🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 75 Năm Thành Tựu Phát Triển Kinh Tế – Xã Hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG
Phó Chủ tịch Hội đồng
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
PHẠM THỊ THINH
NGUYỄN ĐỨC TÀI
TRẦN THANH LÂM
NGUYỄN HOÀI ANH
Đồng chủ biên
TS. ĐỖ QUANG DŨNG TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ
Tập thể tác giả
TS. ĐỖ QUANG DŨNG TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG TS. ĐÀO XUÂN THỦY ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ ThS. NGUYỄN MINH HUỆ NGUYỄN THU OANH LÊ TUẤN ANH
NGUYỄN THỊ KIM THOA
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kể từ đó, trải qua 75 năm, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, thử thách, hy sinh, chiến đấu kiên cường, dũng cảm giữ vững nền tự do và độc lập; cần cù, bền bỉ, sáng tạo trong lao động và đã giành được những thành quả
to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Nhằm giới thiệu với bạn đọc những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã đạt được trong 75 năm qua, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách 75 năm thành tựu phát triển kinh tế - xã hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của tập thể tác giả
biên soạn do TS. Đỗ Quang Dũng, TS. Nguyễn Thị Hương và ThS. Phạm Thị Kim Huế đồng chủ biên. Nội dung cuốn sách gồm bốn phần:
Phần thứ nhất: Nghìn xưa văn hiến, truyền thống anh hùng;
5
Phần thứ hai: Kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất non sông (1945-1975);
Phần thứ ba: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1975-1986);
Phần thứ tư: Thành tựu kinh tế - xã hội sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986-2020). Cuốn sách giới thiệu khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử Việt Nam từ thời sơ khởi đến năm 1945, phần nội dung chính tập trung giới thiệu các thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Do cuốn sách giới thiệu các thành tựu kinh tế - xã hội của nước ta trong một thời kỳ lịch sử khá dài nên nội dung cuốn sách không tránh khỏi còn những hạn chế, thiếu sót, Nhà xuất bản và các tác giả biên soạn rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc để hoàn thiện
nội dung cuốn sách trong những lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc!
Tháng 10 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6
Phần thứ nhất
NGHÌN XƯA VĂN HIẾN,
TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG
Chương 1
ĐẤT NƯỚC VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Vị trí địa lý, lãnh thổ đất liền và trên biển
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay có diện tích đất liền1 là 331.235,97 km2, chưa kể các hải đảo, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nước Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, phía tây ___________
1. Theo Quyết định số 2908/QĐ-BTNMT ngày 13/11/2019 của Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2018.
7
giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Campuchia, phía đông và đông nam nhìn ra Biển Đông và Thái Bình Dương. Bờ biển Việt Nam dài 3.260 km, biên giới đất liền dài 4.510 km. Trên lãnh thổ đất liền, từ điểm cực bắc đến điểm cực nam dài 1.650 km (theo đường chim bay), từ điểm cực đông sang điểm cực tây, nơi rộng nhất ở Bắc Bộ là 600 km, ở Nam Bộ 400 km, nơi hẹp nhất (ở Quảng Bình) 50 km. Dọc theo ven biển, Việt Nam có hàng nghìn đảo lớn nhỏ, gồm các đảo trong vịnh Bắc Bộ, các đảo dọc theo miền Trung và các đảo trong vịnh Thái Lan. Giữa Biển Đông, Việt Nam có hai quần đảo Hoàng Sa (huyện Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng) và Trường Sa (huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa).
Lãnh thổ quốc gia Việt Nam hình thành qua quá trình lịch sử, được định hình, xác lập khá sớm và vững vàng. Trong thời đại dựng nước, lãnh thổ của nước Văn Lang, Âu Lạc là vùng bắc Việt Nam bao gồm vùng Bắc Bộ có phần lan rộng lên phía bắc, và bắc Trung Bộ cho đến Hoành Sơn. Đó là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ, chủ yếu là người Lạc Việt ở đồng bằng, trung du và người Âu Việt ở
miền núi. Thời đó, lãnh thổ giữa các quốc gia chưa có đường biên giới mà là vùng biên phân cách một cách tương đối. Từ cái nôi quốc gia - dân tộc ban đầu đó, lãnh thổ nước ta được mở rộng về phía
8
Nam và xác lập ngày càng rõ ràng. Cho đến đầu thế kỷ XIX, và thời Nguyễn, quốc gia thống nhất được xác lập trên lãnh thổ có diện tích gần như tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại. Từ thời điểm đó, tất cả âm mưu chia cắt, lập thành vùng tự trị hay quốc gia riêng biệt của chủ nghĩa thực dân đều bị thất bại. Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước giành lại trọn vẹn nền độc lập, thống nhất trên lãnh thổ mà tổ tiên đã khai phá, mở mang và bảo vệ.
2. Địa hình
Địa hình nước ta rất đa dạng, phong phú, gồm cả đồi núi, cao nguyên, đồng bằng, đất ngập mặn, đất cát ven biển... với hệ thống sông ngòi chằng chịt. Đồi núi chiếm khoảng hơn 3/4 diện tích, đồng bằng không quá 1/4 diện tích đất tự nhiên. Từ Bắc vào Nam hay từ miền đồng bằng ven biển lên miền núi rừng, cao nguyên, thiên nhiên phân hóa rất sâu sắc theo chiều kinh tuyến và theo độ cao của địa hình.
3. Tài nguyên thiên nhiên
Lịch sử cấu tạo địa chất lâu dài và những vận động kiến tạo phức tạp đã tạo nên kho tài nguyên khoáng sản rất phong phú về chủng loại, nhưng khá phức tạp về cấu trúc trong lòng đất nước ta.
9
Khoáng sản nhiên liệu - năng lượng có dầu, khí thiên nhiên, đến nay đã xác định được 8 bể trầm tích với tổng diện tích gần 1 triệu km2 và trữ lượng dự báo có thể từ 4-5 tỷ đến 10 tỷ tấn quy dầu; tiềm năng tài nguyên than đá khoảng 7 tỷ tấn, lớn nhất là bể than Đông Bắc, chủ yếu là ở Quảng Ninh. Khoáng sản kim loại có kim loại đen như sắt, mangan, crôm...; các loại kim loại màu và kim loại quý hiếm như: đồng, chì, kẽm, thiếc, vonfram, bôxít, titan, vàng... Khoáng sản không kim loại có apatit, photphorit, pyrit, đá quý, đá
vôi, cao lanh, cát thủy tinh, sét xi măng... Đến nay, kết quả thăm dò đã phát hiện được khoảng 5.000 mỏ và điểm quặng của hơn 60 chủng loại khoáng sản. Phần lớn các mỏ có trữ lượng trung bình và nhỏ, nhưng cũng có một số loại khoáng sản có trữ lượng lớn, chất lượng tốt. Tài nguyên đất của nước ta cũng rất đa dạng. Đồng bằng phù sa châu thổ lớn nhất có đồng bằng sông Hồng rộng 1,5 triệu ha, đồng bằng sông Cửu Long rộng 4 triệu ha, đất đai rất phì nhiêu, và một số đồng bằng ven biển miền Trung. Tổ tiên ta đã sớm khai phá vùng đồng bằng, phát triển nông nghiệp lúa nước và đạt năng suất khá cao. Cùng với đất phù sa châu thổ, nước ta còn có đất đỏ bazan miền đồi núi với khoảng 3 triệu ha, rất thích hợp để phát triển các loại cây công nghiệp.
10
Ngoài ra còn các loại đất phèn, đất mặn, đất cát ven biển, các loại đất vùng đồi núi...
Nguồn nước dồi dào tạo nên trên đất nước ta một mạng lưới sông ngòi dày đặc, trung bình khoảng 0,5 - 1,0 km/km2. Dọc bờ biển, trung bình 20 km có một cửa sông. Cả nước có 2.360 sông, suối dài trên 10 km. Tổng lưu lượng dòng chảy của các sông trung bình là 880 km3/năm, trong đó 325 km3 là lưu lượng dòng chảy sinh ra trên lãnh thổ nước ta, chiếm 37% tổng lưu lượng dòng chảy năm. Nói cách khác, 63% lưu lượng dòng chảy sinh ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đó là do thế núi liền núi, sông liền sông với các nước láng giềng, thuận tiện cho giao thông đường sông trong khu vực, nhưng cũng đặt ra vấn đề an ninh quốc gia nếu tài nguyên nước ở thượng nguồn bị khai thác mạnh hoặc bị ngăn dòng, cùng với tình trạng xâm nhập mặn ngày càng tăng, làm ảnh hưởng lớn đến nguồn nước ở
nước ta nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Nói chung, mạng lưới sông ngòi dày đặc tạo nên một hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện và là nguồn cung thủy sản, năng lượng quan trọng, mang lại những giá trị kinh tế rất lớn. Đây là cơ sở tạo nên các đồng bằng châu thổ, tài nguyên nước mặt, phát triển giao thông, vận tải đường sông, sông - biển ven bờ.
11
Nước ta là một nước nhiệt đới gió mùa ẩm. Nằm trong vành đai nhiệt đới bắc bán cầu, quanh năm nước ta nhận một lượng nhiệt mặt trời rất lớn. Số giờ nắng hằng năm nơi ít nhất là 1.200 giờ, nơi nhiều nhất có thể trên 2.000 giờ. Nhiệt độ
trung bình năm là 22-27oC.
Lượng mưa hằng năm khá lớn. Lượng nước mưa trung bình năm là 1.500-2.000 mm, ở vùng đồng bằng là 1.500 mm, miền núi có thể lên đến 2.000-3.000 mm. Lượng nước mưa vượt quá khả
năng bốc hơi, nơi thừa ít là 500-700 mm, nơi thừa nhiều đến 1.000-2.000 mm. Độ ẩm không khí cao, thường trên 80%. Ngoài ra, có một số vùng khô hạn như Ninh Thuận, Bình Thuận lượng mưa chỉ
khoảng 700-800 mm mỗi năm.
Hai yếu tố nhiệt và ẩm cao tạo nên tính chất nhiệt đới ẩm của khí hậu Việt Nam. Ngoài ra, gió mùa gây ra sự phân hoá theo mùa rõ rệt, hình thành hai mùa khí hậu: mùa mưa và mùa khô, miền Bắc thêm mùa nóng và mùa lạnh. Sự giao tranh giữa các hệ thống nhiệt đới và gió mùa còn làm cho khí hậu biến động mạnh và phân hoá rất phức tạp theo không gian và thời gian. Những đặc điểm trên làm cho khí hậu nước ta vừa có những thuận lợi của khí hậu nhiệt đới, vừa có những nét đặc sắc của khí hậu á nhiệt đới. Điều kiện tự nhiên đó làm cho cây cối quanh năm xanh tươi,
12
cho phép trồng trọt các loại cây vùng nhiệt đới, cận nhiệt, trên các vùng núi nhất là ở phía Bắc có thể trồng các cây ôn đới. Đặc biệt có thể xen canh, gối vụ, tăng vụ đến ba bốn vụ.
Nước ta ở vào góc đông nam của đại lục châu Á, nhìn ra Biển Đông với đường bờ biển dài chạy từ đông bắc xuống tây nam; bình quân cứ 100 km2 lãnh thổ đất liền có gần 1 km bờ biển. Vùng lãnh hải nước ta cũng là một kho tài nguyên khổng lồ, nước biển là một nguyên liệu có giá trị, thủy triều là nguồn năng lượng lớn, nhiều loại hải sản và tài nguyên, khoáng sản ở thềm lục địa. Đường bờ biển dài tạo điều kiện thuận lợi phát triển giao thông đường biển trong nước và ngoài nước, xây dựng hệ
thống cảng biển và những khu nghỉ mát, du lịch. Vị trí địa lý cùng hệ thống sông ngòi và bờ biển dài tạo nên vị thế trung tâm giao thông đường thủy thuận lợi và vị thế địa chính trị mang tính chiến lược của Việt Nam ở khu vực Đông Nam Á.
Rừng nước ta ngày nay chiếm gần một nửa diện tích đất đai. Các hệ sinh thái rừng cũng đa dạng và phong phú, trong đó các hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa là tiêu biểu và phổ biến nhất với kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường xanh, kiểu rừng nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá, kiểu rừng nhiệt đới gió mùa rụng lá... Trong rừng có nhiều loại thảm thực vật quan trọng và có giá trị nhiều mặt, tập trung đến hơn
13
hai phần ba số loài thực vật với khoảng 700-800 loài thân gỗ, khoảng 3.000 loài thực vật khác, đặc biệt là khoảng 1.300 loại cây dược liệu.
Giới thực vật nước ta rất đa dạng. Theo kết quả điều tra gần đây, cả nước có 14.624 loài thực vật thuộc khoảng 300 họ. Trong đó có khoảng 1.000 loài đặc hữu chỉ tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam và khoảng hơn 1.000 loài gần đặc hữu tìm thấy rất hạn chế ở các vùng lân cận. Nước ta ở vào một trong những trung tâm nguồn gốc cây trồng quan trọng nhất trên thế giới, gọi là trung tâm Đông Dương. Đây là nơi phát sinh một số cây trồng như lúa, khoai sọ, dừa, chuối, mít, trầu, hồi, cọ..., nhiều cây thuốc và cây lâm nghiệp.
Giới động vật nước ta cũng rất phong phú. Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy, có đến 11.217 loài và phân loài. Việt Nam là quê hương của một số loài chim và thú rừng đặc hữu không thấy ở các nơi khác trên thế giới. Nhiều loại động vật có giá trị
kinh tế, nhiều loài đặc hữu có thể nghiên cứu để phát triển chăn nuôi, giúp nâng cao đời sống người dân.
Nhìn chung, đất nước ta là một xứ sở nhiệt đới giàu có và tươi đẹp. Đất, nước, nhiệt lượng, ánh sáng, tài nguyên, khoáng sản, thực vật, động vật... vô cùng phong phú và nhiều hình nhiều vẻ. Về
mặt đó, có thể nói thiên nhiên đã ưu đãi dân tộc 14
ta. Đó là mặt thuận lợi cơ bản để phát triển sản xuất, xây dựng đất nước giàu mạnh. Dĩ nhiên còn phải bằng lao động cần cù, đấu tranh gian khổ, con người Việt Nam mới khai thác được những thuận lợi của thiên nhiên, biến những tài nguyên của đất nước thành của cải phục vụ đời sống. Đồng thời chúng ta phải biết cách chung sống với thiên nhiên, thân thiện với thiên nhiên, luôn luôn chăm lo bảo tồn môi trường sinh thái tự nhiên. Việc khai thác tài nguyên thiếu kế hoạch trong thời gian gần đây đã dẫn đến tàn phá rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn ven biển, làm ô nhiễm môi trường... mà chúng ta đang phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề, cần phải ra sức ngăn chặn và khắc phục tình trạng này.
Bên cạnh mặt thuận lợi cơ bản, thiên nhiên Việt Nam cũng đặt ra không ít khó khăn, trở ngại, có khi đe dọa nghiêm trọng cuộc sống và thành quả lao động của người dân. Đấy là mặt khắc nghiệt, mặt thử thách của thiên nhiên đối với con người. Lũ, lụt, hạn, úng, bão, sâu bệnh... bấy nhiêu thiên tai thường xuyên đe dọa cuộc sống của nhân dân ta, vốn chủ yếu là cư dân nông nghiệp. Điều kiện thiên nhiên đã tác động nhiều đến cuộc sống và văn hóa dân tộc, đến một số đặc điểm phát triển của lịch sử Việt Nam. Cuộc đấu tranh gần như thường xuyên chống thiên tai là một cuộc vật
15
lộn vô cùng ác liệt với thiên nhiên, vừa đòi hỏi con người phải liên kết lại trong cộng đồng, tạo nên sức mạnh để vượt qua thử thách, vừa rèn luyện tinh thần lao động cần cù, kiên nhẫn kết hợp với lòng dũng cảm, trí thông minh.
16
Chương 2
CON NGƯỜI VÀ CỘNG ĐỒNG
CÁC DÂN TỘC
Trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay, khoảng 50 vạn năm trước đây đã có dấu vết cuộc sống của con người. Từ hậu kỳ đá cũ, qua các giai đoạn phát triển của thời kỳ đồ đá, Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là nơi sinh sống và tiếp xúc, hòa huyết của người da đen phương Nam với người da vàng dẫn đến sự xuất hiện của người Mongoloid phương Nam, thường gọi là người Indonesian. Đó là các lớp cư dân nguyên thủy đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam với các nhóm nhân chủng mang yếu tố đen, vàng, đậm, nhạt khác nhau.
Vào thời kỳ phát triển cao của đồ đồng và đồ sắt sớm, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã xuất hiện những trung tâm văn minh và hình thái nhà nước đầu tiên. Đó là những cộng đồng quốc gia nhiều tộc người. Ở vào vị trí ngã tư các đường giao thông thủy bộ tự nhiên của vùng Đông Nam Á lục địa nối liền với lục địa châu Á và thông với vùng Đông Nam Á hải đảo, Việt Nam là nơi gặp gỡ của nhiều luồng thiên di cư dân, từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang
17
Đông, cũng như từ lục địa ra hải đảo và từ hải đảo vào lục địa. Vì vậy bên cạnh cư dân bản địa, đất nước ta đón nhận nhiều lớp cư dân nhập cư qua các thời kỳ lịch sử. Trải qua các thời đại, tính đa tộc người càng gia tăng với sự nhập cư của những tộc người mới và sự phân hóa bên trong của một số tộc người.
Dựa trên kết quả điều tra, xác minh thành phần các dân tộc, ngày 02/3/1979, Chính phủ đã ban hành Bảng danh mục 54 thành phần dân tộc ở Việt Nam. Về phương diện ngôn ngữ, 54 dân tộc thuộc 4 ngữ hệ chính như sau:
- Ngữ hệ Nam Á gồm 32 ngôn ngữ:
+ Nhóm Việt - Mường (4 ngôn ngữ): Việt, Mường, Thổ, Chứt.
+ Nhóm Môn - Khmer (21 ngôn ngữ): Khmer, Bana, Xơđăng, Cơho, Hơrê, Xtiêng, Bơru - Vân Kiều, Cơtu, Khơmú, Tà Ôi, Mạ, Co, Giẻ Triêng, Xinh Mun, Chơro, Mảng, Kháng, Rơmăm, Ơđu, Brâu, Mnông.
+ Nhóm Mông - Dao (3 ngôn ngữ): Mông (trước đây thường gọi là Mèo), Dao, Pa Thẻn. + Nhóm Kađai1 (4 ngôn ngữ): Lachi, Laha, Cơlao, Pupéo.
___________
1. Về nhóm này, giới ngôn ngữ còn có ý kiến khác nhau. Có người xếp vào ngữ hệ Thái, có người tách ra thành nhóm hỗn hợp nằm giữa ngữ hệ Thái và Nam Á hay Nam Đảo.
18
- Ngữ hệ Thái gồm 8 ngôn ngữ: Tày, Thái, Nùng, Sán Chay, Giáy, Lào, Lự, Bố Y. - Ngữ hệ Mã Lai - Đa đảo hay còn gọi là Nam Đảo, gồm 5 ngôn ngữ: Giarai, Êđê, Chăm, Raglai, Churu.
- Ngữ hệ Hán - Tạng gồm 9 ngôn ngữ: + Nhóm Hán (3 ngôn ngữ): Hoa (hay Hán), Sán Dìu, Ngãi.
+ Nhóm Tạng - Miến (6 ngôn ngữ): Hà Nhì, Phù La, La Hủ, Lô Lô, Cống, Si La. Trên thực tế, còn có những nhóm dân tộc rất ít người chưa xác định rõ thành phần dân tộc và trong một số vùng, nhóm địa phương của một số dân tộc cũng có xu hướng tách thành những tộc người riêng.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tính đến ngày 01/4/2019, cả nước có 96.208.984 người, trong đó, dân tộc Việt (Kinh) có 82.085.729 người, chiếm 85,32% dân số. Người Việt vừa tập trung ở vùng đồng bằng, đô thị, vừa lan tỏa lên trung du và miền núi. Do ưu thế về số lượng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội, dân tộc Việt luôn luôn giữ vai trò trung tâm đoàn kết, tập hợp các thành phần dân tộc thiểu số trong cộng đồng quốc gia - dân tộc.
53 dân tộc thiểu số chiếm 14,68% dân số cả nước. Về mặt hình thái cư trú, các dân tộc ở Việt
19
Nam không cư trú tập trung thành từng vùng lãnh thổ riêng biệt mà phổ biến là sống đan xen. Hầu hết các dân tộc thiểu số đều cư trú trên địa bàn miền núi và trung du. Tính tập trung tương đối và tính đan xen phổ biến là nét đặc trưng của sự phân bố cư dân các dân tộc ở Việt Nam trên phạm vi cả nước cũng như trong từng địa phương. Trong mấy thập kỷ gần đây, do sự phát triển kinh tế và những đợt di dân, hình thái cư trú đan xen lại càng tăng lên. Hiện nay, nhiều tỉnh có trên dưới 20 dân tộc sinh sống, và thủ đô Hà Nội (mở rộng từ ngày 01/8/2008), Thành phố Hồ Chí Minh cũng có thành phần dân tộc thiểu số.
Quá trình cộng cư lâu dài và hình thái cư trú đan xen đã góp phần thúc đẩy quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, quá trình xích lại gần nhau giữa các dân tộc chung sống trên một địa bàn. Thêm vào đó, một đặc điểm lịch sử hết sức quan trọng là yêu cầu liên kết cộng đồng trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, nhất là chống ngoại xâm, tạo lập nên xu hướng chủ yếu ở Việt Nam là sự cố kết, hòa hợp dân tộc. Mỗi dân tộc đều có tiếng nói và vốn văn hóa riêng, tạo nên tính đa dạng của văn hóa Việt Nam. Cơ cấu đa dân tộc là một cơ sở quan trọng của tính đa dạng văn hóa, nhưng do đặc điểm cư trú xen kẽ nên không hình thành vùng địa - văn hóa theo dân tộc. Có dân tộc như
20
Thái, Tày, Nùng... trong quá trình di cư đã có mặt trên rất nhiều tỉnh từ miền Bắc đến Tây Nguyên, Nam Bộ. Trong thành phần các dân tộc nước ta, có những dân tộc rất ít người với dân số dưới 1.000 người như Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu. Trên phạm vi cả nước cũng như trong từng vùng, các thành phần dân tộc vừa bảo tồn di sản văn hóa dân tộc của mình với tiếng nói, lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng riêng, vừa góp phần xây dựng nền văn hóa dân tộc thống nhất trong tính đa dạng.
21
Chương 3
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ
1. Những nền văn hóa tiền sử
Trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay, các nền văn hóa tiền sử bắt đầu từ khi con người xuất hiện khoảng trên dưới 50 vạn năm trước cho đến khi hình thành các nhà nước sơ khai vào thời kỳ
kim khí.
Sau dấu tích của sơ kỳ đá cũ gắn liền với sự xuất hiện của con người, vào hậu kỳ đá cũ diễn ra sự tiến hóa từ người Homo-erectus lên Homo sapien. Trong lúc di tích sơ kỳ đá cũ còn cần xác định thêm thì dấu vết hậu kỳ đá cũ đã tìm thấy trong văn hoá Ngườm và văn hóa Sơn Vi, có niên đại cách ngày nay khoảng từ 30.000-20.000 đến 12.000-11.000 năm. Đặc trưng nổi bật của văn hoá Sơn Vi là dùng cuội để chế tác công cụ. Con người sống bằng hái lượm và săn bắt trong môi trường khí hậu nóng và ẩm, hệ sinh thái phong phú, đa dạng.
Từ văn hoá Sơn Vi phát triển lên văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn thuộc sơ kỳ đá mới cách ngày nay
22
khoảng trên dưới 1 vạn năm. Văn hoá Hoà Bình phân bố rộng khắp vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo mà ở Việt Nam đã tìm thấy cội nguồn của dòng kỹ nghệ công cụ cuội từ văn hoá Sơn Vi. Từ
cuối văn hóa Hoà Bình sang Bắc Sơn, con người đã biết làm đồ gốm và qua phân tích bào tử phấn hoa của cây trồng cùng sự có mặt của rìu mài đá, cuốc đá, có thể họ đã biết trồng trọt để rồi phát triển thành nông nghiệp trồng lúa nước trong những văn hoá sau đó. Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những trung tâm phát sinh sớm của nghề trồng trọt trên thế giới.
Tiếp theo sau văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn, khi thời kỳ biển tiến chấm dứt và biển bắt đầu rút đi, các đồng bằng châu thổ, đồng bằng ven biển bắt đầu hình thành cùng các đầm lầy, vũng vịnh, cửa sông thì các lớp cư dân nguyên thủy chuyển cư
xuống vùng ven biển, để lại dấu tích qua nhiều văn hoá và di tích khảo cổ học. Đó là các di tích văn hoá tồn tại trong khoảng cách ngày nay 7.000 đến 4.000 năm.
Cách ngày nay khoảng 4.000-5.000 năm, văn hoá hậu kỳ đá mới phân bố rộng khắp lãnh thổ Việt Nam, từ Bắc chí Nam, từ miền núi rừng đến đồng bằng châu thổ, từ đất liền đến hải đảo. Đây là lúc biển lùi và quá trình bồi tụ đã hình thành nên đồng bằng châu thổ sông Hồng và nhiều đồng
23
bằng ven biển khác. Các lớp cư dân nguyên thủy từ miền đồi núi và chân núi tiến xuống khai phá vùng đồng bằng theo lối quai đê lấn biển. Đồng bằng hình thành đến đâu thì con người lan tỏa đến đó. Nền nông nghiệp trồng lúa nước phát triển mạnh mẽ với các bộ lạc và xóm làng nông nghiệp định cư, kết hợp nghề nông với các nghề thủ công và săn bắn, hái lượm, chăn nuôi, đánh cá... Con người đã biết nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm như trâu, bò, chó, lợn, gà, vịt... Ở Việt Nam cũng như cả vùng Đông Nam Á, nghề chăn nuôi kết hợp với trồng trọt chứ không tách ra thành một ngành kinh tế riêng. Trong hệ sinh thái nhiệt đới ẩm rất phong phú, đa dạng, con người tận dụng điều kiện tự nhiên để phát triển một nền kinh tế nông nghiệp mang tính liên kết nhiều ngành nghề, lấy trồng lúa nước làm chủ đạo.
2. Những trung tâm văn minh và nhà nước sơ khai đầu tiên
2.1. Văn hóa Đông Sơn và nước Văn Lang - Âu Lạc
Văn hoá Đông Sơn phân bố rộng khắp miền Bắc Việt Nam, từ lưu vực sông Hồng đến sông Mã, sông Lam và tồn tại trong khoảng thế kỷ VII, VIII trước Công nguyên đến thế kỷ I, II sau Công
24
nguyên. Đó là đỉnh cao phát triển của đồ đồng và đã chuyển sang sơ kỳ đồ sắt, kết quả hội tụ của nhiều dòng văn hoá tiền Đông Sơn thuộc thời đại đồ đồng. Trên lưu vực sông Hồng, các văn hoá tiền Đông Sơn hình thành một diễn biến văn hoá khá liên tục, biểu thị tính địa phương rõ ràng, phản ánh cuộc sống của các cộng đồng cư dân trong từng khu vực, có thể là bộ lạc hay liên minh bộ
lạc. Đến văn hoá Đông Sơn, dĩ nhiên các loại hình địa phương vẫn tồn tại, nhưng tính thống nhất văn hoá trở nên đặc điểm chi phối. Tất cả các di tích văn hoá Đông Sơn tìm thấy ở mọi vùng đều mang những đặc trưng chung biểu thị trong các loại hình di vật gồm công cụ sản xuất: rìu, cuốc, xẻng, lưỡi cày; vũ khí: rìu chiến, dao găm, mũi tên, mũi giáo...; đồ dùng: thạp, thố, muôi...; đồ
trang sức: vòng tay, khuyên tai...; trong kỹ thuật đúc đồng, rèn đúc sắt; trong nghệ thuật trang trí... Trong văn hoá Đông Sơn, trống đồng loại I theo phân loại Heger hay còn gọi là trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu nhất, vừa là nhạc cụ, vừa là tượng trưng quyền uy của thủ lĩnh. Văn hoá Đông Sơn và trống đồng phân bố trên phạm vi rộng lớn gồm nam Trung Quốc và nhiều nước Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Campuchia, Malaysia..., trong đó miền Bắc Việt Nam và nam Trung Quốc là hai trung tâm sớm nhất.
25
Trên cơ sở kỹ thuật đồ đồng và đồ sắt sơ kỳ của văn hoá Đông Sơn, nền kinh tế phát triển lên trình độ nông nghiệp dùng cày kim loại và sức kéo của trâu, bò, phân hoá xã hội càng ngày càng gia tăng, tạo tiền đề cho sự hình thành nhà nước. Quá trình thống nhất văn hoá Đông Sơn cũng là quá trình liên kết các cộng đồng người Việt cổ (Lạc Việt và Âu Việt) để hình thành nhà nước sơ khai. Đó là nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời vào khoảng thế kỷ VII trước Công nguyên và tiếp theo là nước Âu Lạc đời An Dương Vương tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ III đầu thế kỷ II trước Công nguyên. Nước Âu Lạc còn để lại dấu tích kinh thành Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội) với ba vòng thành dài trên 16 km.
2.2. Văn hóa Sa Huỳnh và nhà nước Lâm Ấp (Chămpa)
Các di tích văn hoá Sa Huỳnh thường được tìm thấy trên các gò đồi và cồn cát ven biển, phân bố ở miền Trung từ Quảng Trị đến Bình Thuận, vào đến miền Đông Nam Bộ. Nền văn hoá này gồm giai đoạn tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh, phát triển từ sơ kỳ thời đại đồ đồng đến sơ kỳ thời đại đồ sắt, tồn tại trong thiên niên kỷ II và I trước Công nguyên đến thế kỷ đầu Công nguyên. Trong văn hoá Sa Huỳnh, di vật tìm thấy thường là các mộ
26
chum, đồ gốm màu đỏ và màu chì, nhiều đồ sắt như dao, rìu, thuổng và đồ trang sức đa dạng... Sống trên những đồng bằng hẹp ven biển miền Trung, cơ sở kinh tế của cư dân Sa Huỳnh là nông nghiệp trồng lúa nước dùng cuốc kết hợp với nghề
luyện kim, nấu thủy tinh, làm đồ gốm, dệt vải, nghề rừng, nghề biển, nghề buôn bán, trao đổi sản phẩm qua đường bộ và đường biển.
Văn hoá Sa Huỳnh là cơ sở để vào đầu Công nguyên hình thành nhà nước sơ khai dưới dạng các tiểu quốc mà trong truyền thuyết và văn bia cổ nói đến là Cau và Dừa, cư trú trên địa bàn văn hoá Sa Huỳnh. Từ những nhà nước sơ khai này, vào cuối thế kỷ II, trong cuộc đấu tranh chống nền đô hộ của nhà Hán, hình thành vương quốc Chămpa cổ đầu tiên mang tên phiên âm chữ Hán là Lâm Ấp.
2.3. Văn hóa Óc Eo và nhà nước Phù Nam
Trên miền đất Nam Bộ, nhất là trên lưu vực sông Đồng Nai, Vàm Cỏ trong thiên niên kỷ II và I trước Công nguyên, khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích văn hoá Đồng Nai phát triển từ sơ kỳ
đồ đồng đến sơ kỳ đồ sắt. Vào những thế kỷ trước và đầu Công nguyên, nền văn hoá Óc Eo ra đời và phát triển trên lưu vực sông Hậu, sông Tiền đến thượng lưu sông Đồng Nai. Di tích gồm di chỉ cư
27
trú với cọc gỗ nhà sàn, kiến trúc tôn giáo như nền móng đền tháp, di tích mộ táng... Di vật tìm thấy rất phong phú, từ vật liệu kiến trúc như gạch, đá; đồ dùng bằng gốm; đồ trang sức bằng đá quý, vàng bạc chạm khắc tinh vi; những tượng bằng gỗ, đất nung, đồng thau; những con dấu, đồng tiền và những lá vàng có khắc chữ cổ... Địa bàn văn hoá Óc Eo nằm bên “con đường tơ lụa trên biển” nên sớm có quan hệ giao lưu với Trung Quốc, Ấn Độ và cả thế giới La Mã. Văn hoá Óc Eo chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Độ.
Văn hoá Óc Eo từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ VI, VII gắn liền với sự tồn tại của một vương quốc cổ được thư tịch cổ Trung Quốc gọi là Phù Nam. Đó có lẽ không phải là một vương quốc thống nhất mà gồm nhiều tiểu quốc và vào thế kỷ IV đến VI đã phát triển thành một đế chế kiểm soát con đường hàng hải vùng Đông Nam Á lục địa qua eo biển Kra (nam Thái Lan giáp Malaysia). Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam mang tính biển và thương nghiệp đậm nét.
Như vậy là thời cổ đại, trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã xuất hiện và tồn tại ba trung tâm văn minh gắn liền với những nhà nước sơ khai đầu tiên là Văn Lang - Âu Lạc, Lâm Ấp (Chămpa), Phù Nam. Giữa các nền văn hoá lại có quan hệ giao lưu với nhau trên cơ tầng chung của
28
văn hoá Nam Á và mỗi nền văn hoá lại có quan hệ giao lưu với Trung Quốc ở phía bắc cũng như với Ấn Độ ở phía nam. Trong lịch sử Việt Nam, văn hoá Đông Sơn với nước Văn Lang - Âu Lạc giữ vai trò chủ lưu, văn hoá Sa Huỳnh với nước Chămpa, văn hoá Óc Eo với nước Phù Nam như những dòng chảy qua nhiều biến thiên lịch sử dần dần hội nhập vào dòng chủ lưu để tạo nên lịch sử và văn hoá Việt Nam.
3. Hơn nghìn năm đấu tranh chống Bắc thuộc (thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ X)
Khi nước Văn Lang ra đời thì ở Trung Quốc, cục diện Xuân Thu - Chiến Quốc cũng dần dần kết thúc và một đế chế lớn ra đời. Đó là nhà Tần (221-206 trước Công nguyên) với xu hướng bành trướng mạnh xuống phương nam nhằm chinh phục các tộc Bách Việt sống ở phía nam sông Trường Giang. Cuộc kháng chiến chống Tần của người Việt cổ trên địa bàn bắc Việt Nam đã thắng lợi. Nhưng sau đó, Nam Việt là một nước cát cứ ở nam Trung Quốc đã dùng mưu kế chiếm được nước Âu Lạc vào năm 179 trước Công nguyên. Năm 111 trước Công nguyên nhà Hán (206 trước Công nguyên - 220) sau khi đánh bại Nam Việt, đã thống trị Âu Lạc và xâm chiếm một phần lãnh
29
thổ Chămpa. Từ đó, nước ta liên tiếp bị các triều đại Trung Quốc đô hộ cho đến thế kỷ X. Dưới sự đô hộ của Trung Quốc, người Việt đã nhiều lần vùng lên khởi nghĩa, tiêu biểu là khởi nghĩa do hai chị em Bà Trưng lãnh đạo năm 40, khởi nghĩa Bà Triệu năm 248, khởi nghĩa Lý Bí năm 542, khởi nghĩa Mai Thúc Loan năm 713, khởi nghĩa Phùng Hưng (766-779)... Khởi nghĩa Lý Bí đã thắng lợi, lập ra nhà nước Vạn Xuân độc lập tồn tại cho đến năm 602. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan từ Hoan Châu cũng tiến ra chiếm giữ phủ thành An Nam và làm chủ đất nước gần 10 năm (713-722). Người Việt không những đứng lên khởi nghĩa đánh đổ nền đô hộ Trung Quốc mà còn đấu tranh chống lại các mưu đồ đồng hoá của nước ngoài, bảo tồn cuộc sống và nền văn hoá dân tộc. Nguyên nhân chính khiến chính quyền đô hộ Trung Quốc không đồng hóa được người Việt là không thể nào kiểm soát được miền núi rừng và các làng xã người Việt vốn mang tính tự trị cao. Các làng xã này vẫn là thế giới riêng của người Việt và chính từ cơ sở cộng đồng này, người Việt liên kết lại để dấy lên các cuộc khởi nghĩa, để bảo vệ cuộc sống với những di sản văn hoá, những phong tục tập quán của mình. Cũng từ đây, người Việt vừa chống lại các thủ đoạn đồng hoá của đối
30
phương, vừa tiếp nhận nhiều thành tựu, ảnh hưởng văn hoá của Trung Quốc.
Vào đầu thế kỷ X, nhân lúc đế chế Đường suy yếu, phong trào đấu tranh giành độc lập của người Việt đã dâng lên mạnh mẽ. Chính quyền tự chủ của Khúc Thừa Dụ được thành lập năm 905 và được kế tục cho đến năm 930. Sau kháng chiến chống Nam Hán (930-931) thắng lợi, Dương Đình Nghệ tiếp tục duy trì chính quyền tự chủ (931- 937). Cuối cùng, dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền, cuộc xâm lược lần thứ hai của Nam Hán bị đánh bại với chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Đến đây, nền đô hộ của Trung Quốc kéo dài trên 10 thế kỷ hoàn toàn chấm dứt và người Việt giành lại độc lập dân tộc. Trong các tộc Việt ở nam Trung Quốc mà sử Trung Quốc gọi là Bách Việt, chỉ có cư dân Văn Lang - Âu Lạc là không bị Hán hoá và giành lại chủ quyền, tồn tại với tư cách một quốc gia - dân tộc độc lập.
4. Thời kỳ phục hưng dân tộc từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
Sau chiến thắng Bạch Đằng, năm 939 Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, kinh đô cũ của nước Âu Lạc để tỏ ý nối lại quốc thống xưa. Sau triều Ngô (939-965), đất nước bị các thế lực địa
31
phương nổi lên cát cứ gây ra loạn Mười hai sứ quân (965-967). Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân, lập lại chính quyền thống nhất, lập ra triều Đinh (968- 980), lên ngôi Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Tiếp sau là triều Tiền Lê (980-1009) đã đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tống (960-1279) vào năm 980-981. Thành tựu lớn nhất của giai đoạn Ngô, Đinh, Tiền Lê là đã giữ vững nền độc lập và xây đắp cơ sở cho nền thống nhất, tạo điều kiện đưa đất nước bước vào thời phục hưng dân tộc dưới các triều Lý (1009- 1226), Trần (1226-1400), Hồ (1400-1407), Lê sơ (hay Hậu Lê, 1428-1527).
Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (Hà Nội) năm 1010 và nhà Lý đặt tên nước là Đại Việt năm 1054. Công cuộc xây dựng đất nước về mọi mặt được đẩy mạnh làm cho nước Đại Việt trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất và cường thịnh ở Đông Nam Á. Trong thời gian này, nhiều cuộc xâm lược của nước ngoài đã bị quân dân Đại Việt đánh bại, ghi vào lịch sử
những chiến công oanh liệt. Đó là kháng chiến chống Tống lần thứ hai (1075-1077) do Lý Thường Kiệt lãnh đạo. Trong cuộc kháng chiến này, bài thơ “Nam quốc sơn hà” động viên quân sĩ
đã được ghi nhận như Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
32
Thế kỷ XIII, nhân dân Đại Việt và Chămpa phải đương đầu với những cuộc xâm lăng ác liệt của đế chế Mông Cổ và đế chế Nguyên. Đại Việt đã đánh bại ba lần xâm lăng của quân Mông - Nguyên vào các năm 1258, 1285, 1287-1288, dưới quyền thống soái của nhà quân sự kiệt xuất Trần Quốc Tuấn. Chămpa dưới quyền chỉ huy của thái tử Harijit cũng đã bánh bại cuộc xâm lăng của quân Nguyên năm 1282. Trong cuộc kháng chiến này, hai vương triều Đại Việt và Chămpa đã liên minh lại trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung.
Vào đầu thế kỷ XV, cuộc kháng chiến chống Minh do triều Hồ lãnh đạo bị thất bại năm 1406- 1407. Trong 20 năm thuộc Minh (1407-1427), nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra gần như liên tục và cuối cùng là thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) do Lê Lợi lãnh đạo sau 10 năm chiến đấu gian khổ và bền bỉ. Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết đã đi vào lịch sử Việt Nam như Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai.
Trong điều kiện độc lập và thống nhất, công cuộc xây dựng đất nước dưới các triều đại phong kiến đạt nhiều thành tựu to lớn. Nông nghiệp trồng lúa nước vẫn là cơ sở kinh tế chủ yếu của nước Đại Việt. Các công trình khai hoang của nhà nước (đồn điền), quý tộc (điền trang) và của nông dân (lập làng) được thực hiện thành công.
33
Diện tích trồng trọt và xóm làng được mở mang về phía đất bồi ven biển, vùng trung du và miền đất chưa khai phá ở phương Nam (vùng Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh trở vào). Trong bộ máy chính quyền có những cơ quan chuyên trách về
khai hoang và đê điều gọi là Đồn điền sứ và Hà đê sứ. Hệ thống đê sông, đê biển được xây dựng trên quy mô lớn và hằng năm được bồi đắp, bảo vệ tốt. Nhiều kênh đào được mở mang nhằm phát triển giao thông đường thủy và tưới tiêu cho đồng ruộng.
Kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển với nhiều làng thủ công nổi tiếng và một hệ thống chợ làng ở nông thôn. Sản phẩm gốm của Bát Tràng (Hà Nội) và Chu Đậu (Hải Dương) thế kỷ XV không những lưu hành rộng rãi trong nước mà còn có mặt ở nhiều nước Đông Nam Á và cả Đông Á, Tây Á. Nghề đúc đồng tạo nên nhiều công trình nổi tiếng được coi là “An Nam tứ đại khí” gồm chuông chùa Một Cột (Hà Nội), đỉnh tháp Báo Thiên (Hà Nội), vạc Phổ Minh (Nam Định), tượng Phật chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh), tiếc rằng tất cả đều bị hủy hoại. Quan hệ thông thương với nước ngoài khá phát triển. Nhiều thuyền buôn Đông Nam Á và Đông Á đến buôn bán ở Vân Đồn (Quảng Ninh) và các bến cảng ven biển. Thăng Long không những là kinh
34
đô mà còn là một trung tâm kinh tế, văn hoá lớn của cả nước, có quan hệ giao lưu với nhiều nước phương Đông.
Nền văn hoá Đại Việt bước vào thời kỳ phục hưng và đạt nhiều thành tựu, làm phong phú và rạng rỡ di sản văn hoá dân tộc. Phật giáo cùng Đạo giáo, Nho giáo đều được tôn trọng trong tinh thần bao dung tôn giáo của các vương triều và nhân dân. Phật giáo thịnh đạt nhất trong thời Lý và đầu nhà Trần. Trong thời kỳ này, các chùa tháp mọc lên khắp nơi từ kinh thành đến nông thôn và cả miền núi rừng, hải đảo xa xôi. Ngoài các dòng Phật giáo du nhập, vào thế kỷ XIII, vua Trần Nhân Tông sáng lập phái Trúc Lâm là một Thiền phái Việt Nam mang đậm tính nhập thế, tính dân tộc và tính nhân văn. Từ thế kỷ XV, Nho giáo được triều Lê nâng lên địa vị thống trị, nhưng Phật giáo và Đạo giáo vẫn tiếp tục bảo tồn trong đời sống nông thôn.
Nền giáo dục và thi cử bắt đầu được xây dựng từ đời Lý và phát triển có quy củ vào đời Trần, thịnh đạt vào đời Lê. Năm 1075, triều Lý mở khoa thi đầu tiên và năm 1076 lập Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Giáo dục và thi cử nhằm đào tạo một đội ngũ trí thức Nho học đáp ứng nhu cầu phát triển của chế độ quân chủ tập quyền và từ đội ngũ này xuất hiện nhiều
35
nhà thơ, nhà văn, nhà văn hoá lỗi lạc. Chữ Hán được sử dụng như văn tự chính thức của nhà nước và từ chữ Hán, người Việt sáng tạo ra chữ Nôm ghi âm tiếng Việt. Bên cạnh văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm càng ngày càng phát triển. Nền văn học này để lại nhiều tác phẩm có giá trị và sản sinh nhiều danh nhân văn hoá, tiêu biểu là Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông... Bộ quốc sử đầu tiên do Lê Văn Hưu biên soạn mang tên Đại Việt sử ký với 30 quyển, hoàn thành vào năm 1272.
Nền văn hoá dân gian gắn liền với cuộc sống của dân chúng cũng phát triển phong phú, đa dạng. Làng xã cùng với hội làng thường tổ chức vào mùa xuân và mùa thu, là không gian văn hoá dân gian tập trung và tiêu biểu nhất. Đây là dịp trình diễn các sinh hoạt văn hoá như đua thuyền, đấu vật, đánh phết, ném còn, chọi gà, biểu diễn hát chèo, hát tuồng, múa rối nước... Đặc biệt, múa rối nước là một nghệ thuật sân khấu dân gian độc đáo của xứ sở sông nước và của nông nghiệp lúa nước, chỉ thấy ở Việt Nam và từ đời Lý đã phát triển khá cao.
Tại dải đất miền Trung, nền văn hoá Chămpa cũng được phục hưng và phát triển rực rỡ. Cuối thế kỷ II, người Chămpa đã đấu tranh chống Hán giành lại độc lập và thành lập vương quốc Chămpa. Từ đó
36
đến thế kỷ XV, nhất là thế kỷ VII đến XIII là thời kỳ phát triển và thịnh đạt của văn hoá Chămpa. Nền văn hoá này còn để lại nhiều di tích trên các tỉnh miền Trung Việt Nam hiện nay như thành luỹ, thương cảng, đồ gốm, hệ thống thủy lợi... và phổ biến là các đền tháp. Những trung tâm chính trị - văn hoá lớn của Chămpa là Đồng Dương, Trà Kiệu - Mỹ Sơn (Quảng Nam, thế kỷ VII-IX), Vijaya (Bình Định, thế kỷ XI-XIII), Ponagar (Khánh Hoà, thế kỷ VIII-XI)... Lúc bấy giờ Chămpa và Đại Việt là hai quốc gia, nhưng văn hoá của hai nước đã có nhiều quan hệ giao lưu và để lại nhiều ảnh hưởng đậm nét trên nền văn hoá mỗi nước.
Thời kỳ Lý - Trần - Hậu Lê được coi là kỷ nguyên Văn minh Đại Việt với những thành công lớn trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là một trong những thời thịnh đạt nhất trong lịch sử Việt Nam.
5. Thời kỳ phát triển và biến động từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX
Từ thế kỷ XV, chế độ quân chủ đã chuyển lên chế độ quân chủ tập quyền quan liêu theo mô hình Nho giáo. Chế độ đó sau đỉnh cao thời Lê Thánh Tông (1460-1497) đã lâm vào khủng hoảng từ đầu thế kỷ XVI. Kinh tế hàng hoá và thị trường trong nước chưa phát triển đến mức độ tạo ra một
37
cơ sở kinh tế - xã hội mới cho quốc gia thống nhất nên chế độ quân chủ tập quyền phát triển theo hướng quan liêu, chuyên chế đã dẫn đến một số hệ quả nặng nề. Mỗi khi vương triều trung ương suy yếu, các phe phái phong kiến lại trỗi dậy tranh ngôi đoạt quyền. Năm 1527, triều Lê sơ sụp đổ, triều Mạc (1527-1592) thay thế. Nhưng các thế lực chống đối dưới danh nghĩa khôi phục triều Lê đã nổi dậy, do họ Nguyễn rồi họ Trịnh cầm đầu. Đất nước lâm vào cảnh chia cắt và nội chiến kéo dài với chiến tranh Lê - Mạc (1533-1592), tình trạng phân chia Bắc triều hay triều Mạc ở Bắc Bộ, Nam triều hay triều Lê Trung hưng ở vùng Thanh - Nghệ; rồi tiếp đó chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627-1672) với sự phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm ranh giới. Ở Đàng Ngoài hình thành chế độ vua Lê - chúa Trịnh đóng đô tại kinh thành Thăng Long. Ở
Đàng Trong, sau nhiều lần di chuyển, thủ phủ chúa Nguyễn được xác lập ở Phú Xuân (Huế). Tình trạng chia cắt này kéo dài cho đến năm 1786, gây ra nhiều hậu quả nặng nề cho đời sống của nhân dân. Nhưng trong thời kỳ này, kinh tế và văn hoá vẫn tiếp tục phát triển, nhất là hướng về vùng đất mới phương Nam.
Chúa Nguyễn đẩy mạnh công cuộc khai phá vùng Thuận Hoá (Quảng Bình đến Thừa Thiên
38
Huế), Quảng Nam (Đà Nẵng, Quảng Nam đến bắc Phú Yên) rồi mở rộng dần bờ cõi về phía nam đến đồng bằng sông Cửu Long. Đến cuối thế kỷ XVII, phần đất còn lại của Chămpa bị sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong. Trên vùng đồng bằng sông Cửu Long, từ thế kỷ XVII, hàng loạt nông dân di cư vào khai phá, mở mang đồng ruộng, lập thôn ấp. Những địa chủ, quan lại giàu có cũng được khuyến khích chiêu mộ dân nghèo đi khai hoang. Năm 1698, chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lý, thành lập dinh Phiên Trấn, Trấn Biên. Đến giữa thế kỷ XVIII, toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long (Nam Bộ hiện nay) đã trở thành một bộ phận của Đàng Trong, đặt dưới quyền quản lý của chính quyền chúa Nguyễn. Từ thế kỷ XVII, chính quyền chúa Nguyễn đã khai phá và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên Biển Đông.
Kinh tế hàng hoá tiếp tục phát triển. Quan hệ hàng hoá thâm nhập vào nông thôn, các làng phân hoá thành những làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán và phổ biến là làng nông - công - thương. Hệ thống chợ làng phát triển rộng khắp vùng đồng bằng, có làng có 1-2 chợ, phổ biến là một cụm 3-4 làng có một chợ chung. Nhiều thành thị và thương cảng ra đời, nổi tiếng nhất là Thăng Long (Hà Nội), Phố Hiến (Hưng Yên) ở
39
Đàng Ngoài; Phú Xuân, Thanh Hà (Huế), Hội An (Quảng Nam), Vũng Lấm (Phú Yên), Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh), Biên Hòa, Mỹ Tho ở Đàng Trong.
Từ đầu thế kỷ XVI, sau các phát kiến địa lý, quan hệ buôn bán Đông - Tây phát triển, nhiều thuyền buôn phương Tây từ Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... tràn sang phương Đông. Buôn bán ở
Biển Đông trở nên sôi động trong thời đại thương mại với những quan hệ thông thương giữa các nước Đông Nam Á, giữa Đông Nam Á với Đông Á, Nam Á và với một số nước phương Tây. Ngoại thương Việt Nam cũng trở nên phát đạt. Trong thế kỷ XVII, nhiều thuyền buôn nước ngoài cập bến các thương cảng Đàng Trong, Đàng Ngoài; Công ty Đông Ấn Hà Lan, Anh, Pháp lập thương điếm ở Thăng Long, Phố Hiến, Hội An; nhiều Hoa kiều, Nhật kiều ở lại buôn bán lâu dài và giữ vai trò môi giới ngoại thương. Trong quan hệ giao lưu kinh tế - văn hoá này, Việt Nam tiếp nhận thêm nhiều ảnh hưởng văn hoá bên ngoài, kể cả một số thành tựu kỹ thuật phương Tây. Một người Bồ Đào Nha là Jao da Cruz giúp chúa Nguyễn mở xưởng đúc súng ở Phú Xuân. Một người thợ thủ công tên là Nguyễn Văn Tú sau hai năm sang Hà Lan đã học được nghề chế tạo đồng hồ máy và ống nhòm. Đạo Thiên Chúa bắt đầu truyền bá vào Việt Nam. Một số nhà truyền
40
giáo đã sử dụng hệ thống chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt, đặt cơ sở cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Từ giữa thế kỷ XVIII, những mâu thuẫn của
xã hội phong kiến trở nên gay gắt, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Phong trào dấy lên ở Đàng Ngoài dẫn đến đỉnh cao là phong trào Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII. Từ một cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên ở Tây Sơn (Bình Định), năm 1771, phong trào Tây Sơn phát triển thành một phong trào dân tộc rộng lớn trên quy mô toàn quốc. Phong trào đã lần lượt đánh đổ chính quyền thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, của chúa Trịnh - vua Lê ở Đàng Ngoài, xoá bỏ tình trạng chia cắt kéo dài trên hai thế kỷ; tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm: kháng chiến chống Xiêm ở phía Nam (1784-1785) và kháng chiến chống Thanh (1788-1789) ở phía Bắc. Từ một thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn, Quang Trung - Nguyễn Huệ trở thành một anh hùng dân tộc với tài năng quân sự kiệt xuất.
Trên cơ sở thắng lợi của phong trào Tây Sơn, vương triều Tây Sơn đã được thành lập gồm ba chính quyền chia nhau cai quản ba khu vực của đất nước. Nhưng năm 1792, Quang Trung từ
trần đột ngột và từ đó triều Tây Sơn suy yếu nhanh chóng, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh đánh đổ vương triều Tây Sơn năm 1802. Triều Nguyễn
41
(1802-1945) thành lập, đóng đô ở Huế, đặt tên nước là Việt Nam từ năm 1804 rồi đổi thành Đại Nam từ năm 1838.
Triều Nguyễn thiết lập nền thống trị trên một lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, gần như tương đương với lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa giữa Biển Đông. Trong nửa đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã thực thi nhiều chính sách tích cực nhằm củng cố quốc gia thống nhất, phục hồi và phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh công cuộc khai hoang nhất là ở Nam Bộ và vùng ven biển châu thổ sông Hồng, tiến hành mở mang văn hoá. Cải cách hành chính do Minh Mạng (1820-1841) thực hiện những năm 1831-1832 đã xây dựng một hệ thống đơn vị hành chính và thiết chế chính trị có quy củ chặt chẽ. Nhưng mặt khác, triều Nguyễn vẫn lo củng cố chế độ quân chủ chuyên chế và chủ trương độc tôn Nho giáo, quay lưng lại với mọi tư tưởng canh tân. Đặt trong bối cảnh khu vực và thế giới thế kỷ XIX, đó là mặt hạn chế lớn nhất của triều Nguyễn, làm cho đất nước bị lún sâu vào tình trạng lạc hậu và thế nước bị giảm sút, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt.
Thế kỷ XVIII-XIX, trong lúc chế độ phong kiến suy yếu thì văn hoá dân tộc vẫn phát triển với nhiều công trình sáng tạo trên nhiều lĩnh vực.
42
Một nét đặc sắc của văn hoá thời kỳ này là sự trỗi dậy của văn hoá dân gian trong văn học, nghệ thuật và sinh hoạt văn hoá làng xã. Ca dao, tục ngữ, truyện dân gian, truyện tiếu lâm, khôi hài, các làn điệu dân ca, tranh dân gian... phát triển phong phú chưa từng thấy. Trong văn học thành văn, văn học chữ Nôm phồn vinh với nhiều tác phẩm có giá trị mà tiêu biểu là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú là những nhà văn hoá lớn để lại nhiều công trình sáng tác và nghiên cứu đồ sộ trên các lĩnh vực y học, dược học, lịch sử, văn hoá, thơ văn... Về
kiến trúc và nghệ thuật tạo hình, thời kỳ này cũng để lại nhiều sản phẩm tiêu biểu như đình Đình Bảng, chùa Bút Tháp (Bắc Ninh); chùa Tây Phương (Hà Nội) và quần thể kiến trúc cố đô Huế.
6. Một thế kỷ đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân
Ngày 01/9/1858, quân Pháp tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau 25 năm, quân Pháp lần lượt chiếm được Nam Kỳ rồi Bắc Kỳ và năm 1883 tấn công kinh đô Huế, buộc triều Nguyễn ký hoà ước năm 1883 và năm 1884 công nhận nền thống trị của Pháp trên toàn cõi lãnh thổ Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam phải đương đầu với một cường
43
quốc công nghiệp phương Tây. Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc phải gắn liền với yêu cầu cải cách, khắc phục tình trạng lạc hậu của đất nước. Một số trí thức tiến bộ đã nhận thức được điều này và đề xuất những điều trần canh tân đất nước, tiêu biểu là điều trần của Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ và Đặng Huy Trứ. Nhưng triều Nguyễn đã khước từ mọi điều trần đầy tâm huyết đó và đẩy đất nước vào tình trạng bế tắc, dẫn đến thảm họa mất nước kéo dài gần một thế kỷ.
Trước sự bất lực và đầu hàng từng bước của triều Nguyễn, phong trào kháng chiến của nhân dân lan rộng ra cả nước. Cuộc chiến đấu bắt đầu từ miền Nam với Trương Định dưới lá cờ Bình Tây Đại Nguyên soái do nhân dân giao phó. Nhân dân chiến đấu ngoan cường với tinh thần “Bao giờ
người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây” như lời tuyên bố của Nguyễn Trung Trực, người con anh hùng của nhân dân miền Nam. Trong quân đội triều đình cũng có không ít người yêu nước, dũng cảm mà Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu là tiêu biểu.
Năm 1885, sau khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương thì một phong trào kháng Pháp bùng lên hầu khắp Trung Kỳ và Bắc Kỳ, gọi là phong trào Cần Vương. Khởi nghĩa Phan Đình Phùng
44
(Hà Tĩnh), Ba Đình - Hùng Lĩnh (Thanh Hoá), Bãi Sậy (Hưng Yên) là những cuộc chiến đấu tiêu biểu của phong trào Cần Vương do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo. Cùng với phong trào Cần Vương còn có nhiều cuộc đấu tranh dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang hay “Hội kín” mang màu sắc tôn giáo ở đồng bằng và miền núi mà rộng lớn và kéo dài nhất là khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo.
Cùng với quá trình xâm chiếm đất đai và đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân, thực dân Pháp xây dựng bộ máy cai trị và từng bước thực hiện chủ trương khai thác thuộc địa. Dưới sự
thống trị của chủ nghĩa thực dân, kinh tế, xã hội, văn hoá Việt Nam trải qua nhiều chuyển biến sâu sắc.
Xu hướng cận đại hoá diễn ra dưới tác động của chủ nghĩa thực dân và ảnh hưởng của văn minh công nghiệp phương Tây. Các đô thị và thương cảng như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định... tổ chức lại theo mô hình đô thị phương Tây. Một số cơ sở công nghiệp, đồn điền, hầm mỏ ra đời theo phương thức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Hệ thống đường bộ, đường sắt được xây dựng theo công nghệ
phương Tây. Chế độ giáo dục và thi cử cũng chuyển từ mô hình Nho giáo với chữ Hán sang hệ thống giáo dục Pháp - Việt với hệ thống tiểu học, trung
45
học, cao đẳng và đại học kiểu phương Tây. Chữ Hán, chữ Nôm kết thúc vai trò với khoa thi Hội cuối cùng năm 1819. Trong tiếp xúc văn hoá Việt - Pháp, một số ảnh hưởng văn hoá Pháp và phương
Tây thâm nhập vào đời sống Việt Nam. Nhưng bao trùm lên toàn bộ xã hội thuộc địa là thảm họa mất nước với không khí đàn áp ngột ngạt và sự bần cùng hoá của nhân dân lao động. Xã hội phân hoá nhanh với sự ra đời của nhiều giai tầng mới như giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tầng lớp trí thức tân học, viên chức mới... Do tác động của những chuyển biến trong nước và ảnh hưởng từ bên ngoài, phong trào yêu nước cũng phát triển theo những xu hướng mới. Đầu thế kỷ XX, một số sĩ phu yêu nước và cấp tiến tiếp nhận tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây qua “Tân thư” của Trung Quốc, qua con đường Duy Tân của Nhật Bản và phong trào cách mạng Trung Quốc. Từ đó hình thành Hội Duy Tân và phong trào Đông Du do Phan Bội Châu cầm đầu, cuộc vận động duy tân cải cách do Phan Chu Trinh lãnh đạo, cùng với phong trào chống thuế ở Trung Kỳ, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở Bắc Kỳ rồi lan ra một số tỉnh Trung Kỳ và Nam Kỳ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào yêu nước càng phát triển sôi nổi với nhiều xu
46
hướng và hình thức mới. Phong trào đòi tự do dân chủ phát triển mạnh với yêu cầu chấn hưng nội hoá, chống tư bản Pháp, tư bản Hoa độc quyền của tầng lớp tư sản dân tộc; hoạt động báo chí, xuất bản cổ vũ tinh thần yêu nước của tầng lớp trí thức mà đỉnh cao là phong trào đấu tranh đòi thả
Phan Bội Châu (1925) và đám tang Phan Chu Trinh (1926). Năm 1927, Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo ra đời, là một chính đảng tiêu biểu cho xu hướng cách mạng dân chủ tư sản đại diện bởi tầng lớp trí thức tiểu tư
sản. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 do chính đảng này lãnh đạo thất bại nhưng đã gây tiếng vang lớn trong nước.
Phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, liên tục nhưng đều bị thất bại. Giữa lúc đó, xuất hiện một xu hướng cách mạng mới do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc, lúc đó mang tên Nguyễn Tất Thành, rời đất nước sang phương Tây để tìm hiểu đến ngọn nguồn nền văn minh phương Tây và tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc. Sau nhiều năm bôn ba qua nhiều nước, Người thấy rõ mối quan hệ giữa chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa tư bản, nhận ra con đường cứu nước thành công phải kết hợp phong trào giải phóng dân tộc với phong trào công nhân quốc tế. Năm 1920, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng
47
sản Pháp. Tiếp đó, Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, cổ vũ phong trào yêu nước, phong trào công nhân, chuẩn bị hình thành các tổ chức cách mạng theo xu hướng mới, từ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Người sáng lập ở Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1925 đến những tổ chức cộng sản đầu tiên ra đời năm 1929. Ngày 03/02/1930, dưới sự chủ trì của Người, đại biểu ba tổ chức cộng sản trong nước đã họp hội nghị ở Hồng Kông để thống nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào giải phóng dân tộc đã phát triển qua cao trào 1930-1931 mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 và cao trào cứu nước trong Chiến tranh thế giới thứ
hai (1939-1945) dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do... Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh
48
thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”1.
Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam: kỷ nguyên giành lại độc lập và thống nhất Tổ quốc, xây dựng lại đất nước tiến kịp trào lưu tiến bộ của thời đại.
Tuy nhiên, trải qua hơn 80 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có 45 năm đầu thế kỷ XX, kinh tế - xã hội Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn và lạc hậu, nhân dân ta phải sống trong cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, 90% dân số mù chữ.
Các ngành sản xuất vật chất là nông nghiệp và công nghiệp chịu tác động nặng nề của chế độ thực dân kiểu cũ nên rất lạc hậu. Trong nông nghiệp, thực dân Pháp tiếp tục duy trì kiểu bóc lột phong kiến bằng tô tức, sưu cao thuế nặng. Người nông dân phải chịu cảnh một cổ hai tròng là thực dân và phong kiến.
Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, nền nông nghiệp nước ta hết sức nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về kỹ thuật, hoàn toàn dựa vào lao động thủ công và phụ thuộc vào thiên nhiên. Nông nghiệp ___________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.1-3.
49
chủ yếu là quảng canh, năng suất các loại cây trồng, vật nuôi đều rất thấp. Năng suất lúa bình quân 1 ha thời kỳ 1930-1944 là 12 tạ, trong khi đó Thái Lan là 18 tạ và Nhật Bản là 34 tạ.
Ruộng đất phần lớn tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến và thực dân Pháp. Nhân dân lao động chiếm 97% số hộ nhưng chỉ sử dụng 36% ruộng đất. Ở nông thôn có tới 59,2% số hộ
không có ruộng đất, phải sống bằng cày thuê, cấy rẽ. Nghịch cảnh sâu sắc diễn ra dưới thời thực dân Pháp chiếm đóng: Hằng năm Việt Nam xuất khẩu trên 1 triệu tấn gạo trắng nhưng nông dân Việt Nam, những người làm ra lúa gạo, lại luôn luôn phải chịu cảnh đói nghèo. Năm 1945 có trên 2 triệu người chết đói. Cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn: cả nước chỉ có 12 công trình thủy nông nhỏ, đảm bảo tưới cho 15% diện tích canh tác, không có công trình tiêu úng nên lũ lụt thường xuyên xảy ra, bình quân 2 năm 1 lần vỡ đê.
Sản xuất công nghiệp rất nhỏ bé và què quặt, chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ và một số cơ sở công nghiệp nhẹ nhằm bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt, vơ vét tài nguyên khoáng sản. Từ năm 1930 đến năm 1945, thực dân Pháp đã khai thác: 2,76 triệu tấn than, 217.300 tấn kẽm, chì, 598.000 tấn sắt, mănggan, 1.384 kg vàng, 315.500 tấn phốtpho...
50
Trong hơn 10 năm, từ năm 1930 đến năm 1943, cả nước chỉ có khoảng 200 nhà máy và 90.000 công nhân, trong đó 60% là công nhân khai thác mỏ. Cả nước không có một cơ sở công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế tạo thiết bị và hoá chất nào. Công nghiệp hàng tiêu dùng cũng chỉ có một số nhà máy đường, rượu, xay xát lương thực, dệt may, giấy với máy móc, thiết bị cũ. Vào những năm 1938-1939, tỷ trọng công nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp cả nước. Khu vực tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền thống bị kìm hãm và mai một. So với tổng số vốn đầu tư vào công nghiệp toàn Đông Dương thời kỳ 1913-1939, vốn đầu tư cho ngành mỏ chiếm 40%, riêng thời kỳ 1924-1930 là 52%.
Hậu quả về xã hội cũng rất nặng nề. Thực dân Pháp đã thực hiện một nền giáo dục nô dịch, trên 90% dân số nước ta mù chữ. Trung bình 1 vạn dân chỉ có 115 học sinh vỡ lòng, 210 học sinh tiểu học, 2 học sinh chuyên nghiệp và đại học. Cơ sở y tế thiếu thốn, chủ yếu phục vụ cho quân đội viễn chinh Pháp và bọn tay sai phản động. Có thời điểm, cả nước chỉ có 213 bác sĩ, 335 y sĩ, 264 nữ hộ sinh, bình quân 1 vạn dân mới có 0,23 bác sĩ và y sĩ.
51
Chương 4
DI SẢN VĂN HÓA
VÀ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
1. Di sản văn hóa
Văn hoá Việt Nam là sản phẩm và kết tinh của quá trình lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước lâu dài của dân tộc Việt Nam. Nó được tạo nên từ vốn văn hoá của các tộc người sống trên lãnh thổ Việt Nam, vừa mang tính đa dạng của một cộng đồng cư dân nhiều thành phần dân tộc, vừa biểu thị ý thức chung của một cộng đồng cư dân đã liên kết lại trong một quốc gia, dân tộc thống nhất.
Cơ sở bền vững của nền văn hoá đó là văn hoá dân gian rất phong phú, có cội nguồn sâu xa trong đời sống của đông đảo nhân dân lao động. Kho tàng văn hoá dân gian này vừa đúc kết những tri thức và kinh nghiệm trong lao động và đấu tranh của nhân dân, vừa biểu thị một cách trung thực tâm hồn và lối sống, những phong tục, tập quán, tín ngưỡng cổ truyền của nhân dân. Từ dòng suối trong mát và vô tận của văn hoá dân gian, nhiều nhà văn hoá lớn của dân tộc đã tiếp thụ và gạn lọc, nâng cao và sáng tạo nên những tác phẩm tiêu biểu cho những giá trị của văn hoá dân tộc.
52
Trong quá trình lịch sử, văn hoá Việt Nam cũng đã tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hoá bên ngoài, đặc biệt là của văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á. Trong tiếng nói, chữ viết cho đến tôn giáo, văn học, nghệ thuật, tư tưởng..., dễ tìm thấy những yếu tố bên ngoài gốc từ Trung Quốc, Ấn Độ hay các nước Đông Nam Á đã được Việt Nam hấp thụ làm phong phú cho di sản văn hoá dân tộc. Từ thế kỷ XVII-XVIII, văn hoá Việt Nam tiếp xúc với văn hoá phương Tây và cũng tiếp nhận một số ảnh hưởng, thành tựu của văn hoá phương Tây. Chữ quốc ngữ ra đời và dần trở
thành chữ viết chính thức của Việt Nam, là sản phẩm của quá trình Latinh hoá chữ viết mà công lao đầu tiên thuộc về một số nhà truyền đạo phương Tây, khởi đầu là các nhà truyền giáo Bồ
Đào Nha, rồi dần dần được hệ thống hóa trong các cuốn từ điển mà tác phẩm cổ nhất còn lại đến nay là của Alexandre de Rhodes.
Bắt nguồn từ lịch sử lâu đời và cội rễ sâu xa trong đời sống nhân dân, văn hoá Việt Nam tuy dung hợp nhiều ảnh hưởng bên ngoài nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá riêng. Trải qua những thử thách nặng nề của đêm dài Bắc thuộc hơn nghìn năm, Minh thuộc 20 năm, Pháp thuộc gần một thế kỷ, văn hoá Việt Nam có mặt bị đồng hoá cưỡng bức, nhưng vẫn biểu thị sức sống mãnh liệt và giữ được bản sắc dân tộc.
53
Quá trình lịch sử lâu dài để lại một hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú. Cả nước có đến hàng vạn di tích lịch sử, văn hóa và di tích cách mạng, kháng chiến cùng nhiều danh lam thắng cảnh. Cho đến hết năm 2014 đã có 3.212 di tích được xếp hạng di tích quốc gia, 48 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và 7.484 di tích cấp tỉnh, thành phố1. Ở nông thôn và trong một số đô thị còn bảo tồn nhiều làng nghề thủ công cổ truyền, theo thống kê sơ bộ có 3.335 làng nghề, làng có nghề và làng nghề truyền thống, trong đó có hơn 1.000 làng nghề, 400 làng nghề truyền thống. Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng phổ biến khắp nơi. Trên cả nước có 7.966 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội truyền thống, 332 lễ hội lịch sử và cách mạng, 544 lễ hội tôn giáo2. Trong di sản văn hóa phi vật thể, cần phải kể đến một kho tàng vô cùng quý giá của các thư tịch cổ bằng chữ Hán, chữ Nôm, các văn bia, gia phả, thần tích, bằng sắc, địa bạ, đinh bạ, châu bản triều Nguyễn và một khối lượng đồ sộ các văn thư lưu trữ, sách báo, các tác phẩm văn học, văn nghệ, các sáng tác nghệ thuật thời cận đại và hiện đại.
___________
1. Số liệu của Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cập nhật ngày 02/02/2015. 2. Số liệu của Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho đến cuối năm 2013.
54
Một số di sản mang giá trị nổi bật toàn cầu đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản thế giới. Cho đến năm 2020, đã có 22 di sản văn hóa được UNESCO vinh danh, bao gồm 03 di sản thiên nhiên thế giới (1. Vịnh Hạ Long, 2. Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, 3. Cao nguyên đá Đồng Văn); 05 di sản văn hóa vật thể thế giới (4. Quần thể di tích Cố đô Huế, 5. Phố cổ Hội An, 6. Thánh địa Mỹ Sơn, 7. Hoàng thành Thăng Long, 8. Thành nhà Hồ); 09 di sản văn hóa phi vật thể (9. Nhã nhạc cung đình Huế, 10. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, 11. Dân ca Quan họ, 12. Ca trù, 13. Hội Gióng, 14. Hát xoan Phú Thọ, 15. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, 16. Đờn ca tài tử, 17. Ví giặm Nghệ Tĩnh) và 04 di sản tư liệu thế giới (18. Mộc bản triều Nguyễn, 19. Bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám, 20. Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm, 21. Châu bản triều Nguyễn) và 01 di sản văn hóa hỗn hợp (22. Quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình)1.
2. Truyền thống dân tộc
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam đã tạo lập cho mình truyền thống trên các phương diện tư duy, tâm lý, lối sống, cách ứng xử... chi phối hành vi ___________
1. Trang thông tin UNESCO của Tiểu ban Thông tin - Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam.
55
và cuộc sống của con người, trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng và với thiên nhiên. Những truyền thống đó vừa mang tính ổn định và lưu truyền, vừa không ngừng phát triển và biến đổi, luôn luôn có sự kế thừa, phát triển và bổ sung. Trong từng thời điểm nhất định, trong di sản truyền thống tinh thần đó có những mặt tích cực, ưu việt, phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, nhưng cũng có mặt khi đã trở nên lỗi thời, tiêu cực thì cần xoá bỏ hay biến đổi.
Sự trường tồn của đất nước cho đến ngày nay đủ chứng tỏ sức sống, bản lĩnh, bản sắc và những phẩm giá của dân tộc. Chính những giá trị truyền thống trong con người Việt Nam là kết tinh và tiêu biểu cho sức sống, bản lĩnh, bản sắc và những phẩm giá đó.
Các giá trị truyền thống Việt Nam rất phong phú, đa dạng, hình thành và phát triển trong những điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước. Nền tảng chung của các truyền thống đó là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước dựa trên kinh tế tiểu nông với những thiết chế cộng đồng bền vững của gia đình, làng xã và quốc gia, dân tộc. Thêm vào đó là cuộc đấu tranh khắc phục thiên tai diễn ra hằng năm và cuộc đấu tranh chống ngoại xâm vô cùng ác liệt, cùng với sự
giao lưu và hội nhập văn hoá của một đất nước vùng nhiệt đới gió mùa, ở vào một vị trí đầu mối
56
giao thông tự nhiên, vị trí tiếp xúc của nhiều nền văn hoá và luồng thiên di tộc người.
Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, nổi lên vị trí hàng đầu và mang tính bền vững nhất là tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, ý chí tự lập tự cường, truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc.
Cuộc đấu tranh thích ứng với thiên nhiên và vật lộn với thiên tai, sự giao tiếp với nhiều ảnh hưởng văn hoá bên ngoài tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, nhạy cảm với cái mới, biết đối phó linh hoạt, ứng xử mềm mỏng, biết thích nghi và hội nhập để tồn tại và phát triển. Tính cộng đồng cùng với truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, lòng bao dung cũng là một trong những truyền thống lâu đời và sâu sắc của con người Việt Nam. Truyền thống này hình thành và phát triển trong thiết chế cộng đồng gia đình và làng xã, gắn bó cuộc sống của mỗi thành viên với cuộc sống của cộng đồng. Văn minh nông nghiệp với kinh tế tiểu nông cũng rèn luyện cho con người Việt Nam tinh thần thực tế, coi trọng kinh nghiệm, tôn trọng người già giàu kinh nghiệm và có tư duy tổng hợp dựa trên sự đúc kết kinh nghiệm của lao động nông nghiệp mang tính thời vụ theo chu kỳ thiên nhiên và của ứng xử cộng đồng, xã hội. Nền giáo dục ra đời sớm cùng những ảnh hưởng tích cực của Nho giáo tạo lập nên truyền thống hiếu học, trọng học, truyền thống tôn sư trọng đạo. Trong sự giao lưu và tiếp biến văn hoá, sự tiếp nhận và chung sống
57
của tín ngưỡng dân gian với những tôn giáo và hệ tư tưởng ngoại nhập, con người Việt Nam không cuồng tín, không có thái độ thành kiến và xung khắc tôn giáo, trái lại có tinh thần khoan dung tôn giáo, sẵn sàng tiếp nhận những cái hay, cái phù hợp của mỗi tôn giáo để làm phong phú đời sống tinh thần và tâm linh của mình.
Nhưng dĩ nhiên, trong các giá trị truyền thống, bên cạnh mặt tích cực cũng hàm chứa mặt hạn chế và ngoài các giá trị truyền thống, con người Việt Nam còn có những truyền thống tiêu cực, những phản giá trị. Đó là sản phẩm của mặt trái, mặt hạn chế của kinh tế tiểu nông, của thiết chế cộng đồng gia đình và xóm làng cổ truyền, của nền văn minh tiền công nghiệp. Quan niệm về tích cực và tiêu cực, giữa giá trị và phản giá trị của truyền thống cần được nhìn nhận và đánh giá trong những thời điểm cụ thể, trên cơ sở yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh lịch sử của dân tộc và của thời đại.
Trong di sản văn hoá và truyền thống của quá khứ để lại, so với yêu cầu của cuộc sống và phát triển hiện nay, dĩ nhiên có những mặt và những yếu tố trở nên lỗi thời, thậm chí lạc hậu, bảo thủ
cần khắc phục, nhưng những giá trị lịch sử và văn hóa dân tộc luôn luôn là cơ sở vững chắc cho công cuộc phục hưng dân tộc, cho sự phát triển bền vững của đất nước.
58
Phần thứ hai
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ, GIÀNH ĐỘC LẬP, TỰ DO, THỐNG NHẤT NON SÔNG
(1945-1975)
Chương 1
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC; XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ NHÂN DÂN
(1945-1954)
1. Đứng trước thử thách sống còn
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã đứng trước thử thách khắc nghiệt “ngàn cân treo sợi tóc”. Theo nghị quyết của Hội nghị Pốtxđam, quân Đồng minh đã kéo vào Việt Nam để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật: phía bắc vĩ tuyến 16 là gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch, kéo theo là bọn tay sai tập trung trong hai tổ chức Việt Quốc và Việt Cách; phía nam vĩ tuyến 16 là hơn
59
một vạn quân Anh và núp dưới bóng quân Anh là thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược Việt Nam. Ngày 23/9/1945, tức là chỉ hơn 20 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, được sự giúp đỡ và che chở của quân Anh, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược ở Nam Bộ, chính thức tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một lần nữa. Trên đất nước Việt Nam vẫn còn hơn 6 vạn quân Nhật, tuy đã đầu hàng Đồng minh nhưng sẵn sàng bị các thế lực đế quốc lợi dụng để chống phá cách mạng. Núp dưới bóng quân xâm lược nước ngoài, bọn phản động trong nước cũng điên cuồng chống phá. Chúng cướp chính quyền cách mạng ở một số nơi, lập ra cái gọi là “chiến khu”. Chúng ra báo công khai xuyên tạc, vu khống, kích động nhân dân lật đổ chính quyền, tống tiền, cướp của, gây rối trật tự trị an và an ninh xã hội. Thêm vào đó, nhà nước cách mạng phải tiếp thu cả một gia tài đổ nát do chế độ cũ để lại: nền kinh tế tiêu điều xơ xác, kiệt quệ, tài chính trống rỗng; nạn đói trầm trọng; 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội đầy rẫy, ta lại chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý chính quyền nhà nước. Giặc ngoài, thù trong, cộng với khó khăn chồng chất đã đặt nền độc lập vừa giành được đứng trước nguy cơ bị thủ tiêu.
Giữa lúc tình hình nước sôi lửa bỏng, ngày 06/01/1946, tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở
60
lên đã thể hiện quyết tâm sắt đá và ý chí độc lập của mình bằng việc tham gia cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử nước nhà để bầu Quốc hội, tổ chức ra bộ máy nhà nước cách mạng để chính thức công bố trước thế giới. Nhân dân Nam Bộ đã tiến hành bầu cử dưới bom đạn của thực dân Pháp, phải hy sinh cả xương máu để thực thi quyền dân chủ thiêng liêng mà cách mạng vừa đem lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng cử với số phiếu rất cao: 98,4%. Quốc hội đã hội tụ tất cả các thành phần giai cấp xã hội, dân tộc, tôn giáo, thể hiện ý chí độc lập, thống nhất và đại đoàn kết của nhân dân Việt Nam.
Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội, tiến hành ngày 09/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được thông qua. Hiến pháp được xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ và xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt, nhằm xây dựng một “nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại” (Lời nói đầu). Hiến pháp đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1), “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia” (Điều thứ 2).
61
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận người dân mất nước trở thành người làm chủ. Sức sống của dân tộc đã được nâng lên gấp bội lần sau hơn 80 năm nô lệ.
Tổ quốc trên hết! Dân tộc trên hết! Triệu người Việt Nam như một dưới ngọn cờ đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sẵn sàng hy sinh tất cả tính mạng và tài sản để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được.
“Kháng chiến - kiến quốc”! Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước tập trung chống ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Để chiến thắng giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi cứu đói: đồng bào hãy nhường cơm, sẻ áo, cứu giúp lẫn nhau. Và chính Người đã nêu gương trước: 10 ngày nhịn ăn một bữa lấy gạo giúp dân nghèo. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, một phong trào tăng gia sản xuất diễn ra rầm rộ
khắp thành thị, thôn quê: Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Giặc đói bị đẩy lùi. Thật là một kỳ công hiếm có xét trong điều kiện lịch sử của Việt Nam lúc bấy giờ. Nhân dân còn nô nức hưởng ứng “Tuần lễ
vàng” nhằm xây dựng nền tài chính đầu tiên của nước Việt Nam mới. Chỉ trong một tuần lễ, nhân dân đã đóng góp 270 kg vàng và hàng chục triệu đồng vào “Quỹ Độc lập”.
62
Để chiến thắng giặc dốt, phong trào Bình dân học vụ đã diễn ra sôi nổi khắp thành thị, thôn quê. Người biết chữ dạy người không biết chữ, con dạy cha, chồng dạy vợ, đâu đâu cũng vang lên tiếng học bài. Chỉ trong vòng một năm, hơn 2 triệu người đã thoát nạn mù chữ. Một nếp sống mới lành mạnh nảy nở dưới chế độ mới.
Cùng với kiến quốc và để kiến quốc, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải tiến hành cuộc đấu tranh vô cùng gay go, gian khổ với các tập đoàn xâm lược và tay sai đang mưu toan bóp chết nhà nước cách mạng non trẻ, kéo Việt Nam trở lại chế độ thuộc địa như cũ. Cuộc đấu tranh này đặt trong các mối quan hệ quốc tế đan xen, chồng chéo và mâu thuẫn quyền lợi hết sức phức tạp diễn ra ở
Việt Nam lúc bấy giờ. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái không biến đổi để ứng phó với cái biến đổi), dựa trên nguyên tắc tối cao là chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thi hành một sách lược vô cùng kiên quyết và mềm dẻo để từng bước loại bớt kẻ thù, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn thác ghềnh tiến lên phía trước.
Chúng ta đã thực hiện sách lược tạm hòa hoãn với quân Tưởng Giới Thạch ở phía Bắc để tập trung mũi nhọn vào chống thực dân Pháp ở miền Nam, bởi vì thực dân Pháp là kẻ quyết tâm chiếm lại
63
nước ta và trên thực tế chúng đã nổ súng ở Nam Bộ. Để hòa hoãn, Việt Nam đã chấp nhận những điều kiện ngặt nghèo như cung cấp gạo ăn cho quân Tưởng Giới Thạch, chấp nhận 70 ghế của bọn tay sai vào Quốc hội không qua bầu cử và 5 ghế trong Chính phủ... Cả nước đã dồn sức cho Nam Bộ
kháng chiến. Nhân dân Nam Bộ, tiêu biểu là nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, đã vùng lên bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, kể cả gậy tầm vông, giáng trả
thực dân Pháp, chặn bàn tay xâm lược của chúng. Cuối tháng 02/1946, Tưởng Giới Thạch nhân nhượng cho thực dân Pháp đưa quân ra chiếm đóng miền Bắc dưới danh nghĩa thay thế quân Tưởng để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự lựa chọn ngặt nghèo: chiến tranh hay hòa bình. Biết mình, biết người, Việt Nam đã chấp nhận sách lược “hòa để tiến”. Để thể hiện ý chí hòa bình, giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, Việt Nam đã ký với thực dân Pháp bản Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946, thừa nhận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc và sau thời hạn 5 năm số quân này phải rút hết về nước. Thực dân Pháp thừa nhận Việt Nam là một nước tự do.
Quân Tưởng rút về, bọn tay sai tan tác và tháo chạy. Quân Anh cũng rút về nước, quân Nhật lần lượt hồi hương.
64
2. “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
Thực dân Pháp coi việc đưa quân ra miền Bắc như là một chiến thắng không cần một tiếng súng. Thái độ thiện chí của Việt Nam được họ coi là dấu hiệu của sự yếu đuối. Họ thi hành chính sách lấn dần từng bước một, không chịu đình chiến ở Nam Bộ, lập ra cái gọi là “nước Nam Kỳ tự trị”, gây sức ép toàn diện về chính trị, quân sự, ngoại giao, khiêu khích phá hoại ở nhiều nơi hòng thủ tiêu nước Việt Nam tự do mà chính họ đã thừa nhận. Trải qua hai lần đàm phán, trù bị ở Đà Lạt và chính thức ở Phôngtenơbơlô, họ vẫn khăng khăng bám giữ lập trường thực dân lỗi thời, đẩy cuộc đàm phán đến chỗ đổ vỡ. Để cứu vãn hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với thực dân Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946, nhân nhượng thêm cho thực dân Pháp một số quyền lợi về kinh tế và văn hóa. Nhưng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết cướp nước Việt Nam một lần nữa. Sau một loạt các hành động khiêu khích, phá hoại trắng trợn, cuối cùng họ đòi tước vũ khí của tự vệ và đòi giữ trật tự Hà Nội, thực chất là buộc Việt Nam phải đầu hàng vô điều kiện. Tình thế không còn con đường nào khác là phải cầm vũ khí vùng
65
dậy để bảo vệ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân Việt Nam bắt đầu.
Ngay sau khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc vừa bùng nổ, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
... Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”1.
Cả nước đã nhất tề vùng dậy giáng trả quân xâm lược. Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của nhân dân Thủ đô Hà Nội được coi là biểu tượng anh hùng của nhân dân Việt Nam trong những ngày đầu kháng chiến. Âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp bị chặn lại. Hàng vạn tấn máy móc, tài liệu đã được chuyển về chiến khu và lực lượng kháng chiến rút về nông thôn chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ___________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534. 66
Chính phủ đã về Việt Bắc để chỉ đạo kháng chiến. Việt Bắc trở thành căn cứ địa kháng chiến thần thánh của cả nước.
Chiến tranh Việt - Pháp đã nổ ra nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tìm mọi cách giải quyết bằng con đường hòa bình với Pháp. Người đã nhiều lần tha thiết kêu gọi nhà cầm quyền Pháp hãy chấm dứt chiến tranh nhưng giới cầm quyền Pháp vẫn lao vào cuộc chiến tranh phi nghĩa mà họ tưởng rằng sẽ nắm chắc phần thắng trong tay, đơn giản như một cuộc “du hành” quân sự.
3. “Chín năm làm một Điện Biên”
Tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa ngay trên đất nước của mình, trong hoàn cảnh của một nước nông nghiệp lạc hậu chống lại một cường quốc công nghiệp mạnh hơn mình, người Việt Nam đã tìm ra cách đánh giặc có hiệu quả. Đó là cả nước đánh giặc, kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm, đường phố là một chiến hào, đánh giặc mọi nơi, mọi lúc và bằng mọi thứ vũ khí trong tay. Đánh giặc cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ngoại giao. Ra sức phát huy cao độ sức người, sức của, trí tuệ của người Việt Nam, đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới. Thời gian sẽ ủng hộ Việt Nam để đi từ
67
yếu đến mạnh, đánh thắng kẻ thù từng bước, đi đến giành thắng lợi hoàn toàn.
Kháng chiến vô cùng gay go, gian khổ, nhưng tinh thần của nhân dân Việt Nam ngày càng cao, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi cuối cùng. Tháng 02/1951, Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) ra mắt, công khai hoạt động lãnh đạo nhân dân kháng chiến. Chính quyền cách mạng ngày càng mở rộng và tồn tại bí mật ngay cả trong những vùng thực dân Pháp kiểm soát.
Để huy động kinh tế cho kháng chiến, xây dựng và củng cố hậu phương của chiến tranh nhân dân, Việt Nam đã biết khai thác hợp lý tiềm năng của một nền kinh tế nông nghiệp để chống chọi với một cường quốc công nghiệp. Giữa vòng vây của quân thù, Việt Nam đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường cao độ. Xây dựng hậu phương trong cả nước, hậu phương của từng vùng chiến lược, hậu phương tại chỗ. Một mạng lưới thủ công nghiệp đã được phát triển rộng rãi nhằm đáp ứng những nhu cầu bức thiết hằng ngày cho nhân dân. Vượt qua muôn vàn khó khăn về máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, trình độ chuyên môn, một nền công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp quốc phòng, đã được xây dựng với hàng trăm cơ sở sản xuất nằm sâu trong các vùng căn cứ địa. Số vũ khí
68
tự sản xuất đã trở thành một trong ba nguồn vũ khí đánh giặc trong kháng chiến (cướp súng giặc giết giặc, tự sản xuất, và từ cuối năm 1950 có thêm sự viện trợ quốc tế).
Nông nghiệp luôn luôn là mặt trận quan trọng. Hầu hết các công trình thủy lợi lớn bị thực dân Pháp phá hủy, hàng vạn hécta đất bị bỏ hoang, trâu bò bị giết hại, kỹ thuật canh tác thô sơ. Nhà nước đã đề ra nhiều biện pháp kiên quyết để đẩy mạnh và khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Một trong những biện pháp đó là từng bước giải quyết quyền lợi của nông dân về ruộng đất; ban hành một loạt sắc lệnh về giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, đất vắng chủ, ruộng đất của thực dân Pháp và tay sai cho dân cày nghèo. Tháng 12/1953, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất, bắt đầu thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Nhờ thực hiện đồng bộ các chính sách mà nông nghiệp đã cung cấp ngày càng nhiều lương thực cho tiền tuyến, bảo đảm cho bộ đội “ăn no đánh thắng”. Kháng chiến tuy rất gian khổ nhưng trong những vùng giải phóng không hề có nạn đói xảy ra, đời sống nhân dân ổn định. Trong kháng chiến, nhiệm vụ chống giặc dốt vẫn được tiếp tục, nhờ đó thêm hàng triệu người biết đọc, biết viết.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam ngày càng nhận được sự đồng tình ủng hộ mạnh
69
mẽ của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Pháp tiến bộ. Liên minh chiến đấu 3 nước Đông Dương không ngừng được mở rộng.
Sách lược kháng chiến toàn dân, toàn diện đã góp phần tạo nên sức mạnh chung của kháng chiến trên mặt trận quân sự để đánh thắng kẻ thù. Hàng chục vạn thanh niên đã tình nguyện lên đường tòng quân giết giặc. Hàng triệu người đã đi dân công phục vụ tiền tuyến hoặc trực tiếp cầm súng đánh giặc giữ làng ở địa phương. Lực lượng vũ trang nhân dân 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân du kích) đã ra đời và ngày càng trưởng thành cả về số lượng, chất lượng, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Kháng chiến ngày càng giành được những thắng lợi to lớn. Cùng với phong trào chiến tranh du kích phát triển ngày càng mạnh mẽ ở trong vùng thực dân Pháp tạm chiếm, làm thất bại âm mưu “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của thực dân Pháp, chúng ta đã liên tiếp chủ động mở các chiến dịch lớn. Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đập tan cuộc tiến công lớn của thực dân Pháp đánh vào căn cứ địa Việt Bắc, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp.
Chiến thắng Biên giới Thu - Đông năm 1950 giải phóng biên giới, đánh thông đường liên lạc
70
quốc tế, phá vỡ thế bao vây của thực dân Pháp. Tiếp theo là hàng loạt chiến dịch lớn phá vỡ từng mảng hệ thống phòng ngự của thực dân Pháp, đẩy thực dân Pháp vào tình trạng ngày càng sa lầy bị động.
Mùa hè năm 1953, được đế quốc Mỹ giúp đỡ, thực dân Pháp thực hiện kế hoạch quân sự Nava, một kế hoạch lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương, hy vọng bình định Việt Nam trong vòng 18 tháng để tìm lối thoát trong “danh dự”. Với việc can thiệp ngày càng sâu của đế quốc Mỹ vào chiến tranh, tình hình Đông Dương càng trở nên nguy hiểm và phức tạp.
Trước tình hình trên, căn cứ vào khả năng và sự trưởng thành của kháng chiến, Việt Nam mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 vĩ đại mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, đập tan hoàn toàn kế hoạch quân sự Nava. Trước thất bại nặng nề đó, ngày 20/7/1954, thực dân Pháp buộc phải ký kết Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Hiệp định quy định thực dân Pháp rút về nước, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền dân tộc của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đã kết thúc, đồng thời cũng kết thúc hoàn toàn và vĩnh viễn chính sách xâm
71
lược, gây chiến của chủ nghĩa thực dân Pháp gần một thế kỷ trên đất nước Việt Nam.
Có thể khái quát về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 1945-1954 như sau:
Cùng với nhiệm vụ thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, chúng ta đã thực hiện chuyển nền kinh tế tàn tích thực dân, phong kiến và thấp kém thành nền kinh tế dân chủ, độc lập, phục vụ nhu cầu kháng chiến và kiến quốc.
Trong thời kỳ 1946-1954, kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia sản xuất, Chính phủ đã từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất, giảm tô, giảm tức để giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, cải thiện đời sống cho nông dân, góp phần nâng cao sức chiến đấu của quân đội. Năm 1949, sắc lệnh giảm tô, giảm tức được ban hành, đồng thời tạm cấp ruộng đất thu được của thực dân Pháp và địa chủ bỏ chạy vào vùng địch tạm chiếm chia cho nông dân nghèo. Nhờ đó, trong các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp ở miền Bắc trong 9 năm
72
kháng chiến đạt 10%/năm. Nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân được khôi phục và mở rộng.
Chỉ tính riêng từ năm 1945 đến tháng 4/1953 ở vùng tự do và đến tháng 7/1954 ở vùng mới giải phóng, nông dân miền Bắc đã được chia 475.900 ha ruộng đất và ở Nam Bộ, chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân 410.000 ha. Do lực lượng sản xuất được giải phóng, sản xuất nông nghiệp vùng giải phóng đạt mức tăng trưởng khá. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 2,95 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, trong đó riêng thóc đạt 2,3 triệu tấn, tăng 15,9%.
Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Ngoài số lượng lớn về vũ khí, đạn dược, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu được sản xuất ngày càng nhiều. Từ năm 1946 đến năm 1950 đã sản xuất được 20.000 tấn than cốc, 800 kg ăngtimoan. Từ năm 1950 đến cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc, 43,0 tấn chì. Những năm 1950-1954 đã sản xuất được 169,3 triệu mét vải, 31.700 tấn giấy.
Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục - chống giặc dốt được coi là một trong
73
những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại xâm, giặc đói. Từ năm 1946 đến năm 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Một hệ thống giáo dục được hình thành bao gồm từ bậc phổ
thông, bổ túc, chuyên nghiệp đến đại học. Một nền văn hóa mới được xây dựng, hướng vào phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng. Một mạng lưới y tế nhân dân hình thành, nhiều dịch bệnh bị đẩy lùi.
74
Chương 2
MIỀN BẮC KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN LỚN MIỀN NAM,
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI; MIỀN NAM TIẾP TỤC CÔNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ, ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
1. Tình hình Việt Nam sau ngày lập lại hòa bình
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới. Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời bị
chia cắt làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, sau 2 năm sẽ tổng tuyển cử tự do để thực hiện thống nhất đất nước.
Miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm 1954-1960, miền Bắc đã bắt tay ngay vào việc khôi phục nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cải tạo xã hội chủ nghĩa và hoàn thành nhiệm vụ “Người cày có ruộng”. Ở miền Nam, thực hiện âm
75
mưu chia cắt đất nước ta, đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân thực dân Pháp, trực tiếp nắm lấy chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam, đứng đầu là Ngô Đình Diệm, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Mặt khác, Mỹ
đã dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép đồng bào, nhất là đồng bào theo đạo Thiên Chúa, những tư sản mại bản, địa chủ, quan lại, công chức của chính quyền bù nhìn,... di cư vào miền Nam để mong muốn xây dựng chính quyền ở Sài Gòn có điều kiện trở thành quốc gia riêng biệt. Chính quyền Ngô Đình Diệm ngay khi vừa được thành lập đã công khai từ chối hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, đẩy mạnh “chống Cộng”, bắt và sát hại hàng vạn người yêu nước.
Lúc này, sau ngày hòa bình lập lại, cách mạng nước ta có 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm thực hiện mục tiêu thống nhất đất nước trên nền tảng độc lập và dân chủ.
2. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa để xây dựng miền Bắc vững mạnh, hậu phương lớn của tiền tuyến lớn; miền Nam tiến hành đấu tranh bảo vệ và phát triển lực lượng cách mạng (1954-1960)
Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng là một thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng. Sau khi
76
hòa bình được lập lại, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có những thuận lợi cơ bản: nhân dân cần cù, dũng cảm, đoàn kết và có tinh thần tự lực cao; thắng lợi của cuộc kháng chiến đem lại cho mọi người sự phấn khởi, niềm tin; ý thức chính trị của nhân dân được nâng cao; chúng ta có đội ngũ cán bộ trưởng thành trong kháng chiến; được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa nhiệt tình giúp đỡ. Bên cạnh những thuận lợi, miền Bắc được xây dựng trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn: đất nước bị chia cắt; nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá; xí nghiệp, hầm mỏ do nằm trong tay người Pháp nên ngừng sản xuất hay hoạt động thoi thóp, nghề thủ công suy sụp; nạn đói đe dọa; hàng chục vạn người thất nghiệp ở đô thị.
Nhận thức rõ sức mạnh của chính quyền nhân dân Việt Nam bắt nguồn từ khối đại đoàn kết của lực lượng yêu nước tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất, ngày 10/9/1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc họp để thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nội dung Tuyên ngôn và Cương lĩnh của Mặt trận thể hiện nổi bật tinh thần nhân dân cả nước đại đoàn kết để hoàn thành sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Trong Mặt trận, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến các dân tộc thiểu số, và trong các cơ quan nhà
77
nước ở Trung ương và địa phương đều có đại biểu của các dân tộc thiểu số.
Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng và Chính phủ đã nhanh chóng bắt tay vào tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa. Thực hiện người cày có ruộng và hợp tác hóa là những nhiệm vụ quan trọng nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu của nông nghiệp nước ta.
Vấn đề lớn nhất lúc này của cách mạng Việt Nam là nông dân, và yêu cầu cốt lõi của nông dân là vấn đề ruộng đất để trở thành người chủ nông thôn; người cày có ruộng là ước mơ chung của mọi nông dân, tạo nên tiền đề cho việc cải tạo và phát triển nông thôn theo hướng xã hội chủ nghĩa. Sau khi hòa bình lập lại, công tác cải cách ruộng đất được tiếp tục thực hiện.
Để hỗ trợ cho nông nghiệp và nông thôn khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh và tàn dư của chế độ phong kiến, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và chính sách kinh tế, tài chính tích cực, trong đó nổi bật nhất là tiếp tục cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, 810.000 ha đất nông nghiệp của địa chủ được tịch thu và chia cho nông dân nghèo1. Cải cách ruộng đất
___________
1. Xem “Một vài nét về kinh tế - xã hội Việt Nam”, http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocC HXHCNVietNam/ThongTinTongHop/kinhtexahoi, ngày 17/4/2020.
78