🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Á Châu Huyền Bí Ebooks Nhóm Zalo Mụclục Chương1 Chương2 Chương3 Chương4 Chương5 Chương6 Chương7 Chương8 Á CHÂU HUYỀN BÍ Baird T. Spalding Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Chương 1 Cuộc gặp gỡ đầu tiên với vị Chân Sư- Ý nghĩa ngày lễ Giáng Sinh- Người có quyền năng xuất quỷ nhập thần- Thuật phân thân- Ngôi đền Im Lặng. *** Trên thế giới ngày nay, những sách vở nói về các vấn đề huyền linh có rất nhiều, và việc sưu tầm thật sự về những bậc làm cho tôi cảm thấy khích lệ tinh thần để trình bày kinh nghiệm riêng của tôi về những đấng Chân Sư của phương Đông. Trong những chương sách này, tôi không có ý định diễn tả một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào. Tôi chỉ đưa ra một tóm lược những kinh nghiệm cá nhân của mình về các đấng Chân Sư, để trình bày những chân lý căn bản trọng đại trong giáo lý của Ngài. Để kiểm điểm lại tập du ký này, tôi đã dùng mất nhiều thời giờ cũng dài bằng cái thời gian dành cho cuộc hành trình khảo cứu. Thật vậy, các Chân Sư ở rải rác trên một vùng lục địa rộng lớn, và những cuộc sưu tầm về đạo lý của chúng tôi diễn ra trên một phần lớn các xứ Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư. Phái bộ sưu tầm của chúng tôi gồm có mười một nhà khoa học lỗi lạc, đã từng dành một phần lớn cuộc đời mình cho những công trình sưu khảo. Chúng tôi đã tập lấy thói quen không chấp nhận bất cứ việc gì mà không có sự phối kiểm lại chặt chẽ trước khi nhìn nhận việc ấy là đúng với sự thật. Khi đến tận nơi, chúng tôi hoàn toàn là những kẻ hoài nghi. Nhưng bận về, chúng tôi hoàn toàn bị thuyết phục và tin tưởng đến nỗi ba người trong nhóm chúng tôi đã trở lại chỗ cũ, quyết định ở lại cho đến khi họ có thể sống cuộc đời của các Chân Sư và thực hiện những công trình giống như của các Ngài. Những vị Cao Cả đã đem đến một sự giúp đỡ lớn lao cho công việc sưu tầm của chúng tôi, luôn luôn yêu cầu chúng tôi chỉ nhắc đến các Ngài bằng những tên giả tạm, trong trường hợp chúng tôi viết hồi ký. Tôi sẵn lòng tuân theo ý muốn của các Ngài. Tôi chỉ tường thuật lại những việc đã phối kiểm, và dùng những danh từ hay những thành ngữ của chính những nhân vật mà chúng tôi đã gặp gỡ và sống chung hằng ngày trong cuộc hành trình này. Trong số những điều kiện tiên quyết được đặt ra cho sự hợp tác giữa chúng tôi với các Ngài, có điều này bắt buộc chúng tôi phải tuân theo: Chúng tôi phải chấp nhận như một sự thật mọi việc gì xảy ra mà chúng tôi đã chứng kiến tận mắt. Chúng tôi không được đòi hỏi một sự giải thích nào trước khi đã đi sâu vào bên trong của một vấn đề, đã nhận được những lời chỉ giáo của các Ngài, đã sống quan sát cuộc đời hằng ngày của các Ngài. Chúng tôi phải đi theo các Chân Sư, sống với các Ngài, và tự mình quan sát mọi sự. Chúng tôi có quyền ở lại với các Ngài bao lâu tùy ý, hỏi bất cứ điều gì, và đi sâu vào mọi vấn đề tùy ý muốn, rồi tự mình rút lấy những kết quả đã thu lượm được. Sau đó, chúng tôi được tự do quyết định rằng những điều mà chúng tôi đã nhìn thấy là sự thật hay ảo ảnh. Các Ngài không bao giờ tìm cách ảnh hưởng đến sự xét đoán của chúng tôi bất cứ về vấn đề gì. Các Ngài luôn luôn nghĩ rằng nếu chúng tôi quan sát chưa đúng mức để có được sự tin tưởng hoàn toàn, thì các Ngài không mong ước chúng tôi phải tin. Tôi cũng hành động y như vậy đối với quý vị độc giả, và để cho độc giả có quyền tự do tin hay không tin những chuyện kể lại sau đây, tùy sở thích của mỗi người. Chúng tôi đã sang Ấn Độ được chừng hai năm, và hằng ngày theo dõi những công việc sưu tầm, thì một ngày nọ tôi gặp vị Chân Sư mà tôi xin mệnh danh là “Tuệ Minh”. Ngày ấy tôi đang đi dạo chơi qua các đường trong thành phố, thì thấy có một đám đông làm cho tôi chú ý. Một đám quần chúng đang vây chung quanh một người thuật sĩ, thuộc loại các nhà đạo sĩ đi ta bà trò ảo thuật mà bên xứ này có rất nhiều. Tôi bước đến gần và ngay lúc đó tôi nhận thấy ở bên tôi một người đã trọng tuổi, với một phong độ khác thường, hẳn là không giống như những người khác trong đám đông. Người ấy nhìn tôi và hỏi tôi sang Ấn Độ đã được bao lâu. Tôi đáp: -Độ chừng hai năm. Người ấy hỏi tiếp: -Ông là người Anh? Tôi đáp: -Không, tôi là người Mỹ. Ngạc nhiên và thích thú mà gặp một người nói được tiếng mẹ đẻ của mình, tôi mới hỏi Người nghĩ sao về cuộc biểu diễn của người thuật sĩ. Người ấy đáp: -À! Ở xứ này thường vẫn có những cuộc biểu diễn như thế. Người ta gọi họ là thuật sĩ, đạo sĩ hay pháp sư, cái đó tùy. Nhưng ở đằng sau những trò ảo thuật đó, có ẩn dấu một thiểu số người biết được mà thôi. Có ngày người ta sẽ nhận thấy cái hay của các trò ảo thuật đó. Nhưng điều mà ông nhìn thấy chỉ là cái ảo ảnh của sự thật nguyên thủy. Việc đó đã từng gây nên nhiều tranh luận, nhưng các nhà tranh luận dường như chưa bao giờ nắm vững sự thật. Tuy nhiên, hẳn là phải có một sự thật ở đằng sau những cuộc biểu diễn đó. Đến đây, chúng tôi chia tay từ biệt nhau và chỉ thỉnh thoảng mới gặp nhau trở lại trong bốn tháng sau đó. Kế đó, nhóm khoa học gia chúng tôi gặp phải một vấn đề khó khăn nó gây cho chúng tôi nhiều nỗi lo âu quan trọng. Vài ngày sau đó, tôi gặp lại Tuệ Minh.Người hỏi lý do những sự lo âu của tôi và nói với tôi về cái vấn đề khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải. Tôi lấy làm ngạc nhiên, vì tôi chắc rằng không ai có thể biết gì về vấn đề này ngoài ra nhóm thiểu số chúng tôi. Người có vẻ thông thạo về tình hình của chúng tôi đến nỗi tôi có cảm rằng Người biết rõ tất cả vấn đề. Vì lẽ vấn đề ấy đã không còn là một điều bí mật nữa, nên tôi thấy không có hại gì mà nói ra một cách tự nhiên, và đó là điều mà tôi đã làm. Khi đó, Tuệ Minh mới nói với tôi rằng Người cũng biết ít nhiều về việc ấy và sẽ cố gắng giúp đỡ chúng tôi. Một hai ngày sau đó, mọi việc đều được giải quyết thỏa đáng, và mọi sự lo âu cũng tiêu tan. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên, nhưng không bao lâu việc ấy đã lui dần vào trong quên lãng và chúng tôi không còn nghĩ đến nữa. Những vấn đề khó khăn khác lại xuất hiện, và tôi thường có thói quen đem ra bàn luận một cách thân mật với Tuệ Minh. Dường như mọi nỗi khó khăn của chúng tôi liền biến mất khi tôi vừa đem ra giải quyết với người khách lạ. Tôi bèn giới thiệu các bạn tôi cho Tuệ Minh, nhưng tôi không hề nói gì với họ về nhân vật lạ lùng này. Vào thời kỳ đó, tôi đã đọc nhiều sách do Ngài chọn lựa, nói về những truyền thống của nền văn minh Ấn Độ, và tôi đã hoàn toàn tin tưởng rằng là một vị Chân Sư. Sự tò mò của tôi đã bị kích thích, và sự thích thú của tôi càng ngày càng tăng thêm. Một buổi trưa Chúa Nhật, tôi cùng đi dạo với đức Tuệ Minh trên một cánh đồng, thình lình Ngài chỉ cho thấy một con bồ câu đang bay lượn trên đầu chúng tôi. Tuệ Minh nói rằng con bồ câu đang tìm kiếm Ngài. Ngài bèn đứng yên một chỗ không cử động, và con bồ câu liền đáp xuống đậu trên một cánh tay của Ngài đưa ra. Đức Tuệ Minh nói rằng con chim này đem đến cho Ngài một thông điệp của người em trai hiện đang sống ở miền Bắc Ấn. Người này cũng là một vị cao sĩ cùng phái, nhưng chưa đạt tới trình độ tâm thức siêu đẳng để có thể tiếp xúc với Ngài bằng thần giao cách cảm. Bởi vậy, Người mới phải dùng đến phương tiện giao thông này. Về sau, chúng tôi mới biết rằng các đấng Chân Sư có quyền năng giao cảm trực tiếp với nhau cấp thời bằng phương pháp di chuyển di tư tưởng; các Ngài còn cho biết rằng phương pháp này sử dụng một năng lực còn tế nhị tinh anh hơn là điện khí hay vô tuyến điện. Tôi bắt đầu đưa ra những câu hỏi. Đức Tuệ Minh chứng minh cho tôi thấy rằng Ngài có thể kêu gọi loài chim đến với Ngài và điều khiển hướng bay của chúng, rằng các loài bông hoa, thảo mộc nghiêng về phía Ngài khi Ngài đi qua, và các loài thú dữ đến gần Ngài mà không sợ sệt. Có lần Ngài phân rẽ hai con sơn cẩu đang tranh mồi và cấu xé lẫn nhau. Khi Ngài bước đến gần, chúng nó bèn thôi không cắn nhau nữa, nằm đặt xuống cái đầu chúng một cách đầy tin tưởng trên hai bàn tay Ngài đưa ra, rồi mỗi con lại tiếp tục ăn phần thịt của mình một cách ôn hòa. Ngài lại còn bắt lấy một con đưa cho tôi cầm trên hai tay. Sau đó Ngài nói: -Cái Phàm Ngã hữu hình hữu hoại không thể làm được những việc này, mà đó là cái Chân Ngã thâm diệu hơn, cái mà anh gọi là Thượng Đế. Đó chính là Thượng Đế toàn năng ngự trong tôi, và trong tất cả muôn loài, chính Ngài biểu hiện xuyên qua tôi để làm những việc ấy. Do tôi, do cái Phàm Ngã hữu hoại của tôi, tôi không thể làm gì được. Tôi phải hoàn toàn gạt bỏ cái Phàm Ngã bên ngoài, để cho cái Chân Ngã bên trong tự biểu lộ và hành động. Bằng cách phát biểu toàn vẹn tình Bác Ái của Thượng Đế, tôi có thể làm những điều mà anh đã thấy. Bằng cách để cho tình Bác Ái biểu lộ xuyên qua mình và ban rải cho tất cả chúng sinh muôn loài, ta sẽ cảm hóa được thú dữ và không một tai họa nào có thể đến với ta nữa. Vào thời kỳ đó, tôi thụ huấn hằng ngày về đạo lý với đức Tuệ Minh, có khi Ngài thình lình xuất hiện trong phòng tôi, dẫu rằng tôi đã khóa cửa lại cẩn thận. Lúc đầu, việc này làm cho tôi hoang mang bỡ ngỡ, nhưng không bao lâu tôi thấy rằng Ngài coi sự thông cảm của tôi về đó như là một chuyện đương nhiên. Tôi đã quen với những cách xử sự của Ngài và tôi mở cửa để cho Ngài ra vào tự do. Sự tin cậy của tôi có vẻ làm cho Ngài hài lòng. Tôi không thể hiểu tất cả những lời dạy của Ngài và cũng không thể hoàn toàn chấp nhận những lời dạy đó, dẫu rằng tôi đã chứng kiến nhiều sự việc lạ lùng ở phương Đông, tôi cũng không bao giờ có thể chấp nhận mọi việc ngay lập tức. Tôi phải trải qua nhiều năm suy tư thiền định để nhận thức được ý nghĩa tâm linh sâu xa về cuộc đời của các đấng Chân Sư. Các Chân Sư thực hiện những kỳ công của các Ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các Ngài biết rằng năng lực của tình thương che chở các Ngài. Các Ngài nuôi dưỡng tình Bác Ái đến mức độ làm cho muôn loài trong cõi thiên nhiên đều cảm mến và trở nên thân thiện với các Ngài. Loài rắn và thú dữ giết chết hằng ngàn người mỗi năm ở Ấn Độ. Nhưng các Chân Sư biểu lộ tình Bác Ái bao la từ trong nội tâm các Ngài đến mức làm cho loài rắn và thú dữ đều trở nên vô hại. Đôi khi các Ngài sống trong những vùng rừng thiêng nước độc, hoang vu hẻo lánh nhất. Đôi khi các Ngài cũng nằm phơi mình trước cổng một làng để che chở làng ấy khỏi những tàn phá của làng ấy khỏi những tàn phá của thú dữ. Sau đó các Ngài đứng dậy đi an toàn và làng ấy được bình yên vô sự. Trong trường hợp cần thiết, các Ngài đi trên mặt nước, đi trên lửa đỏ, đi ngao du trên cõi vô hình, và làm nhiều việc lạ lùng khác mà chúng ta cho là nhiệm mầu, và chỉ có những người có quyền phép thần thông mới có thể làm được. Có một sự giống nhau lạ lùng giữa cuộc đời và giáo lý của Đức Jesus với cuộc đời và giáo lý mà đấng Chân Sư từng nêu gương cho chúng ta hằng ngày. Người ta cho là con người không thể nào lấy bánh mì trực tiếp từ kho Tiên Thiên Khí tự nhiên của Trời Đất, thắng đoạt Tử Thần, và làm những phép lạ như Đức Jesus đã làm trong kiếp hóa thân của Ngài. Các đấng Chân Sư vẫn thường làm những việc ấy. Tất cả các Ngài cần dùng hằng ngày,như đồ thực vật, áo quần và tiền bạc, các Ngài đều rút lấy từ trong kho Tiên Thiên Khí tự nhiên. Các Ngài đã thắng đoạt sự chết và có nhiều vị trong các Ngài sống đã trên năm trăm năm. Chúng tôi có đủ bằng chứng quyết định do những tài liệu riêng của các Ngài cung cấp. Vài môn phái ở Ấn Độ dường như xuất xứ giáo lý Huyền Môn của các Ngài. Các Chân Sư chỉ gồm có một thiểu số rất ít ở Ấn Độ. Bởi đó, số đệ tử của các Ngài lẽ tất nhiên là rất có giới hạn. Nhưng các Ngài có thể tiếp xúc với một số rất nhiều đệ tử trong cõi vô hình. Dường như phần lớn công việc của các Ngài là hoạt động trong cõi vô hình để giúp đỡ tất cả các linh hồn thụ cảm đối với giáo lý Huyền Môn. Giáo lý của Chân Sư Tuệ Minh là nền tảng của công việc mà chúng tôi sẽ thực hiện nhiều năm về sau, trong cuộc hành trình lần thứ ba của chúng tôi sang các xứ ấy. Cuộc hành trình này kéo dài đến ba năm rưỡi, trong thời gian đó chúng tôi luôn luôn sống chung với các đấng Chân Sư, cùng di chuyển khắp nơi với các Ngài, cùng quan sát cuộc đời và công việc hằng ngày của các Ngài ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư. * Cuộc hành trình lần thứ ba của chúng tôi có mục đích sưu tầm về đạo lý. Trước ngày lên đường, các đoàn viên chúng tôi họp tại Potal, một làng nhỏ Ấn Độ ở một nơi hẻo lánh. Tôi đã viết thư báo tin trước cho đức Tuệ Minh rằng chúng tôi sắp đến, nhưng không nói gì về mục đích cuộc hành trình có bao nhiêu người đi. Khi đến nơi, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy đức Tuệ Minh và các cộng sự viên đã chuẩn bị sẵn chỗ ăn ở cho toàn thể phái đoàn và biết rõ các kế hoạch của chúng tôi từng chi tiết. Đức Tuệ Minh đã từng giúp đỡ chúng tôi rất nhiều ở miền Nam Ấn, nhưng từ giờ phút này trở đi thì sự trợ giúp của Ngài không sao kể hết. Tất cả sự thành công của cuộc hành trình đều do nơi Ngài mà có, và cũng nhờ các linh hồn cao quý mà chúng tôi gặp gỡ dọc đường. Chúng tôi đến Potal, khởi điểm của cuộc hành trình, chiều ngày 22 tháng 12 năm 1894. Ngày lên đường, cũng là ngày đáng ghi nhớ nhất trong đời chúng tôi, là sáng ngày lễ Giáng Sinh. Tôi không bao giờ quên những lời mà đức Tuệ Minh nói với chúng tôi sáng ngày hôm ấy. Tuy rằng Ngài không tự hào có một nền học vấn của người Anh và không hề rời khỏi phương Đông, Ngài vẫn nói trôi chảy tiếng Anh. Ngài nói: -Hôm nay là ngày lễ Giáng Sinh. Ngày này nhắc nhở với các bạn sự Giáng Sinh của Đức Jesus ở Nazareth, tức đấng Christ. Chắc hẳn các bạn nghĩ rằng Ngài giáng thế để chuộc tội cho nhân loại và Ngài là vị Trung Gian cao cả giữa các bạn và Chúa Trời. Các bạn cầu nguyện Đức Jesus như một vị cứu rỗi để xin tội giùm với một đấng Chúa Trời nghiêm khắc, đôi khi thịnh nộ, ngồi chễm chệ ở một nơi nào đó trên cõi Trời. Tôi không biết cõi Trời đó ở nơi nào, nếu không phải là ở trong lương tri của các bạn. Dường như các bạn chỉ có thể đạt tới Chúa Trời do sự trung gian của đức Con Ngài, một vị ít nghiêm khắc và dễ cảm mến hơn, đấng Cao Cả mà tất cả chúng ta gọi là đấng Trọn Lành, mà ngày hôm nay là ngày kỷ niệm sự Giáng Sinh của Ngài xuống thế gian. Đối với chúng ta, ngày nay còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó không những chỉ nhắc nhở ngày giáng trần của Đức Jesus, mà còn tượng trưng sự xuất hiện của Đấng Christ trong lương tri của mỗi người. Ngày lễ Giáng Sinh có nghĩa là ngày nhập thế của đức Chưởng Giáo đã giải thoát nhân loại khỏi mọi sự hệ lụy và giới hạn của vật chất. Đấng Cao Cả ấy giáng trần để chỉ cho chúng ta con đường đưa đến Thượng Đế toàn năng, toàn thông và toàn trí... Khi một người đã tiếp xúc được với nguồn cảm hứng thiêng liêng và đã phổ biến những ý nghĩ thiêng liêng ấy bằng lời nói, phải chăng những người khác cũng có thể tiếp xúc với cái nguồn cảm hứng đó, nó vẫn hằng có trong Vũ Trụ càn khôn? Khi một người đã nhận được sự cảm hứng thiêng liêng, nó không phải là vật sở hữu riêng của y. Nếu y bắt được cái nguồn ân huệ đó rồi giữ lấy cho riêng mình, y đâu còn chỗ trống để tiếp nhận thêm những ân huệ trước nữa? Muốn thọ lãnh thêm nhiều hơn nữa, ta phải cho đi những gì mình đã nhận được. Nếu ta giữ lấy để làm của riêng, thì sẽ có sự bế tắc, ứ đọng ngay. Điều này giống như cái bánh xe vận chuyển bằng sức nước trong một nhà máy thủy điện. Nếu thình lình cái bánh xe giữ lại cái giòng nước đã làm cho nó vận chuyển và xoay vòng, thì nó sẽ bị ngưng trệ ngay lập tức. Nó phải để cho nước chảy lưu thông tự do thì nó mới trở nên hữu dụng và tạo nên điện lực. Con người cũng vậy. Khi y tiếp nhận được nguồn cảm hứng thiêng liêng của Thượng Đế ban cho, y phải phổ biến những tư tưởng tốt lành ấy mới có thể hưởng thụ được điều lợi ích của nó. Y phải để cho mỗi người có dịp hưởng thụ và phổ biến những tư tưởng thiêng liêng để tiến triển tâm linh cũng y như vậy. Theo ý tôi, tất cả những gì đến với Đức Jesus đều là một sự ban ân trực tiếp của Thượng Đế, cũng như đó là trường hợp của tất cả các bậc đại giáo chủ. Thật ra, phải chăng tất cả đại sự đều xuất xứ từ Thượng Đế, và điều gì mà một người đã làm thì những người khác cũng có thể làm được? Các bạn hãy tin rằng Thượng Đế luôn luôn muốn tự biểu lộ và sẵn sàng làm như vậy, như Ngài đã làm đối với Đức Jesus và những vị khác. Chúng ta chỉ cần có sự mong muốn để cho Ngài hành động. Thật ra, chúng ta tin rằng tất cả đều bình đẳng. Tất cả mọi người đều là một. Mỗi người đều có thể thực hiện những công trình giống như của Đức Jesus và sẽ thực hiện những công trình ấy khi thời giờ đã điểm. Không có gì là bí mật hay huyền diệu trong những công trình đó. Sự bí mật chỉ có trong cái ý niệm vật chất mà loài người đã gán cho các sự việc ấy. Các bạn đến với chúng tôi với ít nhiều sự hoài nghi. Chúng tôi tin rằng các bạn sẽ ở lại đây để nhìn xem tận mắt chúng tôi là như thế nào. Còn những công việc làm của chúng tôi và kết quả của những việc ấy ra sao, thì các bạn có trọn quyền tự do chấp nhận hay bác bỏ tùy ý... * Chúng tôi từ giã Potal đi Asmah, một làng nhỏ hơn ở cách đó độ 150 cây số. Đức Tuệ Minh chỉ định hai người thanh niên để dẫn đường cho chúng tôi. Cả hai người này đều là người Ấn Độ tốt tướng và khỏe mạnh. Họ đảm trách việc hướng dẫn cuộc hành trình một cách thông thạo và hoàn toàn chu đáo mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ. Để tiện việc, tôi xin gọi họ bằng những tên tạm là Dật Sĩ và Nê Bưu. Chân Sư Tuệ Minh cao tuổi hơn họ rất nhiều. Dật Sĩ là người đứng ra chỉ huy cuộc hành trình, còn Nê Bưu, phụ tá của y, coi sóc việc thừa hành mọi mệnh lệnh. Đức Tuệ Minh kiếu từ chúng tôi và nói: -Các bạn hãy đi trước, đã có Dật Sĩ và Nê Bưu dẫn đường. Tôi sẽ ở lại đây thêm vài ngày, vì với phương tiện di chuyển hiện tại, các bạn phải mất ít nhất là năm ngày mới đến trạm sắp tới ở cách đây 150 cây số. Tôi không cần mất nhiều thời giờ như vậy để vượt qua chặn đường ấy, nhưng tôi sẽ có mặt tại đó để đón các bạn. Các bạn hãy để lại đây một người đoàn viên để quan sát và kiểm điểm mọi việc có thể xảy ra. Các bạn sẽ có rộng thời giờ, và người đoàn viên ở lại sẽ theo kịp các bạn trong mười ngày là cùng. Chúng tôi chỉ yêu cầu y quan sát mà thôi, và tường thuật lại cho các bạn những gì y đã thấy. Chúng tôi bèn lên đường. Dật Sĩ và Nê Bưu lãnh trách nhiệm điều khiển mọi việc một cách hoàn toàn chu đáo. Mọi việc đều được giải quyết êm đẹp vào đúng lúc với một tiết điệu và một sự đúng đắn toàn hảo. Tình trạng đó vẫn tiếp tục trong ba năm rưỡi suốt thời gian của cuộc hành trình. Dật Sĩ có một bản tính thanh cao thiên phú, dễ thương, làm việc hữu hiệu, không khoe khoang, khoác lác. Y ra tất cả mọi chỉ thị với một giọng hòa nhã, và được tuân theo một cách đúng đắn và kịp thời nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên. Từ lúc đầu, chúng tôi đã nhận thấy tính hạnh tốt đẹp của y và chúng tôi vẫn thường khen ngợi. Nê Bưu cũng có một đức hạnh tốt đẹp không kém, và dường như còn có khả năng hiện diện ở khắp nơi. Luôn luôn bình tĩnh, y có một năng xuất lạ lùng, với một khả năng suy gẫm và hành động rất vững vàng, chắc chắn. Mỗi người đều đã nhận thấy khả năng đó của y, và chúng tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở đến. Qua ngày thứ năm của chuyến đi này, vào độ bốn giờ chiều, chúng tôi đến làng Asmah. Như đã hẹn trước, đức Tuệ Minh đã có mặt tại đó để đón chúng tôi. Quý vị độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào. Chúng tôi đến đây do một con đường duy nhất có thể đi được và bằng những phương tiện di chuyển mau chóng nhất. Chỉ có những bưu tín viên thiện nghệ người bổn xứ, đi luân phiên nhau từng chặng đường và đi suốt ngày đêm mới có thể đi mau hơn. Còn đây là một người mà chúng tôi cho là đã có tuổi và tuyệt đối không thể nào đi mau hơn chúng tôi trên một quãng đường dài một trăm năm chục cây số, nhưng lạ thay, người ấy lại đến trước chúng tôi và có mặt ở tại chỗ. Trong cơn thắc mắc, lẽ tự nhiên chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rất nhiều điều, và Ngài trả lời như sau: -Khi các bạn sắp sửa lên đường, tôi có nói rằng tôi sẽ có mặt tại đây để đón các bạn, và tôi đã đến đây. Tôi xin đặc biệt lưu ý các bạn về điểm này là con người vốn toàn năng khi y tiến hóa trong cái chân lãnh vực của mình. Y không còn bị giới hạn trong thời gian và không gian. Khi y tự biết mình, không cần phải lê gót chân chậm chạp dọc đường trong năm ngày để vượt qua một trăm năm chục cây số. Trong cái địa hạt chân thật của y, trong khoảng khắc con người có thể vượt qua mọi quãng đường dầu xa bao nhiêu. Chỉ mới lúc nãy đây, tôi còn ở tại làng Potal mà các bạn đã từ giã ra đi cách đây năm ngày. Thể xác tôi hãy còn nằm yên tại đó. Người đoàn viên mà các bạn đã để lại Potal sẽ nói cho các bạn biết rằng tôi đã nói chuyện với y cho đến gần bốn giờ chiều, khi ấy tôi nói rằng tôi đi đón các bạn, vì chắc các bạn đã gần đến nơi. Người đoàn viên ấy hãy còn nhìn thấy thể xác bất động của tôi tại đó. Tôi chỉ làm như vậy để cho các bạn thấy rằng chúng tôi có thể rời khỏi Thể Xác để gặp lại các bạn bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Dật Sĩ và Nê Bưu cũng có thể di chuyển bằng cách đó như tôi. Nhưng nhờ vậy các bạn sẽ hiểu rõ hơn rằng chúng tôi cũng vẫn là những người thường, cũng xuất xứ từ một nguồn gốc như các bạn. Không có gì bí mật cả. Chúng tôi chỉ có phát triển những năng lực mà Thượng Đế toàn năng đã ban cho tất cả chúng ta. Thể xác tôi sẽ nằm tại chỗ cũ cho đến chiều tối. Kế đó, tôi sẽ đem nó về đây, và người đoàn viên nọ cũng sẽ ra đi cùng một con đường của các bạn. Y sẽ đến đây vào đúng lúc. Chúng ta sẽ nghỉ một ngày, rồi đi đến một làng nhỏ cách đây chừng một ngày đường. Chúng ta sẽ trở lại đây để đón người đoàn viên nọ và để nghe y tường thuật lại mọi việc. Chúng ta sẽ tụ họp lúc chiều nay tại nhà trọ và tạm thời chúng ta hãy chia tay. Chiều đến, chúng tôi tề tựu đông đủ tại nhà trọ. Vì thời tiết lạnh trên miền núi nên chúng tôi để cửa phòng khép kín. Thình lình đức Tuệ Minh xuất hiện trong phòng họp mà không cần mở cửa, và nói: -Các bạn vừa thấy tôi xuất hiện trong gian phòng này bằng một cách mà người ta gọi là nhiệm mầu. Nhưng sự thật, không có gì là mầu nhiệm cả. Để tôi làm một cuộc thí nghiệm nhỏ mà các bạn sẽ tin bởi vì các bạn có thể nhìn thấy tận mắt. Mời các bạn hãy bước lại gần. Đây là một cái ly nhỏ đựng nước mà các bạn vừa múc ở dưới suối lên. Một cục nước đá nhỏ li ti đang tượng hình ở giữa ly nước. Các bạn hãy nhìn xem nó càng lớn dần do sự kết nạp thêm nhiều cục nước đá khác. Và bây giờ thì tất cả ly nước đều đông đặc. Tại sao vậy? Đó là vì tôi duy trì trong chất Tiên Thiên Khí những phân tử trung ương của chất nước cho đến khi chúng đông đặc lại. Nói một cách khác, tôi đã hạ thấp những rung động của chúng đến mức làm cho chúng trở thành nước đá, và những phân tử chung quanh cũng đều đông đặc lại cho đến khi tất cả đều trở thành một khối nước đá. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho một ly nước uống, một bồn nước tắm, một cái ao, hồ, biển, và toàn thể các đại dương trên quả địa cầu. Nhưng việc gì sẽ xẩy ra? Phải chăng tất cả sẽ đông đặc lại, nhưng vì mục đích gì? Không vì mục đích gì cả. Bởi nguyên động lực nào? Đó là sự vận chuyển một định luật thiên nhiên, nhưng nhằm sự ích lợi gì? không có lợi ích gì cả. Nếu tôi vẫn cứ tiếp tục cho đến cùng, việc gì sẽ xẩy đến? Sự phản ứng. Phản ứng vào ai? Vào tôi. Tôi biết rõ luật Trời. Điều mà tôi gây ra sẽ dội ngược trở lại vào tôi cũng chắc chắn như là khi tôi gây nó ra vậy. Bởi đó, tôi chỉ gây những điều lành, và điều lành sẽ trở lại với tôi. Các bạn thấy rằng nếu tôi cứ tiếp tục gây sự giá lạnh chung quanh tôi, sự đông giá sẽ phản ứng vào mình tôi trước khi tôi kết thúc, và tôi sẽ bị chết cóng, đó là cái kết quả mà tôi gặt hái được do việc làm của mình. Trái lại nếu tôi chỉ làm việc lành, tôi sẽ gặt hái kết quả của việc lành ấy một cách trường cửu. Sự xuất hiện của tôi chiều nay trong gian phòng này có thể giải thích một cách tương tự. Trong gian phòng nhỏ của tôi ở, tôi đã nâng cao những rung động của thể xác tôi cho đến khi nó trở về chất Tiên Thiên Khí và tôi giữ nó ở đó. Đó tức là tôi trả cái Thể Xác tôi lại cho thiên nhiên, là cái kho chứa đựng mọi tinh lực vật chất. Kế đó, do bởi ý chí thiêng liêng (Atma) tôi giữ cái Thể Xác tôi trong tư tưởng cho đến khi tôi hạ thấp những rung động của nó và để cho nó tượng hình trở lại ngay trong gian phòng này mà bây giờ các bạn có thể nhìn thấy. Có gì là bí mật đâu? Phải chăng tôi đã xử dụng cái quyền năng, hay cái định luật mà Thượng Đế đã ban cho tôi xuyên qua cái Chân Ngã linh diệu? Cái Chân Ngã đó phải chăng là anh, là tôi, là tất cả nhân loại? Có sự mầu nhiệm nào đâu? Quả thật là không có. Các bạn vừa thấy những gì đã được thực hiện ở đây, và các bạn còn đang ngờ vực chính đôi mắt của mình, tôi không trách các bạn điều đó. Tôi nhìn thấy trong tư tưởng các bạn có vài người đang nghĩ rằng đây chắc là một cuộc thôi miên. Như vậy là trong số các bạn có người không tin rằng họ có thể sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Thượng Đế ban cho mà họ vừa thấy biểu lộ lúc chiều nay. Phải chăng họ tin rằng tôi đã chế ngự tư tưởng hay thị giác của họ? Phải chăng các bạn tin rằng tôi đã làm một cuộc thôi miên tập thể vì tất cả các bạn đều thấy những gì xảy ra? Các bạn có nhớ chăng trong Thánh Kinh có thuật lại rằng Đức Jesus đã từng xuất hiện trong một gian phòng mà các cửa đều đóng kín? Tôi đã làm y như Ngài. Các bạn có thể nghĩ rằng Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, lại cần phải dùng đến phép thôi miên hay sao? Ngài đã dùng các quyền năng mà Thượng Đế ban cho Ngài, như tôi đã làm chiều nay. Tôi không có làm gì mà mỗi người trong các bạn đều không thể làm được. Và không phải chỉ có các bạn mà thôi đâu. Mỗi người sinh ra trên thế gian này đều có những quyền năng tương tự. Tôi ước mong sao tất cả đều rõ ràng minh bạch trong tư tưởng của các bạn. Các bạn là những nhân vật có cá tính, chứ không phải là những người thụ động, vô tri giác. Các bạn có quyền tự do ý chí của mình. Đức Jesus không cần phải thôi miên ai cả và chúng tôi cũng thế. Các bạn hãy cứ nghi ngờ chúng tôi bao nhiêu tùy ý, cho đến khi nào các bạn đã dứt khoát tư tưởng. Nhưng bây giờ, thì các bạn hãy gạt bỏ ý nghĩ về sự thôi miên, hoặc ít nhất hãy để yên nó một chỗ cho đến khi các bạn đã đi sâu vào vấn đề. Chúng tôi chỉ yêu cầu các bạn hãy giữ một tinh thần cởi mở... * Cuộc di chuyển sắp tới của chúng tôi là một chuyến khứ hồi theo chiều ngang (chúng tôi còn trở về chỗ cũ trước khi tiến xa hơn nữa). Bởi đó chúng tôi để lại tại chỗ các đồ hành lý và sáng ngày hôm sau chúng tôi lên đường đi đến một làng nhỏ ở cách đó chừng ba mươi lăm cây số. Chỉ có Dật Sĩ đi theo chúng tôi. Con đường mòn rất quanh co, khúc khuỷu, và đôi khi rất khó theo dõi xuyên qua rừng rậm. Vùng này là một vùng núi non cheo leo hiểm trở, và con đường mòn này dường như không có người đi. Đôi khi chúng tôi phải mở đường đi xuyên qua những đám nho rừng. Mỗi lần chậm trễ, Dật Sĩ tỏ vẻ bực bội. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên về điều đó vì y thường là người rất bình tĩnh trong mọi việc. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót trong khoảng thời gian ba năm rưỡi sống chung giữa chúng tôi, mà y đã mất sự bình tĩnh. Về sau chúng tôi mới hiểu lý do. Chúng tôi đi đến mục tiêu ngay chiều hôm ấy, vừa mệt vừa đói, vì chúng tôi đã đi suốt ngày, chỉ nghỉ có một lúc ngắn để ăn buổi trưa. Nửa giờ trước khi mặt trời lặn, chúng tôi bước vào làng nhỏ, làng này có độ hai trăm dân cư. Khi họ nghe nói có Dật Sĩ đi theo trong đoàn du khách, tất cả dân làng già trẻ bé lớn, đem theo cả thú vật nhà, đều ra tiếp đón chúng tôi. Tuy rằng chúng tôi là mục tiêu sự tò mò của dân làng, nhưng sau đó chúng tôi nhận thấy rằng sự chú ý của họ tập trung vào Dật Sĩ. Mỗi dân làng đều chào Dật Sĩ một cách tôn kính. Sau khi y đã nói vài lời, phần nhiều dân làng đều trở về với công việc hằng ngày của họ. Dật Sĩ hỏi xem chúng tôi có muốn đi theo y chăng, trong khi người ta dựng lều cắm trại để nghỉ ban đêm. Năm người trong chúng tôi trả lời rằng họ muốn ở lại để nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc. Những người khác và vài dân làng đi theo Dật Sĩ đến tận ven rừng ở chung quanh làng. Chúng tôi đi sâu vào rừng, và không bao lâu, chúng tôi thấy có một người nằm sóng sượt dưới đất. Thoạt tiên chúng tôi tưởng rằng đó là một xác chết, nhưng nhìn kỹ chúng tôi nhận thấy đó là tư thế nằm của một người đang ngủ chứ không phải là một tử thi. Gương mặt người ấy lại là Dật Sĩ, điều này làm cho chúng tôi lặng người vì kinh hoàng! Thình lình, trong khi Dật Sĩ bước đến gần, thì Thể Xác ấy cử động và đứng dậy. Thể Xác ấy và Dật Sĩ đứng đối diện với nhau trong một lúc. Không thể nào có sự lầm lẫn được nữa: cả hai người đều là Dật Sĩ! Rồi bỗng nhiên, chàng Dật Sĩ đi theo chúng tôi biến mất, và chỉ còn có một người đứng trước mặt chúng tôi. Sự việc ấy diễn ra rất mau chóng, và điều lạ lùng là không ai hỏi điều gì cả. Lúc ấy, năm người còn ở lại sau cũng vừa chạy đến nơi, mà không ai kêu họ đến. Về sau, chúng tôi hỏi tại sao họ đến nơi, thì họ trả lời: -Chúng tôi không biết. Chúng tôi chỉ nhớ lại rằng chúng tôi đang chạy đến đây với các anh. Chúng tôi không nhớ rằng có ai kêu gọi chúng tôi đến. Chúng tôi chỉ thấy rằng mình đang chạy, và chúng tôi chỉ thấy rằng mình đang chạy, và chúng tôi đã chạy xa trước khi biết rằng mình đang làm gì. Một người trong chúng tôi kêu lên: -Đôi mắt tôi mở lớn đến nỗi tôi nhìn thấy cõi giới bên kia cửa Tử. Biết bao nhiêu điều mầu nhiệm lạ lùng được tiết lộ cho tôi, làm cho tôi không kịp suy nghĩ gì cả. Một người khác nói: -Tôi thấy toàn thể thế giới đã thắng đoạt được Tử Thần. Khi đó một câu trong sách hiện ra trong trí tôi một cách rõ ràng và sáng chói: "Kẻ thù cuối cùng của loài người, Sự Chết, sẽ bị loại trừ". Phải chăng những lời này đã được thực hiện? Chúng ta có một trí khôn rất tầm thường nhỏ nhen so với cái quan niệm lớn lao vĩ đại đó, tuy vậy nó thật là giản dị biết bao. Và chúng ta đã dám tự cho mình là những khối óc thông minh tuyệt vời. Chúng ta chỉ là những phường trẻ con. Tôi bắt đầu hiểu những lời này: "Các ngươi phải tái sinh trở lại". Những lời này thiệt là chí lý biết bao! Độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên và ngơ ngác của chúng tôi. Đây là một người đã đi cùng với chúng tôi và giúp đỡ chúng tôi hằng ngày, người ấy lại có thể nằm phơi mình trên mặt đất để bảo vệ cho một thôn ấp và đồng thời tiếp tục công việc phụng sự một cách chu đáo và toàn hảo ở một nơi khác. Chúng tôi bị bắt buộc phải nhớ lại câu nói trong Thánh Kinh: "Người cao cả nhất trong các ngươi, là người nào dốc lòng phụng sự kẻ khác". Kể từ khi đó, tất cả chúng tôi không ai còn sợ chết nữa. Dân bổn xứ có thói quen đặt một xác người nằm trong rừng rậm trước một thôn ấp, khi mà trong vùng có nạn xâm lăng quấy nhiễu bởi những phần tử bất hảo đi hai chân hoặc bốn chân. Nhờ đó, làng mạc khỏi bị trộm cướp hay thú dữ khuấy phá, và được an toàn như ở giữa nơi đô thị. Thể Xác của Dật Sĩ hiển nhiên là đã nằm tại đó trong một trong một thời gian rất lâu. Đầu tóc của y đã mọc loạn xạ và có chứa những ổ chim, đó là một loại chim nhỏ đặc biệt của vùng này. Giống chim này đã làm tổ trên đầu y, nuôi những chim non cho đến khi chúng lớn lên và bay đi mất; đó là cái bằng chứng tuyệt đối về thời gian mà xác thân của Dật Sĩ đã nằm yên bất động tại đó. Giống chim này rất nhát gan, mỗi cử động nhẹ cũng làm cho chúng sợ sệt và dọn ổ đi nơi khác. Điều này chứng tỏ rằng chúng đã đặt sự mến yêu và tin cậy vào nơi chúng đã làm ổ. Giống cọp núi ăn thịt người gieo tai họa khủng khiếp trong đám dân làng đến nỗi đôi khi họ bỏ hết mọi sự chống cự và tin rằng định mệnh của họ là bị cọp ăn. Giống cọp này đột nhập vào làng xóm và chọn mồi để ăn thịt. Chính ở trước một thôn ấp này, ở giữa chốn rừng sâu hoang vắng, mà chúng tôi nhìn thấy Thể Xác của một người khác cũng nằm dưới đất vì mục đích bảo vệ xóm làng. Dân làng này đã bị cọp ăn thịt mất gần hai trăm người. Chúng tôi thấy một trong những con cọp này bước đi một cách vô cùng thận trọng ngang qua chân của Thể Xác nằm dưới đất. Hai người trong chúng tôi quan sát cái Thể Xác này trong gần ba tháng. Khi họ rời khỏi làng, Thể Xác ấy vẫn còn nằm yên tại chỗ và không có một tai nạn gì xảy đến cho dân làng. Chính người này về sau đã tháp tùng với phái đoàn chúng tôi trong chuyến hành trình sang Tây Tạng. Đêm đó, trong trại chúng tôi có một sự xúc động mãnh liệt đến nỗi không ai nhắm mắt ngủ được, trừ ra Dật Sĩ. Y ngủ thẳng giấc như một đứa trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng, một người trong chúng tôi ngồi dậy nhìn xem y ngủ, rồi lại nằm xuống và nói với người nằm bên cạnh. -Anh hãy véo tôi một cái để xem có phải thật là tôi đang tỉnh giấc hay không! * Vì chúng tôi có rất nhiều công việc phải hoàn thành trước khi vượt qua dãy Tuyết Sơn, nên làng Asmah là nơi căn cứ tốt nhất của chúng tôi. Người bạn mà chúng tôi đã để lại ở Potal để quan sát đức Tuệ Minh cũng đã về đến nơi. Y thuật lại rằng y đã nói chuyện với đức Tuệ Minh cho đến gần bốn giờ chiều ngày mà Ngài hẹn có mặt tại chỗ đến tiếp đón chúng tôi ở Asmah. Vào lúc đó đức Tuệ Minh nói rằng Ngài phải đi ngay đến chỗ hẹn. Thể Xác Ngài bèn trở nên cứng đơ, nằm yên như người ngủ trên nệm. Ngài nằm trên tư thế đó độ chừng ba tiếng đồng hồ, cái Thể Xác trở nên lu mờ dần và biến mất. Đó là giờ phút mà đức Tuệ Minh tiếp đón chúng tôi vào buổi chiều tại quán trọ làng Asmah. Mùa này chưa thuận tiện để cho chúng tôi vượt qua các truông núi. Ba người bạn cao cả của chúng tôi có thể vượt qua các đoạn đường núi một cách dễ dàng và mau chóng hơn chúng tôi nhiều, nhưng không có vị nào phàn nàn về sự chậm trễ này. Tôi gọi các vị ấy là cao cả, bởi vì họ thật sự xứng đáng với danh từ ấy do đức hạnh của họ. Tại Asmah, chúng tôi đã xuất hành nhiều lần đi ra các vùng chung quanh, có khi thì đi với Dật Sĩ, có khi đi với Nê Bưu. Mỗi lần như vậy, họ đều chứng tỏ những đức tính quý báu. Một trong những chuyến ngao du này nhằm mục đích viếng thăm một làng trong đó có một ngôi đền gọi là Đền Im Lặng. Làng này gồm có ngôi đền và nhà cửa của những người giúp việc công quả trong đền. Trước kia, vùng này là nơi tọa lạc của một làng khác đã hầu như hoàn toàn bị tàn phá bởi các bịnh truyền nhiễm và loài thú dữ. Đức Tuệ Minh, dật Sĩ, Nê Bưu cùng đi với chúng tôi và nói cho chúng tôi biết rằng thuở xưa kia khi các Chân Sư đến viếng nơi này, các Ngài chỉ thấy có một thiểu số lưa thưa những người còn sống sót trong số ba ngàn dân cư trong làng. Các Ngài săn sóc họ, và sau đó những thú dữ và bịnh tật đều biến mất. Những kẻ sống sót mới cầu nguyện rằng trong trường hợp họ được bình yên, họ sẽ xin lập công quả suốt đời và phụng sự trong bất cứ công việc nào do Thượng Đế sắp đặt. Các Chân Sư bèn ra đi, và về sau khi các Ngài trở lại, các Ngài thấy ngôi đền này được dựng lên và những dân làng sống sót trước kia chăm lo việc công quả thờ phượng trong đền. Đó là một ngôi đền rất đẹp, xây trên một ngọn đồi cao, ngự trị khắp vùng chung quanh. Đền xây bằng đá trắng và đã có từ sáu ngàn năm nay. Nó không bao giờ cần có một sự tu bổ nào. Đức Tuệ Minh nói: -Đây là ngôi Đền Im Lặng, tức là nơi chỗ của Quyền Năng, khi chúng ta đạt tới chỗ im lặng trong tư tưởng, chúng ta đến tại chỗ của quyền năng, nơi đó tất cả đều là sự hợp nhất, một quyền năng duy nhất, tức là Thượng Đế vậy. Quyền năng hao tán là động, quyền năng tập trung là tĩnh. Khi ta tập trung mọi sức mạnh vào một trung tâm tinh lực duy nhất, chúng ta tiếp xúc với Thượng Đế trong im lặng. Chúng ta hợp nhất với Ngài và do đó hợp nhất với mọi quyền năng. Đó là cái gia tài thừa kế của con người: "Thượng Đế và tôi chỉ là một". Phương pháp duy nhất để hợp nhất với quyền năng của Thượng Đế là tiếp xúc một cách ý thức với Thượng Đế. Điều này không thể thực hiện được từ bên ngoài, vì Thượng Đế xuất phát từ bên trong nội tâm. Chúng ta hãy từ bỏ ngoại cảnh để quay về sự yên tĩnh của nội tâm. Nếu không như vậy, chúng ta không thể hy vọng hợp nhất một cách ý thức với Thượng Đế. Chúng ta sẽ hiểu rằng quyền năng của Ngài cũng ở trong tầm tay chúng ta, và chúng ta sẽ luôn luôn sử dụng quyền năng ấy. Chừng đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta hợp nhất với quyền năng của Ngài và chúng ta sẽ cảm thông với nhân loại. Con người sẽ từ bỏ những ảo giác của lòng tự ái, sẽ nhận thức được sự vô minh và hèn kém của mình, và sau cùng sẽ sẵn sàng chịu học hỏi. Y sẽ thấy rằng người ta không thể truyền dạy điều gì cho những kẻ kiêu căng tự phụ, và chỉ có những người có lòng khiêm tốn nhỏ nhoi mới có thể hiểu được Chân Lý. Hai chân y sẽ đứng vững trên một nền tảng cứng rắn, y sẽ không còn hoang mang bấp bênh nữa, y sẽ có ý thức về sự quân bình và lòng cương nghị... Thượng Đế không nghe những lời cầu xin tuôn tràn như suối của chúng ta, cũng không nghe những lời kêu gọi thiết tha ầm ĩ lập đi lập lại nhiều lần một cách vô ích. Chúng ta phải tìm kiếm Ngài bằng cái Chân Ngã trong nội tâm, đó là sự liên lạc vô hình giữa ta với Ngài mà ta vốn có sẵn ở tự nơi mình. Ngài nghe lời kêu gọi của linh hồn chân thành cởi mở để tiếp đón Ngài, nếu người cầu xin biết sùng kính Ngài bằng tâm hồn và trong im lặng. Người nào tiếp xúc với Thượng Đế trong âm thầm sẽ nhận biết được quyền năng của Ngài do sự thực hiện được tất cả những điều mong ước của họ. Vì Thượng Đế công khai ban thưởng cho kẻ nào tìm kiếm Ngài trong chỗ thâm sâu kín đáo của tâm hồn. Trong một cơn linh ảnh hiện ra trước mắt Đức Jesus trong bãi sa mạc, Ngài thấy "các cõi Trời rộng mở" và thấu hiểu cái định luật "biểu lộ", theo đó những ý niệm có sẵn trong Tư Tưởng Thiêng Liêng sẽ xuất hiện ra để biểu lộ trong những hình thể sắc tướng. Luật này được tiết lộ cho Ngài một cách hoàn toàn, đến nỗi Ngài thấy rằng Ngài có thể biến đổi tất cả mọi hình thể bằng cách điều chỉnh những trạng thái tâm thức của mình đối với chúng. Trước hết Ngài có ý muốn biến đổi những hòn đá tảng thành bánh mì để ăn cho dịu bớt cơn đói lòng. Nhưng trong khi đó, Ngài cũng tiếp nhận được sự diễn đạt đúng đắn về "luật biểu lộ". Các viên đá tảng, cũng như tất cả mọi vật hữu hình, đều xuất xứ từ cái Chất Liệu của Tư Tưởng Thiêng Liêng, tức là Thượng Đế. Chúng nó là những biểu lộ thật sự của Tư Tưởng của Ngài. Mọi vật mà ta mong muốn, nhưng chưa hình thành, vẫn có sẵn trong chất Tiên Thiên Khí, nó sẵn sàng cung cấp vật liệu cho cơ Sáng Tạo, sẵn sàng tự biểu hiện ra ngoài để thỏa mãn mọi điều ước vọng của con người. Sự cần dùng bánh mì để chứng minh rằng cái chất liệu để làm bánh mì dùng để chứng minh rằng cái chất liệu để làm bánh mì vốn ở trong tầm tay của ta và có sẵn với những số lượng vô biên bất tận. Cái chất liệu đó, nó vốn là tinh hoa của mọi vật, có thể tự biến đổi thành đá tảng hay thành bánh mì. Khi con người mong ước điều lành, sự mong ước của y cùng là một với sự mong ước của Thượng Đế. Kho Chất Liệu Thiên Nhiên, hay Tiên Thiên Khí bao bọc chung quanh chúng ta, có chứa đựng một nguồn tài nguyên vô tận để làm thỏa mãn tất cả mọi sự mong ước tốt lành. Chúng ta chỉ cần tập sử dụng lấy những gì mà Thượng Đế sáng tạo ra trước cho chúng ta. Ngài muốn rằng chúng ta hãy sử dụng cái kho thiên nhiên đó để vượt qua mọi giới hạn vật chất của mình và trở nên "tự do trong sự sung mãn..." Á CHÂU HUYỀN BÍ Baird T. Spalding Chương 2 Quyền năng Sáng Tạo và tâm thức Bồ Đề- Thuật đi trên mặt nước- Ngôi Đền Chữa Bịnh- Phép chuyển di tư tưởng- Những sơn nhân "Người Tuyết" *** Bận về, chúng tôi thấy có một số đông những người lạ tề tựu tại làng Asmah. Họ đến từ những vùng chung quanh. Một số các vị Chân Sư đã tựu họp lại để sắp sửa đi hành hương đến một làng hẻo lánh cách đó gần 400 cây số. Điều này làm chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi đã đi xuất hành một chuyến về hướng ấy và nhận thấy rằng cách đấy 120 cây số, con đường mòn đi ngay vào một bãi sa mạc hoang vu. Bãi sa mạc này thật ra là một vùng cao nguyên bao phủ bởi những cồn cát di động luôn luôn dưới những cơn gió lớn, và ở đó cỏ cây rất thưa thớt. Bên kia đồng cát, con đường mòn vượt lên một dãy núi nhỏ trong dãy Tuyết Sơn. Chiều hôm đó, chúng tôi được mời cùng đi trong chuyến hành hương, và sẽ lên đường vào ngày thứ hai kế đó. Chúng tôi được cho hay trước rằng không cần đem theo những đồ hành lý nặng vì chúng tôi sẽ còn trở về Asmah trước khi vượt qua dãy Tuyết Sơn. Dật Sĩ và Nê Bưu dĩ nhiên là đã chuẩn bị tất cả mọi việc, và ngày thứ hai lúc trời còn chưa sáng, chúng tôi đã nhập bọn với ba trăm đoàn viên của nhóm người hành hương. Phần nhiều những người này bị đau vì những bịnh tật mà họ hy vọng sẽ được chữa khỏi trong chuyến đi này. Mọi việc đều trôi chảy êm đẹp cho đến ngày thứ bảy, trời thình lình nổi lên một cơn giông bão dữ dội nhất mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ. Trong ba ngày và ba đêm, những cơn mưa lũ rơi xuống không dứt, báo hiệu sắp đến mùa hè. Chúng tôi cắm trại ở một nơi cao ráo sạch sẽ, và cơn giông không gây cho chúng tôi một sự trở ngại nào. Chúng tôi lo ngại nhất là vấn đề tiếp liệu, vì chúng tôi biết rằng một sự trì hoãn kéo dài sẽ rất bất tiện cho tất cả mọi người. Thật vậy, những người này chỉ đem theo một số lương thực tối thiểu, vừa đủ dùng cho chuyến hành hương, và không có phòng bị những trường hợp trì hoãn có thể xảy đến. Sự trì hoãn này lại càng nghiêm trọng gấp đôi, vì chúng tôi không thấy có giải pháp nào khác hơn là quay trở về Asmah để tiếp tế lương thực. Trong trường hợp này, chúng tôi phải vượt qua hai trăm cây số đường trường, mà phần lớn đi xuyên qua bãi sa mạc như đã nói ở trên. Sáng ngày thứ năm, mặt trời chói rạng trên một bầu trời quang đãng, và chúng tôi quyết định lên đường. Nhưng người ta cho hay là tốt hơn chúng tôi nên đợi cho đường khô ráo và mực nước sông giựt xuống thấp, để chuyến đi được dễ dàng hơn. Một người trong chúng tôi bày tỏ nỗi lo ngại chung của tất cả mọi người là lương thực sẽ cạn. Đức Tuệ Minh là vị đảm trách việc tiếp liệu, bèn nói với chúng tôi: -Không cần phải lo ngại chi cả. Thượng Đế há chẳng săn sóc tất cả chúng sinh, lớn cũng như bé, và chúng ta há chẳng phải là chúng sinh của Ngài hay sao? Các bạn hãy nhìn xem những hột giống lúa mì này. Tôi trồng nó xuống đất. Cử chỉ đó xác nhận rằng tôi cần dùng lúa mì, tôi đã tạo lúa mì trong trí tôi. Tôi đã làm đúng theo định luật tự nhiên và lúa mì sẽ mọc đúng vào thời kỳ của nó. Phương pháp trồng lúa mì theo luật tự nhiên rất lâu dài và khó nhọc. Chúng ta cần phải chịu khó chờ đợi lâu lắc như vậy chăng? Tại sao không kêu gọi đến một định luật cao siêu và toàn vẹn hơn để làm cho lúa mì mọc lên mau lẹ? Người ta chỉ cần định thần một lát trong sự yên tĩnh, quan niệm rõ lúa mì trong tư tưởng, và đây là những hột lúa mì sẵn sàng để đem xay giã. Nếu các bạn nghi ngờ, các bạn hãy lượm lấy nó, xay nó ra thành bột, và nướng lên thành bánh. Thật vậy, trước mặt chúng ta có lúa mì đã đập xong, chúng ta chỉ cần đem xay ra bột và làm bánh mì. Đức Tuệ Minh nói tiếp: -Các bạn đã thấy và đã tin. Nhưng tại sao chúng ta không kêu gọi đến một định luật còn toàn vẹn hơn nữa và sản xuất một vật còn toàn vẹn hơn, nghĩa là đúng cái món ăn mà ta cần dùng, tức là bánh mì! Các bạn sẽ thấy rằng cái định luật toàn vẹn hơn, tế nhị hơn ấy, sẽ giúp cho tôi làm ra đúng cái món ăn mà tôi cần: đó là bánh mì. Trong khi chúng tôi ngồi nghe một cách thích thú, thì một ổ bánh mì lớn xuất hiện trên tay đức Tuệ Minh, rồi nhiều ổ nữa mà Ngài đặt lên bàn cho đến khi chúng tôi đếm tất cả bốn chục ổ. Đức Tuệ Minh nói: -Các bạn thấy rằng có đủ bánh mì cho tất cả mọi người. Nếu ăn không đủ, thì sẽ có những ổ khác nữa cho đến khi chúng ta ăn còn dư thừa. Tất cả chúng tôi đều ăn bánh mì đó và thấy nó rất ngon. Đức Tuệ Minh lại nói tiếp: -Khi Đức Jesus hỏi Thánh Philips ở thành Galilée: "Chúng ta sẽ mua bánh mì ở đâu?" Thì đó là để thử thách vị môn đồ. Đức Jesus biết rõ rằng bánh mì mà đám quần chúng đang cần dùng không cần phải mua ở ngoài chợ hay ở các thị trường thương mãi. Ngài mượn dịp đó để chỉ các môn đồ thấy rằng người ta có thể tạo ra bánh mì bằng sức mạnh của Tinh Thần. Người đời thường có cái quan niệm vật chất như Philips! Vị môn đồ này cũng tính như mọi người: "Ta có bấy nhiêu bánh mì, bấy nhiêu lương thực, hay bấy nhiêu tiền bạc..." Đức Jesus biết rằng khi người ta sống với tâm thức Bồ Đề hay sống với tâm thức của Chân Ngã, thì người ta không còn bị thiếu thốn hay gò bó trong một sự giới hạn nào cả. Ngài nhìn về Thượng Đế là Nguồn Gốc và đấng Sáng Tạo ra muôn loài và tạ ơn Ngài đã luôn luôn đặt trong tầm tay của loài người cái quyền năng và chất liệu cần thiết để thỏa mãn tất cả những nhu cầu của họ. Ngài bèn bẻ bánh mì và bảo các môn đồ hãy phân phát cho tất cả mọi người. Khi tất cả mọi người đều đã ăn no, thì hãy còn thừa tới mười hai rổ bánh. Đức Jesus dạy rằng trong Tiên Thiên Khí có chứa đựng chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể tìm ra lương thực của mình từ trong đó. Chúng ta chỉ cần rút cái chất liệu ấy ra để tạo nên mọi thứ cần dùng. Cũng bằng cách đó mà Elisée làm cho người quả phụ thành Jérusalem có dầu để ăn thừa thãi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có thừa dầu ăn trong nhà, vì như thế số dầu chỉ có giới hạn. Ngài tiếp xúc với cõi Thiên Nhiên, và số dầu tạo ra không có giới hạn nào khác hơn là dung lượng của những bình chứa. Nếu người ta có đủ số lu, bình, vại để chứa, thì có lẽ đến bây giờ, dầu ấy vẫn còn chảy chưa hết! Đức Tuệ Minh nói tiếp: -Đây không phải là một cuộc thôi miên. Không có người nào trong các bạn đã có cảm giác rằng mình bị thôi miên. Nhưng các bạn đã tự thôi miên lấy mình từ lúc đầu bằng cách tin tưởng rằng người ta không thể nào thực hiện công việc toàn vẹn của Thượng Đế, hay tạo nên những đồ vật mà mình mong ước. Sự nhu cầu phải chăng cũng là ý muốn sáng tạo? Thay vì vươn mình lên để sáng tạo theo như ý muốn của Thượng Đế, người ta tự thu mình trong một cái vòng chật hẹp và nói: "Tôi không thể". Do sự tự kỷ ám thị đó, rốt cuộc người ta tin rằng mình là một thực thể cách biệt với Thượng Đế. Họ đã đi lệch ra ngoài con đường toàn vẹn, họ đã bỏ lỡ mất cái mục đích sáng tạo. Họ không để cho Thượng Đế để tự biểu lộ xuyên qua họ như Ngài muốn. Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, há chẳng nói rằng: "Những việc gì mà ta đã làm, các ngươi cũng sẽ làm được, và các ngươi còn sẽ làm được những việc lớn lao hơn nữa". Con người trong cương vị chân thật của họ, là con của Thượng Đế, sứ mạng của Đức Jesus trên thế gian phải chăng là để chứng tỏ rằng trong cương vị đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách toàn hảo và tốt đẹp như Thượng Đế? Khi Đức Jesus ra lịnh cho người mù hãy đứng dậy rửa mắt y trong nước ao Siloé, phải chăng là để cho đám quần chúng thấy rằng Ngài được Chúa Trời gửi xuống thế gian để sáng tạo cũng y như Chúa Trời vậy? Đức Jesus muốn rằng mỗi người trong chúng ta cũng làm y như vậy bằng cách thực hiện Chân Ngã nơi mình và nơi kẻ khác. Tôi có thể tiến thêm một bước xa hơn nữa. Cái ổ bánh mà tôi nhận được và cầm trên tay đã tiêu hủy dường như bị lửa đốt cháy. Tại sao? Tôi đã lạm dụng cái định luật huyền bí nó đã giúp tôi thể hiện ý muốn. Tôi đã đốt cháy món đồ vật mà tôi vừa sáng tạo nên. Làm như vậy, tôi đã lạm dụng cái định luật toàn vẹn đó, định luật này cũng đúng đắn như những luật của âm nhạc chẳng hạn. Nếu tôi cứ tiếp tục lạm dụng hoài, thì không những luật ấy sẽ đốt cháy những vật tôi đã tạo nên, mà còn đốt cháy thiêu luôn cả người sáng tạo, là chính tôi nữa. Mới đây, các bạn đã thấy một cục nước đá tượng hình trong ly nước mà không có nguyên nhân rõ rệt. Tuy vậy, vẫn có một nguyên nhân đã tạo nên ổ bánh mì. Tôi có thể sử dụng cái định luật huyền bí đó khi mà tôi dùng ổ bánh mì hay khối nước đá để làm việc lợi ích cho nhân loại, hay là khi mà tôi hành động với tình thương,phù hợp với luật ấy, hoặc là khi mà tôi biểu lộ sự hành động của tôi theo ý muốn của Thượng Đế. Làm ra bánh mì, nước đá hay một vật mà mình mong ước, là điều tốt. Mỗi người nên đi mau đến nơi chỗ mà người ta có thể làm những vật ấy. Các bạn có thấy là các bạn nên sử dụng cái định luật cao cả nhất, tức là luật tuyệt đối của Thượng Đế chăng? Các bạn sẽ tạo nên những gì mà các bạn cần dùng và thực hiện được những gì mà các bạn đã quan niệm sẵn trong trí như là cái lý tưởng cao đẹp nhất của mình. Các bạn sẽ được đẹp lòng Thượng Đế hơn bằng cách tự biểu lộ toàn vẹn hơn với điều kiện là phải biết, cũng như Đức Jesus, rằng mình là những người con toàn hảo của Thượng Đế. II Sau tám ngày dừng chân một chỗ, một buổi sáng chúng tôi dỡ trại và tiếp tục lộ trình. Vào lúc xế trưa ngày thứ ba, chúng tôi đến bờ một con sông lớn chừng sáu hay bảy trăm thước bề rộng, nước chảy tràn bờ với một tốc lực rất mau chóng. Chúng tôi được cho biết rằng là lúc bình thường, vì lòng sông cạn đáy nên người ta có thể đi bộ qua sông dễ dàng. Chúng tôi bèn quyết định cắm trại cho đến sáng ngày hôm sau để chờ xem nước sẽ còn dâng lên hay giựt xuống. Chúng tôi được biết rằng người ta có thể đi qua một chiếc cầu ở phía thượng lưu giòng nước để vượt qua sông, nhưng phải đi vòng quanh mất bốn ngày trên những con đường mòn rất cheo leo hiểm trở. Chúng tôi nghĩ rằng nếu phải chờ nước giựt xuống, thì tốt hơn nên đợi vài ngày ở tại chỗ. Như đã được đức Tuệ Minh chứng tỏ cho thấy, chúng tôi không cần phải lo ngại về vấn đề tiếp tế. Thật vậy, từ ngày chúng tôi bị cạn lương thực cho đến ngày trở về căn cứ điểm ở Asmah, tức là trong sáu mươi bốn ngày, tất cả đoàn gồm trên ba trăm người hành hương đều được tiếp tế đầy đủ với những đồ vật thực sự xuất xứ từ "cõi vô hình". Cho đến khi đó, không một ai trong nhóm chúng tôi đã hiểu ý nghĩa thật sự của những sự việc đã xảy ra. Chúng tôi không thể hiểu rằng tất cả đã được thực hiện do bởi một định luật huyền bí mà mỗi người đều có thể sử dụng. Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có năm người lạ ở trong trại chúng tôi như là thuộc về một nhóm người cắm trại ở bờ bên kia sông và vừa về đến nơi từ một làng mà chúng tôi định sẽ đến viếng. Chúng tôi không để ý gì đến chi tiết này, vì lẽ tự nhiên chúng tôi nghĩ rằng chắc là họ đã tìm thấy một chiếc đò để vượt qua sông. Khi đó một người trong bọn chúng tôi mới nói: -Nếu những người này có đò qua sông, thì tại sao chúng ta không mượn dùng để tạm qua sông như họ vậy? Chúng tôi tưởng là đã thấy có lối thoát cho vấn đề khó khăn này, nhưng người ta nói cho chúng tôi biết rằng không có đò vì chỗ này ít có hành khách qua sông nên không ai nghĩ đến việc đưa đò. Sau bữa ăn điểm tâm, tất cả chúng tôi đều tựu họp trên bờ sông. Chúng tôi nhận thấy rằng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu và bốn người trong nhóm chúng tôi đang nói chuyện với năm người khách lạ. Dật Sĩ bước đến gần chúng tôi và nói rằng tất cả bọn họ đều muốn qua sông cùng với năm người khách lạ để ở lại chơi giây lát trong trại ở bên kia sông. Họ còn nhiều thời giờ vì họ đã quyết định ở lại đến ngày hôm sau để đợi cho mực nước sông hạ xuống thấp. Lẽ tự nhiên, sự tò mò của chúng tôi bị kích thích. Chúng tôi cho rằng thật là một việc táo bạo mà muốn lội qua sông giữa giòng nước cuốn mau như vậy, chỉ vì mục đích thăm viếng xã giao một trại láng giềng! Chúng tôi không nghĩ rằng chuyến đi qua sông lại có thể thực hiện bằng một cách khác hẳn. Khi Dật Sĩ đã trở lại nhóm bạn của y, mười hai người trong nhóm có mặc áo quần đầy đủ, liền đi ngay xuống sông, và bước chân lên trên mặt nước (tôi không nói xuống nước). Tôi không bao giờ quên những cảm giác của tôi khi tôi thấy mười hai người ấy nối tiếp nhau đi hàng một từ đất liền xuống sông và đi trên mặt nước một cách tự nhiên! Tôi nín hơi thở, vì tôi lo ngại rằng họ sẽ chìm đắm và bị giòng nước cuốn trôi đi mất. Về sau tôi được biết rằng tất cả các bạn tôi cũng đều cảm nghĩ giống như tôi lúc ấy. Nhưng khi đó, mỗi người trong nhóm chúng tôi đều lặng người nín thở cho đến khi tất cả mười hai người kia đã đi qua khỏi giữa sông, vì chúng tôi ngạc nhiên xiết bao mà thấy họ đi bình yên trên mặt nước, không hề sợ sệt, và nước không ngập quá gót giầy của họ. Khi họ đã qua sông và lên đến bờ bên kia, tôi có cảm giác như trút được một gánh nặng ngàn cân. Tôi tin rằng các bạn tôi cũng có cảm giác như vậy, cứ xét về nụ cười thoải mái của họ khi tất cả mười hai người kia đều đã qua sông. Đó hẳn là một kinh nghiệm chưa từng có đối với chúng tôi. Bảy người trong nhóm của chúng tôi đã vượt qua sông trở lại để dùng bữa ăn trưa. Tuy rằng bận về của họ không gây nên một sự xúc động mãnh liệt như khi họ ra đi lần đầu tiên, mỗi người chúng tôi đều thở dài nhẹ nhõm khi tất cả đều đã bước chân lên bờ. Không có người nào trong nhóm chúng tôi đã rời khỏi bờ sông sang ngày hôm đó. Chúng tôi không bình phẩm gì nhiều về sự việc nói trên vì chúng tôi đã quá đắm chìm trong những cơn suy tư trầm lặng. Đến xế trưa, vì thấy mực nước sông không giựt xuống nên chúng tôi đành phải đi theo đường rừng, đánh một vòng lớn trước khi qua cầu để sang sông. Chúng tôi thức dậy sớm vào sáng ngày hôm sau và chuẩn bị lên đường. Trước khi chúng tôi ra đi, năm mươi hai người trong trại chúng tôi lẳng lặng tiến về phía bờ sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông như mười hai người ngày hôm trước. Người ta nói cho chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể cùng đi qua sông với họ, nhưng không một người nào trong nhóm chúng tôi có đủ đức tin để làm thử. Dật Sĩ và Nê Bưu đòi đi vòng lớn theo đường rừng cùng với chúng tôi. Chúng tôi cố gắng thuyết phục họ đừng làm vậy, viện lẽ rằng chúng tôi có thể tìm đường đi, để tránh cho hai vị khỏi phải tốn công nhọc sức. Hai vị không nghe, nhất định đòi đi cùng với chúng tôi, và nói rằng điều ấy không có gì là khó nhọc đối với họ cả. Trong bốn ngày đi bộ vòng quanh đường núi cheo leo để theo kịp những người đã qua sông bằng cách đi trên mặt nước, chúng tôi không có đề tài nói chuyện hay suy gẫm nào khác hơn là những diễn biến ly kỳ mà chúng tôi đã chứng kiến trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi đã trải qua cùng với những nhân vật lạ lùng này. Qua ngày thứ nhì, chúng tôi đang vất vả khó nhọc để trèo lên một con đường dốc đứng, dưới ánh mặt trời nóng gắt, thì vị trưởng nhóm của chúng tôi, vẫn im lặng từ suốt hai ngày qua không nói một câu nào, thình lình nói lớn: -Này các bạn, tại sao con người lại bị bắt buộc phải bò lết trên mặt đất? Chúng tôi đồng thanh đáp lại rằng ông ta đã nói lên đúng cái ý nghĩ của chúng tôi lúc ấy. Vị trưởng nhóm nói tiếp: -Nếu có những người có thể làm được những gì mà chúng ta vừa thấy, thì tại sao tất cả lại không thể làm được như vậy? Tại sao con người lại bằng lòng chịu bò lết trên đất, và không những bằng lòng thôi, mà bị bắt buộc phải bò và lết? Nếu con người có cái quyền năng chế ngự mọi loài, thì chắc hẳn là y phải có thể bay cao hơn loài chim. Nếu như vậy, tại sao y không chứng tỏ quyền năng của mình từ lâu? Đó chắc hẳn là do tư tưởng của con người. Tất cả đều do cái quan niệm duy vật của con người về bản chất của mình. Trong tư tưởng của y, con người chỉ có nghĩ rằng y đang bò và lết trên mặt đất thôi. Bởi đó nên y chỉ có thể bò và lết! Dật Sĩ liền chụp ngay lấy cơ hội và nói: -Ông bạn hoàn toàn có lý, tất cả đều do tâm trạng của con người. Tùy theo sự cảm nghĩ của con người, mà y bị giới hạn hay toàn năng, tự do hay nô lệ. Các bạn tưởng rằng những người mà ngày hôm qua các bạn đã thấy đi trên mặt nước để vượt qua sông và để tránh khỏi con đường đi vòng quanh vất vả này, là những người đặc biệt và có được ân huệ thiêng liêng chăng? Không? họ không khác gì các bạn cả. Họ không có được một mảy may quyền năng nào hơn các bạn cả. Họ không có được một mảy may quyền năng nào hơn các bạn. Họ chỉ có phát triển quyền năng thiêng liêng của họ bằng cách sử dụng đúng đắn cái sức mạnh của tư tưởng. Những gì các bạn đã thấy chúng tôi làm, các bạn cũng có thể làm được một cách tự do và hoàn hảo như vậy, bởi vì tất cả những hành động của chúng tôi đều hòa hợp với một định luật thiên nhiên mà mỗi người đều có thể sử dụng tùy theo ý muốn. Tới đây câu chuyện chấm dứt. Chúng tôi gặp lại năm mươi hai người đã vượt qua sông, và cùng nhau đi đến nơi thôn ấp, mục tiêu của chuyến hành hương. III Ngôi Đền Chữa Bịnh nằm ở trong thôn ấp nói trên. Tục truyền rằng từ ngày dựng lên ngôi đền này, tại đó người ta chỉ có thốt ra những lời nói biểu lộ lòng hiếu sinh, tình bác ái, và sự bằng an. Những làn âm ba rung động tại đây có một mãnh lực phi thường làm cho phần nhiều khách hành hương được khỏi bịnh ngay trong khoảnh khắc. Người ta cũng đồn rằng những lời nói biểu lộ đức hiếu sinh, bác ái và bằng an tại đây được lập đi lập lại nhiều lần và toát ra từ ngôi đền này từ lâu đến nỗi những âm ba rung động có đủ mãnh lực để phá tan ảnh hưởng của mọi lời nói xung khắc và bất hảo mà người ta thốt ra tại đây. Điều này cũng tiêu biểu cho sự tác động trong con người. Nếu người ta lập được thói quen chỉ thốt ra những lời nói có tính cách hiếu sinh, bác ái, điều hòa và chí thiện, thì không bao lâu người ta sẽ không còn có thể thốt ra một lời nói chướng tai nghịch nhĩ nào nữa. Chúng tôi đã thử dùng những danh từ xấu xa và mỗi lần như vậy đều nhận thấy rằng chúng tôi không thể nào thốt ra nên lời. Ngôi đền này là mục tiêu hành hương của những người muốn được chữa khỏi các chứng bịnh tật. Các vị Chân Sư ở vùng kế cận thường có những cuộc tựu họp định kỳ tại làng này để tiếp xúc với họ và với những người muốn thừa cơ hội đó để học Đạo. Ngôi đền được hoàn toàn cống hiến cho việc chữa bịnh và luôn luôn mở cửa cho công chúng. Vì công chúng không phải lúc nào cũng được gặp các Chân Sư nên các Ngài khuyên họ hãy lại ngôi đền này mỗi khi có dịp thuận tiện vì mục đích chữa bịnh. Bởi đó, các Chân Sư không có chữa bịnh cho những người hành hương này từ lúc đầu. Các Ngài đã cùng đi một lượt với họ để chỉ cho họ thấy rằng các Ngài không khác biệt chi với họ cả, và mỗi người đều có tự nơi mình những quyền năng thiên phú mà Thượng Đế đã ban cho. Khi các Ngài nêu gương vượt qua sông bằng cách đi trên mặt nước, tôi nghĩ rằng các Ngài muốn chứng minh cho những người hành hương và chúng tôi thấy khả năng thắng đoạt mọi chướng ngại khó khăn của các Ngài và khuyến khích chúng tôi hãy bắt chước làm theo các Ngài. Ở những nơi cheo leo cách trở mà từ đó người ta không thể nào đi tới ngôi đền này, người nào đến cầu xin sự cứu giúp của các Chân Sư đều được những kết quả tốt lành. Luôn luôn cũng có những kẻ tò mò và những kẻ vô tín ngưỡng, nhưng dường như họ không nhận được một sự giúp đỡ nào rõ rệt. Chúng tôi tham dự nhiều cuộc hội họp từ hai trăm đến hai nghìn người, trong đó tất cả những người có bịnh tất nan y đều được khỏi bịnh chỉ bằng cách âm thầm bày tỏ ý muốn được chữa khỏi. Chúng tôi có dịp quan sát một số rất lớn những người được chữa khỏi bịnh như vậy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong chín mươi phần trăm các trường hợp, sự khỏi bịnh được lâu bền, và đối với những người được chữa khỏi bịnh trong ngôi đền thì tỷ lệ đó lên đến một trăm phần trăm. Ngôi đền này luôn luôn mở rộng cửa cho những ai muốn tìm đến. Người ta có thể đến đó bao nhiêu lần và ở lại đó bao lâu tùy ý. Một lý tưởng được hình thành bằng cách đó trong tư tưởng của những khách đến viếng và in sâu trong trí họ. Đức Tuệ Minh nói: -Chính ở đây là nơi xuất phát cái mầm móng tư tưởng đưa đến việc tôn sùng thần tượng của thời quá khứ. Con người tìm cách tạc trong gỗ, đá, vàng, bạc hay đồng, hình ảnh cái lý tưởng của họ. Khi cái hình tượng vừa thành hình xong, thì cái lý tưởng đã vượt lên cao hơn cái hình tượng ấy rồi. Bởi vậy, người ta phải nhìn thấy cái diệu ảnh, yêu và lý tưởng hóa những gì đến với ta từ chỗ kín đáo trong linh hồn chứ không phải đưa ra một vật thể làm thần tượng để tiêu biểu cho cái lý tưởng mà chúng ta muốn nêu cao. Một trạng thái gần đây hơn của sự mê tín là suy tôn như một thần tượng người nào phát biểu cái lý tưởng của mình. Trái lại, người ta chỉ nên sùng kính cái lý tưởng được nêu lên, chứ không phải cái cá nhân đã biểu lộ cái lý tưởng đó. Đức Jesus quyết định bỏ ra đi bởi vì Ngài thấy rằng dân chúng bắt đầu suy tôn cá nhân Ngài, thay vì yêu cái lý tưởng mà Ngài là tiêu biểu. Người ta muốn tôn Ngài lên làm vua. Dân chúng chỉ nhìn thấy có một điều, họ chỉ thấy Đức Jesus là người cung cấp đầy đủ mọi thứ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của họ. Không ai là người nhìn nhận rằng họ vốn có tự nơi mình cái khả năng thỏa mãn lấy mọi thứ nhu cầu của chính mình. Không ai nhận thấy rằng họ phải sử dụng cái quyền năng đó như Đức Jesus vậy. Vì lẽ đó, Ngài nói: -Tốt hơn là ta phải ra đi, vì nếu ta không bỏ đi, thì Đấng hằng An Ủi sẽ không bao giờ đến với các ngươi. Nói cách khác, khi mà người ta ỷ lại vào cá nhân Đức Jesus, người ta sẽ không nhận thức được cái quyền năng mà họ vốn có tự nơi mình. Người ta phải tuyệt đối tự tin ở nơi mình. Nếu người ta trông cậy nơi kẻ khác, họ suy tôn kẻ khác ấy làm thần tượng thay vì tự mình biểu lộ cái lý tưởng của mình. Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt những trường hợp khỏi bịnh thật lạ lùng. Vài người bịnh chỉ cần đi ngang qua đền cũng được chữa khỏi. Những người khác phải ở lại đó trong một thời gian rất lâu. Không bao giờ có ai đứng ra làm bất cứ một cuộc hành lễ nào. Dường như không cần phải hành lễ bởi vì những âm ba rung động toát ra từ trong đền có hiệu lực đến nỗi bất cứ người nào bước vào trong vòng ảnh hưởng của nó cũng đều cảm nhận được những ảnh hưởng tốt lành. Chúng tôi thấy người ta chở đến một người bị bịnh cứng khớp xương. Những khớp xương đã cứng đơ của y được hoàn toàn chữa khỏi trong vòng một tiếng đồng hồ và y đã có thể đi đứng lại được. Sau đó y đã làm công tác trong bốn tháng để giúp đỡ trong cuộc hành trình của chúng tôi. Một người khác bị cụt mất hết năm ngón tay và được thấy cả năm ngón đều mọc lại. Một đứa trẻ nhỏ bị tàn phế và tứ chi liệt bại được chữa khỏi ngay tức khắc và chạy ra khỏi đền. Những người bị các chứng phong cùi, đui mù, câm điếc, và nhiều chứng bịnh nan y khác cũng được chữa khỏi ngay lập tức. Sự thật, tất cả những người đến hành hương tại đây đều được chữa khỏi bịnh. Chúng tôi có dịp quan sát một số lớn những người được khỏi bịnh hai hay ba năm về sau bịnh tật đã khỏi hẳn không còn tái phát. Người ta nói rằng những trường hợp bịnh tái phát trở lại là bởi vì người bịnh thiếu đức tin và không có một nhãn quang tâm linh thật sự. IV Khi chúng tôi về tới căn cứ điểm ở làng Asmah, thì mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua truông núi. Sau một ngày nghỉ ngơi, chúng tôi thay đổi toán phu khuân vác và lừa ngựa, và khởi đầu giai đoạn thứ nhì của cuộc hành trình, tức là vượt qua dãy núi Tuyết Sơn. Trong hai mươi ngày kế đó, sự việc diễn biến một cách bình thường, không có gì đáng kể. Đức Tuệ Minh nói với chúng tôi về tâm thức Bồ Đề. Ngài nói: -Chính do bởi sự tác động quyền năng của tư tưởng mà chúng ta có thể biểu lộ tâm thức Bồ Đề hay tâm thức của Đấng Christ. Bằng quyền năng của tư tưởng, chúng ta có thể phát triển thể xác của chúng ta đến mức độ làm cho nó trở thành bất tử, ở mức độ mà chúng ta không còn chịu sự biến đổi gọi là sự chết. Do sự tác động của tư tưởng, do sự tác động của tâm thức Bồ Đề, chúng ta có thể hoán cải những người chung quanh và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt của mình. Tất cả những điều đó đều do cái quyền năng mà Thượng Đế ban cho con người để quan niệm một lý tưởng và thực hiện mục đích. Trước hết, phải biết cảm nhận và tin tưởng bằng đức tin rằng Đấng Christ, tức Bồ Đề tâm, vốn ngự trị bên trong chúng ta. Kế đó, phải hiểu ý nghĩa thật sự của giáo lý Jesus, hợp nhất cái linh thể của mình với Thượng Đế, cái linh thể đó vốn được tạo nên theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài. Phải chan hòa, hỗn hợp nó với cái linh thể toàn vẹn của Thượng Đế, vì chính trong trạng thái chan hòa, hỗn hợp đó mà Thượng Đế nhìn thấy chúng ta... Nói đến đây, đức Tuệ Minh ngừng lại và cho biết rằng ngài sẽ từ giã chúng tôi trong vài ngày để đến gặp vài người bạn đang hội họp trong một làng cách đó độ bốn trăm cây số. Ngài hứa sẽ gặp lại chúng tôi ở cách đây độ một trăm cây số, trong một làng nhỏ ở biên giới mà chúng tôi sẽ đi đến trong bốn ngày. Kế đó ngài biến mất và vài ngày sau ngài đã đến chỗ hẹn vào đúng lúc, cùng với bốn người bạn. * Khi chúng tôi đến làng biên giới nói trên, trời mưa tầm tã không ngớt và tất cả chúng tôi đều bị ướt loi ngoi. Người ta dành cho chúng tôi một quán trọ đầy đủ tiện nghi, gồm có một gian phòng lớn có đủ bàn ghế, có sưởi ấm và trang hoàng lịch sự, dùng làm phòng khách và phòng ăn. Một người trong chúng tôi hỏi nhiệt lực làm sưởi ấm gian phòng này do đâu mà có? Quan sát kỹ, chúng tôi không thấy có lò sưởi hay củi lửa gì cả. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, nhưng không bình phẩm gì vì chúng tôi đã bắt đầu quen với những sự việc lạ lùng và chúng tôi chắc rằng sau này mọi sự sẽ được giải thích rõ. Chúng tôi vừa ngồi vào bàn ăn để dùng cơm tối thì đức Tuệ Minh và bốn người bạn của ngài bước vào phòng mà chúng tôi không biết các ngài vào bằng cách nào. Tất cả năm vị đều xuất hiện ở một góc phòng, mà gần đó không có cửa nẻo chi cả. Việc ấy xảy ra một cách giản dị, âm thầm và không có một tiếng động. Đức Tuệ Minh giới thiệu với chúng tôi bốn người khách lạ, và các Ngài ngồi vào bàn ăn với chúng tôi một cách tự nhiên như ở nhà. Chúng tôi chưa kịp để ý nhìn thấy gì, thì bàn ăn đã có đầy những thức ăn ngon lành, nhưng không có thịt, vì các vị toàn dùng chay. Sau bữa ăn, một người trong chúng tôi hỏi gian phòng được sưởi ấm bằng cách nào. Đức Tuệ Minh nói: -Hơi ấm mà các bạn cảm thấy trong gian phòng này là do một sức mạnh cụ thể mà mỗi người đều có thể sử dụng. Người ta có thể tiếp xúc với mãnh lực ấy, và sử dụng nó dưới hình thức ánh sáng, nhiệt điện, hay tinh lực để vận chuyển máy móc, cơ khí. Đó là điều mà chúng ta gọi là vũ trụ lực, một mãnh lực thiên nhiên mà Thượng Đế ban cho loài người. Sức mạnh ấy có thể vận chuyển mọi loại cơ khí, thực hiện những cuộc chuyên chở mà không tốn nhiên liệu, và cung cấp ánh sáng và nhiệt lực. Mãnh lực ấy có ở khắp nơi để cho con người sử dụng, không bao giờ cạn và không cần phải mua. Một người trong chúng tôi hỏi phải chăng các món ăn vừa rồi là xuất xứ từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ và đến một cách trực tiếp dưới hình thức các món vật thực mà chúng tôi đã ăn, cũng như bánh mì và các món phẩm vật khác vẫn được cung cấp cho chúng tôi từ trước. Đức Tuệ Minh mời chúng tôi đi theo ngài đến nhà của một trong bốn người bạn, ở cách đó độ ba trăm năm chục cây số. Chúng tôi cũng gặp thân mẫu ngài tại đó. Ngài nói: -Thân mẫu tôi là một trong những người đã tinh luyện thể xác đến mức có thể phân thân đi khắp mọi nơi và để học Đạo trên những cõi cao. Bởi đó, bà sống thường xuyên trong cõi vô hình. Điều này là một việc tình nguyện, vì nhờ học Đạo thượng đẳng, bà có thể giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Nói rõ hơn cho các bạn dễ hiểu, bà đã tiến hóa đến mức đạt tới cõi Trời là nơi hiện diện của Đức Jesus, tức là nơi mà đôi khi người ta gọi là cảnh giới thứ bảy của cõi Thiên Đường. Đối với các bạn, cảnh giới đó có lẽ là điều bí mật lớn nhất trong mọi điều bí mật, nhưng thật ra không có gì bí mật cả. Đó là một trạng thái tâm thức mà tất cả mọi điều huyền bí đều được tiết lộ. Người hành giả đạt tới đó rồi, thì sẽ trở nên vô hình vô ảnh đối với kẻ phế nhân phàm tục, nhưng họ có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người thụ cảm và có căn duyên. Họ trở lại trong thể xác của họ, vì thể xác ấy đã được tinh luyện đến mức toàn hảo để có thể được di chuyển khắp nơi tùy ý. Những vị đạo đồ ở cấp đẳng có thể trở lại thế gian mà không cần phải đầu thai chuyển kiếp. Những người nào đã bước qua cửa Tử bị bắt buộc phải đầu thai trở lại để khoác lấy một thể xác mới. Còn thể xác của chúng tôi là những thể xác tâm linh toàn hảo và có thể được gìn giữ rất lâu. Người nào đã từ bỏ thể xác để thăng lên các cõi giới tinh thần sẽ nhận thấy rằng họ phải tái sinh trong một thể xác mới để tiếp tục tiến hóa nữa... Tối hôm đó, trước khi rời khỏi bàn ăn, chúng tôi quyết định chia cuộc hành trình ra làm năm toán, mỗi toán đặt dưới sự trông nom của một trong những người khách lạ đã thình lình xuất hiện trong phòng để dùng bữa với chúng tôi. Cách sắp đặt này sẽ giúp cho chúng tôi có thể thám hiểm nhiều vùng rộng lớn. Nó sẽ làm cho công việc của chúng tôi được dễ dàng và giúp chúng tôi có thể kiểm chứng những hiện tượng huyền linh như là đi ngao du trong cõi vô hình và giao thông với nhau bằng phép chuyển di, tư tưởng. Mỗi toán sẽ gồm ít nhất hai đoàn viên và do một trong năm vị Chân Sư lãnh đạo. Mỗi toán sẽ ở cách biệt rất xa với những toán khác, nhưng sự liên lạc sẽ được thực hiện bởi các vị Chân Sư, các ngài đã tỏ ra rất nhiều cảm tình ưu ái đối với chúng tôi và không bỏ qua một dịp nào để cho chúng tôi kiểm chứng lại công việc của các ngài. V Qua ngày hôm sau, tất cả mọi việc đều được chuẩn bị sẵn sàng từng chi tiết. Toán của tôi gồm có tôi và hai đoàn viên, có đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi dẫn đường. Sáng ngày kế đó, mỗi toán đều sẵn sàng ra đi theo những chiều hướng khác nhau. Chúng tôi đồng ý rằng mỗi toán sẽ quan sát cẩn thận những gì xảy đến và ghi chép làm tài liệu. Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau trở lại trong hai tháng ở quê hương của đức Tuệ Minh, một làng nhỏ cách đó ba trăm năm chục cây số. Sự liên lạc giữa các toán khác nhau sẽ do các vị Chân Sư đảm nhiệm. Thật vậy, các ngài đảm nhiệm việc đó mỗi buổi chiều, nói chuyện với nhau bằng tư tưởng và di chuyển từ toán nọ đến toán kia. Khi chúng tôi muốn tiếp xúc với vị trưởng toán hay với một đoàn viên, chúng tôi chỉ cần giao bức thông điệp của mình cho các Chân Sư. Sự trả lời đến với chúng tôi trong một thời hạn rất ngắn không thể tưởng tượng. Khi chúng tôi đưa ra những bản thông điệp như thế, chúng tôi viết tay và có ghi ngày giờ cẩn thận. Chúng tôi cũng ghi chép trong bức thơ trả lời ngày giờ mà chúng tôi nhận được. Khi chúng tôi tựu họp với nhau trở lại, chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu đã ghi chép và nhận thấy mọi việc đều ăn khớp với nhau một cách hoàn toàn. Ngoài ra, các Chân Sư di chuyển từ trại này sang trại khác và nói chuyện với các đoàn viên của mỗi toán khác nhau. Chúng tôi ghi chép cẩn thận những địa điểm và ngày giờ khi các ngài xuất hiện và biến mất, cùng những đề tài đã đề cập tới. Về sau, khi chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu ghi nhận, thì mọi sự cũng đều hoàn toàn ăn khớp với nhau. Những toán của chúng tôi ở cách nhau rất xa, một toán ở Ba Tư, một toán ở Trung Hoa lục địa, toán thứ ba ở Tây Tạng, toán thứ tư ở Mông Cổ và toán thứ năm ở Ấn Độ. Các Chân Sư đã vượt qua những đoạn đường dài đến hai nghìn cây số trong cõi vô hình để thông tin tức cho chúng tôi biết những gì xảy ra ở mỗi trại. Mục tiêu di chuyển của toán chúng tôi là một làng nhỏ ở trên một vùng cao nguyên trong dãy Tuyết Sơn, cách chỗ khởi điểm của chúng tôi một trăm năm chục cây số. Chúng tôi không có đem theo lương thực cho cuộc hành trình. Tuy nhiên chúng tôi không bao giờ thiếu thốn điều gì, và chúng tôi luôn luôn có thể tìm nơi cư trú có đủ tiện nghi để ngủ đêm. Chúng tôi đến mục tiêu vào lúc xế trưa ngày thứ năm. Một nhóm dân làng đến chào đón và đưa chúng tôi đến một nhà trọ sạch sẽ tươm tất. Chúng tôi nhận thấy rằng dân làng tỏ ra rất kính trọng đức Tuệ Minh và Dật Sĩ. Đức Tuệ Minh chưa bao giờ đến làng này, còn Dật Sĩ chỉ đến có một lần sau khi có lời kêu gọi cứu giúp trong một trường hợp khẩn cấp. Đó là trong dịp cứu cấp ba người dân làng bị bắt cóc đem đi bởi những "Người Tuyết", một loại sơn nhân rất hung dữ cư ngụ ở vài vùng hoang vu hẻo lánh nhất trên dãy Tuyết Sơn. Cuộc thăm viếng hiện thời cũng để đáp ứng một lời kêu gọi tương tự và cũng nhằm mục đích cứu giúp những người bịnh không thể di tản ra khỏi làng. Dường như những "Người Tuyết" này là những kẻ ngoài vòng luật pháp đã từng ở những vùng sơn cước đầy tuyết lạnh trong nhiều thế hệ, và sau cùng đã thành lập nên những bộ lạc du mục có thể sống tự túc trong những vùng núi non hoang vắng, hoàn toàn khác biệt với thế giới văn minh của loài người. Tuy dân số của chúng không bao nhiêu, chúng rất hung dữ và hiếu chiến. Đôi khi chúng bắt cóc những người nào không may lọt vào tay chúng và hành hạ những người ấy. Vì có bốn người dân làng đã bị bắt đi trong những hoàn cảnh đó, những người khác không biết phải làm sao, mới gửi một người đi cầu cứu với Dật Sĩ. Dật Sĩ bèn ra đi với đức Tuệ Minh và đem cả chúng tôi theo. Lẽ tự nhiên là chúng tôi rất mong mỏi được thấy những người sơn nhân đó, mà chúng tôi có nghe nói đến nhưng vẫn chưa tin. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ rằng người ta nên thành lập một đoàn nghĩa binh cấp cứu mà chúng tôi có thể gia nhập. Nhưng hy vọng đó đã tiêu tan khi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chúng tôi biết rằng hai vị sẽ đi một mình và cùng đi ngay tức khắc. Trong chốc lát, hai vị đã biến mất dạng và chỉ trở về vào lúc chiều ngày hôm sau, cùng với bốn người dân làng vừa được giải thoát. Những người này thuật lại nhiều câu chuyện quái đản về cuộc phiêu lưu của mình và về những người sơn nhân đã bắt cóc họ. Dường như những "Người Tuyết" lạ lùng này sống hoàn toàn khỏa thân. Chúng mọc lông khắp mình như những loài thú và chịu đựng nổi thời tiết lạnh kinh khủng trên miền sơn cước. Chúng di chuyển rất mau lẹ. Người ta còn nói rằng chúng có thể rượt bắt những loại thú rừng ở vùng của chúng ở. Chúng gọi các Chân Sư là những "Người của Mặt Trời", và khi các Ngài đến giải thoát cho những kẻ bị bắt, thì chúng không chống cự. Chúng tôi được biết rằng các Chân Sư đã nhiều lần thử mở một cuộc tiếp xúc với những "Người Tuyết", nhưng vô hiệu, vì chúng rất sợ sệt các Ngài. Khi các Chân Sư đến gần những "Người Tuyết", thì chúng bỏ ăn, bỏ ngủ, và chạy trốn trong những chỗ núi rừng hoang vu vì quá sợ sệt. Chúng đã mất mọi sự liên lạc với đời sống văn minh và thậm chí cũng quên rằng trước kia chúng đã có những mối tương quan với những chủng tộc loài người và tổ tiên của chúng đã xuất xứ từ đó mà ra. Quả thật là chúng đã hoàn toàn biệt lập với xã hội loài người. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ không muốn nói nhiều với chúng tôi về những "Người Tuyết". Chúng tôi cũng không thể xin hai vị cho chúng tôi đi theo tận nơi để nhìn xem chúng. Đáp lại những câu hỏi của chúng tôi, hai vị chỉ nói như sau: -Chúng cũng là con của Thượng Đế như chúng ta, nhưng từ lâu chúng đã nuôi lòng sợ hãi và thù ghét kẻ đồng loại, và những tật đố này càng ngày càng tăng trưởng. Như vậy, chúng đã tự ly khai với xã hội loài người đến mức quên mất đi sự liên hệ của mình trong đại gia đình nhân loại và tưởng rằng chúng là những loại thú rừng. Đi lần đến chỗ cực đoan, thậm chí chúng cũng mất cả bản năng của loại thú rừng, vì loại thú rừng do bản năng dìu dắt còn nhận biết được những người thương yêu chúng và đáp lại cái tình thương đó. Khi con người tự ly khai với Thượng Đế và với nhân loại đến mức đó, y có thể rớt xuống thấp hơn loài vật. Không có ích gì mà đưa các bạn đến gặp những "Người Tuyết", vả lại điều ấy còn làm hại cho chúng. Chúng tôi hy vọng rằng một đứa trong chúng nó có ngày sẽ trở nên thụ cảm đối với sự dạy dỗ của chúng tôi, và do người tuyết ấy làm trung gian, chúng tôi sẽ độ cho tất cả chúng nó... Chúng tôi được cho biết rằng chúng tôi được tự do tìm cách nào tùy sáng kiến riêng của mình để nhìn thấy những "Người Tuyết" lạ lùng đó; các Chân Sư chắc chắn sẽ che chở chúng tôi khỏi mọi tai nạn và có thể ra tay giải cứu nếu chúng tôi bị bắt. Theo chương trình được thiết lập cho ngày hôm sau, chúng tôi phải đi viếng một ngôi đền rất cổ xưa, ở cách làng này độ sáu chục cây số. Hai người đoàn viên trong toán của tôi quyết định không tham dự cuộc viếng thăm này để đi thu thập tài liệu về những "Người Tuyết". Họ khẩn khoản yêu cầu hai người dân làng cùng đi theo họ, nhưng hai người này quyết liệt từ chối. Không một người nào chịu rời khỏi làng, khi mà có nguy cơ gặp phải "Người Tuyết" ở vùng chung quanh. Hai đoàn viên này bèn ra đi một mình. Họ được đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chỉ thị về lộ trình và những gì phải làm. Họ giắt súng ngắn vào lưng và chuẩn bị lên đường. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đã bắt họ phải hứa rằng chỉ bắn chết người trong trường hợp chẳng đặng đừng. Họ có thể bắn súng trơn, không lắp đạn, hay bắn chỉ thiên tùy ý muốn để thị oai với bọn sơn nhân, nhưng họ phải hứa trên danh dự rằng họ chỉ bắn chết trong trường hợp không thể nào làm khác hơn. Tôi ngạc nhiên mà thấy có một khẩu súng ngắn trong hành lý của chúng tôi, vì chúng tôi không bao giờ cần phải sử dụng khí giới. Tôi đã bỏ những khẩu súng của tôi từ lâu, thậm chí cũng không nhớ rõ là bỏ ở đâu. Nhưng sau mới biết là một trong những người lao công giúp chúng tôi sửa soạn hành lý, đã xếp vào đó hai khẩu súng ngắn mà không ai hay biết. Á CHÂU HUYỀN BÍ Baird T. Spalding Chương 3 Một ngôi đền cổ một trăm hai mươi thế kỷ _ Vượt qua khu rừng cháy _ Những di tích của Thánh Jean Baptiste _ Những cuộc chữa bịnh nhiệm mầu _ Tuổi tác và hình dáng của các Chân Sư _ Ngôi đền trên chóp núi. *** Trưa hôm đó, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và tôi cùng đi đến ngôi đền, và đến nơi vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Tại đây, chúng tôi được hai người coi đền tiếp rước và dọn chỗ cho chúng tôi nghỉ lại ban đêm. Đền này được xây cất bằng đá trên một ngọn núi cao, tục truyền rằng đã có từ mười hai ngàn năm. Đền vẫn còn trong trạng thái nguyên vẹn, toàn hảo. Có lẽ đó là một trong những ngôi đền đầu tiên được dựng lên bởi các vị Đại Sư của môn phái tu luyện trường sinh hồi thời cổ. Các vị xây đền này với mục đích tạo dựng nên một nơi tu tịnh hoàn toàn yên tĩnh, và có lẽ không có một cuộc đất nào khéo chọn hơn là chỗ này. Đó là một đỉnh núi cao nhất trong vùng, chiều cao ba ngàn năm trăm thước. Con đường núi đưa lên tới đây hầu như dốc đứng trong đoạn cuối cùng dài mười hai cây số. Có chỗ nó vượt qua những chiếc cầu treo bằng dây thừng. Một đầu những dây thừng này buộc chặt với những tảng đá lớn ở tận trên cao, và đầu kia buông thòng xuống trong khoảng không, cột những thân cây ghép lại làm cầu treo lủng lẳng ở một chiều cao hai trăm thước. Ở những chỗ khác, chúng tôi bắt buộc phải trèo lên những nấc thang buộc vào những sợi dây thừng từ trên cao thòng xuống. Đoạn đường dài một trăm thước cuối cùng là một đường hoàn toàn dốc đứng. Chúng tôi trèo lên con đường này toàn là bằng những cái thang dây thuộc loại kể trên. Khi đến nơi, tôi có cảm giác như ở trên tột đỉnh của thế giới. Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy vào lúc mặt trời mọc. Sau một đêm ngủ ngon giấc, tôi hoàn toàn quên mất sự leo núi vất vả nhọc mệt của ngày hôm trước. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống dưới, người ta không nhìn thấy gì trong khoảng một ngàn thước, thành thử nơi này có vẻ như treo lủng lẳng trên không trung. Thật là khó mà xóa bỏ cái cảm giác đó. Ba ngọn núi khác nhô lên ở tận đằng xa. Người ta nói rằng trên đỉnh mỗi ngọn núi ấy đều có một ngôi đền giống như ngôi đền này, nhưng các ngọn núi ấy ở cách xa đến nỗi tôi nhìn qua ống dòm cũng không trông thấy gì. Đức Tuệ Minh cho tôi biết rằng nhóm đoàn viên của Tô Mặc, vị trưởng nhóm của chúng tôi, có lẽ đã đến ngôi đền ở trên đỉnh ngọn núi xa nhất cùng một lượt với chúng tôi tại đây. Ngài nói rằng nếu tôi muốn tiếp xúc với Tô Mặc, tôi có thể nói chuyện được, vì y cùng với các đoàn viên cũng đang đứng trên nóc đền như chúng tôi vậy. Tôi lấy bút ra viết một bức thông điệp gởi cho Tô Mặc: “Tôi đang đứng ở trên nóc đền, ba ngàn năm trăm thước cao hơn mặt biển. Đền cho tôi cái cảm giác bị treo lủng lẳng trên không gian. Đồng hồ tôi chỉ đúng 4:55 sáng ngày thứ bảy 2 tháng 8”. Đức Tuệ Minh đọc bức thông điệp và đắm chìm một lúc trong im lặng. Kế đó, tôi được sự trả lời của Tô Mặc: “Đồng hồ tôi chỉ 5:01 sáng ngày thứ bảy 2 tháng 8. Chỗ này hai ngàn tám trăm thước cao hơn mặt biển. Cảnh rất đẹp, vị trí này thật là độc đáo”. Đức Tuệ Minh nói: -Nếu các bạn muốn nói gì thêm, tôi sẽ đem đi bức thông điệp và đem về câu trả lời. Nếu các bạn không thấy gì trở ngại, tôi sẽ đi nói chuyện với những người đang ở ngôi đền đằng ấy. Tôi bèn đưa thông điệp cho Ngài và Ngài liền biến mất. Một giờ ba khắc sau đó, Ngài trở về với một thông điệp của Tô Mặc nói rằng đức Tuệ Minh đã đến 5:16 giờ và nhóm của y đang sung sướng nghĩ đến những gì sắp thực hiện trong cuộc hành trình của chúng tôi. Sự sai biệt về giờ khắc trên đồng hồ của chúng tôi là do sự khác biệt của đường kinh tuyến trên Trái Đất. Chúng tôi ở lại đền này trong ba ngày, trong khi đó đức Tuệ Minh đi viếng thăm tất cả những toán đoàn viên trong cuộc hành trình, có đem đi những thông điệp của tôi và đem về những thông điệp của tất cả những toán khác. Sáng ngày thứ tư, chúng tôi sửa soạn trở về làng, nơi mà chúng tôi đã để lại những người bạn đi tìm những “Người Tuyết”.Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ còn muốn đến một làng nhỏ ở trong thung lũng, cách chỗ lộ tẻ trên con đường mòn của chúng tôi độ năm chục cây số. Tôi tán đồng việc đó và đề nghị để cho tôi đi theo hai vị. Đêm đó chúng tôi nghỉ trong một túp lều tranh của bọn mục đồng, và ra đi từ lúc sáng sớm để kịp đến nơi vào sáng ngày hôm sau, vì chúng tôi đi bộ. Vì không thể đến ngôi đền bằng ngựa, nên chúng tôi đã để ngựa ở lại với các bạn tôi trong làng nhỏ nói trên. Sáng ngày hôm đó, khoảng mười giờ, đột nhiên có một cơn giông bão dữ dội sấm chớp không ngừng, hăm dọa sẽ có cơn mưa lũ tầm tã đêm ngày. Nhưng trời vẫn tạnh ráo không rơi một giọt mưa. Chúng tôi đi qua một khu rừng cây rất rậm rạp. Mặt đất bao phủ bằng một loại cỏ rất khô và cứng. Trọn vùng chung quanh dường như khí hậu khô ráo một cách đặc biệt khác thường. Sét đánh làm cho cỏ khô bắt lửa cháy lan tràn ở nhiều nơi, và trước khi chúng tôi nhận biết được việc gì xảy ra, chúng tôi đã bị vây phủ chung quanh bởi một đám cháy rừng. Không bao lâu, cơn hỏa hoạn đã bộc phát dữ dội và đồng loạt tiến đến gần chúng tôi từ ba phía với một tốc lực nhanh chóng kinh khủng. Khói bốc lên từng đám dày đặc làm cho tôi hoang mang kinh sợ. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ có vẻ bình tĩnh ung dung, điều này cũng làm cho tôi trấn tĩnh được ít nhiều. Hai vị nói: -Có hai cách đi thoát khỏi nơi đây. Cách thứ nhất là đi đến một giòng suối chảy dưới đáy một vực sâu ở gần đây. Muốn vậy, chúng ta phải vượt qua tám cây số đường rừng. Đến đó chúng ta có thể trú ẩn an toàn cho đến khi đám cháy tự nó tàn lụi dần vì không có chỗ bắt cháy thêm được nữa. Cách thứ nhì là vượt qua đám cháy, nhưng bạn phải tin tưởng nơi khả năng của chúng tôi là có thể độ cho bạn đi an toàn qua vùng khói lửa. Tôi nhận thấy rằng các vị luôn luôn tỏ ra có đủ bản lĩnh tháo vát trong tất cả mọi trường hợp, và tôi liền hết sợ ngay lập tức. Tôi bèn đặt cả thể xác lẫn linh hồn tôi dưới sự che chở của hai vị, tôi đi giữa, hai vị quàng vai tôi đi kèm hai bên. Chúng tôi thẳng tiến về hướng mà đám cháy đang hoành hành với một cường độ mãnh liệt nhất. Ngay lúc đó dường như có một cái vòm mở rộng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi đi xuyên qua đám cháy mà không một mảy may bị khó chịu vì khói, hơi nóng hay những đống lửa cháy đỏ rực trên đường đi của chúng tôi. Chúng tôi đi như vậy trên mười cây số một cách yên ổn và an toàn dường như không có hỏa hoạn ở chung quanh. Sau cùng chúng tôi vượt qua một con rạch nhỏ, và sau đó chúng tôi đã ra khỏi vùng hỏa hoạn. Bận về, tôi đã có nhiều thời giờ để quan sát con đường mà chúng tôi đi qua trong lúc đó. Trong khi chúng tôi vượt qua khỏi đám cháy, đức Tuệ Minh nói với tôi: -Bạn có thấy chăng, trong trường hợp tuyệt đối khẩn cấp, thật rất dễ mà kêu gọi đến những định luật thượng đẳng huyền bí của Trời để thay thế vào những định luật hạ đẳng của trần gian? Vừa rồi, chúng tôi đã nâng những rung động của thể xác chúng tôi lên một nhịp độ cao hơn nhịp độ của lửa, và bởi đó, lửa không còn làm hại chúng tôi được nữa. Nếu một người thường có thể nhìn thấy chúng tôi lúc đó, họ sẽ tưởng rằng chúng tôi biến mất, nhưng sự thật chúng tôi vẫn có mặt tại chỗ. Thật ra chúng tôi không thấy có sự khác biệt. Trong trạng thái đó, chúng tôi không còn ý thức về những giác quan của thể xác. Một người thường có lẽ cho rằng chúng tôi đã dùng thuật thăng thiên, và điều đó có lẽ cũng đúng như vậy. Chúng tôi đã vượt lên một trình độ tâm thức siêu đẳng mà người thường không với lên tới được. Mỗi người có thể bắt chước chúng tôi. Chúng tôi đã sử dụng một định luật mà Thượng Đế ban cho để cho chúng ta sử dụng. Chúng tôi có thể sử dụng định luật ấy để di chuyển thể xác của mình đến tận bất cứ nơi nào dù xa đến đâu trong không gian. Chính đó là cái định luật mà chúng tôi đã sử dụng để xuất hiện và biến mất trước mắt người đời, để thắng đoạt không gian, như người ta thường nói. Chúng tôi chỉ thắng đoạt mọi khó khăn chướng ngại bằng cách nâng cao tâm thức của mình cho nó vượt lên trên những khó khăn đó. Điều đó giúp chúng tôi thắng đoạt tất cả những giới hạn mà con người thường tự đặt ra cho mình trong cái tâm thức phàm trần của họ… Tôi có cảm giác dường như chúng tôi chỉ đi lướt trên mặt đất. Khi chúng tôi ra khỏi vùng hỏa hoạn và được an toàn ở bên kia bờ rạch, trước hết tôi có cảm giác như vừa thức dậy sau một cơn ngủ mê và đó chỉ là một giấc mộng. Nhưng sự hiểu biết những gì đã xảy ra lần lần tăng trưởng ở nơi tôi, và ý nghĩa thật sự của những diễn biến đó bắt đầu hiện rõ từ từ và soi sáng tâm hồn tôi. Chúng tôi tìm một nơi có bóng mát trên bờ rạch, và ăn một bữa lót dạ, kế đó chúng tôi nghỉ ngơi trong một vài giờ và trở về làng. II Làng này tỏ ra là một nơi đầy thú vị, vì ở tại đây có những tài liệu lịch sử được giữ gìn rất kỹ lưỡng. Những tài liệu này khi được phiên dịch ra, đã đem đến một bằng chứng không thể chối cãi rằng Thánh Jean Baptiste đã từng sống ở tại đây năm năm. Sau đó, chúng tôi đã có dịp xem và dịch những tài liệu khác nữa chứng tỏ rằng Ngài đã ở lại trong vùng này độ mười hai năm. Mãi về sau, người ta đã đưa cho chúng tôi xem những tài liệu dường như chứng tỏ rằng Ngài đã cùng với người địa phương đi du lịch trong hai mươi năm xuyên qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Ba Tư và Ấn Độ. Chúng tôi có cảm tưởng rằng có thể theo dõi bước chân của Ngài trên lộ trình mà các tài liệu đã ghi rõ. Những văn kiện này làm chúng tôi thích thú đến nỗi chúng tôi đã trở lại một vài làng để sưu tầm sâu rộng thêm. Bằng cách soạn lại những dữ kiện thâu thập được, chúng tôi có thể vẽ ra một bản đồ ghi rõ lộ trình và những sự di chuyển của Thánh Jean Baptiste. Vài sự việc được diễn tả cho chúng tôi trong những câu chuyện tường thuật hấp dẫn và linh động đến nỗi chúng tôi tưởng tượng rằng mình đang đi cùng một con đường với Thánh Jean Baptiste và theo những đường mòn mà Ngài đã đi qua trong quá khứ xa xăm đó. Chúng tôi ở lại làng này trong ba ngày, sau đó chúng tôi sẵn sàng trở về làng mà nơi đó chúng tôi đã bỏ lại vài người bạn. Sứ mạng của đức Tuệ Minh và Dật Sĩ ở làng này chỉ là để chữa bịnh cho những người đau yếu. Hai vị có thể trở về làng trong một thời gian ngắn hơn tôi rất nhiều, nhưng vì tôi không thể đi mau như hai vị, nên hai vị đã dùng cách di chuyển của tôi. Các bạn tôi đợi chúng tôi tại làng. Họ đã hoàn toàn thất bại trong việc đi tìm những “Người Tuyết”. Sau năm ngày đi tìm, họ đã mệt mỏi và bỏ cuộc. trên đường về, họ chú ý đến cái bóng đen của một người in rõ trên nền trời xanh trên một đỉnh núi cách đó chừng hai ngàn thước. Trước khi họ có thể sử dụng ống dòm, thì người ấy đã biến mất. Họ chỉ nhìn thấy cái bóng ấy trong một thời gian rất ngắn, và chỉ có ấn tượng rằng người ấy có hình thù giống như khỉ có lông dài. Họ hối hả đi đến nơi mà cái bóng đen đã xuất hiện, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Họ dùng thì giờ còn lại trong ngày để thám hiểm vùng chung quanh nhưng không kết quả, và sau cùng đành phải bỏ qua việc ấy. Sau khi nghe lời tường thuật của tôi, các bạn tôi muốn trở lại viếng ngôi đền, nhưng đức Tuệ Minh cho họ biết rằng chúng tôi sắp đến viếng một ngôi đền tương tự nên họ bèn bỏ qua ý định trên. Một số lớn dân các vùng lân cận đã tụ họp tại làng này để xin chữa bịnh, vì những người biết chuyện đã đồn đãi tin tức khắp nơi, và thuật chuyện bốn dân làng bị bọn “Người Tuyết” bắt đi đã được cứu thoát. Ngày hôm sau, chúng tôi tham dự các cuộc hội họp và đã chứng kiến vài trường hợp chữa bịnh thật lạ kỳ. Một thiếu phụ độ chừng hai mươi tuổi bị cóng lạnh và tê liệt hai bàn chân trong mùa đông năm trước, nay đã bình phục. Chúng tôi được nhìn thấy chỗ thịt bị hư nát đã liền lại trước mắt chúng tôi cho đến khi hai bàn chân trở lại bình thường và cô ấy có thể đi đứng một cách hoàn toàn tự nhiên. Hai người mù đã thấy lại được ánh sáng trong số đó hình như có một người bị mù từ thuở mới sinh ra. Nhiều chứng bịnh khác cũng được chữa khỏi. Tất cả những người bịnh đều có vẻ rất xúc động bởi những lời nói của các Chân Sư. Sau buổi hội họp, chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng việc chữa khỏi bịnh này có lôi cuốn được nhiều người hay chăng? Ngài đáp: -Nhiều người thật sự đã được giúp đỡ nên điều ấy đã khêu gợi sự chú ý của họ. Vài người bắt đầu làm việc công quả trong một thời gian. Nhưng phần nhiều thì không bao lâu sẽ quay về đường cũ với những thói quen cố hữu của họ. Họ đo lường sự cố gắng mà họ phải làm và thấy nó quá lớn. Hầu hết đều sống một cuộc đời dễ dãi và không lo lắng. Trong số những người tự cho mình là có đức tin, chỉ có độ một phần trăm là bắt tay vào việc một cách nghiêm chỉnh. Kỳ dư đều hoàn toàn sở cậy nơi kẻ khác để được giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Đó là cái nguyên nhân chính của những phiền lụy của họ. Họ cả quyết có thể giúp đỡ bất cứ ai muốn họ giúp đỡ nhưng tỏ ra bất lực không giúp đỡ được ai. Họ có thể nói về cái kho ân huệ thiêng liêng mà họ sử dụng để giúp đỡ những người bịnh của họ. Nhưng muốn thật sự tắm gội trong cái kho ân huệ đó, người ta phải chấp nhận nó và chứng minh sự hiện hữu của nó bắng cách thật sự lập công bồi đức và làm những công quả của một đời sống thánh thiện. III Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng cùng với hai người dân làng dường như đã có làm việc công quả tâm linh. Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một làng ở cách làng của Thánh Jean Baptiste hai mươi cây số. Tôi rất mong ước các bạn tôi có thể được xem những tài liệu mà tôi đã thấy. Chúng tôi bèn quyết định ở lại làng thứ hai này và Dật Sĩ cùng đi với chúng tôi. Những bản văn kiện làm cho các bạn tôi vô cùng thích thú và giúp chúng tôi vẽ một bản đồ với những lộ trình di chuyển của Thánh Jean Baptiste. Chiều hôm đó, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư đến và nghỉ lại đêm với chúng tôi. Ngài đem đến cho chúng tôi những thông điệp của toán thứ nhất và toán thứ ba. Ngài sinh ra ở làng này và đã sống ở đó từ nhỏ đến lớn. Chính những vị tổ tiên của ngài đã soạn thảo những văn kiện này và những tài liệu đã được gia tộc luôn luôn giữ gìn cẩn thận. Ngài thuộc giòng dõi nhiều đời của vị tác giả các văn kiện trên, và không có người nào trong gia tộc đã từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đã từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đều có khả năng di chuyển thể xác đi ngao du trong cõi vô hình và trở về tùy ý muốn. Chúng tôi hỏi rằng có điều chi trở ngại chăng, nếu chúng tôi mời vị tác giả các văn kiện vui lòng đến nói chuyện với chúng tôi. Vị Chân Sư đáp rằng không có gì trở ngại và định rằng cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra vào ngay tối hôm đó. Chúng tôi đang ngồi đợi trong ít lâu, thì một người trạc độ ba mươi lăm tuổi thình lình xuất hiện trong gian phòng. Người ấy được giới thiệu cho chúng tôi, và chúng tôi bắt tay nhau. Diện mạo người ấy làm cho chúng tôi ngạc nhiên đến mức câm lặng, vì chúng tôi tưởng rằng sẽ gặp một người rất cao tuổi. Người ấy có vóc dạc trung bình với những nét vạm vỡ, nhưng gương mặt người đượm một vẻ hiền lành nhân hậu rõ rệt mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mỗi cử chỉ của người biểu lộ một tâm hồn cương nghị và dũng mãnh. Một vầng hào quang lạ lùng toát ra từ toàn thân người. Trước khi an tọa, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, vị Chân Sư, và người khách lạ cùng nắm tay nhau một lúc trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó, tất cả chúng tôi đều ngồi xuống, và người lạ mặt vừa xuất hiện trong gian phòng bèn cất tiếng nói: -Các bạn yêu cầu sự gặp gỡ tối nay để hiểu rõ hơn những bản văn kiện đã được đọc và diễn đạt cho các bạn. Chính tôi là người đã soạn thảo và giữ gìn những văn kiện đó. Những tài liệu nói về Thánh Jean Baptiste và đã làm cho các bạn ngạc nhiên, tường thuật lại những sự việc có thật về thời gian lưu trú của ngài ở tại đây với chúng tôi. Như người ta được biết, ngài là một người có kiến thức sâu rộng, và một trí óc tuyệt vời. Ngài nhận thức cái chân lý của giáo phái chúng tôi, nhưng dường như ngài không bao giờ có thể đồng hóa nó một cách trọn vẹn, vì nếu như vậy, thì ngài đã không bao giờ chết. Tôi vẫn thường hay ngồi trong gian phòng này, và nghe Thánh Jean cùng cha tôi đàm luận. Chính tại đây mà Thánh Jean đã được thụ huấn một phần lớn giáo lý của cha tôi truyền lại. Chính là tại đây mà cha tôi qua đời và đem cả thể xác của người đi luôn, điều này Thánh Jean đã chứng kiến tận mắt. Tất cả những người trong gia đình bên nội cũng như bên ngoại tôi đều đã đem thể xác đi luôn khi họ qua đời. Sự qua đời đó, tức là một giai đoạn chuyển tiếp, có nghĩa là thể xác của họ là một vật toàn hảo về mặt tâm linh. Người ta trở nên ý thức được cái ý nghĩa tâm linh của cuộc đời, ý nghĩa của Thượng Đế, đến mức độ nhìn cuộc đời bằng cái tầm nhãn quang của Thượng Đế. Khi đó, người ta thụ hưởng cái đặc ân tiếp nhận được những giáo lý cao siêu nhất và người ta có thể giúp đỡ tất cả mọi người. Chúng tôi không bao giờ đi xuống từ cái trạng thái tâm thức đó, vì những người nào đã đạt tới đó không có ý muốn rớt xuống thấp hơn. Họ biết rằng đời người là một sự tiến hóa không ngừng. Không có thoái bộ hay thoái hóa, và không ai muốn đi thụt lùi trở lại. Tất cả đều đưa tay ra để giúp đỡ những người đi tìm ánh sáng. Họ gửi thường xuyên những thông điệp trong vũ trụ càn khôn. Trong tất cả các vùng trên thế giới ngày nay đều có những người thụ cảm đã diễn đạt những thông điệp đó. Chính là để làm cái việc phụng sự đó mà chúng tôi muốn đạt tới cái cõi giới, hay cái trạng thái tâm thức kể trên. Tất cả chúng ta đều có thể và đều muốn giúp đỡ, phụng sự, bằng cách này hay cách khác. Chúng tôi có thể nói chuyện với những tâm hồn thụ cảm, giáo dục họ, và nâng cao tâm thức họ hoặc trực tiếp, hoặc do một người trung gian. Chúng tôi làm tất cả những việc đó. Nhưng một người trung gian không thể làm công việc giùm cho kẻ khác hoặc huấn luyện họ mãi mãi. Người ta phải quyết định tự mình làm công việc đó và bắt tay vào việc. Chừng đó người ta được tự do và chỉ trông cậy vào sức mình. Đức Jesus ý thức được rằng thể xác là một vật tâm linh và bất diệt. Khi tất cả mọi người đều đạt tới trạng thái tâm thức đó, chúng ta có thể cảm thông với tất cả và phổ biến trong quần chúng cái giáo lý mà chúng ta đã nhận được. Chúng tôi hưởng thụ cái đặc ân được biết rằng mỗi người đều có thể thực hiện những công trình giống như của chúng tôi và giải quyết tất cả mọi vấn đề khó khăn của cuộc đời. Tất cả những khó khăn và phiền toái sẽ trở nên giản dị. Dung mạo bề ngoài của tôi không khác gì các bạn hay những người mà các bạn vẫn gặp thường ngày. Và tôi không thấy một sự khác biệt nào giữa các bạn với tôi. Chúng tôi nói rằng chúng tôi nhận thấy nơi người một cái gì tốt đẹp hơn chúng tôi vô cùng. Người đáp: -Đó chỉ là sự so sánh giữa cái hữu diệt và cái bất tử. Các bạn hãy nhìn thấy tính chất thiêng liêng của mỗi người mà không cần so sánh người ấy với những người khác, rồi các bạn sẽ thấy họ cũng giống như tôi. Các bạn hãy tìm kiếm Phật tánh trên gương mặt của mỗi người rồi các bạn sẽ thấy ngay Phật tánh hiện trên mặt họ. Chúng tôi tránh mọi sự so sánh. Chúng tôi chỉ nhìn thấy Phật tánh ở tất cả mọi người và bất cứ lúc nào. Làm như thế, chúng tôi trở nên vô hình vô ảnh đối với các bạn. Nhờ có tầm nhãn quang toàn vẹn, bao quát nên chúng tôi nhìn thấy sự toàn thiện toàn mỹ, trái lại, với một nhãn quang thiếu sót, các bạn chỉ nhìn thấy có sự bất toàn. Các bạn có thể cho rằng giáo lý của chúng tôi xuất xứ từ nguồn cảm hứng thiêng liêng cho đến khi mà các bạn được thụ huấn với một vị Chân Sư và có thể nâng cao tâm thức của mình đến mức nhìn thấy và nói chuyện với chúng tôi như bây giờ. Không có sự cảm hứng nào trong việc nói chuyện hay thử nói chuyện với một người. Giáo lý của chúng tôi đưa người hành giả đến mức độ mà họ có thể nhận được nguồn cảm hứng thiêng liêng thật sự. Nhưng nguồn cảm hứng đó chỉ có thể đến trực tiếp từ Thượng Đế mà thôi. Bằng cách để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua các bạn, các bạn sẽ sống với chúng tôi… IV Sáng ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sẵn sàng dùng điểm tâm vào lúc sáu giờ rưỡi. Khi chúng tôi đi từ quán trọ ngang qua đường lộ để đến tiệm ăn, chúng tôi gặp các Chân Sư cùng đi một đường. Các Ngài vừa đi vừa nói chuyện với nhau như mọi người thường. Các Ngài lên tiếng chào chúng tôi và chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà thấy các Ngài sống bình dị như vậy. Các Ngài đáp: -Chúng tôi cũng chỉ là người như các bạn vậy. tại sao các bạn lại cứ một mực coi chúng tôi là khác thường? Chúng tôi không khác các bạn ở một điểm nào cả. Chúng tôi chỉ có phát triển nhiều hơn những quyền năng mà Thượng Đế ban cho tất cả chúng ta. Chúng tôi bèn hỏi: -Vậy tại sao chúng tôi không thể thực hiện những công trình giống như của các Ngài? -Tất cả những người mà chúng tôi tiếp xúc, tại sao họ không theo chúng tôi và không bắt tay vào việc làm của chúng tôi? Chúng tôi không thể và cũng không muốn bắt buộc ai theo chúng tôi. Mỗi người có quyền tự do sinh hoạt và đi theo con đường mà họ chọn lựa tùy sở thích. Chúng tôi chỉ muốn vạch cho họ thấy con đường dễ dàng và giản dị mà chúng tôi đã đi thử và nhận thấy là rất mỹ mãn. Chúng tôi ngồi vào bàn ăn và câu chuyện xoay về những diễn biến của đời sống hằng ngày. Tôi lấy làm say mê thích thú và vô cùng thán phục. Bốn vị siêu nhân ngồi trước mặt chúng tôi. Một vị đã hoàn thành từ hai nghìn năm nay phép tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển thể xác đi bất cứ nơi nào tùy ý muốn. Ngài đã sống một nghìn năm trên địa cầu và vẫn duy trì sự hoạt động trẻ trung của một người ba mươi lăm tuổi. Ngồi kế bên Ngài là một người trong thân quyến, nhưng trẻ hơn đến năm thế hệ. Vị này tuy đã sống trên bảy trăm năm trên Trái Đất, nhưng bề ngoài xem có vẻ chưa đến bốn mươi tuổi. Ngài và vị tổ tiên năm đời của Ngài có thể nói chuyện với nhau một cách rất tự nhiên như hai người thường. Kế đó là đức Tuệ Minh, ngài đã sống trên năm trăm năm và bề ngoài xem như một người sáu mươi tuổi. Sau cùng là Dật Sĩ, bốn mươi tuổi và có cái dung mạo tương đương với người ở tuổi ấy. Bốn vị nói chuyện với nhau như anh em, không một mảy may lộ vẻ tự tôn. Tuy câu chuyện thật giản dị khả ái, mỗi lời nói của các Ngài đều biểu lộ một sự hợp lý hoàn toàn và chỉ rằng các Ngài biết rõ tận tường đề tài thảo luận. Các Ngài không có lộ vẻ gì là huyền thoại hay bí mật. Các Ngài xử sự như những người thường trong công việc hằng ngày. Tuy vậy, đôi khi tôi cũng cảm thấy khó tin rằng đó không phải là chuyện xảy ra trong giấc mơ. Sau bữa ăn sáng, một trong những người bạn tôi đứng dậy để trả tiền. Đức Tuệ Minh nói: -Ở đây các bạn là khách của tôi. Nói xong, Ngài đưa tay về phía bà chủ quán, mà chúng tôi còn tưởng rằng đó là một bàn tay không. Chừng xem lại, chúng tôi thấy bàn tay Ngài cầm đúng số tiền ghi trên tờ hóa đơn tính tiền bữa ăn. Các vị Chân Sư không đem tiền bạc theo trong mình và không cần ai cung cấp tiền bạc. Khi cần dùng, tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tầm tay, mà các Ngài lấy trực tiếp từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ. Khi bước chân ra khỏi quán, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư bắt tay chúng tôi và nói rằng người phải trở về toán của Ngài, rồi biến mất dạng. Chúng tôi ghi nhận giờ phút mà Ngài biến mất và về sau chúng tôi có kiểm điểm lại thì thấy Ngài đã trở về toán của Ngài không đầy mười phút sau khi từ giã chúng tôi. Suốt ngày hôm đó, chúng tôi cùng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, đi dạo chơi trong làng và các vùng phụ cận. Vị Sư Tổ thuật lại cho chúng tôi nghe với rất nhiều chi tiết, vài sự việc xảy ra trong khoảng mười hai năm mà Thánh Jean Baptiste đã lưu trú trong làng này. Những chuyện đó được kể lại một thời dĩ vãng xa xăm bên cạnh Thánh Jean. Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn coi Ngài như một nhân vật huyền thoại do thiên hạ bày đặt ra để lòe đời. Kể từ ngày đó, đối với tôi Ngài đã trở nên một nhân vật lịch sử và có thật. Tôi tưởng tượng lúc đương thời Ngài cũng đã từng đi dạo như chúng tôi trong làng này và ở các vùng chung quanh, và được các Chân Sư cao cả truyền dạy những pháp môn mà Ngài không hoàn toàn hấp thụ được những chân lý căn bản. Trong ngày hôm đó, chúng tôi đi đó đi đây, vừa nghe kể lại những câu chuyện lịch sử thú vị, vừa nghe giảng dạy và phiên dịch những văn kiện lịch sử ở ngay tại chỗ mà những câu chuyện tường thuật ấy đã xảy ra hằng bao nhiêu ngàn năm trở về trước. Kế đó, chúng tôi trở về làng trước khi trời tối, ai nấy đều mệt mỏi. Ba vị siêu nhân cũng đi bộ như chúng tôi, nhưng không lộ vẻ mệt mỏi chút nào. Trong khi chúng tôi mình mẩy lấm bùn lầy, cát bụi và mồ hôi, thì các Ngài đều có vẻ tươi tỉnh, thư thái, và y phục của các Ngài mặc đều trắng tinh như lúc mới bắt đầu ra đi. Chúng tôi đã nhận thấy, trong những chuyến xuất hành đã qua, rằng y phục của các Chân Sư không hề bị hoen ố, và chúng ta vẫn thường nói lên sự nhận xét đó, nhưng không được trả lời. Chiều hôm đó, chúng tôi lại nêu câu hỏi về vấn đề ấy thì vị Sư Tổ đáp: -Điều ấy làm các bạn ngạc nhiên, nhưng chúng tôi còn ngạc nhiên hơn nhiều mà thấy rằng một mảy may bụi bậm vật chất của Thượng Đế tạo ra lại có thể dính vào một nhân vật cũng do Thượng Đế sáng tạo mà nó không tùy thuộc quyền sở hữu, ở một nơi mà người ta không muốn cho nó dính vào. Với một quan niệm đúng đắn, điều ấy sẽ không thể xảy ra, vì không một mảy may bụi bặm vật chất nào của Thượng Đế có thể được đặt vào một chỗ mà người ta không muốn. Một lát sau đó, chúng tôi nhận thấy rằng y phục và thân thể của chúng tôi cũng sạch sẽ trơn tru như các Chân Sư, sự biến đổi này diễn ra trong nháy mắt trên thân mình tôi và các bạn của tôi. Mọi dấu vết của sự mệt nhọc đều đã biến mất và chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng cũng như mình vừa mới ngủ thức dậy và đã tắm rửa xong. Đó là cách trả lời cho những sự thắc mắc của chúng tôi. Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ với một niềm yên tĩnh thâm trầm sâu xa nhất trong tâm hồn mà chúng tôi chưa hề cảm thấy bao giờ kể từ khi chúng tôi bắt đầu sống chung với các vị Chân Sư. Sự kính sợ của chúng tôi đã biến đổi nhanh chóng thành một tình thương sâu xa đối với những tấm lòng cao quý hồn nhiên của các Ngài, là những đấng Cao Cả đã làm biết bao nhiêu việc tốt lành cho nhân loại. Các Ngài gọi tất cả mọi người là bằng hữu, anh em, và chúng tôi cũng bắt đầu coi các Ngài như những bậc Anh Cả. Các Ngài không tự gán cho mình một giá trị nào cả, và luôn luôn nói rằng chính Thượng Đế đã biểu lộ xuyên qua các Ngài. Các Ngài nói: -Riêng tôi, tôi không thể làm gì được. Chính Thượng Đế ngự nơi tôi, Ngài đã làm tất cả mọi việc. Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có người báo tin cho biết rằng ngày ấy chúng tôi sẽ đi đến một làng ở tận trên cao trong vùng núi. Từ đó chúng tôi sẽ đi đến ngôi đền trên đỉnh của một ngọn núi mà tôi đã nhìn thấy ở đằng xa từ trên một đỉnh núi cao hơn mà tôi đã diễn tả trước đây. Vì đường núi cheo leo, chúng tôi không thể đi ngựa trên một quãng đường dài hơn hai mươi lăm cây số. Chúng tôi đem hai người dân làng đi theo trên quãng đường này, rồi giao ngựa cho họ dắt đi đến một thôn ấp nhỏ ở gần bên và giữ ngựa tại đó để chờ chúng tôi đi bận về. Mọi việc xảy ra như đã dự định. Chúng tôi giao ngựa cho hai người dân làng và bắt đầu đi theo con đường núi nhỏ hẹp đưa đến làng trên núi. Vài đoạn đường núi này là những nấc thang tam cấp đục trong vách đá. Chúng tôi đến nơi vào lúc bốn giờ chiều. Ngôi đền dựng trên một đỉnh núi nhìn thẳng xuống xóm làng. Vách núi dốc đứng cheo leo đến nỗi muốn lên tới đỉnh, người ta phải thòng xuống một cái thúng đương bằng mây để du khách ngồi vào đó và dùng dây kéo lên. Cái thúng dùng để đưa khách lên tới đỉnh núi và cũng dùng để đưa khách từ trên đỉnh đi xuống phía dưới. Khi chúng tôi đã sẵn sàng, người ta thòng cái thúng xuống và chúng tôi được kéo lên từng người một cho đến nơi có một mõm đá nhô ra ngoài, chỗ này bề cao đến một trăm ba chục thước khỏi mặt đất. Đến đây, chúng tôi bước ra khỏi thúng và theo đường nhỏ lên tận ngôi đền ở trên đỉnh núi cách đó độ một trăm bảy mươi lăm thước bề cao, vách của ngôi đền liền với vách của núi đá. Chúng tôi được cho biết rằng còn phải lên một chuyến thứ nhì cũng giống y như chuyến thứ nhất. Thật vậy, chúng tôi thấy từ ngôi đền nhô ra một cây đà bằng gỗ rất lớn giống như cây đà gie ra từ mõm đá lúc nãy. Từ cái trục ở phía trên người ta thòng xuống một sợi dây cói để cột vào cái thúng bằng mây lúc nãy, và chúng tôi lại được kéo lên từng người một đến tận nóc bằng của ngôi đền. Lại một lần nữa, tôi có cảm tưởng như đang ở trên nóc tột đỉnh của thế giới. Đỉnh núi này nhô lên ba trăm thước cao hơn các ngọn núi ở vùng chung quanh. Làng mà từ đó chúng tôi bắt đầu ra đi, còn ở trên cao hơn nữa, trên đỉnh một truông núi mà người ta dùng để vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn. Đền này còn ở ba trăm năm chục thước thấp hơn ngôi đền mà trước đây chúng tôi đã cùng viếng chung với đức Tuệ Minh và Dật Sĩ, nhưng ở đây tầm nhãn quang có thể nhìn bao quát hơn nhiều. Dường như chúng tôi có thể nhìn vào chỗ không gian vô tận. Người ta dọn cho chúng tôi một chỗ nghỉ đêm thật thoải mái tiện nghi. Ba vị siêu nhân cho chúng tôi biết rằng các vị sắp đi viếng vài nhóm đoàn viên ở rải rác khắp nơi và các vị sẵn lòng chuyển thông điệp của chúng tôi cho họ. Chúng tôi bèn viết thơ cho các bạn hữu và có ghi cẩn thận ngày giờ và địa điểm. Chúng tôi giữ lại một bổn sao của những thông điệp, về sau chúng tôi kiểm điểm lại thì được biết rằng tất cả các thông điệp đều được giao tận nơi không đầy hai mươi phút sau khi gởi đi. Khi chúng tôi đưa những thông điệp cho các vị siêu nhân, các vị bắt tay từ giã chúng tôi và hẹn gặp nhau lại vào sáng ngày hôm sau, rồi các vị biến mất. Sau bữa ăn chiều ngon lành do những người coi đền dọn ra, chúng tôi lui về phòng yên nghỉ nhưng không ngủ được, vì những kinh nghiệm vừa qua bắt đầu gây cho chúng tôi những ấn tượng sâu xa. Chúng tôi đang ở trên một chiều cao ba ngàn thước khỏi mặt đất, không một người nào ở kế cận trừ ra những người coi đền, và không một tiếng động nào khác hơn là giọng nói của chúng tôi. Bầu không khí chung quanh thật hoàn toàn yên lặng. Chúng tôi có dặn một người coi đền hãy đánh thức chúng tôi dậy khi trời vừa rạng sáng. Y gõ cửa trong khi tôi vừa chợp mắt ngủ chưa được bao lâu. Chúng tôi sửa soạn mặc quần áo xong, hối hả chạy mau ra sân thượng để ngắm nhìn mặt trời mọc ở vùng núi. Trong cơn vội vàng chúng tôi gây nhiều tiếng động ầm ĩ đến nỗi những người gác đền hoảng kinh chạy ra xem có phải là chúng tôi đã loạn trí chăng! Tôi nghĩ rằng chắc là không bao giờ ngôi đền này đã trải qua một cơn náo động như thế từ ngày nó được dựng lên, nghĩa là từ trên mười nghìn năm nay. Thật vậy, ngôi đền này cổ xưa đến nỗi nó đồng hóa làm một với cái đỉnh núi. Khi ra đến sân thượng, không ai cần bảo ai nên giữ im lặng nữa, vì mọi sự dặn dò đều là thừa. Vừa nhìn ra ngoài, hai bạn tôi đã đứng lặng người, miệng há hốc, hai mắt dương lên thật lớn. Tôi tưởng chứng chắc là tôi cũng đã làm như vậy. Tôi còn đợi xem họ nói gì, thì họ đã đồng thanh la lớn: -Chúng ta hẳn là bị treo lơ lửng trên không gian! Sự xúc động và ngạc nhiên của họ thật giống y như của tôi khi tôi vừa lên tới nóc đền ở đỉnh núi bên kia trước đây không lâu. Họ đã quên trong một lúc rằng hai chân họ vẫn chấm đất và họ có cảm giác như đứng phất phơ trong không gian. Một bạn tôi nói: -Tôi không ngạc nhiên nếu các vị Chân Sư có thể bay nhẹ trên không gian sau khi đã có cái cảm giác như chúng ta vừa rồi. Một chuỗi cười ngắn kéo chúng tôi trở về thực tế. Chúng tôi quay lại nhìn thì thấy ngay sau lưng chúng tôi có đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện. Một bạn tôi cao hứng muốn chạy lại bắt tay hết thảy các vị cùng một lúc, và nói: -Thật là kỳ diệu. Không ai lấy làm ngạc nhiên nếu các vị có thể bay bổng lên trên không, sau khi đã lưu trú tại đây. Các vị mỉm cười, và một vị nói: Các bạn cũng có thể bay bổng như chúng tôi. Các bạn chỉ cần biết từ trong nội tâm rắng các bạn có cái quyền năng đó rồi các bạn hãy sử dụng nó. Chúng tôi ngắm nhìn phong cảnh. Sương mù đã hạ thấp xuống và bay từng đợt phất phơ theo chiều gió, nhưng cũng hãy còn khá cao nên người ta không thể nhìn thấy dưới đất. Những đợt sương mù di chuyển làm cho chúng tôi có cái cảm giác như được chở đi trên đôi cánh im lặng của một con chim khổng lồ. Nhìn về phía xa, người ta mất cả ý thức về trọng lượng của mình, và thật là khó mà tưởng tượng rằng mình đang bay lướt trong không gian. Riêng phần tôi, tôi đã mất ý thức về trọng lượng của mình đến nỗi tôi đã nhẹ mình bay lơ lửng trên nóc đền. Thình lình một tiếng động làm cho tôi té nặng đến nỗi tôi cảm thấy một sự xúc động mà hậu quả hãy còn tồn tại nhiều ngày mới hết. Sáng hôm ấy, chúng tôi quyết định ở lại ngôi đền này trong ba ngày, vì chỉ còn một nơi thú vị để đi thăm viếng trước khi gặp lại những toán khác. Đức Tuệ Minh đã đem tới những thông điệp. Một thông điệp cho biết rằng toán của vị trưởng nhóm chúng tôi đã đến viếng ngôi đền này chỉ mới cách đây ba ngày. Sau bữa ăn điểm tâm, chúng tôi bước ra ngoài để nhìn xem sa mù tan dần. Chúng tôi ngắm nhìn cho đến khi sa mù biến tan đi mất và mặt trời ló dạng. Người ta nhìn thấy thôn ấp nhỏ ẩn dưới triền núi và thung lũng diễn ra tận đằng xa. Vì các vị siêu nhân đã quyết định đến viếng thôn ấp này, nên chúng tôi xin phép đi theo các vị. Các vị vừa nhận lời vừa cười, và khuyên chúng tôi nên sử dụng cái thúng bằng mây để thòng xuống đất. Các vị nói rằng đi bằng cách đó thì khi đến nơi, chúng tôi sẽ có cái hình dáng bề ngoài dễ coi hơn là nếu chúng tôi sử dụng phương pháp di chuyển của các vị. Người ta bèn dùng cái thúng thòng chúng tôi từng người một xuống tận chỗ mõm đá nhô ra ở giữa chừng, và từ đó, xuống vùng cao nguyên nhìn xuống dưới làng, và ở lại đây suốt ngày hôm đó. Đó là một làng cổ có những nét dị kỳ, đặc biệt của vùng sơn cước này. Nó gồm có độ hai mươi nhà đục trong triền núi, và cửa nẻo đều đóng kín bằng những phiến đá lớn. Người ta xây cất nhà kiểu này để tránh cho nhà khỏi bị đè bẹp dưới trọng lượng của tuyết mùa đông. Chúng tôi được cho biết rằng Thánh Jean Baptiste và được thụ huấn về Đạo Lý trong đền. Đền này vẫn còn nguyên vẹn như hồi xưa. Làng này và ngôi đền đã được lập nên ít nhất sáu nghìn năm trước khi Thánh Jean đến viếng nơi này. Vào lúc năm giờ chiều, vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện bắt tay từ giã chúng tôi và nói Ngài phải vắng mặt nhưng sẽ trở lại trong giây lát. Kế đó Ngài biến mất dạng. Chiều hôm đó, từ trên nóc đền chúng tôi ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn lạ lùng nhất chưa từng thấy, tuy rằng tôi đã có dịp may nhìn thấy cảnh trời chiều ở hầu hết khắp nơi trên thế giới. Chúng tôi ngồi trên sân thượng đến nửa đêm, vừa nói chuyện vừa hỏi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ về nhiều vấn đề, nhất là về địa hình, địa vật và lịch sử của vùng này. Đức Tuệ Minh đưa ra nhiều chú thích trong các văn kiện mà các Chân Sư từng biết rõ. Những văn kiện ấy chứng tỏ rằng xứ này đã từng có người ở từ nhiều ngàn năm trước thời kỳ có lịch sử của thế giới. Chúng tôi đang ngắm vầng trăng rằm trong sáng xuất hiện trên dãy núi đằng xa ở tận chân trời. Thình lình, chúng tôi nghe có tiếng động ở phía sau lưng. Chúng tôi quay lại nhìn thì thấy một bà mệnh phụ trạc độ ngũ tuần đang đứng đó và vừa mỉm cười vừa hỏi rằng sự xuất hiện thình lình của bà có làm cho chúng tôi sợ hãi không? Trước hết chúng tôi có cảm tưởng rằng bà ấy đã nhảy từ trên bờ tường xuống sân thượng, nhưng sự thật thì bà ấy chỉ có dậm chân để làm cho chúng tôi chú ý, và sự im lặng thâm trầm của miền núi lúc ban đêm đã làm vang dội âm thanh ấy lên gấp bội phần. Đức Tuệ Minh mau bước tới chào mệnh phụ và giới thiệu chị ngài với chúng tôi. Bà mỉm cười và hỏi bà có làm rộn chúng tôi không? Chúng tôi an tọa, và câu chuyện xoay chung quanh những kỷ niệm cùng những kinh nghiệm về công việc phụng sự trong cuộc đời tu hành của bà. Bà có ba người con trai và một người con gái, tất cả đều được giáo dục trong cùng một tinh thần như của bà. Chúng tôi hỏi có các con bà cùng đi không? Bà đáp rằng hai người con nhỏ nhất không bao giờ rời bà. Chúng tôi yêu cầu được gặp các con bà. Bà đáp rằng họ cũng đang rảnh việc, và ngay lúc đó xuất hiện hai người, một người nam và một người nữ. Hai người này chào cậu và mẹ, rồi tiến tới để được giới thiệu với tôi và hai bạn tôi. Người con trai cao lớn vạm vỡ, có dáng hào hùng, đầy nam tính, trạc độ chừng ba mươi tuổi. Người con gái vóc dạc hơi nhỏ, dáng điệu thanh tân, với những nét diễm kiều. Đó là một thiếu nữ đẹp và trạc độ hai mươi tuổi. Về sau chúng tôi được biết rằng người nam có đến một trăm mười lăm tuổi và người nữ đã một trăm hai mươi tám tuổi. Chúng tôi còn ngồi đàm đạo đến quá nửa đêm mới chia tay nhau. Qua ngày hôm sau, các vị siêu nhân tỏ ý muốn từ giã chúng tôi để ra đi. Chỉ còn có Dật Sĩ ở lại với chúng tôi, và ngày kế đó đến lượt chúng tôi cũng sửa soạn lên đường. Mặc dầu trời hãy còn chưa sáng, hầu hết tất cả dân làng đều thức dậy rất sớm để tiễn đưa chúng tôi. Á CHÂU HUYỀN BÍ Baird T. Spalding Chương 4 Vị mẫu thân của Chân Sư Tuệ Minh – Một buổi dạ tiệc với các Chân Sư – Người thiếu phụ đẹp tuyệt trần – Tình Bác Ái thiêng liêng. *** Trong năm ngày kế đó, con đường của chúng tôi đi xuyên qua vùng mà ngày xưa Thánh Jean đã từng đi qua. Qua ngày thứ năm, chúng tôi đến nơi thôn ấp mà những người giữ ngựa đã ở lại để chờ đợi chúng tôi. Đức Tuệ Minh đã có mặt tại đây và kể từ lúc đó, cuộc hành trình được tương đối dễ dàng cho đến khi chúng tôi đến nơi làng của ngài sinh trưởng. Khi gần đến làng, chúng tôi nhận thấy vùng này có khá đông dân cư, những đường lộ và đường mòn đều tốt hơn những đường mà chúng tôi đã đi qua từ trước đến giờ. Nhưng trong những giờ kế đó, chúng tôi đi qua một vùng cao nguyên lồi lõm với một địa thế vô cùng cheo leo hiểm trở. Làng có tường đá bọc chung quanh như thành quách để làm hệ thống phòng thủ. Người ta nói rằng vùng này trước kia là nơi cư trú của một bộ lạc thổ dân sống biệt lập với thế giới bên ngoài; về sau họ đã lần lần biệt tích và không còn để lại dấu vết. Một thiểu số còn lại đã xáp nhập với những bộ lạc khác ở quanh vùng. Đó là nơi quê hương của đức Tuệ Minh và là nơi mà các đoàn viên của phái bộ chúng tôi hẹn gặp nhau trở lại. Những đoàn viên này đã chia ra từng toán nhỏ để thi hành công tác trên một vùng lãnh thổ rộng lớn. Khi hỏi lại thì được biết rằng chúng tôi là toán đến đây trước tiên, và những toán khác cũng sẽ đến nơi nội trong ngày hôm sau. Chúng tôi được chỉ định nơi trú ngụ trong một ngôi nhà ba tầng lầu dựa vách tường làng. Người ta dọn cho chúng tôi một nơi tạm nghỉ khá tiện nghi và cho biết rằng bữa cơm chiều sẽ được dọn ra ở từng dưới. Khi chúng tôi bước xuống từng dưới thì thấy ngồi quanh bàn ăn có bà chị của đức Tuệ Minh, chồng bà, và hai người con mà chúng tôi đã gặp gỡ tại ngôi đền, cùng với đức Tuệ Minh cũng hiện diện tại đó. Chúng tôi vừa dùng cơm chiều xong, thì nghe có tiếng động trước sân nhà. Một dân làng đến cho hay rằng một trong các toán đoàn viên vừa mới đến. Đó là toán của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Người ta dọn bữa ăn chiều cho họ và xếp đặt cho họ nghỉ lại ban đêm cùng với chúng tôi, kế đó tất cả chúng tôi đều bước lên trên nóc bằng của ngôi nhà. Tuy mặt trời đã lặn, nhưng bóng hoàng hôn hãy còn phảng phất, và trời chưa tối hẳn. Trong khi chúng tôi đang bình luận về giá trị phòng thủ của bức tường rào chung quanh làng, thì bà chị và cô cháu gái của đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Một lát sau đó, người anh rể và người cháu trai của ngài cũng đến. Chúng tôi nhận thấy các vị tỏ dấu băn khoăn mong đợi một sự gì, và bà chị của đức Tuệ Minh bèn nói cho chúng tôi biết rằng chiều nay bà trông đợi một cuộc viếng thăm của thân mẫu bà. Bà nói: -Chúng tôi sung sướng đến nỗi cầm lòng không đậu, vì lòng yêu mến của chúng tôi đối với mẫu thân thật đậm đà dường nào. Chúng tôi yêu mến tất cả những người sống đời sống tâm linh cao cả, vì tất cả các vị ấy đều có tâm hồn cao quý và thiêng liêng. Nhưng thân mẫu chúng tôi còn có lòng từ bi, nhân hậu, vị tha, cứu đời đến nỗi chúng tôi không thể nào yêu mến bà gấp ngàn lần. Vả lại, chúng tôi đối với bà còn có tình mẫu tử, cốt nhục. Chúng tôi biết rằng các ông cũng sẽ yêu mến bà như vậy. Chúng tôi hỏi đức bà có thường đến đây không, thì được đáp: -Có chứ! Mẫu thân thường đến luôn luôn khi nào chúng tôi cần đến bà. Nhưng bà mắc bận rộn công việc trong lãnh vực hoạt động của bà nên bà chỉ đến đây một năm có hai lần, và ngày hôm nay chính là ngày thăm viếng định kỳ của bà. Lần này bà sẽ ở lại với chúng tôi một tuần. Chúng tôi sung sướng đến nỗi không còn biết làm gì trong khi chờ đợi. Câu chuyện xoay qua những kinh nghiệm của chúng tôi kể từ khi chúng tôi chia nhau đi riêng từng toán, và cuộc thảo luận đang đến hồi sôi nổi thì thình lình một cơn im lặng xâm chiếm lấy chúng tôi. Trước khi nhận biết điều đó, tất cả chúng tôi đều ngồi im không ai nói gì và cũng không ai nghĩ ngợi điều gì. Bóng tối của ban đêm đã bao trùm khắp nơi, và dãy núi tuyết ở xa xa coi giống như một con quái vật khổng lồ. Kế đó chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ, giống như tiếng con chim sẻ đậu dưới đất. Một đám sương mù dường như đông đặc lại từ từ ở hướng đông của vách tường rào, rồi thình lình tượng hình một cách rõ rệt. Trước mặt chúng tôi lúc đó là một người đàn bà nhan sắc diễm kiều bao phủ bởi một vòng hào quang sáng chói đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thấy rõ tận mắt. Cả gia quyến đều đổ xô về phía người đàn bà ấy, hai tay đưa thẳng ra phía trước và đồng thanh kêu to: -Mẫu thân! Bà Mã Ly nhẹ nhàng từ bờ tường bước xuống sân thượng và ôm hôn mỗi người trong thân quyến như mọi người hiền mẫu trong dịp tái ngộ với con cái. Kế đó, chúng tôi được giới thiệu với bà. Bà nói: -À! Các ông là những huynh đệ từ Mỹ quốc xa xôi đến đây để thăm viếng chúng tôi? Tôi rất sung sướng chúc mừng các ông. Chúng tôi ban rải tình thương cho tất cả, và nếu những người đàn ông sẵn lòng để cho chúng tôi tự nhiên, thì chắc hẳn là chúng tôi cũng ôm lấy họ trong vòng tay như tôi vừa đón mừng những người mà tôi gọi là thân bằng quyến thuộc của tôi. Vì thật ra chúng ta chỉ là thành phần của một đại gia đình, tức là gia đình những người con của Thượng Đế. Vậy tại sao chúng ta không thể sum họp tất cả với nhau như anh em một nhà? Chúng tôi vừa nhận thấy rằng thời tiết miền núi về đêm cũng khá lạnh. Nhưng khi đức bà Mã Ly xuất hiện, thì sự hiện diện của bà tỏa ra một mãnh lực nó biến đổi bầu không khí nơi đây trở thành bầu không khí của một đêm mùa hè. Khí trời dường như đượm mùi hương của bông hoa. Một ánh sáng dịu giống như ánh trăng rằm thấm nhuần mọi vật, và làm cho cảnh vật chung quanh được bao phủ trong một sự ấm cúng lạ lùng khó tả. Tuy nhiên, các Chân Sư không biểu lộ một cử chỉ nào gọi là kiểu cách. Các Ngài có một lối xử sự thật khả ái hồn nhiên và vô cùng giản dị. Có người đề nghị đi xuống nhà dưới. Đức bà Mã Ly và các bà phu nhân dẫn đường đi trước. Chúng tôi nối gót đi theo sau, và những người gia nhân đi sau cùng. Trong khi chúng tôi đi xuống cầu thang như thường lệ, chúng tôi nhận thấy rằng bước chân chúng tôi không gây nên một tiếng động nào. Tuy nhiên, chúng tôi không hề cố gắng giữ im lặng. Một người trong chúng tôi còn thú thật là y đã thử đi nặng bước nhưng cũng không gây tiếng vang. Dường như bàn chân chúng tôi đi không chấm đất trên sân thượng hay trên những nấc cầu thang. Trên tầng lầu các buồng ngủ, chúng tôi bước vào một gian phòng trang hoàng rất đẹp và ngồi an tọa. Chúng tôi liền nhận thấy một sự ấm áp dễ chịu, và một ánh sáng dịu tỏa khắp phòng, mà chúng tôi không hiểu từ đâu đến. Gian phòng đắm chìm một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó đức bà hỏi thăm chúng tôi có chỗ nghỉ đàng hoàng tươm tất không, có được săn sóc tử tế không, và cuộc hành trình có làm chúng tôi được thỏa mãn không? Chúng tôi nói chuyện thường về cuộc đời hằng ngày, mà bà có vẻ rất thành thạo. Kế đó câu chuyện xoay về vấn đề đời sống của chúng tôi trong gia đình. Đức bà kể tên họ của cha mẹ, và anh chị em trong gia đình chúng tôi, và làm chúng tôi ngạc nhiên bằng cách diễn tả cuộc đời chúng tôi từng chi tiết mà không hỏi chúng tôi một câu nào. Đức bà kể những xứ mà chúng tôi đã viếng thăm, những công trình mà chúng tôi đã thực hiện, và những lỗi lầm mà chúng tôi đã mắc phải. Đức bà không nói một cách mơ hồ nó bắt buộc chúng tôi phải ráng nhớ lại những kỷ niệm cũ, mà trái lại mỗi chi tiết đều rõ ràng dường như chúng tôi sống lại những giai đoạn đã qua. Khi các vị quý khách kiếu từ để lui về phòng riêng, chúng tôi đều bày tỏ sự ngạc nhiên mà nghĩ rằng không có ai trong các vị đã sống ít hơn một trăm tuổi, và đức bà đã có bảy trăm tuổi, trong số đó bà đã trải qua sáu trăm năm trên địa cầu và sống trong thể xác vật chất. Tuy vậy, tất cả các vị đều đầy nhiệt tính và vui tươi như ở tuổi hai mươi, điều đó thật là tự nhiên và không kiểu cách hay gượng ép chút nào. Mọi việc đã xảy ra dường như chúng tôi sống chung với những giới người trẻ. Trước khi lui gót để về phòng riêng, các vị đã cho chúng tôi biết trước rằng sẽ có đông quan khách đến dự bữa ăn tại quán trọ chiều ngày hôm sau, và chúng tôi cũng được mời tham dự. II Trưa hôm sau, tất cà các toán trong cuộc hành trình của chúng tôi đều về đến nơi. Chúng tôi trải qua suốt buổi chiều hôm đó để đối chiếu những bản ghi nhận của chúng tôi và thấy mọi sự đều ăn khớp nhau một cách đúng đắn. Khi mọi việc đã xong xuôi, chúng tôi được mời đi thẳng đến quán trọ để dùng cơm chiều. Khi đến quán trọ, chúng tôi thấy có độ ba trăm người ngồi chung quanh những bàn tiệc dài. Người ta dành cho chúng tôi những chỗ ngồi ở một đầu của gian phòng. Tất cả những bàn ăn đều có trải khăn bàn bằng vải trắng mịn rất đẹp, trên có bày chén đĩa bằng bạc và bằng sứ như một bữa dạ tiệc long trọng, tuy nhiên chỉ có một cái đèn nhỏ duy nhất để thắp sáng khắp phòng. Sau khi chúng tôi đã ngồi an tọa được chừng hai mươi phút và tất cả các chỗ ngồi đều đầy đủ những quan khách trừ ra một vài chỗ còn trống ở rải rác đó đây, một cơn im lặng thâm trầm ngự trị khắp phòng và trong khoảnh khắc một ánh sáng nhạt mờ đã tỏa ra khắp chốn. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng tỏ rạng thêm dường như hằng nghìn bóng đèn điện ẩn dấu một cách khéo léo ở đâu đây đã từ từ được thắp lên. Gian phòng trong giây lát đã trở nên sáng rực, và tất cả các đồ vật đều chiếu rạng ngời. Về sau chúng tôi được biết rằng làng này không hề có hệ thống cung cấp điện lực. Sau đó, cơn im lặng kéo dài độ một khắc đồng hồ; hình như có một đám sương mù từ từ đông đặc lại, chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ giống như ngày hôm trước, rồi thình lình xuất hiện bà Mã Ly, thân mẫu của đức Tuệ Minh. Đám sương mù tan dần, và chúng tôi thấy cùng đứng rải rác trong gian phòng, bà Mã Ly và mười một người khác, gồm có chín người nam và hai người nữ. Tôi không biết dùng danh từ nào để diễn tả cái đẹp của cảnh tượng ấy. Thật không phải là quá đáng nếu tôi nói rằng những nhân vật ấy đã xuất hiện như một đoàn thiên thần, nhưng không có cánh. Các vị đứng yên trong một lúc, đầu hơi nghiêng về phía trước, trong một cử chỉ chờ đợi. Kế đó, vang lên những âm thanh của một ban hợp ca vô hình kèm theo một điệu nhạc thanh tao huyền diệu nhất mà người ta có thể tưởng tượng. Tôi đã từng nghe nói về nhạc điệu thần tiên, nhưng chưa hề được nghe bao giờ; cho đến ngày hôm ấy, tôi mới biết thế nào là những âm thanh của cõi Trời. Có thể nói rằng chúng tôi nghe nhạc điệu ấy mà có cảm giác như cất nhẹ mình lên khỏi mặt ghế. Sau bản hợp ca, mười hai vị đều bước đến chỗ ngồi của mình. Chúng tôi lại có dịp nhận thấy rằng các vị bước đi êm ru như không gây tiếng động, tuy rằng các vị không có làm một cố gắng đặc biệt nào để giữ im lặng. Khi các vị đã an tọa, một đám sương mù giống như lúc nãy lại xuất hiện, và lại tan dần, rồi mười hai vị khác nữa xuất hiện, gồm có một người nữ và mười một người nam, trong số đó có vị sư tổ, tác giả các văn kiện. Các vị đứng yên một lúc, và giọng hợp ca vô hình lại trổi lên một lần thứ nhì. Sau bài hát, mười hai vị bước đến chỗ ngồi và cũng không gây một tiếng động. Khi các vị vừa an tọa, đám sương mù lại xuất hiện một lần thứ ba, và khi nó vừa tan thì mười ba vị khác đứng xếp thành hàng, sáu người nam và bảy người nữ, xuất hiện ở đầu kia của gian phòng. Ở chính giữa là một thiếu phụ trẻ dưới hai mươi tuổi, với ba người nam và ba người nữ đứng ở hai bên. Tất cả những người nữ đã xuất hiện cho đến khi đó đều rất đẹp, những người thiếu phụ này lại còn đẹp hơn tất cả các vị khác. Mười ba vị đến sau cũng đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng và nhạc điệu lại trổi lên lần nữa. Sau vài điệp khúc, tiếng hợp ca lại hòa điệu với âm nhạc. Chúng tôi đứng dậy, và trong khi nhạc khúc vẫn tiếp diễn, dường như chúng tôi thấy hàng ngàn hình bóng thần tiên vừa múa lượn chung quanh vừa hát theo một lượt. Không có giọng hát nào buồn, cũng không có một âm điệu bi thương. Nhạc điệu trổi lên với những âm thanh vui tươi nhẹ nhàng, xuất phát tự tâm hồn và truyền cảm đến người nghe, làm cho tâm hồn chúng tôi được nâng cao lần lần cho đến khi chúng tôi có cảm giác như lâng lâng thoát tục. Sau điệu hợp ca, mười ba vị mới đến sau bước tới chỗ ngồi và an tọa, nhưng nhãn quang chúng tôi không thể tách rời khỏi nhân vật ở chính giữa, người thiếu phụ đẹp tuyệt trần này tiến đến bàn của chúng tôi cùng với hai người nữ khác đi kèm ở hai bên. Thiếu phụ ngồi an tọa cùng với hai vị đi kèm ở đầu bàn của chúng tôi. Người ta mau đặt một chồng dĩa ở bên tay trái của thiếu phụ. Ánh sáng trong phòng lu mờ trong một lúc, và chúng tôi nhận thấy chung quanh mỗi người trong ba mươi sáu vị đã xuất hiện, đều có một vầng ánh sáng nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên, và một vầng hào quang đẹp lộng lẫy chói sáng trên đầu của vị nữ quý khách danh dự. Trong cử tọa, chúng tôi là những người duy nhất bị xúc động sâu xa bởi cảnh tượng này, còn những vị khác thì không thấy gì là khác thường. Khi tất cả mọi người đều an tọa, cơn im lặng kéo dài một lúc trong gian phòng, kế đó phần đông những người có mặt đều cất tiếng hợp ca một nhạc khúc vui tươi dưới sự điều khiển của ba mươi sáu vị đã xuất hiện. Khi bài hợp ca chấm dứt, vị nữ quý khách danh dự đứng dậy đưa hai bàn tay ra, thì thấy xuất hiện trên tay bà một ổ bánh mì nhỏ dài độ ba tấc rưỡi, đường kính độ năm phân tây. Mỗi người trong 36 vị đều đứng dậy, bước đến gần bà, và nhận được một ổ bánh mì tương tự. Kế đó, các vị đi vòng quanh tất cả các bàn để phân phát cho mỗi người một mẩu bánh mì. Người thiếu phụ cũng làm y như vậy ở tại bàn chúng tôi. Vừa phân phát bánh mì cho chúng tôi, bà nói: -Các bạn có biết chăng Đấng Christ ngự trong các bạn cũng như trong mỗi người? Các bạn có biết chăng thân thể các bạn vốn trong sạch, hoàn hảo, trẻ trung, luôn luôn tốt đẹp và thiêng liêng? Các bạn biết chăng Chúa Trời đã tạo ra các bạn đúng theo hình ảnh của Ngài và giống y như Ngài, và đã ban cho các bạn quyền năng đối với mọi vật? Trong bản chất, các bạn luôn luôn là một Đấng Christ, Con của Chúa Trời. Các bạn vốn tinh khiết, toàn hảo, thánh thiện, thiêng liêng, hợp nhất với Chúa Trời là Đấng Trọn Lành. Và mỗi người Con của Ngài đều có quyền tuyên bố sự hợp nhất và sự thiêng liêng đó. Sau khi đã ban cho chúng tôi mỗi người một mẩu bánh mì, thiếu phụ bèn an tọa. Ổ bánh mì nhỏ của bà vẫn còn nguyên vẹn như trước khi chia cho chúng tôi. Khi cuộc lễ khai mạc chấm dứt, thì thức ăn bắt đầu được đem tới. Thức ăn đến với mọi người trong những cái tộ lớn có đậy nắp, những tộ này xuất hiện trước mặt các vị nữ khách dường như được đặt bởi những bàn tay vô hình. Người thiếu phụ mở các nắp tộ để qua một bên, và bắt đầu múc thức ăn ra dĩa. Mỗi khi múc đầy một dĩa, bà đưa luân phiên qua hai vị nữ khách ngồi hai bên, hai vị này chuyền dĩa khắp các bàn, và tất cả các quan khách đều được cung cấp thức ăn đầy đủ. Khi đó các quan khách bắt đầu ăn và nhận thấy thức ăn rất ngon. Khi bữa ăn vừa bắt đầu, Tô Mặc hỏi thiếu phụ rằng theo bà thì đức tính nào của Thượng Đế là cao quý nhất. Không chút do dự, bà đáp: -Tình Thương.- Kế đó bà nói tiếp- Cái “Cây Sinh Hoạt” vốn ở giữa cõi Thiên Đàng của Chúa Trời, ở tận nơi thâm sâu nhất trong tâm hồn con người. Trái cây phong phú tốt lành nó mọc và trở nên chín mùi một cách toàn vẹn nhất, trái cây ngon lành và bổ dưỡng nhất, chính là Tình Thương. Những người nhận thức được chân tính của nó, đã định nghĩa nó như là vật cao cả nhất trên thế gian. Tôi xin nói thêm rằng đó là cái mãnh lực hàn gắn cứu chữa lớn nhất trên đời. Tình thương không bao giờ làm ngơ trước sự đòi hỏi của lòng người. Người ta có thể sử dụng nguyên tắc thiêng liêng của Tình Thương để đáp ứng tất cả những nhu cầu của nhân loại và loại trừ mọi sự buồn thảm, tật ách, và những sự lầm than thống khổ của người đời. Nhờ hiểu biết và sử dụng Tình Thương đúng chỗ, nhờ ảnh hưởng tế nhị và vô biên của Tình Thương, tất cả những vết thương của thế gian có thể được chữa khỏi. Tình bác ái thiêng liêng có thể sửa chữa, hàn gắn tất cả mọi sự bất hòa, vô minh và tội lỗi của nhân loại. Khi Tình Thương chan hòa khắp chốn, nó thức động đến những nơi khô khan tẻ lạnh của lòng người và những nơi khốn khổ của cuộc đời. Tình Thương có thể cứu chuộc được nhân loại và biến cải thế gian như một phép mầu. Tình Thương là Thượng Đế, nó vốn trường cửu, vô biên, bất biến, rộng rãi và bao la ngoài mọi sự tưởng tượng. Bạn bị đè bẹp dưới áp lực nặng nề của cuộc đời hằng ngày chăng? Bạn cần có lòng can đảm và sức mạnh tinh thần để đối phó với những nỗi khó khăn trắc trở của mình chăng? Bạn bị đau ốm, sợ hãi chăng? Nếu vậy, bạn hãy nâng cao tâm hồn và cầu nguyện Đấng Tối Cao chỉ đường cho bạn. Tình Thương bất diệt của Thượng Đế che chở cho bạn, bạn không cần phải sợ sệt gì cả. Đức Chưởng Giáo há chẳng nói rằng: “Trước khi ngươi khấn nguyện, Ta đã đáp ứng, trước khi ngươi nói dứt lời, Ta đã nghe”. Bạn hãy can đảm tiến đến gần Ngài, bạn hãy từ bỏ thái độ cầu khẩn van xin của mình, hãy cầu nguyện với một đức tin minh mẫn, và biết rằng sự giúp đỡ mà bạn cần, đã được ban bố cho bạn. Bạn đừng bao giờ nghi nan. Bạn hãy có làm hơn thế nữa, hãy đòi hỏi. Bạn hãy tuyên bố như Đức Jesus cái quyền được sinh trưởng làm con của Chúa Trời. Hãy biết rằng có một khí Hạo Nhiên vô hình bao trùm khắp vũ trụ, trong đó chúng ta đang sống và tiến hóa. Trong chất Tiên Thiên Khí đó, có tất cả những vật tốt lành và toàn hảo mà con người có thể mong muốn. Những vật tốt lành đó chỉ đợi đến khi nào con người biểu lộ đức tin của y, để xuất hiện dưới hình thức rõ ràng và cụ thể. Bạn hãy nhớ chuyện vua Salomon trong đêm kinh nghiệm huyền linh của ngài, khi ngài nâng cao tâm hồn lên tận cõi tâm thức vũ trụ, khi đó ngài cầu xin cho cuộc đời ngài tránh khỏi thói ích kỷ và dành cho công việc phụng sự nhân loại. Việc ấy đã đem đến cho ngài những kho tàng của cải vô tận, không kể những danh vọng mà ngài không bao giờ dám nghĩ tới. Ngài đã nhìn nhận sự minh triết của Tình Thương, và Tình Thương đã ban rải cho ngài những của cải kho tàng phong phú vô tận. “Tiền bạc không có giá trị gì dưới thời đại của vua Salomon”. Thậm chí, đồ chén dĩa của vị vua đầy lòng bác ái đó cũng được đúc bằng vàng khối. bạn rải Tình Thương, tức là mở rộng cửa kho vô tận chứa đầy những kho tàng vàng bạc của Thượng Đế. Người nào đã biết thương yêu đồng loại, không thể không cho ra. Nhưng cho, tức là được. Đó là cái tác động của luật Bác Ái. Khi ta đem cho, chúng ta vận chuyển cái định luật bất di dịch này là “Cho bao nhiêu, được bấy nhiêu”. Khi người ta cho ra mà không có hậu ý muốn thu nhận, người ta không khỏi được nhận lãnh, vì những gì ta đem cho sẽ được hoàn trả lại cho ta một cách dồi dào do sự tác động của luật Nhân Quả. “Bạn hãy cho, rồi bạn sẽ nhận được với một dung lượng đầy tràn, dồi dào, phong phú gấp bội…” Nếu chúng ta hành động với tinh thần Bác Ái, ta phải làm sao cho Thượng Đế hiện diện trong lương tri của chúng ta. Đồng hóa với Sự Sống, Tình Thương và Minh Triết, tức là tiếp xúc một cách có ý thức với Thượng Đế, tức là nhận được một cách sung mãn, dồi dào giống như những thức ăn dồi dào mà chúng ta đã thọ lãnh hồi chiều nay. Các bạn thấy rằng sự sung túc được dành cho tất cả mọi người và không ai là người bị thiếu thốn. Luật Trời luôn luôn tác động một cách trường cửu, nó luôn luôn vẫn y như thế, bây giờ cũng như bao giờ. Luôn luôn bất biến không hề dời đổi, Luật Trời bao giờ cũng vẫn tốt lành. Nếu chúng ta sống thuận theo Thiên Ý, thì Luật Trời sẽ trở nên những nền tảng vững chắc để cho chúng ta xây dựng sức khỏe, hạnh phúc, sự bằng an, sự quân bình và sự thành công. Nếu chúng ta hoàn toàn sống thuận theo Luật Trời thì không một tai họa đau khổ nào có thể xảy đến trong đời chúng ta. Chúng ta không cần được cứu chữa khỏi bệnh tật nào cả, vì chúng ta vốn lành mạnh từ sợi tóc chí đến đầu móng chân. Chúng ta hiểu rõ niềm khát vọng sâu xa, nó ray rứt trong tâm hồn của nhân loại! Không gì có thể chữa khỏi sự nhớ nhung ray rứt đó, trừ ra một sự thông hiểu rõ ràng, một ý thức rõ rệt về đấng Cha Lành của chúng ta, là Chúa Trời vậy. Không có một sự mong mỏi khát khao nào sống động trong linh hồn con người cho bằng sự khát khao mong mỏi được biết Thượng Đế. “Và được biết Thượng Đế, tức là đạt tới sự sống trường cửu”. Chúng ta thấy những người luôn luôn lao chao, bôn tẩu, để hy vọng tìm thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn bằng cách thực hiện một vài công trình nào đó, hay tìm sự yên vui trong việc chiếm hữu một tài sản vật chất nào đó, mà tài sản ấy hiển nhiên là một vật hữu hình hữu hoại. Chúng ta thấy họ theo đuổi và cũng đạt được những mục đích đó, nhưng rốt cuộc họ vẫn không được thỏa mãn. Có người tưởng tượng rằng họ cần có nhà cửa, đất ruộng; có người nghĩ rằng họ cần có một gia tài to lớn; những người khác cho rằng họ cần có sự hiểu biết và kiến thức dồi dào. Chúng ta có cái vinh dự được biết rằng con người vốn sở hữu tất cả những thứ ấy ở tự nơi mình… Thiếu phụ im lặng trong một lúc, kế đó một người trong chúng tôi đứng dậy đưa câu hỏi về luật tương đối và được thiếu phụ giải đáp thỏa đáng. Câu chuyện chấm dứt tại đó. Bữa ăn chiều đã xong, người ta dọn bàn ghế ra khỏi phòng. Khi đó bắt đầu một giai đoạn giải trí, có vũ và nhạc. Âm nhạc do khúc hợp ca vô hình trổi lên, và tất cả chúng tôi đều cùng nhau trải qua một giờ vui vẻ trước khi chia tay. Chúng tôi ở lại làng này hết ba ngày, trong khi đó chúng tôi đã thấy lại một số lớn những vị quý khách đã xuất hiện đến với chúng tôi trong đêm trước. Chiều ngày thứ ba, các vị xin cáo biệt và hứa sẽ gặp lại nhau tại căn cứ điểm mùa đông của chúng tôi, kế đó các vị biến mất dạng. III Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng và đi trong ba ngày trên một đường mòn xuyên qua một vùng núi non gồ ghề hiểm trở, dân cư thưa thớt đến nỗi chúng tôi phải cắm lều để ngủ lại ban đêm. Chúng tôi không có đem theo lương thực, nhưng mỗi khi cần ăn uống, thì luôn luôn có sẵn đồ vật thực trong tầm tay. Khi chúng tôi vừa sửa soạn ngồi ăn, thì những thức ăn liền xuất hiện một cách đầy đủ. Không bao giờ chúng tôi thiếu ăn, và luôn luôn ăn uống thừa thãi. Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một vùng cao nguyên rộng lớn mà chúng tôi phải đi xuống lần lần để đến nơi thôn ấp mà chúng tôi muốn đến viếng. Kể từ khi đó, con đường của chúng tôi vượt qua một vùng phì nhiêu và đông dân cư. Chúng tôi chọn thôn ấp này làm căn cứ mùa đông vì nó ở ngay trung tâm của vùng mà chúng tôi đến viếng. Chúng tôi hy vọng rằng điều ấy sẽ đem cho chúng tôi cái cơ hội hằng mong ước là có dịp kéo dài hơn sự tiếp xúc hằng ngày với các vị Chân Sư. Một số lớn những vị siêu nhân mà chúng tôi đã gặp ở rải rác nhiều nơi, hiện đang sống tại làng này và tất cả các vị đều khẩn khoản mời chúng tôi đến viếng các ngài. Chúng tôi có cảm giác rằng trong khi lưu trú tại làng này vào mùa đông, chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội tốt để quan sát cuộc đời hằng ngày của các ngài một cách gần gũi hơn. Chúng tôi đến làng này ngày 20 tháng 11, và từ căn cứ đó chúng tôi mở một loạt những cuộc xuất hành quanh vùng cho đến khi tuyết rơi làm cho mọi sự di chuyển trở nên khó khăn. Chúng tôi được dọn chỗ ở tiện nghi, dân làng niềm nở tiếp đón, và chúng tôi chuẩn bị hòa mình với cuộc sống của dân làng. Tất cả các nhà đều mở rộng cửa đón chúng tôi, chúng tôi được cho biết rằng ở đây nhà nhà đều không đóng cửa, vì dân làng coi tất cả mọi người như anh em. Kế đó chúng tôi được mời đến ở tại nhà của một bà thiếu phụ có tiếng tăm trong làng này, mà chúng tôi đã gặp ở vùng biên giới. Vì chúng tôi đã yên nơi yên chỗ, chúng tôi không thấy cần thiết phải làm quấy rầy bà, nhưng bà khẩn khoản mời mọc và nói rằng chúng tôi không có quấy rầy gì bà hết cả. Bởi đó chúng tôi dọn đồ hành lý sang ở nhà bà và ở luôn tại đó cho đến mãn cuộc hành trình. Tôi không hề quên cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với bà trong một tỉnh thành nhỏ ở vùng biên giới.Khi bà được giới thiệu với chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng bà trạc độ mười tám tuổi, và nhận thấy bà rất đẹp. Độc giả sẽ tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào khi chúng tôi được biết rằng thiếu phụ đã có trên bốn trăm tuổi và là một trong những nhà giáo mô phạm được mến chuộng nhất vùng ấy. Bà đã dành trọn cuộc đời vào việc phụng sự kẻ khác. Khi chúng tôi ở nhà bà và sống cạnh bà hằng ngày, chúng tôi đã hiểu tại sao bà được mến chuộng dường ấy. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi thấy bà trong hai tuần liên tiếp nhưng cá tính của bà chỉ biểu lộ thật sự khi chúng tôi sống tại nhà bà. Người ta không thể nào làm khác hơn là yêu mến và kính trọng bà. Vả lại, chúng tôi càng biết rõ các vị Chân Sư, thì chúng tôi lại càng yêu mến và kính trọng các ngài. Chúng tôi đã có dịp đối chiếu những lời xác định về tuổi tác của các ngài với những tài liệu xác thật cũng như tập du ký này. Chúng tôi ở tại nhà thiếu phụ và dùng cơm chung một bàn với bà hằng ngày kể từ đầu tháng 12 năm 1895 đến tháng tư năm 1896. Chúng tôi đã có dịp quan sát tỉ mỉ đời sống của bà và cuộc đời của nhiều vị Chân Sư khác cư ngụ tại làng này. Chúng tôi nhận thấy tất cả đều là những cuộc đời lý tưởng. IV Thời gian trôi qua mau cho đến cuối tháng chạp. Năm đã hầu tàn. Chúng tôi nhận thấy một số đông người kéo đến làng này vì một cuộc lễ mà trên thực tế chỉ có các Chân Sư mới tham dự. Ngày nào người ta cũng giới thiệu với chúng tôi những người lạ mặt. Tất cả đều nói tiếng Anh, và chúng tôi có cảm giác như mình đã đồng hóa với sự sinh hoạt của làng. Một ngày nọ, chúng tôi được cho hay rằng cuộc lễ sẽ diễn ra trong đêm Giáng Sinh và chúng tôi được mời đến dự. Người ta nói thêm rằng cuộc lễ không dành cho người ngoại quốc. Tuy nhiên, cuộc hội họp không phải là riêng tư. Vả lại, không có một cuộc họp nào của các Chân Sư là riêng tư. Cuộc họp nhằm mục đích quy tựu những người đã bắt tay vào công việc tâm linh, những người đã đặt cho công việc ấy một tầm quan trọng, nghiêm chỉnh, và đã tiến bộ khả quan để xác nhận sự mong ước của họ là sống cuộc đời thánh thiện. Họ đến một nơi mà họ đã chấp nhận một tâm thức cao cả hơn, và hiểu rõ cái vị trí mà nó phải có trong cuộc đời của họ. Một cuộc hội họp quần chúng như thế thường diễn ra vào mùa này trong năm ở một nơi đã định sẵn từ trước, để cho họ tham dự cuộc lễ. Năm ấy, địa điểm hành lễ được chọn lựa lại là nơi thôn ấp mà chúng tôi đang trú ngụ. Sáng ngày được ấn định cho cuộc hội họp, ánh bình minh thật là trong sáng, và hàn thử biểu chỉ trên 20 độ dưới số không. Tất cả chúng tôi đều bồn chồn, với cảm giác rằng đêm ấy sẽ đem lại một kinh nghiệm mới nữa thêm vào những sự việc lý thú đã xảy ra trong chuyến du hành của chúng tôi. Chúng tôi đến nơi hội họp vào lúc tám giờ tối và thấy có độ hai trăm người tề tựu tại đó. Gian phòng được trang trí tốt đẹp và được thắp sáng bằng phương pháp huyền diệu như đã diễn tả trước đây. Chúng tôi được biết rằng bà chủ nhà của chúng tôi sẽ chủ tọa cuộc hội họp. Bà đến sau chúng tôi ít lâu, và khi bà bước vào gian phòng, tất cả chúng tôi đều khen thầm sự trẻ trung và kiều diễm của bà. Bà mặc một áo dài trắng rất đẹp, nhưng không chút nào se sua để làm cho người khác chú ý đến mình. Bà lẳng lặng bước lên một cái sàn gỗ và bắt đầu thuyết pháp. Bà nói: -Chúng ta hội họp chiều nay với sự mong ước được hiểu rõ ý nghĩa của sự chuyển tiếp từ một trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái siêu việt hơn. Chúng tôi xin chúc mừng những người nào trong quý vị đã được chuẩn bị cho sự chuyển tiếp đó. Trước tiên, quý vị đã theo chúng tôi do bởi sự ưa thích công việc mà chúng tôi làm. Trước hết quý vị đã theo dõi những công việc đó một cách ngạc nhiên và sợ hãi vì quý vị cho rằng đó là những việc nhiệm mầu. Bây giờ quý vị coi đó như là những điều tự nhiên của một cuộc đời gương mẫu, như Thượng Đế vẫn mong ước chúng ta phải sống. Vào giờ phút này, quý vị đã biết chắc rằng chúng tôi không có thực hiện một phép lạ nào cả. Quý vị đã hiểu cái ý nghĩa tâm linh thật sự của những gì mà quý vị đang làm. Chuyển tiếp từ trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái cao hơn có nghĩa là gạt bỏ cái thế giới vật chất dẫy đầy những xung đột và va chạm để chấp nhận cái Tâm Thức Bồ Đề hay tâm thức của Đấng Christ. Khi đó, thì tất cả đều là mỹ lệ, điều hòa, và toàn thiện. Đó tức là phép sinh hoạt tự nhiên, đó là phép sống mà Thượng Đế đã chọn lựa cho chúng ta, và Đức Jesus đã nêu một gương sáng huyền diệu thay trên thế gian. Cách sống ích kỷ là phản tự nhiên. Đó là con đường chông gai, trắc trở. Con đường của Đấng Christ thật là dễ dàng và tự nhiên nếu chúng ta hiểu rõ được nó! Người nào theo con đường đó tức là sống trong Tâm Thức của Đấng Christ hay Tâm Thức Bồ Đề. Chúng ta đang ngồi chung quanh những bàn đã bày sẵn thức ăn. Đây là cơ hội duy nhất mà chúng ta tựu họp trong một bữa tiệc. Đây không phải là một bữa tiệc như những kẻ thế nhân phàm tục vẫn thường quan niệm. Nó là một bữa tiệc thông đạt và thực hiện, biểu tượng cuộc Lễ Chuyển Tiếp như hồi thời đại của Đức Jesus, cuộc Lễ Phục Sinh (Pâque), tức sự chuyển tiếp (thường không được hiểu rõ vào thời đại này) của tâm thức phàm tục lên tâm thức Bồ Đề. Chúng tôi tin rằng một ngày kia tất cả những người con của Thượng Đế sẽ hội họp quanh một bữa tiệc tương tự và hiểu rõ cái ý nghĩa thật sự của nó. Chiều hôm nay, trong số những vị thực khách ngồi quây quần nơi đây, có vài vị đã hoàn toàn tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển bằng thể xác lên tận những cảnh giới cao siêu nhất của cõi Thượng Thiên để học Đạo thượng đẳng. Tất cả các vị ấy đã từng sống một thời gian trong thể xác hữu hình trên địa cầu, và khi viên tịch, các Ngài đã đem thể xác theo đến một nơi địa hạt tâm thức làm cho các Ngài trở nên vô hình đối với người trần gian. Chúng ta phải nâng cao tâm thức lên đến mức độ Tâm Thức Bồ Đề để có thể tiếp xúc với các vị ấy. Nhưng các Ngài có thể trở lại với chúng ta và ra đi tùy ý muốn. Các Ngài có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người nào thụ cảm đối với giáo lý của Ngài, và xuất hiện hay biến mất tùy ý muốn. Chính các Ngài đến dạy Đạo cho chúng ta khi chúng ta sẵn sàng thụ huấn các Ngài, hoặc bằng trực giác, hoặc bằng cách tiếp xúc tự bản thân. Năm vị trong các Ngài sẽ đến dùng bữa chung với chúng ta chiều nay. Trong số đó có một vị nữ thánh mà chúng tôi đặc biệt yêu mến, vì bà là mẹ của một vị trong chúng tôi. (Đó là thân mẫu của đức Tuệ Minh) Bây giờ chúng ta hãy ngồi vào bàn ăn… Ánh sáng trong gian phòng hạ thấp xuống trong một lúc, và tất cả các quan khách đều ngồi trong cơn im lặng hoàn toàn, đầu hơi nghiêng về phía trước. Kế đó, ánh sáng lại tỏ rạng. Năm vị Chân Sư đã xuất hiện trong gian phòng, ba vị nam và hai vị nữ, tất cả đều mặc y phục trắng tinh, tất cả đều có một vẻ đẹp lộng lẫy và bao phủ bởi một vầng hào quang sáng dịu. Các Ngài âm thầm tiến bước, và mỗi vị đều an tọa nơi chỗ ngồi còn để trống của mình ở đầu một bàn trong năm bàn dài. Đức bà Mã Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, ngồi nơi chỗ danh dự ở tại bàn của chúng tôi cùng với vị Trưởng nhóm chúng tôi ngồi bên tay mặt và đức Tuệ Minh ngồi bên tay trái bà. Khi các Ngài đã an tọa, thì những thức ăn bắt đầu xuất hiện. Bữa ăn rất giản dị, nhưng rất ngon lành, gồm có bánh mì, rau đậu và trái cây. Những câu chuyện kế tiếp là những huấn thị dành cho những người tới dự cuộc lễ. Đó là những huấn thị bằng tiếng bổn xứ, và Dật Sĩ dịch lại cho chúng tôi nghe. Đức bà Mã Ly nói sau cùng. Bà nói tiếng Anh toàn hảo, bằng một giọng trong suốt và rõ ràng. Dưới đây là những lời của bà: -Hằng ngày chúng tôi thường sử dụng những mãnh lực mà người đời chế diễu và nhạo báng. Có đặc ân được tiếp nhận và sử dụng những mãnh lực ấy, chúng tôi cố gắng tận tình để chỉ dẫn cho người đời được biết. Bằng những tư tưởng của họ, người thế gian gạt bỏ ra ngoài cuộc đời những sự việc toàn hảo vốn nằm trong tầm tay họ và chỉ đợi họ đưa tay ra để nắm lấy. Khi nào người ta thu đạt được những mãnh lực ấy, thì chúng nó sẽ trở nên vô cùng chân xác và sống động hơn là những của cải vật chất mà họ bám víu lấy một cách tuyệt vọng thay, bởi vì họ có thể nhìn thấy, và cảm xúc được những thứ này bằng những giác quan vật chất hữu hạn của họ. Các bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả những tiện nghi trong gian phòng này và những phòng của các bạn cư ngụ, như ánh sáng, nhiệt lực, và thậm chí những thức ăn mà các bạn dùng, đều do sự tác động của mãnh lực ấy mà có. Các bạn gọi nó là tia ánh sáng hay là gì, tùy ý. Chúng tôi tiếp nhận nó như một quyền năng lớn của vũ trụ. Khi người ta tiếp xúc với mãnh lực ấy, thì nó tác động một cách vô cùng hữu hiệu cho họ hơn là nhiệt lực, điện khí, dầu hỏa hay than đá. Tuy nhiên, chúng tôi coi nó như một trong những nguồn lực thấp kém nhất trong số những nguồn tinh lực thiên nhiên. Mãnh lực ấy không những chỉ cung cấp tất cả mọi vận động hữu ích cho con người. Nó còn cung cấp nhiệt lực cần thiết cho mọi nhu cầu của họ, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, mà không tiêu thụ một mảy may nhiên liệu. Nó vốn hoàn toàn im lặng, và khi người ta sử dụng nó, nó loại trừ một phần lớn những tiếng ồn ào và sự loạn động mà hiện nay dường như không thể tránh khỏi. Nó ở trong tầm tay bạn, ở chung quanh bạn; và chỉ đợi chờ bạn sử dụng. Khi bạn dùng nó, bạn sẽ thấy nó vô cùng giản dị hơn hơi nước hay điện lực rất nhiều. Khi người đời đạt tới mức đó, họ sẽ thấy rằng tất cả những máy móc và phương thức vận chuyển mà họ đã phát minh chỉ là những sản phẩm của những quan niệm vật chất của họ. Họ tưởng rằng chính họ đã sản xuất ra những máy móc ấy và bởi vậy họ chỉ có thể tạo nên những đồ vật hữu hình hữu hoại và bất toàn.Nếu họ hiểu rằng tất cả đều phát xuất từ Thượng Đế, và ngài tự biểu lộ qua con người, thì họ chỉ có sản xuất nên những đồ vật toàn hảo. Tuy nhiên trong viêc sử dụng tự do ý chí, họ đã chọn lựa con đường chông gai trắc trở thay vì hiểu rõ sự liên hệ của mình với Thượng Đế và sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Ngài ban cho. Họ sẽ tiếp tục con đường ấy cho đến khi họ nhận thức rằng phải có một con đường khác tốt đẹp hơn, và con đường này quả thật là có. Sau cùng, họ sẽ biết rằng con đường của Thượng Đế là con đường tốt lành duy nhất. Chừng đó con người sẽ biểu lộ đức toàn mỹ toàn thiện mà Thượng Đế muốn thấy y biểu lộ ngay từ bây giờ. “Các bạn có thấy chăng là các bạn phải tập trung vào đấng Thượng Đế vốn có ở tự nơi mình, thu thập từ nơi Ngài những gì là tốt lành, và do Chân Ngã thiêng liêng, vận chuyển tất cả những mãnh lực tự nhiên của mình.” Đến đây, một người trong chúng tôi hỏi rằng những tư tưởng và lời nói có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời của chúng ta. Đức bà Mã Ly đưa tay ra, và một lúc sau đó một vật nhỏ xuất hiện trong tay bà. Bà nói: -Tôi bỏ một viên đá sỏi trong cái chén nước lạnh này. Viên sỏi rơi xuống nước tạo thành một trung điểm từ đó phát ra những làn sóng gợn đồng tâm. Những sóng gợn này càng lớn dần cho đến khi chúng đụng vào vành chén là cái giới hạn bên ngoài của chén nước. Theo con mắt phàm nhìn thấy, thì những gợn sóng này dường như mất trớn và ngừng lại. Thật ra, khi các gợn sóng đụng vào vành chén thì nó dội ngược lại trở về điểm mà viên sỏi nhỏ rơi xuống nước ở giữa chén và chúng không hề ngừng nghỉ trước khi đạt tới điểm đó. Đó là cái hình ảnh đúng đắn của tất cả những tư tưởng và lời nói mà chúng ta thốt ra. Tư tưởng và lời nói làm vận chuyên vài loại âm ba phóng ra xa theo từng vòng tròn mỗi lúc càng lớn dần cho đến khi chúng bao trùm khắp vũ trụ. Kế đó chúng dội ngược trở lại những người nào đã phát ra chúng. Tất cả những tư tưởng và lời nói của chúng ta, dù tốt hay xấu, sẽ dội ngược trở lại chúng ta một cách chắc chắn cũng như khi chúng ta đã phát ra những tư tưởng hay lời nói ấy… Chúng tôi là những người đã tinh luyện thể xác đến mức có thể di chuyển đến nơi nào tùy ý, có cái đặc ân nhìn thấy cõi Thiên Giới và ở lại đó. Nhiều người được biết cõi ấy dưới danh từ “Cõi Trời thứ bảy,” và coi nó như điều bí mật nhất trong các điều bí mật. Ở đây cũng vậy, người đời đã lầm. Không có điều gì là bí mật cả. Chúng tôi chỉ có đạt tới một cõi giới tâm thức nhờ đó chúng tôi trở nên thụ cảm đối với những giáo lý cao siêu nhất. Chính tại đó mà ngày nay Đức Jesus đang ở. “Đó là một cõi tâm thức tại đó chúng tôi biết rằng khi ta gạt bỏ sự chết, chúng ta có thể trở nên bất tử. Tại cõi ấy, con người vốn bất tử, trong sạch không tội lỗi, trường cửu, bất biến, giống như Thượng Đế. Đó là một nơi mà chúng ta biết ý nghĩa thật sự của Biến Hình (Transfiguration), mà chúng ta có thể cảm thông với Thượng Đế và nhìn thấy Thượng Đế diện đối diện. Mỗi người có thể đến đó và trở nên giống như chúng tôi. Không bao lâu, trạng thái tâm thức cộng đồng sẽ vượt lên tới một cõi giới tại đó chúng tôi có thể nói chuyện một cách bình đẳng với nhân loại và nhìn họ ngay vào tận mắt. Sự vô hình của chúng tôi chỉ là sự nâng cao tâm thức chúng tôi vượt lên trên bình diện của thế tục. Chúng tôi chỉ vô hình vô ảnh đối với những người trần gian mà thôi…” Đức bà Mã Ly vừa nói dứt lời, thì khúc hợp ca vô hình lại bắt đầu trổi lên. Lúc ấy là đúng nửa đêm cuối tháng mười hai và một năm mới đã bắt đầu. Như thế chấm dứt năm đầu tiên trong thời gian mà chúng tôi có hân hạnh được tiếp xúc với các bậc Chân Sư huyền diệu. Á CHÂU HUYỀN BÍ Baird T. Spalding Chương 5 CHƯƠNG NĂM Một ngôi đền đục trong hang núi – Những tài liệu cổ xưa đến bốn trăm năm mươi thế kỷ - Đức Jesus xuất hiện – Tài liệu khắc trên những bia đá cổ - Bí quyết của sự cầu nguyện linh ứng –Sự chết và phục sinh của Chander Sen – Đức Jesus nói chuyện về địa ngục, ác quỷ và Chúa Trời. *** Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức dậy sớm, tinh thần khoan khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự gì sẽ đến, làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đã qua của mình chỉ là những bước đầu trên con đường mình sẽ đi qua. Trong khi chúng tôi ngồi tựu họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng tôi thấy xuất hiện một người lạ mặt mà chúng tôi đã gặp một lần trong một làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xã giao thường lệ, người ấy nói: -Các bạn đã đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đã cùng đi ngao du và sống chung với chúng tôi. Vì các bạn sẽ ở lại với chúng tôi đến tháng tư hay tháng năm, tôi đến để mới các bạn đi viếng một ngôi đền đục trong núi đá ở phía ngoài làng này. Chúng tôi được cho biết rằng người ta đã phải dùng lối kiến trúc đặc biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo thường hay cướp phá vùng này. Những bọn cướp này đôi khi xuống tận làng mạc, thôn ấp để “ ăn hàng”. Làng này cũng đã bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đã tránh khỏi tai họa nhờ họ có thể trú ẩn trong ngôi đền. Các vị Chân Sư đã sở hữu ngôi đền này do dân làng chuyển nhượng lại để gìn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài coi như quý vô giá. Từ khi có sự chuyển nhượng này, những vụ cướp bóc đã chấm dứt, dân làng không còn bị tấn công bất ngờ, và mọi người đều sống bình yên. Người ta nói rằng vài pho tài liệu kể trên đã có từ khi giống người văn minh đầu tiên xuất hiện trên quả địa cầu. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người Naacals,cũng gọi là các “Huynh đệ Thánh Thiện”,đã xuất hiện ở Miến Điện để dạy dỗ dìu dắt những bộ lạc thổ dân Nagas ở đó. Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của giống người này là tác giả của bộ sách Surya Siddhanta và các Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ. Sách Surya Siddhanta là tác phẩm cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Những văn kiện cổ xưa cho rằng sách ấy đã có từ ba mươi lăm ngàn năm về trước. Những Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ đã có từ 45.000 năm. Không phải tất cả những tài liệu văn kiện của ngôi đền này đều là những bổn chánh, vì nhiều tài liệu đã được chép lại do cùng một nguyên bản với những tài liệu cổ của xứ Babylone và được di chuyển đến đây để được gìn giữ an toàn. Còn những bản chính từ cổ xưa là những nguyên bản đã có từ hồi thời đại của Osiris và của châu Atlantide. Những khách đến thăm ngôi đền này chỉ là một thiểu số rất ít, ngoài ra những vị chân tu đã có hiểu biết ít nhiều về sự giác ngộ tâm linh thật sự. Người khách lạ nói tiếp: -Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan điểm thông thường, năm cũ vừa qua đã thuộc về dĩ vãng, không còn trở lại cuộc đời chúng ta nữa, trừ phi là ở trong tư tưởng, do những kỷ niệm về mọi sự sung sướng, đau buồn hay những công trình đã thực hiện. Một trang trong quyển lịch đời của chúng ta đã được xé bỏ. Trái lại, quan điểm của chúng tôi khác hẳn. Chúng tôi coi năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ thêm vào những thành quả đã thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công trình thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp làm cho chúng tôi trở nên trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và bác ái hơn. Các bạn nghĩ rằng: “Làm sao được như vậy?” Chúng tôi đáp: “Các bạn hãy tự tìm ra những kết luận của mình, các bạn hãy chọn lựa cách sống riêng của mình.” Vị trưởng nhóm của chúng tôi nói: -Chúng tôi ước mong được thấy và biết. Người lạ mặt nói tiếp: -Kể từ bây giờ, có những bài học đứng đắn cho những kẻ không nhìn thấy, không biết, không hiểu ý nghĩa về mục đích của một đời sống chân chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, cô lập hay buồn thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ. Kế đó, người lại nói với một giọng ít nghiêm cẩn hơn: -Các bạn đã bày tỏ ý muốn được nhìn thấy và được biết. Nhìn thấy các bạn tựu họp như vầy, tôi chợt nghĩ đến câu nói trong Kinh Thánh: “ Khi nào hai hay ba người trong các ngươi nhân danh Ta mà hội họp, thì Ta luôn luôn có mặt một bên họ”. Cuộc đời tu hành khổ hạnh, xuất gia lánh đời, để ẩn mình trong những tu viện Cơ Đốc hay Phật Giáo, không phải là một điều cần thiết. Một cuộc đời như thế không giúp cho hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và thực hiện sự minh triết chân chính. Những pháp môn tu luyện đó đã từng có từ bao nhiêu ngàn năm về trước. Tuy nhiên, những giáo lý của Đức Jesus, trong khoảng vài năm mà Ngài xuất hiện ở thế gian, đã đóng góp một phần vô cùng lớn lao hơn nhiều trong việc giáo dục tâm linh cho dân chúng. Người ta biết rằng Đức Jesus đã từng thấu triệt mọi giáo lý, đã vượt qua nhiều cấp bực Điểm Đạo, nghiên cứu những cấp đẳng Huyền Môn bí truyền, cùng những nghi thức lễ bái, và sau cùng đã đạt tới giáo lý của Osiris. Những giáo lý này được chỉ dẫn cho Ngài bởi một vị tư tế đã thoát ly ra khỏi tất cả mọi nghi thức lễ bái, và quy luật, sắc tướng. Vị tư tế này là một đệ tử của vị Thánh Vương Thoth, thuộc triều đại thứ nhất của các vì vua Ai Cập. Đế quốc Ai Cập đã từng được nâng lên một trình độ văn minh cao cả hùng cường nhờ ảnh hưởng của Osiris và những vị kế nghiệp của ngài. Vị Thánh Vương Thoth trị nước trong sự minh triết và cố gắng duy trì giáo lý của Osiris. Tuy vậy những quan niệm vật chất và hắc ám đã xuất hiện khi những bộ lạc miền Nam là những giống người da đen đã đưa Thoth lên cầm quyền, tăng gia ảnh hưởng của họ. Những triều đại sau đó đã đi xa dần những giáo lý của Osiris. Họ lần lần chấp nhận những quan niệm hắc ám của giống người da đen, và sau cùng đã tuyệt đối thực hành khoa bàn môn tả đạo. Đế quốc Ai Cập đã suy vong rất mau chóng, và một đế quốc như thế lẽ tự nhiên phải bị suy vong. Sau khi Đức Jesus đã chăm chú nghe lời dẫn giải của vị tư tế này, Ngài bèn thấu triệt được ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của giáo lý Huyền Môn. Những quan điểm sơ khởi của Đức Jesus về giáo lý nhà Phật mà Ngài đã thụ huấn của những nhà hiền triết phương Đông đã giúp cho Ngài nhận thức được những điểm tương đồng chính yếu của tất cả mọi giáo lý. Khi đó, Ngài bèn quyết định đi sang Ấn Độ, đó là một dự tính hoàn toàn có thể thực hiện được do bởi con đường bộ xuyên Á châu của những đoàn lạc đà thường di chuyển từng kỳ hạn vào thời đó. Sau khi đã nghiên cứu giáo lý Phật Giáo ở Ấn Độ, Đức Jesus nhận thấy giữa các tôn giáo có những điểm tương đồng. Ngài hiểu mặc dầu có những sự khác biệt về hình thức lễ bái và giáo điều do người đời đặt ra, nhưng tựu trung các tôn giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất là Thượng Đế… Cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi đi đến ngôi đền. Tại đây, chúng tôi gặp bốn vị trong số các bậc siêu nhân đã đến đây trước chúng tôi. Sau một lúc nói chuyện thông thường, chúng tôi tất cả đều ngồi xuống, và người khách lạ lúc nãy lại nói tiếp: -Không một nhân vật lịch sử nào có thể bì kịp với Đức Jesus. Phần đông người Âu Mỹ tôn sùng Ngài như một thần tượng, và bởi đó họ đã lầm. Đáng lý ra họ nên coi Ngài như hiện thân của một lý tưởng, thay vì tôn thờ Ngài như thần tượng. Thay vì khắc những hình tượng để thờ Ngài, người ta nên