"
81 Án Tây Du: Đại Đường Đôn Hoàng Biến PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 81 Án Tây Du: Đại Đường Đôn Hoàng Biến PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
yeukindlevietnam.com
81 Án Tây Du - Đại Đường Đôn Hoàng Biến - Tập 4 Trần Tiệm
Lucia Nanami, Losedow
AZ Việt Nam
Cappuccino Team
✪ Lib#1 & Lib#2 Cappuccino Ebook At yeukindlevietnam.com
▶ Đăng ký kho sách tự động ◀ m.me/shibaloveskindle
Lời dẫn 1
Đại Đường năm Vũ Đức thứ bảy,
chùa Long Tuyền, Trịnh Châu.
Năm đó Huyền Trang hai mươi lăm tuổi, ngài du ngoạn Kinh Sở, tranh biện Ngô Việt, lại theo Đại Vận Hà mới được đào mười lăm năm trước lên bắc Triệu Châu.
Hôm ấy Huyền Trang đi tới Trịnh Châu, đêm ngủ ở chùa Long Tuyền, lại có Tư binh tham quân trong châu cùng với một dịch sứ đi tới giao cho ngài một công văn của Sùng huyền thự thuộc Hồng lư tự, triệu ngài ngày mùng bảy tháng Chín về chùa Đại Hưng Thiện ở Trường An.
Huyền Trang không khỏi kinh ngạc. “Làm sao Sùng huyền thự biết đêm nay bần tăng đi tới chùa Long Tuyền?”
Tư binh tham quân cười khổ. “Vị dịch sứ này chính là dịch quan của Giá bộ ty thuộc Bộ Binh, bảy ngày trước đã tới Trịnh Châu, cần tìm tăng nhân Huyền Trang. Hắn chỉ biết pháp sư đang đi dọc theo Đại Vận Hà lên bắc, nhưng không biết hành tung. Sau khi tra lại quá sở của các nơi mới biết pháp sư còn chưa đến, phủ Thứ sử liền phái người tới đóng tại gần như tất cả mọi chùa chiền nằm ở hai bên bờ Đại Vận Hà để đợi pháp sư.”
Dịch sứ ấy lấy ra một tấm ngân bài giao cho Huyền Trang, ngân bài rộng một tấc rưỡi, dài năm tấc, bên trên có khắc một hàng chữ Lệ. “Sắc tẩu mã ngân bài”. Đây chính là lệnh sử dụng hệ thống trạm dịch của chính quyền, cấp bậc cao nhất, do Môn hạ tỉnh phát ra.
Dịch sứ sốt ruột nói, “Pháp sư, hôm nay đã là mùng bốn tháng Chín, Trịnh Châu cách Trường An chín trăm dặm, chúng ta phải ngày đi mười trạm dịch mới có thể đến Trường An trong vòng ba ngày. Mời pháp sư nghỉ ngơi một lát rồi chúng ta lập tức xuất phát!”
Huyền Trang cảm thấy khiếp sợ, mình chỉ là một tăng nhân vừa mới ra khỏi mái nhà tranh, không hề có quan hệ gì với triều đình, vì sao lại phải dùng đến cả một trận thể lớn như vậy để tìm mình? Chỉ là một lần triệu tập này thôi mà đã dính dáng đến Môn hạ tình, Bộ Binh, Hồng lư tự và phủ Thứ sử địa phương; đặc biệt một ngày đi mười trạm dịch cũng có nghĩa là một ngày đi ba trăm dặm, trong các cấp bậc của trạm dịch Đại Đường, như vậy là chỉ thấp hơn thư ân xá của Hoàng đế và vũ hịch của quân đội cần một ngày đi năm trăm dặm thôi.
Huyền Trang không hiểu ra sao, lại không dám chậm trễ, lập tức thu thập một chút rồi lên đường cùng với dịch sứ.
Ngựa của trạm dịch sớm đã chờ sẵn ở hậu viện của chùa, hai người xuất phát ngay trong đêm, chạy về phía Trường An. Từ đất Trịnh, Biện tiến về Trường An, đường đi rất tiện lợi, ba mươi dặm một trạm dịch, đến mỗi trạm dịch hai người liền thay ngựa. Căn cứ theo sắc lệnh của triều đình, mỗi ngày phải qua mười trạm dịch tương đương với một ngày đi ba trăm dặm, trên đường không được vào trạm dịch nghỉ ngơi, hai người liền dứt khoát buộc chính mình vào trên lưng ngựa rồi cứ thế phi.
Giữa trưa ngày mùng bảy tháng Chín, Huyền Trang và dịch sứ đi tới trạm dịch Trường Lạc ở ngoài cổng Thông Hóa của thành Trường An, chỉ cách thành Trường An có mười lăm dặm. Huyền Trang đầy người bụi đất, toàn thân cứng đờ, da dẻ nứt nẻ, bên trong bắp đùi
bị yên ngựa cọ xát tới loang lổ vết máu. Mấy tên dịch đinh đi đến cởi dây thừng, khiêng Huyền Trang từ trên ngựa xuống, đưa thẳng vào xe ngựa đã chuẩn bị sẵn sàng trong trạm dịch.
Người vừa lên xe, phu xe đã quất roi một cái, xe ngựa lộc cộc chạy đi.
Huyền Trang nằm trong xe, toàn thân đau nhức, may mà người phụ trách việc này suy nghĩ rất chu đáo, đã bố trí sẵn một y sư trên xe. Đầu tiên y sư cho Huyền Trang uống một bát canh sâm, tiếp đến xử lý những vết nứt nẻ và trầy trụa trên người ngài, sau đó xoa bóp để giảm bớt mệt mỏi cơ bắp. Tinh thần Huyền Trang cũng nhờ vậy mà buông lỏng xuống.
Từ cổng Diên Hưng vào Trường An, đi qua bốn phường liền đến chùa Đại Hưng Thiện ở phường Tĩnh Thiện. Xe ngựa dừng lại trước sơn môn chùa, y sư dìu Huyền Trang xuống xe. Huyền Trang nhìn sơn môn to lớn trước mặt, không khỏi cảm thấy ngẩn ngơ, giống như trong giấc mơ đêm qua ngài vẫn còn trên thuyền ở Đại Vận Hà, vừa mới bước hụt một cái mà đã đặt chân tới thành Trường An rồi.
Lúc này một đám tăng nhân vội vã đi ra nghênh đón, dẫn đầu lại là trụ trì của chùa Đại Giác, pháp sư Đạo Nhạc.
Huyền Trang vội vàng chắp tay thi lễ, Đạo Nhạc kéo người ngài. “Huyền Trang, thân thể còn chịu đựng được không?” Huyền Trang cười nói, “Không sao.”
Đạo Nhạc thở phào nhẹ nhõm. “Vậy thì tốt. Trước đó Trí Diễm ở Dương Châu gửi thư nói ngươi rời khỏi Dương Châu ngày mùng ba tháng Tám, theo Đại Vận Hà đi đến Triệu Châu. Sau khi tính ngày tháng, Tiêu tướng công liền phái người chặn ngươi ở Trịnh Châu,
không nghĩ tới lại chậm trễ lâu như vậy, thật là khổ cho ngươi. Mau đi theo ta nào, Tiêu tướng công đã chờ lâu rồi.”
Lúc này Huyền Trang mới hiểu ra, chẳng trách Hồng lư tự có thể nắm chắc được hành tung của mình đến như vậy. Trong quan chức Đại Đường, có thể xưng là tướng công chỉ có Tể tướng triều đình, mà trong số các Tể phụ chỉ có một người họ Tiêu, đó là Tống Quốc công, Trung thư lệnh Tiêu Vũ. Có điều vì sao Tiêu Vũ lại không tiếc vận dụng cơ quan của triều đình, phái người đi ngoài nghìn dặm để tìm một tăng nhân vô danh như mình? Sắc mặt của Huyền Trang hơi nghiêm nghị, xem ra nhất định là triều đình đã xảy ra chuyện đại sự rồi.
Chùa Đại Hưng Thiện là ngôi chùa to lớn nhất trong thành Trường An, chiếm diện tích nguyên một phường, Đạo Nhạc vừa dẫn Huyền Trang đi nhanh giữa đủ loại điện gác lầu các vừa kể lại ngọn nguồn cho Huyền Trang nghe. Tuy Huyền Trang mấy năm nay đã tu tập thiền định đến mức bất động như núi, nhưng cũng không khỏi nghe mà mặt biến sắc.
Thì ra tháng Sáu năm nay, Thái sử lệnh Phó Dịch lại ra tay! Năm Vũ Đức thứ tư, Phó Dịch dâng sớ Xin phế Phật pháp gây ra sóng to gió lớn, nhưng khi đó triều đình đang cùng Vương Thế Sung và Đậu Kiến Đức kịch chiến Trung Nguyên, thiên hạ chưa định, cuối cùng chẳng đi đến đâu cả.
Tháng Ba năm nay, Đại Đường tiêu diệt các phản vương cuối cùng trong nước là Cao Khai Đạo và Phụ Công Thạch, thống nhất bốn biển, trọng tâm triều chính chuyển hướng sang quốc trị dân sinh. Phó Dịch cho răng thời cơ đã đến, một lần nữa dâng sớ Xin trừ Thích giáo, thỉnh cầu Hoàng đế cấm Phật giáo. Trung thư lệnh Tiêu
Vũ đối đầu gay gắt không khoan nhượng, hai người tranh luận quyết liệt. Hoàng đế Lý Uyên hạ lệnh cho bá quan bàn bạc, Tiêu Vũ và Phó Dịch mỗi người tổ chức nhân thủ của mình, dấy lên một cuộc tam giáo luận chiến cuốn sạch từ trong cho đến ngoài triều.
Vốn song phương đều có thắng bại, nhưng mùng tám tháng Tám, một người đàn ông trẻ tuổi nhận lời mời của Phó Dịch đi tới chùa Đại Hưng Thiện. Người này mở luận trường trong viện Quan Âm, mười ngày mười đêm dùng lí luận bác bỏ mười bảy vị cao tăng, nhất thời làm chấn động cả Trường An. Đám người Tiêu Vũ thua tan tác, không có người nào dám chiến tiếp. Kết quả là người đàn ông kia ở trong đại điện, tuyên bố phải khiêu chiến với tất cả các luận sư của Phật tông trong thiên hạ, ngồi ở vị trí lôi chủ đủ một tháng.
Đám người Tiêu Vũ không còn cách nào khác, đúng lúc này thì Đạo Nhạc nhận được thư của Trí Diễm. Trong thư Trí Diễm hết sức tôn sùng tăng nhân trẻ tuổi Huyền Trang, cho rằng đây chính là thiên lý mã của Phật môn, trình độ biện luận không ai bằng. Tiêu Vũ và Thủ phụ Bùi Tịch đều là tín đồ của Phật giáo, hai vị Đại Tể tướng lập tức liên thủ, lệnh Hồng lư tự gửi công văn, Giá bộ ty của Bộ Binh phái người đi triệu Huyền Trang vào kinh.
Huyền Trang hỏi. “Hôm nay đã mùng bảy tháng Chín, người đó thế nào rồi?”
Đạo Nhạc cười gượng. “Hắn vẫn đang ngồi ở trong đại điện viện Quan Âm.”
Huyền Trang hỏi. “Rốt cuộc người này có lai lịch thế nào?” Đạo Nhạc vẻ mặt nghiêm nghị. “Người này chính là Trạng nguyên đầu tiên sau khi Đại Đường mở khoa thi, hơn nữa còn là song Trạng nguyên của cả khoa Tú tài và khoa Tiến sĩ, Lữ Thịnh.
Hắn vốn học Nho, sau đó vào phái Lâu Quan tu Đạo; năm Vũ Đức thứ tư, Phó Dịch tiến cử hắn đến Thái y viện làm một quan nhỏ tòng cửu phẩm hạ. Năm Vũ Đức thứ sáu mở khoa thi, tổng cộng mở sáu khoa Tú tài, Minh kinh, Tiến sĩ, Minh pháp, Minh thư và Minh toán, trong đó khoa Tú tài là khoa cao nhất, phẩm bậc chính bát phẩm thượng. Gã Lữ Thịnh kia thi đỗ Trạng nguyên. Sau đó khoa Tiến sĩ thi, phẩm bậc là tòng cửu phẩm thượng, không nghĩ tới hắn lại bỏ phẩm bậc chính bát phẩm thượng, đi thi khoa Tiến sĩ, kết quả lại đoạt Trạng nguyên.”
Huyền Trang nghe vậy cũng ngẩn ra. “Người… người này vì sao làm như vậy?”
Đạo Nhạc nói, “Khi đó chẳng những Bộ Lễ khó xử mà ngay cả Bệ hạ cũng không biết nên sắp xếp phẩm bậc cho hắn thế nào, liền đích thân phái người tới hỏi hắn. Ngươi đoán xem gã Lữ Thịnh kia nói gì?”
Huyền Trang lắc đầu.
Đạo Nhạc cũng lộ vẻ khâm phục. “Lữ Thịnh nói, tiếc là Minh kinh và Tú tài mở thi cùng ngày.”
Huyền Trang lẩm bẩm nói, “Không ngờ người này lại muốn giành một loạt ba Trạng nguyên!”
Đạo Nhạc thở dài một hơi. “Chứ còn sao nữa! Một năm nay Lữ Thịnh danh chấn Trường An, có thi gia đặt cho hắn danh hiệu là ‘Đại Đường vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân’! Người đó bây giờ đã ngồi ở trong đại điện kia trọn một tháng rồi. Huyền Trang, đánh bại hắn đi!”
Hai người không nói gì nữa, im lặng bước vào viện Quan Âm. Trong khuôn viên tùng bách chọc trời, có ba mươi mấy người đang
chờ trước thềm đá, ngoài tăng nhân áo đen và quan chức triều đình đủ loại phẩm bậc ra thì còn có không ít đạo sĩ mão vàng. Trung thư lệnh Tiêu Vũ vội vã đi tới nghênh đón, vừa tới nơi liền hỏi. “Ngươi chính là Huyền Trang? Có thể thắng hắn không?” Huyền Trang yên lặng một lát, đáp. “Không dám nói thắng bại.” Tiêu Vũ tức giận. “Trí Diễm nói ngươi là thiên lý mã của Phật môn, tranh luận chưa từng có đối thủ, bây giờ sao lại tỏ ra khiếp nhược như thế hả? Tên nhà quê kia đã ở trong đại điện ba mươi ngày rồi, hôm nay là ngày cuối cùng, nếu ngươi lại thua nữa, tam giáo luận chiến lần này chúng ta liền hoàn toàn thua mất!” Huyền Trang không nói gì, chắp tay vái chào rồi ung dung bước lên bậc thềm đá xanh, tiến về phía điện Quan Âm.
Tiêu Vũ trợn mắt một lát, trên mặt lộ ra vẻ chờ mong. Mọi người trong viện cũng im lặng không một tiếng động, lặng lẽ nhìn theo. Huyền Trang mở cánh cửa loang lổ của điện Quan Âm. Trong đại điện u ám, một người đàn ông trẻ tuổi tướng mạo anh tuấn đang quỳ ở trên bồ đoàn, nhắm mắt suy nghĩ. Huyền Trang không nói một lời, bước tới ngồi xếp bằng ở trên bồ đoàn đối diện với hắn. Lữ Thịnh mở mắt ra, cười cười. “Đến rồi à?”
Huyền Trang hỏi. “Ngươi biết bần tăng sẽ đến?”
Lữ Thịnh quan sát ngài. “Mười ngày trước, lúc Tiêu công phái người đến Trịnh Châu liền đã biết. Pháp sư ba ngày chạy chín trăm dặm, như cầm phiền não chướng, như nghênh đầu đao phong. Chắc hẳn pháp sư cũng mệt mỏi rồi, có cần nghỉ ngơi một lát không?”
Huyền Trang nói, “Túi da thối tầm thường, buông bỏ không vấn vương. Trong lò lửa hừng hực, vẫn gió mát trăng thanh.”
Đồng tử Lữ Thịnh co lại. “Giỏi cho hòa thượng, không uổng công ta đợi mười ngày! Pháp sư, thời gian vừa rồi, hễ là người đi vào trong đại điện này, ta đều phải hỏi một vấn đề.”
Huyền Trang nói, “Mời hỏi.”
Lữ Thịnh nói, “Năm Đại Nghiệp thứ năm nhà Tùy, thiên hạ có bao nhiêu hộ? Có bao nhiêu người?”
Huyền Trang chần chừ một lát. “Khoảng chừng chín triệu hộ, bốn mươi sáu triệu người.”
Lữ Thịnh than thở. “Giỏi cho hòa thượng!”
Hắn nhắm mắt một lát, tiếp tục nói, “Nói chính xác là tám triệu chín trăm lẻ bảy nghìn năm trăm ba mươi sáu hộ, bốn mươi sáu triệu mười chín nghìn chín trăm năm mươi sáu người.” Sắc mặt Huyền Trang không đổi. “Trí nhớ tốt.”
Lữ Thịnh cười lạnh lùng. “Ta hỏi thêm một câu nữa.” Huyền Trang cười nói, “Hễ là người đi vào trong đại điện này, ngươi đều phải hỏi hai vấn đề sao?”
Lữ Thịnh yên lặng một lát, sau đấy cười gượng. “Quả nhiên pháp sư có tài hùng biện! Kì thực đó chỉ là vì không ai có thể trả lời được vấn đề thứ nhất.”
Huyền Trang mỉm cười. “Mời hỏi”
Lữ Thịnh hỏi. “Năm Vũ Đức thứ sáu, thiên hạ có bao nhiêu hộ, có bao nhiêu người?”
Huyền Trang im lặng, lắc đầu. “Đây là cơ mật của Bộ Dân, bần tăng không dám biết.”
Lữ Thịnh nói, “Không sao, đây không phải vấn đề thứ hai của ta. Đầu năm nay theo sổ sách của Bộ Dân, thiên hạ có hai triệu ba mươi bảy nghìn sáu trăm bảy mươi lăm hộ, chín triệu một trăm ba
mươi ba nghìn tám trăm năm mươi sáu người. Pháp sư có biết vì sao lại như thế không?”
Huyền Trang kinh hãi hít một hơi. “Loạn lạc thời Tùy mạt vậy mà lại chết nhiều người đến như thế?”
Lữ Thịnh nói từng chữ từng câu. “Từ năm Đại Nghiệp thứ bảy đến năm Vũ Đức thứ sáu, mười hai năm loạn lạc, dân số giảm đi ba mươi sáu triệu người! Mười người mất tám! Pháp sư, chúng ta đều đi ra từ núi thây biển máu thời Tùy mạt. Quần hùng tranh vùng hoang dã, người chết phơi xác đầy hoang dã; quần hùng tranh thành quách, giết người phơi xác đầy thành quách. Bách tính đào đất làm bánh, đổi con mà ăn. Người trong thiên hạ này có mảy may kính sợ đối với thiên đạo, Phật Đà và cương thường hay không? Ta chờ đợi pháp sư mười ngày chính là vì muốn hỏi ngài một câu này thôi: Hôm nay chúng ta biện luận tam giáo Nho Đạo Phật ai trước ai sau, nhưng có một chút ý nghĩa nào không?”
Huyền Trang im lặng rất lâu. “Vậy theo Lữ Trạng nguyên, hôm nay chúng ta nên làm thế nào mới có ý nghĩa?”
Lữ Thịnh nhìn khuôn mặt mệt mỏi hốc hác của Huyền Trang. “Bộ túi da này của pháp sư chắc hẳn cũng đã mệt mỏi rồi, bây giờ cổ tự thanh tịnh, dương quang ấm áp, không bằng ngài và ta ngủ say một giấc?”
Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Bần tăng hỏi ngươi một vấn đề.” Lữ Thịnh gật đầu. “Mời hỏi.”
Huyền Trang hỏi. “Vì sao ngươi phải bỏ khoa Tú tài chính bát phẩm thượng, đi thi khoa Tiến sĩ tòng cửu phẩm thượng?” Lữ Thịnh chăm chú nhìn ngài. “Nghe nói năm ấy pháp sư từ Thành Đô lén lút ra ngoài đất Xuyên?”
Huyền Trang cười khổ. “Không sai.”
Lữ Thịnh hỏi. “Lén lút vượt quan ải, dựa theo pháp lệnh của triều đình là tội bị đi đày, vì sao pháp sư phải mạo hiểm như vậy?” Huyền Trang nói, “Chỉ vì mong giải được đại đạo trong lòng thôi.” Lữ Thịnh hỏi. “Nghe nói danh vọng của pháp sư đã vang khắp đất Kinh Sở và Ngô Việt, vì sao lại phải lên bắc Triệu Châu?” Huyền Trang nói, “Pháp sư Đạo Thâm ở Triệu Châu tinh thông Thành thực luận, bần tăng muốn đi cầu giải đại đạo trong lòng.” Lữ Thịnh cười. “Tại hạ cũng là như thế! Pháp sư, có một thứ mà Phật gia xưng là Phật, đạo sĩ xưng là Đạo, để vương xưng là Pháp, người đọc sách xưng là Nho, bá tánh chúng sinh xưng là ước mơ. Nó có thể khiến người với người có lòng kính sợ, nước với nước vĩnh viễn giữ hòa bình, lê dân bách tính an cư lạc nghiệp, trên đời không còn có loạn lạc, nạn đói và đau khổ. Thứ này chạm không thấy, sờ không được, miệng không thể nói, bút không thể viết. Đại Đường mở khoa thi, không hỏi dòng dõi và gia thể, phá vỡ chế độ cửu phẩm từ thời Ngụy Tấn tới nay, khiến hàn vi sĩ tử cũng có con đường tiến thân. Có người nói khoa cử chính là thứ này, ta lại không tin, thể là liền tự mình đi thử, đáng tiếc không thể trúng cả sáu khoa, vô cùng tiếc nuối!”
Huyền Trang lặng lẽ chăm chú nhìn hắn, hai người đều không nói gì nữa.
Huyền Trang ngáp một cái, nghiêng người nằm xuống trên bồ đoàn. “Đã như vậy, chúng ta liền ngủ say một giấc đi.” Lữ Thịnh cười to, cũng nghiêng người nằm xuống.
Cả điện tĩnh mịch, ánh nắng chiều cùng bụi bay bao phủ trên mặt hai người, làm người ta càng thêm buồn ngủ. Thời gian này
Huyền Trang vô cùng mệt mỏi, rất nhanh tinh thần đã trở nên mơ hồ.
Trong lúc mơ màng, bên tai lại vang lên giọng nói của Lữ Thịnh. “Nghe nói pháp sư là người Lạc Dương; trong nhà có còn thân nhân?”
Huyền Trang thấp giọng. “Cha mẹ mất sớm, đại tỷ sớm gả, nhị huynh xuất gia, chỉ có đại huynh ở nhà làm nông. Lữ Trạng nguyên, còn ngươi?”
Giọng nói của Lữ Thịnh trầm thấp. “Ta là người Bác Châu, Sơn Đông, phụ thân là một lão binh, thời Tiền Tùy từng theo Hàn Cầm Hổ chinh chiến, sau đó lại theo Tiết Thể Hùng chinh phạt Cao Câu Ly, kết cục là cả thân thương bệnh. Ta còn có ba huynh trưởng, đều tòng quân từ những năm Đại Nghiệp, đại huynh chết trận ở Cao Câu Ly, nhị huynh chết trận ở quận Nhạn Môn, tam huynh chết trận ở Dương Châu.”
Huyền Trang thở dài. “Người đi dần xa cách, người tới dần thêm thân. Ra cổng thành xa ngóng, những gò với mộ phần. Mười hai năm loạn thể, ngươi và ta đều là kẻ phiêu linh.”
Lữ Thịnh nói, “Pháp sư nói thật không tồi, phụ thân ta một đời chinh chiến, lại rơi vào cảnh tan cửa nát nhà, ba con trai mất mạng; sau đó phụ thân ta trở lại nhà cũ ở Bác Châu, đúng là thỏ chui qua lỗ chó, trĩ bay trên xà nhà. Xa xa nhìn nhà cũ, đầy mộ giữa rừng tùng. Từ ấy ta liền sống giữa nhà cửa và mồ mả ở đó, đọc sách, lớn lên.”
Ánh nắng chiều chiếu vào, hai người cứ thể trò chuyện, giọng nói càng ngày càng thấp, dường như từ chân trời truyền đến, là lời
kể của gió mây, là tiếng nỉ non của sách sử. Cuối cùng Huyền Trang thiếp đi.
Cũng không biết đã ngủ bao lâu, lúc tiếng chuông sớm trong chùa vang lên, Huyền Trang mới khoan thai tỉnh lại. Lữ Thịnh đang mỉm cười nhìn ngài. Huyền Trang kinh ngạc nhìn sắc trời, không ngờ đã là giờ Mão của ngày hôm sau, ánh sáng hắt vào nơi cửa sổ Phật điện, ngài vậy mà đã ngủ trọn một đêm.
Lữ Thịnh cười. “Pháp sư ngủ giấc này, ta tâm phục khẩu phục! Trận luận chiến này là ta thua rồi!”
Huyền Trang không hiểu. “Vì sao lại thế?”
Lữ Thịnh thản nhiên đáp. “Ta đã thắng hai mươi chín ngày, hoàn toàn không có vướng bận gì; pháp sư thì khác, ngài là do hai vị Đại Tể tướng triệu đến, trên vai gánh vác vinh nhục của Phật môn. Ngài dám ngủ một giấc này, tự nhiên chính là ta thua rồi.”
Huyền Trang yên lặng một lát. “Ngươi và bần tăng cùng thảo luận, chỉ vì một trận luận chiến thắng thua thôi hay sao?” Vẻ mặt Lữ Thịnh nghiêm túc, cúi mình thi lễ thật sâu. “Đó là ngài và ta dùng cả một đời này để đánh cuộc. Nó đã chạm không thấy, sờ không được, miệng không thể nói, bút không thể viết, vậy thì hãy dốc hết cả đời chúng ta để tìm kiếm nó đi!”
Huyền Trang mỉm cười gật đầu, hai người nhìn nhau một cái, cùng đẩy ra cánh cửa của điện Quan Âm. Trước mắt họ là điện các trùng điệp, là Trường An huy hoàng, dường như đang có một luồng khí mạnh mẽ thức tỉnh từ ba mươi sáu triệu thi hài kia.
Lời dẫn 2
Đại Đường năm Vũ Đức thứ chín.
Tây Sa Châu, huyện nha Đôn Hoàng.
Địa lao.
Địa lao sâu hai trượng dưới đất, dài không đủ ba trượng, rộng không quá bảy thước, ở giữa dùng gỗ du to cứng ngăn ra, một bên là lối đi, một bên là nhà tù; không gian ở đây cực kì chật chội, không hề có chỗ để xê dịch, như sống và chết, như thành và bại.
Giám ngục huyện nha dẫn một tiểu lại bạch trực đi trên lối đi chật hẹp. Đang vào lúc hoàng hôn, trên đỉnh lối đi có mấy lỗ thông khí dẫn thẳng lên đến mặt đất, có ánh trời chiều chạng vạng hắt xuống, loang lổ u ám. Trong địa lao chỉ có năm phòng giam, bốn phòng bên ngoài đều không có một bóng người, mặt đất đá được đầm cứng loang lổ màu nâu, dường như là màu máu cũ kỹ từ năm xưa.
Giám ngục mở xích cửa phòng giam ở trong cùng, mở cửa song gỗ ra, bạch trực đặt một hộp đồ ăn xuống đất.
Giám ngục thấp giọng. “Lang quân, đến lúc lên đường rồi.” Trong bóng tối có tiếng xiềng xích vang lên, tù nhân chậm rãi đứng dậy, bước ra từ trong bóng tối. Người này bẩn thỉu nhếch nhác, tóc tai bù xù, chỉ có một đôi mắt lấp lánh chiếu ra ánh sáng tựa như ngọn lửa. Trên tay, trên chân và trên hông, thậm chí là cả trên cổ hắn cũng đều có còng sắt. Bảy, tám sợi xích sắt đều to như
ngón tay cái, vô cùng nặng nề, đầu bên kia khóa vào vòng sắt liền với tường, cử động một cái là kêu loảng xoảng.
Bạch trực khiếp sợ trong lòng, nhanh chóng đứng dậy lui lại cầm hoành đao dưới nách. Giám ngục lại không để ý, đi tới mở hộp đồ ăn, bên trong là một chiếc bánh vừng, một con gà hầm và một bầu rượu. Hắn lấy rượu và thức ăn ra rồi lần lượt bày dưới đất.
Tù nhân hỏi bằng giọng bình thản. “Chết kiểu nào? Chém đầu hay là treo cổ?”
Giám ngục nói, “Chết đói trong tù.”
Tù nhân cười ha hả. “Một đám chuột nhát chết. Thuốc hạ trong rượu này sao? Mang tới đây đi!”
Giám ngục lắc đầu. “Lang quân, ý của quan trên là phải hạ dược ngài, mua một chút câu vẫn hoặc ô đầu cho vào trong rượu. Có điều luật Đường nghiêm ngặt, người mua bán độc dược đều bị treo cổ, tiểu nhân lại không muốn làm liên lụy người khác. Bữa rượu này chỉ là tấm lòng của tiểu nhân, ngài là hương đảng Đôn Hoàng ta, có tình đồng hương với ta; trên tay đã sắp dính tính mạng của ngài, lại muốn giữ cho bữa rượu này được trong sạch, cho nên tiểu nhân liền mang theo một dải lụa dài.”
Giám ngục lấy ra ba thước lụa trắng từ trong tay áo, buông trên tay, tay kia nâng bầu rượu lên.
Tù nhân cầm lấy bầu rượu uống một hơi cạn sạch, vung tay ném vào tường vỡ tan, đột nhiên điên cuồng gầm lên giận dữ. “Ta phải đến chỗ Thái Sơn Phủ Quân báo danh, rồi một ngày luân hồi trở về, nhất định phải tái chiến Đôn Hoàng!”
Hai người giám ngục và bạch trực im lặng kéo dải lụa ra, quấn quanh cổ tù nhân rồi chậm rãi kéo sang hai bên. Tiếng gầm của tù
nhân đột nhiên im bặt, hai tay tóm cổ họng, miệng vẫn không ngừng lẩm bẩm. “Tinh Vệ tha cành gỗ, muốn lấp cả biển xanh. Hình Thiên vung búa bổ, ý chí vẫn còn nguyên. Lúc sống không lo nghĩ, khi chết có hối chi.”
Trong cổ họng tù nhân vang lên tiếng răng rắc, da mặt dần dần tím tái, thân thể cũng càng lúc càng nhũn ra, trên mặt như cười như không, lại có nước mắt chảy xuống. Giám ngục thở phào nhẹ nhõm, đang định thêm một chút lực nữa thì đột nhiên trong nhà tù sáng rực lên, cả địa lao sáng rõ như ban ngày. Ánh sáng chói mắt ấy chiếu rọi mỗi một ngóc ngách, tất cả đều hiện lên rất rõ ràng. Hai người vô cùng kinh hãi, đều buông tay ra, tù nhân kia ngã vật xuống đất.
Hai người nheo mắt cố gắng nhìn, lại thấy trong ánh sáng dường như xuyên thấu vạn vật ấy có một quầng sáng ngũ sắc chậm rãi buông xuống từ trên mái. Tù nhân cũng bị cảnh tượng khác thường này làm cho kinh động, ho kịch liệt, ngơ ngác nhìn quầng sáng ngũ sắc nọ.
Trong quầng sáng ngũ sắc lại có tiếng người vang lên. “Tử tù kia, giữa lúc sống chết, có nhìn thấy thần linh không?” Tù nhân lẩm bẩm nói, “Ngươi… ngươi là thứ gì vậy?” Quầng sáng ngũ sắc cười nói, “Ta là chính thần trên thiên đình, chỉ vì một chút việc nhỏ mà bị giáng xuống dưới hạ giới. Vừa rồi ta đang du đãng giữa đất trời, thấy ngươi thần hồn ly khiếu, liền đến xem xem.”
Giám ngục và bạch trực đã sợ đến mức ngây người, tù nhân lại cười lạnh lùng. “Thể sự trên nhân gian này vạn phần đặc sắc, Tôn
thần muốn xem thì cứ xem đi. Nếu đã xem đủ, chớ làm mất thời gian ta đến Thái Sơn báo danh.”
Quầng sáng ngũ sắc cười to. “Tên tù nhân này thật thú vị. Thôi được, ta bị giáng xuống dưới hạ giới, không có chỗ an thân, liền mượn túi da của ngươi sống nhờ ba năm, thế nào? Ba năm sau ta trở về thiên đình sẽ trả lại tự do cho ngươi!”
Tù nhân yên lặng một lát. “Xin hỏi tôn thần là thần linh nơi nào?” Quầng sáng ngũ sắc ngâm: “Eo thon đau nhọn như giầy rách. Mười sáu ngôi sao bám quanh giầy. Dưới Khuê bảy sao ngang một dãy. Dưới nữa chính là Thiên Hỗn tinh.”
Tù nhân giật mình sợ hãi. “Thì ra là ngươi!”
Quầng sáng ngũ sắc im lặng không lên tiếng, dường như đang chờ đợi câu trả lời.
Tù nhân thở dài buồn bã. “Ta giờ đây cửa nát nhà tan, mộng mơ tan vỡ, trong thành Đôn Hoàng và thiên hạ Đại Đường sớm đã không còn chỗ để ta dung thân. Nếu ta có thể không chết, vậy thì cho ngươi mượn chiếc túi da rách này, theo ngươi đi xem thế gian xa xôi và chúng sinh ở nơi trần thế.”
Quầng sáng ngũ sắc lóe lên, chui vào đỉnh đầu của tù nhân. Ánh sáng nơi địa lao bị thu hết lại, địa lao một lần nữa chìm vào trong bóng tối.
Đột nhiên tù nhân gầm lên đau khổ rồi giãy giụa, âm thanh giống như sói hú. Giám ngục và bạch trực kinh hãi, vô thức rút hoành đao ra, thấy trên người, trên cánh tay và trên cổ tù nhân đó không ngừng mọc ra lông dài dày đặc; mười ngón tay mọc lên vuốt sắc, trên mặt cũng bắt đầu vặn vẹo; miệng nhô ra, trong miệng mọc lên răng nanh, biến thành một người sói!
Tù nhân đột nhiên đọc thần chú, âm thanh hùng hậu lanh lảnh. “Rồi lại có người, hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, tất thảy đều đứt rã, đều được giải thoát.”
Tiếng nói vừa dứt, tất cả gông cùm xiềng xích trên người hắn đều rơi xuống, tiếng loảng xoảng vang lên khắp mặt đất. Giám ngục và bạch trực kêu to một tiếng, xoay người bỏ chạy. Tù nhân cười lạnh lùng ác độc, thân thể như tia chớp lao ra khỏi nhà tù, vuốt sói đâm phập vào sau lưng bạch trực, rắc một tiếng bẻ gãy xương sống. Bạch trực ngã vật xuống.
“Yêu nghiệt, ta liều mạng với ngươi!” Giám ngục hét to một tiếng, vung đao chém xuống. Chỉ thấy hoa mắt, lại không thấy bóng dáng tù nhân đâu. Hắn kinh ngạc một lát, đột nhiên từ sau lưng có hai bộ vuốt sói đưa tới móc vào cổ hắn, bẻ gãy cả cổ hắn xuống.
Người sói ấy cúi đầu, hùng hổ cắn xé cổ hắn, cả da thịt lẫn mạch máu đều lập tức bị xé rách, máu phun lên tung tóe.
Tù nhân miệng ngậm thịt nát, bỗng quay đầu lại nhìn cuối lối đi, thân thể đột nhiên nhảy lên, lập tức đã đến cửa nhà tù, cánh tay vạch một cái, khóa cửa rơi xuống leng keng.
Địa lao nằm ở góc hẻo lánh phía tây bắc huyện nha, bên trên có một ngôi miếu thờ Ngục thần nho nhỏ trấn áp lối ra của địa lao. Giám ngục phải bí mật giết tù nhân, xung quanh không hề có người ngoài. Tù nhân nhảy một cái, ngồi chồm hỗm ở tiên đỉnh miếu, đau xót đưa mắt nhìn tòa thành trì này.
Lúc ấy đã là giờ Tuất, mặt trời sắp lặn, làn khói cô độc trên hoang mạc, ánh hoàng hôn hắt xuống sông dài; thành Đôn Hoàng cao thấp hỗn tạp như tô vàng điểm thắm, rực rỡ mênh mông. Trong
phường thị đã bắt đầu giới nghiêm, lầu chuông trống xa xa truyền đến tiếng trống chiều.
Thành Đôn Hoàng có hai mươi tám phường, một con phố dài chạy thông từ nam đến bắc, tên gọi là phố lớn Cam Tuyền. Trên phố đang tổ chức một lễ đón dâu. Đội ngũ đón dâu đông nghịt, đội lễ nhạc và đội cờ quạt quy mô khổng lồ, đốt đèn lồng chữ hỷ màu đỏ thẫm, giơ cờ chữ hỷ cũng màu đỏ thắm.
Trên đèn lồng và cờ quạt lần lượt viết “Lệnh Hồ” và “Địch”. Chú rể cưỡi trên lưng một con ngựa cao to, thân bằng cố hữu đưa đón dâu bảo vệ một cỗ kiệu hoa tám người khiêng, đi theo phía sau là gia bộc và bộ khúc gánh của hồi môn.
Tù nhân ngồi chồm hỗm trên một nóc nhà, phát ra tiếng hú dài kinh thiên động địa rồi đột nhiên nhảy bật lên, lao về phía đầu đội ngũ đón dâu.
Đội ngũ đón dâu lập tức đại loạn, có mấy người đàn ông to khỏe xông lên ngăn cản. Tù nhân đó vung vuốt sói, xé rách bụng lòi ruột một người đàn ông. Người đàn ông kia phát ra tiếng kêu thảm thiết thê lương. Mấy tên trong đội cờ quạt xung quanh vung cờ quạt tới đánh, bóng dáng tù nhân thoắt ẩn thoắt hiện, không sao nhìn rõ được; trong bóng đêm chỉ trông thấy một đôi vuốt sói lóe sáng lấp loáng, đi tới đâu máu thịt văng tung tóe đến đấy, thây phơi khắp nơi, tiếng kêu thảm thiết không ngừng vang lên. Đội ngũ rất dài nọ giống như một cuốn lụa gấm bị xé rách, vết rách chạy thẳng về phía kiệu hoa.
Chú rể cực kì hoảng sợ, thúc ngựa xông tới, lại bị tù nhân kia đụng trúng, người văng ra khỏi ngựa. Tù nhân rầm một tiếng đánh vỡ kiệu hoa, sau đó im hơi lặng tiếng.
Anh trai của cô dâu lách qua đám người đang chạy tứ tung, cầm một thanh trường kiếm chạy đến trước kiệu hoa, dùng mũi kiếm chậm rãi nâng rèm kiệu lên, lập tức cả người ngây ra như bị sét đánh.
Trong kiệu hoa có tiếng hét vang lên, cùng với ánh sáng lóe ra, kiệu hoa nổ tung vỡ vụn. Tù nhân đó ôm cô dâu bay thẳng lên trời, bay lên tới khoảng mười trượng thì đạp hư không chạy trên bầu trời Đôn Hoàng, như yêu như tiên, như quỷ như ma, chạy thẳng vào nơi sâu trong trời xanh.
Người trên phố dài đã chạy tứ tán từ lâu, trên đường phố ngổn ngang xác chết, những người còn sống sót trợn mắt há mồm nhìn lên trời.
“Địch lang quân, đó rốt cuộc là người nào vậy?” Một bộ khúc hỏi, giọng chưa hết run rẩy.
Anh trai cô dâu nhìn hắn chằm chằm. “Ngươi xác định là người?” Bộ khúc gật đầu. “Tuyệt đối sẽ không sai, là một người đàn ông thân hình cao lớn!”
Trong bóng tối, ánh kiếm lóe lên. Không biết chú rể đã đi tới từ khi nào, giằng lấy trường kiếm rồi vung tay chém xuống, bộ khúc kinh ngạc trợn to hai mắt, máu từ trong cổ họng phun ra ào ạt, ngã vật xuống đất.
“Lệnh Hồ…” Anh trai của cô dâu giật mình.
“Còn ngươi? Thứ này là người hay sói?” Chú rể không hề trả lời, quay người lại hỏi một tì nữ.
Tì nữ nơm nớp lo sợ. “Là… người… không không không, là sói! Một con sói to toàn thân mọc đầy lông dài màu bạc!”
Anh trai của cô dâu khẽ than một tiếng, vẻ mặt trở nên dữ tợn. Hai người xách kiếm đi tìm tất cả những người xung quanh, lần lượt hỏi; trả lời là sói, nhẹ nhàng buông tha, nói là người, một kiếm chém chết.
Trên đại mạc, màu mực đang càng lúc càng đặc, bao phủ khắp nơi, nhuộm khắp Đôn Hoàng.
Tùng… Tiếng trống cuối cùng trong tám trăm tiếng trống chiều vang lên, dư âm vang vọng vòng quanh thành.
Chương 1
Ngõa Cương danh tướng khóa Hà Tây
Năm Trinh Quán thứ ba, cổ đạo Qua Sa, trạm dịch Ngư Tuyền. “Ra quan ải Trường Thành tây tiến, ruộng nương xen lẫn giữa cát vàng. Tráng sĩ Hán gia cùng nhau hát, Đôn Hoàng vắng bóng người lại qua. Thưa các vị khách quan, mời đến nghe tại hạ kể một khúc Đôn Hoàng biến.
Trạm dịch Ngư Tuyền là trạm thứ hai từ Qua Châu đến Đôn Hoàng, lưng dựa vào núi Kỳ Liên, phía trước là dịch đạo Qua Sa dài ba trăm dặm. Khu vực sa mạc Lũng Hữu bởi vì điều kiện hạn chế nên không làm được ba mươi dặm một trạm dịch như Trung Nguyên, chỉ còn cách xây dựng trạm dịch ở chỗ có nguồn nước.
Nước từ trong núi chảy ra, hội tụ thành suối ở dưới chân núi. Trong suối có cá, vì vậy mà lấy tên Ngư Tuyền.
Đạo Lũng Hữu là biên giới Đại Đường, trạm dịch và ụ khói lửa thường là một thể, trạm dịch Ngư Tuyền cũng không phải ngoại lệ. Bản thân trạm dịch chính là một thành lũy vuông đầm bằng đất, vách lũy đầm đất cực kì dày; mặt trên là lối đi bằng phẳng, bốn góc xây vọng lâu. Trên núi phía sau trạm dịch là hai ụ khói lửa cao vút, có một đội quân biên phòng ba mươi người đóng giữ. Ụ khói lửa dùng để phòng thủ biên cương, một khi có báo động, ban ngày thì đốt khói, ban đêm thì đốt lửa. Ba trăm dặm đường núi Qua Sa tổng
cộng có tám trạm dịch khói lửa, có thể nhanh chóng truyền tin cấp báo tới châu thành.
Mà trạm dịch ở biên cương khác với trạm dịch ở Trung Nguyên, do địa vực rộng lớn, hàng trăm dặm không có người ở nên ngoài chức năng truyền công văn tài liệu công vụ của quan phủ còn kiêm thêm chức năng cho khách buôn qua lại nghỉ chân uống nước. Có điều khách buôn và người đi đường phải trình ra công nghiệm, quá sở để xác nhận, những người thân phận không rõ đều phải truy bắt đưa lên quan phủ.
Ngoài cổng thành trạm dịch Ngư Tuyền chính là suối Ngư Tuyền, bên suối mọc vài cây Hồ dương và Hồng liễu cổ xưa. Dưới bóng cây Hồ dương trải mười mấy tấm thảm len lông cừu, một đám khách buôn nghỉ chân đang ngồi trên thảm len, vừa ăn uống vừa nghe người kể chuyện kể biến văn.
Người kể chuyện đó tên gọi Lưu Sư Lão, khoảng năm mươi mấy tuổi, tướng mạo gầy gò, ba chòm râu dài, rất có dáng vẻ tiên phong đạo cốt. Ông ta khoanh chân ngồi trên thảm nỉ, trên đầu gối đặt trống Hạt, hai tay vỗ trống, đang gật gù hát. Sau lưng ông ta là một người phụ nữ đang ngồi, cúi đầu buông mắt, trong lòng ôm đàn tỳ bà. Cứ khi Lưu Sư Lão nói đến chỗ quan trọng, ngón tay tinh tế của người phụ nữ lại khẽ lướt trên dây, liền có tiếng đàn như nước chảy hòa theo. Đây chính là xướng đạo sư của ông ta, cũng là đồ đệ của ông ta, Yên Nương.
Đôn Hoàng biến ông ta kể là chuyện về Vũ Chiêu Vương Lý Cảo, trước là Thái thú Đôn Hoàng thời Đông Tấn, sau đóng đô ở Đôn Hoàng, lập ra nước Tây Lương. Giọng nói thê lương của Lưu Sư Lão kể lại chuyện xưa Đôn Hoàng hai trăm năm trước, lúc quyết liệt
tiếng trống hạt dồn vang, khi đau thương tiếng tỳ bà nức nở, mọi người nghe mà như mê như say.
Biến văn này rất dài, kể xong một đoạn, Lưu Sư Lão uống rượu nghỉ ngơi, lại hỏi. “Chư vị có biết Đôn Hoàng này là Đôn Hoàng của ai không?”
“Đương nhiên là Đôn Hoàng của triều đình!” Một sĩ tử đáp. “Nói vậy quả thực không sai.” Lưu Sư Lão cười tủm tỉm. “Có điều triều đình là cái gì? Đối với châu quận mà nói, triều đình cùng lắm cũng chỉ là một tòa nha môn thôi.”
“Chẳng lẽ là Đôn Hoàng của người Hồ?” Một thương nhân hỏi. Lưu Sư Lão cười lạnh lùng. “Giờ đây không phải thời Vũ Đức, chín họ Chiêu Vũ chỉ là thương nhân; họ Mộ Dung ở Thổ Dục Hồn bị đánh đến mức không dám ngẩng lên nhìn phương bắc; Đông và Tây Đột Quyết bị chặn ở phía bắc sa mạc, người Hồ đâu có gì ghê gớm?” Ông ta vỗ một cái, một tiếng trống vang lên. “Chủ nhân thật sự của Đôn Hoàng này tất nhiên chính là sĩ tộc trong tám gia tộc môn phiệt lớn!”
Có người vỡ lẽ bật cười, có người lại rất không hiểu. “Tại hạ đến từ Lương Châu, đang định đi Đôn Hoàng thu mua một ít hàng hóa, còn xin lão trượng nói thêm về các nhân vật ở Đôn Hoàng này.”
Lưu Sư Lão cười. “Tám sĩ tộc lớn của Đôn Hoàng chính là Lý thị, Trương thị, Sách thị, Phiếm thị, Lệnh Hồ thị, Tống thị, Âm thị và Địch thị. Từ thời Tây Hán và Đông Hán, tám sĩ tộc lớn này đã nhiều đời giữ các chức trong tam công cửu khanh, tại Đôn Hoàng truyền thừa không dứt. Chư vị đều biết Sơn Đông có năm Thế gia môn phiệt lớn, Lý, Thôi, Lư, Trịnh, Vương, được gọi là sĩ tộc năm họ; nhung sĩ tộc năm họ từ khi theo Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy đánh
giá sĩ tộc, đặt ra bốn cấp bậc dòng họ giáp, ất, bính, đinh đến nay cũng không tới hai trăm năm. Lại nói Trương thị Đôn Hoàng này chính là hậu duệ của Trương Tương, Hiệu úy Tư Lệ thời Tây Hán, chỉ vì Trương Tương đắc tội quyền thần Hoắc Quang nên mới phải chuyển cả nhà đến Đôn Hoàng, đến nay đã truyền thừa bảy trăm năm! Lại nhìn Sách thị đó, chính là hậu duệ của Thái trung đại phu Sách Phủ thời Hán Vũ Đế, bởi vì can gián mà bị Hán Vũ Đế đày đến biên giới, cho tới bây giờ đã bảy trăm bốn mươi năm! Phiếm thị là hậu duệ của Ngự sử trung thừa Phiếm Hùng thời Thành Đế nhà Tây Hán, cũng thất thể trong triều đình, di chuyển tới Đôn Hoàng, đến nay sáu trăm năm mươi năm. Còn Địch thị kia, tổ tiên là Thừa tướng Tây Hán Địch Phương Tiến, chỉ vì Vương Mãng soán ngôi nhà Hán, Thái thú Đông Quận Địch Nghĩa và tổ tiên của Lệnh Hồ thị là Kiến Uy Tướng quân Lệnh Hồ Mại khởi binh chống Mãng; sau khi hai người binh bại bị giết, con cháu chạy trốn tới Đôn Hoàng, đến nay cũng có sáu trăm hai mươi mốt năm…”
Lúc này, một tăng nhân trẻ tuổi đang cho ngựa ăn uống ở bên suối Ngư Tuyền dắt ngựa đi tới. Ngài buộc ngựa vào chạc cây, khoanh chân ngồi trong đám người nghiêm túc nghe.
Lưu Sư Lão nói, “Tám sĩ tộc lớn này nhiều đời làm quan, năm trăm năm thông hôn cưới gả, con cháu trải khắp Đôn Hoàng, Qua Châu và thậm chí là cả Lũng Hữu. Từ Thứ sử châu quận đến tiểu lại nha môn, không ai không phải người của tám họ làm; không chỉ vậy mà còn nắm giữ các ngành chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán và phường hội trăm nghề; lại có hai họ dựng nước, xuất hiện hai vị để vương!”
Tăng nhân trẻ tuổi xen vào, “Thí chủ nói là ngoài Vũ Chiêu Vương Lý Cảo của Tây Lương còn có Tiền Lương Thái tổ Trương Quỹ?”
Lưu Sư Lão kinh ngạc nhìn ngài một cái. “Pháp sư học vấn thật rộng!”
Tăng nhân trẻ tuổi trầm ngâm. “Hoàng thất Đại Đường truy phong Lý Hổ trong Bát trụ quốc thời Tây Ngụy là Cảnh Hoàng để, miếu hiệu Thái tổ. Mà Lý Hổ Lại tự xưng là cháu sáu đời của Vũ Chiêu Vương Lý Cảo của Tây Lương, như vậy chẳng phải ý nói Lý thị ở Đôn Hoàng cũng là dòng họ hoàng thất Đại Đường?”
Lưu Sư Lão vỗ trống Hạt, hưng phấn nói, “Chính thế! Lão hủ ở Đôn Hoàng đã lâu, bình thường kể chuyện tại các vùng Qua Châu và Tây Sa Châu. Lần này trở lại Đôn Hoàng là vì Lý thị muốn lập miếu cho Vũ Chiêu Vương Tây Lương, lão hủ được mời đến mấy ngày để kể chuyện!”
Khách buôn xung quanh vang lên tiếng trầm trồ và hâm mộ. “Trong số các tăng nhân ở đây, người nào là Huyền Trang?” Lúc mọi người đang nói chuyện, đột nhiên dịch trưởng trạm dịch
Ngư Tuyền dẫn mấy tên dịch đinh đi tới, trong tay cầm một cuộn công văn.
Tăng nhân trẻ tuổi đó yên lặng một lát, đột nhiên cười khổ. “Chính là bần tăng.”
“Quả nhiên chính là ngươi!” Dịch trưởng mừng rỡ. “Người đâu, bắt lại!”
Đám dịch đinh đồng loạt xông lên, dùng dây thừng trói chặt Huyền Trang. Mọi người xung quanh cũng ồn ào, dịch trưởng uy nghiêm nhìn một lượt mọi người rồi mở công văn trong tay ra đọc.
“Có tăng nhân Huyền Trang muốn làm trái lệnh cấm biên, lén vượt quốc cảnh, trốn đến tây phiên. Các châu huyện phải tăng cường tra soát, truy bắt báo quan. Đô đốc Lương Châu Lý Đại Lượng.”
Thì ra sau khi từ Hoắc Ấp ở Sơn Tây trở lại Trường An, Huyền Trang liền quyết chí tây du, nhiều lần dâng sớ lên Lý Thế Dân thỉnh cầu được xuất quan; nhưng Lý Thế Dân không chịu gặp ngài, trực tiếp hạ lệnh bác bỏ.
Huyền Trang không còn cách nào khác, liền lẳng lặng rời khỏi Trường An tiến về phía Tây Vực. Không ngờ sau khi đến Lương Châu, một số người đã nghe danh tiếng Huyền Trang từ lâu mời ngài giảng Bát Nhã kinh, Huyền Trang đành phải lập đàn giảng kinh một tháng, chấn động cả Lương Châu. Lúc này lại có người biết được ý đồ tây du của Huyền Trang bèn mật báo cho Đô đốc Lương Châu Lý Đại Lượng. Khi ấy triều đình Đại Đường đã quyết định khai chiến với Đông Đột Quyết, vì để phòng ngừa tiết lộ tình báo nên ban lệnh cấm biên, nghiêm cấm tất cả mọi người tự ý xuất quan. Lý Đại Lượng vừa nghe tin đã thấy sốt ruột, một danh tăng như Huyền Trang một khi rơi vào tay của người Đột Quyết, hậu quả sẽ không thể nào tưởng tượng được, lập tức nghiêm lệnh Huyền Trang trở lại Trường An.
Huyền Trang không muốn bỏ cuộc, dưới sự bao che của Phật môn Lương Châu, ngay trong đêm rời khỏi Lương Châu. Lý Đại Lượng lập tức nổi giận, chẳng những phái người đuổi theo truy bắt mà còn gửi công văn tới các huyện ven đường. Hơn một nghìn năm trăm dặm từ Lương Châu đến Qua Châu, Huyền Trang ngày nghỉ đêm đi, giống như chơi trốn tìm với Lý Đại Lượng vậy, vượt qua quan ải Lương Châu rồi bí mật tới Qua Châu.
Huyền Trang được Thứ sử Qua Châu Độc Cô Đạt tiếp đãi nhiệt tình, phụng dưỡng chu đáo, nhưng tiếng tăm của Huyền Trang quá lớn, Độc Cô Đạt cũng không dám chống lại lệnh cấm để ngài xuất quan. Mới giữ ngài ở vài ngày thì không ngờ Lý Đại Lượng không bắt được Huyền Trang lại gửi công văn đến Qua Châu. Lúc này Độc Cô Đạt rất khó xử, ra hiệu cho tâm phúc là châu lại Lý Xương đi tìm Huyền Trang, để ngài xem công văn sau đó xé bỏ công văn ngay trước mặt Huyền Trang. Huyền Trang biết quan phủ Qua Châu không thể ngang nhiên bao che cho mình được nữa, thỉnh giáo Lý Xương làm thế nào để có thể xuất quan.
Lý Xương nói với ngài, xuất quan từ Qua Châu cực kì khó khăn và nguy hiểm, chẳng những phải vượt qua sông Sơ Lặc, sông sâu nước xiết mà còn phải xông qua năm ụ khói lửa, sau đó vượt qua tám trăm dặm Mạc Hạ Diên Thích, cửu tử nhất sinh.
Lý Xương đề nghị ngài đến Đôn Hoàng thủ phủ của Tây Sa Châu, từ Đôn Hoàng có một con đường cổ gọi là đường Sáo Can có thể đi thẳng đến nước Y Ngô ở Tây Vực. Áng chừng Lý Đại Lượng sẽ không gửi công văn đến Tây Sa Châu, như vậy Huyền Trang liền có thể tránh được quan phủ truy bắt.
Hắn nói như thế làm Huyền Trang lại nhớ đến một việc, ngài có một người bạn tốt hiện giờ đang làm quan ở Đôn Hoàng, có lẽ có thể nhận được sự trợ giúp của người bạn ấy. Huyền Trang lập tức rời khỏi Qua Châu, dọc theo đường núi Qua Sa tiến về phía Đôn Hoàng, không ngờ đã đến trạm dịch cuối cùng trực thuộc Qua Châu là trạm dịch Ngư Tuyền rồi mà vẫn bị công văn của Lý Đại Lượng đuổi kịp.
Dịch trưởng kia trói Huyền Trang lại, đang định dẫn đi thì khách buôn và người đi đường xung quanh đã vây quanh, đều hướng về
phía Huyền Trang vái chào. Người kể chuyện Lưu Sư Lão thậm chí còn nhảy dựng lên, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng nói. “Thì ra ngài chính là pháp sư Huyền Trang? Lúc ở Lương Châu lão hủ đã được nghe đại danh của ngài, không ngờ lại gặp ngài ở đây!”
Những khách buôn đó cũng ồn ào. “Đúng vậy, Lỗ dịch quan, trên công văn cũng nói pháp sư Huyền Trang có ý định lén vượt quốc cảnh, nhưng chẳng phải bây giờ ngài ấy vẫn còn ở đây hay sao? Biết đâu ngài ấy chỉ đến hang Mạc Cao để bái Phật thôi?”
Dịch trưởng giận dữ. “Ồn ào cái gì? Đây là mệnh lệnh của Đô đốc Lương Châu Lý Đại Lượng, kẻ nào dám không nghe?” Mọi người lập tức yên lặng.
Đúng lúc này, đột nhiên ngoài cửa trạm dịch Ngư Tuyền vang lên một tiếng cười lạnh lùng. “Lý Đại Lượng lại quản đến cả ba châu Qua, Sa, Túc của ta, đúng là oai phong thật!”
Mọi người ai nấy đều giật mình kinh hãi, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy trước cửa trạm dịch Ngư Tuyền không biết từ khi nào đã có một đội nhân mã đi đến. Đội nhân mã do một Hiệu úy chỉ huy, khoảng chừng hơn trăm người, tất cả toàn thân mặc giáp, đeo hoành đao, trên lưng ngựa thì đeo cung tên, là một cánh quân tinh nhuệ.
Trong số mấy người đàn ông mặc trang phục thường ngày cưỡi tuấn mã đi phía trước cánh quân, người đàn ông ngồi đầu tiên tuổi chừng bốn mươi, mặc bào phục cổ tròn, vạt áo rộng, tay áo dài, chỉ có điều lại được may bằng lụa đại khoa màu tím, bên hông đeo đai ngọc. Đây rõ ràng là phục sức của quan lớn tam phẩm trở lên của triều đình. Người thanh niên chỉ khoảng hai mươi tuổi bên cạnh ông
ta cũng vậy, màu sắc và trang phục là đại khoa màu tím, hông đeo đai ngọc.
Mọi người ngơ ngác nhìn một hồi lâu sau đó mới chú ý tới lá cờ giơ lên trong đội ngũ, bên trên thêu: Tả lĩnh quân vệ đại tướng quân, đốc quân sự ba châu Qua, Sa, Túc, Lâm Giang Quận vương.
Dịch trưởng lập tức hiểu ra, sợ đến mức vội quỳ xuống đất. “Tiểu lại bái kiến Đại vương!”
Mọi người trong trạm dịch cũng sợ hãi vội vàng quỳ lạy. Thì ra người đó chính là Đô đốc Qua Châu, Lâm Giang Quận vương Lý Diễm! Lý Diễm là cháu họ của Thái thượng hoàng Lý Uyên, anh họ của Hoàng đế Lý Thế Dân, Trinh Quán nguyên niên nhậm chức Đô đốc Qua Châu, phụ trách toàn quyền việc quân sự của ba châu Qua Châu, Tây Sa Châu và Túc Châu, phụ trách phòng thủ biên cương miền tây của Đại Đường. Phủ Đô đốc ở Qua Châu, vì vậy hàng năm hai mùa xuân thu ông ta đều phải đến hai châu trực thuộc là Tây Sa Châu và Túc Châu, kiểm tra đốc thúc việc quân sự của quân biên phòng và phủ binh các châu, các trấn, lại cùng Huyền Trang một trước một sau đến trạm dịch Ngư Tuyền này. Thế tử Lý Thiền bên cạnh nhảy xuống ngựa, đỡ phụ thân xuống ngựa.
Lý Diễm sầm mặt đi tới trước mặt dịch trưởng, tóm lấy công văn, nhìn qua một cái rồi soạt soạt soạt xé cho tan nát. Dịch trưởng kia toàn thân run rẩy, lại không dám nói lời nào.
“Ngài chính là pháp sư Huyền Trang?” Lý Diễm cười, chắp tay với Huyền Trang. “Tháng trước ta đến Túc Châu đôn đốc, liền nghe nói Lý Đại Lượng đang truy bắt pháp sư, sau đó biết được pháp sư đã đến Qua Châu, liền vội vàng rời khỏi Túc Châu, định bái kiến pháp
sư ở Qua Châu. Hỏi Độc Cô Đạt mới biết pháp sư đã đến Đôn Hoàng, vì vậy lại lên đường đuổi gấp, may mà không lỡ mất dịp may lần nữa!”
Huyền Trang cười gượng. “Bần tăng cũng vì bị ép nên mới bất đắc dĩ, xin Đại vương thứ tội.”
“Ngài có tội gì đâu?” Lý Diễm lớn tiếng nói. “Sợ ngài xuất cảnh, vậy liền nhẹ nhàng khuyên nhủ và phụng dưỡng chu đáo là được. Gã Lý Đại Lượng này hết phái kỵ binh lùng bắt lại gửi công văn truy bắt, quả thực là hết sức phi lý!”
Thế tử Lý Thiền bên cạnh rút hoành đao trên người ra, cắt đứt dây trói rồi nói xen vào. “Pháp sư, ngài là bạn thân của Bệ hạ, vừa cứu Bệ hạ tại Hoắc Ấp, chính là ân nhân của Lý gia chúng ta, sao có thể đối đãi như vậy? A gia, ngài phải vạch tội gã Lý Đại Lượng đó một trận!”
“Đương nhiên là phải vạch tội hắn,” Lý Diễm cười nói. “Có điều phải đợi pháp sư rời khỏi quốc cảnh đã, bằng không Bệ hạ biết pháp sư đang ở chỗ ta, há không ép ta đưa pháp sư trở về Trường An?”
Huyền Trang vui mừng. “Đại vương sẵn sàng giúp đỡ bần tăng đi đến nước Y Ngô?”
Lý Diễm lập tức khó xử. “Cái này… Pháp sư, ta cũng không giấu ngài. Lý Đại Lượng dám làm như thế, sợ rằng cũng là phỏng đoán ý tứ của Bệ hạ, Bệ hạ lo lắng cho an nguy của ngài, tất nhiên sẽ không chịu cho ngài tây du. Nếu biết ta đưa ngài đi, chuyện này… sợ rằng không dễ giải thích.”
“Bần tăng hiểu rồi, nhất định sẽ không làm liên lụy đến Đại vương.” Huyền Trang cười gượng.
Lý Diễm phất tay cho mọi người đang quỳ đều đứng lên. Dịch trưởng kia vội vã dặn dò thủ hạ dọn dẹp trạm dịch, quét dọn phòng ốc, bố trí sĩ tốt cho ngựa ăn uống. Nhà bếp bên kia cũng bắt đầu bận rộn chuẩn bị đồ ăn và thức uống.
Dịch xá của trạm dịch cực kì đơn sơ, có điều Lý Diễm đã qua lại nhiều lần, cũng không để ý, mời Huyền Trang đến phòng mình ngồi, Lý Thiền đích thân hầu hạ bên cạnh. Chính đường trong nhà đặt một chiếc ghế vuông vức cao khoảng một thước, xung quanh cũng không có thành và trụ góc, chỉ có một chiếc chiếu trúc được trải bên trên, rất đơn sơ. Dịch trưởng đích thân mang trái cây và rượu nho đến. Lý Thiền thận trọng, biết tăng nhân Trung Nguyên không uống rượu, cố ý sai người đưa đến một ấm nước nho.
“Tháng Bảy ăn dưa, tháng Tám ăn bầu.” Lý Diễm cười. “Qua Châu nơi này không có gì tốt, chỉ có dưa mật vô cùng ngon ngọt, cũng vì thế nên mới gọi là Qua Châu.”
Lý Diễm mặc dù ngôn từ văn nhã nhưng tính tình lại hào sảng, cũng không quá chú trọng hình tượng, cầm dưa lên liền gặm, gặm đến mức nước chảy dầm dề, gặm liền hai miếng mới hả lòng hả dạ.
“A gia!” Lý Thiền hơi lúng túng. “Pháp sư đang ở đây!” Lý Diễm chợt hiểu. “A, Thiền Nhi nhắc nhở rất đúng, lại quên mời pháp sư, nào, ăn đi ăn đi!”
Lý Thiền dở khóc dở cười, chán nản nhìn Huyền Trang một cái. Huyền Trang cũng cười, cầm lên một miếng dưa mật. “Bần tăng cũng thích ăn dưa mật, mấy ngày nay ở Qua Châu thấy rất nhiều người ăn dưa, cũng tổng kết ra những điều cần chú ý khi ăn dưa.”
“A? Nói thế nào?” Lý Diễm thấy hứng thú.
Huyền Trang nghiêm túc đáp. “Ăn miếng to, miệng chọp chẹp, nhai cả cùi, không lau miệng.”
Lý Diễm và Lý Thiền ngơ ngác nhìn nhau, rồi lập tức ôm bụng cười to. “Pháp sư, đây thật là… Đại Đạo chí giản, người điếc cũng phải nghe thủng.”
Sau khi cười xong, Lý Diễm cảm khái. “Kì thực ta làm sao không biết ý của Thiền Nhi chứ, chẳng qua nó chê ta thân là Quận vương, tướng ăn lại không được văn nhã cho lắm thôi.”
“Nhi tử đâu dám.” Lý Thiền cười cầu tài.
Lý Diễm hừ một tiếng. “Pháp sư biết Đại Đường ta giành được thiên hạ so với các triều đại trước có gì khác nhau không?” “Hết sức gian khổ,” Huyền Trang nói.
“Đây là pháp sư nói khách khí,” Lý Diễm cười nói. “So với Cao Hoàng đế và Quang Vũ Hoàng đế của Lưỡng Hán, Đại Đường ta đã giành thiên hạ dễ dàng hơn rất nhiều rồi, nhưng có một điểm khác nhau. Tây Hán vong là quyền thần soán quyền, Đông Hán sập là chư hầu cát cứ, Tây Tấn diệt là vì loạn bát vương, Bắc Ngụy tan là quyền thần phân liệt, Bắc Chu mất là quyền thần soán quyền, chỉ có triều Tùy này là chết vì lê dân tạo phản, bách tính khởi sự!”
“Đích xác là như thế.” Huyền Trang suy nghĩ một lát, im lặng gật đầu.
“Ta đã theo Thái thượng hoàng khởi sự từ lúc còn ở Thái Nguyên, năm Vũ Đức thứ tư cùng Hà Gian Vương tấn công Tiêu Tiến, lại cùng với Thái tử… ẩn Thái tử bình định Lưu Hắc Thát ở Hà Bắc.” Lý Diễm nhớ lại chuyện cũ. “Hà Bắc đó đúng là bình rồi lại phản, phản rồi lại bình, sau đó lại phản, từng đám loạn dân đến dưới đại kì của Lun Hắc Thát, hát ‘tóc như hẹ, cắt lại mọc, đầu như
gà, cắt vẫn kêu, quan không cần phải sợ, tiểu dân xưa nay không thể khinh’. Tất cả đều hung hãn không sợ chết, lớp trước ngã xuống, lớp sau tiến lên. Chính là đám loạn dân này đã đánh bại Hoài An Vương Lý Thần Thông, tổng quản U Châu La Nghệ, giết Lý Huyền Thông, đánh bại Lý Tích, bắt sống Tiết Vạn Quân, Tiết Vạn Triệt, chém La Sĩ Tín, Lý Đạo Huyền. Lý Nguyên Cát sợ đến mức nghe tin đã mất mật, đến tận khi Bệ hạ và ẩn Thái tử hai lần thân chinh mới coi như bình định được. Không giấu pháp sư, khi đó ta cũng bị Lưu Hắc Thát đánh cho đại bại, phải bỏ thành mà chạy. Ta rút kinh nghiệm xương máu, từ ấy hiểu ra rằng sau nhà Tùy, thiên hạ này đã không còn là thiên hạ của sĩ tộc môn phiệt, công khanh quý trụ nữa rồi.”
Huyền Trang đột nhiên nhớ đến người bạn thân Lữ Thịnh năm Vũ Đức thứ bảy chiếm chùa Đại Hưng Thiện, khiêu chiến luận sư trong thiên hạ. Hắn cũng là kẻ xuất thân hàn vi, coi rẻ hoàng quyền quý trụ, ngay cả khoa cử cũng không chịu tin tưởng, định đứng đầu cả sáu khoa để kiểm nghiệm thành ý cải cách của Đại Đường.
Huyền Trang nói nhỏ. “Hồng thủy cuồn cuộn, nhấn chìm lăng tẩm, cô lập núi non, mênh mông ngập trời. Nghiêu Thuấn thời thượng cổ đã biết sức mạnh của dân chúng, mới không dám ngược đãi người dân, dung hợp vạn bang.”
“Đúng vậy!” Lý Diễm nói. “Cho nên từ đó về sau, ta ở trong quân cùng ăn cùng ở với quân tốt, ăn thịt miếng lớn, uống rượu bát to, ngôn ngữ thô thiển, không bao giờ để ý đến cái gọi là thân phận quận vương. Đã được Bệ hạ phái đến đất Lũng Hữu cát vàng này, vậy ta chính là người Lũng Hữu, người Qua Châu, ăn dưa mật, uống sữa cừu, ở nhà gạch mộc, như vậy mới cảm thấy an ổn trong lòng.”
Lý Thiền đột nhiên vái phụ thân. “A gia, là nhi tử kiến thức nông cạn, đa tạ a gia dạy bảo.”
Lý Diễm lắc đầu. “Ta không có gì để dạy bảo con, con không trải qua, không biết nỗi sợ hãi khi Tùy mạt sụp đổ. Ta chỉ hi vọng thể hệ con cháu của mình có thể có lòng kính sợ đối với lê dân bách tính, không được đè sụp ngọn núi lửa này. Bằng không triều đại thay đổi, ngay cả mộ của a gia con cũng có thể bị người ta đào lên.”
Huyền Trang cười nói, “Đại vương nói lời này hơi nặng. Giờ đây Đại Đường ta vừa mới hưng, Bệ hạ là một đời anh chủ, lại là người từng trải qua loạn thế Tùy mạt, tuyệt đối sẽ không coi thường sức dân.”
“Vậy cũng đúng. Bệ hạ này…” Lý Diễm thở dài một hơi. “Pháp sư, ta muốn hỏi ngài một chút, tháng Sáu năm nay, rốt cuộc ngài cùng Bệ hạ đã trải qua những chuyện gì ở huyện Hoắc Ấp?”
Huyền Trang kế lại sơ lược những chuyện ở huyện Hoắc Ấp, còn chuyện ngục Nê Lê thật giả thế nào thì chỉ hàm Hồ cho qua chuyện, những chuyện dính dáng đến đại quan triều đình như Bùi Tịch lại càng tuyệt đối không nhắc tới, chỉ nói Thôi Giác và Pháp Nhã âm mưu làm loạn.
Lý Diễm nghiêm túc nhìn ngài. “Pháp sư, khi ấy Bệ hạ quả thật không có ý định giết Bùi tướng công hay sao?”
Huyền Trang nhìn vẻ mặt lo âu của Lý Diễm, trong lòng lập tức kinh hãi, vội vàng nói, “Bệ hạ không hề nói với bần tăng về Bùi tướng.”
“Hiểu rồi.” Lý Diễm đột nhiên mất hết hứng thú, nhưng cũng biết Huyền Trang tuyệt đối không chịu suy đoán tâm tư của Hoàng đế
nên không tiếp tục nói về chủ đề này nữa.
Hai người lại chuyện trò một phen, sau đó Huyền Trang cáo từ ra ngoài. Lý Diễm lệnh Lý Thiền đích thân đi cùng Huyền Trang, bố trí toàn bộ việc ăn ngủ của ngài.
Đêm hôm đó Huyền Trang nghỉ ngơi ở trạm dịch Ngư Tuyền. Đại mạc, trăng sáng, cát vàng, thành cổ, ụ khói lửa cao cao trên núi Kỳ Liên, dòng suối phản chiếu ánh trăng lấp loáng. Huyền Trang ngồi bên suối Ngư Tuyền, nhìn nước suối trong sa mạc; trời sao in bóng xuống mặt nước, nháp nháy nhấp nháy, dường như đang làm giới hạn giữa vũ trụ và mặt đất dần mờ nhạt đi. “Pháp sư.” Lý Thiền đi ra từ trong nhà khách, ngồi xuống bên cạnh Huyền Trang. “Pháp sư, ta có thể theo ngài học Phật hay không?”
Huyền Trang ngẩn ra. “Ngươi định xuất gia?”
Lý Thiền lúng túng. “Xuất gia… Tất nhiên là a gia không cho. Nghe nói ngài muốn xuất quan tây du, ta nghĩ nếu có thể cùng ngài lên đường tây du, đi một chuyến tới Thiên Trúc, có lẽ a gia sẽ đồng ý.”
“Nếu là so với tây du, chỉ sợ a gia của ngươi lại muốn ngươi xuất gia hơn.” Huyền Trang cười.
“Vì sao?” Lý Thiền kinh ngạc.
“Bởi vì đường tây du cửu tử nhất sinh, còn xuất gia thì sẽ không chết,” Huyền Trang nói.
Lý Thiền kinh ngạc, gãi gãi đầu. “Vậy… vậy mà lại gian nguy như thế?”
“Đúng vậy!” Huyền Trang nhìn trăng sáng lên cao. “Từ xưa đến nay tăng lữ tây du nhiều vô số kể, nhung kết cục là chúng ta chỉ biết
đến mỗi Pháp Hiển, bởi vì những người khác đều đã chết ở trên đường rồi,”
Lý Thiền cũng kinh hãi, một hồi lâu không nói.
“Vì sao Thế tử muốn học Phật?” Huyền Trang hỏi.
Lý Thiền đắng chát nói, “Pháp sư có biết vì sao a gia của ta phải đến Qua Châu làm Đô đốc không?”
Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Quận vương của hoàng thất nhà Đường mang hàm Đô đốc châu phủ địa phương cũng là thông lệ mà? Qua Châu là nơi trọng địa trấn giữ vùng biên giới phía tây, nằm ở khu vực giao giới giữa Đại Đường và Đông, Tây Đột Quyết, Bệ hạ chắc hẳn cũng muốn để các vương tôn hoàng thất đến trấn thủ.”
“Nói vậy cũng không sai, chỉ tiếc làm Đô đốc Qua Châu không phải Bệ hạ coi trọng a gia ta, mà là đi đày,” Lý Thiền cười khổ nói. Huyền Trang hơi kinh ngạc.
Lý Thiền nói, “A gia ta lớn hơn Bệ hạ mười mấy tuổi, từ nhỏ đã giao hảo với ẩn Thái tử Kiến Thành, bao gồm Đô đốc Lương Châu tiền nhiệm Trường Lạc Vương Lý Ấu Lương và Đô đốc U Châu Lư Giang Vương Lý Viện, đều bị Bệ hạ coi là phe cánh của ẩn Thái tử. Sau binh biến Huyền Vũ Môn, Lý Viện mưu phản bị giết, Lý Ấu Lương bị ban cho chết, a gia ta mặc dù bị biếm đến nơi hẻo lánh này, lại ít nhất còn giữ được mạng. Nhưng a gia ngày đêm bất an, mỗi lần Trường An có thư đến, trước khi bóc thư ngón tay luôn run rẩy, giống như ở thành Trường An có một thanh kiếm đang treo ở trên đầu của a gia vậy. Ta là con trai, khó chịu thay cho a gia, đồng thời cũng thấy thể sự hoang đường. Nếu là nhà bình thường, đồng tông đồng tộc, anh em họ thân mật cỡ nào; nhưng tại gia tộc hoàng thất đế vương, huynh đệ lại là người khiến cho chúng ta sợ hãi nhất.
Pháp sư, không biết Phật gia có thể giúp ta được giải thoát hay không?”
Huyền Trang không thể nào trả lời được.
Sáng sớm hôm sau, Lý Diễm mời Huyền Trang cùng mình xuất phát đến Đôn Hoàng. Lưu Sư Lão và một số khách buôn cũng lặng lẽ xuất phát đi theo. Vùng Qua Sa chẳng những thường xuyên có giặc cướp xâm phạm mà còn có Thổ Dục Hồn ở phía đông nam vượt qua núi Kỳ Liên cướp bóc, những khách buôn này đi theo quân đội là an toàn nhất. Cả trăm tên nô bộc áp tải mấy chục chiếc xe ngựa tạo thành một đội ngũ cuồn cuộn đi về hướng tây nam.
Đường núi Qua Sa chạy theo dãy núi lớn nhỏ ở mé tây của núi Kỳ Liên; đường qua sa mạc hiểm trở, có điều may mà nguồn nước dồi dào, mọi người lại đi thêm hai ngày, liền từ sa mạc thuần một màu vàng vọt đi vào ốc đảo nơi cây cối tốt tươi. Ngoài thành Đôn Hoàng có dòng sông Cam Tuyền từ núi Kỳ Liên ở phía đông chảy ra, nước sông cuồn cuộn chảy về hướng đông bắc. Hàng trăm hàng nghìn năm nay, người Đôn Hoàng đã đào vô số kênh trong ốc đảo để dẫn nước sông Cam Tuyền đến tưới tắm cho ốc đảo này.
Hai bên đường, cây du, cây dương và cây liễu liên miên nhấp nhô, thảm cỏ xanh trải khắp, nước dưới kênh trong vắt ngọt ngào. Đối với lữ khách mắc kẹt trong sa mạc nhiều ngày mà nói, sự vui mừng, cảm kích và kính sợ ấy quả thực làm cho người ta muốn quỳ xuống hôn lên mặt đất đang tỏa ngát hương thơm này.
Trên đường đi qua những cánh đồng, vườn hoa và vườn nho, không ít nông dân đang lao động dưới ruộng, thỉnh thoảng có tiếng hát của những người chăn cừu vang lên, len qua tán lá. Bên đường thường thường xuất hiện những tòa ổ bảo, vách đất đầm chặt, cao
dày chắc chắn giống như một tòa thành nhỏ, đó chính là thôn xóm nơi bách tính sinh sống tập trung.
Lý Diễm và Lý Thiền cùng Huyền Trang ngồi trên lưng ngựa, đi ở đầu đội ngũ. Lý Thiền giới thiệu với Huyền Trang. “Từ khi Hán Vũ khai biên tới nay, Đôn Hoàng chính là chốt chặn biên thùy, phúc địa trời cho của các đời vương triều Trung Nguyên. Nơi ốc đảo khổng lồ phương viên mấy trăm dặm này, mặt đông là núi Kỳ Liên hiểm trở, ba mặt còn lại tất cả đều là sa mạc Gobi nghìn dặm không có người ở, mà trong đại mạc này lại có mấy con đường có thể đi tới các nước Tây Vực.
Hướng về phía đông nối liền với Qua Châu và Lũng Hữu tự nhiên không cần phải nói. Đi về phía tây, qua Hán Ngọc Môn Quan hoặc Dương Quan có thể đến Thiện Thiện, Vu Điền. Đi đường Đại Thích qua Hán Ngọc Môn Quan, thành cổ Lâu Lan có thể tới Yên Kỳ. Đi về phía bắc qua đường Sáo Can có thể đến Y Ngô, Cao Xương. Đi về phía nam qua đường Nam Sơn có thể đến Thổ Dục Hồn.
Bây giờ Đại Đường ta thế nước đang lên, con đường tơ lụa cũng dần dần phồn hoa. Đôn Hoàng là đầu mối giao thông, khách buôn Hồ, Hán qua lại không ngớt, bảo vật hiếm quý của phương đông và phương tây đều tập trung ở trong một thành, pháp sư vào trong thành sẽ thấy.”
Huyền Trang ngạc nhiên. “Thế tử kiến thức thật rộng rãi!” Lý Diễm cười nói, “Thiền Nhi đi theo ta đến Qua Châu ở mấy năm, không thích ở trong phủ Đô đốc mà thích du lịch khắp nơi, pháp sư có thể hỏi Thiền Nhi về đường tây du.”
Huyền Trang chắp tay cảm ơn.
Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, đi qua những con kênh và cầu gỗ liền đến trạm dịch cuối cùng trên dịch đạo Qua Sa, trạm dịch châu thành. Trạm dịch châu thành cách thành Đôn Hoàng năm dặm, giữa trạm dịch và thành trì cách một dòng sông Cam Tuyền, người Đôn Hoàng thường nghênh tiễn quan chức và ly biệt thân nhân ở chỗ này.
Xa giá của Lý Diễm còn chưa đến trạm dịch châu thành, Thứ sử Tây Sa Châu Vương Quân Khả đã dẫn Trưởng sử, Tư mã, Lục sự tham quân, Huyện lệnh nha môn châu huyện và các bô lão sĩ tộc trong thành đi tới bên đường nghênh đón. Thậm chí Vương Quân Khả còn điều động cả binh mã, một đội trấn binh khoảng năm trăm người được mấy Hiệu úy dẫn theo giới nghiêm xung quanh, bầu không khí uy nghiêm đến mức làm người ta bất an.
Lý Diễm phát hiện tình hình khác thường, sắc mặt lại không đổi, mỉm cười làm đủ lễ nghi với quan chức và các bô lão chờ đón, được mọi người đón vào trạm dịch, thực hiện một số hư lễ quan trường.
Lý Thiền không thích mấy chuyện này, sớm đã cùng Huyền Trang vào trạm dịch. Hai người tắm rửa thay quần áo, tẩy sạch cát bụi và mồ hôi trên đường, vừa quay về nội đường ngồi xuống đã nghe thấy tiếng bước chân vang lên bên ngoài, Lý Diễm dẫn Vương Quân Khả đi vào. Huyền Trang vội vàng đứng dậy chắp tay.
“Vị pháp sư này là…” Vương Quân Khả hơi kinh ngạc. Lý Diễm giới thiệu. “Vị này chính là pháp sư Huyền Trang ở Trường An, bản vương may mắn gặp được pháp sư ở trạm dịch Ngư Tuyền, liền cùng nhau đến Đôn Hoàng.”
“Pháp sư Huyền Trang?” Vương Quân Khả giật mình, chần chừ nói. “Đó là người tháng Sáu cùng Bệ hạ…”
Lý Diễm cười ngắt lời hắn. “Chính là vị pháp sư đó!”
Vương Quân Khả vội vàng vái rất sâu. “Hạ quan nghe đại danh của pháp sư đã lâu, vô cùng kính trọng, không ngờ lại được gặp ở Đôn Hoàng, thật đúng là may mắn ba đời!”
Huyền Trang cũng quan sát kĩ Vương Quân Khả.
Vương Quân Khả bây giờ khoảng chừng bốn mươi tuổi, dáng người hùng tráng nhưng khuôn mặt lại rất gầy gò, đôi mắt hắn lấp lánh ánh sáng, hiện lên vẻ cực kì sắc sảo.
Huyền Trang chắp tay. “Bần tăng cũng nghe danh anh hùng Đại Đao Vương Quân Khả ở trại Ngõa Cương năm đó đã lâu, dùng mười ba người phá một vạn tặc binh, đúng là một trận điển hình của chiến thuật lấy ít địch nhiều, Vương Thứ sử có thể nói là “tiền vô cổ nhân‘.”
Lời này khiến Vương Quân Khả mát gan mát ruột, hắn cười rụt rè.
Vương Quân Khả chính là hãn tướng của trại Ngõa Cương thời Tùy mạt, dùng một thanh mạch đao nặng hàng chục cân xưng hùng Ngõa Cương, cùng đám người Tần Quỳnh, Đơn Hùng Tín, Trình Giảo Kim và Lý Tích có giao tình sống chết. Sau khi Lý Mật chiến bại, Vương Quân Khả liền cùng với đám người Tân Quỳnh và Trình Giảo Kim đến nhờ cậy Vương Thế Sung.
Nhưng Vương Thế Sung dùng người chỉ dùng thân tín, không hề tín nhiệm bọn họ. Thừa dịp Lý Thế Dân và Vương Thế Sung dàn quân đối mặt nhau, Tân Quỳnh có một hành động khiến ai cũng phải kinh hãi: Hắn cùng Trình Giảo Kim, Vương Quân Khả và Ngưu Tiến Đạt, hơn mười người rời khỏi quân trận của Vương Thế Sung đi
tới giữa hai quân; khi đến nơi, mọi người cùng xuống ngựa quay về phía Vương Thế Sung quỳ lạy.
Tần Quỳnh nói, “Dù được ngài thu nhận nhưng chúng ta lại không thể đem sức lực ra để phục vụ ngài, xin hãy cho phép chúng ta cáo từ!”
Nói rồi mọi người xem vạn quân như không, ung dung lên ngựa, đi tới đội ngũ của Lý Thế Dân. Vương Thế Sung hận đến mức nghiến răng nghiến lợi nhưng lại không dám ra tay cản trở.
Sau khi về Đại Đường, Vương Quân Khả liền đi theo Lý Thế Dân bình diệt Vương Thế Sung. Trong trận chiến Yển Sư, Vương Quân Khả trước giả vờ thua sau mai phục, đích thân dẫn mười ba người đột nhập vào trung quân của tướng địch trảm tướng đoạt cờ, đánh tan hơn một vạn người của quân Trịnh. Sau đó Lý Uyên đã hạ chiếu khen ngợi Vương Quân Khả. “Khanh dùng mười ba người phá tặc một vạn, lấy ít đánh nhiều, từ xưa tới nay chưa từng nghe thấy”.
Vương Quân Khả lộ vẻ cảm khái. “Giờ đây ở sa mạc Lũng Hữu này ba năm, hồi tưởng lại kim qua thiết mã năm ấy, đúng là như một giấc mơ.”
Mọi người cùng cười rồi ngồi xuống ghế, Vương Quân Khả sai người dâng trái cây rượu nước, sau đó đuổi người ngoài ra. Thấy hai người dường như có việc cần bàn bạc, Huyền Trang nghĩ cáo từ, Lý Diễm lại giữ lại. “Không sao, không sao, không phải việc công gì.”
Huyền Trang đành phải ngồi xuống.
Lý Diễm uống một chén rượu nho, cau mày nói, “Quân Khả, bản vương chỉ đi tuần mùa thu theo thường lệ, vì sao ngươi lại điều động trấn binh trong châu? Làm vậy thật sự là hơi lỗ mãng! Vừa rồi
ta nhìn thấy Hiệu úy dẫn quân là Lệnh Hồ Chiêm, Trấn tướng Tây Quan, sợ là cả trấn Tây Quan đều đã dốc toàn lực lên đường rồi hả?”
Vương Quân Khả cười. “Không chỉ có thể. Hạ quan cũng điều hai trăm người từ thủ tróc Tử Đình tới, Thủ tróc sứ Địch Thuật dân binh mã cảnh giới ở vòng ngoài.”
Lý Diễm ngẩn ra, không nói một lời nhìn Vương Quân Khả chằm chằm.
Vương Quân Khả cười gượng. “Hạ quan cũng biết là lỗ mãng, nhưng thật sự không thể làm khác được. Bởi vì thời gian gần đây trong thành Đôn Hoàng không yên ổn.”
“Không yên ổn?” Lý Thiền kinh ngạc. “Có ngươi trấn thủ trong thành, còn có kẻ xấu nào dám làm xằng, làm bậy? Chẳng lẽ là người Đột Quyết hoặc người Thổ Dục Hồn có động tình? Trên đường đi không thấy có khói lửa mà!”
“Đương nhiên không phải Thổ Dục Hồn và Đột Quyết xâm lấn, nếu vậy hạ quan lại không lo lắng.” Vương Quân Khả thở dài một hơi. “Trong thành Đôn Hoàng có Thiên Lang giết người!” Mọi người đều sửng sốt.
Huyền Trang thắc mắc. “Cái gì là Thiên Lang giết người?” “Pháp sư có chuyện không biết.” Vương Quân Khả kiên nhẫn giải thích. “Năm Vũ Đức thứ chín, lúc hạ quan còn chưa đến nhậm chức, Đôn Hoàng này xuất hiện một yêu vật, hình thù như sói, ăn mất hơn mười người, tắm máu phố lớn Cam Tuyền. Khi ấy Thứ sử và huyện nha phái người vây bắt lại bị nó ăn mất mấy người, sau đó điều động quân đội đến, yêu sói này liền trốn vào trong sa mạc.”
“Ai da, việc này ta biết!” Lý Thiền hưng phấn nói xen vào. “Năm Trinh Quán nguyên niên, lúc ta theo a gia vừa tới Qua Châu từng nghe nói, yêu sói kia chiếm cứ Ngọc Môn Quan đời Hán đã bị vứt bỏ vài chục năm trong sa mạc, tự xưng Khuê Mộc Lang, nói mình chính là Khuê Tú trên trời hạ phàm!”
“Khuê Mộc Lang?” Huyền Trang kinh ngạc. “Cái tên này rất kỳ quái. Khuê Tú chính là chòm sao đầu tiên thuộc bảy chòm sao Bạch Hổ phương tây trong Nhị thập bát tú, tại sao lại có liên quan đến gỗ và sói?”
“Cái này thì ta không biết,” Lý Thiền nói. “Yêu vật đó có nhiều pháp thuật thần thông rất kỳ dị, dần dần có một số người Hán và người Hồ ngu muội bị nó dụ dỗ, đến nhờ cậy nó. Trong vòng vài ba năm đã có mấy trăm người đi theo nó rồi, đám người này thường xuyên gây rối con đường tơ lụa, cướp bóc thương nhân. Ta nhớ phủ Đô đốc còn từng gửi công văn cho Đôn Hoàng, hạ nghiêm lệnh tiêu diệt.”
“Vâng, vâng.” Vương Quân Khả hơi lúng túng. “Hạ quan nhận được công văn của Đô đốc, đã xuất binh tiêu diệt nhiều lần; nhưng sa mạc kia địa hình phức tạp, binh ít không làm được việc, binh nhiều thì nó liền trốn vào trong thành ma quỷ ở phía tây xa hơn nữa, mỗi lần đều vất vả mà không có kết quả gì.”
“Nói như vậy…” Lý Diễm trầm ngâm. “Con yêu sói đó giờ đã tới thành Đôn Hoàng gây rối rồi?”
“Đúng thế!” Vương Quân Khả mặt mày rầu rĩ. “Nửa tháng trước đã xuất hiện trong thành, ăn thịt và giết chết mấy người. Hạ quan từng phái người vây bắt nhưng Khuê Mộc Lang này thần thông kỳ lạ, căn bản không bắt được nó. Sai dịch của nha môn huyện không
thể làm được, hạ quan liền để trấn Tây Quan của Lệnh Hồ Chiêm tiếp quản việc tuần tra canh gác trong thành. Lần này ngài đến, hạ quan lo lắng Khuê Mộc Lang gây bất lợi cho ngài, liền điều cả thủ tróc Tử Đình của Địch Thuật tới?’
Lúc này Lý Diễm mới hiểu. Ông ta biết rõ nghi kỵ của triều đình đối với mình, đến Qua Châu vẫn luôn luôn thấp giọng, không bao giờ lỗ mãng, hôm nay thấy Vương Quân Khả gióng trống khua chiêng như thế liền cảm thấy vô cùng bất an, vì vậy mới gọi hắn vào dò hỏi. Có điều gặp phải việc này cũng không thể nói Vương Quân Khả làm không đúng, chắc hẳn tai mắt của Hoàng đế ở trong châu sẽ không vạch tội mình vì chuyện này, nên cũng yên tâm.
Mọi người lại trò chuyện một lát, Huyền Trang liền cáo từ hai người. Ngài phải thăm dò chuyện lén vượt biên giới, đương nhiên không tiện đi theo Lý Diễm mãi, không bằng nhân cơ hội này rời đi, hành động cũng thuận tiện.
Lý Diễm biết tâm tư của ngài, cũng không ngăn cản, đích thân đưa Huyền Trang ra ngoài trạm dịch.
Lý Thiền thấy Huyền Trang dắt một con ngựa gầy, một thân một mình, tự do tự tại, không khỏi hết sức hâm mộ. “A gia, nhi tử muốn đi theo pháp sư một thời gian, được không ạ?”
“Thiền Nhi…” Lý Diễm nhìn con trai bằng vẻ mặt phức tạp. “Cùng a gia ở Qua Châu ba năm, đúng là khổ cho con. Pháp sư là người tâm tính khoáng đạt, kiến thức uyên thâm, con có thể đi theo pháp sư cũng tốt. Có điều pháp sư phải tây du Thiên Trúc, lúc ấy con tuyệt đối không thể đi!”
Lý Thiền mừng rỡ. “Nhi tử biết!” Nói xong liền vội vàng dắt một con ngựa đuổi theo Huyền Trang, như một con chim vừa mới được
thả ra khỏi lồng.
“Hạ quan sớm đã nghe đại danh của vị hòa thượng này, hôm nay được gặp, đúng là còn hơn cả nghe danh.” Vương Quân Khả cảm khái.
“Cũng chỉ có tăng nhân như vậy mới có thể được Bệ hạ coi trọng!” Lý Diễm cười nói.
“Trong kinh thành có tin tức truyền đến, Bùi tướng công bị tịch biên tài sản, lưu đày Tĩnh Châu rồi,” Vương Quân Khả nhìn theo bóng lưng Huyền Trang không chớp mắt, lạnh nhạt nói.
Lý Diễm bỗng nhiên quay đầu nhìn hắn chằm chằm. “Chuyện khi nào?”
“Hôm qua vừa nhận được tin gấp từ kinh thành đến, là chuyện từ tháng Bảy.” Vương Quân Khả thở dài một hơi. “Bùi tướng đỡ bên trái lại hở bên phải, cuối cùng không tránh được kết cục này. Danh thần thời Vũ Đức hiện nay chỉ còn lại Tiêu Vũ vẫn trụ được trong trung tâm quyền lực triều đình, có điều bây giờ cũng đã bị bãi tướng đến lần thứ ba.”
Sắc mặt Lý Diễm xanh mét, nhưng lại không nói gì.
Lý Diễm là phe cánh của Thái tử Kiến Thành. Thời Vũ Đức, Bùi Tịch quyền nghiêng triều đình, được Lý Uyên cực kì tin tưởng. Lý Diễm có quan hệ không tồi với Bùi Tịch, năm ấy chính là Lý Diễm giúp Thái tử lôi kéo Bùi Tịch, Bùi Tịch mới ủng hộ Kiến Thành. Sau binh biến Huyền Vũ Môn, Lư Giang Vương Lý Viện và Trường Lạc Vương Lý Ấu Lương liên tiếp bị giết, cũng nhờ có Bùi Tịch giúp đỡ nên Lý Diễm mới bị biếm đến Qua Châu, xem như rời khỏi chốn thị phi triều đình.
Nhưng bây giờ Bùi Tịch cũng đổ rồi.
Vương Quân Khả dường như đang tự nói một mình. “Từ năm Trinh Quán thứ ba đến nay, Lũng Hữu đúng là thay đổi hoàn toàn, Bệ hạ lệnh Lý Đại Lượng làm Đô đốc Lương Châu thay cho Vũ Văn Sĩ Cập, lại để Trương Bật đến Cam Châu làm Thứ sử, sau đó phái Ngưu Tiến Đạt đến Túc Châu làm Thứ sử. Cả quan trường Lũng Hữu xem như tẩy sạch một lần từ trên xuống dưới.”
“Đây chỉ là phối hợp với triều đình công phạt Đông Đột Quyết mà thôi,” Lý Diễm trầm lặng một hồi lâu rồi bình tình nói. “Tháng Tư, Đô đốc Đại Châu Trương Công Cẩn dâng sớ, cho rằng có thể tấn công tiêu diệt Đông Đột Quyết, Bệ hạ đã có ý định xuất binh. Lý Đại Lượng, Trương Bật và Ngưu Tiến Đạt đều là hãn tướng, để bọn họ đến Lũng Hữu, hoặc là để phòng bị Đột Quyết xâm lấn biên cương, hoặc là có ý định tung ra một đội kỵ binh từ Lũng Hữu.”
“Đô đốc nói đúng.” Vương Quân Khả cười. “Nói đến Trương Bật và Ngưu Tiến Đạt, cả hai còn đều là chiến hữu của hạ quan ở trại Ngõa Cương ngày xưa. Năm đó hạ quan theo Tần Thúc Bảo và Trình Tri Tiết bỏ Vương Thế Sung đến nhờ cậy Bệ hạ, trong số những người cùng đi có hai người họ.”
Lý Diễm tò mò. “Ngươi và ta quen biết nhiều năm, chưa hề nghe ngươi nói về chuyên năm ấy.”
“Năm ấy quần hùng sáng chói, đúng là không biết nói từ đâu!” Vương Quân Khả dõi mắt nhìn đại mạc, cảm khái vô hạn. “Kể ra Trương Bật này và Lý Đại Lượng còn có một chuyện rất thú vị.”
“Trương Bật và Lý Đại Lượng?” Lý Diễm kinh ngạc. “Hai người bọn họ biết nhau từ trước?”
“Đâu chỉ là biết nhau?” Trên mặt Vương Quân Khả lộ ra vẻ mặt đầy ẩn ý. “Năm ấy Trương Bật là tâm phúc của Lý Mật, năm Đại
Nghiệp thứ mười ba, Lý Đại Lượng theo tướng Tùy Bàng Ngọc tấn công trại Ngõa Cương, kết quả là Bàng Ngọc binh bại, Lý Đại Lượng cũng bị bắt làm tù binh. Không biết thế nào mà Trương Bật vừa nhìn thấy Lý Đại Lượng đã cực kì sửng sốt, hạ lệnh chém hơn một trăm quân Tùy khác bị bắt, nhưng lại chỉ giữ một mình Lý Đại Lượng.”
Lý Diễm lộ vẻ khó tin. “Vì sao lại thế?”
“Năm ấy hạ quan còn hỏi Trương Bật,” Vương Quân Khả nói. “Trương Bật chỉ nói, hắn vừa nhìn thấy người này đã sinh ra thiện cảm trong lòng, không đành lòng hạ thủ. Sau đó Trương Bật bảo vệ Lý Đại Lượng đang bị giam trong trại Ngõa Cương suốt nửa năm, cùng hắn tương giao tâm đầu ý hợp. Sau đó nữa thì trại Ngõa Cương bị đánh bại mấy lần, tình thế càng ngày càng cùng quẫn, Trương Bật lại tự ý phóng thích Lý Đại Lượng để hắn đến nhờ cậy Thái thượng hoàng.”
Lý Diễm kinh hãi hít một hơi. “Việc này hôm nay ta mới nghe nói lần đầu tiên.”
“Sau đó Trương Bật đi theo chúng ta đến nhờ cậy đương kim Bệ hạ, dòng Ngõa Cương chúng ta không muốn qua lại riêng tư quá mật thiết, quan hệ giữa hạ quan và Trương Bật vì thế cũng dần dần nhạt đi.” Vương Quân Khả không ngừng lắc đầu. “Nghe nói hai người Lý Đại Lượng và Trương Bật bề ngoài ít qua lại, nhưng lại lén lút có giao tình thâm hậu.”
“Đây là chuyện tự nhiên.” Lý Diễm không cho là đúng. “Nói cho cùng thì Trương Bật là ân nhân cứu mạng của Lý Đại Lượng mà.” “Đúng vậy!” Vương Quân Khả nói với vẻ điềm nhiên như không. “Lúc này xem như Bệ hạ đã sắp xếp ba người có quan hệ sâu sắc
với Ngõa Cương đến Lũng Hữu, cộng thêm hạ quan chính là bốn người, có thể thấy Bệ hạ coi trọng Lũng Hữu tới mức nào.” Trong nháy mắt, Lý Diễm cảm thấy như có sét đánh ngay giữa trời quang, nước lạnh dội thẳng xuống đầu, toàn thân cũng phát run.
Ông ta liếc Vương Quân Khả một cái, lại thấy vị anh hùng Ngõa Cương năm xưa này vẫn rất thờ ơ, dường như chỉ đang nói chuyện phiếm thôi.
Lý Diễm nhắm mắt lại, trước mắt loáng qua một cái, lập tức xuất hiện địa đồ Lũng Hữu. Từ trọng trấn Lương Châu về phía tây đến Cam Châu, Túc Châu, Qua Châu và Tây Sa Châu, chính mình là Đô đốc Qua Châu không ngờ đã bị ba gã cựu tướng Ngõa Cương bao vây ở giữa!
Chương 2
Tám sỹ tộc lớn ở Đôn Hoàng
Đôn Hoàng là thành lớn ở Hà Tây, tường thành đầm đất cao năm mươi ba thước, cao dày chắc chắn. Tường thành ở Tây Vực đều không xây gạch bao bên ngoài, lộ ra màu vàng đất nguyên bản, cực kì mộc mạc. Thành trì nằm ở bờ tây sông Cam Tuyên, đông tây rộng bốn trăm bộ, nam bắc dài sáu trăm hai mươi chín bộ, nhưng không phải là hình chữ nhật vuông vức vì góc đông nam có một phần tư tường thu vào phía trong một đoạn. Bốn góc tường thành đều xây ụ góc cao vút, từ trên cao nhìn xuống, ngày đêm canh gác.
Điểm đặc thù của thành Đôn Hoàng là bên ngoài tường thành xây thêm một vòng thành cừu ngựa. Thành cừu ngựa cao năm thước, chỉ đến vai người, nhưng độ dày lại lên đến năm thước. Trong công thành chiến, vòng thành cừu ngựa này cho dù không quá cao nhưng cũng là chướng ngại bên tấn công khó mà vượt qua được. Muốn vượt qua tòa thành cừu ngựa này tất phải đối mặt với sự tấn công mãnh liệt của bên thủ thành, mà cho dù có nhảy vào thành cừu ngựa thành công thì địa thế chật hẹp cũng khiến bọn họ không thể nào triển khai các loại khí giới công thành như thang mây.
Mà lúc này Huyền Trang và Lý Thiền dắt ngựa đi qua, lại phát hiện trong thành cừu ngựa thực sự đang nhốt rất nhiều cừu ngựa, đúng là được dùng để làm chuồng cừu kiêm chuồng ngựa thật.
Ở cổng thành Đôn Hoàng, Huyền Trang và Lý Thiền trình công nghiệm, quá sở, sau đó dắt ngựa vào thành.
“Sư phụ, ngài đến Đôn Hoàng có dự định gì?” Lý Thiền hỏi. Huyền Trang ngắm nhìn tòa hùng thành biên ải màu đất, trong mắt tràn ngập chờ mong. “Bần tăng có một người hảo hữu tri giao tên gọi Lữ Thịnh, bây giờ hắn đang làm quan ở Đôn Hoàng này!” Hai người vào thành từ cổng bắc.
Lúc này Đôn Hoàng vẫn giữ nguyên kết cấu thời kỳ Tào Ngụy, góc đông nam trong thành được cắt làm thành con, là chỗ của nha môn quan phủ. Bộ phận khác là la thành, là khu dân cư và khu thương nghiệp, giữa hai khu ngăn cách bởi tường cao, ở giữa có hai cổng lớn để ra vào. Như vậy trong số ba cổng thành của thành Đôn Hoàng, vào cổng tây và cổng nam thì sẽ phải đi qua thành con, chỉ có cổng bắc là tiện lợi nhất.
Vừa vào cổng bắc chính là phố lớn Cam Tuyền, kéo dài về phía nam hơn nửa tòa thành, nối đến tận cổng thành nhỏ. La thành cũng bị con phố lớn này chia thành hai phần đông tây: Phía đông là khu vực hình chữ nhật quy củ, phường thị quy hoạch nghiêm chỉnh, vuông vức như bàn cờ, còn phía tây bởi vì bị tường thanh con cong vẹo chia cắt nên biến thành một hình tam giác.
Kết cấu tòa thành mặc dù quái dị nhưng lại không gây ảnh hưởng gì đến sự thịnh vượng của nơi này. Dân số thường trú của cả Tây Sa Châu chỉ có hơn hai vạn người, tuy nhiên thương nhân các vùng từ Tây Vực và Trung Nguyên thường xuyên qua lại, trong thành người đông như mắc cửi.
Trên phố chính, la ngựa và lạc đà thồ hàng hóa đi qua bên cạnh, còn có người đuổi đàn cừu ra ngoài thành chăn thả, dòng người
đông vui tấp nập; ngoài người Hán còn có người Thổ Dục Hồn mặt đỏ rực, người Đột Quyết tết bím tóc, người Túc Đặc mũi cao mắt sâu, áo bào cổ tròn đầu đội mũ cao, thậm chí còn có người Thổ Hỏa La và người Ba Tư đến từ nơi xa xôi hơn phía tây, khiến Huyền Trang tấm tắc than thở, lần này xem như được mở rộng tầm mắt.
Lý Thiền cười nói, “Những người khác không nói, riêng người Túc Đặc ở Đôn Hoàng không ít, thậm chí ở các hương còn có thôn xóm Túc Đặc quần cư. Bọn họ đã đăng ký quan phủ, đưa vào hộ tịch, xem như là người Đường rồi.”
Thành con là nơi sang trọng, nha môn châu huyện và phủ của các sĩ tộc lớn, nhà buôn giàu có đều ở trong thành con, hai người đi trên đường, Lý Thiền giới thiệu phong cảnh Đôn Hoàng với Huyền Trang.
“Sư phụ, vị Lữ Thịnh mà ngài cần tìm làm quan gì trong phủ Thứ sử?” Lý Thiền hỏi.
Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Hắn đến Tây Sa Châu nhậm chức năm Vũ Đức thứ tám, nghe nói là Tham quân.”
Lý Thiền cười. “Sư phụ có chuyện không biết, trên quan trường Tham quân lớn nhỏ vô số, trong châu có Lục sự tham quân, còn có người đứng đầu sáu tào ty đều là Tham quân, nhưng lại hoàn toàn khác nhau.”
“Bần tăng và hắn quen biết nhau năm Vũ Đức thứ bảy; năm Vũ Đức thứ tám, trước khi hắn được điều đến Đôn Hoàng thì bần tăng đã ra ngoài rồi, vì vậy cũng không biết hắn làm chức quan gì.” Huyền Trang cười khổ. “Có điều hắn ở kinh thành là chính bát phẩm thượng.”
Lý Thiền không ngừng lắc đầu. “Quan chức kinh thành chính bát phẩm thượng, cho dù điều ngang thì đến Tây Sa Châu ít nhất cũng là Lục sự tham quân! Đây là nhân vật số bốn trong châu, chỉ thấp hơn Thứ sử, Trưởng sử và Tư mã, quyền lực còn cao hơn cả Tư mã, người như vậy lúc ở trạm dịch châu thành ngài trực tiếp hỏi Vương Quân Khả chẳng phải sẽ biết hay sao?”
“Bần tăng muốn nhờ Lữ Thịnh hỗ trợ, lén lút vượt quan ải.” Huyền Trang cười gượng. “Bần tăng thì đi rồi là xong, nhưng nếu sau này để quan trên và đồng liêu của Lữ Thịnh biết, sợ sẽ làm liên lụy đến hắn.”
Lý Thiền gật đầu. “Hiểu rồi. Có điều chuyện này cũng dễ thôi, đường đường Lục sự tham quân, đến nha môn châu hỏi là biết ngay.”
Từ cổng bắc theo phố lớn Cam Tuyền đi thẳng là đến cổng thành con, bây giờ không phải thời chiến nên việc ra vào thành con rất thuận lợi. Hai người vào cổng thành liền nhìn thấy một tòa Phật tháp cao vút, đó chính là tháp Bạch Mã, tòa bảo tháp được danh tăng, nhà dịch kinh Cưu Ma La Thập thời Hậu Tấn xây cho con ngựa trắng đã chết của mình.
Phủ nha Tây Sa Châu nằm ở phía tây tháp Bạch Mã, châu nha Đôn Hoàng cũng không cần sang trọng như ở Trung Nguyên, tường vách đất cực kì dày và chắc chắn, như một tòa thành hình vuông; trên tường thành còn có vọng lâu và mã diện, cổng phủ cũng là cổng vòm giống như cổng thành, cực kì to lớn.
Ngoài cổng có giáp sĩ đeo đao cầm mâu canh gác, hai người đi tới, một Hiệu úy mặc áo giáp bước ra nghênh đón. “Người tới là ai? Không được tự ý xông vào trong châu nha!”
Huyền Trang chắp tay. “Bần tăng đến để tìm người. Bần tăng muốn tìm Lục sự tham quân trong châu, tên gọi Lữ Thịnh.” Hiệu úy đó kinh ngạc. “Lục sự tham quân? Lục sự tham quân của bản châu không phải họ Lữ, trong châu nha cũng không có người nào tên Lữ Thịnh.”
Huyền Trang và Lý Thiền đều sửng sốt, ngơ ngác nhìn nhau. “Lữ Thịnh đến Đôn Hoàng năm Vũ Đức thứ tám.” Huyền Trang hỏi. “Chẳng lẽ lại điều đi nơi khác rồi?”
Hiệu úy kia thấy ngài là tăng nhân, Lý Thiền bên cạnh quần áo sang trọng, lập tức kiên nhẫn nói, “Chuyện này ta không biết được. Lục sự tham quân bây giờ họ Tào, tên Thành, đến Tây Sa Châu từ năm kia.”
Lý Thiền thấp giọng. “Sư phụ, Tào Thành này ta biết, bây giờ đang nghênh đón a gia ta trong trạm dịch châu thành. Chắc chắn là ngài nhầm ở đâu đó rồi.”
Huyền Trang suy nghĩ một lát, cũng không khỏi cười khổ. Lữ Thịnh được điều nhiệm đến Đôn Hoàng tới nay đã được bốn năm, chức quan thay đổi cũng là chuyện thường, có điều việc gấp trước mắt vẫn là hỏi thăm tung tích của Lữ Thịnh.
Đối diện phủ Thứ sử là phường Vĩnh Khang, tường phường cao dày chắc chắn, trên cổng phường còn có lầu thành, cũng mang hình dạng của một thành trì quy mô nhỏ. Huyền Trang và Lý Thiền đi vào trong phường, phường này nằm sát bên cạnh châu nha, người trong phường cũng đa số là quan chức sĩ tộc. Huyền Trang đi trên đường, thấy ở góc ngã tư có một quán rượu, mặt tiền cũ kĩ, chủ quán cũng khoảng từ năm đến sáu mươi tuổi, nói chuyện là khẩu âm bản địa,
liền đi vào trong quán rượu. Lúc này đang là giờ Tỵ, trong quán rượu không có khách, chủ quán nhiệt tình đi tới chào hỏi. Huyền Trang chắp tay hỏi, “Lão trượng có phải là người địa phương Đôn Hoàng không? Mở quán rượu ở đây đã bao nhiêu năm rồi?”
Chủ quán vội vàng tránh ra. “Không dám, không dám. Hồi bẩm pháp sư, nhà lão hủ nhiều đời đều là người Đôn Hoàng. Quán rượu này là tổ tiên truyền lại, đến nay đã có hơn một trăm năm mươi năm.”
“Vậy bần tăng xin thỉnh giáo lão trượng.” Huyền Trang hỏi, “Năm Vũ Đức thứ tám, có một vị Lục sự tham quân họ Lữ đến Tây Sa Châu, lão trượng có biết hắn không?”
“Ngài nói là Lữ Tham quân? Hắn…” Người bán rượu buột miệng đáp, sau đó sắc mặt lập tức biến đổi, bất an nhìn Huyền Trang và Lý Thiền, không dám nói thêm lời nào nữa.
Lý Thiền biết có chuyện khác thường, Huyền Trang lại mỉm cười nhìn người bán rượu. “Chính là Lữ Tham quân, lão trượng có biết giờ hắn đi nơi nào rồi không?”
“Hai vị không phải là người Đôn Hoàng?” Người bán rượu cắn răng, thấp giọng hỏi.
Hai người đều lắc đầu, Huyền Trang nói, “Bần tăng là người Lạc Dương, đi qua nơi đây, năm đó có duyên gặp mặt Lữ Tham quân một lần, vì thế muốn tới thăm hắn một chút.”
“Đã chỉ đi qua thôi thì tốt nhất là pháp sư đừng nên hỏi thăm nữa.” Người bán rượu cẩn thận nhìn khắp nơi. “Nhà lão hủ đời đời tín Phật, tuyệt đối không dám để một vị cao tăng gặp phải chuyện phiền phức. Trong thành Đôn Hoàng này, hai chữ ‘Lữ Thịnh’ chính là
một điều cấm kỵ, bất kể với ai ngài cũng đều tuyệt đối không thể nhắc tới. Ngài làm xong việc rồi mau mau rời khỏi Đôn Hoàng mới là thượng sách.”
Huyền Trang và Lý Thiền trở nên nghiêm nghị.
Lý Thiền kinh ngạc hỏi, “Vì sao lại thế? Rốt cuộc hắn đã xảy ra chuyện gì?”
Người bán rượu điềm nhiên như không lau bàn, thấp giọng trả lời. “Nhà của Lữ Tham quân ở khúc hai, phố đông phường Thành Hóa, pháp sư đến xem liền biết, nhưng xin pháp sư chớ để người khác biết là lão hủ nói với ngài.”
Huyền Trang kinh hãi trong lòng, cũng không còn lòng dạ nào tiếp tục hỏi, lập tức dẫn Lý Thiền rời khỏi phường Vĩnh Khang. Phường Thành Hóa cũng không xa, theo phố lớn Cam Tuyền đi về phía bắc qua ba phường là đến. Có điều phường này rất hẻo lánh, nằm trên một con phố nhỏ. Nhìn quy cách nhà cửa trong phường thì cũng không giống nơi ở của quan chức cấp cao hay thương nhân giàu có. Huyền Trang và Lý Thiền đi qua ngã tư tới phố đông, trước mặt có người chăn nuôi lùa mấy trăm con cừu tới, cả con phố toàn cừu là cừu.
Hai người tránh đàn cừu, đi tới khúc thứ hai, thấy men phố có một tòa nhà cao lớn, tường ngoài hình vuông đầm đất dày, xung quanh tường có hành lang bao quanh. Toàn bộ khu nhà rộng chừng hai mẫu, ở trong thành này xem như đại trạch. Lầu cổng hai tầng, trụ gỗ du to lớn và rường cột được chạm trổ rất tinh tế. Có điều cả tòa đại trạch này đã bị bỏ hoang, ngói trên hành lang rơi vỡ rất nhiều, mạng nhện chăng đầy giữa không trung, đung đưa trong gió, trên bậc thềm toàn là cỏ dại mọc cao đến đầu gối.
Trên cổng chính đen kịt dường như còn từng dán giấy niêm phong, chỉ có điều vì lâu ngày nên giấy niêm phong bong ra, sớm đã không thấy rõ chữ viết bên trên.
Huyền Trang im lặng đứng một lúc rồi bước lên trên bậc thềm, đưa tay đẩy hai cánh cổng dày sơn đen đó, cả lầu cổng cũng lắc lư nhưng cổng lại không mở ra. Huyền Trang hơi chán nản, đưa mắt nhìn quanh tìm cách mở cổng.
“Sư phụ, ngài thật sự muốn truy tra sao?” Lý Thiền hỏi. “Truy tra đến cùng.” Huyền Trang nói từng chữ.
“Đã vậy thì cần gì phải cẩn thận từng li từng tí như thế?” Lý Thiền xoay người nhấc chân, lấy đà tung một cước đạp thẳng vào cổng, sau đó nhanh chóng kéo Huyền Trang nhảy xuống bậc thềm.
Lầu cổng lắc lư mấy cái, cuối cùng ầm ầm sụp xuống một nửa, một cánh cửa cũng đổ xuống, bụi bay mù mịt khắp trời. Huyền Trang không khỏi cười khổ.
Người đi đường đi qua trên phố cũng há hốc mồm, ngơ ngác nhìn bọn họ. Trong những ngôi nhà xung quanh cũng có người chạy ra xem, trên mặt đều biến sắc, chỉ chỉ trỏ trỏ. Huyền Trang cười với bọn họ, những người này lại lập tức rụt vào.
Đợi bụi bặm lắng xuống, Huyền Trang và Lý Thiền đi vào trong khuôn viên.
Vừa vào cổng liền đến sân trước rộng bề ngang, hai bên có nhà cửa, dường như là chỗ ở của nô bộc, đầu bên này là nhà bếp, đầu bên kia là cửa ngách, dường như đi đến chuồng ngựa bên ngoài tường bao. Chính giữa đi qua sân là đến cổng giữa, cũng có lau cổng cao cao, có điều hai cánh cửa gỗ sớm đã đổ xuống một nửa.
Mặt sân trước bị đào bới lung tung, gạch xanh bị chạy lên, đào mười mấy hố đất rất sâu. Huyền Trang ngồi xuống bên hố xem xét tỉ mỉ. Lý Thiền đi thẳng vào trong nhà chính, mặt lập tức biến sắc. “Sư phụ, mau tới đây!”
Huyền Trang vội vàng đứng dậy, đi qua cổng giữa, vừa thấy cảnh tượng trước mắt cũng sững sờ đứng yên.
Sân chính vô cùng rộng rãi, trồng một số cây du, cây liễu, xung quanh là nhà cửa, chính giữa sân có nền cao, bên trên là chính đường, cũng là kết cấu nhà cửa phổ biến ở Hà Tây. Vấn đề nằm ở chỗ trong sân chính cũng bị đào nham nhở, khắp nơi đều là hố sâu, thậm chí một cây liễu to bằng một người ôm cũng bị đào bật gốc thành một hố to. Đến cả tường đất dày của chính đường cũng bị khoét ra, có chỗ chỉ khoét sâu một thước, có những nơi lại bị đào thủng luôn. Bậc thềm gạch xanh lên chính đường cũng bị đào ra, nhà cửa xung quanh cũng vậy, thậm chí một số cột trụ cũng bị dỡ xuống.
Điều thật sự kỳ lạ là dưới đất và trên tường dùng phẩm màu với hai màu đen đỏ vẽ thành hàng trăm tấm phù chú và hàng nghìn đường nét. Những tấm phù này hình thành một kết cấu ba chiều, giữa những tấm phù có đường nét nối với nhau.
Nhiều năm bị cát bụi che phủ và dãi dầm mưa nắng khiến một số hình vẽ nay đã mờ nhạt đi, lại càng lộ ra nét cũ kĩ bể dâu. “Sư phụ, những hình vẽ này rốt cuộc là gì?” Lý Thiền hỏi. “Đây là…” Huyền Trang nghiêm nghị nói. “Pháp trận! Một pháp trận đạo thuật cỡ lớn!”
“Pháp trận?” Lý Thiền khiếp sợ.
“Còn không phải pháp trận bình thường, là pháp trận kết hợp vu thuật và đạo thuật.” Huyền Trang chỉ tường xung quanh sân. “Phía đông vẽ ba hình quỷ sát sinh, tạo thành bộ cương phù, sau đó theo thứ tự là hỗn nguyên phù, lục đinh lục giáp phù, đồ hộ phù, triệu Hồn phù, ba mươi sáu Thiên Cương phù và mười hai thiên thần phù.”
Huyền Trang cẩn thận đi vòng qua hố xem xét. “Ngươi xem dưới đất, từ cổng giữa đến tòa chính đường này được làm thành lục giáp đàn, hai bên cổng giữa có hai đống đá là Thần Đồ và Úc Lũy. Còn bản thân tòa chính đường này được tạo thành thần vị tam sơn cửu hầu, bên trái là tiên vị, bên phải là quỷ vị. Hai bên sân đều có sáu hố khá rộng, bên trái là thần vị lục đinh, bên phải là thần vị lục giáp.”
Huyền Trang dường như gặp phải vấn đề gì đó rất khó khăn, trầm ngâm không nói một hồi lâu. Lý Thiền kinh sợ trong lòng, đi về phía một bức tường, định xem xét kỹ càng một phen. “Đừng động!” Huyền Trang đột nhiên hô to.
Dưới chân Lý Thiền bỗng rắc một tiếng, mặt đất chợt nứt toác ra. Hắn kêu một tiếng sợ hãi, người rơi thẳng xuống dưới. Trong lúc luống cuống, hai tay hắn tóm chặt được một cây xà nhà rơi bên cạnh. Xà nhà nằm ngang trên mặt hố bẫy, Lý Thiền may mắn không bị rơi xuống dưới đáy hố. Lý Thiên vừa hét lên vừa nhìn xuống hố, chỉ thấy dưới đáy hố là những mũi chông sắt nhọn hoắt dài khoảng hơn một thước, giữa những mũi chông sắt còn có mấy con rắn hoa văn sặc sỡ đang vặn vẹo.
Lý Thiền kêu to bò lên trên, lại nghe thấy ầm một tiếng, một bóng đen to lớn bất chợt lao xuống từ trên mái cổng giữa, không
ngờ lại là một tấm sắt vuông to nặng quét ngang qua mặt đất mà đến. Trên tấm thép ấy hàn chông nhọn và móc câu, chỉ cần bị quét trúng người là trên người sẽ lập tức có thêm tầm bảy, tám cái lỗ.
Lý Thiền sợ đến mức hồn phi phách tán. “Sư phụ cứu ta!” Huyền Trang đứng trên tấm phù dưới đất im lặng bấm đốt ngón tay tính toán, người hết xoay bên trái lại xoay bên phải, đột nhiên bước lên một tấm phù rồi nhanh chóng lùi về phía sau. Ầm một tiếng, một cây gỗ tròn to lớn từ trong dãy nhà bên cạnh phá cửa sổ mà ra rồi lao thẳng tới, vừa kịp chặn lại tấm thép giữa không trung. Tiếng va chạm vang lên, hai cạm bẫy hung hiểm đồng thời rơi xuống đất.
Huyền Trang thở phào một hơi, Lý Thiền cũng sợ đến mức không dám nhúc nhích. Huyền Trang tiếp tục bấm đốt ngón tay tính toán, chân bước trên phù, đi theo những đường nét phức tạp, chuyển hướng mấy lần mới đi đến bên hố bẫy, nắm cánh tay Lý Thiền kéo hắn lên.
Lý Thường đặt mông ngồi xuống đất, cả người đều mềm nhũn. “Ôi sợ đến chết mất!”
Huyền Trang vẻ mặt áy náy. “Xin lỗi Thế tử, bần tăng cũng vừa mới nhìn ra, đây là một pháp trận ba tầng, ngoài đạo thuật và vu cô thuật còn có cơ quan thuật, dựa theo tám cửa để đặt bẫy; tên nỏ, bẫy thú và lưới thừng, ba tầng pháp trận này đều liên quan mật thiết đến nhau, không có cửa sinh, gần như tất cả đều là cửa tử.”
Lý Thiền trố mắt nhìn Huyền Trang một lúc lâu. “Sư phụ, chỉ có một lát vừa rồi thôi mà ngài đã nhìn ra có ba tầng pháp trận, không những thể còn phá giải được nó luôn?”
Huyền Trang cau mày. “Chưa nói tới phá giải, chủ yếu là pháp trận này được bày đã lâu, dầm mưa dãi nắng, rất nhiều cơ quan bên trong đều đã mất hiệu lực. Mời Thế tử xem…” Huyền Trang chỉ về phía trên chính đường và cổng giữa, ở đấy đặt mấy thứ tròn tròn, loang lổ nhìn không rõ. “Đó là gương đồng, ban ngày thu ánh nắng, ban đêm thu ánh trăng sao, rất dễ đưa người ta vào trong ảo cảnh, chỉ có điều sớm đã han gỉ rồi nên mới không phát huy uy lực. Còn những phù lục vu đạo và nét vòng này có lẽ đều trộn các loại thuốc và chu sa bí chế, nhưng vì đã nhiều năm nên sớm mất đi hiệu dụng. Người xem, trên cây liễu bên cạnh có phải có một tổ trùng hay không?”
Lý Thiền nhìn kỹ, quả nhiên thấy trong khối u trên thân cây liễu có những lỗ thủng chi chít, chỉ có điều bây giờ đã phủ đầy mạng nhện.
“Đó là cổ trùng, những năm nay nắng thiêu chim mổ, cộng thêm nhện săn mồi nên đều đã chết,” Huyền Trang nói tiếp. “Người bày ra pháp trận này quả thực lợi hại. Nếu là lúc ba tầng pháp trận này vừa mới được bố trí, chỉ sợ ta và ngươi vừa bước vào trong liền đã bị cổ trùng chui vào tai mắt mũi miệng, cuối cùng đều chết ở trong trận rồi.”
“Sư phụ là cao tăng, không ngờ lại tinh thông đạo pháp và vu thuật như thế!” Lý Thiền hết sức khâm phục.
Huyền Trang lại lắc đầu. “Mấy thứ này bần tăng không hề biết, chỉ là đại đạo Thích Ca truyền tới bây giờ, bị một số kẻ thuộc bàng môn tả đạo trà trộn vào làm dân chúng kinh sợ để thu tiền tài, bần tăng muốn theo đuổi đại đạo nên không thể không truy cứu ngọn nguồn của nó để loại bỏ những thứ pha tạp.”
“Sư phụ!” Lý Thiền nghĩ lại vẫn còn thấy sợ. “Ai đào bao nhiêu hố rồi bố trí pháp trận trong nhà Lữ Thịnh? Đây rốt cuộc là muốn đối phó ai?”
Trong lòng nặng nề, Huyền Trang im lặng lắc đầu. “Đào hầm và bố trí pháp trận không phải cùng một đám người.”
Lý Thiền kinh ngạc. “Những cái hố này rõ ràng là một bộ phận của pháp trận mà.”
“Hố được đào trước, sau đó mới bố trí pháp trận.” Huyền Trang chỉ vào đường nét dưới đất. “Ngươi xem, những đường nét này có những đường đến bên hố sâu liền vòng qua, có chỗ thật sự không vòng tránh được thì lắp đặt tấm lật liên hoàn trên hố. Điều này nói rõ có người đến đào hố trước, sau đó mới có người khác đến bố trí pháp trận. Còn những cạm bẫy đó chỉ là tiện tay lợi dụng những hố này cho phù hợp mà thôi.”
Lý Thiền quan sát cẩn thận, quả nhiên là thể. “Sư phụ tuệ nhãn như đuốc.”
“Thế tử, chúng ta đi vào trong nhà xem xem,” Huyền Trang nói. “Vào trong nhà?” Lý Thiền giật mình. “Vậy chẳng phải là càng nguy hiểm hơn sao?”
“Tất nhiên là nguy hiểm hơn.” Huyền Trang dặn dò. “Chỉ cần ngươi không đi lung tung, theo sát bước chân của bần tăng thì sẽ không sao. Nếu sợ nguy hiểm ngươi cũng có thể ở lại ngoài sân, nhớ kỹ không được đi lung tung là được.”
Huyền Trang nói xong kéo tăng bào lên, một tay bắt quyết tính toán, hai mắt nhìn những đường nét và phù chú dưới đất, vừa hết sức thận trọng thay đổi bước chân vừa đi ngoắt ngoéo về phía trước. Lý Thiền cắn răng, cũng bắt chước đi theo Huyền Trang, một
tay kéo vạt áo bào lên một tay bắt quyết, chỉ có điều hắn cũng không biết chính mình đang bắt quyết làm gì.
Hai người tiến dần từng bước, đi vào trong chính đường. Trong chính đường còn bừa bộn hơn, gần như tất cả đồ đạc bày biện đều bị đập phá, dưới nền cũng đào hố khắp nơi, pháp trận vu đạo cũng hung hiểm hơn. Lúc này đang là buổi chiều, ánh nắng chiếu vào qua song cửa tàn tạ, ngay cả Lý Thiền cũng nhìn thấy mấy sợi tơ nhỏ bằng dây thép đang treo lơ lửng. Hình vẽ phù chú trên tường, dưới đất và trên nóc nhà cũng khoa trương hơn, các loại phù chú mặt quỷ và ma quái làm cho người ta khiếp vía, màu sắc là màu đỏ nâu, cũng không biết được vẽ bằng loại phẩm màu nào. “Đây là máu.” Huyền Trang cẩn thận ngồi xuống, cạo một chút nhìn kĩ, vẻ mặt nghiêm nghị.
“Máu…” Toàn thân Lỹ Thiền run lên, đột nhiên chỉ vào một bức tường. “Sư phụ, trên kia có chữ.”
Huyền Trang đứng dậy, quả nhiên nhìn thấy trên một bức tường nguyên vẹn của chính đường có viết vài hàng chữ. Đứng ở cửa không thấy rõ, Huyền Trang cẩn thận bước qua mấy phù chú, lách qua mấy sợi tơ, tránh các loại cạm bẫy để đi tới giữa chính đường, thấy trên tường viết mấy dòng chữ bằng lối viết Thảo.
“Chạm không thấy, sờ không được, miệng không thể nói, bút không thể viết. Đó chính là Đạo.”
Huyền Trang ngơ ngác nhìn. Ngài vươn tay ra chạm vào vết mực, dường như người bạn thân năm ấy đã sớm biết trước là ngài sẽ tới, nói với ngài rằng hắn chưa hề quên lời thề ước năm xưa. Thời gian như quay trở lại sáu năm về trước, người tăng nhân trẻ tuổi bước qua nơi thiền lâm cổ tự, đẩy ra cánh cửa điện, nhìn thấy người
đàn ông áo trắng phong hoa tuyệt đại ấy đang mỉm cười với ngài. “Đến rồi à?”
Đột nhiên Huyền Trang rơi nước mắt, ngài nghẹn ngào nức nở. Lý Thiền không rõ nguyên do nhưng lại có thể cảm nhận được sự thương cảm và đau khổ trong lòng Huyền Trang, thế nên hắn yên lặng.
Huyền Trang lau nước mắt, im lặng đi qua chính đường tới khu nhà ở hậu viện. Nơi này cũng bị đập phá rách nát tả tơi, gần như tất cả đồ dùng trong nhà đều đã bị dỡ xuống. Sương phòng bên trái dường như là thư phòng của Lữ Thịnh, dưới đất chất đống các loại sách bừa bộn, phần lớn là sách sử, giờ đã không còn hoàn chỉnh, thậm chí một số quyển đã mục nát, trên giấy toàn là vết chân giẫm qua.
Huyền Trang nhặt lên lật xem, chủ yếu là sách sử như “Tả truyện,”
“Trúc thư kỷ niên,”
“Hán thư,”
“Đông Hán thư”; ngoài ra còn có các sách văn học như “Thể thuyết tấn ngữ,”
“Dữu Lượng văn tập”; sách dòng họ như “Thiên gia tính thiên,” “Tính soạn,”
“Tính thị thư biện chứng”…
Huyền Trang lật xem mấy quyển, cau mày suy tư, lại thấy trên tường thư phòng cũng viết vài chữ, rất lộn xộn, xem kĩ thi là sáu chữ riêng biệt không rõ ý nghĩa. “Long, Tiến, Hưng, Hoàng, Nghĩa, Thang”.
“Sư phụ, mấy chữ này có ý nghĩa gì? Vì sao lại viết trên tường?” Lý Thiền hỏi.
Huyền Trang lắc lắc đầu. “Nhất thời ta cũng không rõ. Có điều nhìn vị trí của mấy chữ ấy thì đều ở trên tường bên phải án thư, dường như là tiện tay viết lên. Thế tử, ngươi xem những thư tịch này xong có phát hiện ra vấn đề gì không?”
Lý Thiền không hiểu. “Chỉ là sách bình thường thôi mà!” “Ngươi không cảm thấy thể loại quá đơn nhất sao?” Huyền Trang nói. “Lữ Thịnh học thông Đạo Nho, tinh thông y thuật, nhạc lý và thi phú, vì sao trong thư phòng hắn lại không có kinh điển Nho gia, cũng không có Đạo tạng Đạo gia và y nhạc thi tập, mà tất cả đều là sách sử và sách dòng họ?”
“Sư phụ nghĩ thế nào?” Lý Thiền hỏi.
“Bần tăng cho rằng hắn muốn đọc loại sách này,” Huyền Trang đáp.
Lý Thiền cứng họng. “Sư phụ, ngài nói quá đúng rồi!” “Thế tử, có thể làm phiền ngươi đi nha môn báo tin, gọi một số người đến chuyển số sách này đi được không? Bần tăng muốn đọc cho kĩ,” Huyền Trang nói.
“Không vấn đề gì.” Lý Thiền rất sảng khoái đáp ứng. Đúng lúc này, ngoài cổng đột nhiên vang lên một tiếng Phật hiệu. “A Di Đà Phật! Ngài không thấy sinh ra chết đi, như kiến tuần hoàn, vì ăn vì mặc, như tằm dệt kén. Dù là kẻ sĩ vô song áo ngọc đai vàng đó cũng không thể tránh được kết cục trở thành một nắm tro tàn.”
Huyền Trang và Lý Thiền vội vàng rời khỏi khu nhà, sau khi đi vào chính đường, nhìn qua cổng giữa mở rộng liền thấy một lão
tăng đứng bên ngoài lầu cổng đã sụp đổ. Lão tăng đó đã rất già nua, mày râu bạc trắng, mặc áo cà sa rất trang trọng, tơ vàng trên áo tỏa sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời, giống như một pho tượng La hán bằng vàng đang đứng trên đống đổ nát.
Hai tăng nhân một già một trẻ đứng xa xa đối mặt với nhau. Huyền Trang chắp tay cúi chào. “Xin hỏi húy danh của pháp sư.” “Lão tăng là tự chủ chùa Đại Thừa, tục gia họ Địch, pháp danh Pháp Nhượng.” Lão tăng đó cười. “Lúc thiếu niên từng du ngoạn kinh thành, trở thành đồng môn với Đạo Nhạc rồi cùng nhau cầu đạo; nay nghe nói đệ tử của ông ấy đến Đôn Hoàng, cố ý thay áo mới, tới đây để nghênh đón pháp sư.”
Thứ sử Tây Sa Châu Vương Quân Khả đón Lý Diễm vào Đôn Hoàng, bố trí nơi nghỉ ngơi tại chùa Trường Lạc ở phía nam thành. Ngôi chùa này là chùa lớn ở Đôn Hoàng, cùng với chùa Đại Thừa ở phía bắc thành và chùa Thánh Giáo ở hang Mạc Cao được gọi là “tam đại tự Đôn Hoàng”.
Viện Bồ Đề ở chùa Trường Lạc là nơi Lý Diễm đã từng ở khi đi tuần tra, cảnh trí thanh tịnh, cây bách cổ thụ một người ôm che mát một nửa khuôn viên, cực kì mát mẻ; trong khuôn viên còn có một con kênh, cỏ nước lục bình, nước chảy róc rách. Lý Diễm đứng ở dưới bóng cây bên kênh, đầy bụng lo âu, nhẹ nhàng dạo bước.
Binh tào tham quân Vương Lợi Thiệp của phủ Đô đốc bước nhanh đi vào. “Đại vương!”
“Tìm được tung tích của Thiền Nhi chưa?” Lý Diễm hỏi. “Thế tử và pháp sư Huyền Trang nhận lời mời của Địch Pháp Nhượng đến chùa Đại Thừa,” Vương Lợi Thiệp nói. “Hạ thần ở bên
đường tận mắt nhìn thấy, nhưng không chuyển lời cho Thế tử để Thế tử về.”
“Vì sao?” Lý Diễm kinh ngạc hỏi.
Vương Lợi Thiệp thấp giọng. “Thế tử qua lại với pháp sư Huyền Trang nhiều hơn cũng tốt, một khi triều đình có biến cũng có thể cùng Huyền Trang trốn đến Tây Vực!”
“To gan!” Lý Diễm vừa kinh hãi vừa giận dữ, nghiêm nghị trách cứ.
Vương Lợi Thiệp lại không sợ, hạ thấp giọng nói, “Hạ thần vốn là tiện nô, từ ông nội đến cha ba đời đều là bộ khúc của Lý gia. Đại vương không chê hạ thần hèn mọn, cho hạ thần lập được một chút công lao trong quân, chẳng những được phóng miễn làm lương nhân mà còn trở thành quan lại triều đình, ơn này dù có tan xương nát thịt cũng khó lòng báo đáp được. Hạ thần bày mưu tính kế cho Đại vương chỉ vì an nguy tồn vong của Đại vương, không dám tiếc thân mình.”
“Ngươi…” Lý Diễm tính tình hiền lành, cai quản không hề nghiêm khắc, nghe thấy lời nói bạo dạn như vậy cũng chỉ thở ra một hơi rất dài.
Từ Tây Ngụy đến Tùy Đường, gia tộc của Vương Lợi Thiệp chính là bộ khúc của Lý thị Lũng Tây. Ông nội Lý Diễm là Lý úy và ông nội của Lý Thế Dân là Lý Bính đều là con của Lý Hổ, Đại trụ quốc Tây Ngụy. Sau khi lớn lên, Lý úy và Lý Bính ở riêng, gia tộc của Vương Lợi Thiệp liền bắt đầu hầu hạ nhánh Lý úy. Cái gọi là bộ khúc chính là gia nô đã được phóng thích nhưng vẫn phụ thuộc vào gia chủ, đều là tài sản của gia chủ, địa vị chỉ cao hơn nô tì một chút thôi.
Vương Lợi Thiệp từ nhỏ đã đi theo bên cạnh Lý Diễm, là người lanh lợi, hết sức thông minh. Lý Diễm liền tạo cơ hội cho hắn giành một số công lao trên chiến trường, phóng miễn làm lương nhân, cũng mở đường cho hắn làm quan, lên tới Binh tào tham quân phủ Đô đốc, chính bát phẩm hạ.
Lý Diễm thở dài một hơi. “Lợi Thiệp, cục diện không hề hiểm ác đến mức độ ấy! Vương Quân Khả chỉ dọa người mà thôi, ý đồ nhằm vào ta của Bệ hạ không hề rõ ràng.”
“Lời này của Đại vương sai rồi,” Vương Lợi Thiệp nói. “Cái gì là triều đình? Triều đình chính là quan chức, tất cả hướng đi của triều đình đều có thể nghiền ngẫm ra từ sự phân công quan chức. Bệ hạ cho ngài chức Đô đốc Qua Châu để ngài đôn đốc quân sự ba châu nhưng lại không cho ngài kiêm chức Thứ sử Qua Châu, mặc dù ngài có binh quyền, điều động quân tốt lại phải thông qua Thứ sử ba châu mới có thể chấp hành. Bệ hạ sớm đã có lòng phòng bị ngài rồi!”
Lý Diễm sửng sốt, giật mình chỉ hắn. “Ngươi… Năm đó lúc ta mới tới Qua Châu, ngươi lấy cớ không có người hầu hạ, khuyên ta triệu Thiền Nhi tới đây, chẳng lẽ lại là…”
Lý Diễm tay chân đều run, không dám tiếp tục nghĩ nữa. “Không sai,” Vương Lợi Thiệp thản nhiên nói. “Vạn nhất Bệ hạ phái một tên tiểu lại cầm thánh chỉ đến đây bắt ngài vào kinh, Thế tử còn có thể chạy ra Tây Vực, giữ lại hương khói tế tự cho dòng của Thái Liệt Vương.”
Lý Diễm ngây ra như phỗng.
“Đây chính là ba hang hạ thần bắt chước Phùng Huyên đào cho ngài. Ba năm nay ngài cố gắng lung lạc Độc Cô Đạt, sau khi thu
được hắn làm tâm phúc, tình thế đã tốt hơn rất nhiều rồi, ít nhất thì chỉ là một chiếu thư của Bệ hạ thôi cũng không động được đến ngài nữa,” Vương Lợi Thiệp nói.
“Thì đã làm sao?” Lý Diễm không nén được giận. “Nếu Bệ hạ thật sự muốn bắt ta, chẳng lẽ ta thân là con cháu của Cảnh Hoàng đế Thái tổ Lý thị còn có thể kháng mệnh tạo phản hay sao?”
“Đương nhiên không thể tạo phản.” Vương Lợi Thiệp mỉm cười. “Nhưng khi trong tay ngài thật sự có binh quyền, khống chế được ba châu Qua, Sa, Túc liền có vốn liếng để cò kè mặc cả với Bệ hạ. Sau này Bệ hạ có muốn động tới ngài, coi như ngài tự tước binh quyền, vào kinh thành thỉnh tội, Bệ hạ cùng lắm cũng chỉ thu lại vương tước của ngài mà không ban cho một dải lụa trắng chết ở trong ngục giống như Trường Lạc Vương Lý Ấu Lương.”
“Vì sao lại thế?” Lý Diễm không hiểu.
Vương Lợi Thiệp nói, “Bởi vì ngài dùng việc tự bỏ quyền hành làm cho văn võ cả triều nhìn thấy ngài không hề có lòng khác! Bệ hạ háo danh, rất muốn trở thành hoàng thánh quân trong sử sách thiên thu, tuyệt đối sẽ không để cho chính mình có chút tì vết nào.”
Lý Diễm thở dài một tiếng, vẻ mặt mệt mỏi, lại không thể không thừa nhận kế sách của Vương Lợi Thiệp chu toàn. “Lợi Thiệp, vậy cục diện bây giờ nên phá giải thế nào?”
“Thông hôn!” Vương Lợi Thiệp nói từng chữ một.
“Thông hôn?” Lý Diễm kinh ngạc hỏi. “Thông hôn với ai?” Vương Lợi Thiệp nói ngắn gọn. “Nghe nói Vương Quân Khả có một nữ nhi, xếp thứ mười hai, khuê danh Ngư Tảo. Dám mời Đại vương cầu hôn cho Thế tử, nghênh làm Thế tử phi.”
Lúc này Huyền Trang và Lý Thiền đã được Địch Pháp Nhượng đón vào chùa Đại Thừa.
Chùa Đại Thừa quy mô rộng lớn, còn gánh vác chức trách hương khói cho các đời đế hậu được triều đình truy phong, xem như quan tự của triều đình ở Tây Sa Châu. Trên thực tế, bản thân Địch Pháp Nhượng chính là danh tăng Hà Tây, thời Tiền Tùy từng làm tăng thông của quận Đôn Hoàng, quản lý toàn bộ tăng đoàn trong quận.
Địch Pháp Nhượng vướng bận nhiều tục sự, chỉ trên đường cùng đi với Huyền Trang và Lý Thiền đến thiền phòng thôi mà đã có vô số tăng nhân đến xin chỉ thị về các sự vụ trong chùa: Việc phê duyệt tiền tài vật tư hao phí để sao chép kinh thư, việc một số gia tộc lớn phải tổ chức pháp sự, việc thu hoạch cất giữ đồng ruộng và vườn trái cây thuộc sở hữu của chùa, việc tu sửa kho thóc, phê duyệt sổ sách thu chi trong tháng của nhà xay bột, phường rượu, xưởng ép dầu, việc quản lý hàng vạn súc vật bò dê, việc phê duyệt sổ sách nhà chùa cho bách tính vay tiền, việc hôn tang cưới gả của các hộ phụ thuộc của chùa, cung cấp lao dịch cho chùa.
Địch Pháp Nhượng và Huyền Trang không dừng bước chân, những tăng nhân đó qua lại như con thoi bên cạnh ông ta, lần lượt bẩm báo; Địch Pháp Nhượng thuận miệng đưa ra chỉ thị, các tăng nhân lại chạy đi như bay.
Huyền Trang xuất gia từ nhỏ nhưng chưa từng tiếp xúc với các sự vụ kinh tế và sản nghiệp trong chùa, lập tức như lạc vào trong mây mù, nghe mà đầu óc cứ quay cuồng.
“Sư huynh!” Một tăng nhân trung niên vội vã đi tới, trong tay còn cầm một quyển sổ sách.
“Pháp Định.” Địch Pháp Nhượng vội vàng kéo hắn qua một bên, nói nhỏ. “Trù bị thế nào rồi?”
Thì ra tăng nhân này chính là trực tuế tăng của chùa Đại Thừa, Pháp Định.
Chùa ở Đôn Hoàng có rất nhiều tăng chúng và tài sản, vì vậy phân công rõ ràng, ba người quản lý sự vụ cao nhất của chùa gọi là tam cương, gồm tự chủ, thượng tọa và đô duy na. Tự chủ quản lý công việc vặt trong chùa, thượng tọa chủ yếu thống lĩnh chúng tăng tu hành, kiêm quản sự vụ của chùa, đô duy na thì quản lý việc vụn vặt của tăng chúng. Dưới tam cương còn có điển tọa quản lý sự vụ ăn uống, tự khanh quản lý sự vụ tục gia, còn vị Pháp Định này chính là trực tuế tăng quản lý tài sản của chùa.
“Sư huynh, đều đã ghi vào trong sổ sách.” Pháp Định đưa sổ sách cho ông ta, lại bị Địch Pháp Nhượng đẩy về.
“Có khách quý ở đây, không có thời gian xem, nói thẳng cho ta nghe là được,” Địch Pháp Nhượng nói.
“Vâng.” Pháp Định vội vàng mở sổ sách ra. “Mấy ngày nay giá hàng do bên Thị ty định ra thấp hơn tháng trước một chút. Cừu được định giá mức thượng mỗi con năm trăm sáu mươi văn tiền, mức trung năm trăm bốn mươi văn tiền, mức hạ năm trăm hai mươi văn tiền. Vừa thu hoạch vụ thu xong, giá lương thực cũng giảm, mỗi thăng lúa mì định giá mức trung ba mươi hai văn. Đậu uyển mỗi thăng định giá mức trung hai mươi sáu văn. Lụa trắng vẫn ổn định như thường, mỗi cuộn định giá mức trung bốn trăm sáu mươi lăm văn.”
Những việc này Huyền Trang lại có thể nghe hiểu được, chợ phía đông hoặc chợ phía tây của các thành đều do châu huyện phái Thị
ty quản lý, mỗi ngày Thị ty đều sẽ đưa ra mức định giá cho các loại hàng hóa trong chợ, dựa theo phẩm chất hàng hóa khác nhau mà chia thành ba mức giá thượng, trung và hạ. Hai bên mua bán có thể căn cứ vào chất lượng hàng hóa để mặc cả giao dịch, nhưng mức giá không được cao hơn mức định giá thượng, không được thấp hơn mức định giá hạ.
“Số lúa mì đó bán được bao nhiêu văn?” Sắc mặt Địch Pháp Nhượng trông hơi khó coi.
Pháp Định mở sổ sách ra, lần lượt bẩm báo.
“Gom hết số lúa mì lại được chín trăm hai mươi tư thạch bảy đấu bảy, tổng cộng bán được hai nghìn chín trăm năm mươi chín quan sáu mươi tư văn.
“Ba nghìn năm trăm bốn mươi hai con cừu, chúng ta cần tiền gấp, số lượng lại lớn, đành phải bán với mức giá thấp hơn mười văn so với mức định giá trung, được một nghìn tám trăm bảy mươi bảy quan hai trăm sáu mươi văn.
“Rượu là mỗi đấu bốn mươi văn, toàn bộ rượu dự trữ trong hai phường rượu của chùa đều đã bán ra, được ba nghìn bốn trăm ba mươi lăm quan một trăm hai mươi văn.
“Năm nay các thí chủ bố thí ba trăm lẻ ba cuộn lụa tím, bán với giá sáu mươi văn một thước cho hiệu vải Thạch Ký, được một nghìn tám trăm mười tám quan.
“Những loại hàng hóa khác bán ra đều mấy quan, mười mấy quan. Tất cả cộng lại tổng số có một vạn một nghìn bảy trăm chín mươi hai quan. Cộng thêm tiền đã có trong chùa, số tiền chúng ta có thể bỏ ra là một vạn sáu nghìn tám trăm quan.”
Huyền Trang hít một hơi kinh hãi, thì ra Pháp Định đã bán một phần hàng hóa trong chùa, chỉ trong mấy ngày không ngờ lại được hơn một vạn quan.
“Sư phụ.” Lý Thiền thấp giọng. “Chùa Đại Thừa này rất có tiền, thu nhập tài chính của triều đình có thể chia thành ba bộ phận gồm tiền, lương thực và vải vóc. Theo a gia nói, năm ngoái tiền mặt của triều đình trong sổ sách chỉ có hơn một triệu hai mươi vạn quan, mà chùa Đại Thừa trong mấy ngày đã gom góp được hơn một vạn sáu nghìn quan! Thật có thể nói là giàu nứt đố đổ vách!”
Huyền Trang nói lạnh nhạt. “Chuyện riêng trong chùa nhà người ta, chúng ta không cần lắm lời.”
Lý Thiền gật đầu tỏ ý đã biết. Thực ra Huyền Trang không nói thì hắn cũng hiểu, chùa Đại Thừa gom góp tiền tài chắc chắn là phải làm chuyện đại sự, người ngoài đương nhiên không tiện hỏi thăm.
Lúc này Địch Pháp Nhượng còn rất phiền muộn. “Quá ít, một vạn sáu nghìn quan sợ là còn xa mới đủ! Pháp Định, đều đổi thành Khai Nguyên thông bảo rồi chứ?”
Pháp Định cười khổ. “Lũng Hữu chúng ta đâu có nhiều Khai Nguyên thông bảo như vậy, một bộ phận được quy thành lụa trắng, một bộ phận đổi thành đồng bạc Ba Tư và đồng vàng Bái Chiêm Đình; chở đầy sáu chiếc xe ngựa, bây giờ đang cất trong kho của chùa, đã bố trí cho tăng chúng trông coi chặt chẽ.”
“Thôi, chúng ta làm hết khả năng là được,” Địch Pháp Nhượng nói. “Ta phải tiếp đãi khách quý, những sự vụ khác để thượng tọa giải quyết đi.”
Pháp Định gật đầu, chắp tay với Huyền Trang rồi vội vã rời đi.
Địch Pháp Nhượng cười gượng. “Để pháp sư chê cười. Thân là tự chủ, mỗi ngày đều phải lo liệu những tục sự này, đại đạo tu hành đằng đẵng, không biết năm nào tháng nào mới có thể viên mãn.”
Huyền Trang không hề hỏi nhiều, lắc đầu cười nói, “Bần tăng hôm nay mới biết, ta có thể yên tâm tu hành là nhờ phía sau có biết bao nhiêu pháp sư đồng môn phải gác lại việc tu hành để giải quyết những tục sự hỗn loạn này, bần tăng cảm thấy biết ơn sâu sắc.”
Địch Pháp Nhượng rất đồng cảm, ba người vừa trò chuyện vừa đi tới thiền đường của ông ta. Một ông lão mặc y phục trắng mộc mạc đang đứng ở dưới bậc thềm trước thiền đường của Địch Pháp Nhượng, dường như nhìn hơi quen mặt, Huyền Trang cũng không xác định được là đã gặp ở đâu.
Nhìn thấy ba người đang đi tới, ông lão vội vàng bước ra nghênh đón, thi lễ với Huyền Trang. “Cuối cùng cũng đợi được pháp sư rồi!” Huyền Trang kinh ngạc. “Xin hỏi…”
Địch Pháp Nhượng cười nói, “Để lão tăng giới thiệu một chút, vị này chính là gia chủ hiện nay của Địch thị ở Đôn Hoàng, Địch Xương, tự Hoằng Nghiệp. Địch thị ta luôn luôn tôn thờ tam bảo, nghe nói pháp sư đến Đôn Hoàng, sáng sớm Hoằng Nghiệp đã đến chỗ lão tăng rồi chờ ở đây, muốn phụng dưỡng pháp sư.”
Huyền Trang giật mình, trong mắt Phật môn Lũng Hữu, thanh danh của Địch thị ở Đôn Hoàng còn vang dội hơn cả Lý thị và Trương thị từng sinh ra đế vương, bởi vì Địch thị ở Đôn Hoàng là gia tộc sùng Phật nhất trong số các sĩ tộc vùng Lũng Hữu. Từ thời Tây Tấn khi Phật giáo mới được truyền đến Đôn Hoàng, Địch thị đã bố thí tam bảo, xây dựng chùa chiền Phật quật, viết kinh tạc tượng, dựng tháp phụng trai. Mỗi một đời Địch thị đều có rất nhiều tộc
nhân bỏ tục xuất gia, trong mấy trăm năm, tăng nhân Địch thị đã trải rộng khắp mười tám chùa ở Đôn Hoàng, thậm chí là trong các chùa thuộc vùng Lũng Hữu, đảm nhiệm các vị trí tăng quan như tăng chính, duyệt chúng, tăng lục, sa môn thống, trợ giúp triều đình quản lý chùa chiền và tăng đoàn.
Trong tám sĩ tộc lớn ở Đôn Hoàng, Địch thị công huân cao quý thua kém Lý thị, tổ tiên hiển hách thua kém Trương thị, văn hóa hưng thịnh không bằng được Tống thị và Sách thị, con em làm quan lại không bằng được Lệnh Hồ thị, nhưng trong giới tôn giáo thì tuyệt đối là một gia tộc khiến cả Lũng Hữu, thậm chí là triều đình đều không thể xem nhẹ. Lúc Pháp Nhượng tự giới thiệu với Huyền Trang đã cố ý nhắc đến dòng họ tục gia của mình, không phải là không có nguyên nhân.
Huyền Trang chào hỏi Địch Xương, đang định giới thiệu Lý Thiền thì Lý Thiền đã vội vàng lên tiếng. “Tại hạ Lý Sâm, là sĩ tử đi theo pháp sư đến Đôn Hoàng bái Phật.”
Địch Pháp Nhượng và Địch Xương nhìn nhau một cái, chỉ cười cho qua.
Mọi người ngồi xuống trong thiền đường của Địch Pháp Nhượng, Huyền Trang liền lập tức hỏi. “Thiền sư Pháp Nhượng, xin hỏi ngài làm sao biết bần tăng đến nhà cũ của Lữ thị ở phường Thành Hóa?”
“Là Hoằng Nghiệp nói với bần tăng.” Địch Pháp Nhượng không hề che giấu.
Địch Xương nói thản nhiên. “Kì thực tại hạ cùng với pháp sư đã gặp mặt ở trạm dịch châu thành, vốn lúc ấy đã định mời pháp sư, có điều phải nghênh đón Lâm Giang Quận vương trước, không ngờ sau đó pháp sư lại vội vã rời đi.”
Huyền Trang hiểu ra, thảo nào nhìn Địch Xương này hơi quen quen.
“Căn nhà cũ kia của Lữ thị có chút không sạch sẽ,” Địch Xương cười nói. “Tại hạ nghe nói pháp sư hỏi thăm Lữ Thịnh, đến phường Thành Hóa, thấy hơi lo lắng nên liền vội vàng đến mời thúc phụ đứng ra.”
Huyền Trang nhìn ông ta một cái đầy thâm ý, không hề hỏi ông ta vì sao biết mình hỏi thăm Lữ Thịnh, có một số việc cứ lập lờ một chút sẽ tốt hơn.
“Kì thực ngươi lo lắng cũng thừa.” Địch Pháp Nhượng mỉm cười. “Lúc lão tăng đến Lữ trạch, pháp sư đã đăng đường nhập thất, xông qua hai sân vào đến chính đường rồi. Những thứ không sạch sẽ đó đối với pháp sư mà nói thì không khác gì là múa rìu qua mắt thợ.”
Địch Xương hết sức kinh ngạc. “Không ngờ pháp sư lại có bản lĩnh bậc này!”
“Đây đều là tiểu thuật mà thôi.” Huyền Trang lắc đầu. “Địch gia chủ, bần tăng muốn thỉnh giáo một chút, rốt cuộc Lữ Thịnh đã xảy ra chuyện gì? Tại sao trong nhà hắn lại bố trí loại pháp trận cơ quan đáng sợ ấy?”
Địch Xương nhẹ nhàng thở ra một hơi. “Đã mời pháp sư đến, tự nhiên sẽ nói rõ nguyên do. Chỉ có điều… không biết pháp sư và Lữ Thịnh kia là quan hệ gì?”
“Lữ Thịnh được xưng Trường An vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân. Bần tăng tu đạo ở Trường An, tự nhiên là biết, có điều cũng chỉ từng gặp vài lần ít ỏi mà thôi.” Huyền Trang nói sơ qua. “Nghe nói hắn đã đến Đôn Hoàng làm quan, bần tăng đến Tây Sa Châu liền tới thăm hỏi.”
“Vũ Đức đệ nhất nhân?” Lý Thiền hơi ngạc nhiên. “Sư phụ, lời này hơi phạm vào điều kiêng kị.”
Huyền Trang xua tay. “Không ngại, lời này là Thái thượng hoàng chính miệng nói ra năm Vũ Đức thứ sáu. Năm đó Đại Đường lần đầu mở khoa cử, Lữ Thịnh một lần đoạt được song Trạng nguyên khoa Tú tài và khoa Tiến sĩ. Khi ấy là thời Vũ Đức, Thái thượng hoàng liền nói những lời này.”
Lý Thiền lập tức sửng sốt. Năm đó lúc Lữ Thịnh danh chấn Trường An, Lý Thiền còn đang ở quê nhà Thành Kỷ tại Lũng Tây; khi Đại Đường đã bình định thiên hạ, hắn chuyển đến Trường An thì Lữ Thịnh đã như sao băng bùng cháy, lóe lên rồi biến mất nơi thành Trường An. Vì vậy Lý Thiền mới chưa từng nghe về danh tiếng của hắn.
“Trường An vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân.” Địch Xương lẩm bẩm nhắc lại, vẻ mặt lại có chút thương cảm. “Thì ra pháp sư vẫn chưa biết, Lữ Thịnh đó đã chết ngay từ năm Vũ Đức thứ chín rồi.”
“Chết rồi?” Cho dù Huyền Trang đã có chuẩn bị tâm lý cũng không nhịn được chấn động trong lòng, mặt biến sắc hỏi. “Sao lại có thể như vậy được? Năm Vũ Đức thứ tám hắn vừa mới được điều đến Đôn Hoàng, làm sao lại chết?”
Địch Xương và Địch Pháp Nhượng nhìn nhau một cái, đều thở dài một hơi.
Địch Xương trầm giọng nói, “Mưu phản!”
“Cái gì?” Huyền Trang kinh ngạc.
Lý Thiền bên cạnh cũng cứng họng. “Mưu… mưu phản? Khôi nguyên hai khoa của Đại Đường đi mưu phản? Mưu phản ở một châu nơi biên giới như Đôn Hoàng?”
Câu hỏi của Lý Thiền cũng chính là nghi vấn của Huyền Trang, ngài không nói gì, ánh mắt nhìn Địch Xương chằm chằm. Sắc mặt Địch Xương trông hơi khó coi, thở dài một tiếng. “Tháng Ba năm Vũ Đức thứ tám, Lữ Thịnh được điều đến Tây Sa Châu làm Lục sự tham quân. Tháng Sáu năm Vũ Đức thứ chín, Dục Cốc Thiết của Đông Đột Quyết xuất binh từ Y Ngô, dọc theo đường Sáo Can xâm nhập phía nam, phá phòng tuyến Hàm Tuyền Thú, cách Đôn Hoàng ba trăm dặm. Sau khi nhận được khói lửa cấp báo, Thứ sử Tây Sa Châu khi ấy là Đỗ Dữ xuất binh, dùng Trấn tướng Tử Kim Hoàng Tục Chương làm tiên phong, Lữ Thịnh làm giám quân, dẫn năm trăm binh sĩ hành quân suốt đêm đến khe núi Thanh Đôn cách hai trăm dặm, đóng quân tại Thanh Đôn Thú.”
Địch Xương chậm rãi kể lại phong vân Đôn Hoàng cùng khói lửa đại mạc của ba năm trước, dường như trong thiền phòng này vẫn có thể ngửi thấy mùi khói lửa và mùi máu tanh, mọi người không ai nói lời nào.
“Đêm hôm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, không có ai tận mắt nhìn thấy, nhưng theo tàn binh trốn về nói thì Hoàng Trấn tướng lập phòng ngự ở Thanh Đôn Thú, muốn chặn đứng người Đột Quyết tại khe Thanh Đôn. Nhưng tối hôm ấy Lữ Thịnh lại một mình rời khỏi trạm dịch, sau đó đưa một đội buôn vào. Kết quả đội buôn kia lại là người Đột Quyết giả trang, nửa đêm đột nhiên nổi loạn cướp Thanh Đôn Thú. Sau đó đại quân Đột Quyết trong ngoài giáp công, quân Đường đại loạn, Hoàng Trấn tướng chết trận tại chỗ. Quân Đường còn sót lại giận dữ chém chết Lữ Thịnh trước trận rồi trốn vào trong đại mạc.”
"""