặt đỏ gay: “Thằng Tỉnh trưởng nó làm chi đó hỉ...?” Khi trở về dinh, ông Diệm cho gọi Đại úy Bằng đến hỏi kỹ về chuyện này. Sau đó ông bảo Tổng giám đốc Cảnh sát đô thành, Tỉnh trưởng Gia Định và Trung tá Cao văn Viên phải thân hành lấy xe đi một vòng kiểm soát xem thực hư thế nào. Các viên chức trở về dinh đều xác nhận là có nhiều gái giang hồ tại mấy vùng ngoại ô như Lăng Cha Cả vùng nhà thương Cộng Hòa. Ông Giám đốc Cảnh sát Đô thành (Trần văn Tư) phải một phen xanh mặt. Mấy hôm sau Tổng thống Diệm ra lệnh bãi chức một loạt Cảnh sát trưởng thuộc Đô thành và Trưởng ty Cảnh sát Gia Định. Vụ này làm “rung động” giới chức Cảnh sát cao cấp ông Nhu cứ nhăn mặt lắc đầu: “Làm chi mà quá đáng như rứa”. Ông cũng thường nói với các cộng sự viên: “Cấm là cấm vậy thôi chứ nạn mãi dâm làm sao hết được tập trung bọn nó sang cả vùng Cầu Hàn cho dễ kiểm soát bệnh tật”. Ông Nhu quan niệm rộng rãi như vậy cũng dễ hiểu vì ông cũng không lạ gì nạn mãi dâm tại thành phố Paris nơi ông đã lưu trú nhiều năm. Theo Lương Khải Minh ông Nhu khác hẳn với ông Diệm, ông không quan tâm đến chuyện vụn vặt. Điều quan trọng với ông là “Chơi thì cứ chơi nhưng kín đáo đừng gây nên tai tiếng”. Ông thường nói: “Bọn Cảnh sát cao cấp nó cũng ăn chơi hủ hóa ghê lắm, nhưng nó kín đáo... chơi thì chơi nhưng chịu làm việc có suy nghĩ”. Cái chết của tướng Hồ văn Tố vì bệnh thượng mã phong làm cho ông Diệm mặt chảy dài, thở phì phì tức giận... ông Nhu chỉ lắc đầu: “Làm thì không lo làm... lúc nào cũng chỉ có “con chim” trên đầu”. Nhưng ông có cái rộng rãi này thì cũng vấp phải những định kiến hẹp hòi khác, nhiều khi rất quá đáng như đứng ở tư thế một nhà lãnh đạo chính trị. Trường hợp đối xử với một số đồng bạn cũ của ông cũng gây ra tai tiếng không ít và do đó người ta cho rằng ông Nhu theo chính sách “vắt chanh bỏ vỏ”. 7. Chế độ Ngô Đình Diệm và người Mỹ Sau vụ biến cố đẫm máu tại Đài phát thanh Huế bốn ngày, ông Nhu đã cho nổ một trái bom làm rung động giới ngoại giao Mỹ, khi ông Nhu tuyên bố với phái viên tờ Washington Post “Cho đến lúc này Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không thấy cần thiết một số cố vấn quân sự quá lớn, cho nên Việt Nam Cộng Hòa có thể yêu cầu Chính phủ Mỹ cho rút một nửa số cố vấn quân sự Mỹ, tức là chỉ nên duy trì bảy, tám ngàn là đủ” (Washington Post 12-5-1963). Cũng vào thời gian này ông Nhu nói với giáo sư Bửu Hội “Đã đến lúc mình phải xét lại sự viện trợ và hợp tác của Mỹ. Anh có thể giúp tôi tìm sự ủng hộ thân hữu của Pháp và các quốc gia Bắc Phi. Trong tình thế hiện nay chúng ta phải đi đến một modus vivendi thỏa ước với Bắc Việt”. Sáng chủ nhật hôm ấy ông Nhu cũng lặp lại câu nói như vậy với một vài cộng sự viên thân cận. Nhưng ai nấy đều cho rằng con đường mà ông Nhu sắp đi tới rất nguy hiểm. Nhưng ông Nhu vẫn chủ quan cho rằng kế hoạch ấp chiến lược và đường lối ngoại giao mới qua trục Paris và Á phi sẽ tạo cho miền Nam đủ tư thế chấp thuận thỏa ước với miền Bắc. Nhưng ông Nhu quên rằng với 16 ngàn cố vấn Mỹ và mỗi ngày Mỹ phải chi trên một triệu dollars cho cuộc chiến tại Việt Nam (1963) thì không dễ gì Mỹ có thể để cho ông Nhu tự do hành động khác với những đường lối của họ. Mộng ước hiệp thương hai Miền Nam Bắc https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 61/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Trước năm 1961 Ngoại trưởng Pháp Couve de Murviìle sau cuộc tiếp xúc với ông Nhu tại Paris (1961) đã phê bình ông “Ngô Đình Nhu là một người có nhiều ảo tưởng”. Ông Murville cũng như bác sĩ Trần Kim Tuyến cho rằng phê bình như vậy cũng có phần đúng. Theo ông Tuyến “ông Nhu là một chính khách có suy tư về chính trị, có khám phá, có sáng tạo trên bình diện chiến lược. Nhưng thực tại tình hình chính trị miền Nam chính nó đã làm cho suy nghĩ của ông Nhu trở nên ảo tưởng”. Một buổi sáng trời trong xanh, ông Nhu mỉm cười mô tả một cách đầy thi vị với ông Tuyến: “Buổi sáng Việt Nam màu trời pha lê, toa thấy chiến tranh phi lý quá hỉ. Bọn nó (tức Mỹ) như con hổ bị thương, chúng sẽ cho dollars để Phật giáo phá moa... Nhưng chế độ này thì phải tồn tại”. Khi ông Nhu toan tính bắt tay với miền Bắc Việt Nam thì trước hết ông đã gặp phản ứng hết sức bất lợi cho kế hoạch riêng của ông... Phản ứng đó xuất phát ngay từ tập thể Thiên Chúa giáo và nhất là một số người khối dân di cư. Một số trong khối người đó từng hậu thuẫn vô giá cho chế độ Ngô Đình Diệm, những ngày đầu 1954-1955. Tuy toan tính của ông Nhu không mấy ai biết nhưng hẳn nhiên không thể qua mắt được các đức Giám mục Thiên Chúa giáo. Đức cha Lê Hữu Từ có thể là người được biết quá thông suốt về những toan tính của ông Nhu. Điều này cha Jean (một Linh mục người Pháp lúc đó đang sống tại Sài Gòn) đã có nhiều cơ hội được am tường một cách tương đối rành rẽ. Sau cuộc biểu tình dữ dội của Phật giáo ngày 17-7, phản ứng của Mỹ hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Đài VOA thông tin và bình luận một cách có thiện cảm hay đúng hơn là đã gián tiếp ca ngợi cuộc đấu tranh của Phật giáo. Cha Jean được mời vào dinh gặp ông Nhu. Cuộc gặp gỡ kéo dài trong hai tiếng đồng hồ. Ông Nhu đã đề cập về cuộc xuống đường của Phật giáo ngày 17, ông nói: “Tôi có nhiều bằng chứng là hiện nay Cộng sản đã thao túng Phật giáo. Rất nhiều cán bộ Cộng sản cải trang vào đó với tư cách Phật tử hay các nhà sư”. Cha Jean chỉ lắng nghe mà không đáp. Ông Nhu với thái độ giận dữ: “Tôn giáo là tôn giáo, quốc gia là quốc gia. Tổng thống không thể nào nhượng bộ họ được nữa. Đã đến lúc Chính phủ phải có biện pháp mạnh. Nếu Chính phủ hạ lệnh thì chỉ trong vòng một ngày, quân đội và cảnh sát có thể dẹp tan phong trào tranh đấu này”. Cha Jean đáp: “Thưa ông Cố vấn, đây là vấn đề nguy hiểm và rất tế nhị... vấn đề Phật giáo theo tôi biết đã có tầm mức quôc tế. Ông Cố vấn có thể nào tìm được cách giải quyết tốt đẹp hơn là đàn áp không?”. Ông Nhu lừ mắt nhìn cha Jean, ông lắc đầu: “Đến nay thì không còn cách nào giải quyết tốt đẹp nữa. Hiện các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang bất mãn với Phật giáo, họ đang thúc xúi Tổng thống hạ lệnh cho họ được phép dẹp cho yên”. Cha Jean không còn biết nói gì hơn. Ông Nhu lại tiếp tục: “Tôi hiểu, nhiều kẻ đang âm mưu gây rối miền Nam... Chính phủ không thể tha thứ bất cứ một cuộc nổi loạn nào”. Bất chợt ông Nhu hỏi cha Jean: “Phía Hoa kiều Chợ Lớn cha thấy thái độ chung của họ như thế nào?” Cha Jean đáp “Hoa kiều tại Việt Nam như ông Cố vấn đã rõ, họ chỉ biết làm ăn buôn bán”. Ông Nhu nói: “Cha có thể giúp tôi làm một việc riêng?”. Cha Jean đáp: “Tôi sẵn sàng nếu thấy có khả năng”. Ông Nhu ngần ngại rồi đi thẳng vào câu chuyện: “Cha có thể giúp tôi một việc quan trọng này ngoài cha, Tổng thống không muôn ủy thác cho một ai”. Ông Nhu lại yên lặng hút thuốc lá lâu hàng 5, 7 phút. Đoạn ông nói: “Cha sang Đài Loan giúp Chính phủ được không”. Cha Jean chưa trả lời, ông Nhu nói tiếp: “Cha có đủ uy tín nói chuyện với Chính phủ Đài Bắc, làm sáng tỏ cho họ rõ là Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chủ trương và kỳ thị tôn giáo. Cuộc tranh đấu của Phật giáo đang bị lợi dụng”. Cha Jean đáp: “Thưa ông Cố vấn, tôi nghĩ việc này ông Cố vấn nên tiếp xúc thẳng với Đại sứ Đài Bắc hoặc nếu không ông Cố vấn có thể ủy thác cho ông Bộ trưởng Ngoại giao”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 62/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Sự từ chối khéo của cha Jean làm ông Nhu mất bình tĩnh: “Bộ trưởng Ngoại giao ấy à? Ông ta không làm được cái chi hết. Còn ông đại sứ Đài Bắc, cũng đang bị dư luận đầu độc. Tôi muốn cha sang Đài Loan nói cho Chính phủ Tưởng Giới Thạch biết rõ sự thực và cha nói giùm Chính phủ Đài Bắc phải chấm dứt ngay chiến dịch báo chí ở Đài Loan hiện đang xuyên tạc Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và họ đang cổ vũ cho cuộc tranh đấu của Cộng sản duới chiêu bài tôn giáo”. Cha Jean nói: “Xin ông Cố vấn cho tôi trình bày ý kiến. Theo tôi, có thể nói Cộng sản len lỏi vào hàng ngũ tranh đấu của Phật giáo nhưng tôi tin rằng cuộc tranh đấu này vẫn có tính tôn giáo đấy chứ. Tôi không tin Thượng tọa Thích Tâm Châu hay ông Mai là Cộng sản. Đại sứ của ông Tưởng Giới Thạch cũng đã nói với tôi như thế. Xin ông Cố vấn thông cảm cho sự khó khăn của tôi, tôi xin không thể nói gì khác hơn là như vậy”. Ông Nhu hỏi: “Ngay cha cũng tin vào dư luận là Tổng thống sẽ thương thuyết với Bắc Việt?” Cha Jean đáp: “Đó là điều làm tôi ngạc nhiên”. Cha lại hỏi “Chắc chắn ông Cố vấn có theo dõi hoạt động của “Ủy ban Hòa bình phục hưng miền Nam” (Comité pour la Paix et la Rénovation du Sud Việt Nam).” Ông Nhu “à” một tiếng khá lớn lắc đầu với thái độ khinh miệt “Tôi biết tổ chức ấy là một con số không, do một số người Pháp đỡ đầu. Trần văn Hữu chắc cha biết rõ?” Cha Jean đáp “Tôi có gặp ông ấy một vài lần”. Ông Nhu bỗng cao hứng nói một hơi thật dài. Đến nay cha Jean chỉ còn nhớ lại một số nét chính đại cương: “Trần văn Hữu hiện nay đang được nhóm Paul Devinat Bolaert, Pignon đỡ đầu, hắn đòi biết gì không? Hắn đòi phải lật đổ Chánh phủ này, nghĩa là xóa bỏ chế độ này, sau đó tổ chức một chánh phủ liên hiệp, có Mặt trận Giải phóng tham gia và miền Nam sẽ trung lập”. Cha Jean lại hỏi: “Thưa ông Cố vấn nghĩ như thế nào về đề nghị của ông Hữu?”. Ông Nhu đáp: “Đó là một đề nghị trẻ con, tôi không quan tâm, nếu có nói chuyện trung lập thì chỉ nói với Bắc Việt thôi chứ Mặt trận Giải phóng chỉ là một tổ chức phiến loạn”. Cha Jean nhân cơ hội này lại hỏi “Thưa ông cố vấn, ông có nghĩ đến vấn đề nói chuyện với Bắc Việt không?”. Ông Nhu mỉm cười: “Đó là vấn đề chính mà hôm nay tôi cần gặp cha và nhờ cha giúp tôi”. Bắt tay với Cộng sản chỉ là chiến thuật trả đũa Hoa Kỳ Qua cuộc tiếp xúc với ông Nhu, cha Jean nhận thấy ông Nhu đang trải qua cơn dao động với một thái độ quyết liệt. Về vấn đề bắt tay với Bắc Việt, ông Nhu tỏ ra hết sức dè dặt. Ông vẫn không tin tưởng vào thế trung lập mà liên hiệp với Bắc Việt lại càng không thể có. Ông Nhu nhắc đi nhắc lại với cha Jean: “Cha đã hiểu biết nhiều về Cộng sản.. Chắc cũng biết rõ là Tổng thống ghét Cộng sản như thế nào”. Sau đó ông rất dè dặt tâm sự: “Trong tình thế này Hoa Kỳ cứ gây khó khăn mãi cho Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tôi phải lựa chọn”. Ý ông Nhu muốn nói là ông phải lựa chọn một thế đứng mới làm điều kiện trả đũa áp lực của Hoa Kỳ. Cha Jean cũng nhận thấy chưa bao giờ ông Nhu lại tỏ vẻ tức giận Hoa Kỳ như vậy. Trong cuộc gặp gỡ hôm ấy, ông Nhu muốn nhờ Cha Jean qua Đài Loan rồi trở về Paris. Về việc qua Đài Loan ông Nhu cho biết ông rnuốn nhờ cha Jean nói với nhà cầm quyền Đài Loan biết rằng, Tổng thống Diệm vẫn giữ vững lập trường chống Cộng không có vấn đề liên hiệp, tuy nhiên ông Nhu nhấn mạnh “Tuy nhiên nếu quốc gia chống Cộng như Trung Hoa Dân Quốc 1 không giúp đỡ tích cực Việt Nam Cộng Hòa và không làm cách nào cho Mỹ bớt gây rối Miền Nam thì buộc lòng Việt Nam Cộng Hòa phải chọn lựa, nghĩa là sẽ có chuyện ngưng bắn và thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường với Bắc Việt”. Điểm sau cùng mà ông Nhu nhấn mạnh “Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn ủng hộ Trung Hoa Dân quốc và chính vì thế mà Hoa kiều tại Việt Nam Cộng Hòa đã hưởng mọi ân huệ. Nếu tình thế thay đổi nghĩa là khi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa buộc lòng phải bắt tay với Cộng sản Bắc Việt thì lúc ấy Hoa kiều không còn được hưởng ân huệ như vậy và các tổ chức chìm nổi của Chính phủ Đài Loan tại miền Nam Việt Nam cũng sẽ khó khăn rồi tự nó tan rã”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 63/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Trước khi ra về ông Nhu nắm chặt tay cha Jean tiễn ra tận hành lang, ông nhắc đi nhắc lại: “Bất cứ một người Công giáo nào cũng không thể nghi ngờ được lập trường chống Cộng của Tổng thống”. Ông Nhu ngập ngừng khẽ nhún vai, dáng điệu ấy cho đến nay cha Jean vẫn chưa thể quên. Ông Nhu nói: “Lập trường chống Cộng phải đi song song với lập trường dân tộc. Nếu Hoa Kỳ không tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam thì buộc lòng Tổng thống sẽ phải xét lại công cuộc viện trợ. Chắc Cha đã rõ nhiều quốc gia sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam, Tổng thống sẽ cân nhắc lựa chọn”. Trong buổi tiếp xúc này, ông Nhu nói có vẻ muốn thanh minh hai điểm quan trọng. 1) Không có chuyện đàn áp Phật giáo. 2) Tập thể Công giáo cứ yên tâm và tin tưởng vào lập trường chống Cộng của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Từ Cha Jean cho đến bác sĩ Trần Kim Tuyến và giới thân cận với ông Nhu đều nhận định rằng ông Nhu muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Mỹ, muốn tìm một thế đứng mới, nhưng chuyện mưu đồ bắt tay với Cộng sản chỉ là một chiến thuật mặc cả với Hoa Kỳ. Nhưng Hoa Kỳ lại dùng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông” quật ngã ông Nhu, khi họ cố tình cho rằng ông Nhu bắt tay với Cộng sản. Một số tướng lãnh và sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hòa đã bị Hoa Kỳ lung lạc tinh thần bằng cái dư luận: ông Nhu định điều đình với Cộng sản. Thực sự cơ quan CIA không thiếu gì phương tiện, nhất cử nhất động của ông Nhu không qua khỏi con mắt của CIA. Có lẽ vấn đề ông Nhu bắt tay với Cộng sần không làm Mỹ lo ngại bằng vấn đề bang giao Việt - Pháp mỗi ngày càng thêm tốt đẹp, sau nữa là thái độ quá cứng rắn của ông Diệm trước những đề nghị của Mỹ mà ông Diệm cho rằng xâm phạm đến chủ quyền miền Nam Việt Nam (như vụ Cam Ranh, đề nghị đặt Cố vấn Mỹ cạnh Tỉnh trưởng Việt Nam, lập phòng Dân vụ Mỹ cạnh Tòa Đại biểu Chính phủ. Sau năm 1963 những vấn đề này được Chính phủ sau đảo chính thỏa mãn ngay). Trước năm 1962, bang giao Việt - Pháp vẫn tẻ lạnh như buổi chợ chiều. Chánh phủ De Gaulle không một chút thân thiện nào đối với Việt Nam Cộng Hòa. Theo những tài liệu mà chúng tôi tìm hiểu thì Tổng thống Diệm do sự thúc đẩy của ông Nhu đã gián tiếp ngỏ ý muốn qua hành hương tại Lourdes và nhân cuộc hành hương này tướng De Gaulle sẽ chính thức mời Tổng thống Diệm thăm viếng Paris. Song điều đó bất thành. Chắp nối duyên xưa Theo cha Jean thì không phải chỉ năm 1963 ông Nhu mới nghĩ đến chuyện phát triển bang giao Việt - Pháp và tìm điểm tựa mới nơi chính phủ De Gaulle. Năm 1961 trong chuyến du hành qua Maroc dự lễ đăng quang Đức vua Hassan II ông Nhu nhân dịp này ghé qua Paris với tư cách riêng. Tuy vậy ông Nhu cũng đến thăm xã giao Ngoại trưởng Pháp Couve de Murville. Tuy với tư cách riêng Ngoại trưởng Couve de Murville cũng mở dạ tiệc khoản đãi ông Nhu với sự hiện diện của Đại sứ Laloutte và ông Étienne Manach đặc trách Á Châu sự vụ tại Bộ Ngoại giao Pháp. Tuy không đạt được một kết quả cụ thể nào nhưng chuyến thăm viếng Paris lần này ông Nhu đã phá được bầu không khí tẻ lạnh giữa chính quyền Ngô Đình Diệm với Pháp. Kể từ năm 1961, ông Manach trở thành nhịp cầu thông cảm giữa hai Chính phủ. Hơn nữa vẫn theo cha Jean, ông Manach rất có thiện cảm với ông Nhu - một cựu sinh viên trường Cổ học Paris - đó cũng là điểm hào quang dễ dàng thu hút sự cảm phục của giới ngoại giao Pháp. Trước năm 1960, các cha thừa sai Pháp (MPE) từng tỏ ra bị lạnh nhạt bởi chính quyền Ngô Đình Diệm, nhưng sau năm 1960 thái độ của ông Diệm đã thay đổi. Tổng thống Ngô Đình Diệm trở lại ưu ái các cha thừa sai Paris, đặc biệt những cha hoạt động tại Cao nguyên thì Tổng thống mỗi ngày càng thêm tín nhiệm và kính phục. Đó cũng là tia sáng soi đường cho quan hệ thân thiện với Pháp. Một trí thức cỡ như Ngô Đình Nhu tất nhiên dễ dàng thông cảm với Pháp hơn. Cái văn minh cơ khí của Mỹ có tiền dollars viện trợ dù to tát như thế nào cũng khó lòng đè bẹp được cái tinh hoa văn học Pháp, đã tiêm nhiễm sâu xa trong con người trí thức như Ngô Đình Nhu. Đó cũng là điều dễ hiểu khi ông Nhu giơ bàn tay tiếp nhận người bạn Pháp. Đó cũng là lý do dễ hiểu tại sao những năm 1960-1961 chính quyền Ngô Đình Diệm cho mở hàng loạt các Tòa đại sứ tại các quốc gia Á Phi thuộc ảnh hưởng của Pháp. Trong một bài báo nhan đề “La Paix manquée en” của ký giả Georges Chaffard (Express số 990) nhận định rằng trong cuộc gặp gỡ. Couve de Murville - Ngô Đình Nhu (1961) đã không đạt được kết quả vì ông Nhu tự ái. Couve de Murville lại tỏ ra lạnh nhạt. Chaffard viết: “Ông Couve de Murville tin rằng bởi thế nào chuyến sang Pháp lần này ông Nhu cũng ve vãn Pháp, nhưng ông Couve de Murville đã thất vọng vì trong suốt bữa tiệc ông Nhu chỉ đề cao chính sách của anh em ông, ca ngợi khu trù mật và tự hào về chế độ Ngô Đình Diệm đang mạnh”. Vẫn theo Chaffard thì ông Etienne Manach linh cảm rằng ông Nhu sang Pháp không phải chỉ để nói những lời “suông” như vậy ông Etienne Manach lại bố trí một cuộc hội đàm Ngô Đình Nhu với Couve de Murville khi ông Nhu từ Rabat (Maroc) trên đường ghé về qua Ba lê. Cuộc hội đàm không đi đến đâu... nhưng đó là cái mốc lớn mở đầu cho giai đoạn mới mà Đại sứ Lalouette đóng một vai trò quan trọng. Đại sứ Lalouette đã hiểu rõ sự rạn nứt trong mối tình đồng minh Mỹ-Diệm. Sự mâu thuẫn giữa Việt Mỹ ngày càng gia tăng và ông Nhu đã hơn một lần gián tiếp ngỏ ý cho Đại sứ Lalouette hay rằng đã đến lúc Pháp-Việt phải cải thiện quan hệ bang giao và người https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 64/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Pháp có thể đóng một vai trò quan trọng tại bán đảo Đông Dương. Đại sứ Lalouette trở thành người bạn thân của cả Tổng thống Diệm lẫn ông Ngô Đình Nhu. Lalouette đóng vai trò biện hộ cho chế độ Ngô Đình Diệm trước thái độ nghi ngờ của tướng De Gaulle - vì De Gaulle vẫn chưa quên bài học đau đớn 1954-1955, một mặt bị Mỹ đá khỏi Việt Nam một mặt chính quyền Ngô Đình Diệm tẩy chay Pháp. Theo Georges Chaffard nhận định thì theo ông Lalouette anh em ông Diệm quá nhiều tự ái dù anh em ông ta muốn ve vãn Pháp đến mức nào đi chăng nữa, anh em ông Diệm cũng không nói thẳng ra được. Dần dần, tướng De Gaulle ngả theo chiều hướng thuyết phục của Đại sứ Lalouette. Nghĩa là: Với sự mâu thuẫn Việt-Mỹ, khi mà ông Nhu muốn tìm một thế đứng mới, thì đây là một cơ hội tốt nhất để Pháp nhảy vào Đông Dương, đóng vai trò mới. Tưởng cũng nên ghi lại một biến cố ngoại giao đáng cho Hoa Kỳ lo ngại. Tháng 2-1963, một phái đoàn dân biểu của chính quyền Ngô Đình Diệm chính thức qua viếng thăm Pháp quốc do ông Trương Vĩnh Lễ hướng dẫn, gồm có các dân biểu Nguyễn Hữu Chỉnh, Hà Như Chi, Nguyễn Quốc Hưng, Trần văn Thọ. Phái đoàn dân biểu Việt Nam Cộng Hòa được đón tiếp một cách khác thường, Tổng thống De Gaulle đã tiếp phái đoàn tại điện Elyssée và cuộc hội kiến kéo dài 35 phút. Báo chí Pháp trong ngày 14-2-1963 đã nhận định về cuộc hội kiến này. Tờ Le Monde cũng như France Soi coi đây là một biến cố lớn, một khúc quanh quan trọng trong cuộc bang giao Việt-Pháp. Ngày 15-2, Thủ tướng Pompidou cùng với Ngoại trưởng Couve de Murville đã thảo luận rất lâu với phái đoàn dân biểu Việt Nam Cộng Hòa với sự tham gia gần như đủ mặt giới danh thương và kỹ nghệ Pháp. Người hoan hỉ nhất trong dịp này là Đại sứ Lalouette. Ông Đại sứ đã thành công trong chặng đầu... Từ đó trở đi, Đại sứ Lalouette trở thành một Đại sứ quan trọng sau Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Phản ứng của Hoa Kỳ như thế nào? Dĩ nhiên Hoa Kỳ không thể công khai phản đối mối tình Việt-Pháp nhưng Hoa Thịnh Đốn bắt đầu phản công lại. Đại tá Lansdale Fishel người đã từng ủng hộ hết lòng Tổng thống Diệm trong thời gian 1954-1955 thì 1963 lại là người tích cực vận động lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Fishel từng lưu ngụ tại miền Nam Việt Nam và đã từng cộng tác với chính quyền Ngô Đình Diệm thì 1963 ông lại chủ trương phải lật đổ ngay Ngô Đình Diệm dù phải dùng biện pháp sắt kể cả việc thanh toán cá nhân Tổng thống Diệm. Chính Hoa Kỳ đã đẩy ông Nhu vào thế chân tường Kể từ khi Trung Hoa Dân quốc thiết lập một số đài kiểm thanh tại Nam Việt Nam (chẳng hạn Đài Kiểm thính Phú Bài Huế) thì hiệu năng tình báo gia tăng mạnh mẽ. Điều đáng kể những đài kiểm thính này đều đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Sở nghiên cứu chính trị. Nhân viên Trung Hoa Dân quốc tự coi như nhân viên của sở nghiên cứu chính trị Nam Việt Nam. Không những đài kiểm soát được toàn bộ các làn sóng điện của Bắc Việt, Lào mà còn bao trùm cả miền Hoa Nam. Tuy nhiên có một điều Hoa Kỳ không vừa ý là kết quả khai thác của đài kiểm thính đã không được chuyển giao cho Hoa Kỳ. Mãi sau này, khi cuộc chiến bộc phát mạnh, Hoa Kỳ mới thiết lập một Trung tâm Kiểm thính khác (1962) gần Bộ Tổng tham mưu để họ sử dụng riêng trong phạm vi cơ quan MACV 2. Qua vụ Đài Kiểm thính ta cũng thấy rõ một phần nào bản chất viện trợ của Mỹ tại xứ này. Rồi vụ Đài phát thanh Sài Gòn nữa. Khoảng đầu năm 1960 Tổng thống Diệm muốn gia tăng hiệu năng vô tuyến truyền thanh thì đài Sài Gòn lại quá yếu. Ngân sách không cho phép phát triển theo ý muốn, để đương đầu với hiệu năng quá lớn mạnh của Đài phát thanh Hà Nội. Tất nhiên là phải yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ. Song người Mỹ chỉ đồng ý viện trợ máy móc tối tân cùng với chuyên viên điều khiển của họ. Tổng thống Diệm cho rằng đây là một trò chơi nguy hiểm. Ông Nhu cũng lo ngại vì nếu máy móc đặt trong tay chuyên viên Hoa Kỳ thì nếu có một biến cố lớn xảy ra, Hoa Kỳ có thể chơi xấu và phá đám bằng khả năng kỹ thuật của họ. Phía Nam Việt Nam có đề nghị Hoa Kỳ huấn luyện chuyên viên của mình và chỉ cần viện trợ máy móc cũng quá đủ. Đề nghị này không được Hoa Kỳ chấp thuận, cuối cùng Tổng thống Diệm cũng bỏ qua không nhắc nhở đến nữa. Kể từ năm 1962 thế lực Mỹ mỗi ngày càng gia tăng và bao trùm nhiều ngành sinh hoạt quốc gia, chiến tranh càng lan rộng thì thế lực Mỹ cũng có nhiều cơ hội thuận tiện nhất để khống chế chế độ Ngô Đình Diệm. Theo bác sĩ Tuyến thì ông Nhu tâm sự rằng: “Ngân sách quốc phòng tăng như rứa, viện trợ như rứa... buộc phải tìm lại thế quân bình. Chiến tranh càng kéo dài càng bất lợi cho chế độ”. Theo ông Nhu (thường thổ lộ ý kiến với bác sĩ Trần Kim Tuyến cũng như một số cộng sự viên thân cận) thì chiến tranh sẽ phải sớm chấm dứt. Một là dốc toàn lực để đè bẹp Cộng sản. Nếu hai bên còn nghiêng ngửa và chiến tranh có chiều hướng kéo dài thì phải tìm cách chấm dứt bằng giải pháp chính trị. Ông Nhu tin tưởng ấp chiến lược là một căn bản và một ưu thế cho giải pháp chính trị để chấm dứt chiến tranh. Khi khả năng quốc phòng và chiến tranh phải tùy thuộc vào viên trợ Mỹ thì sự mất mát chủ quyền là một điều khó có thể tránh khỏi. Theo Lương Khải Minh cũng như những nhân vật trọng yếu gần Tổng thống Diệm thì vấn đề chủ quyền quốc gia đối với Tổng thống Diệm là vấn đề số 1. Chủ quyền quốc gia gắn liền với tính tự ái quá cao của ông Tổng thống. Bằng chứng là năm 1961, 1962 các cố vấn quân sự Mỹ khuyến cáo chính quyền Ngô Đình Diệm bãi bỏ ngành hiến binh. Lúc https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 65/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm đầu Tổng thống Diệm có vẻ thuận ý qua lời trình bày của Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần. Ông Thuần cũng chỉ trình theo đề nghị của cố vấn quân sự Mỹ. Tổng thống Diệm có một điểm do dự là hiện ngành hiến binh, đang phục vụ đắc lực, ông Tổng thống vẫn tin tưởng vào hiến binh vì cho rằng hiến binh “làm việc đúng đắn rành luật pháp”. Nhưng sau đó Tổng thống Diệm cho xếp lại và vẫn duy trì ngạch hiến binh. Tổng thống Diệm bảo ông Thuần: “Cứ thư thả, không có gì thay đổi hết, họ (tức Hoa Kỳ) nói sao mình làm vậy thì còn gì là thể thống quốc gia”. Sự thực lúc đầu Tổng thống Diệm cũng nghiêng theo lời trình bày của ông Thuần nhưng bỗng hầm hầm nổi giận khi ông Thuần cho biết, cố vấn quân sự Mỹ muốn bãi bỏ ngành hiến binh chỉ vì quân đội Hoa Kỳ không có ngành này (MP đảm trách mọi việc). Cố vấn quân sự Mỹ cho rằng đã có quân cảnh rồi thì hiến binh không cần thiết và sẽ có riêng loại quân cảnh hiếnbinh. Cố vấn Mỹ cho biết, nếu không bãi bỏ ngành hiến binh thì Hoa Kỳ không thể dành một ngân khoản viện trợ cho một ngành không cần thiết như vậy. Tổng thống Diệm coi đây là một áp lực và vô tình đã xúc phạm đến tự ái của một vị Tổng thống cai trị dân theo quan niệm “thiên mệnh”. Do đó mà ngành hiến binh bao nhiêu lần có tin đồn bãi bỏ rồi rút cuộc vẫn được duy trì cho đến ngày sau đảo chính 1-11-1963. Trên đây là một vài sự kiện trong bao nhiêu sự kiện khác và đó cũng là một nguyên nhân đẩy ông Nhu vào một sự lựa chọn mới. Không thể làm tay sai một cách trơ trẽn Mâu thuẫn Việt-Mỹ càng trầm trọng khi chiến cuộc mỗi lúc càng gia tăng. Trước hết Việt-Mỹ đã xung khắc ngay từ buổi đầu của cuộc hôn nhân. Nói đúng hơn, miền Nam Việt nam trở thành một phận gái hẩm hiu do cảnh ngộ của lịch sử mà phải ép duyên gán nợ cho một anh chồng trọc phú. Xin trở lại vụ đài phát thanh để dễ dàng sáng tỏ tính chất xung khắc qua cuộc hôn nhân miễn cưỡng này. Tổng thống Diệm khao khát có được một đài phát thanh tối tân và hiệu năng của nó có thể tương đương với đài Hà Nội, trước hết vì đòi hỏi phải có một chiến lược chính trị trường kỳ tại Bắc Việt với hiệu năng lớn mạnh của đài Sài Gòn thì chính quyền miền Nam mới để dành một chương trình đặc biệt hướng về toàn thể miền Bắc và xa hơn nữa là Lào và Bắc Thái Lan là nơi có hàng ngàn Việt kiều cư ngụ. Đài Sài Gòn không đủ khả năng hoạt động trong một khu vực rộng lớn như vậy. Chính quyền miền Nam đành bó tay vì Hoa Kỳ từ chối lời yêu cầu tối tân hóa đài Sài Gòn. Trong khi đó thì Hoa Kỳ sẵn sàng viện trợ cho Nam Việt Nam một đài tiếp vận địa phương (mà ngân khoản tổn phí có thể gấp đôi ngân khoản tối tân hóa đài Sài Gòn). Tại sao có vụ mâu thuẫn kỳ cục như vậy? Điều giản dị là Hoa Kỳ muốn độc quyền truyền thanh “tiếng nói chống Cộng” của họ qua bức màn sắt Hoa Kỳ không muốn miền Nam được quyền “chia sẻ”... Cho đến lúc bấy giờ đài Sài Gòn vẫn không có gì khả quan hơn xưa. Điều mà trước năm 1963 Tổng thống Diệm ao ước có một chương trình phát thanh đặc biệt hướng về miền Bắc (với một hiệu năng tối đa) thì đã có (1964-1970) nhưng chương trình ấy lại nằm trong hệ thống đài VOF (Voice of Freedom) tuy đài đặt ngay tại Sài Gòn và do nhân viên người Việt đảm trách nhưng thực chất của nó là của Hoa Kỳ qua miệng người Việt. Tóm lại Hoa Kỳ quan niệm Đài phát thanh Sài Gòn chỉ có một nhiệm vụ thông tin tuyên truyền trong lãnh thổ miền Nam còn miền Bắc đã có Hoa Kỳ lo liệu (trước hết là Đài VOA sau là Đài VOF). Trí thức Ngô Đình Nhu thúc thủ trong một thực tại viện trợ như vậy thì chỉ còn con đường là cam phận làm tay sai một cách thiếu thông minh và trơ trẽn. Ông Nhu lựa chọn một thế đứng mới tức là lựa chọn một con đường giải thoát khỏi ông chủ keo kiệt. Tiếc thay con đường đó lại đem đến sự giải thoát vĩnh viễn cho ba anh em ông Nhu. Nói ra những mâu thuẫn Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ thì nhiều lắm. Mâu thuẫn về quan điểm lập trường... mâu thuẫn về chiến thuật, chiến lược. v.v... Khi ông Nhu trở lại thân thiện với Pháp, thì chỉ là một chiến thuật tạo thế chân vạc và cũng là điều kiện dọa Hoa Kỳ “nếu anh bắt bí tôi quá tôi bỏ anh...” “Tôi sẽ không cô đơn. De Gaulle đã sẵn sàng”. Một khi De Gaulle thân thiện với miền Nam thì lẽ dĩ nhiên Sihanouk sẽ không theo đuổi chính sách thù nghịch với miền Nam nữa và đó cũng là con đường đưa đến thỏa hiệp với miền Bắc. Trước sau cái gút của vấn đề chỉ là Pháp. CIA không khi nào để cho miền Nam một mặt sống vì viện trợ Mỹ, một mặt lại đưa tay nắm bàn tay De Gaulle (vẫn bị coi như kẻ thù của Mỹ) CIA không e ngại những toan tính của ông Nhu trong việc tìm một thế thỏa hiệp với Cộng sản Bắc Việt nhưng CIA coi việc miền Nam thân thiện với Pháp là một biến cố nguy hiểm và phải đập vỡ từ trong trứng nước. Cái thế của kẻ khó ăn đong Riêng những công tác tình báo tại miền Bắc (phần đầu đã nói sơ qua) thì Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam đã bất đồng sâu xa. Chính quyền miền Nam muốn chú trọng về tình báo chiến lược, Hoa Kỳ ngược lại chỉ chấp thuận những hoạt động có tính cách tình báo chiến thuật. Phương tiện hoạt động của Sở nghiên cứu lúc đầu đều tùy thuộc vào khả năng viện trợ của Mỹ. Mà Mỹ viện trợ cho từng điệp vụ và những vụ này phải là những công tác phối hợp tay đôi (Việt và Mỹ). Năm 1957, https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 66/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm chính quyền miền Nam rất muốn thực hiện một kế hoạch tình báo chiến lược tại miền Bắc, trước hết nhằm vào các vùng thượng du (Móng Cái, Đầm Hà, Tiên Yên, Lai Châu, Hòa Bình) sau là hai miền Bùi Chu, Phát Diệm. Nếu kế hoạch này được thực hiện với phương tiện dồi dào thì sẽ tiến đến sự thành lập một Mặt trận giải phóng miền Bắc làm động cơ phát động du kích chiến đấu chống Cộng từ mỗi cục bộ địa phương nhằm đến toàn bộ miền Bắc. Muốn được như thế đòi hỏi một ngân khoản quá lớn lao và một sự đài thọ liên tục và dồi dào. Cuối cùng kế hoạch ấy chỉ còn là mộng ảo và Hoa Kỳ chỉ thỏa thuận tài trợ cho những điệp vụ phối hợp có tính trắc nghiệm khả năng tình báo (cả miền Bắc lẫn miền Nam). Những điệp vụ phối hợp đó chỉ nhằm thả người ra miền Bắc với nhiệm vụ thâu lượm tin tức, gây rối phá hoại như phá hoại đường xe lửa, ném lựu đạn, đặt chất nổ, nghĩa là hoàn toàn có tính cách chiến thuật giai đoạn. Chống Cộng mà lại chống ngay trong vùng Cộng sản (Bắc Việt) thì như thế quả thật là ngây ngô lố bịch vì không khác gì kẻ cho ăn đong giữa khi đói kém, khốn nỗi miền Nam lại vào thế của kẻ khó ăn đong mà Hoa Kỳ thì nắm hầu bao rất chặt. Đại cương sự bất đồng giữa Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam là như vậy. Chính quyền Ngô Đình Diệm - Sihanouk và Mỹ Trong khi Hoa Kỳ tìm cách loại bỏ ảnh hưởng của Pháp tại miền Nam thì ngược lại họ vẫn củng cố Sihanouk mặc dầu ai cũng biết Sihanouk chỉ là con cờ của Pháp phải duy trì bằng bất cứ giá nào tại Đông Dương. Năm 1956 ông Ngô Đình Nhu qua Campuchia cùng với chủ trương ve vãn Sihanouk. Lúc ấy Hoa Kỳ chưa phải là thế lực đáng kể tại bán đảo Đông Dương. Và Hoa Kỳ tán trợ đường lối ve vãn Sihanouk của ông Nhu. Theo bác sĩ Trần Kim Tuyến thì ông Nhu được Sihanouk đón tiếp một cách trọng thể. Tuy không có nghi lễ chính thức nhưng ông Sihanouk đã dành cho ông Nhu một ngoại lệ, nghĩa là tiếp ông như một quốc trưởng. Sau đó Sihanouk chính thức được mời qua thăm Việt Nam Cộng Hòa và dịp này Sihanouk được đón tiếp hết sức trọng thể. Cuộc hội đàm Sihanouk-Ngô Đình Nhu được coi là rất tốt đẹp. Nhưng Tổng thống Ngô Đình Diệm vốn là người không khéo léo trong sự giao tế qua hình thức nghi lễ nên theo bác sĩ Tuyến, trong cuộc gặp gỡ Sihanouk, Tổng thống Diệm vẫn giữ vẻ mặt trang nghiêm đạo mạo... Do đó mà thiếu sự thân mật cởi mở cần phải có đối với một người khôn khéo và có tài “diễn xuất” như Sihanouk. Kết quả là khi trở về nước Sihanouk lại tiếp tục chính sách ve vãn Cộng sản và bất thân thiện với miền Nam. Cũng từ đó Việt Nam Cộng Hòa và Campuchia giữ miếng nhau. Theo bác sĩ Tuyến, ông Nhu chủ trương “phải triệt hạ cho bằng được Sihanouk”. Khi ông Nhu chủ trương như vậy thì Hoa Kỳ tiếp tục ve vãn Sihanouk. Một xa lộ thênh thang nối liền Campuchia với Sihanoukvilie được Mỹ thực hiện để làm quà dâng cho ông vua xứ chùa tháp. Rồi một bệnh viện lớn cũng được Hoa Kỳ xây cất tại Campuchia. Nhưng Sihanouk vẫn tiếp tục chính sách riêng của ông ta và tiếp tục công kích Mỹ. Xa lộ Nam Vang biệt thự Sihanouk do Mỹ viện trợ khánh thành chưa được bao lâu thì Trung cộng lại nhảy vào viện trợ cho Campuchia và dựng lên cả một hệ thống cột điện chạy dài trên xa lộ của Mỹ. Bệnh viện tại Nonpênh do Mỹ xây cất thì lại do Liên Xô viện trợ máy móc cùng các đồ trang bị thuốc men với một số bác sĩ Nga. Dù ve vãn, Mỹ vẫn bị Sihanouk đá bay khỏi Campuchia. Tuy vậy, Mỹ vẫn cố gắng tìm mọi cơ hội ve vãn Campuchia và đồng thời ngăn chặn không cho miền Nam phá Sihanouk. Hậu quả là Mỹ vẫn “tay trắng” tại Campuchia. Nhưng Mỹ muốn tách biệt miền Nam với Campuchia. Chúng tôi kể lại đây một câu chuyện mưu sát Sihanouk do miền Nam chủ động, nhưng Mỹ lại chịu tai bay vạ gió và nồng độ chống Mỹ của Sihanouk càng tăng. Đây cũng là một thí dụ cho biết rằng đối với Mỹ thì đừng có do dự khúm núm và phải đặt Mỹ vào trước những việc đã rồi và phải trói chặt chân họ vào những biến cố. Và ta phải làm chủ biến cố. Chính sách chủ nhân ông độc quyền của Mỹ, dân nhược tiểu phải biết điều đó. Tháng 8 năm 1963, bà Ngô Đình Nhu nói trong phiên họp Phụ nữ Liên đới rằng “Phải trói chân, trói tay mấy thằng phiêu lưu đó (ám chỉ Mỹ) mà hành hạ”. Câu nói đó tuy có đại ngôn nhưng nghĩ lại cũng đáng cho ta suy nghĩ. Trở lại câu chuyện ám sát Sihanouk năm 1961 thì đó cũng chỉ là “trước ám sát Sihanouk” “sau hành hạ Mỹ cho vui”. Số là, sau khi ông Ngô Trọng Hiếu rời khỏi chức vụ đại diện Nam Việt Nam tại Campuchia thì tòa đại diện Nam Việt Nam vẫn duy trì cơ sở như cũ. Nam Việt Nam Campuchia tuy rất căng thẳng nhưng chưa đến nỗi đoạn giao. Mặc dù vậy cơ quan tình báo Phủ tổng thống vẫn nhận được chỉ thị phải “hạ” Sihanouk bằng bất cứ cách nào. âm mưu này muốn đạt được kết quả thì trước hết phải canh chừng Mỹ. Xử lý chức vụ đại diện lúc ấy là ông Phạm Trọng Nhơn một điệp viên của Nam Việt Nam hoạt động tại Nonpênh có biết được một kỹ sư Mỹ (có trách nhiệm thiết lập xa lộ Nonpênh vườn Sihanouk) là chỗ quen thân của họ Sihanouk. Bà mẹ Sihanouk lại nổi tiếng là người thích nhận hối lộ và quà biếu. Điệp viên này được mật lệnh của Phủ tổng thống là phải bám sát viên kỹ sư người Mỹ và tìm cánh “khai thác” ông ta nếu có thể được. Điệp viên kể trên báo cáo cho cơ quan tình báo Phủ tổng thống biết là viên kỹ sư Mỹ sắp lên đường về Mỹ qua ngả Hong Kong. Ngày lên đường về Mỹ viên kỹ sư người Mỹ có đến chào cáo biệt Quốc trưởng Sihanouk và Hoàng thái hậu. Đó cũng là ngày Sài Gòn bật đèn xanh cho https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 67/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm phép các điệp viên hành nghề. Réseau tại Nonpênh có chuyển về Sài Gòn một tấm danh thiếp của viên kỹ sư Mỹ này cùng bút tích của ông ta. Lập tức cơ quan tình báo Phủ tổng thống in lại một số danh thiếp của viên kỹ sư Mỹ (rập đúng y khuôn) và trao phó cho một chuyên viên nghiên cứu kiểu chữ của ông ta và sẽ giả mạo kiểu chữ này cho công tác điệp vụ. Kế hoạch được trình bày lên ông Nhu và ông hoàn toàn tán thành. Sau đó hai chiếc vali tuyệt đẹp được dùng vào việc giết Quốc trưởng Sihanouk. Chiếc va li thứ nhứt thì bình thường trong đựng một số kỷ vật quý giá xuất xứ tại Hong Kong. Chiếc vai thứ hai chính nó sẽ quyết định số mạng của Sihanouk, trong đó ngoài một số kỷ vật còn có một cái hộp ngà hảo hạng xuất xứ từ Đài Loan, một loại chất nổ ghê gớm cực mạnh (dành cho các điệp viên) được cho vào hộp cùng với một bộ phận cơ bẩm tinh vi khác và bộ phận này được nối với nắp va li khi mở vali thì tự động chất nổ sẽ bộc phát ngay. Sau khi hóa trang và làm dấu cẩn thận... hai chiếc vali này được đưa lên xe mang biển số ngoại giao của ông đại diện Phạm Trọng Nhơn. Chính ông Phạm Trọng Nhơn có nhiệm vụ chuyên chở hai chiếc va li này lên Nonpênh nhưng ông cũng không biết được “nội dung” ra sao và ông Nhơn cũng chỉ “cảm thấy” có chuyện gì khác lạ sắp xảy ra. Sihanouk thoát chết và kế hoạch của ông Nhu bất thành Nhờ xe mang biển số ngoại giao đoàn của ông Phạm Trọng Nhơn nên hai chiếc vai “nguy hiểm” đã vượt qua biên giới và đến tòa Đại diện hoàn toàn tốt đẹp. Tại Sài Gòn, cơ quan tình báo Phủ tổng thống theo dõi từng giây phút với bao nhiêu lo âu hồi hộp. Nếu như bị tình báo Campuchia khám phá thì bang giao Campuchia - Nam Việt lần này sẽ đứt đoạn luôn không còn gì hàn gắn được nữa. Ông Ngô Đình Nhu cùng mấy cộng sự viên thân cận đã tính toán thế này: nếu giết được Sihanouk thì việc đầu tiên phải đưa Sơn Ngọc Thành về Campuchia để làm chủ tình hình. Ngoài mấy điệp viên chủ chốt thì Tòa đại diện Nam Việt Nam không một ai hay biết gì về âm mưu này, kể cả ông đại diện Phạm Trọng Nhơn cũng chỉ được “rỉ tai” sơ qua là sẽ có một vụ nổ lớn. Theo kế hoạch đã dự định, điệp viên Nguyễn Nhơn cải trang thành một nhân viên của nhà thầu Mỹ nơi mà viên kỹ sư Mỹ này phục vụ. Khoảng 9 giờ sáng, điệp viên Nhơn dùng xe hơi vào Hoàng cung xin yết kiến viên Giám đốc Nghi lễ Hoàng cung để trao tặng phẩm của viên kỹ sư Mỹ. Nhơn nói là viên kỹ sư Mỹ khi ghé qua Hong Kong đã mua hai vali tặng phẩm này để gửi tặng Quốc trưởng Sihanouk và ông Giám đốc Nghi lễ. Giám đốc Nghi lễ Hoàng cung Campuchia cũng là chỗ bạn thân của viên kỹ sư Mỹ nên không do dự gì cả và ông vui vẻ nhận hai va li quý giá. Chiếc va li thứ nhất tặng viên Giám đốc Nghi lễ cùng với danh thiếp của viên kỹ sư Mỹ và trên danh thiếp không quên viết mấy dòng thăm hỏi. Sau vụ ám sát hụt này, báo chí Campuchia đã có dịp tường thuật khá đầy đủ. Riêng về phía tình báo Phủ tổng thống lúc bấy giờ được báo cáo nội vụ như sau: Khi viên Giám đốc Nghi lễ mở chiếc va li phần tặng của ông ta thì chiếc vali này chứa đựng toàn tặng phẩm đắt tiền. Sau đó, ông ta đem chiếc va li vào phòng khách riêng của Sihanouk. Chiếc vali này niêm phong kỹ càng đề chữ “Kính tặng Hoàng thái hậu và Quốc trưởng Khmer”, cùng với phong thư đựng tấm danh thiếp của viên kỹ sư Mỹ với những lời lẽ rất đẹp “kính thăm” và chào cáo biệt Hoàng thái hậu và Quốc trưởng Sihanouk. Phòng khách lúc ấy lại có mặt cả hai mẹ con Sihanouk. Nhưng lại nhằm đúng vào giờ Thái tử Sihanouk và Hoàng thái hậu phải ra đại sảnh để tiếp đón phái đoàn sinh viên Trung Quốc cùng đi với một số sinh viên Campuchia. Thái tử Sihanouk vừa cất lời khuyên nhủ sinh viên thì một tiếng nổ kinh hoàng làm rung động cả hoàng cung. Số là, khi Sihanouk và Hoàng thái hậu ra đại sảnh tiếp sinh viên thì có nhẽ, viên Giám đốc mở vali lấy tặng phẩm để dâng Thái tử nên chiếc vali phát nổ, viên Giám đốc Nghi lễ chết tan thây. Cả thủ đô Nonpênh náo động. Buổi phát thanh vào lúc 12 giờ trưa đài VOA cũng như Matxcơva đều loan tin và cho biết vắn tắt Thái tử Sihanouk thoát hiểm, nhưng dân Campuchia lại không tin và cho rằng Sihanouk đã chết tan thây. 12 giờ trưa nghe tin đài VOA, cơ quan tình báo Phủ tổng thống đã lấy làm mừng và sửa soạn thực hiện giai đoạn II, nghĩa là cấp thời đưa Sơn Ngọc Thành về nhưng chỉ ít phút sau, một tài liệu gởi về Sài Gòn cho biết, âm mưu bất thành. Cho đến lúc ấy, Tòa đại sứ Mỹ vẫn chưa được biết tình báo Nam Việt Nam chủ động vụ này. Nhưng chỉ một ngày sau thì báo chí Campuchia đều chĩa mũi dùi vào Mỹ và quả quyết Mỹ âm mưu sát hại Thái tử Sihanouk. Bang giao Mỹ Campuchia lại thêm một lần nữa trở nên căng thẳng. Có một điều lạ là Campuchia không nghi ngờ Sài Gòn. Hoa Kỳ lãnh đủ cơn tai bay vạ gió này. Dư luận báo chí Campuchia lại có dịp được ồn ào và mạt sát Mỹ thậm tệ, nhất là mấy nhật báo La Dépêche Cambodge, Bang Khoeum Monous. Sau đó ít lâu một người Nam Việt bị bắt vì Campuchia tình nghi ông ta là nhân viên tình báo CIA có liên quan đến vụ mưu sát Sihanouk. Thực ra Phạm Quang Tòng (tên đương sự) hết sức oan uổng ông ta chỉ làm nghề viết báo. Đương sự bị kết án tử hình. Mãi gần đến sau cuộc đảo chính của Lonnon ông ta mới được trả tự do. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 68/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Cuộc mưu sát Sihanouk bất thành nên kế hoạch đưa Sơn Ngọc Thành về Nonpênh đành xếp lại Nam Việt Nam bắt đầu nghiên cứu một kế hoạch mới mà Sơn Ngọc Thành sẽ giữ vai trò chủ chốt. Trước vấn đề nan giải này, ông Nhu hỏi bác sĩ Tuyến xem có cắt xén ngân sách và ngoại viện được không. Điều này không thể được vì sẽ lộ ngay và khi Tòa đại sứ Mỹ biết được thì họ sẽ không bao giờ chấp thuận dùng khoản tiền ngoại viện để viện trợ cho họ Sơn. Do đó chỉ còn cách trích trong quỹ đen của Phủ tổng thống. Nếu dồi dào phương tiện thì Sơn Ngọc Thành có đủ khả năng phát triển tổ chức của ông ta đến mức độ lớn mạnh. Nhưng rút cuộc ông ta đành thúc thủ trong một hoàn cảnh hết sức thiếu thốn. Mỗi tháng Phủ tổng thống chỉ có thể viện trợ cho Sơn Ngọc Thành vài ba trăm ngàn bạc mặt. Tuy có điều số tiền này được trao tận tay họ Sơn và ông ta có thể chi tiêu như thế nào tùy ý. Điều đó theo bác sĩ Tuyến đã làm cho Sơn Ngọc Thành rất cảm động vì tuy nhận tiền của Nam Việt Nam nhưng ông ta vẫn không bị xúc phạm vì lòng tự ái quốc gia của một lãnh tụ. Nơi ăn chốn ở và sự di chuyển của Sơn Ngọc Thành hoàn toàn bí mật. Cơ quan CIA của Mỹ cũng biết nhưng không có một phản ứng nào, vì lẽ tiền của Nam Việt Nam tài trợ cho Sơn Ngọc Thành không thuộc ngân sách ngoại viện. Đầu năm 1960, lực lượng họ Sơn quy tụ khoảng hơn 400 cây súng phân tán trong hai vùng mật khu Châu Đốc và Bình Long. Sĩ quan Nam Việt Nam trực tiếp đảm nhận huấn luyện và làm cố vấn cho lực lượng võ trang này. Tuy họ có tinh thần chiến đấu hoàn toàn gan dạ nhưng lại hoàn toàn thiếu về mọi phương diện nhất là vũ khí, quân trang, quân dụng. Trong khi đó Hoa Kỳ thì vũ khí đổ đi không hết, nhưng tuyệt nhiên Hoa Kỳ không viện trợ cho lực lượng của Sơn Ngọc Thành lấy một cây súng Garant. Chính quyền Ngô Đình Diệm cũng chỉ còn cách vơ vét một số khí giới thuộc loại phế thải của Pháp, như MAT 49, MAS 36 để giúp họ Sơn. Nếu nói rằng Mỹ viện trợ vũ khí cho Nam Việt Nam và Nam Việt Nam có toàn quyền sử dụng vũ khí ấy thì không đúng. Cố vấn Mỹ kiểm soát một cách khắt khe nên Phủ tổng thống không thể dùng một khẩu Garant M1 của Mỹ để tặng họ Sơn. Bởi nhất nhất đều không qua được con mắt dòm ngó của tình báo Mỹ. Về phía Tây, Sơn Ngọc Thành được Thái Lan yểm trợ nhưng bản doanh vẫn là Sài Gòn. Trên đây cũng tạm đủ nói lên sự mâu thuẫn và bất đồng giữa Việt - Mỹ. Chủ trương của Hoa Kỳ theo Ngô Đình Nhu là một sự lường gạt xấu xa Kể từ năm 1959, theo bác sĩ Trần Kim Tuyến thì ông Ngô Đình Nhu chủ trương quyết hạ cho bằng được Sihanouk, vì nếu không chính Sihanouk sẽ là một mũi dùi đâm cực mạnh ngang hông Việt Nam Cộng Hòa. Biên giới Việt - Campuchia nếu còn Sihanouk thì đây sẽ trở thành vùng chiến thuật bất khả xâm phạm của Cộng sản. Đối với Sihanouk, ông Nhu chỉ có hai giải pháp: một là lật nhào ông ta, hai là trở lại ve vãn thân thiện với ông ta. Giải pháp ve vãn thân thiện đã bất thành cho nên miền Nam chỉ còn một cách là đương đầu quyết liệt với Campuchia. Con đường này lại đi ngược với chủ trương của Mỹ. Kể từ năm 1960 khi chiến cuộc gia tăng và nhất là trận đánh Kiến Phong (tháng 10-1960) giữa lực lượng chính quy của Cộng sản với tiểu đoàn 1 nhảy dù, người Mỹ mới bắt đầu nhận ra sự thật: Campuchia đã trở thành căn cứ đại an toàn của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lực lượng Cộng sản đã xuất phát từ bên kia lãnh thổ Campuchia tiến qua đánh Kiến Phong. Tuy biết sự thật như vậy nhưng Mỹ vẫn giữ chủ trương ve vãn o bế Sihanouk. Không phải tất cả các chiến lược gia Mỹ không hiểu rõ tầm mức quan trọng của lãnh thổ Campuchia đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Nhưng lúc ấy Washington vẫn còn chủ trương giới hạn cuộc chiến trong cục bộ miền Nam. Đầu năm 1963, với trận Ấp Bắc tuy không có gì đáng gọi là một trận thua lớn (sự thiệt hại của Việt Nam Cộng Hòa được coi là cân bằng) nhưng Hoa Kỳ lại lợi dụng trận đánh này và ồn ào gây áp lực mạnh với Tổng thống Kennedy buộc chính quyền Ngô Đình Diệm phải thay đổi chiến thuật. Cũng từ năm 1963 Hilsman nhận định rằng, phải thay đổi thái độ với Sihanouk nghĩa là chấm dứt giai đoạn o bế ve vãn. Trong khi đó thì ông Ngô Đình Nhu lại làm ngược lại, nghĩa là bắt tay với Pháp tìm ở De Gaulle một điểm tựa, ông Nhu cũng đồng thời cũng muốn hâm nóng lại mối bang giao Việt-Campuchia đã nguội lạnh từ lâu. Hoa Kỳ coi chủ trương này như một mối đe doạ cho thế đứng của họ tại bán đảo Đông Dương. Bởi vì Hoa Kỳ muốn đẩy mạnh cuộc chiến, muốn mở rộng địa bàn hoạt động, thì toan tính của ông Nhu lấy Pháp làm thế tựa, tìm ở Campuchia một thái độ trung lập tích cực (nghĩa là trung lập giữa Việt Nam Cộng Hòa và Bắc Việt) thì chủ trương ấy tự nói lên tính cách đe doạ nguy hiểm đối với toan tính của Hoa Kỳ. Đó cũng là lý do khiến người Mỹ nóng lòng muốn thanh toán ngay Ngô Đình Diệm. Ngày 19-7-1963 Nghị sĩ Wayne L. Morse thuộc Ủy ban Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố. “Việt Nam không đáng nhận được sự hy sinh của một trẻ em Hoa Kỳ”. Ông còn nói rằng, không đồng ý cho một đồng Dollars nào nữa để ủng hộ một chế độ độc tài tàn bạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tại sao như thế? https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 69/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Được nhập quốc tịch Việt người Campuchia năm 1959 coi đó như một thắng lợi Trong vụ tranh đấu Phật giáo 1963, Campuchia được ghi nhận là nước công kích chính quyền Ngô Đình Diệm mãnh liệt nhất. Ngay từ tháng 7-1963, khi cuộc tranh đấu của Phật giáo trở nên mãnh liệt thì Sihanouk đã tìm mọi cách vận động khối người Việt gốc Campuchia tham gia cuộc tranh đấu này với chủ ý lật đổ cho kỳ được chế độ Ngô Đình Diệm. Nhưng Sihanouk đã không thành công như ý muốn. Bởi cộng đồng người Việt gốc Campuchia tại miền Tây vốn có cảm tình đặc biệt với cựu Thủ tướng Sơn Ngọc Thành và dĩ nhiên trong hoàn cảnh lúc ấy Sơn Ngọc Thành phải giữ thế trung lập giữa chính quyền Nam Việt Nam và Phật giáo. Nói đến cộng đồng người Việt gốc Campuchia thì không thể nào bỏ qua thế lực của các sư sãi Campuchia. Các vị sư sãi này luôn luôn là các vị thủ lãnh có uy quyền đối với đồng bào họ và đa số lại có cảm tình đặc biệt với Sơn Ngọc Thành. Khi phái đoàn Phật giáo đến yết kiến Tổng thống Diệm vào ngày 15-5 (sau vụ nổ Đài phát thanh Huế) Hòa thượng Lâm Em đã phát biểu: “Được gặp Tổng thống như thế này tôi thấy tốt đẹp lắm”. Từ đó, tuy có tiếng trong Ủỷ ban Liên phái nhưng Hòa thượng Lâm Em, cũng như cư sĩ Sơn Thái Nguyên vẫn giữ thái độ ôn hòa đối với chính quyền Ngô Đình Diệm nếu không muốn nói là họ vẫn giữ thái độ thân thiện với chính quyền. Nhờ vậy trong suốt cuộc đấu tranh chống Phật giáo năm 1963 người Việt gốc Campuchia tại miền Tây vẫn thụ động. Những tỉnh có nhiều người Việt gốc Campuchia (chiếm đa số) như ở Trà Vinh, Sóc Trăng đều không có một phản ứng đáng ghi nhận. Trong bốn vùng chiến thuật thì vùng bốn nhất là miền Tây kể từ tháng 5 đến ngày 1-11-1963 được coi là yên tĩnh về Phật giáo. Mặc dù Sihanouk có sự hỗ trợ của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam song ông vẫn không sao khích động được cộng đồng người Việt gốc Campuchia để họ đứng lên chống lại Chính phủ Ngô Đình Diệm. Được như vậy là nhờ ảnh hưởng của Sơn Ngọc Thành và uy quyền lớn lao của Hòa thượng Lâm Em, vị thủ lĩnh của các sư sãi Campuchia tại miền Nam. Điều đáng kể là chính quyền Ngô Đình Diệm nắm vững cộng đồng người Việt gốc Campuchia chính là nhờ trục Lâm Em, Sơn Thái Nguyên, Sơn Ngọc Thành. Năm 1950 đã có đề nghị yêu cầu Tổng thống Diệm đặt người Việt gốc Campuchia thành thiểu số (như đồng bào Thượng) các thủ lãnh của họ phản đối. Hòa thượng Lâm Em cũng như sư sãi Campuchia cho rằng như thế là “hạ nhục” người Campuchia. Đề nghị này được hủy bỏ, các thủ lãnh Campuchia coi đó như một chiến thắng và một ân huệ mà Tổng thống Diệm dành cho họ. Với chính sách ve vãn Campuchia và nắm vững cộng đồng Campuchia tại miền Tây, Diệm đã dành cho họ nhiều ưu tiên và đó cũng là cách nhằm nâng cao uy tín của Sơn Ngọc Thành và vuốt ve lòng tự ái dân tộc của cộng đồng người Campuchia vốn có nhiều mặc cảm với người Việt. Khi người Campuchia được nhập quốc tịch Việt họ coi như một thành công đáng kể, tức là được đối xử ngang hàng như người Việt. Có điều rất khó hiểu là vào năm 1954 người Campuchia lại muốn trở thành dân tộc thiểu số tại miền Nam. Theo sự tiên liệu thì đây cũng chỉ là một chiến thuật nằm trong sách lược của ngoại bang muốn biến người Việt gốc Campuchia thành dân thiểu số, rồi từ nhãn hiệu thiểu số sẽ dễ dàng bước qua một giai đoạn khác tức là giai đoạn phát động phong trào tự trị của người Campuchia tại miền Tây. 1963 Sihanouk được dịp trả thù. Kể từ năm 1959 Thái tử Sihanouk tìm mọi cách phát triển uy tín và cơ sở mật tại hạ tầng cộng đồng người Việt gốc Campuchia nhưng như trên đã viết uy tín của Thái tử Sihanouk vẫn mờ nhạt trước một Sơn Ngọc Thành và Lâm Em. Vụ tranh đấu Phật giáo năm 1963 là một thất bại lớn của Sihanouk tại miền Tây vì Sihanouk không đạt được âm mưu khuấy động tại miền Tây với danh nghĩa tranh đấu cho năm nguyện vọng của Phật giáo. Trong khi đó tại Nonpênh, Sihanouk dùng mọi nỗ lực để yểm trợ tinh thần cho cuộc tranh đấu của Phật giáo miền Nam. Báo chí từ phe Campuchia hữu đến phe tả đều nhất loạt lên án chính quyền Ngô Đình Diệm. Điển hình là nhật báo Neak cheat Niyum (tờ báo của Chính phủ) kể từ tháng 5-1959 cho đến 2-1963 nhật báo này mở cả một chiến dịch tấn công chính quyền Ngô Đình Diệm về vụ gọi là “kỳ thị và tàn sát Phật giáo”. Ngôi chùa Onnalum, một ngôi chùa lớn mới được xây cất tại Nonpênh đã trở thành trung tâm tranh đấu của Phật Giáo tại Campuchia. Trong buổi lễ khánh thành ngôi chùa này vào đầu tháng 6-63, Thái tử Sihanouk đã tuyên bố những lời nảy lửa lên án Chính phủ Ngô Đình Diệm: “Chính phủ Diệm sau khi tàn sát nhiều sư sãi và Phật tử Campuchia tại miền Nam nay lại ngược đãi và tàn sát cả đồng bào họ theo Phật giáo”. Ngày 9-6-63 Chính phủ Campuchia tổ chức một cuộc mít tinh tại chùa Onnalum để gọi là biểu dương tinh thần đoàn kết với Phật tử miền Nam để phản kháng chính quyền Ngô Đình Diệm về sự đàn áp Phật giáo. Hội Việt kiều Phật giáo do ông Trần văn Được làm Chủ tịch cũng được Chính phủ Campuchia dành mọi sự dễ dãi trong công cuộc vận động Việt kiều chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 16-6-1963 Chính phủ Campuchia lại cho phép hội này được tổ chức một cuộc biểu tình rầm rộ trước tòa Đại diện Việt Nam Cộng Hòa tại Nonpênh để lên án chính quyền Ngô Đình Diệm và đế quốc đàn áp Phật giáo Việt Nam. Trước đó ba ngày tức là ngày 13-6 Campuchia bày tỏ lòng căm phẫn của Chính phủ và nhân dân Campuchia trước các vụ đàn áp đối với người Campuchia tại miền Nam và cũng bày tỏ niềm âu lo trước các biện pháp đàn áp Phật giáo và Phật tử của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong văn thư kể trên Chính phủ Campuchia đòi hỏi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải tôn trọng các nguyên tắc của bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Tổng trưởng Ngoại giao Campuchia đã chính thức mời viên Đại lý tòa Đại diện Việt Nam Cộng Hòa đến Bộ Ngoại giao và trao cho ông này một văn thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa. Trong văn thư ngày 16-6 Sihanouk tuyên bố hỗ trợ Chính phủ Tích Lan của bà Sikimawo Bandanaike về việc vận động với U- https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 70/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm thant, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc để đưa vụ Phật giáo Việt Nam ra trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Khi Sihanouk tranh đầu cho Phật giáo Việt Nam Cộng Hòa Đối với Sihanouk thì vụ Phật giáo năm 1963 là một cơ hội ngàn vàng để ông có dịp tố cáo Việt Nam Cộng Hòa về một điều giả tạo, nhưng Sihanouk vẫn cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm đã đàn áp giết hại người Campuchia và các sư sãi Campuchia tại miền Nam. Sihanouk gắn liền lời tố cáo này với chiêu bài “ủng hộ triệt để cuộc tranh đấu của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam” Sihanouk không ngừng phát động cả một chiến dịch báo chí tấn công và bôi đen chính quyền Ngô Đình Diệm, trong khi đó cộng đồng người Việt gốc Campuchia lại tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt. Nhờ vậy mà Vùng bốn chiến thuật không gặp một khó khăn nào trong vụ tranh đấu, ngoại trừ một vài địa phương như Bến Tre và Mỹ Tho nhưng lại rất không đáng kể. Căn cứ theo tài liệu thì trong suốt thời gian tranh đấu của Phật giáo, Vùng bốn chiến thuật chỉ phải đối phó với áp lực quân sự mạnh mẽ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. “Miền Tây coi như không có vụ tranh đấu của Phật giáo nếu không theo dõi báo chí và đài VOA và BBC”. Khi nhận được ý kiến của Tổng thống Diệm cũng như Bộ trưởng Bùi văn Lương, ông đại biểu Nguyễn văn Vàng cũng đã trình bày rõ ràng như vậy và Tướng Huỳnh văn Cao, Tư lệnh Vùng 4 cũng xác nhận như vậy trong tập hồi ký của ông mới xuất bản gần đây. Tại Nonpênh ngày 2-11-1963 tức là trong ngày đảo chính và trước cái chết của hai anh em Ngô Đình Diệm Thái tử Sihanouk đã biểu lộ niềm hân hoan chưa từng có. Đêm 2-11 Sihanouk mở tiệc liên hoan trong Hoàng cung. Tờ La dépêche du Cambodge số ra ngày 3 cho rằng, cái chết của Nhu, Diệm đã đem lại cho nhân dân Campuchia một niềm vui mừng vô hạn. Thái tử Sihanouk chính thức tuyên bố. “Ngô Đình Diệm, kẻ thù của nhân dân Campuchia và Phật giáo đã đền tội... đó là ngày hội lớn của lịch sử Đông Dương”. Liên tiếp trong ba ngày liền, Thái tử Sihanouk mở tiệc liên hoan làm như chính ông ta ra tay hạ được kẻ thù không đội trời chung. Sự thực thì anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm chính là kẻ thù không đội trời chung của Sihanouk. Sihanouk biết rõ chính quyền Ngô Đình Diệm đã tài trợ và dung dưỡng tổ chức Khmer tự do của Sơn Ngọc Thành, chỉ một điều này đã đủ khiến Sihanouk căm thù chính quyền Ngô Đình Diệm, bởi vì Sơn Ngọc Thành đối với Sihanouk là kẻ thù không đội trời chung. Sihanouk đã dùng đủ cách để hạ sát Sơn Ngọc Thành kể cả âm mưu dùng bàn tay phòng Nhì Pháp và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Nhưng Sihanouk không thể làm gì được họ Sơn bởi chính cái uy tín lớn lao của họ Sơn trong cộng đồng người Campuchia ở miền Nam đã tạo nên bức tường thành bảo vệ Sơn và tổ chức Khmer đỏ tự do. Mối thù biên giới Trong chuyến công du tại Việt Nam năm 1957 Thái tử Sihanouk đã đặt vấn đề biên giới Việt-Campuchia với ông Nhu. Kết quả là Sihanouk và ông Nhu đã thỏa thuận như thế này “Hai Chính phủ Nam Việt - Campuchia sẽ không đặt vấn đề biên giới như một tiên quyết cho việc thiết lập bang giao Việt - Campuchia. Tuy nhiên hai nước vẫn mặc nhiên công nhận thỏa hiệp Dupré-Norodom 1873”. Theo thỏa hiệp Dupe-Norodom ký kết giữa Thống đốc Nam kỳ (Đô đốc Dupe) và Campuchia ông Hoàng Norodom thì biên giới Việt Campuchia được phân định bằng 124 cột trụ kéo dài từ ngã ba biên giới cho đến phía bắc kênh Vĩnh Tế qua sông Tonly tree. Soc Stroc tum, Ban Chrung, Paplan. Kết quả cuộc hội đàm giữa Sihanouk và Ngô Đình Nhu là Campuchia sẽ không công nhận chính quyền miền Bắc nhưng vì tôn trọng tinh thần Hiệp ước Genève 1945, Campuchia chỉ thiết lập bang giao với Việt Nam trên hàng Đại diện ngoại giao (với cấp bậc Đặc sứ). Ít lâu sau Sihanouk làm ngược lại lời cam kết khi ông ta tính chuyện kết thân với chính quyền Bắc Việt và Trung cộng. Sihanouk lại đưa ra hai mục tiêu để gây hấn với chính quyền Ngô Đình Diệm. Trước hết là vấn đề biên giới, Sihanouk lại phủ nhận thỏa hiệp Dupré. Sihanouk thường lên tiếng tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm đã vi phạm và lấn chiếm lãnh thổ Campuchia, sau nữa Sihanouk lại phủ nhận các nghị định mà các Toàn quyền Đông Dương của Pháp trước đây đã ký ấn định gianh giới các tỉnh Tây Ninh và Prey Veng, Thủ Dầu Một và Kompong Chàm, Châu Đốc... Những https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 71/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm năm 1959, 1960, 1961 tại các vùng biên giới Việt - Miên, lính Miên được lệnh nhổ trụ cột cắm sâu vào lãnh thổ Việt Nam cả 6, 7 cây số. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa lại phải mở cuộc hành quân nhổ cột trụ đem chôn vào vị trí cũ. Cứ mỗi lần như thế Sihanouk lại hô hoán là quân đội Việt Nam Cộng Hòa vi phạm biên giới. Vấn đề thứ hai là người Miên tại miền Nam, Sihanouk chống lại việc Việt tịch hóa người Campuchia. Trên đây chúng tôi trình bày sơ qua về mối cừu hận của Sihanouk đối với chế độ Ngô Đình Diệm và đó cũng là lý do khiến cho Sihanouk vô cùng hân hoan trước cái chết của anh em Tổng thống Diệm. Sihanouk hận thù chính quyền Ngô Đình Diệm vì chính quyền này đã dung dưỡng và hỗ trợ Sơn Ngọc Thành. Một điều khác nữa là đã có một lần chính quyền Ngô Đình Diệm âm mưu lật đổ chế độ Sihanouk vào tháng giêng năm 1959. Giai đoạn đầu Tổng thống Diệm vẫn giữ vững chủ trương giao hảo tốt đẹp với Sihanouk (1957-1959). Vào cuối năm 1956 Việt - Campuchia đồng ý thiết lập bang giao trên cấp bậc Đặc sứ. Tổng thống Diệm hỏi ý kiến Phó tổng thống Thơ về việc này và yêu cầu ông chọn một nhân vật giữ chức vụ Đặc sứ Việt Nam đầu tiên tại Campuchia. Tổng thống Diệm đưa ra ba tiêu chuẩn để ông Thơ dễ dàng lựa chọn: 1) Viên Đặc sứ ăn nói phải hoạt bát lanh lẹn và giỏi về Pháp ngữ, 2) Am tường nội tình Campuchia, 3) Có mưu mẹo tháo vát và quen biết nhiều các giới Campuchia Pháp. Phó tổng thống Thơ đề bạt người bạn tâm giao của ông - Ngô Trọng Hiếu, lúc ấy đang giữ chức vụ Tổng giám đốc Ngân khố. Cũng nên ghi thêm là trong suốt chín năm cầm quyền Tổng thống Diệm rất tin cẩn ông Thơ. Một khi ông Thơ đề bạt ai thì người đó có rất nhiều hy vọng được bổ nhậm. Mặc dầu bổ nhậm một Đặc sứ đáng lý ông Tổng thống phải hỏi ý kiến của ông Bộ trưởng Ngoại giao, nhưng Tổng thống Diệm vẫn có thành kiến là Phó tổng thống Thơ am tường về miền Nam và nội tình Campuchia. Khi Tổng thống Diệm nói: “Người Cụ Phó giới thiệu”. Câu nói đó có nghĩa là người đó đáng tin cẩn của chế độ. Người duy nhất mà ông Thơ đề bạt giữ chức vụ Đặc sứ tại Campuchia là ông Hiếu (hai người này được coi như đôi bạn cố tri, khi ông Thơ lãnh Tỉnh trưởng Long Xuyên thì ông Hiếu giữ chức Trưởng ty Ngân khố) Phó tổng thống Thơ có trình bầy với Tổng thống Diệm là ông Ngô Trọng Hiếu hội đủ những tiêu chuẩn mà Tổng thống Diệm đưa ra. Ông Thơ cũng nhấn mạnh là Ngô Trọng Hiếu nói tiếng Campuchia rất thông thạo từng sống nhiều năm tại Campuchia và là một viên chức của ngành Ngân khố Pháp tại Campuchia. Tổng thống Diệm đồng ý, nhưng sau đó hỏi lại ý kiến ông Nhu thì ông Nhu cho rằng “Tùy Tổng thống, cắt cử ai cũng được, ăn thua là chính sách của mình, tôi thấy Ngô Trọng Hiếu cũng được”. Ông Nhu thắc mắc: “Hiếu còn hơn là dân Tây mà?”. Tổng thống Diệm nói một hơi dài như thể biện minh cho ông Hiếu: “Hắn hồi Việt tịch rồi”. Ông Nhu đáp nhát gừng: “Như vậy cũng được rồi”. Trước khi chính thức bổ nhậm, Ngô Trọng Hiếu phải trải qua một cuộc thi “vấn đáp” mà giám khảo là Tổng thống Diệm. Sau khi hỏi kỹ về tình hình Campuchia Tổng thống Diệm chất vấn Ngô Trọng Hiếu: “Tình hình như vậy thì đối với Campuchia bây giờ ông sẽ tính sao”. Vốn là người nói năng lưu loát ông Hiếu đáp ngay: “Trình cụ, đối với Miên thì tôi có hai điều căn bản, một là dùng tình cảm, hai là mua chuộc hối lộ họ”. Tổng thống Diệm hỏi: “Dùng tình cảm như thế nào”. Ông Hiếu đáp: “Người Miên có nhiều mặc cảm với nguời Việt lắm vậy ta phải dùng mọi cách để thân thiện với họ, đề cao họ để cho họ thấy rằng ta coi họ như bạn bè”. Tổng thống Diệm lại căn vặn: “Lúc nãy ông nói hối lộ vậy hối lộ như thế nào?”. Ông Hiếu đáp: “Thưa cụ xin hãy tùy cơ ứng biến, bà mẹ Sihanouk ham được quà biếu lắm”. Tổng thống Diệm hỏi: “Ông có quen ai ở bên đó không?”. Ngô Trọng Hiếu đáp: “Dạ thưa, quen nhiều, tôi có quen ông hoàng Monireth”. Tổng thống Diệm hỏi tiếp: “Ông ta là người như thế nào”. Ông Hiếu đáp: “Theo thứ tự trong hoàng tộc vua Miên thì Hoàng thân Monireth mới là nguười nối ngôi vua Cao Miên chứ không phải Sihanouk”. Tổng thống Diệm lại hỏi: “Ông ta với Sihanouk như thế nào”, ông Hiếu đáp: “Hoàng thân Monireth là cậu ruột của Sihanouk. Thời Pháp Monireth là Trung úy trong Quân đội Lê dương của Pháp, ông ta rất đuợc mẹ Sihanouk tin cẩn”. Tổng thống Diệm hỏi: “Bà ta như thế nào”, ông Hiếu đáp: “Thưa, bà ta nổi tiếng là người tham lam hay nhận hối lộ”. Tổng thống Diệm lại hỏi: “Ông còn quen ai khác nũa không?”, ông Hiếu đáp: “Thưa, còn một vài người bạn thân như Salusary Yan Sambaur”. Tổng thống Diệm gật đầu: “Thôi được ông về lo thu xếp rồi sang bên đó giúp tôi”. Tổng thống Diệm thắc mắc: “Ông sang bên đó ai có thể thay ông làm Tổng giám đốc Ngân Khố?” Ông Hiếu đáp: “Nhân viên cao cấp của ngành ngân khố hiện nay hầu hết còn giữ Pháp tịch vậy xin trình Tổng thống cho Trần văn Minh tạm thời thay quyền Tổng giám đốc Ngân khố”. Tổng thống Diệm nói vắn tắt: “Thôi được, ông sang bên đó cố gắng làm sao cho tốt đẹp”. Trước khi ra về ông Hiếu được Tổng thống Diệm chỉ thị thêm: “Mình phải tạo được thế liên minh với Miên, Lào thì hai nước ấy cùng một khối với mình thì mình sẽ đủ sức chống Cộng sản”. Ngô Đình Nhu và vụ đảo chính hụt của Dap Choun Khi tòa Đại diện Việt Nam Cộng Hòa được thiết lập chính thức mở đầu cho quan hệ bang giao tốt đẹp giữa Việt - Campuchia thì Pháp cũng như chính quyền Hà Nội bắt đầu lo ngại. Tòa Đại diện Việt Nam Cộng Hòa đã thành công qua giai đoạn “thân thiện và mua chuộc”, theo đúng chỉ thị của Tổng thống Diệm “Tốn phí thế https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 72/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm nào cũng được miễn sao mua chuộc được Miên”, rồi lần về Sài Gòn, Ngô Trọng Hiếu mua sắm đủ thứ của ngon vật lạ để đưa sang Nonpênh “hối lộ” Hoàng hậu Kossmack. Bà ta cũng như Hoàng thân Monireth đều có cảm tình tốt đẹp với người Việt. Từng giỏ soài, cam, ổi xá lị của ông Hiếu dâng tặng Hoàng hậu Kossamack đã có tác dụng ngay. Sihanouk qua ảnh hưởng của người mẹ đã có một thái độ tốt đẹp và cởi mở đối với chính quyền Sài Gòn. Tòa Đại diện Việt Nam Cộng Hòa sử dụng phương thuật “phóng tài hóa thu nhân tâm” nên không những hối lộ quà cáp với Hoàng hậu Kossamack mà còn mua chuộc các giới chức cao cấp Campuchia cũng như Hoàng thân Moniret bằng cách biếu quà, tổ chức tiệc tùng săn bắn... Nhờ vậy, Ngô Trọng Hiếu móc nối được tướng Dap Choun mệnh danh là Phó vương Campuchia, một mình ông ta thống lãnh cả vùng Xiêm Riệp miền Tây Campuchia. Giữa năm 1958, Sihanouk thay đổi chính sách ngoại giao... việc đầu tiên là Sihanouk chấp thuận cho Trung cộng đặt tại Nonpênh một đại diện thương mại. Đồng thời Sihanouk cũng tìm cách mở rộng bang giao với khối Cộng và bắt tay với chính quyền Hà Nội. Cuối năm 1958, Sihanouk thiên hẳn về khối Cộng. Sự thực Sihanouk chủ tâm gây hấn về vấn đề biên giới Việt - Campuchia, về việc Việt tịch hóa người Campuchia cũng như đòi lại mấy tỉnh miền Tây chẳng qua chỉ là một chiến thuật gây rối và tạo áp lực trước hết để chính quyền Ngô Đình Diệm không tạo được cơ hội gây rối nội bộ Miên, sau nữa là nhắm đến việc sửa soạn đón tiếp “ông bạn” Bắc Việt. Sihanouk đã từng tuyên bố “Cộng sản Bắc Việt và Việt Nam Cộng Hòa đều nguy hiểm như nhau” nhưng Bắc Việt là mối nguy hiểm còn ở đằng xa - Việt Nam Cộng Hòa mới là mối nguy hiểm trực tiếp với Campuchia. Rõ rệt nhất là Việt Nam Cộng Hòa tài trợ và dung túng tổ chức Khmer tự do của Sơn Ngọc Thành, họ Sơn là một ám ảnh lớn đối với Sihanouk, đó cũng là mối thù của Sihanouk đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhưng không có mối thù nào lớn cho bằng vụ Dap Choun đã gây nên mối cừu hận giữa Sihanouk và chính quyền Ngô Đình Diệm. Đó cũng là lý do cho ta thấy tại sao liên tiếp trong ba ngày đảo chính 1-11-1963 Sihanouk đã tổ chức liên hoan như đại hội hoa đăng để ăn mừng Diệm, Nhu bị thảm sát. Tướng Dap Choun và 100 kilô vàng của Việt Nam Cộng Hòa Vụ Dap Choun diễn tiến như thế nào? Ông Đặc sứ Ngô Trọng Hiếu trở về Sài Gòn trong chiều hướng mới của Sihanouk đối với Cộng sản Bắc Việt và Campuchia với chiều hướng này sẽ là mối đe doạ lớn cho Việt Nam Cộng Hòa. Ông Ngô Đình Nhu chỉ thị nếu không kéo được Sihanouk về phe mình và nếu Sihanouk trung lập thân Cộng thì chỉ còn cách mưu đồ hạ bệ ông ta. Ông Ngô Trọng Hiếu đề nghị nên làm một “cú” đảo chính Sihanouk. Về đề nghị này, Tổng thống Diệm hỏi: “Ai có thể làm được?”. Ngô Trọng Hiếu đáp: “Trình cụ Tướng Dap Choun có thể làm được”. Tổng thống Diệm lại hỏi ông Hiếu: “Vai trò của Dap Choun hiện nay ra sao?”. Ông Hiếu trình bày: “Tướng Dap Choun nắm hết quyền bính tại miền Tây Campuchia, lực lượng phòng vệ tại Hoàng cung Nonpênh đều là tay chân của Dap Choun” Tổng thống Diệm đồng ý: “Ông cứ làm đi, liên lạc với Dap Choun xem sao”. Trở lại Campuchia, ông Ngô Trọng Hiếu bắt liên lạc ngay với tướng Dap Choun. Trong một chuyến đi săn tại khu rừng phía Bắc Xiêm Riệt, ông Hiếu đi với Dap Choun và tìm lời ngỏ ý... Tướng Dap Choun đang có chuyện bất mãn với Sihanouk và cho rằng Sihanouk chưa đủ trưởng thành để lãnh đạo. Dap Choun thuộc phe quân phiệt cực hữu Campuchia và ông ta chống lại chủ trương trung lập thân Cộng của Sihanouk. Dap Choun lại có cô vợ bé người Việt mà ông ta đang sủng ái, chính người vợ bé này đã giúp Tòa Đại diện Việt Nam Cộng Hòa trong nhiệm vụ giao liên để thuyết phục Dap Choun. Sau nhiều lần gặp gỡ và thảo luận, Tướng Dap Choun đã đồng ý với Đặc sứ Ngô Trọng Hiếu về kế hoạch đánh chiếm Campuchia và lật đổ Sihanouk. Tướng Dap Choun ngỏ ý, ông cần một số dollars hoặc vàng để làm phương tiện dưỡng quân trong vòng hai tháng. Điều kiện này không có gì quá khó khăn và ông Ngô Trọng Hiếu trở về Sài Gòn trình với Tổng thống Diệm và ông Nhu. Tổng thống Diệm nói đơn giản: “Nếu thấy làm được thì cứ làm, tổn phí cũng phải ráng chịu cho nó xong việc”. Ông Nhu cho mời bác sĩ Tuyến vào phòng để thảo luận cho kỹ lưỡng cân nhắc lợi hại trước khi bắt tay hành động. Kế hoạch này tuyệt đối bí mật không một nhân vật cao cấp nào được biết rõ ngoại trừ Phó tổng thống Thơ, ông Nhu, ông Tuyến và ông Hiếu. Vấn đề khó khăn nhất là tìm đâu ra 100 kilo vàng để tài trợ cho https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 73/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Dap Choun? Điều này Tổng thống Diệm trao cho Phó tổng thống Thơ giải quyết vì ông Thơ còn là Bộ trưởng Kinh tế, nếu rút 100 kilo vàng trong số trừ kim ngân khố sẽ không ai để ý, nghi ngờ và sau đó sẽ tìm cách giải quyết. Phó tổng thống Thơ đã góp công đắc lực trong vụ này. Một trăm kilo vàng được đóng vào thùng, niêm phong cẩn mật và tự tay ông Hiếu lái xe đưa lên Nonpênh, rồi từ đây ông Hiếu dùng xe hơi chở lên tận Xiêm Riệt trao tận tay cho tướng Dap Choun. Trong khi đó thì Phủ tổng thống cũng gửi lên Xiêm Riệt hai chuyên viên. Hai chuyên viên này đáp máy bay AIR Việt Nam lên thẳng Xiêm Riệt qua lộ trình Sài Gòn - Nonpênh. Hai chuyên viên này không biết mặt ông Hiếu và cũng không rõ Chính phủ Việt Nam toan tính gì. Hai chuyên viên vô tuyến ăn ở ngay trong dinh Thống đốc tỉnh Xiêm Riệt. Tại đây, đặt một điện đài liên lạc thẳng với Sài Gòn và Tòa đại diện Việt Nam. Đặc sứ Ngô Trọng Hiếu vẫn tiếp tục liên lạc bí mật với tướng Dap Choun và người em của tướng Dap Choun cũng là dân biểu Quốc hội Tưởng Dap Choun khi nhận được 100 ki lo vàng đã đánh một văn điện cảm ơn Tổng thống Ngô Đình Diệm và cho biết ông đã nhận được quà biếu. Từ đầu tháng 1-1959 hàng ngày cứ lúc 7 giờ sáng, 12 giờ trưa và 9 giờ đêm, điện đài vô tuyến từ dinh Dap Choun vẫn gửi tin tức đều đặn về cơ quan tình báo Phủ tổng thống. Phía Dap Choun cũng đã sửa soạn kế hoạch tiến đánh Nonpênh. Lần gặp gỡ cuối cùng giữa Dap Choun và Ngô Trọng Hiếu nhằm ngày 10-1-1959. Dap Choun cho ông rõ là công việc mưu đồ đang tốt đẹp và hai bên ấn định ngày H sẽ ra tay. Tại Sài Gòn, ông Nhu cũng như bác sĩ Tuyến chỉ còn thảo luận về việc đem Sơn Ngọc Thành trở lại Nonpênh. Một khi cuộc đảo chính bùng nổ thì lực lượng Quân khu V và Quân khu II sẽ động binh tiến về biên giới giúp Dap Choun nắm khu vực miền Đông và Đông bắc Campuchia. Sơn Ngọc Thành lại qua liên lạc với chính quyền Thái Lan để hỗ trợ ông ta về phía Tây. Cũng vì Sơn Ngọc Thành qua Thái Lan nên ngày H phải trở lại và đó cũng là nguyên nhân làm cho âm mưu bị bại lộ. Hai điệp viên Việt Nam Cộng Hòa bị xử tử Nếu ngày H theo đúng kế hoạch và thời hạn ấn định thì Sihanouk không kịp trở tay. Như trên đã viết sở dĩ phải lùi lại thêm 10 ngày nữa chỉ vì còn chờ đợi cho Sơn Ngọc Thành đi tiếp xúc với nhà cầm quyền Thái Lan. Trong thời gian này. Có lẽ tướng Dap Choun sơ hở và quá chủ quan cho nên âm mưu đảo chính lọt đến tai Tòa đại sứ Pháp. Dĩ nhiên là Pháp phải cấp báo cho Sihanouk. 12 giờ đêm ngày 21, đại sứ Pháp cùng đại sứ Nga vào Hoàng cung gặp Sihanouk và tiết lộ âm mưu đảo chính của Dap Choun. Hai giờ sau, Sihanouk cho lệnh động binh trao cho tướng Lon Non thống lãnh lực lượng Dù mở cuộc tấn công chớp nhoáng thành phố Xiêm Riệt, 6 giờ sáng tướng Dap Choun còn đang ngủ, quân của tướng Lon Non đã tràn ngập thành phố Xiêm Riệp. Dap Choun không kịp trở tay, ông ta cải trang và đã trốn thoát. Quân của Lon Non chiếm dinh Thống đốc Xiêm Riệt và bắt được đầy đủ tang vật gồm 100 ki lo vàng, hai chuyên viên Việt Nam và đài vô tuyến cùng một số vũ khí. Khi quân của tướng Lon Non tiến về Xiêm Riệt, Tòa đại sứ Việt Nam biết rõ nhưng đành bó tay vì không còn một phương cách nào cấp báo cho Dap Choun. Tại Sài gòn theo thông lệ 7 giờ mỗi sáng đều nhận được tín hiệu từ dinh Dap Choun nhưng suốt buổi sáng hôm đó bặt tin. Cơ quan tình báo Phủ tổng thống đã linh cảm thấy nguy cơ...âm mưu lật đổ Sihanouk chắc là bất thành. Ngày hôm sau, Thái tử Sihanouk mời tất cả ngoại giao đoàn lên Xiêm Riệt xem chiến lợi phẩm trong đó có Ngô Trọng Hiếu. Ông Hiếu ở thế tiến thoái lưỡng nan, nhưng cuối cùng vẫn quyết định đi theo phái đoàn Ngoại giao cùng với toàn thể nội các Campuchia. Ngôi sao Lon Non bắt đầu rực sáng. Đó là thành tích huy hoàng của ông đối với Thái tử Sihanouk. Từ thành tích này, tướng Lon Non trở nên một cận thần có thế lực nhất sau Sihanouk. Tại dinh Thống đốc Xiêm Riệt, Sihanouk vênh vang đắc thắng nhưng không ngớt lời thóa mạ “kẻ thù dân tộc Khmer” mà Sihanouk không nêu đích danh Việt Nam Cộng Hòa nhưng ám chỉ bằng những danh từ “tay sai đế quốc...”. Sihanouk trình bày tất cả bằng chứng 100 ki lo vàng và hai điệp viên Việt Nam Cộng Hòa cùng Điện đài. Sihanouk quay về phía Ngô Trọng Hiếu và hỏi: “Thưa ngài Đại diện. Ngài nghĩ thế nào về nhũng bằng chúng rõ rệt này”. Ông Hiếu cố làm vẻ thản nhiên đáp: “Thưa Thái tử Quốc trưởng chúng tôi đến đây để nghe ngài trình bày nên không có gì để trả lời cả”. Ngoại giao đoàn im phăng phắc... Thái tử Sihanouk không biết nói sao nhưng bằng chứng thật rõ rệt, 100 ki lo vàng còn giữ nguyên dấu hiệu của ngân khố Việt Nam Cộng Hòa. Hai chuyên viên vô tuyến là người Việt, lại mang theo giấy thông hành Việt Nam Cộng Hòa. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 74/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Tuy vậy Sihanouk vẫn không lên án đích danh Việt Nam Cộng Hòa mặc dù ông ta đã biết rõ tường tận từ bằng chứng cụ thể đến âm mưu kế hoạch. Khi Ngô Trọng Hiếu và Ngoại giao đoàn được mời đến quan sát hai chuyên viên vô tuyến người Việt (bị trói chặt tay) ông Hiếu đưa tay tát yêu trên má họ và mỉm cười không nói một lời nào. Hai chuyên viên này cũng không biết ông là Đặc sứ của Việt Nam. Ít lâu sau họ bị kết án tử hình và hành quyết ngay. Riêng tướng Dap Choun trốn thoát vào rừng, nhưng ông ta vốn nghiện thuốc phiện và ôm cả thuốc nằm gục dưới một gốc cây. Lực lượng Dù của tướng Lon Non bắt gặp và hạ sát Dap Choun tại chỗ. Tại Sài Gòn, Tổng thống Diệm cũng như ông Nhu đều phập phồng lo âu cho sứ mạng của Đặc sứ Hiếu, vì biết đâu Sihanouk có thể làm càn. Nhưng trái lại Sihanouk chỉ yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa triệu hồi Ngô Trọng Hiếu. Linh mục François từ Nonpênh qua vào cuối tháng 7-1963. Trước khi đặt chân lên thủ đô miền Nam, Linh mục có cảm tưởng Sài Gòn đang là một hỏa ngục thiêu đốt hàng ngàn sư sãi và Phật tử. Sở dĩ có cảm tưởng như vậy vì thông qua báo chí phương Tây và nhất là những lời đồn đại và dư luận báo chí tại Nonpênh. Linh mục tuy vẫn tin tưởng nơi cá nhân Tổng thống Diệm, nhưng Linh mục cảm thấy ghê tởm những trại tù lộ thiên “giam hàng ngàn Phật tử bỏ đói, phơi nắng và bị tra tấn rất dã man họ”. Trong cuộc gặp gỡ Linh mục Francois và Thủ tướng (hoàng thân Norodom Kantol) chính Thủ tướng Kantol đã nói như vậy. Nhưng sự thật có như vậy không? Linh mục Francois lưu ngụ tại Sài Gòn hai tuần lễ và tìm mọi cách để điều tra xem chính quyền Ngô Đình Diệm đã đàn áp Phật giáo đến mức độ nào? Trong cuộc gặp gỡ Thủ tướng Kantol ông ta có nói với Linh mục: “Thái tử Quốc trưởng và Chính phủ Campuchia rất lo ngại cho số phận của hàng trăm ngàn Phật tử Campuchia thuộc giáo phái Theravada nếu chính quyền Ngô Đình Diệm không ngừng đàn áp Phật tử thì các nước Phật giáo Á Châu sẽ có một thái độ quyết liệt và có thể tiến đến một hành động, chúng tôi sợ rằng lúc ấy sẽ bất lợi cho tín đồ Thiên Chúa giáo Á châu”. Linh mục đáp: “Chúng tôi rất hổ thẹn có một tín hữu dùng quyền bính Tổng thống mà đàn áp ngược đãi đồng bào Phật tử của ông ta như vậy. Nếu cử như lời Thủ tướng nói thì sự đàn áp này có thật. Chắc chắn Giáo hội Thiên Chúa giáo tại miền Nam sẽ có thái độ”. Thủ tướng Kantol nói: “Cuộc biểu tình ngày 17 vừa qua (17-7) của hàng trăm ngàn Phật tử tại Sài Gòn chính quyền Thiên Chúa giáo thẳng tay đàn áp. Hiện nay có hàng ngàn sư sãi đang bị giam giữ, một số bị thủ tiêu”. Linh mục François lắc đầu: “Tôi không biết phải thưa chuyện với Thủ tướng như thế nào. Nhưng nếu Thủ tướng nói là chính quyền Thiên Chúa giáo thì hoàn toàn là không đúng. Tôi nghĩ chỉ có chính quyền Miền Nam do ông Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Giáo hội Thiên Chúa giáo không liên hệ gì đến công việc của chính quyền đó”. Có lẽ Thủ tướng Kantol cũng biết mình lỡ lời nên mỉm cười, nói: “Xin lỗi cha đó chỉ là cách nói của tôi theo dư luận báo chí. Tuy nhiên Giáo hội Thiên Chúa giáo cũng có trách nhiệm, nhất là vụ “bắn giết” Phật tử lại xảy ra ngay nơi mà nguời anh của ông Diệm làm Tổng giám mục và điều khiển chính quyền”. Linh mục Franiçois: “Tôi có đến thăm giáo khu Huế một vài lần, tôi có thể cả quyết với Thủ tướng là Tổng giám mục Ngô Đình Thục không có một quyền hạn đối với chính quyền do nguời em ông lãnh đạo. Dù nếu có thì Giáo hội cũng không cho phép Tổng giám mục Ngô Đình Thục được làm như vậy”. Thủ tướng Kantol có vẻ không tin lời cha Francois. Ông ta dẫn chứng qua một vài bài báo của Mỹ và khẳng định rằng “Tổng giám mục Ngô Đình Thục đang chia sẻ một phần lớn quyền hành của ông em và theo chỗ tôi được biết thì Tổng giám mục Ngô Đình Thục đang chỉ huy chiến dịch đàn áp Phật giáo”. Thủ tướng Kantol dịp này cũng tiết lộ là ông mới gặp một Đại diện cao cấp của Chính phủ Hà Nội. Đại diện này đã trao tất cả tài liệu (?) về chiến dịch đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm và đặc biệt về tài liệu “bắn giết giam cầm” hàng ngàn Phật tử tại miền Trung do Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục chỉ huy. Linh mục François hỏi thẳng Kantol: “Ngài Thủ tướng, có thể tin vào tài liệu của chính quyền Cộng sản miền Bắc?” Kantol đáp: “Thưa cha ít nhất thì tài liệu đó cũng giúp Chính phủ Campuchia tìm hiểu được sư thật”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 75/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Bước chân xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, Cha François vẫn còn bí ám ảnh... về những vụ thủ tiêu giam cầm đàn áp. Có đúng như vậy không? Cha François vẫn tin tuyệt đối nơi cá nhân thánh thiện của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng cha cũng bắt đầu nghi ngờ... Cha François bỗng nhớ lại những trang sử đẫm máu của cuộc bách đạo Thiên Chúa giáo dưới thời Thiệu Trị, Tự Đức. Có lẽ vào giữa năm 63 lại tái diễn một cuộc bách đạo như vậy mà nạn nhân lại là sư sãi và Phật tử? Những ngày đầu ở Sài Gòn Linh mục François thấy thành phố không có gì thay đổi nhiều. Tuy nhiên ở đâu đâu cũng âm ỉ như một lò than hồng. Việc đầu tiên là cha đến xin yết kiến Đức Khâm sứ Tòa Thánh. Đức Khâm sứ cũng đang sửa soạn về La Mã. Dịp này Đức Khâm sứ sẽ tường trình với Tòa thánh La Mã về cuộc tranh đấu của Phật giáo cùng thái độ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Gặp Cha François, Đức Khâm sứ tỏ vẻ thất vọng và nói: “Tình hình rất nguy ngập, nếu Tổng thống Diệm không cải tiến thì chắc hẳn chế độ của ông ta sẽ sụp đổ”. Cha François hỏi: “Thưa Đức Khâm sứ ngài có thể dùng uy tín để thuyết phục Tổng thống Diệm không? Con thấy dư luận các nước Á châu không nhũng bất lợi cho chính quyền ông Diệm mà bất lợi cho cả Giáo hội Việt Nam”. Đức Khâm sứ phác một cử chỉ lạnh lùng đáp: “Làm thế nào được? Dù là Tổng thống của một nước dân chủ nhưng con người ông Diệm vẫn là vị Hoàng đế của nước Việt Nam thời xa xưa”. Cha François hỏi: “Lúc này Đức Khâm sử có hay gặp Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục không? Con tin rằng đức cha Ngô Đình Thục sẽ tuân theo lời khuyến cáo của đức cha!” Đức Khâm sứ đáp: “Đã lâu tôi không gặp Ngài. Theo Linh mục Cao văn Luận cho tôi biết thì ngài cũng có một phần trách nhiệm về ‘vụ biến cố này’!” Cha François hỏi: “Vậy thì lời tố cáo của phía Phật Giáo cũng không phải là sai?”. Đức Khâm sứ đáp: “Không sai, nhưng không hoàn toàn đúng. Tôi nói là đức cha Ngô Đình Thục phải chịu một phần trách nhiệm. Đây chỉ là trách nhiệm tinh thần đối với lương tâm Công giáo”. Cha François hỏi: “Thưa Đức Khâm sứ có thực là chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo như báo chí ngoại quốc tường thuật không?”. Đức Khâm sứ im lặng một lát rồi khẳng định: “Đây chỉ là lối phiên dịch thổi phồng quá đáng. Cha đã từng sống ở Việt Nam chắc Cha hiểu rõ họ hơn tôi. Trí tưởng tượng của họ ghê gớm lắm, tôi tin rằng chắc cũng có những vụ bắt bớ giam cầm đánh đập Phật tử, nhưng làm gì đến độ ghê gớm như sự tường thuật của báo chí”. Đức Khâm sứ kể: “Mới đây có một giáo dân đến thăm tôi. Ông là một nhân vật cao cấp trong Chính phủ, ông ta quả quyết có bàn tay của người Mỹ, dàn cảnh trong vụ biểu tình của Phật tử ngày 17-7 vừa qua, ông ta nói có một bác sĩ bên Phật giáo đã chế tạo cả mấy chục ngàn lọ thuốc mê (chloroforme) trao cho các nhà sư trẻ và Phật tử để khi biểu tình mà xô xát với cảnh sát thì đưa thuốc lên mũi ngửi lúc ấy thuốc mê sẽ làm họ lảo đảo rồi ngã quỵ rồi lúc ấy phóng viên ngoại quốc sẽ quay phim chụp hình. Nhân vật này cũng cho biết sau cuộc biểu tình ngày 17-7 cảnh sát đã tịch thu được cả hàng chục chai thuốc mê như vậy. Ông ta cũng tiết lộ với tôi là truyền đơn của phía tranh đấu được quay ronéo bằng những loại giấy mà chỉ có cơ quan USAID 3 mới có. Đó là thứ giấy tốt đặc biệt”. Cha François lại hỏi: “Thưa Đức Khâm sứ ngài có nghĩ rằng đã có bàn tay Cộng sản trong phong trào tranh đấu Phật giáo hay không?” Đức Khâm sứ ngần ngại rồi đáp: “Đây là một vấn đề quá tế nhị, cho đến bây giờ chưa có một dữ kiện nào khiến chúng ta có thể nghi ngờ như vậy”. Cha François nói: “Tại sao Tổng thống Diệm lại có thể hành động thiếu khôn ngoan khi ông ta lệnh cấm treo cờ Phật giáo?” Đức Khâm sứ đáp: “Có nhiều nguyên nhân sâu xa lắm, lệnh cấm treo cờ của ông Diệm đâu có phải chỉ dành riêng cho Phật giáo mà quy định cho cả Giáo hội Công giáo nữa. Cha phải hiểu rằng ông Diệm là một nhà quốc gia cực đoan. Ông ấy coi Tổ quốc trên Giáo hội, chứ không phải Giáo hội trên Tổ quốc”. Cha François nói: “Con vẫn tin Tổng thống Diệm là một người hoàn toàn thánh thiện”. Đức Khâm sử gật đầu đáp: “Đúng, ông ấy là một giáo dân có một đời sống rất thánh thiện. Nhưng ông ấy không phải là một giáo dân thức thời”. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 76/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Cha François hỏi: “Con nghe nói một số linh mục và giáo dân đang tham gia phong trào tranh đấu Phật giáo”. Đức Khâm sứ đáp: “Đúng, tôi có nghe nói như vậy, một số linh mục có đến hỏi ý kiến của tôi như thế nào khi họ có thái độ thân thiện và hỗ trợ Phật giáo thì tôi trả lời các ngài hãy cứ làm theo lương tâm các ngài”. Con số 80% sự thực hay là huyền thoại Cha François trong cuộc gặp gỡ Đức Khâm sứ cũng không được thỏa mãn lắm. Đức Khâm sứ tỏ ra thiếu thiện cảm với chính quyền Ngô Đình Diệm và ngài bị ảnh hưởng sâu xa bởi những dư luận dồn đại về đời sống của bà Nhu cũng như quyền bính của ông Nhu và đức cha Ngô Đình Thục. Khi Cha François sắp cáo từ ra về thì một giáo sư đại học và một Linh mục trẻ cũng vừa đến xin thăm Đức Khâm sứ. Ngài bảo Cha François: “Cha có thể ngồi lại đây... nếu Cha muốn biết rõ tình hình Việt Nam như thế nào thì hai ông khách này có thể giúp Cha nhiều tài liệu xác thực”. Lúc đầu hai vị khách còn dè dặt nhưng sau hai ông bắt đầu nổ máy, công kích chính quyền hết sức mãnh liệt. Cha hỏi: “Tôi vẫn nghĩ rằng chính quyền này có thực thi dân chủ và thực hiện nhiều công việc lớn lao cho Chính phủ”. Vị Linh mục trẻ: “Thưa cha chúng tôi chưa thấy dân chủ ở đâu cả, Quốc hội là Quốc hội bù nhìn, toàn thứ nghị gật do được chỉ định. Quyền hành đều nằm gọn trong tay Tổng thống hay đúng ra là ở trong tay ông bà Nhu”. Vị giáo sư đại học: “Thưa Đức Khâm sứ và Cha, tình hình đến lúc nghiêm trọng lắm rồi. Thiết tưởng Giáo hội không thể đứng ngoài vòng Giáo hội phải lên tiếng”. Đức Khâm sứ mỉm cười: “Ông bảo Giáo hội phải lên tiếng như thế nào? Giáo hội không đứng ngoài vòng thì Giáo hội phải làm sao bây giờ?”. Nếu không có vụ tranh chấp năm 1963 và nói một cách chung thì Phật giáo chưa có một xích mích nào đáng kể đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. (Ngoại trừ những xích mích có tính cách địa phương xảy ra tại Bình Định, vào những năm 1960-1961). Trước năm 1963 Phật giáo Việt Nam chỉ là một tập thể bao gồm những cục bộ riêng rẽ. Mà những cục bộ này cũng không được tổ chức chu đáo. Tuy vậy Phật giáo Nam Việt cũng bị ảnh hưởng sâu xa bởi sắc thái địa phương, bối cảnh dịa dư và nhân sự. Do đó, Phật giáo đã thể hiện rõ rệt qua ba “sắc thái sinh hoạt”: Phật giáo miền Nam, Phật giáo miền Trung và Phật giáo di cư. Phật giáo miền Nam gồm hội Phật học Nam Việt (Cư sĩ Mai Thọ Truyền và chùa Xá Lợi), Giáo hội tăng gia Việt Nam (Thượng tọa Thích Thiện Hoa chùa Ấn Quang), Phật giáo nguyên thủy (nhóm Tiểu thừa chùa Kỳ Viên) và một số hội đoàn lẻ tẻ khác. Phật giáo Campuchia di cư ước độ 200.000 người nhưng không tạo thành một cộng đồng. Phật tử di cư với tư cách cá nhân và bằng phương tiện cá nhân, trong số 200.000 người có khoảng 50.000 người sống rải rác ở các trại định cư. Khoảng 50.000 người sinh sống ở các thị xã. Còn lại 100.000 tín đồ quy tụ tại Sài Gòn. Phật giáo di cư tại Đô thành có thể chia thành hai nhóm, nhóm thuộc chùa Phổ Quang và Nghĩa trang Bắc Việt (Thượng tọa Thích Trí Dũng). Nhóm đa số thuộc chùa Từ Quang (Thượng tọa Thích Tâm Châu). Riêng Phật giáo miền Trung được coi là một cộng đồng có tổ chức và sinh hoạt từ cấp khuôn hội cho đến trung ương (từ chùa Từ Đàm). Theo thống kê trước năm 1963 Phật giáo (miền Trung)có vào khoảng 400.000 người với một tổ chức thanh niên và hướng đạo Phật tử đáng kể. Sau 1963 cũng theo thống kê thì số Phật giáo miền Trung lên tới 800.000 người. Tổng hội Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ. Trên thực tế, Phật giáo miền Trung mới là chủ lực của Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết là một bậc cao tăng nổi tiếng về đức độ của con người xuất thế tu đạo. Nhưng tước vị Hội chủ chỉ là một danh nghĩa tiêu biểu cho tinh thần thống nhất cao. Quyền hành của Tổng hội Phật giáo Việt Nam vẫn do các Vị Thượng tọa Trí Quang và Thiện Minh, xa hơn nữa là các Thượng tọa Trí Thủ và Đôn Hậu cùng một số Thượng tọa, Đại đức thuộc khuynh hướng dấn thân tích cực. Phật giáo miền Nam trước, sau năm 1963 luôn giữ thái độ xuất thế không thân chính quyền Ngô Đình Diệm mà cũng không chống và cũng không hề biểu lộ một thái độ nào có màu sắc chính trị và thời thế. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 77/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Cư sĩ Chánh trí Mai Thọ Truyền không có một quan hệ nào đối với chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng giữa ông và Phó tổng thống Thơ lại có nhiều mối tương thân giao hữu. Ngược lại, Tổng hội Phật giáo miền Trung lại được coi như thân thiện và có những tương giao tốt đẹp với chính quyền Ngô Đình Diệm qua ông Ngô Đình Cẩn, chính ông Cẩn vẫn tự hào và lớn tiếng kể công với các anh là ông đã nắm được Phật giáo miền Trung. Ông Cẩn thường coi thành tích này như một điều để “bắt bí” mấy ông anh. Bất cứ một hội nghị Phật giáo nào tại ngoại quốc, các Thượng tọa miền Trung phải được ưu tiên. Do đó cũng làm cho giới chức tại Sài Gòn gặp nhiều cảnh “tréo cẳng ngỗng”. Theo Lương Khải Minh, vào khoảng năm 1960... Tổng thống Diệm đã chấp thuận một danh sách gồm mấy Thượng tọa và Cư sĩ đi tham dự Hội nghị Phật giáo thế giới. Các vị này đã được thông báo để sửa soạn làm giấy thông hành, bỗng nhiên ông Cẩn cho người đem vào Sài Gòn một danh sách mới và đòi cho bằng được phải để cho mấy vị Thượng tọa miền Trung tham dự và nắm chức trưởng phái đoàn. Ông Cẩn lấy cớ rằng: “Tổng hội Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ và trụ sở đặt tại Huế thì Huế mới là trung ương Tổng hội”. Do đó, một Thượng tọa ở Huế phải làm trưởng phái đoàn. Sự việc này quả khó giải quyết cho nên lại phải trình bày lên ông Diệm. Ông Tổng thống đáp: “Ai đi cũng vậy. Tôi nghe nói mấy ông Thượng tọa này tốt lắm. Chắc là ông cậu ngoại nớ đã biết họ rõ”. Có lẽ bắt nguồn từ những việc này nên Phật giáo Sài Gòn vẫn rì rầm là chính quyền không hiểu sao đã ưu đãi các thầy ở Huế. Nhiều kẻ đa nghi lại rỉ tai nhau: “Thầy ấy... là người thân của ông Cẩn mà”. Đại úy Bằng, sĩ quan hầu cận của Tổng thống Diệm cũng xác nhận rằng: “Không hiểu một lý do gì mà ông Cẩn lại quá ư ưu đãi và trọng vọng mấy vị Thượng tọa ở chùa Từ Đàm”. Đại úy Bằng nhớ lại: “Cũng vào khoảng năm 1960 khi tháp tùng Tổng thống Diệm về Phú Cam, ông Cẩn đã gọi Bằng lại dặn dò rất kỹ: Mi về Sài Gòn gặp ngay anh Tuyến hỏi xem tuần trước các thầy có mang thơ giới thiệu của tao đến gặp anh ấy không? Mi bảo anh Tuyến lo ngay cái vụ hồ sơ đi xuất ngoại của thầy Trí Quang”. - Một lát sau ông Cẩn nhắc lại lần nữa và bảo Bằng tin ra Huế ngay để ông biết rõ vụ giấy tờ xuất ngoại của mấy thầy đã đi đến đâu. Khi về Sài Gòn, Đại úy Bằng đến tìm bác sĩ Tuyến và nói như vậy. Bác sĩ Tuyến cho biết là hồ sơ đã đưa qua phòng ông Hải rồi: “Có thư của ông Cậu ai mà dám chậm trễ”. Ông Ngô Đình Cẩn tỏ ra rất tự hào về những tương quan thân hữu của ông và Tổng hội Phật giáo tại miền Trung. Do đó, khi nhận được bức công điện cấm treo cờ tôn giáo, ông Cẩn tỏ ra tức giận không ít. Bức công điện mang số 9195 đề ngày 6-6-1963 cho đến chiều ngày 6, bức công điện mới đến tòa đại biểu và tỉnh đường Thừa Thiên. Văn Phòng Cố vấn chỉ đạo của ông Cẩn vẫn không hay biết một chút nào. Mãi đến sáng ngày 7, người vú già của Đại úy Minh đi chợ về, thuật lại: “Ngoài chợ đang xôn xao về việc gì đó. Đồng bào nói rằng Chính phủ cấm không cho Phật giáo treo cờ”. Lúc đó Văn phòng Cố vấn chỉ đạo mới rõ và tìm gặp ông Cẩn để trình bày tự sự ông mới hay. Ông Nguyễn văn Đẳng, Tỉnh trưởng Thừa Thiên vào trình bức công điện kể trên. Với sự hiện diện của Đại úy Minh, ông Cẩn băn khoăn... “Sao lại có chuyện lạ như thế” Đại úy Minh cũng ngần ngại : - Đồng bào các nơi đã treo cờ hết cả rồi. Bây giờ làm thế nào được. Ông Đẳng lo ngại: - Thưa nếu thì hành bức công điện này, con thấy lôi thôi lắm. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 78/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Ông Cẩn bảo Đại úy Minh hỏi Tòa đại biểu xem thế nào và yêu cầu xác thực xem bức công điện có phải đúng như thế không? Cầm bức công điện trên tay ông Cẩn vẫn chưa tin là thực. Ông Cẩn nhắc đi nhắc lại “Quyết định cái gì mà lạ lùng vậy”. Trong thời gian này, ông Ngô Đình Cẩn đang bị thất sủng. Tổng thống Diệm không còn tín nhiệm vào ông em nữa. Trên thực tế, kể từ ngày Đức cha Ngô Đình Thục trở về Huế thì uy tín của ông Cẩn bắt đầu xuống dốc dần... Tổng thống Diệm đã quyết định bãi bỏ Văn phòng cố vấn chỉ đạo từ đầu năm 1963 (cho đến tháng 10-1963 ông Diệm mới dứt khoát bãi bỏ Văn phòng Cố vấn chỉ đạo có nghĩa là ông Cẩn bị loại khỏi chính trường miền Trung). Bức công điện trên đây ông Cẩn chỉ được biết khi ông Đẳng mang vào. Ông Cẩn bảo Tỉnh trưởng Thừa Thiên: “Đồng bào người ta treo cờ rồi thì cứ để nguyên như vậy đừng có ra lệnh hạ gì cả”. Ông Cẩn lại bảo ông Hồ Đắc Thương, đại biểu Chính phủ Trung Nguyên Trung Phần, đánh điện vào Trung ương xin hoãn thi hành bức công điện “kỳ quái” này. Một số viên chức có mặt tại nhà ông Cẩn lúc ấy đều đồng ý phải hoãn thi hành lệnh trên và cứ để đồng bào Phật tử treo cờ như mọi năm. Đại úy Minh bàn luận với một số viên chức: “Tại sao không ra lệnh từ trước, mãi đến bây giờ mới ra lệnh. Vụ này kẹt cho tụi mình lắm. Các anh tính sao?” Ông Cẩn thắc mắc hỏi ông Đẳng và Hoàng Trọng Bá: “Các thầy dưới Từ Đàm đã biết chưa?”. Thực ra, các thầy cũng như một số đông Phật tử biết tin từ tối hôm trước. Tất nhiên là phải có một viên chức nào ở tòa tỉnh đã tiết lộ bức công điện trước khi thông báo cho ông Cẩn. Sau một hồi thảo luận, cân nhắc ông Cẩn bảo Tỉnh trưởng Thừa Thiên “Chú cho mấy xe thông tin nó đi. thông báo gấp cho đồng bào hay là không có gì thay đổi. Đồng bào cứ treo cờ như mọi năm”. Ông Cẩn đồng thời căn đặn Đại úy Minh cũng như Hồ Đắc Thương, Hoàng Trọng Bá phải thận trọng hết sức và làm thế nào để tránh những chuyện đáng tiếc có thể xảy ra. Mặt khác Văn phòng ông Cẩn cũng chỉ thị cho giới chức cảnh sát thành phố Huế không được hạ cờ của đồng bào. Nói về ông Ngô Đình Cẩn và Phật giáo, Thượng tọa Mật Nguyệt (thuộc phái Ấn Quang) cho rằng, trong chín năm chế độ Ngô Đình Diệm, không hiểu trong lòng như thế nào nhưng ngoài mặt, ông Cẩn tỏ ra rất thân thiết và tin cậy các thầy trong Tổng hội Phật giáo miền Nam tại Huế). Qua bức công điện cấm treo cờ, thái độ của ông Cẩn ngay từ phút đầu là sửng sốt, tức giận. Ông Cẩn than thở với mấy thuộc viên thân cận: “Làm như rứa tao còn mặt mũi nào nói chuyện với người ta” (tức các thầy tại chùa Từ Đàm). Buổi trưa ngày 7, ông Cẩn trầm ngâm một cách khó hiểu, ông uống một hơi hết ly rượu lễ và cho gọi ông Minh vào để tìm hiểu tình hình và được biết Huế cho đến giờ phút này vẫn không hề xao động. Cả một thành phố như rừng cờ. Số lượng cờ Phật giáo như càng tăng thêm. Vào buổi chiều ông Cẩn nhận được báo cáo cho biết khoảng 8g30 sáng (khi Nguyễn văn Đẳng vào trình bức công điện)thì lại có mấy cảnh sát viên trong thành nội kéo nhau đi hạ cờ tại mấy nhà đồng bào và đã có sự giằng co xô xát. Sau đó được thu xếp êm ngay. Huế nơi nơi như bừng sống như đang vươn cao trong hương hoa ngào ngạt. Không khí như ngày hội hoa đăng và như tất cả dành riêng cho ngày Phật giáng thế. Ông Nguyễn Hữu Cang, một trong những nhân chứng trong vụ Phật giáo Huế năm 1963 đã kể với chúng tôi: “Sáng ngày 7 trong giờ đồng bào và các khuôn hội đã xôn xao lắm. Nhất là chúng tôi lại được tin cho biết chính Đức Cha Ngô Đình Thục đã về tận Sài Gòn thúc đẩy ông Ngô Đình Nhu ra lệnh “triệt hạ” Phật giáo. Do đó lại càng khiến mọi giới Phật tử xôn động bất mãn” Nguyễn Hữu Cang cho biết thêm: “Trưa ngày 7, khi được tin chính quyền cho cảnh sát đi hạ cờ và xé cờ Phật tại mấy khuôn hội thì dư luận lại càng thêm sôi nổi phẫn uất. Nhất là giới bạn hàng chợ Đông Ba. Có thể nói giới bạn hàng này mới là thànhphần đi tiên phong trong vụ tranh đấu kể từ ngày 7 chứ không phải chỉ riềng ngày 8”. Nguyễn Hữu Cang cũng công nhận rằng: Anh có nghe thấy xe thông tin đi loan báo là đồng bào cứ treo cờ như thường lệ. Tuy nhiên lúc bấy giờ bao nhiêu dồn nén trong quần chúng được khởi dậy và chỉ chờ đợi giây phút nổ tung. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 79/167 11/30/2019 Ai Giết Anh Em Ngô Đình Diệm Các hội đoàn và quân đội đều nhận được mật lệnh sửa soạn để tranh đấu đòi bình đẳng tôn giáo, đối tượng cho sự đấu tranh như vậy quả là hấp dẫn và dễ dàng lôi được mọi giới Phật tử. Khoảng 6 giờ chiều, một số công chức tòng sự tại Tòa đại biểu không đến Tòa hành chính Thừa Thiên và ở đây cũng có một số công chức thuộc tỉnh đường tụ tập bàn tán xôn xao về bức công điện cấm treo cờ, đồng thời cũng có vào khoảng một ngàn đồng bào với một số Thượng tọa, Đại đức kéo đến Tòa hành chính để tỏ thái độ trong đó có Thượng tọa Đôn Hậu, Trí Quang. Không khí lúc ấy đã nhuốm màu tranh đấu. Nguyễn Hữu Cang cũng có mặt trong ngày đó. Ngày nay tuy đã quên nhiều chi tiết nhưng ông vẫn giữ nguyên giây phút ngọn lửa hồng cháy rực. Ông nói: “Khi nghe tin cờ Phật giáo bị xé tôi có cảm tưởng như chính tổ tiên mình bị chính quyền chà đạp. Lúc ấy dù có phải chết cho đạo pháp tôi cũng bằng lòng”. Cang cho biết trong một không khí sôi động như vậy Thượng tọa Trí Quang xuất hiện cùng với mấy Thượng tọa khác như Thượng tọa Trí Thủ, Thượng tọa Thiện Minh. Về phía chính quyền thì có ông Tỉnh trưởng Nguyễn văn Đẳng, ông Phó tỉnh trưởng Hành chính, ông Phong Trưởng ty cảnh sát thành phố Huế... Lát sau, Thiếu tá Đặng Sỹ Phó tỉnh trưởng Hội An lái xe đến. Ông này mới đi hành quân về chiều ngày 6. Khi được cấp báo đồng bào Phật tử đang biểu tình ở tỉnh đường, Thiếu tá Sỹ vội vã lái xe đến. Lúc ấy Thượng tọa Trí Quang với một vẻ xúc động mạnh, lên tiếng gay gắt phản đối bức công điện cấm treo cờ tôn giáo. Ông Đẳng cho các Thượng tọa biết là chính quyền đã hoãn thi hành bức công điện này và xin các Thượng tọa cứ an tâm. Mọi sự đều như mọi năm không có gì thay đổi. Tuy vậy, Thượng tọa Trí Quang vẫn giữ vẻ tức giận và lên tiếng phản đối chính quyền Thừa Thiên tại sao sáng ngày 7 đã cho cảnh sát hạ cờ Phật giáo và tại một vài nơi Cảnh sát đã xé cờ. Ông Đẳng quay sang hỏi ông Phong Trưởng ty Cảnh sát xem sự thể hư thực như thế nào. Ông Phong lên tiếng: “Tôi quả quyết không có chuyện đó”. Ông Phong lại nhấn mạnh thêm: “Tôi quả quyết với các thầy là không có chuyện xé cờ”. Thiếu tá Sỹ lên tiếng: “Nếu có chuyện xảy ra như vậy xin thầy cho biết rõ nơi nào cảnh sát đã xé cờ, tôi sẽ cho điều tra và trừng trị ngay”. Ông Phong lại nói một lần nữa quả quyết là không có chuyện như vậy. Ông Phong xin Thượng tọa Trí Quang nêu lên một vài chứng cớ. Thượng tọa Trí Quang đáp: “Tôi nghe đồng bào Phật tử nói như vậy”. Ông Phong lại thỉnh cầu: “Xin Thầy cho biết rõ nơi xảy ra chuyện xé cờ thuộc về khuôn hội nào, khu phố nào để chúng tôi mở cuộc điều tra ngay”. Thượng tọa Trí Quang lắc đầu không tiết lộ và nói đại ý: “Tôi không thể cho các ông biết rõ được. Tôi cho các ông biết rõ để rồi cảnh sát đến làm phiền đồng bào Phật tử rồi tính sao đây?”. Cuối cùng Thượng tọa Trí Quang tỏ vẻ lo ngại: “Hiện nay chúng tôi rất hoang mang không hiểu chính quyền đàn áp chúng tôi đến khi nào?”. Ông Nguyễn văn Đẳng vẫn “xuống nước” thỉnh cầu các Thượng tọa yên tâm trở về chùa và ngày mai mọi sự sẽ tiến hành tốt đẹp như mọi năm. Thượng tọa Trí Quang vẫn lo ngại: “Mai này đồng bào Phật tử sẽ tổ chúc rước kiệu, chúng tôi đã sửa soạn đâu đấy cả rồi chúng tôi rất hoang mang”. Hai bên chính quyền và các Thượng tọa cứ vòng vo bàn cãi, cuối cùng chính quyền Thừa Thiên phải nhượng bộ bằng cách gọi điện thoại ngay cho ông Trừ Trưởng ty Thông tin cho ba xe có máy phóng thanh đến tòa tỉnh. Ông Nguyễn văn Đẳng đề nghị các Thượng tọa cho các cán bộ Phật tử của mình đi theo xe và chính các cán bộ này sẽ chia nhau đi khắp các khu phố để loan báo cho đồng bào rõ ngày 8-5 sẽ không có gì thay đổi, đồng bào cứ đi hành lễ như chương trình của Giáo hội đã ấn định. Kết quả các Thượng tọa cũng bằng lòng như vậy. Khoảng 9 giờ đêm đám đông mới giải tán và mọi chuyện tưởng chừng đã được giải quyết tạm thời êm đẹp. Ba xe thông tin chia nhau đi vào các khu phố để làm phận sự như chính quyền và các Thượng tọa đã thỏa thuận. https://vietmessenger.com/books/?action=print&title=aigietanhemngodinhdiem&page=all&prev=1 80/167