🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 4MK
Ebooks
Nhóm Zalo
4MK
Nguyên tác: The Fourth Monkey (2017) Tác giả: J. D. Barker
Dịch giả: Quách Cẩm Phương Đinh Tị & NXB Văn học - 3/2019 —★—
ebook©vctvegroup
25/04/2020
P
orter
Ngày 1 - 6:14 sáng
CHƯƠNG 1
Lại là nó, tiếng chuông điện thoại réo rắt mãi không dứt. Mình tắt chuông rồi cơ mà. Tại sao lại có chuông báo tin nhắn? Tại sao lại có tiếng chuông kêu nhỉ?
Steve Jobs mất, Apple cũng ngắc ngoải theo luôn.
Sam Porter lăn người sang bên phải, tay quờ quạng tìm chiếc điện thoại để trên kệ tủ đầu giường.
Chiếc đồng hồ báo thức bay xuống, vỡ tan tành dưới nền nhà, kèm theo là tiếng rơi vỡ đặc trưng của món đồ điện tử rẻ tiền xuất xứ Trung Quốc.
“Tiên sư cái tay.”
Mần mò mãi, khi những ngón tay chạm được tới chiếc điện thoại, Porter rứt nó khỏi dây sạc rồi đưa ra trước mặt, nheo mắt liếc nhìn màn hình nhỏ xíu sáng chói.
GỌI CHO TÔI - 911
Tin nhắn của Nash.
Porter liếc nhìn sang vợ ở bên kia giường, chẳng thấy người đâu, chỉ thấy một tờ giấy nhắn:
Em đi mua sữa, sẽ về ngay.
xoxo,
Heather
Anh cằn nhằn gì đó rồi lại đưa mắt nhìn vào điện thoại. 6:15 phút sáng.
Đáng buồn thay cho một buổi sáng tĩnh lặng.
Porter ngồi dậy rồi ấn số gọi cho người cộng sự. Nash bắt máy sau hồi chuông thứ hai.
“Sam à?”
“Ừ, Nash.”
Người đàn ông ở đầu dây bên kia nín lặng trong giây lát. “Tôi rất xin lỗi, Porter ạ. Tôi đã đấu tranh rất lâu không biết có nên gọi cho anh hay không. Chắc tôi phải bấm số của anh cả chục lần rồi ấy, nhưng vẫn chẳng dám xuống tay nhấn nút gọi. Cuối cùng tôi quyết định tốt hơn hết là nhắn tin cho anh. Để anh có cớ bơ tôi, anh hiểu chứ?”
“Không sao đâu mà Nash. Có chuyện gì thế?”
Lại tiếp tục là một khoảng lặng. “Anh sẽ muốn xem tận mắt đấy.” “Xem cái gì?”
“Có một vụ tai nạn.”
Porter day day thái dương. “Tai nạn á? Chúng ta là Tổ Trọng án cơ mà. Tại sao phải quan tâm tới tai nạn nhỉ?”
“Anh phải tin tôi lần này. Anh sẽ muốn xem qua đấy.” Nash nói lại lần nữa. Giọng anh chàng nghe là lạ.
Porter thở dài. “Ở đâu thế?”
“Gần công viên Hyde Park, ven đường 55. Tôi nhắn anh địa chỉ rồi đấy.”
Chuông báo tin nhắn vang lên to tướng sát bên tai, Porter đưa chiếc điện thoại ra xa.
Mẹ cha cái thứ iPhone rởm đời!
Anh nhìn xuống màn hình điện thoại, ghi lại địa chỉ rồi tiếp tục cuộc gọi.
“Tôi sẽ có mặt trong khoảng ba mươi phút. Như thế được chứ?” “Được.” Nash đáp. “Chúng tôi chưa xong việc nhanh đến thế.” Porter ngắt máy rồi nặng nhọc lết hai chân xuống khỏi một bên
giường, lắng nghe cái cơ thể năm mươi hai tuổi đang lên tiếng phản đối bằng đủ những tiếng khục khặc, răng rắc.
Mặt trời đã dần lên cao, ánh sáng lọt vào trong nhà qua tấm rèm đã kéo xuống của cửa sổ phòng ngủ. Buồn cười thay, căn hộ không có mặt Heather lại trở nên tĩnh lặng và u sầu đến lạ. Đi mua sữa.
Trên sàn nhà lát gỗ, chiếc đồng hồ báo thức lóe sáng như thể đang nháy mắt với anh, mặt đồng hồ nứt vỡ bên trên hiển thị những kí tự không còn tương ứng với các con số nữa.
Hôm nay sẽ là một trong số những ngày như thế.
Mà gần đây có rất nhiều ngày như thế.
Porter bước ra khỏi căn hộ sau đó chừng mười phút, khoác trên người bộ cánh chỉn chu, đẹp đẽ nhất vốn thường dành để đi lễ vào Chủ nhật - bộ com lê màu xanh hải quân nhàu nhĩ mua ở cửa hàng Men’s Wearhouse từ gần một thập niên trước - rồi đi hết bốn lượt
cầu thang để xuống tới khu sảnh chật chội của tòa nhà. Anh dừng lại trước chỗ để hòm thư, lôi điện thoại ra và bấm số điện thoại của vợ.
Bạn đã gọi điện tới số điện thoại của Heather Porter. Vì đây là hộp thư thoại nên khả năng rất cao là tôi đã nhìn thấy tên của bạn trong danh sách cuộc gọi, và tôi có thể cam đoan một điều khá chắc chắn là tôi không hề muốn nói chuyện với bạn. Nếu bạn nguyện tâm nguyện ý cống nạp cho tôi bánh sô cô la hay các loại đồ ăn kiêng giàu dinh dưỡng khác, hãy nhắn tin chi tiết cho tôi và tôi sẽ cân nhắc sắp xếp lại vị trí của bạn trong danh sách những người quen biết và có thể sẽ gọi lại cho bạn sau. Nếu bạn là nhân viên kinh doanh đang tính dụ tôi đổi số thì làm ơn từ bỏ ý định luôn và ngay, tôi là của AT&T trong ít nhất một năm nữa rồi. Còn những người khác, xin hãy để lại lời nhắn. Hãy nhớ cho kĩ, chồng yêu của tôi là một chàng cớm nóng nảy, và chàng ta mang súng theo người đấy nhé!
Porter mỉm cười. Giọng nói của cô luôn khiến anh mỉm cười. “Này, Button. Anh đây. Nash gọi điện. Có một vụ ở gần công viên Hyde Park. Anh đang xuống đó gặp anh ấy. Anh sẽ gọi lại cho em sau, chừng nào anh biết mấy giờ có thể về nhà.” Anh nói tiếp. “À mà anh nghĩ là đồng hồ báo thức của chúng ta không ổn rồi.”
Anh thả điện thoại vào trong túi áo rồi đẩy người bước ra khỏi cánh cửa, những cơn gió lồng lộng của Chicago nhắc anh nhớ mùa thu sắp qua, nhường chỗ cho mùa đông đang tới.
P
orter
Ngày 1 - 6:45 sáng
CHƯƠNG 2
Porter đi theo đường Đại lộ Lake Park, đường thông hè thoáng rất dễ chịu, và anh tới nơi vào khoảng bảy giờ kém mười lăm. Cảnh sát Chicago đã vây kín đoạn đường 55 khu Woodlawn. Anh có thể nhìn thấy ánh đèn sáng từ cách đó nhiều tòa nhà - chí ít mười đơn vị, một xe cứu thương, hai xe cứu hỏa. Hai mươi cảnh sát, có thể còn nhiều hơn thế. Và cả báo chí nữa.
Anh giảm tốc độ chiếc xe Dodge Charger đời cũ khi tiến gần tới đám đông hỗn loạn, thò tay lấy phù hiệu giơ ra ngoài cửa sổ. Một cảnh sát trẻ, đúng kiểu vắt mũi chưa sạch, cúi đầu chui qua dải băng vàng khoanh vùng hiện trường và chạy lại. “Thanh tra Porter phải không? Anh Nash bảo tôi chờ anh. Anh đỗ đâu cũng được - chúng tôi đã phong tỏa toàn bộ khu nhà.”
Porter gật đầu, tiếp đó đánh xe đỗ bên cạnh một trong hai chiếc xe cứu hỏa rồi bước ra. “Nash đâu rồi?”
Viên cảnh sát trẻ đưa cho anh một ly cà phê. “Ở đằng kia, gần chỗ xe cứu thương.”
Anh nhìn thấy dáng người to lớn của Nash đang đứng nói chuyện với Tom Eisley đến từ phòng pháp y. Với chiều cao trên một mét chín, Nash trông như một tòa tháp phủ bóng lên người đàn ông
bé nhỏ hơn rất nhiều. Có vẻ như trong vài tuần vừa qua anh đã tăng thêm vài kí thịt kể từ lần cuối Porter gặp anh, cái bụng phệ đặc trưng của cảnh sát lúc liểng rõ mồn một phía trên chiếc thắt lưng. Nash vẫy tay gọi anh bước qua.
Eisley gật nhẹ đầu chào Porter rồi đẩy cặp kính lên trên sống mũi. “Anh ổn chứ, Sam?” Trên tay anh ta đang cầm một kẹp tài liệu với một tập giấy dày. Trong cái thế giới của máy tính bảng với điện thoại thông minh ngày nay, người đàn ông ấy dường như vẫn luôn cầm theo chiếc kẹp tài liệu trong tay, những ngón tay sốt sắng lướt qua từng trang giấy.
“Tôi nghĩ anh ấy đang phát ngán khi mọi người cứ liên tục hỏi anh ấy có ổn không, anh ấy thế nào, anh ấy sống tốt chứ, hay bất cứ câu hỏi tương tự nào khác chỉ để xác nhận là anh ấy vẫn sống tốt.” Nash làu bàu.
“Có sao đâu. Tôi ổn mà.” Anh gượng cười. “Cảm ơn đã hỏi thăm, Tom ạ.”
“Nếu anh cần bất cứ thứ gì, cứ yêu cầu nhé!” Eisley lườm Nash một cái.
“Rất cảm ơn anh.” Porter quay sang phía Nash. “Thế nào, tai nạn à?”
Nash gật đầu, hướng về phía một chiếc xe bus công cộng của thành phố đang đỗ gần vỉa hè cách đó chừng mười lăm mét. “Người đọ máy móc. Qua xem đi!”
Porter đi theo Nash, Eisley bước theo sau vài bước, có cả chiếc kẹp tài liệu đi theo.
Một kĩ thuật viên của CSI* đang chụp ảnh phần phía trước của xe bus. Lưới tản nhiệt ở đầu xe bị móp vào, rúm ró. Phần sơn nứt nẻ cách đèn pha bên phải chừng ba centimet. Một điều tra viên khác đang kéo thứ gì đó bị đè bên dưới lốp trước bên phải.
Khi tới gần hơn, anh nhìn thấy túi đựng xác màu đen nằm giữa một rừng cảnh phục đang đứng chắn phía trước đám người đang ngày một đông đúc.
“Chiếc xe bus đang chạy khá nhanh, điểm đỗ tiếp theo của nó cách đây chừng một cây rưỡi, thẳng con đường này.” Nash nói với họ.
“Tôi không chạy quá tốc độ, bố khỉ! Kiểm tra GPS mà xem. Đừng có đứng ngoài mà buông lời buộc tội người khác như thế!” Porter quay người sang trái để tìm người lái chiếc xe bus. Đó là một người đàn ông to lớn, ít nhất cũng phải một trăm ba chục cân. Chiếc áo khoác đồng phục màu đen kéo khóa của CTA* bó sát lấy thân hình vạm vỡ đúng như chức năng mà nó cần làm. Mái tóc hoa râm như rễ tre, bện lại ở bên trái và lĩa chĩa chổng ngược hết lên ở bên phải. Đôi mắt lo lắng liếc nhìn về phía họ, đầu tiên là Porter, tới Nash, rồi chuyển tiếp sang Eisley, rồi lại quay về chỗ ban đầu. “Cái thằng điên ấy nhảy bổ ra ngay trước đầu xe. Đó không phải là tai nạn. Nó tự lao đầu tìm chỗ chết mà.”
“Không ai nói là lỗi do anh cả.” Nash vỗ về người lái xe. Điện thoại của Eisley đổ chuông. Anh ta liếc nhìn vào màn hình, giơ tay ra hiệu rồi bước sang bên vài bước để nhận cuộc gọi. Người lái xe tiếp tục. “Các anh đang bắt đầu rêu rao rằng do tôi lái xe quá tốc độ, và thế là đi tong, công việc của tôi, lương hưu của
tôi… Các anh nghĩ đến tuổi này rồi mà tôi còn phải đi kiếm một công việc khác sao? Trong cái tình hình kinh tế nát như bị chó nhá này ấy hả?”
Porter liếc nhìn thẻ tên của người đàn ông. “Anh Nelson này, anh hãy hít một hơi thật sâu và cố gắng bình tĩnh lại thử xem nào.” Mồ hôi lăn xuống trên gương mặt đỏ ửng của người đàn ông. “Tôi sẽ phải vác chổi lê lết ở một nơi nào đó, tất cả chỉ vì cái thằng rồ đấy chọn lao đầu vào xe của tôi. Ba mươi mốt năm trời cầm lái chưa từng gặp một rắc rối nào, thế mà bây giờ… Khốn nạn!” Porter đặt một tay lên vai người đàn ông. “Anh có thể kể lại cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra được không?”
“Tôi phải ngậm mồm cho tới khi đại diện công đoàn tới, đó là điều tôi cần phải làm.”
“Tôi sẽ chẳng giúp được gì nếu anh không nói chuyện với tôi.” Người lái xe cau mày. “Anh sẽ làm được gì cho tôi?” “Tôi có thể nói khó giúp anh với Manny Polanski ở văn phòng
quản lý, trước hết là vậy. Nếu anh không làm gì sai, nếu anh hợp tác với chúng tôi, chẳng có lí do gì chúng tôi lại treo bằng của anh cả.”
“Mẹ kiếp! Anh nghĩ tôi có thể bị treo bằng vì chuyện này sao?” Người đàn ông lấy tay lau mồ hôi chảy ở lông mày. “Chúa ơi, tiền đâu để tôi qua khỏi đây.”
“Tôi không nghĩ họ sẽ làm thế nếu họ biết anh hợp tác với chúng tôi, nếu họ biết anh đã cố gắng giúp đỡ cảnh sát. Thậm chí còn không bị điều tra nữa.” Porter cam đoan với người lái xe.
“Bị điều tra sao?”
“Tại sao anh không kể tôi nghe chuyện gì đã xảy ra nhỉ? Rồi sau đó tôi có thể nói chuyện với Manny giúp anh, có thể sẽ giúp anh giải quyết được mấy thứ rắc rối này.”
“Anh biết Manny à?”
“Hai năm đầu mới vào nghề, tôi là cảnh sát thường trực làm việc với văn phòng quản lý. Anh ấy sẽ nghe tôi nói. Anh giúp chúng tôi, tôi sẽ nói tốt cho anh, tôi hứa.”
Người lái xe suy nghĩ về đề nghị đó, cuối cùng anh ta hít một hơi thật dài và gật đầu. “Chuyện xảy ra đúng như những gì tôi đã kể với anh bạn của anh. Tôi đến bến Ellis vừa đúng giờ - đón hai người lên, cho một người xuống. Tôi lái xe chạy theo hướng đông đến đường 55, vòng qua góc ngoặt đó. Đèn hiệu ở Woodlawn báo màu xanh, thế nên đâu cần giảm tốc độ - không phải tại tôi chạy quá tốc độ. Các anh cứ kiểm tra GPS mà xem.”
“Tôi tin chắc anh không chạy quá.”
“Tôi không hề, tôi đi đúng làn đường cho phép. Có thể tôi đi nhanh hơn giới hạn vài cây, nhưng như thế vẫn chưa phải vượt quá tốc độ.” Anh ta nói.
Porter vẫy vẫy tay. “Anh đang cho xe chạy theo hướng đông đến đường 55…”
Người lái xe gật đầu. “Đúng thế. Tôi nhìn thấy có vài người ở góc đường, không đông lắm. Ba, mà cũng có thể là bốn. Rồi khi tôi sắp đến gần, gã này nhảy bổ ra trước mũi xe. Không có cảnh báo trước hay gì hết. Một giây trước hắn vẫn còn đứng đó, thế mà một giây
sau hắn đã đứng giữa đường rồi: Tôi đạp phanh, nhưng làm sao nó có thể dừng lại ngay tắp lự được. Tôi đâm chính diện hắn luôn. Hắn bắn xa gần chục mét.”
“Đèn lúc đó màu gì?” Porter hỏi.
“Xanh.”
“Không phải vàng chứ?”
Người lái xe lắc đầu. “Không, là xanh. Tôi biết chắc, bởi vì tôi đã chú ý quan sát việc nó đổi màu. Trong vòng hai mươi giây sau đó hoặc hơn, đèn vẫn không chuyển sang vàng. Lúc tôi nhìn thấy nó đổi màu, ấy là lúc tôi đã xuống khỏi xe rồi.” Anh ta chỉ lên đèn báo hiệu. “Các anh kiểm tra camera mà xem.”
Porter ngước mắt lên nhìn. Trong một thập kỉ vừa qua, gần như mọi nút giao trong thành phố này đều đã được lắp camera CCTV*. Anh nhắc Nash nhớ lấy băng ghi hình sau khi về sở. Dường như người bạn cộng sự của anh đã ghi nhớ sẵn việc đó.
“Gã đó không hề qua đường, hắn đã nhảy bổ ra. Anh sẽ thấy rõ nếu xem băng.”
Porter đưa cho người lái xe một tấm thiếp. “Anh ở lại đây một lát đã được chứ, phòng trường hợp tôi muốn hỏi thêm gì đó?” Người đàn ông nhún vai. “Anh sẽ nói chuyện với Manny phải không?”
Porter gật đầu. “Xin phép anh một lát, được chứ?” Nói rồi anh kéo Nash sang một bên, hạ nhỏ giọng xuống. “Anh ta không chủ đích giết hại gã đó. Mà nếu thậm chí đây là một vụ tự tử thì cũng chẳng can hệ gì đến chúng ta. Anh gọi tôi ra đây làm gì vậy?”
Nash đặt một tay lên vai người cộng sự. “Anh có chắc là anh đã ổn để làm việc không? Nếu anh vẫn cần thêm thời gian, tôi hoàn toàn hiểu…”
“Tôi ổn.” Porter nói. “Nói tôi nghe chuyện gì đang xảy ra.” “Nếu anh cần nói chuyện…”
“Nash, tôi có phải trẻ con quái đâu. Thôi ngay cái kiểu nâng niu đó đi.”
“Thôi được rồi.” Cuối cùng Nash cũng chịu dịu xuống. “Nhưng nếu chuyện này quá sức chịu đựng hoặc vẫn còn quá sớm với anh, anh phải hứa với tôi là anh sẽ rút ra, hiểu chưa? Sẽ không ai thắc mắc gì nếu anh cần phải làm thế.”
“Tôi nghĩ làm việc sẽ giúp tôi vui hơn một chút. Tôi phát rồ hết cả người khi cứ ngồi quanh quẩn trong căn hộ suốt rồi.” Anh thừa nhận.
“Chuyện này quan trọng đấy, Porter ạ.” Nash nói bằng một giọng nhỏ trầm. “Anh xứng đáng được ở đây.”
“Chúa ơi, Nash. Anh có định nói hay không đây?”
“Tôi dám cá là nạn nhân của chúng ta đang hướng tới cái thùng thư ở đằng kia.” Nash đánh mắt nhìn về phía cái thùng thư màu xanh dương phía trước tòa nhà chung cư bằng gạch. “Làm sao anh biết?”
Một nụ cười nhăn nhở hiện trên gương mặt người cộng sự của Potter. “Hắn mang theo một cái hộp nhỏ màu trắng thắt dây đen.” Hai mắt Porter trợn tròn. “Khônggg…”
“Thì đấy.”
Crime Scene Investigation: Đội điều tra hiện trường.
Chicago Transit Authority: Cơ quan quản lý vận chuyển thành phố Chicago.
Closed-circuit television: Camera giám sát.
P
orter
Ngày 1 - 6:53 sáng
CHƯƠNG 3
Porter đang cúi nhìn chăm chăm vào cái xác, nó lổn nhổn không còn nguyên vẹn bên dưới túi bọc bằng nhựa màu đen. Không tìm được lời nào để nói.
Nash yêu cầu những cảnh sát khác và các kĩ thuật viên CSI lùi lại phía sau, dành không gian lại cho Porter, để anh có chút thời gian đứng một mình với nạn nhân. Họ di chuyển hết ra phía sau hàng rào bảo vệ hiện trường, mắt họ quan sát, tiếng họ thì thầm nho nhỏ. Với Porter, họ như vô hình. Anh chỉ nhìn thấy cái túi đựng xác đen sì và một cái hộp nhỏ nằm bên cạnh. Nó đã được CSI gắn thẻ ghi “Số 1”, và chẳng còn nghi ngờ gì nữa, nó đã được chụp đi chụp lại cả chục lần từ đủ mọi góc độ có thể. Tuy thế, họ biết tốt hơn là không nên mở ra. Họ để lại nó cho anh.
Cho đến lúc này đã có bao nhiêu cái hộp như thế?
Một tá ư? Không. Đã gần gấp đôi số đó rồi.
Anh đã nhẩm tính.
Bảy nạn nhân. Mỗi nạn nhân ba hộp.
Hai mươi mốt.
Hai mươi mốt hộp trong gần năm năm vừa qua.
Hắn đã đùa bỡn với họ. Không bao giờ để lại một manh mối nào.
Chỉ có những cái hộp thôi.
Một bóng ma.
Porter đã nhìn thấy rất nhiều cảnh sát tới rồi đi khỏi đội điều tra đặc biệt. Mỗi lần có nạn nhân mới, đội điều tra lại mở rộng thêm. Báo chí hễ nghe phong thanh về một chiếc hộp mới là sẽ bu lại như kền kền đợi xác chết. Cả thành phố sẽ túm tụm lại với nhau trong một cuộc săn lùng quy mô cực lớn. Nhưng rồi cuối cùng chiếc hộp thứ ba sẽ tới, xác của nạn nhân sẽ được tìm thấy, và rồi hắn lại biến mất một lần nữa. Biến mất, để lại vô vàn những điều khó lí giải. Nhiều tháng trôi qua, thông tin về hắn nhạt dần trên những tờ báo. Đội điều tra đặc biệt cũng thu nhỏ dần khi các thành viên trong đội bị kéo đi để giải quyết những vấn đề bức xúc khác.
Porter là người duy nhất theo sát từ đầu. Anh đã ở đó khi chiếc hộp đầu tiên xuất hiện, anh đã ngay lập tức nhận ra nó xuất hiện để làm gì - báo hiệu sự bắt đầu một cuộc vui cuồng loạn của một kẻ giết người hàng loạt. Khi chiếc hộp thứ hai tới, rồi sau đó là chiếc hộp thứ ba, rồi cuối cùng là cái xác, mọi người cũng đều nhận ra.
Đó là sự khởi đầu của một thứ gì đó hết sức kinh khủng. Một thứ gì đó đã được lên kế hoạch sẵn.
Một thứ gì đó tội lỗi.
Anh đã có mặt ở đó khi nó bắt đầu. Và bây giờ có phải anh đang tận mắt chứng kiến nó kết thúc?
“Trong hộp đó có gì?”
“Chúng tôi vẫn chưa mở ra.” Nash đáp. “Nhưng tôi nghĩ anh biết đấy.”
Chiếc hộp rất nhỏ. Chiều dài, chiều rộng chừng mười centimet và cao bảy centimet rưỡi.
Giống những hộp khác.
Bọc bằng giấy trắng và thắt dây màu đen. Nhãn ghi địa chỉ được viết bằng tay, nắn nót. Chưa một dấu vân tay nào từng sót lại - chưa bao giờ. Tem là loại bóc dán - họ chẳng thể lấy được mẫu nước bọt.
Anh liếc nhìn lại cái túi đựng xác. “Anh thực sự nghĩ đó là hắn sao? Anh tìm được tên của hắn chứ?”
Nash lắc đầu. “Không tìm được ví hay chứng minh thư trên người. Khuôn mặt của hắn đập vào vỉa hè và trên lưới tản nhiệt của xe bus. Chúng tôi đã quét thử dấu vân tay nhưng không tìm được dữ liệu khớp. Hắn như ma vậy.”
“Ồ, hắn là người chứ.” Porter nói. “Anh có găng tay đó không?” Nash lôi ra từ trong túi áo một đôi găng tay cao su và đưa nó cho Porter. Porter đeo vào rồi hất đầu về phía cái hộp. “Anh không phiền chứ?”
“Chúng tôi để dành cho anh mà.” Nash nói. “Vụ này là của anh, Sam ạ. Luôn luôn là thế.”
Khi Porter đang cúi người xuống và chạm tới cái hộp, một kĩ thuật viên hiện trường vội vã chạy tới, lóng ngóng cầm theo một chiếc máy quay nhỏ. “Tôi xin lỗi, thưa sếp, nhưng tôi có lệnh phải quay lại tư liệu.”
“Được thôi cậu nhóc. Nhưng mà chỉ mình cậu thôi nhé! Sẵn sàng chưa?”
Ánh đèn đỏ phía trước máy quay nháy lên, và cậu kĩ thuật viên
gật đầu. “Tiếp tục được rồi ạ.”
Porter xoay chiếc hộp lại để đọc nhãn ghi địa chỉ, cẩn thận tránh vấy phải những giọt máu đỏ tươi. “Arthur Talbot, 1547 Đại lộ Dearborn.”
Nash huýt một tiếng sáo. “Khu nhà giàu. Toàn các nhà lắm tiền lâu đời. Nhưng tôi không biết cái tên đó.”
“Talbot là một chủ ngân hàng đầu tư.” Anh chàng kĩ thuật viên CSI đáp. “Và cũng nhúng tay khá sâu vào bất động sản nữa. Gần đây ông ta đang cho chuyển đổi mấy khu nhà kho gần chỗ ven hồ thành các căn hộ có gác xép - góp công lớn đẩy các gia đình có thu nhập thấp đi và thay vào đó là những người có thể trả giá thuê cao và uống Starbucks cốc to thường xuyên.”
Porter biết rõ Arthur Talbot là ai. Anh ngước mắt nhìn lên cậu kĩ thuật viên. “Tên cậu là gì hả nhóc?”
“Paul Watson, thưa sếp.”
Porter không thể không mỉm cười tươi rói. “Rồi một ngày cậu sẽ trở thành một thanh tra xuất sắc, bác sĩ Watson ạ.”
“Tôi chưa phải tiến sĩ* thưa sếp. Tôi đang viết luận rồi, nhưng ít nhất sẽ còn phải viết trong hai năm nữa.”
Porter cười khúc khích. “Không còn ai muốn đọc nữa hay sao?” “Sam, cái hộp thì sao?”
“À ừ. Cái hộp.”
Anh kéo sợi dây buộc, quan sát nút thắt được tháo ra và mở tung. Tờ giấy trắng bên dưới được gập ngay ngắn ở các góc tạo thành những hình tam giác nhỏ ở mỗi đầu.
Giống như một món quà. Hắn gói nó như một món quà. Lớp giấy được bóc ra dễ dàng, để lộ bên dưới một cái hộp màu đen. Porter đặt tờ giấy và sợi dây buộc sang một bên, liếc nhìn Nash và Watson, rồi chậm rãi nhấc mở nắp hộp.
Cái tai đã được rửa sạch máu và nằm yên vị trên một lớp bông trắng.
Giống hệt như những cái khác.
Ở đây Porter ám chỉ nhân vật “bác sĩ Watson”, còn Watson lại hiểu “doctor” là “tiến sĩ” (Caruri).
P
orter
Ngày 1 - 7:05 sáng
CHƯƠNG 4
“Tôi cần xem thi thể của hắn.”
Nash liếc nhìn đám đông bằng ánh mắt đầy lo lắng. “Anh có chắc là muốn xem ngay tại đây không? Có rất nhiều cặp mắt đang hướng vào anh ngay lúc này.”
“Dựng lều lên đi!”
Nash ra hiệu với một trong số các cảnh sát.
Mười lăm phút sau, mặc cho lượng xe cộ đang đi tới khó chịu đến mức nào, một chiếc lều 12x12 vẫn được dựng lên trên đường 55, án ngữ mất một trong hai con đường hướng về phía đông. Nash và Porter lách qua cửa căn lều, bám sát ngay sau là Eisley và Watson. Một cảnh vệ mặc đồng phục đứng canh bên ngoài cửa phòng trường hợp có ai vượt qua các rào chắn của phạm vi hiện trường và tìm cách lẻn vào trong.
Sáu chiếc đèn halogen 1200W được dựng đứng trên những giá đỡ ba chân bằng kim loại màu vàng xếp thành hình bán nguyệt vòng quanh cái xác, chiếu rọi cả không gian nhỏ hẹp bằng ánh sáng rực rỡ, chói lóa.
Eisley cúi xuống và kéo mở phần nắp trên của chiếc túi. Porter khuỵu gối xuống. “Đã di chuyển cái xác chút nào chưa?”
Eisley lắc đầu. “Chúng tôi chỉ mới chụp ảnh, rồi bọc cái xác lại nhanh nhất có thể. Hắn đáp đất như vậy đấy.”
Hắn úp sấp mặt trên nền bê tông. Có một vũng máu nhỏ ở gần phía đầu và một vệt máu kéo dài tới góc căn lều. Mái tóc màu đen của hắn được cắt ngắn, lấm tấm vài sợi bạc.
Porter đeo vào tay một đôi găng tay cao su khác lấy từ cái hộp phía bên trái rồi nhẹ nhàng nhấc đầu của người đàn ông lên. Nó tách ra khỏi lớp nhựa đường nguội lạnh với tiếng sột soạt chẳng khác nào khi ta bóc kẹo dẻo trái cây cán mỏng* ra khỏi lớp ni lông. Bụng Porter sôi lên, và anh nhận ra là mình vẫn chưa ăn sáng. Có lẽ đó là một điều may mắn. “Các anh giúp tôi lật hắn lại được chứ?”
Eisley nắm lấy vai của người đàn ông, còn Nash thì đứng ở tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
“Đếm đến ba nhé. Một, hai…”
Vẫn còn quá sớm nên cái xác chưa kịp cứng lại, nó vẫn còn khá lỏng lẻo. Nhìn qua trông có vẻ chân bên phải đã bị gãy ít nhất là ở ba chỗ, cánh tay trái cũng vậy, có khi là còn nhiều hơn.
“Ôi Chúa ơi! Kinh quá!” Hai mắt của Nash nhìn chằm chằm vào khuôn mặt người đàn ông. Nói chính xác hơn là vào nơi mà đáng lẽ là chỗ của khuôn mặt. Hai gò má đã tan nát, chỉ còn sót lại những dấu vết sờn nát. Xương hàm lòi ra nhìn thấy rõ nhưng đã gãy vỡ - miệng hắn há hốc như thể có ai đó nắm lấy cả hai nửa xương hàm và kéo mở nó ra như mở một cái bẫy gấu. Một con mắt vỡ nát, một chất dịch trong suốt đang tuôn chảy. Một con mắt khác thì đang trợn trừng nhìn họ một cách vô hồn, dưới ánh đèn sáng, nó có màu xanh lá cây.
Porter tiến lại gần hơn. “Anh nghĩ sẽ tái dựng lại được nó chứ?” Eisley gật đầu. “Tôi sẽ cho người làm ngay khi đưa được cái xác về phòng thí nghiệm.”
“Cũng khó để kết luận, nhưng dựa trên thể trạng và mái tóc đã điểm bạc, tôi đoán hắn cuối bốn mươi, và nhiều nhất là đầu năm mươi.”
“Tôi cũng sẽ cho anh biết số tuổi chính xác hơn.” Eisley nói. Anh ta đang dùng chiếc đèn giống bút máy kiểm tra hai mắt của người đàn ông. “Giác mạc vẫn còn nguyên vẹn.”
Porter biết họ có thể ước lượng tuổi qua phương pháp định tuổi bằng carbon các vật chất bên trong mắt, đó được gọi là phương pháp Lynnerup. Quá trình này giúp thu hẹp độ sai số tuổi xuống còn một hoặc hai năm.
Người đàn ông mặc trên người bộ com lê kẻ sọc màu xanh hải quân. Tay áo bên trái đã bị rách tả tơi, một cái xương gãy lòi ra ở gần khuỷu tay.
“Có ai tìm thấy giày của hắn chưa?” Chiếc giày bên phải bị mất. Chiếc tất tối màu thấm đẫm máu.
“Một cảnh sát đã nhặt được nó. Đang để trên bàn phía bên kia.” Nash chỉ tay về chiếc bàn ở phía xa bên phải. “Hắn còn đội cả mũ phớt mềm nữa.”
“Mũ phớt mềm? Mấy thứ đó đang được yêu thích trở lại à?” “Chỉ có trên phim thôi.”
“Có gì đó trong túi áo kìa.” Watson chỉ tay vào túi áo ngực bên phải của áo khoác. “Nó hình vuông. Một chiếc hộp nữa sao?”
“Không đủ dày.” Porter cẩn thận tháo khuy chiếc áo khoác rồi luồn tay vào trong, lấy ra một cuốn sổ tay nhỏ, giống như những cuốn sổ mà các học sinh vẫn mang theo trước khi họ có máy tính bảng và điện thoại thông minh: Khổ 11cm x 9cm với phần bìa bọc trắng đen và những trang giấy có dòng kẻ. Nó đã được viết kín gần hết, mỗi trang được phủ kín bằng những dòng chữ viết tay nhỏ và sát nhau tới mức mỗi hai dòng trong quyển sổ này chỉ chiếm diện tích bằng bình thường người ta viết một dòng. “Đây có thể là một thứ gì đó. Trông giống như kiểu nhật ký. Quan sát tốt đấy, bác sĩ.”
“Tôi không phải…”
Porter xua xua tay với anh chàng. “Biết rồi, biết rồi.” Rồi anh quay lại phía Nash. “Tôi tưởng anh nói đã kiểm tra hết các túi trên người hắn rồi?”
“Chúng tôi mới kiểm tra túi quần để tìm ví thôi. Tôi muốn đợi anh để khám nghiệm cái xác mà.”
“Vậy chắc chúng ta sẽ phải kiểm tra lại những túi khác nữa.” Nói rồi anh bắt đầu với túi quần trước bên phải, kiểm tra lại phòng trường hợp bỏ qua thứ gì đó, rồi tiếp tục với hết cả thi thể. Khi tìm ra vật gì, anh lại nhẹ nhàng đặt xuống bên cạnh. Nash đính thẻ đánh dấu còn Watson chụp ảnh.
“Hết rồi. Không tìm được quá nhiều.”
Porter kiểm tra lại các món tìm được:
Hóa đơn giặt khô
Đồng hồ quả quýt
Bảy mươi lăm cent với đủ loại tiền lẻ
Tờ hóa đơn cũng chỉ chung chung. Ngoài con số 54873, nó chẳng còn bất cứ một thông tin nào có thể truy xuất được nữa, thậm chí tên hay địa chỉ của tiệm giặt cũng không có.
“Quét tìm dấu vân tay trên tất cả những thứ này đi.” Porter hướng dẫn.
Nash cau mày. “Để làm gì? Chúng ta có hắn ở đây rồi, và dấu vân tay của hắn cho kết quả âm.”
“Có lẽ là tôi đang cầu mình gặp may. Có thể chúng ta sẽ tìm được một dấu tay khớp và nó sẽ dẫn chúng ta tới chỗ một ai đó có thể nhận diện được hắn. Anh nghĩ gì về cái đồng hồ kia?”
Nash cầm cái dụng cụ đếm giờ lên trước ngọn đèn. “Tôi chẳng quen ai còn dùng đồng hồ quả quýt bây giờ nữa. Đang nghĩ có lẽ gã này lớn tuổi hơn anh tưởng.”
“Chiếc mũ phớt cũng giúp ta đoán vậy.”
“Trừ phi chỉ là hắn thích phong cách cổ điển.” Watson lên tiếng. “Tôi biết nhiều người như vậy.”
Nash bấm nút chốt, mặt đồng hồ bật mở. “Hả!”
“Sao thế?”
“Nó dừng lại vào lúc ba giờ mười bốn phút. Đó không phải là lúc gã này bị xe đâm.”
“Có thể tác động của cú đâm làm nó bị lệch?” Porter nói luôn suy nghĩ ra miệng.
“Nhưng chẳng có vết xước nào hết, không có dấu hiệu hư hại gì cả.”
“Có thể là thứ gì đó ở bên trong, hoặc có thể nó không hề bị
hỏng. Tôi xem được chứ?”
Nash đưa chiếc đồng hồ sang cho Porter.
Porter vặn nút chốt. “Nó lỏng quá. Lò xo không hoạt động. Nhưng mà tay nghề thợ làm khéo đấy. Tôi nghĩ nó được làm thủ công. Chắc chắn là để sưu tập.”
“Tôi có một người chú.” Watson lên tiếng.
“Ồ, chúc mừng cậu nhóc.” Porter đáp.
“Chú ấy có một cửa hàng đồ cổ ở trung tâm thành phố. Tôi cá chú ấy có thể cho chúng ta biết vài điều về thứ này.” “Cậu đang cố giành sao vàng* trong ngày hôm nay đấy à? Được rồi, cậu sẽ nhận nhiệm vụ với chiếc đồng hồ này. Ngay khi những thứ này được kiểm kê xong, hãy mang nó tới chỗ chú cậu và thử xem chúng ta sẽ tìm được gì.”
Watson gật đầu, khuôn mặt sáng bừng.
“Có ai nhận thấy có điều gì bất thường trong cách ăn mặc của gã này không?”
Nash khám nghiệm cái xác một lần nữa rồi lắc đầu.
“Đôi giày đẹp đấy.” Eisley nói.
Porter mỉm cười. “Đúng thế, nhỉ? Của hãng John Lobbs đấy. Chúng vào khoảng một ngàn năm trăm đô một đôi. Nhưng bộ com lê thì lại rẻ tiền, khả năng là mua ở một tiệm bán lẻ hoặc trong trung tâm thương mại. Có lẽ không tới vài trăm đô.”
“Rồi sao, anh đang nghĩ gì?” Nash hỏi. “Hắn làm việc trong ngành giày dép sao?”
“Không chắc nữa. Tôi không muốn kết luận ngay. Chỉ là thấy lạ
khi một người đàn ông bỏ quá nhiều tiền vào đôi giày mà lại không bỏ một khoản tương ứng để mua com lê thôi.”
“Trừ khi hắn làm nghề buôn bán giày và được mua với giá ưu đãi nào đó? Như thế nghe cũng có lí.” Watson nói.
“Rất vui vì cậu tán đồng với tôi. Nhưng những nhận xét ngớ ngẩn sẽ khiến sao vàng bị thu lại đấy.”
“Xin lỗi ạ.”
“Đừng lo, bác sĩ ạ. Chọc ngoáy nhau tí thôi. Bình thường tôi sẽ chọc Nash, nhưng anh ấy quá quen mấy trò bẩn của tôi rồi. Nên chẳng còn vui nữa.” Porter chuyển sự chú ý của mình sang cuốn sổ ghi chép. “Cậu đưa tôi cuốn sổ đó được chứ?”
Watson chuyển nó sang cho anh, rồi anh lật sang trang đầu tiên. Hai mắt của Porter nheo lại khi anh cố gắng lướt nhìn theo con chữ.
Xin chào bạn của tôi.
Tôi là một tên kẻ cắp, một tên giết người, một kẻ bắt cóc. Tôi đã giết người để tìm kiếm niềm vui. Tôi giết người vì tôi buộc phải thế. Tôi giết người vì ngứa mắt. Tôi giết người đơn giản chỉ để thỏa mãn những nhu cầu có khả năng xuất hiện trong tôi theo thời gian. Một thứ nhu cầu tương tự như cơn đói, chỉ có thể dập tắt bằng những dòng máu hoặc những bài ca được tìm thấy trong tiếng gào thét của kẻ bị tra tấn.
Tôi kể điều này với bạn không phải để dọa nạt hay để gây ấn tượng với bạn, mà chỉ đơn giản là nói lên sự thật, một cách cởi mở và chân thành.
IQ của tôi là 156, một mức thiên tài theo những gì người ta thống
kê được.
Một nhà thông thái từng nói: “Tự đo IQ của mình, cố gắng định lượng trí thông minh của chính mình, đó là dấu hiệu của sự ngu dốt.” Tôi không hề yêu cầu kiểm tra IQ, người ta tự đến làm - hẳn đó là việc mà bạn sẽ làm.
Nhưng chẳng bài kiểm tra nào có thể định nghĩa được tôi là ai, nó chỉ có thể cho biết tôi là cái gì. Đó là lí do tôi quyết định phải viết lại, để chia sẻ với bạn những gì mà tôi sắp sửa chia sẻ. Kiến thức mà không được chia sẻ, sẽ chẳng thể có sự phát triển. Bạn (với tư cách là xã hội) sẽ chẳng học được gì từ rất nhiều lỗi sai của mình. Và còn rất nhiều điều mà bạn phải học hỏi.
Tôi là ai?
Nói hẳn ra tên của tôi sẽ chỉ khiến cuộc chơi mất đi sự vui vẻ, bạn không nghĩ thế sao?
Nhiều khả năng bạn đã biết đến tôi với cái tên Four Monkey Killer. Vậy tại sao chúng ta không dừng ở đó thôi nhỉ? Hoặc có lẽ là 4MK cho những ai thích gọi tắt? Đơn giản hơn cả. Ai cũng gọi được. Và chúng ta sẽ có rất nhiều chuyện vui vẻ cùng nhau, bạn và tôi.
“Mẹ kiếp!” Porter lẩm bẩm.
Nguyên văn là “Fruit Roll-Ups”, một nhãn hiệu kẹo dẻo làm từ trái cây được cán thành lớp mỏng rồi sấy cho khô.
Biểu tượng cho sự khen thưởng.
CHƯƠNG 5
N
hật ký
Tôi muốn ta phải nói rõ ràng với nhau ngay từ đầu.
Đây không phải là lỗi của cha mẹ tôi.
Tôi lớn lên trong một gia đình tràn ngập tình yêu thương mà có thể khiến ngay cả Norman Rockwell* cũng phải chú ý tới. Mẹ của tôi, Chúa phù hộ cho linh hồn bà, đã từ bỏ công việc đầy hứa hẹn ở một nhà xuất bản để ở nhà sau khi sinh tôi ra, và tôi tin bà chưa bao giờ mong ngóng ngày quay trở lại. Mỗi sáng, bà đều bày sẵn đồ ăn lên bàn cho bố và tôi, và bữa tối thường diễn ra vào đúng sáu giờ. Chúng tôi yêu quý khoảng thời gian dành cho gia đình ấy, và chúng tôi tận hưởng nó theo những cách vui vẻ nhất. Mẹ sẽ kể lại những ngày tháng huy hoàng chói lọi với bố và tôi sẽ chăm chú lắng nghe. Giọng nói của mẹ là giọng nói của thiên thần, và tới ngày hôm nay, tôi chỉ mong được nghe thêm giọng của mẹ nhiều hơn nữa.
Bố làm việc trong ngành tài chính. Tôi dám chắc chắn rằng ông rất được đồng nghiệp kính trọng, mặc dù bố chẳng bao giờ nói chuyện công việc khi ở nhà. Bố có một niềm tin mạnh mẽ rằng những câu chuyện công việc hằng ngày nên được giữ lại ở nơi làm việc, không nên mang về nhà và dốc đổ lên nơi cư trú, chốn cư ngụ của mình như ai đó đổ một xô cám bầy nhầy cho lũ lợn mở tiệc.
Ông để những thứ liên quan tới công việc ở lại nơi làm việc, đó là nơi chúng thuộc về.
Ông luôn mang theo một cái ca táp màu đen sáng bóng, nhưng tôi chưa từng thấy ông mở nó ra bao giờ. Mỗi tối về nhà ông lại để nó bên cạnh cửa chính, và nó cứ ở nguyên đó cho tới khi ông rời nhà tới văn phòng vào buổi sáng làm việc hôm sau. Ông sẽ tiện tay nhấc chiếc ca táp theo trên đường ra khỏi cửa, ngay sau khi dành cho mẹ một nụ hôn yêu thương và vỗ nhẹ lên đầu tôi.
“Chăm sóc mẹ nhé, con trai!” Ông sẽ nói. “Con là người đàn ông trụ cột trong nhà cho tới khi ta quay lại. Nếu gã thu tiền đến gõ cửa, hãy chỉ gã sang mà thu nhà bên cạnh. Đừng quan tâm đến gã. Nói thẳng ra gã chẳng là cái quái gì hết. Tốt hơn con nên học hỏi điều này ngay bây giờ thay vì bực bội vì mấy thứ như thế khi con có gia đình riêng của mình.”
Với mũ phớt trên đầu và ca táp trong tay, bố sẽ lách ra khỏi cửa, miệng cười tươi và tay vẫy chào. Tôi sẽ chạy tới bên ô cửa sổ nhỏ và nhìn theo ông bước ra ngoài (cực kỳ cẩn thận với băng giá trơn trượt nếu là mùa đông lạnh lẽo) và trèo vào chiếc xe ô tô nhỏ màu đen có thể hạ mui. Bố lái chiếc Porsche 1969. Đó là một cỗ máy phi thường. Một tuyệt tác nghệ thuật sẽ cất lên tiếng gầm khàn khàn, khô giòn theo nhịp xoay của chìa khóa, và tiếng gầm sẽ còn lớn hơn nữa khi chiếc xe lăn bánh hướng ra đường, lướt xuống khỏi vỉa hè trong niềm hứng khởi vô cùng.
Ôi, bố mới yêu chiếc xe đó làm sao!
Mỗi Chủ nhật, chúng tôi sẽ lôi ra từ trong ga ra một cái xô lớn màu xanh nước biển cùng một đống giẻ vụn và cọ rửa cho nó từ
nóc tới bánh. Bố sẽ dành hàng giờ đánh mềm phần mui da màu đen và thoa sáp lên những khung vành kim loại của nó, không phải chỉ một mà là hai lần. Tôi được giao nhiệm vụ đánh sạch các nan hoa trên bánh xe, đó là công việc mà tôi làm cực kỳ nghiêm túc. Sau khi hoàn thành, chiếc xe sáng bóng như thể mới được đưa về từ cửa hàng trưng bày không lâu. Rồi bố sẽ hạ mui xe xuống và chở mẹ cùng tôi đi dạo loanh quanh. Mặc dù chiếc Porsche chỉ có hai chỗ ngồi nhưng tôi chỉ là một cậu nhóc và có thể thoải mái ních vừa vào khoảng trống đằng sau ghế ngồi. Chúng tôi sẽ đỗ lại cửa hàng Dairy Freeze trong khu đó để ăn kem và mua nước soda, tiếp đó sẽ đi thẳng tới công viên để đi dạo suốt buổi chiều giữa những cây sồi lớn và những thảm cỏ xanh mướt.
Tôi sẽ chơi đùa với những đứa trẻ khác trong lúc bố mẹ ngồi dưới bóng một cây cổ thụ và quan sát. Hai tay họ đan vào nhau, tình yêu thương ngập tràn trong ánh mắt họ. Họ sẽ đùa với nhau và cười lớn, và tôi có thể nghe thấy tiếng họ trong lúc đang đuổi theo một quả bóng hay chạy bắt chiếc đĩa bay. “Nhìn con này! Nhìn con này!” Tôi sẽ hét lên. Và họ sẽ nhìn. Họ nhìn theo tôi giống như những người cha người mẹ khác. Họ nhìn theo tôi với ánh mắt tự hào. Con trai của họ, niềm vui của họ. Tôi sẽ nhớ lại mình của những ngày thơ ngây ấy. Tôi sẽ nhớ lại cha mẹ ngồi dưới gốc cây, mỉm cười tươi tắn. Tôi sẽ nhớ lại và ghi nhớ hình ảnh cổ của họ với vết cắt dài nối từ tai bên này sang tai bên kia, máu tuôn ra từ vết cắt và thấm đẫm thảm cỏ bên dưới. Và tôi sẽ cười thật to, tim tôi đang run lên vì kích động, nên tôi sẽ cười thật to.
Tất nhiên, đó là chuyện của nhiều năm về trước, nhưng rõ ràng
đó là khi nó bắt đầu.
Norman Rockwell (1894-1978): Họa sĩ người Mỹ, nổi tiếng với các bức vẽ minh họa cho trang bìa của tạp chí The Saturday Evening Post trong gần năm mươi năm.
P
orter
Ngày 1 - 7:31 sáng
CHƯƠNG 6
Porter đỗ chiếc xe Charger của mình bên lề đường, ngay trước số 1547 Đại lộ Dearborn rồi ngước mắt lên nhìn tòa dinh thự bằng đá khổng lồ. Bên cạnh anh là Nash, vừa mới cúp điện thoại. “Đội trưởng vừa gọi. Anh ấy muốn chúng ta quay về.”
“Chúng ta sẽ về mà.”
“Anh ấy đang rất nhất quyết đấy.”
“4MK chắc chắn định gửi chiếc hộp đến chỗ này. Đồng hồ vẫn đếm từng giây. Ta chẳng còn đủ thì giờ để quay trở lại trụ sở ngay lúc này.” Porter nói. “Ta sẽ không ở lại đây lâu đâu. Nhưng bắt đầu từ chỗ này là điều khẩn thiết.”
“4MK? Anh thực sự muốn theo vụ này đấy à?”
“4MK, Người Khỉ, Four Monkey Killer. Tôi chẳng quan tâm chúng ta sẽ gọi thằng khốn điên rồ này là gì.”
Nash nhìn qua cửa sổ ô tô. “Đúng là một căn nhà to ‘kinh hoàng’. Chỉ có một gia đình sống ở đây thôi sao?”
Porter gật đầu. “Arthur Talbot, vợ, một cô con gái đang tuổi thiếu niên từ cuộc hôn nhân trước, chắc có thêm một hoặc hai con chó nhỏ hay sủa ăng ẳng, và một hoặc là năm người quản gia gì đó.” “Tôi đã kiểm tra lại với Cục Quản lý Người mất tích, nhà Talbot
vẫn chưa liên lạc với bất cứ ai.” Nash nói. Sau đó, hai người bước xuống xe rồi bắt đầu đặt từng bước chân lên bậc đá. “Anh muốn chơi trò này thế nào?”
“Nhanh thôi.” Porter đáp lại khi anh bấm nút chuông cửa. Nash hạ thấp giọng, thì thầm nói: “Vợ hay con gái?” “Gì cơ?”
“Cái tai ấy. Anh nghĩ đó là của bà vợ hay của cô con gái?” Porter đang định trả lời thì cánh cửa bỗng mở hé ra nhưng được sợi xích an toàn giữ lại. Một phụ nữ Tây Ban Nha, không cao hơn mét rưỡi, đang nhìn họ chòng chọc bằng cặp mắt nâu lạnh lùng. “Tôi giúp gì được cho hai anh đây?”
“Có ông hoặc bà Talbot ở nhà không?”
Mắt cô ta lướt từ người Porter sang người Nash, rồi mới đáp lại. “Momento*.”
Cô ta đóng sập cửa vào.
“Tôi cá cái tai là của cô con gái.” Nash nói tiếp.
Porter liếc xuống chiếc điện thoại. “Tên con bé là Carnegie.” “Carnegie? Anh đang giỡn tôi đấy à?”
“Tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi lũ nhà giàu.”
Thế rồi cánh cửa lại bật mở, một phụ nữ tóc vàng ở độ tuổi tứ tuần đang đứng ở ngưỡng cửa. Người phụ nữ ấy mặc chiếc áo len màu kem và quần dài bó màu đen. Tóc buộc túm đuôi ngựa phía sau. Thật quyến rũ, Porter thầm nghĩ. “Bà Talbot?”
Cô ta mỉm cười lịch sự đáp lại. “Vâng. Tôi có thể giúp gì cho hai anh?”
Người phụ nữ Tây Ban Nha xuất hiện phía sau cô ta, đứng quan sát từ phía bên kia tiền sảnh.
“Tôi là Thanh tra Porter, còn đây là Thanh tra Nash. Chúng tôi làm việc cho Sở Cảnh sát Chicago. Có chỗ nào để chúng ta có thể nói chuyện không?”
Nụ cười của cô ta vụt tắt. “Con ranh đó lại gây ra chuyện gì rồi?” “Xin lỗi?”
“Đứa con gái nhỏ chết tiệt của chồng tôi. Tôi rất muốn được trải qua một tuần yên ổn mà không phải nghe đến bất cứ chuyện móc túi hoặc chuyện lén ăn cắp xe của người khác để đi chơi, hoặc là chuyện uống rượu bia trong công viên cùng với đám bạn cũng đĩ thõa, khốn nạn không kém con ranh đó. Và tôi có thể mời cà phê miễn phí bất cứ ngài cảnh sát nào bước chân vào đây, vì dù sao đi nữa, một nửa quân số cảnh sát như các anh đây cũng đã xuất hiện ở nhà tôi khá thường xuyên rồi.” Cô ta bước lùi lại, cánh cửa mở rộng ra phía sau, để hiện ra lối vào được trang trí những đồ nội thất nằm rải rác. “Mời các anh vào.”
Porter và Nash theo cô ta vào trong dinh thự. Trần nhà hình vòm hiện ra lờ mờ phía trên, một bộ đèn chùm pha lê lấp lánh được treo ở chính giữa. Anh cố kìm nén sự thôi thúc cởi bỏ đôi giày ra trước khi đặt chân bước lên nền nhà bằng đá cẩm thạch được cọ bóng loáng.
Bà Talbot quay sang nói với người quản gia. “Chị Miranda, làm ơn hãy mang lên cho chúng tôi một chút trà và vài chiếc bánh mì vòng nhé - trừ phi hai ngài cảnh sát đây muốn thưởng thức bánh donut hơn?” Cô ta nhả từng từ cuối ra cùng với một nụ cười đầy ẩn
ý.
À, sự hóm hỉnh của người giàu, Porter thầm nghĩ. “Thưa bà*, chúng tôi ổn mà.”
Không có điều gì khiến một phụ nữ da trắng cao sang ghét cay ghét đắng hơn việc bị gọi như vậy…
“Làm ơn, cứ gọi tôi là Patricia.”
Họ theo cô ta đi ngang qua tiền sảnh của dinh thự rồi dọc xuống hành lang, tiến vào phòng thư viện. Nền nhà lát gỗ được đánh bóng lộn sáng lấp lánh dưới ánh nắng ban mai, được che phủ bởi những đốm vàng lấp lánh hắt ra từ bộ đèn chùm đang treo vất vưởng phía trên lò sưởi bằng đá khá to. Cô ta ra hiệu cho họ tiến tới chiếc ghế sofa nằm ở giữa phòng. Porter và Nash bèn ngồi xuống đó. Còn cô ta ngồi yên vị trên chiếc ghế được nhồi đầy bông trông có vẻ thoải mái. Chiếc ghế kê chân ngăn cách giữa họ, rồi cô ta chìa tay với lấy tách trà từ chiếc bàn nhỏ bên cạnh. Tờ báo Tribune* buổi sáng vẫn chưa được lật giở. “Vừa mới tuần trước thôi, con bé đã nốc quá liều thứ vớ vẩn gì đó, và tôi phải đưa nó tới phòng cấp cứu trong thành phố vào lúc nửa đêm. Đám bạn dễ thương biết quan tâm chăm sóc người khác đã bỏ mặc nó ở đó khi con bé ngất xỉu ở một câu lạc bộ nào đấy. Bỏ mặc con bé nằm trên chiếc ghế dài trước cửa bệnh viện. Các anh có tưởng tượng nổi không? Lúc đó Arty không có nhà vì bận công tác, còn tôi phải đưa con bé về nhà ngay trước khi anh ấy trở về, bởi vì chẳng ai muốn làm anh ấy nổi điên lên cả. Việc tuyệt vời nhất mà một người mẹ kế có thể làm là dọn sạch mớ rắc rối đó và vờ như nó chưa từng xảy ra.”
Người quản gia quay trở lại phòng thư viện với chiếc khay bạc to
trên tay. Cô ta đặt nó lên chiếc bàn phía trước mặt họ, rót trà từ bình ra hai chiếc tách, đặt một tách vào tay Nash và tách còn lại đưa cho Porter. Trên bàn có hai chiếc đĩa. Một chiếc đang để chiếc bánh mì vòng nướng, chiếc đĩa còn lại để chiếc bánh donut phủ sô cô la.
“Tôi không khác những viên cảnh sát điển hình lắm đâu.” Nash nói rồi với tay cầm lên chiếc bánh donut.
“Cô không nhất thiết phải làm như vậy mà.” Porter nói. “Vớ vẩn, hai anh cứ thoải mái đi.” Patricia đáp lại.
“Chồng cô hiện đang ở đâu, cô Talbot? Ông ấy có nhà không?” “Anh ấy đã rời nhà từ rất sớm để đi chơi golf ở Wheaton.” Nash nhoài người ra phía trước. “Chỗ đó cách khoảng nửa tiếng đồng hồ chạy xe.”
Porter cầm tách trà lên và chậm rãi nhấp một ngụm trà, rồi đặt nó lại chiếc khay bạc. “Thế còn con gái cô thì sao?”
“Con gái riêng của chồng tôi.”
“Vâng, con gái riêng.” Porter sửa lại lời mình.
Bà Talbot nhướng đôi lông mày. “Anh có thể nói cho tôi biết con bé đang vướng phải loại rắc rối gì không? Để tôi có thể quyết định xem tôi sẽ để các anh nói chuyện trực tiếp với con bé hay phải liên hệ với một người trong nhóm luật sư của mình đây?”
“Thế là cô bé có nhà đúng không?”
Đôi mắt cô ta mở to ra một lúc. Cô ta rót đầy tách trà, với lấy hai viên đường rồi thả chúng vào trong tách, sau đó khuấy đều rồi uống. Những ngón tay đan vào nhau xung quanh chiếc cốc ấm nóng. “Con bé đã ngủ rất ngon lành trong phòng mình. Ngủ cả đêm
rồi. Vài phút trước tôi mới trông thấy con bé đang chuẩn bị sách vở để đến trường.”
Porter và Nash liếc nhìn nhau. “Chúng tôi có thể gặp cô bé được không?”
“Con bé đã gây ra chuyện gì vậy?”
“Thưa cô Talbot, chúng tôi đang lần theo những manh mối. Nếu cô bé đang ở nhà lúc này thì không có vấn đề gì cần lo lắng cả. Chúng tôi sẽ rời khỏi đây ngay. Nếu cô bé không ở đây…” Porter không muốn làm cô ta hoảng sợ một cách không cần thiết. “Nếu cô bé không ở đây thì có thể sẽ có chút vấn đề cần quan tâm.”
“Không có gì cần phải bao che cho cô bé đâu.” Nash giải thích. “Chúng tôi chỉ cần biết cô bé vẫn an toàn thôi.”
Cô ta xoay chiếc cốc đặt lên bàn tay. “Chị Miranda? Chị gọi giùm tôi Carnegie được không?”
Người quản gia mở hé miệng, nhưng rồi lại cân nhắc điều định nói, suy nghĩ kĩ hơn. Porter quan sát khi cô ta quay đi và rời phòng thư viện, bước ngang qua hành lang và đi lên cầu thang xoắn ở bức tường đối diện.
Nash hích cùi chỏ vào người anh, khiến anh quay lại. Porter theo ánh mắt của người cộng sự hướng đến một bức hình được đóng khung đặt trên mặt lò sưởi. Một bé gái tóc vàng mặc bộ đồ cưỡi ngựa, đứng bên cạnh một chú ngựa có lông màu hạt dẻ. Anh đứng dậy rồi tiến đến gần khung ảnh. “Đây là con gái riêng của cô à?”
Bà Talbot gật đầu. “Bốn năm trước. Con bé bước sang tuổi mười hai trước khi chụp tấm hình này. Lần đầu tiên khi nó đến đây.”
Porter nhìn chòng chọc vào mái tóc cô bé. Trước đây, 4MK mới chỉ lấy mạng một nạn nhân tóc vàng, tất cả những người còn lại đều là tóc nâu hạt dẻ.
“Patricia? Có chuyện gì vậy?”
Họ quay người lại.
Đứng ở ngưỡng cửa là một cô gái tuổi thiếu niên đang mặc chiếc áo phông Mötley Crüe, váy trắng và xỏ giày lười. Mái tóc vàng của cô bé trông tả tơi.
“Làm ơn đừng có gọi mẹ là Patricia trống không như thế.” Bà Talbot cáu kỉnh nói.
“Xin lỗi, mẹ.”
“Carnegie, những quý ông đây tới từ Sở Cảnh sát Chicago.” Mặt cô gái bỗng nhiên tái nhợt. “Tại sao lại có cảnh sát ở đây hả, Patricia?”
Porter và Nash đều đang nhìn chằm chằm vào tai cô bé. Cả hai tai. Đều nằm ở đúng chỗ chúng thuộc về.
Tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là “chờ một chút”.
Nguyên văn là “madam”.
Nhật báo ở Chicago và là một trong những tờ báo lớn nhất tại Mỹ.
P
orter
Ngày 1 - 7:48 sáng
CHƯƠNG 7
Trời bắt đầu mưa phùn. Những bậc thang lát đá đã ướt nhoẹt và trơn trượt khi Porter và Nash chạy ra từ dinh thự nhà Talbot, trở lại chiếc xe đang đỗ bên lề đường. Hai viên thanh tra cùng nhảy vào xe và đóng sập cánh cửa ô tô lại, mắt hướng lên bầu trời đang dự báo toàn điềm gở. “Ta không cần cái thứ khốn nạn này, không phải là hôm nay.” Porter phàn nàn. “Nếu trời đổ mưa thật thì Talbot có thể sẽ hoãn buổi chơi golf hôm nay, thế là chúng ta sẽ để mất ông ta luôn.”
“Ta gặp vấn đề lớn hơn đây này.” Nash đang bấm bấm chiếc iPhone của mình.
“Lại là đội trưởng Dalton à?”
“Không, tệ hơn cả thế. Có ai đó đã tweet rồi đây này.” “Ai đó đã làm gì cơ?”
“Tweet ấy.”
“Tweet là cái quái gì vậy?”
Nash chìa chiếc điện thoại ra.
Porter đọc dòng chữ nhỏ tí xíu trên đó.
@4MK4EVER ĐÂY CÓ PHẢI LÀ FOUR MONKEY KILLER KHÔNG VẬY?
Dòng chữ được đính kèm một bức hình chụp nạn nhân lao đầu vào xe bus lúc sáng nay, mặt úp xuống lòng đường. Mép của chiếc xe bus hiện ra lù lù phía góc ảnh.
Porter nhíu lông mày lại. “Gã nào công khai bức hình với đám báo chí vậy?”
“Chết tiệt, Sam. Anh thực sự cần bắt kịp thời đại đi chứ. Không có gã nào công khai bất cứ cái gì hết. Có ai đó đã chụp bức hình này bằng điện thoại và đăng nó lên cho tất cả mọi người cùng thấy.” Nash lý giải. “Đó là cách Twitter hoạt động đấy.”
“Mọi người? Cái đám mọi người này là bao nhiêu người rồi?” Nash lại tiếp tục bấm bấm. “Họ đăng tải bức hình lên hai mươi phút trước, nó đã được ‘favorited’ tất thảy 3212 lần và ‘retweeted’ đến hơn năm trăm lần.”
“Favorited? Retweeted? Cái khốn nạn gì thế Nash? Nói tiếng người đi!”
“Tức là cái chuyện này đã được công khai hết rồi, Porter. Bị lan truyền hết rồi. Cả thế giới đều biết hắn đã chết.”
Điện thoại của Nash bỗng đổ chuông. “Giờ mới là đội trưởng này. Tôi nên nói gì với anh ấy bây giờ?”
Porter khởi động chiếc xe, sang số rồi vít tốc độ lao vào đường West North, thẳng tiến đến đường 294. “Bảo anh ấy ta đang đuổi theo đầu mối.”
“Đầu mối nào?”
“Gia đình Talbot.”
Nash trông có vẻ bối rối. “Nhưng cái tai đó có phải của gia đình
Talbot đâu - họ đều ở nhà mà.”
“Không phải những thành viên gia đình Talbot đó. Chúng ta sẽ đến tìm gặp Arthur để nói chuyện. Tôi dám cá rằng vợ và cô con gái vừa nãy không phải những phụ nữ duy nhất trong cuộc đời ông ta.” Porter đáp lại.
Nash gật đầu hiểu ý rồi trả lời điện thoại. Porter nghe thấy tiếng đội trưởng đang gào thét qua chiếc loa điện thoại bé tin hin. Sau một lúc cứ nhắc đi nhắc lại “Vâng, thưa sếp”, Nash ấn chiếc điện thoại về phía anh. “Đội trưởng muốn nói chuyện với anh.”
“Nói với anh ấy, tôi đang lái xe. Nói chuyện điện thoại trong lúc lái xe không an toàn chút nào.” Anh giật mạnh để quay bánh xe sang bên trái, đánh lái vòng qua chiếc xe tải nhỏ đang di chuyển chậm hơn rất nhiều so với tốc độ hiện tại của họ, tám mươi bảy dặm.
“Rõ, thưa sếp.” Nash nói. “Tôi sẽ nối với loa ngoài. Chờ một chút…”
Tiếng đội trưởng đang nhỏ và rè rè bỗng nhiên inh ỏi và to hẳn lên khi chiếc iPhone chuyển sang chế độ loa Bluetooth trên chiếc xe. “… Quay trở lại trụ sở trong mười phút nữa, tập hợp cả đội lại rồi giải quyết việc này. Tất cả đám phóng viên báo đài đang cào cấu xâu xé tôi đây.”
“Đội trưởng, tôi Porter đây. Anh cũng hiểu rõ lịch trình của hắn giống như tôi mà. Hắn đã gửi cái tai sáng nay. Tức là hắn đã bắt giữ cô gái một, hai ngày trước rồi. Tin tốt ta có là hắn không bao giờ giết nạn nhân ngay lập tức, thế nên chúng ta có thể đảm bảo rằng cô gái đó vẫn còn sống… ở nơi nào đó. Chúng ta không biết rõ nạn nhân còn bao nhiêu thời gian nữa. Nếu hắn chỉ lên kế hoạch chạy
ra ngoài và gửi gói hàng thì nhiều khả năng hắn không để lại cho cô gái chút đồ ăn hoặc thức uống gì hết. Một con người trung bình có thể sống thiếu nước trong ba ngày và thiếu thức ăn trong ba tuần. Đồng hồ sinh mạng của cô ấy vẫn đang quay đều, Đội trưởng. Điều thuận lợi nhất là tôi nghĩ chúng ta còn ba ngày, hoặc có thể ít hơn, để tìm thấy cô gái.”
“Đó là lý do vì sao tôi muốn các cậu về đây ngay.”
“Chúng tôi cần đuổi theo đầu mối này trước đã. Ta vẫn phải lao vào sục sạo cho đến khi tìm ra nạn nhân hắn đang bắt giữ. Anh muốn điều gì đó, đúng không? Hãy cho chúng tôi một giờ đồng hồ, hi vọng chúng tôi có thể cho anh một cái tên để thông báo với đám báo chí. Anh cứ đưa bức ảnh của một cô gái đang mất tích cho họ đi, rồi họ sẽ dịu xuống mà.” Porter đáp lại.
Đội trưởng im lặng một lúc rồi nói: “Một giờ đồng hồ. Không hơn.”
“Chúng tôi chỉ cần có vậy.”
“Theo dõi xung quanh nhà Talbot nhẹ nhàng thôi. Ông ta là người kề vai sát cánh với ngài Thị trưởng đó.” Đội trưởng trả lời. “Vâng, nhẹ nhàng thôi, đã rõ.”
“Gọi lại cho tôi sau khi các cậu nói chuyện xong với ông ta.” Đội trưởng tắt máy.
Porter tăng tốc leo dốc vào đường 294. Nash bấm chữ Wheaton vào hệ thống GPS. “Chúng ta còn cách hơn bốn mươi lăm cây nữa.”
Chiếc ô tô tiếp tục tăng tốc khi Porter nhấn chân ga xuống thêm
chút nữa.
Nash bật radio lên.
… Mặc dù hiện giờ Sở Cảnh sát Chicago vẫn chưa có thông báo chính thức, nhưng theo suy đoán, người đi bộ chết sáng nay tại trạm trung chuyển xe bus thành phố ở Hyde Park thực sự là tên sát nhân Four Monkey Killer. Một chiếc hộp được chụp tại hiện trường vụ tai nạn trùng khớp với những chiếc hộp được tên này gửi tới trong quá khứ. Hắn được đặt tên là Four Monkey Killer bởi Samuel Porter, thanh tra Sở Cảnh sát Chicago, cũng là một trong những người đầu tiên nhận ra hành vi hoặc dấu hiệu của hung thủ.
“Không đúng, tôi đâu có nghĩ ra cái tên đó…”
“Suỵt!” Nash chặn lời.
Bốn con khỉ này có nguồn gốc từ đền Tosho-gu tại thành phố Nikko, Nhật Bản, nơi có những bức tượng khỉ chạm trổ nằm phía trên lối vào đền. Con khỉ đầu tiên che hai tai, con thứ hai bịt chặt hai mắt, con thứ ba che miệng, chúng lần lượt mô tả cho cách ngôn “Không nghe điều ác, không thấy điều ác, không nói điều ác”. Con khỉ thứ tư đại diện cho “Không làm điều ác”. Cách thức giết người của tên sát nhân vẫn duy trì nhất quán từ nạn nhân đầu tiên, Calli Tremell, cách đây năm năm rưỡi. Hai ngày sau khi bị bắt cóc, gia đình Tremell đã nhận được tai con gái mình trong hòm thư. Hai ngày sau đó, họ nhận được đôi mắt của cô. Hai ngày tiếp theo, chiếc lưỡi của cô được chuyển đến. Thi thể của cô gái được tìm thấy tại công viên Bedford sau hai ngày nhận được dấu bưu điện trên bưu kiện cuối cùng, bàn tay cô nắm chặt một mẩu giấy nhỏ chỉ ghi dòng chữ KHÔNG LÀM ĐIỀU ÁC. Một thời gian sau, mọi chuyện được phanh
phui, Michael Tremell, cha của nạn nhân, đã dính líu đến đường dây đánh bạc ngầm, rót hàng triệu đô la vào các tài khoản ngân hàng nước ngoài…
Nash tắt đài đi. “Hắn luôn nhắm đến đứa con hoặc chị em ruột để trừng phạt người cha vì hành động phạm pháp nào đó. Sao lần này thì không? Tại sao hắn không bắt Carnegie?”
“Tôi không biết nữa.”
“Chúng ta nên nhờ ai đó kiểm tra tình hình tài chính của nhà Talbot.” Nash gợi ý.
“Ý hay đó. Chúng ta có ai nhỉ?”
“Matt Hosman?”
Porter gật đầu. “Gọi điện đi!” Anh thò tay vào túi ngực, lôi ra cuốn nhật ký và quăng nó lên đùi Nash. “Rồi đọc to cái này lên xem nào.”
CHƯƠNG 8
N
hật ký
Cha và mẹ khá thân thiết với nhà hàng xóm, Simon và Lisa Carter. Mùa hè năm đó, khi tôi mới chỉ là cậu bé mười một tuổi, gia đình họ lần đầu tiên chuyển đến khu phố tuyệt vời này, trong cuốn nhật ký có vài trang ít ỏi của mình, tôi đều coi họ già khú hết rồi. Mặc dù suy đi tính lại, tôi nhận ra rằng cha và mẹ đều đang ở tuổi ba lăm, và tôi không thể nào tưởng tượng nổi vợ chồng Carter còn trẻ hơn cha mẹ mình khoảng một, hai tuổi. Nhiều nhất là ba tuổi. Cũng có thể là bốn tuổi. Nhưng trẻ hơn những năm tuổi thì tôi nghi lắm. Họ chuyển đến sống ở căn nhà bên cạnh, ngôi nhà còn lại duy nhất nằm ở cuối con đường tĩnh mịch ấy.
Mà tôi đã nhắc đến chuyện mẹ tôi đẹp tuyệt trần thế nào chưa? Tôi thật quá láo xược khi bỏ sót một chi tiết như vậy. Sau một hồi tôi khóc lóc ỉ ôi về những vấn đề cỏn con và quên mất phải vẽ ra một bức tranh minh họa chính xác để miêu tả về mẹ, bạn vẫn đồng ý tiếp tục đọc về tôi một cách thật tử tế.
Nếu bạn có thể chạm tới cuốn sách này rồi tát cho tôi đần người ra, thì tôi sẽ khuyến khích bạn hãy làm vậy đi. Đôi khi tôi cứ hay thích nói lan man, thế nên một cú nện mạnh ra trò sẽ là điều cần thiết để tôi quay trở lại đúng trọng tâm câu chuyện.
Tôi đang nói đến đâu rồi nhỉ?
Mẹ.
Mẹ thật đẹp.
Mái tóc mẹ óng mượt như lụa. Vàng óng, dày dặn và tỏa sáng đầy khỏe mạnh. Mái tóc buông dài đến nửa tấm lưng mảnh mai của mẹ thành những làn sóng lộng lẫy. Ôi, còn đôi mắt của mẹ! Chúng chứa đựng sắc xanh của lá cây, sắc lục bảo sáng nhất, hòa với làn da trắng sứ hoàn hảo.
Tôi không thấy xấu hổ khi phải thừa nhận rằng, thân hình của mẹ thu hút biết bao nhiêu con mắt. Mẹ tập chạy hằng ngày, và tôi dám nói rằng, người mẹ chẳng có đến một lạng mỡ thừa. Mẹ chắc chắn không nặng hơn năm mươi cân. Mẹ đứng đến vai cha tôi, bà cao khoảng một mét sáu.
Bà có niềm yêu thích đặc biệt với kính râm.
Mẹ sẽ đeo kính râm vào những ngày nóng bức nhất hoặc giữa tiết trời đông. Mẹ chẳng thấy phiền hà gì với cái lạnh. Tôi nhớ có lần, vào một mùa đông, khi những bông tuyết theo gió chất đầy gần đến bậu cửa sổ, tôi thấy mẹ ngân nga hát vui vẻ trong bếp, mẹ mặc chiếc váy ngắn màu trắng in hoa, nó đung đưa theo dáng người của mẹ. Cô Carter đang ngồi ở bàn ăn trong nhà bếp, tay ôm một cốc trà hạnh phúc đang bốc hơi, mẹ tâm sự với cô ấy rằng, mẹ mặc những chiếc váy kiểu này là vì chúng khiến mẹ cảm thấy tự do. Và mẹ thích những chiếc váy ngắn, vì mẹ cảm thấy đôi chân của mình là tài sản quý giá nhất. Mẹ tiếp tục kể chuyện cha mê đôi chân của mẹ thế nào. Chuyện cha vuốt ve âu yếm chúng ra sao. Cả chuyện cha thích chúng đặt lên vai mình, hoặc quặp lấy quanh người ông thế nào…
Đúng lúc đó mẹ phát hiện ra tôi, thế là tôi bỏ đi.
P
orter
Ngày 1 - 8:49 sáng
CHƯƠNG 9
Porter không hiểu biết nhiều về golf. Cái suy nghĩ phải đánh quả bóng nhỏ xíu màu trắng, rồi đuổi theo nó hàng tiếng đồng hồ liên tục, chẳng khiến anh thấy hứng thú. Dù anh hiểu rằng chơi golf cũng có đầy thách thức nhưng xem nó là một môn thể thao thì không. Bóng chày mới là thể thao. Bóng bầu dục mới là thể thao. Bất cứ bộ môn nào mà con người có thể chơi ngon lành lúc tám mươi tuổi trong khi vác theo bình khí ôxy của mình, mặc chiếc quần ống suông màu nhàn nhạt, sẽ không bao giờ được coi là thể thao trong từ điển của anh.
Dù sao nhà hàng đó cũng thật tuyệt. Hai năm trước, anh đã dẫn Heather đến Câu lạc bộ golf Chicago để kỉ niệm ngày cưới, và đã gọi một đĩa bít tết đắt đỏ nhất anh từng được thưởng thức. Heather gọi tôm hùm và kể về nó rất say sưa trong nhiều tuần liền. Mức lương của một nhân viên cảnh sát chẳng cho phép được “xa hoa” quá nhiều như thế nhưng bất cứ điều gì khiến cô hạnh phúc đều là khoản chi xứng đáng.
Anh tiến xe đến gần trụ sở câu lạc bộ và đưa bộ chìa khóa xe cho một nhân viên phục vụ. “Đỗ nó gần đây thôi. Chúng tôi sẽ không lưu lại quá lâu đâu.”
Họ đã thắng được thời tiết. Trong khi bầu trời mù mịt, đám mây dông đen đã dừng chân lại ở thành phố.
Tiền sảnh của câu lạc bộ rộng rãi và được trang bị đầy đủ thiết bị. Một vài thành viên câu lạc bộ đang tụ tập quanh lò sưởi ở phía góc xa xa, nhìn ra bãi cỏ xanh căng tràn sức sống ở bên kia những cánh cửa thông vườn. Tiếng trò chuyện dội lên từ mặt sàn đá hoa cương và những miếng ván ốp chân tường bằng gỗ dái ngựa.
Nash huýt sáo khe khẽ.
“Nếu tôi bắt gặp anh xin xỏ cái gì, tôi sẽ bắt anh đợi trong xe đấy.”
“Cho đến lúc này tôi đang thấy hơi hối hận vì không mặc một bộ đồ đẹp hơn.” Nash thừa nhận. “Thế giới này quá khác biệt với những chỗ chúng ta hay lăn xả vào, Sam ạ.”
“Anh có chơi golf không?”
“Lần cuối cùng tôi tham gia một câu lạc bộ golf, tôi không tài nào đánh qua nổi cối xay gió. Còn golf ở đây thì toàn các ông trùm. Tôi không có nhiều kiên nhẫn cho môn này lắm.” Nash đáp lại.
Một phụ nữ trẻ đang ngồi ở chiếc bàn làm việc đặt gần chính giữa sảnh của trụ sở câu lạc bộ. Khi họ tiến tới, cô ta liếc lên nhìn từ màn hình laptop rồi nhoẻn miệng cười. “Xin chào buổi sáng, các quý ông. Chào mừng đến Câu lạc bộ golf Chicago. Tôi có thể giúp được gì cho hai quý ông đây?”
Ẩn sau nụ cười với hàm răng trắng sáng bóng, Porter có thể cảm nhận được cô ta đang thăm dò họ. Cô ta còn không hỏi liệu họ đã đặt chỗ trước hay chưa, nên anh dám chắc cô ta đang thăm dò.
Anh lôi ra chiếc phù hiệu cảnh sát của mình rồi giơ lên trước mặt cô ta. “Chúng tôi đang tìm Arthur Talbot. Vợ của ông ấy nói hôm nay ông ấy đang chơi golf ở đây.”
Nụ cười của cô gái dần biến mất khi ánh mắt cô ta phóng thẳng vào tấm phù hiệu, quay sang Porter, rồi đến Nash. Cô ta nhấc ống nghe điện thoại trên bàn lên, bấm số máy lẻ, nói nhỏ nhẹ sau đó dập máy. “Mời hai ngài ngồi. Sẽ có người đến tiếp hai ngài trong ít phút nữa.” Cô ta chìa tay về phía chiếc ghế sofa nằm ở góc đằng xa.
“Chúng tôi đứng đây được rồi, cảm ơn cô.” Porter đáp lại. Lại là nụ cười ấy. Cô ta quay trở lại với chiếc máy tính, những ngón tay mảnh mai, móng được cắt tỉa gọn gàng bật nảy trên từng phím bấm.
Porter kiểm tra đồng hồ. Gần chín giờ sáng.
Một người đàn ông khoảng năm mươi lăm tuổi bước vào tiền sảnh từ cánh cửa phía bên trái họ. Mái tóc muối tiêu của ông ta được chải chuốt gọn ghẽ về phía sau, bộ com lê được là lượt đến mức hoàn hảo. Ông ta tiến đến, chìa rộng bàn tay về phía Porter. “Ngài thanh tra. Tôi được thông báo ngài đến đây để gặp ông Talbot?” Cái bắt tay thật ẻo lả. Cha của Porter đã từng gọi kiểu bắt tay này là “kiểu bắt tay ướt át”. “Tôi là Douglas Prescott, quản lý cấp cao.”
Porter xòe nhanh phù hiệu của mình ra. “Tôi là Thanh tra Porter, còn đây là Thanh tra Nash, từ Sở Cảnh sát Chicago. Đây là trường hợp cực kỳ khẩn cấp. Ông có thể cho chúng tôi biết hiện ông Talbot đang ở sân nào không?”
Người phụ nữ tóc vàng đang quan sát họ. Khi Prescott liếc mắt nhìn cô ta, cô ta vội quay mặt lại màn hình máy tính. Rồi ông ta lại hướng ánh mắt về phía Porter. “Tôi tin chắc rằng nhóm của ông Talbot bắt đầu chơi lúc bảy giờ ba mươi, nên giờ cả nhóm đã ra sân hết rồi. Tuy nhiên, các ngài được hoan nghênh nếu chờ ông ấy tại đây. Các ngài sẽ thấy một bữa ăn sáng tinh tế được dọn trong phòng ăn. Nếu các ngài thích hút xì gà thì hộp giữ ẩm cho xì gà của chúng tôi thuộc hàng xuất sắc đấy ạ.”
“Việc này không thể chờ được.”
Prescott nhíu mày. “Chúng tôi không được phép quấy rầy khách trong khi họ đang chơi, thưa các ngài.”
“Không ư?” Nash nói.
“Chúng tôi không thể.” Prescott khăng khăng.
Porter đảo tròng mắt. Tại sao người ta cứ thích gây cản trở để khiến mọi thứ khó khăn thế nhỉ? “Ông Prescott, chúng tôi không có thì giờ hay lòng kiên nhẫn cho điều này. Theo như tôi hiểu, bây giờ, ông có hai lựa chọn. Ông có thể dẫn chúng tôi đến chỗ ông Talbot, hoặc là cộng sự của tôi đang đứng đây sẽ bắt ông vì tội cản trở công vụ, còng tay ông vào cái bàn kia, và bắt đầu gào thét tên ông Talbot cho đến khi ông ấy tự tìm đến chúng tôi. Tôi đã từng thấy cộng sự của tôi làm vậy - anh ấy to mồm lắm đấy. Đó là lựa chọn của ông, nhưng thành thật mà nói, tôi nghĩ phương án A sẽ gây ra ít tổn hại cho công việc kinh doanh của ông hơn đấy.”
Người phụ nữ ở bàn tiếp tân cố kìm nén tiếng cười khúc khích. Prescott ném ánh nhìn bực bội về phía cô ta, rồi sau đó bước đến gần hơn, ông ta hạ thấp giọng. “Ông Talbot là người cộng tác
quan trọng và là bạn rất thân với sếp của ông, ngài Thị trưởng. Họ đã chơi golf với nhau từ hai tuần trước. Tôi không nghĩ một trong hai người đó sẽ thấy hài lòng khi biết tin hai viên cảnh sát đang sẵn lòng làm nhơ bẩn tiếng tăm của Sở Cảnh sát Chicago bằng cách đe dọa những công dân thành phố chỉ đang làm tốt công việc của mình. Nếu tôi gọi cho ông ấy bây giờ và thông báo rằng hai ông đang ở đây, chuẩn bị gây lộn thì chắc chắn ông ấy sẽ mời ông đến gặp luật sư trước khi cân nhắc thời gian để tiếp chuyện hai người.”
Nash kéo cái còng số tám ra khỏi dây lưng. “Tôi sẽ bắt cái đồ chết giẫm này lại, Sam ạ. Tôi muốn xem gã này chống đỡ thế nào trong nhà tù đầy rẫy những kẻ nghiện ngập và trộm cắp. Tôi chắc chắn rằng quý cô…” Anh liếc nhìn xuống tấm thẻ ghi tên của người phụ nữ tóc vàng. “… Piper đây sẽ sẵn lòng giúp chúng ta hơn.”
Mặt Prescott đỏ rực lên.
“Hãy hít một hơi thật sâu và suy nghĩ cẩn trọng về điều mình sắp nói, ông Prescott.” Porter cảnh báo.
Prescott đảo mắt một vòng rồi quay ra phía cô Piper. “Nhóm của ông Talbot hiện đang ở đâu?”
Cô gái chỉ ngón tay có móng được sơn hồng hồng vào màn hình. “Họ vừa kéo nhau đến lỗ số sáu.”
“Cô có hình ảnh thu từ video không?” Nash hỏi.
Cô ta lắc đầu. “Toàn bộ xe chở gậy đánh golf của chúng tôi được lắp đặt thiết bị theo dõi GPS. Nó cho phép chúng tôi quan sát được điểm bế tắc của người chơi nằm ở đâu và khiến cuộc chơi của các thành viên diễn ra hiệu quả hơn.”
“Vậy là nếu có ai đó đang chơi chậm lại, câu lạc bộ sẽ gảy họ ra
khỏi sân và đưa họ đến khu vực dành cho trẻ con sao?” “Không đến mức dữ dội như vậy đâu. Chúng tôi có thể cử một golf thủ chuyên nghiệp đến chỉ cho họ vài mẹo nhỏ. Giúp họ tiến bộ.” Cô ta giải thích.
“Cô có thể đưa chúng tôi ra đó được không?”
Cô ta đưa mắt sang nhìn Prescott. Ông ta giơ cả hai bàn tay lên chịu thua. “Đi đi!”
Cô Piper giật cái ví nữ ở dưới bàn rồi chỉ tay ra phía hành lang nằm ở hướng tây của tòa nhà. “Lối này, thưa các ngài.” Một lúc sau, tất cả bọn họ đều đã ở trên xe chở gậy golf, tiến thẳng xuống con đường rải đầy đá cuội. Cô Piper lái xe, Porter ngồi bên cạnh, còn Nash ngồi ở chiếc ghế dài nhỏ phía sau lưng họ. Mỗi khi đâm phải một cái gò nhỏ trên đường, khiến cả người xóc nảy trên ghế ngồi, anh lại buột miệng chửi thề.
Porter nhét vội bàn tay vào trong túi áo. Thời tiết ngoài trời sao mà lạnh thế!
“Tôi muốn xin lỗi cho sếp của mình. Ông ấy hơi…” Cô ta dừng lại, cố gắng tìm kiếm từ ngữ thật chuẩn để diễn đạt. “Hơi giống một người xàm bậy, nhưng chỉ thi thoảng thôi.”
“Xàm bậy là cái quái gì cơ?” Nash hỏi.
“Kiểu người anh sẽ chẳng bao giờ muốn xuất hiện trong bữa tiệc chia tay độc thân của mình ấy.” Porter đáp lời.
Nash bật cười khúc khích. “Nếu cô Piper đây không có cô bạn nào đang có nhu cầu tìm một công chức chỉ kiếm được vài đồng lương từ việc bị ăn đạn tương đối thường xuyên, thì tôi không có ý
định sẽ bước vào lễ đường sớm đâu. Mà tôi cũng có xu hướng làm việc dài hơi và uống rượu hơn là sẵn sàng ‘kết đôi’ với ai đó vừa mới quen.”
Porter quay lại phía cô Piper. “Kệ anh ấy đi, thưa cô. Không có bất cứ bổn phận pháp lý nào buộc cô phải xây đắp mối quan hệ cho những cảnh sát và những người bạn hấp dẫn của mình đâu.”
Cô ta liếc mắt nhìn qua gương chiếu hậu. “Nghe cũng có vẻ hấp dẫn đấy nhỉ, thanh tra. Tôi sẽ liên lạc với hội chị em ngay khi tôi quay trở lại bàn làm việc.”
“Tôi rất cảm kích.” Nash nói thêm.
Porter kinh ngạc trước quang cảnh nơi này. Thảm cỏ được cắt ngắn và xanh rì, không một ngọn cỏ dại mọc lên hay một vùng cỏ bị cắt lẹm quá trớn. Những hồ nước nhỏ hiện ra lấm chấm trên sân golf cả hai bên đường đi dành cho xe chở gậy. Những cây sồi khổng lồ ở hai bên đường lăn bóng, cành cây chìa ra, ngăn gió và che nắng cho các golf thủ.
“Họ đây rồi.” Cô Piper hất đầu về phía nhóm bốn người đàn ông đang tụ lại quanh vật gì đó trông giống một đài phun nước nhỏ và cao.
“Cái đó là gì vậy?” Nash hỏi.
“Cái nào?”
Cô Piper mỉm cười. “Thưa các ngài, đó là máy rửa bóng golf.” Nash xoa xoa hai bên thái dương rồi nhắm mắt lại. “Quá nhiều trò đùa vừa mới nhảy vào đầu tôi, thực sự là cứ thấy nhưng nhức ấy.”
Cô Piper dừng lại đằng sau xe của Talbot rồi khóa phanh lại. “Các anh có cần tôi chờ không?”
Porter nhoẻn miệng cười. “Thế thì tốt quá, cảm ơn cô.” Nash nhảy xuống khỏi ghế sau. “Chuyến về thì tôi sẽ ngồi trước đó. Ghế sau xóc nảy mông dành tặng hai người hết.” Porter tiến lại gần bốn người đàn ông đang chuẩn bị phát bóng rồi chìa phù hiệu ra. “Chào buổi sáng, các quý ông. Tôi là Thanh tra Sam Porter từ Sở Cảnh sát Chicago. Đây là cộng sự của tôi, Thanh tra Nash. Tôi rất tiếc khi phải dừng trò chơi giữa chừng thế này, nhưng chúng tôi đang có tình huống không thể nào chờ được. Ai trong số các ông đây là Arthur Talbot?”
Một người đàn ông cao dong dỏng, độ tuổi khoảng tứ tuần, mái tóc muối tiêu được cắt ngắn gọn gàng, hất nhẹ đầu lên rồi nở một nụ cười xếch đến mang tai mà Nash sẽ gọi là điệu cười của chính trị gia. “Tôi là Arthur Talbot.”
Porter hạ thấp giọng xuống. “Chúng tôi có thể nói chuyện với ông một lúc được không?”
Talbot đang khoác trên người một chiếc áo gió màu nâu, bên trong mặc áo sơ mi trắng chuyên dụng cho đánh golf, đeo thắt lưng nâu và vận quần kaki. Ông ta lắc đầu. “Không cần đâu, thanh tra. Những người đứng đây đều là bạn kinh doanh của tôi. Tôi không cần giữ bí mật với họ.”
Người đàn ông nhiều tuổi hơn phía bên trái ông ta đẩy cặp kính có gọng mảnh trên sống mũi rồi vuốt phẳng phần tóc sắp sửa trở thành thứ dùng để che cái đầu hói trước những làn gió nhẹ. Những cặp mắt lo lắng dán chặt vào Porter. “Chúng tôi có thể chơi tiếp mà,
Arty. Cậu có thể theo sau nếu cậu cần nói chuyện.”
Talbot giơ một tay lên, ra hiệu cho ông bạn im lặng. “Tôi có thể làm gì cho anh được, thanh tra?”
“Ông trông rất quen.” Nash nói với người đàn ông đang đứng bên phải Talbot.
Porter cũng nghĩ vậy nhưng không tài nào xác định nổi. Cao khoảng một mét tám. Tóc dày sẫm màu. Cơ thể cân đối. Khoảng bốn mươi lăm tuổi.
“Louis Fischman. Chúng ta đã gặp nhau vài năm trước. Lúc đó ông đang làm vụ Elle Borton, còn tôi làm trong văn phòng luật sư của quận. Giờ tôi chuyển sang bộ phận tư rồi.”
Talbot nhíu mày. “Elle Borton. Sao tôi lại thấy cái tên đó nghe quen quen nhỉ?”
“Cô bé là một trong những nạn nhân của Monkey Killer phải không?” Người đàn ông thứ ba xen vào. Ông ta bắt đầu nghịch ngợm với cái máy rửa bóng golf.
Porter gật đầu. “Nạn nhân thứ hai.”
“Chính xác.”
“Thằng điên khốn nạn đó.” Người đàn ông đeo kính lầm bầm nói. “Có manh mối gì chưa?”
“Xe bus trung chuyển thành phố có thể đã đâm chết hắn sáng nay.” Nash nói thêm.
“Xe bus trung chuyển thành phố? Người lái xe đã đâm vào hắn sao?” Fischman lên tiếng hỏi.
Porter lắc đầu rồi giải thích lại tình hình.
“Và ông tin đó chính là Monkey Killer sao?”
“Trông có vẻ giống vậy.”
Arthur Talbot nhíu mày. “Sao các anh lại tới tìm tôi?” Porter hít một hơi thật sâu. Anh ghét nhất phần này trong công việc của mình. “Người đàn ông bị đâm chết, chúng tôi tin rằng anh ta đang cố băng qua đường để đến chỗ thùng thư.”
“Ừ?”
“Trên bưu phẩm đó có ghi địa chỉ nhà ông, ông Talbot ạ.” Khuôn mặt ông ta tái nhợt. Giống như những người dân Chicago khác, ông ta khá quen thuộc với những chiêu trò giết người của Monkey Killer.
Fischman đặt một tay lên vai Talbot. “Trong bưu phẩm có gì, thưa thanh tra?”
“Một cái tai.”
“Ôi không, Carnegie…”
“Đấy không phải của Carnegie, ông Talbot. Cũng không phải của Patricia. Cả hai đều đang rất an toàn. Chúng tôi đã dừng chân ở dinh thự của ông trước khi lái xe tới đây. Vợ của ông đã nói với chúng tôi sẽ tìm được ông ở nơi nào.” Porter nói nhanh nhất có thể, rồi hạ thấp giọng xuống để trấn tĩnh ông ta. “Chúng tôi cần sự trợ giúp của ông, ông Talbot. Chúng tôi cần ông giúp chúng tôi xác định hắn đã bắt cóc người nào.”
“Tôi phải ngồi xuống đã.” Talbot nói. “Tôi có cảm giác sắp nôn ra mất.”
Fischman liếc nhìn Porter rồi ghì chặt bàn tay hơn lên vai người
bạn. “Arty, để tôi đỡ cậu quay lại xe.” Di chuyển khỏi khu vực phát bóng, ông ta dẫn người bạn Talbot mặt trắng bệch đi về phía chiếc xe chở gậy rồi đỡ ông ta ngồi xuống ghế.
Porter ra hiệu cho Nash ở nguyên vị trí rồi đi theo hai người đàn ông về phía chiếc xe. Anh ngồi cạnh Talbot để có thể nói khe khẽ. “Ông biết hắn hoạt động thế nào đúng không? Cách thức giết người của hắn ấy?”
Talbot gật đầu. “Không làm điều ác.” Ông ta khẽ nói. “Đúng vậy. Hắn sẽ tìm ai đó đã gây ra lỗi lầm, việc gì đó khiến hắn cho rằng đó là sai, và bắt cóc ai đó thân thiết với họ. Người mà họ quan tâm.”
“Tôi kh… không làm…” Talbot nói lắp bắp.
Fischman chuyển sang giọng luật sư. “Arty, tôi không nghĩ cậu nên nói thêm gì cho đến khi chúng ta có thời gian ngồi nói chuyện với nhau.”
Hơi thở của Talbot nặng nề. “Địa chỉ nhà tôi? Anh chắc chứ?” “Là số 1547 Đại lộ Dearborn.” Porter nói với ông ta. “Chúng tôi chắc chắn.”
“Arty…” Fischman thì thào nói.
“Chúng tôi cần tìm ra danh tính nạn nhân, chúng tôi cần biết hắn đã bắt cóc ai.” Porter lưỡng lự một hồi rồi tiếp tục. “Ông có nhân tình không, ông Talbot?” Anh nghiêng người lại gần. “Nếu đó là một phụ nữ khác, ông có thể kể với chúng tôi. Chúng tôi sẽ giữ kín chuyện này. Tôi xin thề. Chúng tôi chỉ muốn tìm ra hắn đã bắt giữ người nào mà thôi.”
“Không phải như thế.” Talbot lên tiếng.
Porter đặt một tay lên vai Talbot. “Ông có biết hắn đang bắt cóc ai không?”
Talbot khẽ gạt tay anh ra rồi đứng dậy. Ông ta thò tay vào túi áo, lôi ra chiếc điện thoại, đi sang phía bên kia con đường dành cho xe chở gậy, rồi bấm như nện búa vào từng con số. “Nào, trả lời điện thoại đi. Làm ơn nhấc máy đi…”
Porter đứng đó rồi chậm rãi tiến về phía ông ta. “Ông đang liên lạc với ai vậy, ông Talbot?”
Arthur Talbot buột miệng chửi thề rồi ngắt cuộc gọi.
Fischman tiến lại gần ông ta. “Nếu cậu trả lời câu hỏi đó, cậu không thể không nói với họ. Cậu hiểu chứ? Một khi tin này lộ ra ngoài kia, cánh báo chí có thể sẽ ‘đánh hơi’ được. Vợ cậu sẽ biết. Những cổ đông của cậu sẽ biết. Cậu còn rất nhiều bổn phận. Chuyện này quan trọng hơn chính bản thân cậu. Cậu cần suy nghĩ thấu đáo. Hãy thảo luận với ai đó trong nhóm luật sư của cậu, nếu cậu cảm thấy không thoải mái khi thảo luận vấn đề này với tôi.”
Talbot ném một cái nhìn giận dữ vào ông ta. “Tôi không định chờ đợi những phân tích chứng khoán trong khi có mấy thằng tâm thần đang…”
“Arty!” Fischman nói xen vào. “Ít nhất cậu hãy tự mình xác thực đã chứ. Hãy ăn chắc.”
“Nghe thấy rất giống một cách hay ho để có người bị giết đó.” Porter đánh tiếng.
Arthur xua xua bàn tay ngây dại về phía anh rồi nhấn vào nút
“Gọi lại” trên điện thoại, nỗi lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt. Khi ngắt kết nối, ông ta ấn vào màn hình mạnh đến nỗi Porter tự hỏi liệu chiếc điện thoại đã vỡ chưa.
Porter ra hiệu cho Nash tiến lại gần rồi nói: “Ông có một cô con gái khác đúng không, ông Talbot? Một cô con gái ngoài giá thú?” Khi Porter nói những từ đó, Talbot bèn ngoảnh mặt đi. Fischman buông ra một hơi thở sâu.
Talbot ngước mắt nhìn Porter, rồi Fischman, rồi lại về phía Porter. Đôi tay ông ta vuốt dọc theo mái tóc. “Patricia và Carnegie không biết gì về con bé hết.”
Porter bước gần hơn tới chỗ người đàn ông. “Cô bé có sống ở Chicago không?”
Talbot đang run bần bật và vô cùng hoang mang, bối rối. Một lần nữa, ông ta gật đầu. “Flair Tower. Con bé sống ở penthouse số 2704, cùng người chăm sóc. Tôi sẽ gọi điện cho họ biết hai anh sẽ tới và cho hai anh vào.”
“Mẹ của cô bé đâu?”
“Mất rồi. Sắp tròn mười hai năm ngày mất. Chúa ơi, con bé mới có mười lăm tuổi…”
Nash quay lưng rồi liên lạc ngay với Dispatch*. Họ có thể gọi ai đó đến Flair Tower trong ít phút.
Porter theo Talbot quay trở lại xe chở gậy và ngồi bên cạnh ông ta. “Ai chăm sóc cô bé?”
“Mẹ con bé bị ung thư. Tôi đã hứa với cô ấy sẽ chăm sóc con gái của chúng tôi khi cô ấy qua đời. Khối u phát triển quá nhanh, chỉ
khoảng một tháng thôi mà nó đã lan ra hết cả.” Ông ta vỗ vỗ vào một bên đầu. “Ở ngay chỗ này. Họ không thể tiến hành phẫu thuật, khối u đã lan quá sâu. Tôi sẽ trả bất cứ thứ gì. Tôi đã cố gắng. Nhưng họ không cho phẫu thuật. Chúng tôi đã nói chuyện với hơn ba mươi bác sĩ rồi. Tôi yêu cô ấy hơn bất cứ gì trên đời. Nhưng tôi phải cưới Patricia, tôi có… giao ước. Những lý do nằm ngoài khả năng kiểm soát của tôi. Nhưng tôi muốn cưới Catrina. Đôi khi cuộc đời cứ đưa đẩy như thế đó, anh biết không? Đôi khi anh phải làm những việc ấy để có kết quả tốt đẹp hơn.”
Porter đâu có biết. Thực sự mà nói, anh không thể hiểu. Đây là những năm 1400 ư? Hôn nhân áp đặt là chuyện xa xưa lắm rồi. Gã này cần phải học cách sống can đảm và gai góc hơn. Rồi anh nói to: “Chúng tôi sẽ không phán xét gì ông đâu, ông Talbot. Tên cô bé là gì?”
“Emory.” Ông ta đáp. “Emory Connors.”
“Ông có tấm hình nào không?”
Talbot lưỡng lự một lúc rồi lắc đầu. “Không có trong điện thoại của tôi. Tôi không thể đánh liều để Patricia phát hiện ra được.”
Trung tâm điều phối thông tin.
CHƯƠNG 10
P
orter
Ngày 1 - 9:23 sáng
“Carnegie và Emory? Chắc phải mua sách dạy đặt tên con làm quà Giáng sinh cho gia đình này mất.” Nash nói. “Và làm thế quái nào để giấu con gái cùng bạn gái ở một trong những căn penthouse đắt đỏ nhất thành phố mà không bị vợ chính thức tóm được nhỉ?”
Porter ném chìa khóa cho Nash rồi đi vòng sang ghế phụ. “Anh lái đi, tôi phải đọc tiếp quyển nhật ký này. Biết đâu có thứ gì hữu ích trong đó.”
“Đồ lười như hủi, chỉ thích được cung phụng thôi. Lái xe đưa bà Porter…”
“Mả cha nhà anh.”
“Tôi bật ‘táo’ đây, chúng ta cần thoải mái một chút.” Nash gảy một chiếc công tắc trên bảng điều khiển.
Porter không được nghe cái “thuật ngữ” ấy từ hồi còn là một tân binh. Ngày trước, người ta gọi những chiếc đèn hiệu gắn bằng nam châm vào xe cảnh sát nằm vùng là những quả táo. Bây giờ chúng đã trở thành dĩ vãng rồi, thay vào đó là những đèn LED dạng thanh mỏng dính gắn dọc vào mép cửa sổ xe mà bạn không thể nhìn thấy nếu ngồi bên trong.
Nash kéo số ba mà không cần đạp thêm ga rồi đánh lái hướng
về phía cửa ra. Chiếc xe giật mạnh, bánh xe kêu ré lên đầy hân hoan khi năng lượng truyền vào chúng.
“Tôi bảo anh lái xe chứ không phải lôi xe tôi ra chơi Grand Theft Auto đâu nhé.” Porter cau mày.
“Tôi chạy một con Ford Fiesta 1988. Anh hiểu cảm giác đó như thế nào rồi đấy! Cái nỗi nhục nhã tôi phải chịu đựng mỗi khi bước vào trong xe và kéo sập cánh cửa cọt kẹt như chuột kêu rồi đốt cháy cái động cơ bốn xi lanh quái thai đó. Tiếng của nó nghe như một cái gọt bút chì điện vậy. Tôi là đàn ông, thi thoảng tôi cũng cần chút bốc bốc chứ. Chiều lòng tôi một chút đi nào.”
Porter khua tay ý bảo thôi đi. “Chúng ta nói với đội trưởng sẽ gọi lại sau khi nói chuyện với Talbot đấy.”
Nash đánh bánh xe lượn hẳn sang trái và vượt qua một chiếc xe bảy chỗ đang nghiêm chỉnh chấp hành tốc độ cho phép. Hai xe sát sạt nhau đến nỗi Porter nhìn thấy trò chơi Angry Birds trên màn hình iPad của cô bé ngồi ngay ngắn ở ghế sau. Cô bé ngẩng mặt lên và cười tươi rói với chiếc đèn đang sáng nhấp nháy rồi quay lại với trò chơi.
“Tôi nhắn tin báo lúc ở Wheaton rồi. Ông ấy biết chúng ta đang đi tới Flair Tower.” Nash nói.
Porter nghĩ tới cô bé cầm iPad. “Bằng cách nào có thể giấu kín con gái suốt mười lăm năm trong một thế giới như bây giờ được nhỉ? Hẳn là không dễ dàng, đúng không? Đăng ký khai sinh là một chuyện, làm thế nào để giữ bí mật với thế giới mạng nhỉ? Mạng xã hội? Rồi thì báo chí? Talbot xuất hiện trên báo suốt, nhất là từ khi bắt đầu dự án ven hồ. Đủ mọi thể loại máy quay bám sát chỉ chờ
ông ta dính phốt gì đó. Hẳn phải có ai đó từng chụp được ảnh hay gì đấy chứ.”
“Tiền có thể che giấu được rất nhiều thứ.” Nash nói, đánh mạnh lái sang trái lần nữa để lên đường cao tốc.
Porter thở dài rồi đọc tiếp cuốn nhật ký.
CHƯƠNG 11
N
hật ký
Mùa hè ở chỗ chúng tôi khá là ấm áp. Vào tháng Sáu, hầu hết thời gian của tôi là ở ngoài trời. Đằng sau nhà chúng tôi là một rừng cây, và đi sâu vào trong rừng cây có một cái hồ nhỏ. Vào mùa đông, mặt hồ đóng băng, nhưng sang mùa hè, nước trong hồ sẽ có màu xanh ngắt và nhiệt độ nước thì mát lạnh.
Tôi thích tới chơi bên hồ.
Tôi sẽ nói với mẹ là tôi đi câu cá, nhưng nói một câu thật lòng, tôi chẳng phải người thích đi câu. Cái quá trình móc giun vào lưỡi câu rồi ném sinh vật ấy xuống nước và chờ đợi một con vật đi tới, rỉa thịt loài trườn bò nhơ nhớp đó chẳng hấp dẫn chút nào với tôi. Ngoài tự nhiên cá cũng ăn giun sao? Tôi nghi ngờ điều đó. Tôi phải tận mắt nhìn thấy lũ giun tự nguyện đi xuống hồ. Theo như tôi hiểu, cá ăn thịt những con cá bé hơn, chứ không phải giun. Có lẽ nếu ai đó đi câu mà dùng cá bé với hi vọng câu được cá lớn hơn, người đó sẽ câu được nhanh và nhiều hơn chăng? Kể cả là vậy, tôi chưa bao giờ có đủ kiên nhẫn cho cái trò ngớ ngẩn ấy cả.
Dù thế tôi vẫn rất thích cái hồ.
Và cô Carter cũng vậy.
Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên tôi gặp cô ấy ở đó.
Đó là vào ngày Hai mươi tháng Sáu. Bảy ngày nghỉ hè thú vị đầu
tiên đã trôi qua và mặt trời đã lên cao tít trên kia, mỉm cười tỏa ra ánh nắng vàng óng yêu thương xuống mảnh đất nhỏ xinh của chúng tôi. Tôi bước tới bên hồ cùng chiếc cần câu trong tay, tiếng huýt sáo nhè nhẹ bay trên môi. Tôi đã luôn là một đứa trẻ hạnh phúc như vậy đó. Mạnh khỏe, hồn nhiên, đúng là vậy.
Tôi ngồi phịch dưới gốc cây yêu thích, đó là một cây sồi lớn với tán rộng che bóng cả một khoảng rộng mà hẳn cây phải nhiều tuổi lắm rồi mới có được. Tôi từng tưởng tượng nếu tôi cắt ngang thân của cái cây và đếm số vòng trên đó thì chắc là sẽ nhiều lắm, có lẽ là một trăm hoặc hơn thế nữa. Bao năm tháng đã đến rồi đi, còn cây sồi vẫn đứng sừng sững trên nền đất như thế, cúi xuống nhìn theo phần còn lại của khu rừng. Thực sự, đó là một cái cây rất tuyệt.
Mùa hè tới, tôi sẽ giành lấy một vị trí thật đẹp dưới gốc cây. Tôi luôn để cần câu cá ở bên trái và túi đựng đồ ăn trưa (trong đó có bánh mì sandwich kẹp bơ lạc và mứt) ở bên phải. Rồi sau đó, tôi sẽ lôi cuốn sách mới nhất từ trong túi ra và để mình đi lạc theo những trang sách.
Mấy ngày hôm nay, tôi đang nghiên cứu một học thuyết. Tháng trước, chúng tôi học được trong giờ Khoa học rằng Trái Đất có tuổi đời 4,5 tỉ năm. Trước đó chúng tôi học được rằng loài người chỉ mới xuất hiện cách đây có hai trăm nghìn năm. Sau khi nghe được mấy thông tin cơ bản ấy, một suy nghĩ đã vụt hiện lên trong đầu tôi. Đó là lí do mà hôm trước, tôi đã chọn lấy cuốn sách đặc biệt này từ thư viện - một cuốn sách về hóa thạch.
Bạn biết đấy, những thứ bị đất đá bao lấy xung quanh đã “hóa đá” và nằm im trong đó trong… trong - tôi không biết nữa, nhưng đó
là một khoảng thời gian rất dài, hàng triệu triệu năm, đó là trường hợp của khủng long. Và đa số động vật thậm chí không thể trở thành hóa thạch. Suy cho cùng, một động vật trước tiên phải mắc kẹt ở trong đá thì mới có thể hóa đá. Nếu các thành phần của nó bị phá hủy trước khi quá trình này diễn ra, những bằng chứng về chúng sẽ biến mất, không để lại một dấu vết nào.
Tháng trước, tôi đã giết một con mèo và để cái xác cứng đơ của nó ở bên hồ rồi chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra.
Đừng lo, nó không phải là thú cưng của ai đâu, chỉ là một con mèo hoang thôi. Đó là một con mèo mướp nhỏ sống trong khu rừng này. Chí ít thì đó là nơi mà tôi tìm thấy nó. Mà thực ra, nếu con mèo ấy thật sự là của ai đó thì nó đã không đeo một cái thẻ tên. Nếu nó là thú nuôi trong nhà và họ để cho nó chạy lung tung mà không đeo thẻ tên thì mọi tội lỗi gây ra cái chết cho con vật ấy phải đổ lên đầu những người chủ bất cẩn của nó.
Con mèo nhìn không khỏe mạnh cho lắm. Từ khá lâu rồi. Trong vài ngày đầu tiên, cái xác của con mèo có mùi kinh khủng khiếp, nhưng cũng qua đi nhanh thôi. Trước tiên, ruồi bu đến, rồi sau đó tới dòi. Mấy đêm đầu tiên, có lẽ đã có con gì đó lớn hơn thế tới rỉa xác nó. Đến lúc này, mặc dù chỉ mới sau có một tháng, chẳng còn gì hết ngoại trừ đống xương. Gió và mưa chắc chắn rồi cũng sẽ mang những thứ này đi. Và thế là hết sạch.
Tôi hình dung một con người rồi cũng sẽ biến mất, nhanh như thế.
Lúc đầu, tiếng động khiến tôi giật mình. Suốt thời gian dài tới bên
hồ này, tôi chưa từng nhìn thấy có người nào khác. Nhưng chẳng có gì là mãi mãi cả, và đây, một người đang đứng cách mép hồ chưa đầy ba chục mét, nhìn chằm chằm ra mặt nước.
Tôi vội nép sau một thân cây để không bị nhìn thấy.
Mặc dù người đó đang quay mặt đi hướng khác khiến tôi không nhìn thấy toàn bộ khuôn mặt, nhưng ngay lập tức tôi nhận ra mái tóc, những lọn tóc dài xoăn lượn sóng màu nâu sô cô la thả xuống sau lưng.
Cô ấy nhìn sang phía tôi. Tôi cúi người lùi lại. Rồi cô ấy nhìn sang bên phải, quan sát xung quanh. Cuối cùng, khi đã hài lòng rằng chỉ có một mình, cô ấy lấy từ trong cái túi xách lớn ra một tấm khăn và trải nó ra bên cạnh mép hồ.
Sau khi nhìn ngó xung quanh thêm một lần nữa, cô ấy vòng tay ra đằng sau và tháo dây buộc chỗ cổ ra. Chiếc váy tuột xuống khỏi thân thể và rơi xuống, chiếc váy trắng toát, lấm tấm điểm những bông hoa nằm gọn dưới chân cô ấy.
Tôi há hốc mồm.
Cô ấy không mặc gì hết.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một phụ nữ khỏa thân.
Cô ấy nhắm mắt lại và ngẩng mặt về phía mặt trời, mỉm cười. Chân cô ấy dài quá.
Và bộ ngực!
Ôi Chúa ơi! Tôi cảm thấy mặt tôi đỏ ửng. Và bây giờ nó vẫn đang ửng đỏ.
Tôi nhìn thấy một túm lông nhỏ ở chỗ đó, cái chỗ nhỏ đặc biệt đó.
Cô Carter tiến về phía mặt nước và bước chân xuống, lúc đầu có hơi lưỡng lự một chút. Hẳn là nước lạnh.
Nhưng rồi, cô ấy vẫn bước tiếp, xa hơn, chầm chậm chìm theo độ sâu của nước.
Khi nước ngập qua đầu gối, cô ấy cúi người xuống, múc lấy một vốc tay nước và táp nó lên ngực. Một lát sau, cô ấy ngụp xuống nước và bơi ra giữa hồ.
Tôi quan sát, từ vị trí an toàn của mình sau thân cây.
Đêm đến rồi đi và rõ ràng là đêm bồn chồn khó ngủ với tôi. Mùa hè đến mang theo cái nóng, và căn phòng của tôi trở nên bỏng giãy ngay khi mùa xuân rũ bỏ lớp áo khoác.
Tuy thế, chẳng phải cái nóng khiến tôi thao thức, mà là những suy nghĩ về cô Carter. Tôi dám nói rằng đó là những suy nghĩ thiếu trong sáng nhất, và rất, rất mới đối với tôi. Khi nhắm mắt lại, tôi vẫn nhìn thấy cô ấy đang đứng bên hồ, dưới ánh nắng tươi sáng, những giọt nước lấp lánh trên làn da thịt ướt đẫm của cô ấy. Đôi chân dài của cô ấy… chúng dài và mịn màng quá. Nó khiến cho dòng máu ào ạt chạy đến những nơi nó chưa bao giờ tới, nó khiến tôi cảm thấy…
Với một cậu nhóc con, chúng ta có thể nói là nó khiến tôi thổn thức.
Sáng hôm sau, tôi bị đánh thức bởi giọng nói của cô ấy. Lúc đầu, tôi nghĩ đó chỉ là một giấc mơ khác, và tôi rất đón chào nó, tôi ước được nhìn thấy cô ấy cởi bỏ chiếc váy và bước xuống hồ thật nhiều lần nữa trong trí tưởng tượng của mình. Giọng thì thầm
của cô ấy lướt nhẹ theo làn gió, tiếp sau đó là tiếng mẹ cười khúc khích. Tôi choàng tỉnh.
“Như thế kì lắm.” Cô ấy nói. “Em chưa để bị trói lại bao giờ cả.” “Chưa bao giờ thật á?” Mẹ đáp.
Cô Carter cười thẹn. “Nghe như kiểu em đoan trang lắm nhỉ?” “Nó chỉ biến em thành người thiếu kinh nghiệm thôi. Dần dà em sẽ ngạc nhiên trước những gì chồng em có thể nghĩ ra để giúp anh ta tìm được khoái cảm.”
“Thật á?”
“Thật mà. Vừa mới tuần trước…” Giọng mẹ nhỏ lại thành tiếng thì thầm.
Tôi ngồi dậy trên giường. Giờ đây, hai giọng nói chỉ còn là những âm thanh mờ nhạt đâu đó trong căn nhà.
Tôi vội vàng mặc quần áo lên người rồi áp sát tai vào cửa, nhưng vẫn chẳng nghe được gì.
Nhẹ nhàng vặn quả đấm, tôi mở cửa và tiến ra hướng hành lang, đôi chân mang tất của tôi bước đi trên sàn gỗ không gây ra một tiếng động nào.
Hành lang dẫn tới phòng khách, phòng khách nằm đối diện với phòng bếp. Tôi ngửi thấy có món gì đó đang nướng trong lò: mùi thơm lừng của táo và bột mì. Bánh nướng, có lẽ là vậy chăng? Tôi cực kỳ thích một ổ bánh nướng thật ngon.
Bỗng nhiên mẹ và cô Carter bật cười rôm rả.
Tôi cúi thấp, áp sát vào bức tường ở gần cuối hành lang. Tôi vẫn chẳng thể nghe rõ nhưng cũng không dám đi vào phòng khách. Vị
trí này là lựa chọn duy nhất rồi.
“Anh Simon của em không phiêu lưu đến thế đâu.” Cô Carter nói. “Em e rằng bao đựng kĩ nghệ của anh ấy nhẹ lắm. Chỉ bằng cái túi xách nhỏ thôi chứ chẳng được bao ấy, thật đấy. Hoặc có lẽ chỉ bằng một trong mấy cái túi giấy đựng đồ ăn trưa tin hin này thôi.”
Tiếng cánh cửa tủ lạnh mở ra cùng với tiếng chai lọ va leng keng vào nhau.
“Anh xã nhà chị khác hẳn.” Mẹ đáp. “Thi thoảng chị bày trò chỉ để anh ấy khỏi nghĩ tới phòng ngủ. Hoặc phòng giặt. Hoặc bàn ăn.” “Ôi trời ơi!” Cô Carter thốt lên cùng một tràng cười.
“Thật đấy.” Mẹ nói. “Anh ấy cứ như thể động vật đến mùa động dục ấy. Đôi lúc chẳng gì có thể cản nổi.”
“Nhưng anh chị có con rồi mà.”
“Ồ, cậu nhóc đấy luôn bận rộn làm việc gì đó. Còn nếu không, cậu ta sẽ ngủ lăn quay trên giường như một con gấu ngủ đông vậy. Đất có thể nứt toác dưới chân và cậu ta vẫn say giấc vượt qua cơn thảm họa.”
Tôi hơi ngó đầu khỏi góc tường, không gây ra tiếng động nào cả, nhưng rồi nhanh chóng rụt lại để không bị nhìn thấy. Mẹ đang trộn thứ gì đó chỗ bàn bếp. Cô Carter ngồi bên bàn ăn, tay cầm cốc cà phê.
“Có lẽ em nên thử cách nào đó để thêm chút hương vị xem sao.” Mẹ tiếp tục. “Chị vẫn luôn nói đấy thôi, những thứ cơ bản chỉ dành riêng cho thầy tu. Hãy thử mang đồ chơi hoặc đem một ít thức ăn vào phòng ngủ. Đàn ông gã nào cũng mê kem tươi.”
Tôi không được phép mang thức ăn vào phòng ngủ. Không được kể từ khi mẹ phát hiện ra một hộp bánh quy ăn dở rơi dưới gầm giường.
Cô Carter lại cười khúc khích. “Em chẳng làm đâu.”
“Nên làm, em ạ.”
“Nhưng lỡ anh ấy không thích, hoặc anh ấy nghĩ em kì cục hay gì đó thì sao? Làm thế nào để em sống sót qua được nỗi xấu hổ ấy đây?”
“Ôi, cậu ấy sẽ thích. Họ lúc nào chả vậy.”
“Chị nghĩ thế à?”
“Chị biết chắc là vậy.”
Hai người phụ nữ lặng thinh trong giây lát, rồi cô Carter nói: “Chồng của chị đã bao giờ, chị biết đấy, không có khả năng, ừm, chị biết đấy…”
“Chồng chị á?” Tiếng mẹ ré lên đầy thích thú. “Ôi Chúa tôi, chưa bao giờ. Hàng họ của anh ấy là hàng tuyển rồi.”
“Kể cả khi anh ấy uống rượu sao?”
“Đặc biệt là khi anh ấy uống rượu.”
Có tiếng một chiếc ghế gỗ của chúng tôi kéo lê trên sàn nhà. Tôi lén nhìn qua góc tường trong một giây. Mẹ đã ngồi bên cạnh cô Carter và đặt một tay lên vai cô ấy. “Chuyện đó xảy ra thường xuyên lắm sao?”
“Chỉ khi nào anh ấy uống rượu.”
“Cậu ấy uống nhiều không?”
Cô Carter ngừng lại, cố tìm từ chính xác để nói. “Không phải
hằng đêm.”
Mẹ siết chặt vai cô ấy. “Ừm, đàn ông rồi sẽ là đàn ông. Cậu ấy vẫn cần trưởng thành thêm nữa.”
“Chị nghĩ vậy à?”
“Chắc chắn là vậy. Khi mới bắt đầu cuộc sống gia đình, có rất nhiều áp lực đè nặng lên người đàn ông, lên cả hai người, nhưng lên cậu ấy nhiều hơn. Cậu ấy đã mua cho em căn nhà xinh đẹp đó. Chị đoán hai người đã nói về chuyện sinh con?”
Cô Carter gật đầu.
“Tất cả những thứ đó, chúng sẽ dồn lại với nhau thành những gánh nặng cực lớn đè lên vai cậu ấy. Mỗi thứ một chút, đè dần đè dần, đè tới khi cậu ấy chẳng thể bước nổi nữa, chẳng thể đứng được nữa. Cậu ấy sẽ uống rượu để giải tỏa chúng, vậy thôi. Chị thấy chẳng có gì sai khi dùng một chút rượu để làm dịu đi tâm trạng cáu kỉnh khó chịu cả. Em đừng bực bội làm gì. Khi mọi chuyện khá hơn, khi gánh nặng được quăng bỏ, tình hình sẽ tốt hơn thôi. Em cứ đợi mà xem.”
“Chị không nghĩ là do em à?” Cô Carter nói, giọng của cô ấy nghe gần giống của một đứa trẻ.
“Một cô gái xinh đẹp như em sao? Tất nhiên là không phải rồi.” Mẹ nói với cô ấy.
“Chị nghĩ em xinh đẹp à?”
Mẹ khịt mũi. “Chị không tin được em còn phải hỏi lại nữa cơ đấy. Em tuyệt lắm. Một trong số những cô gái xinh đẹp nhất chị từng được biết.”
“Chị thật tốt bụng khi nói vậy.” Cô Carter nói.
“Đó là sự thật. Bất cứ người đàn ông nào có được em cũng đều thật may mắn.” Mẹ nói với cô ấy.
Hai người phụ nữ lại lặng thinh, và tôi lại nhìn trộm, tôi dịch ra khỏi mép tường, nhẹ nhàng như một con chuột nhắt. Mẹ và cô Carter đang hôn nhau.
CHƯƠNG 12
E
mory
Ngày 1 - 9:29 sáng
Bóng tối.
Nó bao vây quanh cô như dòng chảy của đại dương sâu thẳm nhất. Lạnh lẽo và lặng yên, đang bò ngang người khi có một người lạ chạm vào cô.
“Emory.” Tiếng mẹ cô thì thầm. “Con phải dậy rồi. Con sẽ muộn học mất.”
“Không.” Cô rên rỉ. “Vài phút nữa thôi mà mẹ…”
“Dậy ngay đi con yêu, mẹ không nói lại nữa đâu.”
“Con bị đau đầu. Con ở nhà được không?” Tiếng cô nhỏ nhẹ và nghe không rõ, thấm đẫm cơn buồn ngủ.
“Mẹ sẽ không giúp con bịa lí do nghỉ học với thầy hiệu trưởng nữa đâu. Tại sao ngày nào ta cũng phải như thế này nhỉ?” Nhưng không phải. Mẹ của cô đã chết lâu rồi mà, khi cô chỉ mới ba tuổi. Mẹ của cô đã không có mặt trong ngày đầu tiên cô tới trường. Mẹ chưa bao giờ tiễn cô đi học cả. Hầu hết thời gian cô được cho học tại nhà.
“Mẹ ơi?” Cô gọi khẽ.
Lặng thinh.
Đầu cô đau quá.
Cô cố bắt hai mí mắt phải mở ra, nhưng chúng cưỡng lại. Đầu của cô đau nhức, giật giật. Cô nghe thấy tiếng nhịp tim mình đập thình thịch, nhịp đập nhanh và mạnh ở bên dưới. “Mẹ ơi, mẹ có đó không?”
Cô cố nhìn qua bóng tối phía bên tay trái, cố tìm kiếm những con số phát sáng màu đỏ trên chiếc đồng hồ báo thức. Nhưng chiếc đồng hồ không có ở đó, căn phòng của cô tối đen như mực.
Bình thường, những ngọn đèn trong thành phố sẽ rọi ánh sáng rực rỡ lên trần căn phòng của cô, nhưng những ngọn đèn ấy cũng tắt ngóm.
Cô chẳng nhìn thấy gì hết.
Đây không phải phòng của cô.
Suy nghĩ đó vụt tới, một giọng nói lạ lùng.
Ở đâu nhỉ?
Emory Connors cố gắng ngồi dậy, nhưng một cơn đau như búa bổ giật mạnh phía bên trái đầu cô, buộc cô phải nằm xuống. Cô sờ tay lên tai và phát hiện ra có miếng băng gạc dày. Ướt át. Máu sao?
Rồi cô nhớ lại mũi tiêm.
Hắn đã tiêm thuốc vào cô.
Hắn là ai?
Emory không biết. Cô không thể nhớ ra. Nhưng cô vẫn nhớ mũi tiêm ấy. Tay hắn ôm lấy cô từ phía sau và cắm cây kim vào cổ cô. Thứ chất lỏng lạnh lẽo chảy ào vào bên dưới lớp da. Cô đã cố gắng quay lại.
Cô đã muốn đánh lại hắn. Đó là những gì cô được dạy phải làm, tất cả những gì được học ở các lớp tự vệ mà cha cô khăng khăng bắt cô phải tới. Đập cho tàn phế đi! Đá thẳng vào chỗ hiểm, con yêu. Thế mới là con gái bố.
Cô đã muốn xoay người lại với một cú đá chính xác và một cú đấm thẳng vào mũi hoặc khí quản của hắn, hoặc có thể là mắt hắn. Cô đã muốn khiến hắn bị thương trước khi hắn kịp làm hại cô, cô đã muốn…
Nhưng cô không quay lại.
Thay vào đó, thế giới xung quanh cô trở nên tối đen và cơn buồn ngủ nhấn chìm cô.
Hắn sẽ hiếp rồi giết mình, cô đã nghĩ như thế khi mất dần nhận thức. Cứu con với, mẹ ơi, cô đã nghĩ như thế khi xung quanh cô chìm dần vào màu tối thẫm.
Mẹ của cô đã đi rồi. Chết rồi. Và cô chuẩn bị được đoàn tụ với bà.
Chẳng sao cả, thế là tốt. Cô muốn gặp lại mẹ.
Nhưng hắn vẫn chưa giết cô. Chưa, phải không?
Chưa. Chết rồi thì không cảm thấy đau nữa, và tai của cô đang giật giật từng hồi.
Cô cố bắt mình ngồi dậy.
Máu tuôn ra từ trên đầu, và suýt chút nữa cô lại gục xuống. Căn phòng quay cuồng mất một lúc trước khi bình thường trở lại. Hắn đã tiêm gì cho cô nhỉ?
Cô đã từng nghe kể về những cô gái bị cưỡng hiếp mà không hề
hay biết ở những bữa tiệc hoặc câu lạc bộ, họ tỉnh dậy ở những nơi xa lạ, quần áo xộc xệch và chẳng còn chút ấn tượng nào về những gì đã xảy ra. Cô không hề đi dự tiệc, cô đang chạy bộ ở công viên. Gã đó bị lạc mất chó. Hắn đứng đó, cầm dây xích trong tay, nhìn thật buồn rầu, gọi tên nó.
Bella? Stella? Tên con chó là gì ấy nhỉ?
Cô chẳng thể nhớ được. Đầu óc cô mờ mờ ảo ảo như bị một lớp khói dày che phủ, khiến những suy nghĩ bị ngắt quãng. “Nó chạy hướng nào?” Cô đã hỏi hắn.
Hắn nhăn nhó, suýt nữa thì khóc. “Nó nhìn thấy một con sóc rồi chạy đuổi theo, hướng đó.” Hắn chỉ về phía đông. “Nó chưa từng bỏ chạy như thế bao giờ. Tôi chẳng hiểu nữa.” Emory đã quay đầu, nhìn theo hướng hắn chỉ.
Rồi cánh tay vòng lấy quanh cổ cô.
Và hắn tiêm.
“Đến giờ ngủ rồi, cô gái xinh đẹp.” Hắn thì thầm vào tai cô. Chẳng có con chó nào hết. Tại sao cô lại có thể ngu xuẩn đến vậy?
Cô lạnh quá.
Có thứ gì đó ghìm cổ tay cô xuống. Emory giật mạnh và nghe thấy tiếng kim loại đập vào nhau. Dùng tay trái với sang, cô phát hiện ra có một thứ thép trơn mịn vòng quanh cổ tay cô, một sợi xích mỏng.
Là còng tay.
Còng chặt vào thứ mà cô đang nằm lên, chẳng biết nó là cái gì.
Cổ tay phải của cô bị còng vào thứ gì đó, còn tay trái được thả tự do.
Cô hít một hơi thật sâu. Không khí có mùi ôi cũ, ẩm ướt. Đừng hoảng sợ, Emory. Đừng cho phép mình đầu hàng nỗi hoảng sợ.
Cô cố gắng điều chỉnh để mắt thích nghi với bóng tối, nhưng nó tối quá, tối đen hoàn toàn. Những đầu ngón tay của cô lần sờ bề mặt của cái giường.
Không, không phải là giường. Là một thứ khác.
Nó bằng thép.
Băng ca cứu thương trong bệnh viện.
Emory không rõ vì sao cô lại biết, nhưng đúng là vậy, cô biết chính xác là thế.
Ôi Chúa ơi, cô đang ở đâu đây?
Cô run lên, lúc này cô mới nhận ra mình không mặc gì cả. Cô ngập ngừng một lát, rồi cô đưa tay xuống dưới và cảm nhận vùng giữa hai chân. Cô không thấy đau.
Nếu hắn cưỡng hiếp cô, cô đã biết, chẳng phải thế sao? Cô không dám chắc nữa.
Ôi Chúa ơi, đầu của cô.
Cô với tay ra đằng sau, ngập ngừng chạm vào miếng băng. Tai của cô bị bao kín hoàn toàn. Có một loại băng dính nào đó giúp cố định chúng lại. Nhẹ nhàng, cô lột bỏ lớp băng gạc ra. “Mẹ kiếp!” Làn gió mát lạnh thổi qua, cảm giác như một lưỡi dao cứa.
Cô kéo bỏ lớp băng ra, kéo mạnh cho tới khi cô có thể nhét tay vào bên dưới lớp vải.
Nước mắt cô đầm đìa khi mấy ngón tay vuốt qua những gì còn lại trên tai cô, chẳng có gì hơn là một vết thương nham nhở, đã được khâu lại và mềm nhũn. “Không… Không… Không.” Cô nức nở.
Tiếng nói của cô va vào thành tường rồi dội lại tai cô như muốn giễu cợt.