" 4MK Thriller 3: Đứa Trẻ Thứ Sáu PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 4MK Thriller 3: Đứa Trẻ Thứ Sáu PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo J. D. BARKER Nguyễn Quang Huy dịch —★— ĐỨA TRẺ THỨ SÁU • THE SIXTH WICKED CHILD • (4MK Thriller, #3) ĐINH TỊ & NXB THANH NIÊN ebook©vctvegroup Chào mừng đến với sô diễn cuối cùng Hy vọng bạn đang mặc trên người bộ đồ đẹp nhất. - Sign of the Times, Harry Styles Còn gì nữa cha để lại cho con? Cha ơi, cha đã để lại cho con những gì? - Another brick in the Wall, Pink Floyd T ray Ngày 5 - 5:20 sáng CHƯƠNG 1 “Này, thằng đầu đất, chỗ này là cái nhà trọ chó chết của mày đấy hả?” Giọng nói cộc cằn, như có sỏi trong mồm. Vào giờ này chắc là cảnh sát, bảo vệ hay có thể chỉ là một lão chủ nhà giận dữ. Không cần biết là ai, Tray Stouffer vẫn nằm bất động dưới những nếp gấp của chiếc chăn lông đã mốc. Thi thoảng khi bạn nằm bất động đủ lâu, họ sẽ bỏ đi. Đôi khi họ sẽ chán. Lại là tiếng giày đó - nhanh và mạnh. Cú đá thẳng vào dạ dày. Tray chỉ muốn thò đầu ra và gào lên, túm chặt lấy chân hắn và đánh trả. Nhưng nó chẳng làm gì. Vẫn nằm bất động hoàn toàn. “Mẹ kiếp, tao đang nói chuyện với mày đấy!” Thêm một cú đá nữa, mạnh hơn cú lúc nãy, trúng vào mạng sườn. Tray gầm gừ, không thể kiềm chế được. Siết cái chăn bông chặt hơn. “Mày có biết ảnh hưởng của mày và lũ bạn mày lên giá trị ở đây khi cắm trại ngoài này không? Tụi mày dọa bọn nhóc con sợ chết khiếp. Người già sẽ không rời khỏi tòa nhà này nữa. Thế họ cứ phải bước qua cái đống rác rưởi như mày để chạy đến cửa hàng đấy à?” À, vậy là lão chủ nhà. Tray đã từng nghe tất cả những chuyện này. “Mày có biết năm giờ sáng lúc mày đang ngủ thì tao làm gì ngoài này không? Trong khi cả lũ bọn mày nằm một đống trên hiên nhà chúng tao đấy. Khi đó tao vừa kết thúc ca làm việc mười tiếng đồng hồ tại Tiệm Bánh ngọt Delphine. Quần quật mười hai tiếng từ tối qua trong cái căn bếp chó đẻ đó. Rồi quay lại làm tiếp sau mười tiếng nữa. Tao khổ như thế là để trả tiền cho cái nơi này. Tao làm vậy là để góp công sức cho xã hội. Mày sẽ chẳng bao giờ thấy tao vất vưởng trên hè phố như lũ chó lười chúng mày. Cút đi mà tìm việc! Tự nuôi sống bản thân đi!” Ở tuổi mười bốn, làm gì có việc mà làm. Chẳng có việc gì hợp pháp hết. Chỉ hợp pháp nếu có sự cho phép của cha mẹ, và chuyện đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Tray vòng tay quanh người chịu cú đá tiếp theo. Nhưng thay vì đá, người đàn ông túm lấy một góc tấm chăn và giật mạnh, quẳng nó sang một bên. Tấm chăn rơi xuống vũng nước do tuyết đã tan một nửa dưới chân các bậc thềm. Tray run rẩy, cuộn tròn người lại, sẵn sàng chịu cú đá nữa. “Ớ, con gái à. Mà chỉ bé con con nhỉ.” Người đàn ông nói, cơn giận đã nguôi đi trong giọng nói. “Anh rất xin lỗi. Tên em là gì?” “Tracy.” Nó đáp. “Hầu hết mọi người đều gọi cháu là Tray.” Ngay lúc những lời này vừa thốt ra khỏi miệng, nó đã hối hận. Nó biết chuyện gì sẽ xảy ra mỗi khi nó nói chuyện với một người trong số chúng. Lẽ ra tốt hơn nó nên ngậm miệng lại, tự biến mình thành kẻ vô hình. Người đàn ông quỳ xuống, một cái túi giấy lủng lẳng trên tay trái. Anh ta trông không già lắm, có thể chỉ tầm ngoài hai mươi. Mặc áo khoác dày. Mái tóc nâu nhét vào trong chiếc mũ len thủy quân màu xanh đậm. Đôi mắt màu hạt dẻ. Dù trong cái túi kia đang đựng cái gì thì mùi vị của nó cũng rất thơm ngon. Anh ta bắt gặp ánh mắt con bé. “Tray, tên anh là Emmitt. Em đói chưa?” Nó gật đầu. Tự biết đó cũng là một sai lầm. Nhưng nó đang đói. Đói ngấu rồi. Anh ta thọc tay vào trong cái túi, rút ra một ổ bánh mì nhỏ. Hơi nước tỏa ra từ bề mặt gồ ghề xuyên qua bầu không khí Chicago lạnh giá, trong thoáng chốc Tray quên đi cơn gió buốt giá xuất phát từ phía hồ, hú lên từng hồi qua các con phố mỗi lần bốc lên. Dạ dày nó réo ùng ục, to đến nỗi cả hai đều nghe rõ. Emmitt bẻ một miếng bánh mì trao cho nó. Nó ăn ngấu nghiến chỉ sau hai lần cắn, thậm chí còn chẳng buồn nhai. Có lẽ đó là miếng bánh mì ngon nhất nó từng được ăn. “Muốn ăn thêm không?” Tray gật đầu, dù nó biết mình không nên thế. Emmitt thở hắt ra. Anh ta vươn tay ra vuốt ve má con bé bằng cạnh ngón tay trỏ. Di chuyển từ gương mặt xuống cổ con bé, trượt xuống dưới cổ áo len dài tay. “Sao em không vào trong này với anh? Có thể thoải mái ăn bao nhiêu bánh mì cũng được. Anh còn nhiều đồ ăn khác nữa cơ. Tắm nước nóng nữa. Giường ngủ thoải mái. Anh sẽ…” Dùng cả hai cánh tay, Tray xô mạnh hai vai người đàn ông. Vì đang ở tư thế quỳ một chân chênh vênh, anh ta không kịp tránh cú đánh. Lộn nhào về phía sau, chiếc túi lăn khỏi tay anh ta, đầu anh ta đập mạnh vào lan can cầu thang tòa nhà. “Con ranh khốn kiếp!” Anh ta quát lên. Anh ta còn chưa kịp ngồi dậy, Tray đã đứng lên. Quơ lấy chiếc túi giấy, nó nhấc ba lô lên, chạy như bay xuống năm bậc thềm, vơ vội cái chăn, chạy xuống phố Mercer. Anh ta sẽ không đuổi theo con bé; chúng hiếm khi làm thế, nhưng đôi khi… “Cút ngay khỏi chỗ này! Để tao bắt mày lại, tao sẽ báo cảnh sát!” Khi Tray thu hết can đảm ngoái đầu lại nhìn, Emmitt đã đứng dậy, đang nhặt nhạnh mấy thứ, xô mạnh cánh cửa đi vào tòa nhà. Kể cả từ khoảng cách xa như thế, nó hình dung mình cảm nhận được hơi ấm từ khu tiền sảnh đó. Nó vẫn không giảm tốc độ chạy tới khi đến trước cổng Nghĩa trang Rose Hill. Vào giờ này, cổng nghĩa trang đã khóa, nhưng con bé vốn gầy còm, nên một lúc sau nó đã lách qua được hàng chấn song bằng sắt rèn sang được bên kia cổng, sau lưng kéo theo ba lô và cái chăn. Chicago có mái ấm dành cho người vô gia cư, nhưng trước nó đã từng đi qua tuyến đường ấy. Vào giờ này chỗ đấy đã khóa cửa. Họ thường đóng cửa tất cả vào quãng từ bảy giờ tối đến nửa đêm, ngoài giờ ấy không nhận thêm bất kỳ ai nữa. Ngay cả nếu có, cũng chẳng thể tìm nổi một chỗ ngủ. Bên trong kín người hết rồi. Đôi khi người ta xếp hàng dài ngay từ trưa, không bao giờ có đủ chỗ. Hơn nữa, lang thang trên phố Tray cảm thấy an toàn hơn. Bọn “Emmitt” xuất hiện khắp nơi, đặc biệt là trong những mái ấm, điều duy nhất tồi tệ hơn việc đâm phải một tên Emmitt trên hiên tòa nhà, hay trong một con ngõ khuất gió nào đó, là bị mắc kẹt trong mái ấm cúng một tên như thế. Đôi khi không chỉ một tên. Bọn Emmitt có xu hướng lập nhóm săn mồi theo bầy. Tray không sợ nghĩa trang. Sau hai năm lang thang trên phố, nó từng ngủ ở mỗi nghĩa trang ít nhất một lần. Rose Hill là một trong những địa điểm ưa thích của nó, xét ở phương diện các khu nhà mồ. Không giống Oakwood hoặc Graceland, Rose Hill không khóa cửa các khu nhà mồ về đêm. Nhân viên bảo vệ dù vẫn có vài người, nhưng vào đêm lạnh lẽo như đêm nay, họ thà ngồi trong văn phòng chơi bài, xem ti vi hoặc ngủ vùi. Nó đã ngắm chán họ qua những ô cửa sổ. Con bé mạnh bước vào ngõ Tranquility qua lớp tuyết mới. Nó không lo lắng nếu có để lại dấu chân, vì biết gió sẽ lại xóa hết. Nhưng chẳng có lý do gì phải liều, nên sau khi lên tới đỉnh đồi, thay vì rẽ trái tại đường Bliss, nó đi cắt ngang qua Tranquility rồi ngoặt xuống con đường mòn nhỏ qua rừng chạy song song bên này đường Bliss. Cho dù không có đèn nhưng mặt trăng gần như tròn vành vạnh, và khi mặt hồ phản chiếu ánh trăng lọt vào tầm mắt, Tray không thể ngăn mình dừng chân nhìn ngắm. Bề mặt băng giá lấp lánh dưới lớp tuyết mỏng vừa rơi. Các bức tượng cẩm thạch lặng lẽ đứng dọc mép nước, ở giữa chúng là những chiếc ghế băng dài. Đúng là một chốn thanh bình. Rất tĩnh lặng. Ban đầu Tray không nhìn thấy cô ta, cô gái đang quỳ bên mép nước, ngoảnh mặt nhìn ra hướng khác. Mái tóc vàng buông xõa sau lưng. Trông cô ta như một trong các bức tượng, bất động, đang đối diện mặt hồ kia. Làn da cô ta nhợt nhạt, gần như trắng bệch, gần như không chút huyết sắc trong bộ đồ màu trắng. Đôi bàn chân cô ta để trần, không mang giày, không mặc áo khoác, chỉ mặc chiếc váy trắng được làm bằng thứ chất liệu mỏng đến nỗi như trong suốt. Đôi bàn tay cô ta siết chặt vào nhau gần ngực như thể đang cầu nguyện, đầu cô ta nghiêng sang một bên. Tray không nói gì, chỉ đến gần hơn. Đủ gần để nhận ra một lớp tuyết mỏng đã kịp phủ kín tất cả những gì đã khoác lên người cô gái. Và khi nó bước vòng sang phía bên kia cô gái, nó nhận ra đây không phải cô gái, mà là một người đàn bà. Sắc trắng tuyệt đối của cô ta, trên từng milimét trên cơ thể cô ta bị phá vỡ nhờ vệt máu đỏ tươi trải dài từ dưới tóc xuống một bên mặt. Thêm một vệt nữa từ con mắt trái của cô ta, một dòng lệ đỏ tươi, dòng thứ ba chảy xuống từ một bên khóe miệng - dòng máu này họa đôi môi cô ta thành đóa hồng rực rỡ nhất. Thứ gì đó được viết trên trán cô ta. Chờ đã, không phải là được viết. Trên hai đầu gối đang quỳ dưới tuyết của cô ta là một cái khay đựng đồ bằng bạc. Thứ bạn có thể thấy tại một bữa tiệc tối ngon miệng, một nhà hàng đắt tiền, đại loại những nơi mà cho dù đã mươi bốn tuổi, Tray cũng biết nó chỉ có thể thấy chúng trên ti vi hay trong những bộ phim. Trên khay là ba chiếc hộp nhỏ, màu trắng. Mỗi chiếc đều được buộc chặt bằng một mảnh vải đen. Phía sau những cái hộp, tựa vào ngực người đàn bà, là tấm biển bằng bìa các tông, giống những tấm biển Tray thường giơ lên để xin tiền mua đồ ăn. Có khác chăng con bé chưa bao giờ viết lên tấm biển những chữ như thế này. Trên tấm biển chỉ viết: CHA HÃY THA THỨ CHO CON Tray làm một việc duy nhất nó có thể làm: Bỏ chạy. P oole Ngày 5 - 5:28 sáng Chào Sam, CHƯƠNG 2 Tôi hình dung anh đang bối rối. Tôi hình dung anh có những câu hỏi. Tôi biết mình đã từng như thế. Tôi cũng có những câu hỏi. Tôi biết. Những câu hỏi là nền tảng của kiến thức, học hỏi, khám phá và tái khám phá. Một trí tuệ ham học hỏi là một trí tuệ có kiến thức vô biên. Một trí tuệ ham học hỏi là căn nhà kho rộng rãi mênh mông, một cung điện hồi ức bạt ngàn những phòng, những tầng gác và những thứ xinh đẹp sáng bóng. Nhưng đôi khi, tâm trí ấy bị hủy hoại, bức tường ấy nứt vỡ, tòa cung điện hồi ức ấy cần phải được xây mới, các căn phòng bị hư hỏng đến không thể khắc phục được nữa. Tôi e rằng tâm trí của anh rơi vào tình trạng thứ hai này. Những bức ảnh xung quanh anh, những cuốn nhật ký bên cạnh anh chính là những chìa khóa sẽ hỗ trợ anh khi đào bới trong đống gạch vụn, khi muốn tái tạo lại tâm trí mình. Tôi ở đây là vì anh, Sam. Tôi sẽ có mặt bên anh như luôn luôn thế. Tôi đã tha thứ cho anh, Sam. Có lẽ những người khác cũng sẽ làm thế. Anh không còn là con người trước đây nữa. Anh còn tốt hơn thế nhiều. - Anson “Tôi đang xem cái quái gì thế này?” Đặc vụ Frank Poole càu nhàu, quẳng tờ giấy in sang một bên. Anh nhắm mắt lại, day mạnh hai gờ bàn tay lên thái dương. Anh đang phải chịu cơn nhức đầu kinh khủng, đã cố gắng ngủ trên chuyến bay khứ hồi từ New Orleans nhưng vô ích. Chiếc điện thoại di động của anh rung chuông điên cuồng. Đó là văn phòng chi nhánh New Orleans của FBI, vẫn đang mò mẫm ở văn phòng luật của Sarah Werner và căn hộ phía trên - mới chín giờ trước Poole đã phát hiện ra xác vị luật sư đang ngó anh trừng trừng từ trên sô pha, ngắm nhìn anh bằng đôi mắt mờ đục, phần bữa tối còn lại đã thối rữa đặt trên lòng, một lỗ đạn nhỏ, đen ngòm nằm ngay giữa trán. Bác sĩ pháp y xác nhận cô ta đã chết được vài tuần, lâu hơn nhiều so với dự đoán ban đầu của Poole. Xác minh nhân thân nạn nhân tên là Sarah Werner, điều này có nghĩa là người phụ nữ được nhìn thấy đi cùng Thanh tra Sam Porter vài ngày trước, người tự xưng mình là Sarah Werner, không phải là cô ta. Bà ta là kẻ lừa đảo, một kẻ tay trong. Cùng nhau, họ đã giải thoát một tù nhân nữ khỏi nhà tù địa phương, sau đó băng ngang đất nước đưa người đó đến Chicago. Giữa những cuộc gọi với văn phòng chi nhánh New Orleans, đường dây điện thoại di động của Porter còn nóng rực bởi đối tác của anh ta. Họ phát hiện ra Porter tại Guyon, một khách sạn bỏ hoang ở Chicago. Tù nhân nữ anh ta giúp trốn thoát ở trong hành lang, đã bị bắn chết. Porter thì ngồi gần như chết sững trong căn phòng trên tầng bốn, vây quanh anh ta là những bức ảnh chụp anh ta cùng tên sát nhân hàng loạt khét tiếng Anson Bishop, 4MK, bên cạnh là một chồng sách bài tập và một chiếc laptop có dòng tin nhắn trên hiện lên màn hình. Theo những gì anh được biết, Sở Cảnh sát Chicago đã liên kết chiếc laptop với một loạt những vụ giết người ghê rợn suốt mấy ngày qua - vài thiếu nữ trẻ tuổi liên tục bị dìm nước rồi cứu tỉnh lại cho đến khi cơ thể họ kiệt quệ, những người trưởng thành bị ám sát theo rất nhiều cách, tất cả đều có liên quan đến việc chăm sóc y tế một người đàn ông tên là Paul Upchurch, đang được điều trị ở Bệnh viện Stroger. Khi Poole không trò chuyện trên di động với văn phòng chi nhánh New Orleans hay với Thanh tra Nash, anh liên hệ với Thanh tra Clair Norton, người đang ở bệnh viện, tìm hiểu một đợt bùng phát nào đó. Đợt bùng phát khởi nguồn từ Bishop, Upchurch và có thể là cả những người khác. Người duy nhất chưa gọi vào di động là giám sát trực tiếp của anh, Đặc vụ Toàn quyền Hurless, và Poole biết rằng cuộc gọi sẽ đến sớm thôi, từ giờ đến lúc đó tốt hơn hết anh nên chuẩn bị sẵn những câu trả lời ngon lành. “Để tôi nói chuyện với anh ấy.” Thanh tra Nash nói từ đâu đó sau lưng anh trong phòng quan sát. Poole vẫn gục đầu vào hai lòng bàn tay. “Không bao giờ.” Phía bên kia ô cửa kính quan sát một chiều, Porter ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế kim loại, người cúi lom khom trên chiếc bàn cũng bằng kim loại. Tay anh ta không bị còng. Poole đã cân nhắc kĩ về chuyện này. “Anh ấy sẽ nói chuyện với tôi.” Nash khăng khăng. Porter không hề nói chuyện với bất kỳ ai. Anh ta chưa thốt ra một lời nào hết. “Không.” “Sam không phải là người xấu. Anh ấy không bị dính vào chuyện này.” “Anh ta dính dáng quá sâu rồi.” “Không phải Sam.” “Người phụ nữ anh ta giúp trốn ngục được phát hiện đã chết vì vết thương do đạn bắn, từ khẩu súng nằm bên cạnh anh ta. Tay anh ta dính toàn vết thuốc súng. Anh ta không cố gắng giấu vũ khí hay chạy trốn. Mà chỉ ngồi đó chờ anh đến bắt.” “Chúng ta không biết anh ấy có giết cô ta không.” “Anh ta không phủ nhận rằng mình đã làm.” Poole phản bác. “Anh ấy sẽ không giết cô ta trừ phi là tự vệ.” Poole tảng lờ anh ta. “Anh ta đã gọi cho Thanh tra Norton tại Bệnh viện Stroger, cung cấp cho cô ta thông tin mà đơn giản anh ta không thể biết trừ phi có dính líu. Anh ta biết Upchurch có khối u nguyên bào thần kinh đệm. Làm sao anh ta biết được tên của Upchurch? Anh ta biết về cả hai cô gái. Những chi tiết anh ta không thể nào biết nếu anh ta không liên quan.” “Anh đã nghe Clair nói rồi. Cô ấy nói Bishop đã nói cho anh ấy biết.” “Bishop nói cho anh ta biết.” Poole nhắc lại với sự tức giận. “Bishop nói cho anh ta biết rằng hắn ta đã truyền virus gây bệnh SARS cho hai cô gái mất tích. Bỏ mặc họ trong căn nhà với Upchurch như thể một con ngựa thành Troy vậy.” Poole cũng đang cố gắng hiểu được câu chuyện này. Kati Quigley và Larissa Biel, cả hai người đang mất tích, đều được tìm thấy trong nhà của Upchurch. Porter cho rằng họ bị tiêm vào một biến thể nào đó của virus gây bệnh SARS. Toàn thể bệnh viện bị cách ly trong khi làm xét nghiệm máu để xác định xem tuyên bố này có thật không. Tốt nhất đó nên là một trò chơi khăm. Còn tệ nhất thì… “Bishop đang chơi đùa với anh ấy.” Nash nói. “Đó là việc hắn làm.” “Anh ta nói với Clair rằng mình đã làm hỏng mọi chuyện. Rằng anh ta xin lỗi. Một người vô tội không nói những chuyện đó.” “Một kẻ có tội sẽ bỏ trốn. Thay vì ngồi trong phòng đợi chờ cảnh sát đến bắt mình. Hắn sẽ che đậy các dấu vết, sẽ biến mất.” Poole nói: “Anh ta đã ăn cắp bằng chứng. Anh ta đã chống lệnh. Anh ta bay đến New Orleans, giúp một người đàn bà trốn ngục rồi để lại sau lưng một xác chết. Một cái xác nữa ở đây. Đây chính xác là lý do anh không thể nói chuyện với anh ta: anh quá thân thiết nên không thể nhìn ra được. Hãy quên việc anh ta là đồng đội của anh đi, hãy quên rằng anh ta là bạn của anh đi. Hãy nhìn vào bằng chứng, hãy xem anh ta như một nghi phạm. Cho đến chừng nào có thể làm thế, anh mới đảm bảo khách quan được. Và nếu không khách quan được, anh chỉ là một phần của rắc rối.” Poole cầm tờ giấy in lên xem xét lại đoạn văn bản. “Chiếc laptop giờ đâu rồi?” “Ở chỗ phòng IT trên tầng.” “Anh gọi lên đó bảo họ đóng gói nó lại. Tôi không muốn người của anh chạm vào nó. Toàn bộ nhóm của anh là mối đe dọa tiềm tàng. Phòng thí nghiệm FBI sẽ mang nó đi phân tích dữ liệu.” Poole nói. “Thế còn mấy bức ảnh và các cuốn sách bài tập anh tìm thấy trong căn phòng cùng anh ta đâu?” Nash không nói gì. “Đừng ép tôi phải hỏi lại.” “Mấy tấm ảnh vẫn nằm ở Khách sạn Guyon, phòng 405. Tôi đã chụp ảnh căn phòng và dán băng dính niêm phong rồi. Tôi cắt một cảnh sát theo dõi tầng đó, thêm hai người nữa bên ngoài tòa nhà.” Nash đáp. “Tôi mang hai cuốn sách bài tập về đây và tự kiểm tra bằng chứng.” “Để mọi thứ y nguyên đi. Bắt đầu từ đây, người của anh không được chạm vào bất kỳ cái gì nữa.” Nash không đáp. Poole đứng dậy, cử động này khiến đầu anh giật lên như trái bóng bowling đang lăn từ bên này hộp sọ sang bên kia rồi va mạnh vào tường. Anh lại xoa xoa thái dương. “Nghe này, tôi đang ưu ái anh đấy. Bất kể chuyện gì đang diễn ra với Sam nếu mà ra tòa án, thì anh và nhóm của anh cần phải giữ khoảng cách với nhau. Bất kỳ tên luật sư nào biết suy nghĩ sẽ phá nát vụ này ra nếu các anh không làm vậy. Họ sẽ bắt đầu với Sam, rồi đến anh, Clair, Klozowski, bất kỳ cái gì các anh đã chạm vào. Từ giờ trở đi, anh chỉ đóng vai người quan sát thôi. Tất cả các anh. Cố làm bất kỳ điều gì khác là sự nghiệp tiêu luôn đấy.” “Tôi không bỏ rơi bạn bè mình đâu.” “Không, nhưng đôi khi họ bỏ rơi anh.” Poole vươn tay về phía cửa dẫn vào phòng thẩm vấn, mở cửa ra, rồi bước vào trong. Tiếng cạch của kim loại khi cánh cửa đóng lại là một trong những âm thanh ầm ĩ nhất anh từng nghe. C lair Ngày 5 - 5:35 sáng Clair hắt xì. CHƯƠNG 3 “Trời ạ.” Klozowski lẩm bẩm, nhìn cô từ bên kia phòng, trong văn phòng tạm thời của họ vốn là một phòng mạch cũ tại Bệnh viện John H. Stroger, Jr. “Phản ứng thích hợp hơn phải là “Chúa phủ hộ cho cô”.” Clair nói sau khi xì mũi. “Tôi thấy da mình cứ nhớp nhớp. Cổ họng thì khô khốc, nhức nhối khắp mình mẩy.” Klozowski nói. “Cô biết chúng ta phải trông đợi điều gì không? Tiếp theo là tiêu chảy đấy. Chẳng có gì tồi tệ hơn khi mà cô phải trải qua tất cả không phải trong ngôi nhà thân thương của mình. Sau đó, toàn bộ ruột gan phèo phổi của cô bắt đầu tan chảy và biến thành một đống nhão nhoét, đôi mắt của chúng ta cũng thế. Cả tôi và cô sẽ phải rời khỏi thế gian này dưới dạng một đống rác. Tôi không mong mình sẽ ra đi như thế. Khi gia nhập lực lượng cảnh sát, tôi luôn cho rằng mình sẽ chết trong trận đấu súng hoành tráng nào đó, hay trong một cuộc đột kích, hay tấn công theo kiểu SWAT. Chứ không phải thế này.” “Hoành tráng không phải một từ chính xác đâu.” Clair nói. “Đặc biệt là khi anh làm ở bộ phận IT. Chẳng có kiểu chết nào như thế xảy ra với các thành viên của cái hội suốt ngày cắm mặt vào máy ấy cả. Nhiều khả năng anh sẽ chết bởi bị giấy cứa hoặc tai nạn khủng khiếp nào đó với thanh nẹp giấy.” Cô vo tròn cái khăn giấy lại rồi ném vào thùng rác dưới gầm chiếc bàn vẫn đang đặt bộ hồ sơ y tế của Upchurch. “Mà anh hiểu sai về các triệu chứng rồi. Thứ anh đang nghĩ đến là Ebola. Chứ SARS không làm tan chảy nội tạng của anh đâu.” “Chắc là vậy đấy.” Clair hất đầu về phía chiếc laptop của Klozowski. “Anh có đủ hết cho tôi chưa?” “Cô không muốn biết đâu.” “Tôi cần biết.” “Hai mươi ba.” Anh ta đáp. Clair vui vẻ trước tin này. “Không nhiều như tôi nghĩ. Chuyện có thể tệ hơn nhiều.” Klozowski vẫy một ngón tay. “Chúng tôi đã nhận diện hai mươi ba nạn nhân tiềm năng từ hồ sơ của Upchurch, mang họ cùng gia đình đến bệnh viện này. Nếu cô bao gồm cả vợ chồng và con cái của họ, con số tổng cộng chúng ta có sẽ thành tám mươi bảy người.” “Ôi mẹ ơi.” Clair đáp. Một khi họ nhận ra Upchurch và đồng bọn đang giết những người mà gã nghĩ phải chịu trách nhiệm khi không thành công trong việc chăm sóc y tế cho mình, Clair đã gom hết họ lại và đưa đến bệnh viện này, với suy nghĩ rằng đây là nơi duy nhất họ có thể bảo đảm an toàn cho một nhóm người đông như vậy. Upchurch cùng đồng bọn của gã đã mong đợi điều này - hai nạn nhân cuối cùng của Upchurch - Larissa Biel và Kati Quigley - đã bị gã cùng đối tác truyền sang hai mầm bệnh lây nhiễm, vì biết hai cô gái này cũng sẽ được mang tới đây, vì đây là bệnh viện gần nhất. Chỉ vài giờ ngắn ngủi, họ không chỉ tiếp xúc với những người còn lại mà Upchurch muốn sát hại, mà còn cả với tất cả mọi người trong bệnh viện. Bao gồm cả Clair Norton và Edwin Klozowski. Porter không chỉ gọi cho cô thông báo chuyện này, ngoài ra còn cho biết mầm bệnh là SARS và đồng bọn của Upchurch là Anson Bishop. Toàn thể bệnh viện ngay lập tức bị cách ly. Theo đúng quy trình, bệnh viện thông báo cho Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC), lập tức một đội phản ứng từ trạm cách ly địa phương của CDC ở Sân bay O’Hare tại Chicago được phái đến. Họ đến nơi trong vòng hai mươi bảy phút. Kloz ngồi tính giờ, tự kiểm tra thân nhiệt bốn lần trong khi chờ đợi. Clair vẫn đang cố gắng thấu hiểu cuộc trò chuyện cuối cùng với Porter. Người đàn ông đã gọi cho cô có vẻ không giống người cô từng biết. Giọng anh nghe giống một kẻ thất bại, tuyệt vọng. Sam biết những chuyện anh không nên biết. Khi Nash cùng đội SWAT đột kích nhà của Upchurch, họ phát hiện gã đang ở trong căn phòng ngủ của bé gái trên tầng. Cho dù chẳng có bé gái nào cả, mà chỉ là một con ma nơ canh ăn mặc như bé gái, khắp xung quanh là những con thú nhồi bông và các bức tranh. Hóa ra con bé chỉ là nhân vật trong cuốn truyện tranh chưa bao giờ được xuất bản mà Upchurch tự viết ra. Gã sẵn sàng tự nộp mình. Dưới tầng hầm, họ tìm thấy Larissa Biel, bị chích thuốc và bất tỉnh. Sau này họ biết cô ta đã nuốt thủy tinh. Ban đầu họ cho rằng Upchurch đã ép cô ta làm thế, nhưng hóa ra cô ta tự nuốt thủy tinh nhằm cố ngăn chặn hắn lợi dụng mình, như đã làm với những người khác. Trong bản khai viết tay, cô ta giải thích rằng Upchurch đã dìm nước các cô gái đến suýt chết, sau đó cứu họ tỉnh lại, tất cả là một phần trong nỗ lực điên rồ để học hỏi về sự sống sau khi chết. Khi cô ta nuốt thủy tinh, cô ta đã bị hủy hoại, không còn là một đối tượng thử nghiệm có sức sống. Clair không thể tưởng tượng nổi một quyết định như thế. Sức mạnh mà Larissa Biel đã cho thấy nhằm tự giải thoát mình khỏi tên điên loạn, để giành lấy sự sống cho mình thật không tin nổi. Biel hiện đang trong phòng hồi sức sau ca phẫu thuật để lấy thủy tinh ra, khắc phục cuống họng, dây thanh quản và dạ dày bị thương tổn. Cho dù những chấn thương cô ta phải chịu đựng ở nhà Upchurch dự kiến sẽ lành, nhưng cô ta cũng bắt đầu xuất hiện những triệu chứng của virus mà Anson Bishop đã truyền vào cơ thể đầy thương tích của cô ta. Liệu Biel có chiến thắng được con virus này không thì còn chưa biết. Trong căn bếp nhà Upchurch, họ phát hiện Kati Quigley đang nằm bất tỉnh trên bàn. Trong bàn tay cô ta là chiếc hộp nhỏ màu trắng thắt dây đen, chữ ký của Anson Bishop. Bên trong chiếc hộp đó là chìa khóa mở một ngăn tủ trong bệnh viện này. Bên trong ngăn tủ đó, họ tìm thấy các hồ sơ bệnh án của Paul Upchurch và một quả táo đã bị cắm ống tiêm. Theo lời Porter, cái ống tiêm đó chứa mẫu mầm bệnh nguyên chất. Bishop đã nói cho anh biết rằng nếu Upchurch chết, hắn sẽ phát tán mầm bệnh này trên phạm vi lớn ở nơi khác trong thành phố. Bạch Tuyết cũng ngây thơ chẳng biết gì. Porter đã nói vậy. Bản thân cũng đang được phẫu thuật sau khi rơi vào tay cảnh sát, Paul Upchurch đang có khối u nguyên bào thần kinh đệm. Ung thư não giai đoạn bốn. Porter tiếp tục cho Clair biết rằng cô phải lần theo một người có tên là Ryan Beyer, bác sĩ phẫu thuật thần kinh tại Bệnh viện Johns Hopkins. Cô đã trao cho Klozowski nhiệm vụ đó - chưa đầy mười phút anh ta đã tìm ra ông ta. Vào lúc đó, Clair gọi cho Frank Poole và FBI, anh thu xếp chuyển bác sĩ Beyer từ Baltimore đến Chicago bằng một trong những chiếc máy bay riêng của FBI. Chuyến bay cất cánh từ Sân bay Quốc tế Washington Thurgood Marshall ngay sau nửa đêm, hạ cánh ở O’Hare vào lúc 2 giờ 22 phút sáng. Từ đây một đội cảnh sát hộ tống đưa bác sĩ Beyer đến Bệnh viện Stroger, nơi ông ta được đưa đi một vòng gặp những người bị nhiễm rồi lao lên phòng phẫu thuật ở tầng ba, nơi Upchurch đang đợi, với sự hỗ trợ của nhóm bác sĩ địa phương. Upchurch cùng Bishop đã giết hại vô số người chỉ vì gã cảm thấy họ không chăm sóc chu đáo, không tích cực điều trị bệnh tình của mình. Dù sao đi nữa, nhờ những hành động này gã đã vinh dự đứng đầu một danh sách rất dài - chuyên gia nổi bật nhất trong lĩnh vực giờ đang hoành hành quanh đầu của gã. Có người gõ cửa. Sue Miflin, một hộ lý của bệnh viện, ngó đầu nhìn vào trong. “Thanh tra phải không ạ? Bác sĩ Beyer đã bước ra khỏi Phòng Phẫu thuật, ông ấy muốn nói chuyện với hai người.” P oole Ngày 5 - 5:35 sáng CHƯƠNG 4 Thanh tra Sam Porter của Sở Cảnh sát Chicago không ngước mắt lên khi Poole bước vào phòng thẩm vấn. Anh ta không hề nhận thấy sự hiện diện của anh. Anh ta vẫn ngồi yên đó, vô hình với những sự kiện diễn ra xung quanh mình, đôi môi anh ta chìm trong cuộc nói chuyện riêng tư nào đó. Đôi mắt anh ta chú mục nhìn đôi bàn tay. Những ngón tay anh ta co giật, tuy nhiên có vẻ không phải là cử động vô thức. Poole từng được nhắc nhở về những khoảnh khắc trước khi ai đó chìm vào giấc ngủ, những cú giật và co thắt bất chợt cơ thể tạo ra là dấu hiệu kết thúc sự tỉnh táo cuối cùng. Nhưng Porter còn lâu mới buồn ngủ. Đôi mắt anh ta vẫn còn nguyên nét sắc sảo của một con nghiện ma túy đá, một kẻ vừa hít xong ba hàng cocain. Quá mẫn cảm, các cơ co cứng, cuồng bạo nhưng khôn ngoan. Một tâm trí với hàng loạt ý nghĩ phức tạp không ai hiểu nổi đang chạy trong đầu. Poole không hiểu rõ Sam cho lắm, cả đội đặc nhiệm điều tra vụ 4MK ban đầu anh cũng chẳng khá hơn là bao, nhưng anh hiểu về con người. Poole tự lấy làm kiêu hãnh rằng mình có khả năng đánh giá người khác chỉ qua một cái nhìn, khả năng thấu hiểu động cơ, nỗi sợ hãi, trí tuệ và nỗi lo âu của người khác. Lần đầu tiên gặp gỡ Thanh tra Porter, bản năng mách bảo cho anh biết rằng Porter là một cảnh sát tốt. Poole tin rằng anh ta thực sự mong muốn bắt được 4MK và tống hắn vào tù. Anh thừa nhận Porter là một thành viên sắc sảo và thông minh của lực lượng hành pháp, xứng đáng được đồng nghiệp tôn trọng và ngưỡng mộ. Anh ta chính là mẫu người mà bản thân Poole nỗ lực đạt tới từng ngày chừng nào còn làm cảnh sát. Cho dù Porter rất ít nói suốt quãng thời gian ngắn ngủi họ quen biết nhau, nhưng Poole chắc chắn người đàn ông này hiểu biết rất nhiều. Anh ta không vội vã đưa ra kết luận, mà chỉ chú trọng vào bằng chứng. Anh ta quan tâm đến những nạn nhân và đấu tranh vì những hồi ức của họ. Anh ta tìm kiếm công lý cho những ai bị bỏ lại phía sau. Frank Poole biết Thanh tra Sam Porter là một người tử tế. Người đang ngồi trong phòng thẩm vấn này không phải là Sam Porter ấy. Con người này chỉ là cái vỏ. Người đàn ông này đang tuyệt vọng. Từ bộ quần áo nhàu nhĩ của anh ta tỏa ra mùi mồ hôi và bẩn thỉu. Mấy ngày rồi anh ta không cạo râu. Đôi mắt co cứng của anh ta giật giật liên hồi, đỏ ngầu, nhìn ra ngoài từ phía trên hai quầng mắt sâu, đen và nặng trĩu vì thiếu ngủ. Poole ngồi xuống chiếc ghế đối diện Porter, hai bàn tay đan vào nhau trên bàn. “Sam?” Porter tiếp tục nhìn chằm chằm đôi bàn tay mình, miệng anh ta vẫn chìm trong cuộc đối thoại chỉ mình anh ta nghe thấy. Poole búng ngón tay. Không đáp. “Anh nghe tôi nói không, Sam?” Không đáp. Poole giơ bàn tay phải lên, lòng bàn tay hướng xuống dưới đập mạnh xuống mặt bàn bằng hết sức mình. Đau chết mất. Porter ngước mắt lên, đôi mắt nheo lại. “Frank.” Anh ta nói ra tên của Poole không ở dạng câu hỏi, không phải là thừa nhận, mà chỉ đơn thuần thông báo. Một từ ngữ đơn lẻ thoát ra kèm hơi thở lặng lẽ, như thể chưa hề được nói ra. “Chúng ta cần nói chuyện, Sam.” Porter ngả người vào lưng ghế, đôi mắt cụp xuống nhìn hai bàn tay. “Tôi muốn nói chuyện với Sarah Werner.” “Cô ta chết rồi.” Porter nghiêng đầu. “Cái gì?” “Bị giết bởi vết thương duy nhất do đạn bắn vào đầu, ít nhất ba tuần trước rồi. Tôi phát hiện thấy cô ta đang ngồi trên sô pha trong căn hộ của mình ở New Orleans.” Porter lắc đầu. “Không phải cô ta, người kia cơ. Sarah Werner khác cơ.” “Nói cho tôi biết nên tìm bà ta ở đâu, tôi sẽ đưa bà ta đến.” Porter không nói gì. “Anh có biết bà ta đã giết chết Sarah Werner thật không?” “Chúng tôi không biết bà ta đã làm thế.” Căn cứ theo thời gian tử vong ước chừng, họ chắc chắn Porter vẫn đang ở Chicago vào thời điểm Sarah Werner thật bị sát hại. Porter đã đúng một phần. Ngoài chuyện giả danh, họ không có bằng chứng nào chứng minh rằng bà ta đã giết chết người phụ nữ kia. Poole nói: “Sarah Werner của anh, kẻ mạo danh, anh có biết bà ta thực ra là ai không?” “Anh biết sao?” “Tôi biết rằng nhờ anh giúp nên bà ta mới cứu được người đàn bà kia ra khỏi tù tại New Orleans. Người đàn bà được cho là mẹ của Anson Bishop - 4MK. Tôi biết hai người bọn anh đã vận chuyển kẻ đào tẩu băng qua rất nhiều ranh giới bang rồi đưa bà ta quay về Chicago. Tôi biết rằng vào đêm qua, người phụ nữ này bị giết hại ở Khách sạn Guyon bằng khẩu súng mà sau đó được phát hiện là thuộc sở hữu của anh. Tôi biết bà ta đã mất tích còn anh không có thời gian mà cũng chẳng muốn tẩy xóa đi mùi thuốc súng trên hai tay mình, trước khi đội SWAT xuất hiện.” Poole bật ra tiếng thở dài. “Tôi biết đủ rồi. Giờ thì tại sao anh không nói cho tôi nghe điều tôi không biết nhỉ?” “Bà ta là mẹ của Bishop.” Porter lặng lẽ đáp. “Người phụ nữ đã chết phải không? Đó là điều tôi đã nói.” “Không phải người phụ nữ đã chết, mà là người đi cùng tôi. Sarah Werner khác cơ. Sarah Werner giả danh ấy. Ngay trước khi bà ta bỏ đi cùng Bishop, sau khi hắn bắn chết tù nhân, chúng cho tôi biết rằng bà ta là mẹ của Bishop.” “Anh có tin chúng không? Sau tất cả những gì hắn bắt anh trải qua?” Đôi mắt Porter lại cụp xuống nhìn hai bàn tay đang bồn chồn. “Tôi cần phải đọc mấy cuốn nhật ký, tất cả các cuốn nhật ký, mọi thứ hắn để lại trong căn phòng đó. Tất cả đều ở đấy. Mọi thứ chúng ta cần. Mọi câu trả lời. Mọi thứ đều ở đó. Đều ở đó.” “Sam, anh đang nói lan man đấy. Anh cần phải nghỉ ngơi.” Porter ngước mắt lên, rướn người về phía Poole. “Tôi cần đọc mấy cuốn nhật ký đó.” Poole lắc đầu. “Không được đâu.” “Các câu trả lời đều nằm trong mấy cuốn nhật ký.” “Theo tôi, mấy cuốn nhật ký đấy đều vớ vẩn.” Poole nói. Porter nhanh chóng lắc đầu. “Tôi đã tìm ra cái hồ. Căn nhà. Anh đã thấy hết rồi, đúng chưa? Anh đã tới đó. Tôi biết anh đã tới đó. Chúng là thật.” Lúc này giọng anh ta hạ thấp, bí ẩn. “Dưới tầng hầm có vết máu, ngay đúng cái chỗ hắn nói nó sẽ ở đấy. Ngay cái chỗ Carter chết.” “Cùng nói về chuyện đó, Sam. Có phải đó là lần đầu tiên anh đến Simpsonville, Nam Carolina không? Đến ngôi nhà số 12 đường Jenkins Crawl?” Porter nhìn anh trừng trừng, bối rối. “Cái gì? Tất nhiên, sao?” “Khi tôi đến Simpsonville, tôi đã xem xét hồ sơ nhà đất cùng viên cảnh sát trưởng địa phương. Chứng thư mang tên anh.” Porter dường như không lắng nghe anh. Anh ta nói: “Anh có tìm thấy Carter dưới hồ không?” “Chúng tôi đã vớt lên sáu thi thể từ dưới hồ. Năm xác còn nguyên vẹn, một cái xác bị chặt thành từng khúc, bọc trong các túi rác.” “Là Carter.” Porter nhẹ nhàng nói. “Các hồ sơ nhà đất, Sam. Tại sao lại có tên anh trên đó?” Porter lại nhìn trừng trừng đôi tay mình, đôi môi anh ta mấp máy không ra tiếng. “Sam?” Đầu anh ta ngẩng phắt lên. “Cái gì?” “Tại sao chứng thư của ngôi nhà số 12 đường Jenkins Crawl lại đứng tên anh?” Porter xua tay trong không khí. “Chỉ là Bishop thôi. Làm giả, giả mạo, tráo đổi… chẳng quan trọng nữa. Hắn đã làm thế nhưng chẳng quan trọng gì.” Anh ta lại ngả người vào ghế, nụ cười toe toét nở trên môi. “Anh đã tìm thấy Carter. Anh… đã… tìm… thấy… Carter. Chó chết, anh đã tìm thấy Carter.” Poole ngắm nhìn đôi bàn tay của người đàn ông, vẫn đang co giật trên bàn. Porter dường như không còn nhận thức được nữa. “Anh không khỏe đâu, Sam. Anh cần phải nghỉ ngơi.” Porter đập mạnh cả hai bàn tay xuống bàn đánh sầm một cái, rướn người về phía trước. “Tôi cần phải đọc mấy cuốn nhật ký đó!” “Năm cái xác chúng tôi vớt lên từ dưới hồ là ai?” “Tôi không biết.” “Đó là tài sản của anh đấy.” Porter há miệng như thể định trả lời, nhưng rồi lại im lặng. Đôi mắt anh ta lại cụp xuống nhìn hai bàn tay. Anh ta đan các ngón tay vào nhau, rồi lại tách chúng ra. “Đó là Bishop. Đó là những gì hắn làm. Hắn lấp đầy thế giới này bằng những lời dối trá.” “Nếu đúng thế, tại sao anh còn tin mấy cuốn nhật ký?” Poole hỏi. “Nếu Bishop không đáng tin tưởng, tại sao anh còn quan tâm đến những gì được viết trong mấy cuốn sổ đó?” Porter lại ngước mắt lên, đầy hy vọng. “Bây giờ chúng đâu rồi? Vẫn ở Khách sạn Guyon à?” “Tôi mới là người hỏi, Sam.” “Năm cái xác kia của anh sẽ nằm trong mấy cuốn sổ đó đấy.” “Anh không biết cơ mà.” Porter rướn người lại gần hơn. Một tia nước bọt mỏng manh lấp lánh trên khóe miệng anh ta. “Chúng ta biết đó là sự thật vì anh đã tìm thấy Carter, đúng ngay chỗ hắn nói hắn để ông ấy lại. Chúng ta biết đó là sự thật vì có vết máu dưới tầng hầm - có ổ khóa trên tủ lạnh. Hắn muốn chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra. Phần còn lại - chứng thư mang tên tôi - đó là thứ để che mờ mắt anh, là chuyện vớ vẩn của anh, anh phải nhìn xuyên qua nó” Poole ngả người vào lưng ghế, không hề rời mắt khỏi người đàn ông đang ngồi trước mặt. Lần này, ánh mắt của Porter cũng không dao động. Porter hạ giọng. “Tên mụ ta là Rose Finicky và mụ ta đáng chết, phải chết trăm lần mới đủ đền tội - mụ ta không hề tinh khiết một chút nào.” “Cái gì cơ?” “Bishop đã nói với tôi như thế ngay sau khi bắn vào đầu bà ta.” “Người phụ nữ chúng tôi phát hiện ở hành lang Khách sạn Guyon à?” Porter gật đầu. “Người phụ nữ kia, người phụ nữ tôi đã tưởng là Sarah Werner, bà ta là mẹ của Bishop. Hắn đã lợi dụng tôi để đưa cả hai đến Chicago. Hắn nói mình có một quả bom.” “Thuốc súng có trên tay anh là từ loại vũ khí đó.” “Tôi cướp súng từ tay hắn và bắn một phát cảnh cáo. Tôi không bắn chết bà ta. Là hắn làm.” “Nếu anh đã cướp súng, vậy tại sao còn để cả hai mẹ con hắn rời đi? Tại sao anh không bắt giữ chúng?” “Anh biết tại sao mà.” “Bởi vì những gì anh đã nói với Clair à?” Porter gật đầu. “Hắn đã truyền virus bệnh SARS vào người hai cô gái, rồi để lại mầm bệnh trong một quả táo ở bệnh viện để chứng minh hắn có mầm bệnh thật sự. Hắn cho tôi biết rằng hắn còn nhiều hơn thế, và nếu tôi không thả chúng đi, hắn sẽ thu xếp làm lây lan virus. Tôi không dám liều mạng xem hắn nói thật hay không. Tôi phải để chúng đi. Hắn bảo tôi rằng tôi phải gọi điện thoại từ phòng 405. Hắn nói tôi sẽ tìm được nhiều bằng chứng hơn ở đó.” “Anh làm đúng những gì hắn bảo à?” “Tôi còn lựa chọn nào khác à?” Poole muốn nói rằng anh ta còn nhiều lựa chọn khác. Porter đã ra rất nhiều quyết định từ lần đầu tiên đảm nhận vụ này cho đến giờ, và anh ta vẫn tiếp tục đi sai hướng. Tầm nhìn của anh ta đã bị che mờ đến nỗi anh ta mù luôn rồi. Cái hang thỏ quá sâu và anh ta cùng Bishop có vẻ đang thay phiên nhau đào bằng xẻng. “Còn một chuyện nữa. Một chuyện anh cần biết.” Ánh sáng trong đôi mắt Porter lấp lánh, như bóng đèn được sạc điện. Anh ta chớp mắt. Nhìn chú mục vào Poole. “Một vài phần trong cuốn nhật ký là thật - những ngôi nhà, cái hồ và gia đình Carter - Tôi nghĩ tất cả những chi tiết này đều chính xác, nhưng các chi tiết khác thì không. Giờ tôi hiểu rồi. Nó nằm trong ngữ điệu của văn bản, cách lựa chọn từ ngữ, hắn đã để lại những đầu mối. Tôi nghĩ mình có thể chỉ ra sự khác biệt. Cái kiểu mập mờ thế này, tôi có thể nhìn xuyên qua nó. Anh cũng thấy thế mà, đúng không?” Poole ngày càng tức tối. “Đó chỉ là chiêu đánh lạc hướng thôi.” “Không!” Âm lượng của từ ngữ bật ra từ miệng Porter chắc phải to hơn hẳn mức anh ta định nói, vì anh ta cũng hơi rúm người lại, lọt thỏm sâu hơn vào ghế. “Không, mấy cuốn nhật ký đó là chìa khóa cho tất cả, chúng ta chỉ phải giải được câu đố.” “Tất cả những gì chúng ta cần làm là bắt kẻ sát nhân.” “Những kẻ sát nhân” Porter đáp. “Cái gì?” “Ngay trước khi chúng bỏ tôi lại khách sạn đó, mẹ của Bishop đã nói: “Tại sao con lại nói với anh chàng đẹp mã này cha con đã chết?” Bà ta đang nói về cuốn nhật ký.” Porter lại rướn người về phía trước. “Anh không hiểu sao? Giờ tôi hiểu rồi. Những từ ngữ từ trang sách ấy gào thét với tôi. Những lời giả dối và sự thật, như thể chúng được in bằng những màu sắc khác nhau mà tôi có thể trông thấy rõ ràng. Anh đã thấy xác của Libby Mclnley - tôi không nghĩ Bishop đã giết cô ta. Tôi nghĩ hắn đang cố gắng bảo vệ cô ta. Nếu không phải Bishop…” Những ngón tay anh ta lại siết chặt vào nhau, như đang muốn nhào một thứ bột vô hình. “Tất cả bọn chúng là những kẻ sát nhân - mẹ hắn, bố hắn và Bishop, và tôi nghĩ cả ba người bọn chúng đều đang ở Chicago này, ngay bây giờ. Ba tên này đang hoàn tất nốt một việc được bắt đầu từ ba năm trước, một việc bắt nguồn từ tuổi thơ của Bishop. Một việc được ghi chép trong mấy cuốn nhật ký. Một sự thật bị che giấu trong một đống những lời dối trá.” Anh ta bỗng dưng gật đầu, một nụ cười toe toét nở trên môi. “Một thứ mà bây giờ tôi thấy rồi.” Anh ta ngước lên nhìn Poole. “Anh cần phải tin tôi.” Poole nhìn anh ta trừng trừng, từng giây tích tắc trôi. “Vài người tin rằng có thể anh chính là bố của Anson Bishop.” Dòng nước dãi chảy ra từ miệng Porter, rớt xuống mặt bàn kim loại thành vũng nhỏ. Anh ta đưa tay lên lau miệng rồi nhìn xoáy vào mắt Poole. “Anh nghĩ sao?” “Tôi nghĩ chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng thuyết phục trong phòng của anh ở Guyon.” Porter cười thầm. “Các bức ảnh ấy hả? Làm ơn đi. Anh biết chúng có thể được làm giả dễ dàng thế nào mà.” “Vài bức ảnh chụp từ cách đây hơn hai mươi năm.” Poole đáp. “Ngay cả nếu hắn muốn làm giả, vậy thì Bishop biết lấy ảnh của anh hai mươi năm trước ở đâu ra mà hợp tác? Anh quen biết hắn bao nhiêu lâu rồi, Sam?” “Chưa đầy nửa năm.” Porter đáp. “Tôi gặp hắn cùng ngày với Nash - trong vụ tai nạn xe buýt, khi hắn giả vờ làm việc cho Sở Cảnh sát Chicago. Cứ việc dùng máy phát hiện nói dối cho an tâm nếu anh muốn, tôi chẳng quan tâm đâu. Tôi chả có gì phải giấu cả. Các bức ảnh cũng chẳng khác gì chứng thư bất động sản - hắn đang cố gắng khiến anh xa rời sự thật.” “Sự thật mà chỉ anh mới nhìn thấy trong các nhật ký của hắn.” Nghe câu này, Porter không nói gì. Tâm trí anh ta lại lạc đi nơi khác. Poole cố gắng không để cơn phẫn nộ hiện lên nét mặt. “Rose Finicky là ai?” “Anh cần phải cho tôi đọc mấy cuốn nhật ký. Anh biết hắn sẽ không để lại chúng cho tôi nếu chúng không quan trọng. Tối thiểu anh phải hiểu điều đó.” “Tôi sẽ sai người của tôi đọc chúng.” “Chúng ta không có thời gian đâu. Họ không biết cần phải tìm cái gì. Họ không thể nhìn qua cái đống chết tiệt ấy để tìm ra sự thật. Tôi hiểu Bishop.” “Thật ư?” Poole phản lại. “Hiểu rõ đến mức nào?” Ai đó gõ lên ô cửa kính một chiều. Tiếng gõ mạnh. Hai cú dồn dập. Poole ngồi im lặng một lúc, đôi mắt nhìn thẳng vào Porter, Porter cũng trừng trừng nhìn lại. Anh không thể đọc nổi suy nghĩ của anh ta. Anh muốn nhưng không làm được. Nếu Porter đang nói dối, ngôn ngữ cơ thể của anh ta sẽ tố giác anh ta. Anh ta tin vào mọi điều mình nói. Như thế không có nghĩa là anh ta đúng, Poole tự nhắc mình. Anh đứng dậy bước đến chỗ cửa ra vào. Từ sau lưng anh, Porter nói: “Anh không thể tóm được hắn nếu không có tôi. Anh không thể bắt được một tên nào hết.” C lair Ngày 5 - 5:45 sáng CHƯƠNG 5 Clair ngước nhìn lên cô y tá đang đứng trên ngưỡng cửa văn phòng tạm thời của họ. Người phụ nữ vẫn đang trong ca trực kể từ khi họ đến, trông cô ta cũng chẳng tươi tỉnh hơn họ - đôi mắt đỏ ngầu, những bọng mắt tối màu, hai vai rũ xuống. Thế nhưng cô ta vẫn tất bật. Clair không nghĩ cô ta có thời gian nghỉ ngơi. “Bác sĩ đang ở đường dây số bốn.” Cô ta nói, hất đầu về phía chiếc điện thoại trên tường. Clair cảm ơn cô ta rồi đứng dậy. Cơ thể rệu rã còn hơn cả cái ghế kim loại cũ kĩ mà cô bắt đầu cảm thấy quen thuộc từ vài giờ trước. Khắp người cô đau ê ẩm. Xương cốt của cô nhức nhối. Cổ họng đau. Thậm chí cả hai mắt cũng như lồi ra. Lỗ mũi của cô biến thành nhà máy sản xuất nước mũi, và cả người cô lạnh run cầm cập. Kloz thận trọng ngắm nhìn cô từ góc phòng của mình. Có vẻ trông anh ta cũng chẳng sung sức hơn là mấy. Cô băng qua phòng tới chỗ đặt máy điện thoại, cầm ống nghe lên, ấn vào cái nút sáng đèn. “Thanh tra Norton đây.” “Thanh tra à? Bác sĩ Beyer đây.” Do bị cách ly, cô vẫn chưa được gặp trực tiếp người đàn ông này. Cô tự nhủ có lẽ vẻ ngoài của ông ta là sự pha trộn giữa George Clooney, Patrick Dempsey và anh chàng dễ thương trong series phim Scrubs, vì chàng luôn khiến cô mỉm cười, trong hoàn cảnh này cô cần có thứ gì đó khiến mình cười. Giọng ông ta thấp, cộc cằn và nhừa nhựa. Chất giọng của người mất cả đời cân nhắc ngôn từ cẩn trọng trước khi nói. Ông ta hắng giọng rồi cho cô biết đúng những gì cô không muốn nghe. “Ca này vô vọng rồi. Cô biết thế, đúng không? Hết cách rồi.” Clair lại liếc nhìn Kloz. Anh ta đã tạm dừng việc gì đó đang làm trên máy tính và quan sát cô. Ép chặt ống nghe vào tai, cô hạ giọng xuống. “Nếu người này mà chết, khả năng cao Anson Bishop sẽ cho phát tán virus gây bệnh SARS ra nơi nào đó trong thành phố. Hàng nghìn người có thể bị nguy hiểm.” “Điều đó không làm thay đổi được thực tế, Thanh tra ạ. Người này đang ở giai đoạn cuối của khối u nguyên bào thần kinh đệm. Một khối u rất hung hãn đã chiếm cứ phần lớn não bộ của gã. Tôi có thể lấy khối u đó ra, chỉ là không thể nào phục hồi được tổn thương do việc đó gây ra. Nói thẳng là tôi ngạc nhiên khi gã vẫn còn sống đấy. Ngoài việc mất trí nhớ và mất chức năng dây thần kinh vận động, khối u đã xâm chiếm vùng vỏ não sau thùy đỉnh, vùng vỏ não vận động cả chính lẫn phụ. Ít nhất sau phẫu thuật gã sẽ cần phải thở máy. Chúng tôi đã để ý những diễn biến bất thường trong nhịp tim của gã, tôi tin rằng tầm nhìn của gã cũng bị ảnh hưởng. Chất lượng cuộc sống của gã…” Clair nhắm nghiền mắt lại trong khi ông bác sĩ vẫn lải nhải. “Chúng tôi được biết rằng ông có thể cứu sống gã, rằng ông biết phương pháp điều trị nào đó…” “Những nghiên cứu của tôi tại Hopkins là trị liệu siêu âm hội tụ.” Bác sĩ Beyer ngắt lời. “Một phương pháp điều trị u nguyên bào thần kinh đệm không xâm lấn, tuy nhiên chúng tôi chỉ mới đang ở những giai đoạn đầu của thử nghiệm lâm sàng. Giá như vài năm về trước gã được chuyển tới tay tôi, có lẽ tôi đã có thể giúp gã, nhưng giờ thì sao? Căn bệnh này đã chuyển biến quá nhanh. Giờ không còn phương pháp điều trị hay trị liệu nào khả dĩ nữa đâu. Quá muộn rồi.” “Ông còn làm được gì nữa không?” “Chẳng làm được gì nữa cả. Giúp gã ổn định, khiến gã cảm thấy thoải mái chờ đợi điều không thể tránh khỏi. Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu gã sống thêm được một hay hai ngày trong tình trạng hiện thời.” Clair liếc nhìn Kloz. Ánh mắt anh ta đầy những tia hy vọng. Cô quay mặt đi rồi nói tiếp. “Tôi cần ông nói với báo chí rằng Paul Upchurch đã vượt qua cuộc phẫu thuật tốt hơn mong đợi. Gã đã ổn định. Và ông có kế hoạch đưa gã quay về Hopkins để tiếp tục điều trị ngay khi sức khỏe của gã cho phép. Ông phải thuyết phục họ rằng mình rất kỳ vọng vào kết quả điều trị của gã.” Bác sĩ Beyer không đáp. Clair liếc đồng hồ đeo tay. “Bác sĩ, Anson Bishop vẫn đang ở đâu đó ngoài kia. Chúng tôi cần hắn phải tin rằng chúng ta đang làm mọi thứ ta có thể làm, rằng Upchurch đang nhận được sự điều trị mà gã một mực đòi hỏi. Không cần ông phải nói chi tiết - hãy viện cớ luật bảo vệ quyền riêng tư không cho phép công bố - chỉ cần gây cho họ cái ấn tượng đó là được rồi.” “… Thanh tra, tôi có trách nhiệm với bệnh nhân của tôi, danh tiếng…” “Những hành động của ông có khả năng sẽ cứu được hàng nghìn mạng người. Tên này, Paul Upchurch, đã bắt cóc và sát hạt hàng loạt các cô gái. Hai trong số các nạn nhân của gã ở ngay trong bệnh viện này và đang chiến đấu giành giật mạng sống. Khi gã chết, người duy nhất sẽ không ngần ngại nhảy múa ăn mừng chính là tôi, tuy nhiên chừng nào truyền thông còn quan tâm, chừng nào Bishop còn quan tâm, ta cần đưa ra chẩn đoán tích cực. Ít nhất là vào lúc này.” Ông ta không nói gì một lúc lâu. “Tôi sẽ cần suy nghĩ đã, Thanh tra ạ. Có thể phải nói chuyện với luật sư của tôi. Sẽ thế nào nếu Bishop có tai mắt trong bệnh viện này đang theo dõi tình hình và báo cáo lại cho hắn? Cá nhân tôi không quen biết bất kỳ ai trong phòng phẫu thuật cùng mình. Nhóm của tôi ở Bệnh viện Hopkins tại Baltimore cơ.” Clair thở dài, túm lấy một sợi tóc rối. “Tôi đang mắc kẹt trong phòng này. Tôi cũng cần ông nói chuyện với họ. Giải thích tình hình nguy hiểm đến chừng nào.” “Cô đang đòi hỏi tôi hơi nhiều đấy, Thanh tra.” “Ông sẽ làm thế chứ?” “Tôi sẽ gọi lại cho cô sau.” Ông ta gác máy trước khi cô kịp nói thêm điều gì. Clair đứng đó một lúc trước khi đặt ống nghe xuống. “Gã sao rồi?” Kloz hỏi. “Ngon rồi.” Anh ta chưa kịp đáp thì ai đấy đã gõ lên cửa phòng họ. Nhìn qua cửa kính, Clair nhận ra Jarred Maltby từ CDC. Trông anh ta có vẻ không vui. P oole Ngày 5 - 5:50 sáng CHƯƠNG 6 Số người trong phòng quan sát đã tăng thêm hai người kể từ khi Poole bước vào trong với Porter. Ngoài Nash, Đại úy Henry Dalton cũng có mặt cùng một người nữa mà Poole không nhận ra. Cho dù Dalton thấp hơn Poole chừng 15cm, nhưng từ người ông ta toát ra thần thái uy quyền khiến ông ta trông như cao lớn hơn nhiều. Và cho dù giờ mới hơn năm giờ sáng, ông ta đã mày râu nhẵn nhụi, tắm rửa sạch sẽ và ăn diện bảnh bao. Ngay lúc này Poole thèm được tắm kinh khủng. “Cậu không thể khống chế được anh ta.” Dalton nói, bỏ qua phép tắc lịch sự. “Chết tiệt, tôi không thể.” “Nếu báo chí mà nghe phong thanh rằng cậu bắt giam anh ta, chúng sẽ tế cậu lên đấy.” “Tôi hình dung rằng ngài đã được tóm tắt về tình hình rồi, Đại úy. Người đàn ông đó tự hành hạ chính mình. Anh ta không chỉ là nghi phạm trong vụ án mạng tại Guyon, anh ta còn muốn giải thoát một phụ nữ khỏi nhà tù ở New Orleans, chuyển bà ta băng qua các biên giới bang. Anh ta đã chống lệnh của ngài và rời khỏi Chicago tự mình truy đuổi Bishop. Anh ta rõ ràng là bị cáo có nguy cơ bỏ trốn. Anh ta sẽ không đi được đâu hết. Tôi cóc thèm quan tâm báo chí nói gì.” Poole nhìn chằm chằm người còn lại trong phòng. “Anh là ai?” Mặc bộ complet màu xanh sẫm với mái tóc bạc cắt ngắn gọn gàng, người đàn ông tuổi chừng năm mươi chìa tay ra. “Tôi là Anthony Warnick ở văn phòng thị trưởng.” Poole không bắt tay anh ta, thay vào đó anh quay lại với Dalton. “Tôi sẽ cần xem toàn bộ các hồ sơ tuyển dụng của Porter - các bản khai lý lịch, báo cáo rà soát tâm lý, những đánh giá - tất cả mọi thứ ông có về anh ta. Tôi cần phải chắp nối lại quá khứ của anh ta.” “Tôi nghĩ cậu cần lùi lại và suy nghĩ về tất cả những chuyện này.” Dalton đáp. “Chúng ta cùng làm thế.” Warnick bước lên. “Đặc vụ, thật vô trách nhiệm khi ám chỉ một thành viên thi hành luật pháp lại phạm những tội ác cực kỳ ghê tởm, như những tội ác của Anson Bishop, mà không chịu hiểu rõ toàn bộ sự thật. Giới báo chí chẳng khác gì lũ chó đói. Chúng sẽ ngoạm lấy bất kỳ mẩu xương nào anh ném cho chúng mang đi khuất dạng, hậu quả sẽ thực sự khó lường. Kẻ nào đó chụp được bức ảnh anh đang áp tải Thanh tra Porter và rồi không chỉ mình anh ta bị khiển trách, mà toàn bộ cơ quan thực thi pháp luật cũng sẽ bị, gồm cả cơ quan của anh. Họ sẽ không bỏ rơi anh ta đâu, họ sẽ xem tất cả các anh là một lũ biến chất. Thành phố này không thể xử lý chuyện đó, không phải bây giờ. Với các sự kiện diễn ra gần đây, chuyện đang xảy ra tại Stroger, ai ai cũng bực mình.” Anh ta hạ giọng xuống, đặt một bàn tay lên vai Poole. Anh gạt tay anh ta xuống. Người đàn ông vẫn nói tiếp. “Nếu thực sự anh ta có liên quan, sẽ luôn còn thời gian để thi hành công lý. Chẳng có lý do gì mà chúng ta không thể giải quyết vụ này một cách kín đáo, phải chắc chắn rằng chúng ta có thông tin xác thực, tiếp theo là công khai ra. Đó mới là việc có trách nhiệm ta nên làm.” “Không phải Sam.” Người nói câu này là Nash. Anh ta đứng bên khung cửa kính theo dõi, nhìn vào bên trong phòng. “Đãng trí, vô tổ chức… trông anh ấy như bị mất ngủ mấy ngày rồi. Ngay cả khi vợ anh ấy bị sát hại, anh ấy cũng không kiệt quệ như thế này. Các người cướp vụ này khỏi tay anh ấy, anh ấy có thể sẽ gục đấy.” “Con người này đã gục sẵn rồi.” Poole đáp. “Anh ấy cần phải được xem xét toàn bộ chuyện này. Anh ấy cần sự kết luận.” “Anh có gợi ý gì?” Nash nhún vai. “Anh cho anh ấy xem các cuốn sổ đi. Những cuốn nhật ký.” “Chúng là bằng chứng, bằng chứng khả dĩ có thể buộc tội anh ta. Không đời nào tôi trao chúng ra. Tôi cần phải mang chúng đến Đơn vị Phân tích Hành vi ở Quantico. Nếu có gì trong đó, họ sẽ tìm ra được.” Dalton trao đổi cái liếc mắt nhanh với người ở văn phòng thị trưởng, rồi nói: “Chúng tôi có thể số hóa chúng ở đây, vài tiếng sau người của anh có thể nhận được file rồi. Sam cũng có thể xem xét chúng. Chúng ta sẽ hỏi Sam liệu anh ta có muốn xem các cuốn nhật ký không, anh ta cần phải làm chuyện đó tại Sở Cảnh sát này - không phải trong hoàn cảnh bị bắt - anh ta sẽ ở lại đây theo ý mình muốn. Nếu anh ta tìm ra thứ gì đó thì tuyệt. Bằng không, ít nhất anh ta không rời khỏi tầm theo dõi. Anh ta sẽ ở một nơi chúng ta có thể để mắt tới. Như thế người của cậu cũng sẽ có thêm thời gian tìm hiểu xem có thể tìm được gì ở Nam Carolina hay không.” Trong phòng thẩm vấn, đôi bàn tay Porter lại úp vào nhau ở trên bàn, những ngón tay của anh ta đan vào nhau. Đôi môi anh ta đang mấp máy trong cuộc trò chuyện câm lặng. Chuông điện thoại của Nash vang lên, anh ta bước ra hành lang để nhận cuộc gọi. “Như thế có tiện cho anh không, Đặc vụ?” Warnick lại hỏi. Chuông điện thoại của Poole cũng vang lên. Anh lấy điện thoại ra khỏi túi, liếc nhìn màn hình điện thoại. Đặc vụ Toàn quyền Hurless. Anh giơ một ngón tay lên. “Xin lỗi, tôi phải nhận cuộc gọi này.” Hurless không cho anh nói tiếng chào. “Chúng ta có một xác nữa khớp với phương thức hoạt động của Bishop. Một phụ nữ ở nghĩa trang tại Chicago. Nghĩa trang Rose Hill. Tôi đã cử một nhóm đang trên đường tới. Porter bị bắt chưa?” Poole quay lại liếc nhìn qua cửa kính. “Rồi.” “Tôi có trong tay các báo cáo từ Granger ở Nam Carolina, nhà tù tại New Orleans, và CDC từ bệnh viện tại Chicago này. Chúng tôi đang tổng hợp lại mọi thứ từ văn phòng chi nhánh. Khi anh xong việc tại hiện trường tội ác, tôi cần anh quay về đây báo cáo.” “Rõ, thưa sếp.” Hurless gác máy. Nash trở lại vào phòng, gương mặt anh ta trắng bệch. Anh ta liếc nhìn Dalton, rồi nhìn Poole. “Chúng ta có thêm một xác nữa.” “Vừa nghe rồi. Tôi đang thẳng tiến tới đó đây.” Nash thở hắt ra rồi quay sang phía giám sát viên của mình. “Thưa sếp, cho đến khi chúng ta có thể di chuyển nạn nhân ra khỏi đường tàu, tuyến tàu điện ngầm Red Line sẽ không được phép hoạt động. Chúng ta phải cảnh báo cho hành khách đi tàu.” Poole nhíu mày. “Tuyến tàu điện ngầm Red Line? Cái xác ở trong nghĩa trang cơ mà.” Làm sao đó gương mặt Nash càng trắng hơn. “Cuộc gọi tôi nhận được báo có một xác chết trên đường ray tàu điện ngầm của tuyến Red Line ở ga Clark. Một phụ nữ. Được đặt ở đó! Nằm trên mặt đất cạnh cô ta là ba cái hộp màu trắng, thắt dây đen.” N ash Ngày 5 - 6:15 sáng CHƯƠNG 7 Thanh tra Brian Nash đỗ chiếc Chevy Nova 72 đã được phục hồi một phần vào phía sau chiếc xe cứu thương đang đậu cạnh một chiếc xe khác bên lề đường phố Lake đối diện LaSalle, tìm thấy tấm thẻ cảnh sát nằm trên vòm bánh xe ghế hành khách và đặt nó lên hộp số. Vài phút trước Clair vừa gọi cung cấp cho anh đầy đủ thông tin, cô vẫn đang giữ máy. “Họ có chắc không?” Anh nói vào điện thoại trước khi gạt cần số về không. Anh giơ bàn tay rảnh rang lên giàn nóng - khí nóng đang thổi tuy nhiên vẫn không đủ át đi cái lạnh của gió trên mặt hồ. “Maltby từ CDC cho biết họ đã xét nghiệm hai lần trước khi anh ấy đến gặp tôi.” Clair cho biết. “Mũi tiêm chúng ta tìm thấy trong quả táo cùng hồ sơ bệnh án của Upchurch có chứa chủng virus gây bệnh SARS tinh khiết, chất lượng phòng thí nghiệm.” “Chết tiệt.” “Ừ, chết tiệt.” Clair nói. “Ở đây họ đang phân phối các thuốc kháng sinh như phát kẹo, nhưng ngoài chuyện đó ra, họ chẳng làm được gì nhiều nữa. Không điều trị phòng bệnh. Nơi này đang ngày càng bị cách ly nghiêm ngặt hơn cả trường nữ sinh Cơ Đốc giáo.” Nash phá lên cười, ngay lập tức ho sù sụ. “Chúa ơi, anh không khỏe à?” “Tôi đang bị cảm lạnh hay sao ấy. Không được nghỉ ngơi, thời tiết kinh tởm, cơ thể tôi chịu hết nổi rồi. Tất cả đang tấn công tôi.” “Mấy thứ đồ ăn nhanh và kẹo thanh chẳng giúp gì cho anh đâu. Anh phải xem cơ thể mình như ngôi đền, đối xử với nó như ông chủ khu nhà ổ chuột bị hỏa hoạn đi đòi tiền bảo hiểm ấy.” Nash liếc nhìn xuống mấy gói bánh McDonald’s trên sàn xe rồi đổi chủ đề. “Vài phút trước tôi có nghe bác sĩ của Upchurch phát biểu trên đài - ít nhất nghe có vẻ như chúng ta ở đó qua cơn nguy hiểm rồi.” “Vớ vẩn đấy, ông bác sĩ đang che đậy cho chúng ta nhằm câu giờ thôi. Upchurch đang hấp hối rồi. Nhiều nhất hắn chỉ còn bốn mươi tám giờ. Tôi đang phải kiểm soát chặt chẽ bất kỳ ai có tiếp xúc với hắn để chắc chắn tình trạng của hắn không lộ ra ngoài.” “Gấu Clair à, nếu cô gọi đến để khiến tôi phấn chấn lên, thì cô làm hỏng hết rồi.” Từ phía mặt tiền nhà ga, một sĩ quan mặc đồng phục chui qua dải băng bảo vệ hiện trường tội ác định tiến về phía chiếc Nova của Nash. Cơn gió thổi lớp tuyết bay quanh chân anh ta, cuộn tròn trong không khí. Khi viên sĩ quan nhận ra chiếc xe này thuộc về ai, anh ta miễn cưỡng vẫy tay chào Nash rồi quay lưng đi. “Cái xác có phải là một trong những tác phẩm của Bishop không?” “Tôi vẫn còn chưa vào trong.” Nash nói với cô. “Nghe có vẻ giống đấy.” “Anh có tin những gì Sam nói về bố mẹ của Bishop không?” “Ngay bây giờ tôi chẳng còn biết nên tin vào cái gì nữa.” “Bởi vì kẻ thủ ác cũng có thể là một trong số họ. Hoặc có thể chẳng là ai hết. Có thể chỉ là một kẻ bắt chước.” Nash tắt chế độ sưởi trong xe rồi lại bật lên. Cái thứ chó chết này rõ ràng đang phả ra hơi lạnh. Anh cảm tưởng làn da mình như sắp đóng đá - không thể giữ ấm được. “Sam sẽ bảo chúng ta phải tập trung vào bằng chứng, mọi thứ khác chỉ là thứ gây nhiễu thôi. Đó là việc chúng ta sẽ làm.” “… Anh đã gặp anh ấy rồi đúng không?” Clair hỏi. “Tôi không rõ mình đã gặp ai. Tôi không biết liệu anh ấy có trở lại được không.” Sau một lúc im lặng, Clair nói tiếp. “Tay đặc vụ FBI ấy có biết anh ở đó không?” “Có, anh ta biết. Anh ta đã đặt ra các giới hạn.” “Các giới hạn á?” Ai đó gõ lên cửa kính xe của Nash khiến tim anh suýt bắn ra ngoài. “Lạy Chúa tôi!” “Chuyện gì thế?” Clair hỏi. Nash quay sang bên cạnh. Lizeth Loudon từ kênh tin tức Channel Seven News đang đứng cạnh xe anh. Cô ta thọc tay sâu vào túi áo jacket lót lông thú, hai chân giậm giậm liên tục để giữ ấm. “Tôi phải đi rồi, Clair. Gọi lại sau nhé.” Anh ngắt cuộc gọi, tắt động cơ xe. Tiếng máy kêu xèo xèo như thể đang ngập ngừng chưa muốn tắt ngay rồi im bặt. Anh xuống xe, đóng sầm cửa lại, xô nhẹ Loudon sang bên, anh bước về phía lối vào ga tàu điện ngầm. “Tôi không nói chuyện với cô đâu.” “Nếu anh không nói thì tôi sẽ phải bịa chuyện.” Cô ta đáp, đuổi theo anh. “Quay phim của cô đâu rồi?” Cô ta chỉ bằng ngón cái về phía chiếc xe tải của mình, đang đỗ sau lưng anh cách vài bước chân. “Đang sưởi ấm trong xe.” “Có lẽ cô nên vào ngồi chung với anh ta đi.” “Tôi biết anh có một xác chết dưới kia. Có lẽ là một nạn nhân của 4MK.” “Chẳng có cái xác nào hết.” Cô ta rút điện thoại ra. Trên màn hình là một bài đăng trên mạng xã hội Facebook. “Có vẻ ngược lại là đằng khác đấy.” Nash thầm ghi nhớ lại nickname của người đăng. “Tôi thấy như là tin giả mạo thôi.” Anh chui qua dải băng bảo vệ hiện trường. Khi cô ta cố gắng bám theo, viên sĩ quan mặc đồng phục lại xuất hiện bảo cô ta lùi lại. “Tôi đi cùng anh ta.” Cô ta nói. Nash lắc đầu, bước xuống những bậc thềm. “Không phải đâu.” “Thanh tra Porter đâu rồi?” Cô ta gọi với sau lưng anh. “Anh ấy phải có mặt ở đây chứ?” Nash không trả lời cô ta. Anh bước xuống sân ga, tiến về phía những giọng nói rì rầm. Cho dù các ánh đèn huỳnh quang tỏa sáng từ trên trấn, bốn ngọn đèn halogen cỡ lớn dựng thẳng trên các đường ray tỏa sáng rực rỡ hơn, một bong bóng ánh sáng trắng dưới dải sáng vàng hắt xuống phía dưới. Một đoàn tàu đã bị chặn lại gần đầu phía đông của đường hầm, một chiếc Ford F150 được trang bị các loại vành đặc biệt nằm trên đường ray chặn sườn phía tây đường hầm. Các ngọn đèn pha bật lên hết, đang chĩa xuống các đường ray. Ánh sáng của chúng mờ dần sau khoảng cách hơn 15 mét, không xuyên qua được bóng tối dày. Phía mép sân ga tàu điện ngầm, Nash được chỉ đến một bộ cầu thang tạm. Anh mang chúng xuống các đường ray. “Đường ray số ba đang hoạt động. Chúng ta không thể dừng nó mà không ảnh hưởng đến toàn tuyến.” Ai đó nói sau lưng anh. “Cẩn thận đừng bước sang đó nhé.” Lại có những dải băng vàng bảo vệ hiện trường tạo thành hình vuông lớn bao quanh đoạn đường ray giữa chiếc xe tải nhẹ và tàu hỏa, các ngọn đèn pha xua tan đi những cái bóng. Khoảng nửa tá người đứng bên ngoài dải băng vàng - vài sĩ quan mặc đồng phục, hai kỹ thuật viên hiện trường đến từ Sở Cảnh sát Chicago, thêm ba người nữa từ FBI. Không có ai đứng bên trong dải băng. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía anh. Mọi cuộc đối thoại đều ngừng dần như thể bị nghẹt. Nash chui qua dải băng tiến về phía trung tâm các đường ray. Anh quỳ xuống. Anh rút điện thoại ra và gọi cho Poole. “Miêu tả nó cho tôi.” Poole đáp khi anh ta nhấc máy. “Từng chi tiết. Tận dụng thời gian của anh đi. Đừng bỏ sót bất kỳ cái gì.” Nash liếc nhanh về phía ba đặc vụ FBI đứng sau dải băng, bên cạnh họ là các đặc vụ Điều tra Hiện trường của Sở, tất cả đều đang nhìn anh. Ai ai cũng tỏ ra khó chịu khi bị gạt ra rìa. Khoảnh khắc họ phát hiện ra có hai xác chết và Poole cố gắng giành quyền chỉ huy, Warnick đã gọi cho thị trưởng, thị trưởng gọi cho giám đốc FBI, và ngài giám đốc gọi cho giám sát của Poole. Trong vòng năm phút, Poole được lệnh không chỉ liên tục thông báo tin tức cho Sở, mà còn phải thêm họ vào nhóm của mình. Rõ ràng các cấp trên cảm thấy hợp tác cùng nhau chính là cách tốt nhất nhằm giữ thể diện trước công chúng. Poole đã phản đối và ngay lập tức bị hạ bệ. Nash hoàn toàn rõ về lý do tại sao giám sát của Poole sẵn sàng đồng ý chuyện này - FBI muốn con dê tế thần tránh xa họ ra. Nếu vụ này đi chệch hướng, họ muốn tìm ra kẻ nào đó để đổ lỗi, kẻ nào đó không phải FBI. Đó là cách chính phủ đáng yêu của chúng ta làm việc. Nash hắng giọng. “Cô ta… à… tôi không chắc lắm về tuổi. Tôi đoán tầm ba mươi, có thể là bốn mươi. Rất khó đoán. Cô ta mặc áo ngủ màu trắng. Chất liệu mỏng. Không thể nói thêm được gì nữa. Không thấy giày, đồ lót, áo khoác hay bất kỳ trang phục nào khác xung quanh hiện trường. Làn da cô ta được bao phủ bởi một loại chất bột màu trắng. Tóc cô ta cũng vậy.” “Trên quần áo của cô ta có không?” “Không.” “Vậy là cô ta được mặc quần áo sau khi chết à?” “Có vẻ như thế.” “Còn gì nữa?” Nash cởi đôi găng tay da màu đen, lấy đôi găng tay nhựa từ trong túi ra rồi đeo vào, kèm theo chiếc mặt nạ phẫu thuật đề phòng chất bột màu trắng là chất lây nhiễm. Anh ngả người vào gần hơn một chút. “Đôi mắt cô ta nhắm nghiền nhưng tôi nghĩ mắt phải đã bị móc ra. Có một ít máu đã khô trên khóe mắt.” Anh chậm rãi lấy tay kéo tóc của cô ta về phía sau. “Cô ta bị mất một bên tai. Cô ta được chỉnh tư thế… trông như thể đang cầu nguyện. Cô ta đang ở tư thế quỳ.” Anh vươn tay ra sờ vào miệng cô ta, cố gắng mở nó ra. “Cô ta co cứng rồi. Tôi không thể mở miệng cô ta ra được.” “Co cứng tử thi à?” “Không phải là co cứng tử thi. Có thể là do lạnh.” “Đừng ép nó.” Poole nói. “Bác sĩ pháp y có thể xác nhận lưỡi cô ta đã bị cắt đi. Anh có ba cái hộp ở đó không? Thắt dây đen đúng không?” “Đúng.” Nash đáp. “Nhưng đây không phải là cách chúng ta hay tìm thấy chúng. Thông thường Bishop sẽ gửi mấy cái hộp này qua đường bưu điện, từng chiếc một, mỗi chiếc một tuần. Hắn không để lại tất cả ba hộp như thế này.” “Hắn đã làm thế với cái xác các anh tìm thấy trong các đường hầm với Porter. Giám đốc Tài chính của Talbot.” Poole chỉ ra. “Gunther Herbert.” Nash đáp. Bishop cho Porter biết rằng hắn đã tra tấn Herbert để tra hỏi thông tin về tình hình tài chính của Arthur Talbot. Thông tin này buộc tội ông trùm bất động sản Chicago đã phạm một số tội ác ngầm. “Cũng tương tự với Libby Mclnley.” Poole nói thêm. “Hắn đã để lại ba chiếc hộp trên bàn cà phê của cô ta.” “Nghi phạm của chúng ta đã viết lên trán cô ta bằng một kiểu lưỡi dao nào đó.” “Dòng chữ ấy là gì?” “Tôi là quỷ” Libby cũng bị rạch như thế. Hàng nghìn vết cắt bằng dao lam bé nhỏ, trên khắp cơ thể. “Herbert và Mclnley đều bị tra tấn để khai thác thông tin.” Nash khẽ nói. “Không giống những nạn nhân khác của hắn.” “Còn gì nữa?” Nash cúi người lại gần hơn. Trông cô ta giống một bức tượng hơn là người. Anh chưa từng thấy cái xác nào được tạo dáng như thế này. Cầu nguyện. Anh nheo mắt lại. “Các đầu ngón tay của cô ta…?” “Chúng sao?” “Chúng… bị đốt.” “Dấu vân tay của cô ta mất hết à?” “Tôi nghĩ thế.” Nash đáp, cố gắng nhìn rõ hơn mà không phải di chuyển hai bàn tay cô ta. “Hắn chưa từng làm thế.” “Có ký hiệu nào không?” “Ký hiệu?” “Mảnh bìa các tông, giấy… có bất kỳ cái gì được viết gần cô ta không?” Nash nhìn xung quanh. “Tôi chẳng thấy gì cả… à, chờ đã.” “Gì thế?” Nash đứng dậy, bước về phía bức tường. Anh liếc nhìn rất nhiều thành viên thực thi pháp luật đang nhìn mình. “Có ai biết cái này mới hay cũ rồi không?” Không ai trả lời. “Cái gì thế?” Poole lại hỏi. Nash đưa tay lên chạm vào lớp sơn. Nó vẫn còn ướt. CHA HÃY THA THỨ CHO CON Dòng chữ được sơn lên vách đường hầm, suýt chìm lấp giữa các hình vẽ graffiti khác. P oole Ngày 5 - 6:20 sáng CHƯƠNG 8 Đôi mắt của Poole không rời cái xác khi nói chuyện với Thanh tra Nash. Người đàn bà quỳ cạnh mép bể bơi - trông như thể đang cầu nguyện. Một khay đựng đồ ăn bạc nằm trước mặt cô ta, trên khay là ba cái hộp trắng thắt dây đen. Dòng chữ “Cha hãy tha thứ cho con” viết trên một tấm biển tựa vào người cô ta. Dòng chữ Tôi là quỷ được khắc lên trán cô ta. Một nhóm nhân viên kỹ thuật hiện trường nhìn anh từ khoảng cách xa. Có cả một người từ văn phòng giám định pháp y nữa. Giống như hiện trường tại nhà ga tàu điện ngầm, tất cả bọn họ đều chưa được phép vào trong. Poole quỳ xuống tuyết, nhìn kĩ hơn các đầu ngón tay cô ta. Cho dù hai bàn tay cô ta đang ép sát vào nhau, anh vẫn có thể trông thấy các dấu vân tay của cô ta đã bị cháy hết. Một dạng bỏng hóa chất nào đó, có khả năng là axit - sunfuric, có thể là hydrochloric. Anh đưa tay lên miệng cô ta cố gắng cạy nó ra, nhưng nó không suy suyển. Giống hệt như Nash đã nói. Ngay cả hiện tượng co cứng từ thi cũng không bằng. Có khả năng bị lạnh đến đóng băng. Nhiệt độ ngoài trời hiện đang rất thấp, tối hôm trước chỉ quanh quẩn ở mức một con số với cơn gió buốt giá ở nhiệt độ âm. Còn có cả bột trắng nữa. Người cô ta bị tuyết che phủ nên rất khó thấy, nhưng nó ở đó. Một thứ màng mỏng bọc quanh cơ thể cô ta, nhưng không phủ ngoài chiếc váy cô ta đang mặc. Cô ta được mặc đồ sau khi thứ bột ấy tiếp xúc với làn da cô ta. Nó tỏa ra thứ ánh sáng mờ mờ, như tinh thể. Là muối sao? Với sự giúp đỡ của Bishop, Paul Upchurch đã dìm chết các nạn nhân của hắn trong bể cách ly nước muối. Đây liệu có thể là chất tồn dư từ cái bể đó không? Chuông điện thoại của Poole reo lên. Anh rút điện thoại từ trong túi ra, không nhận ra số người gọi. “Đặc vụ Poole đây.” “Xin chào, tôi là Cảnh sát trưởng Banister ở Simpsonville. Tôi xin lỗi đã quấy rầy anh vào giờ sớm thế này. Anh vẫn còn ở New Orleans chứ?” “Tôi về Chicago rồi.” Poole đáp. Anh đứng dậy ra hiệu cho các nhân viên điều tra bắt đầu ghi chép và thu thập chứng cứ tại hiện trường tội ác. “Tôi có thể làm gì cho chị, Cảnh sát trưởng?” “Tôi… Tôi có một xác chết dưới này.” Bà ta nói nghe lạo xạo. Giọng bà ta run rẩy. “Được tìm thấy ngay trên các bậc thềm tòa án khoảng hai tiếng trước. Đang… đang quỳ ở ngay đó. Gần như đang cầu nguyện. Đúng là trông có vẻ như thế. Có ba cái hộp màu trắng thắt dây đen. Kẻ nào đó còn viết cả chữ lên các bậc thềm nữa.” “Cha hãy tha thứ cho con.” Poole lẩm bẩm. “Đúng. Làm sao anh biết?” “Chị biết cô ta là ai không?” “Không phải cô ta, mà là anh ta. Tôi biết chính xác anh ta là ai.” C lair Ngày 5 - 6:30 sáng CHƯƠNG 9 Clair hắt xì, rút thêm chiếc khăn giấy nữa từ trong chiếc hộp đặt trên cái bàn bên cạnh. “Chúng ta sẽ cần cái hộp to hơn.” Kloz nói bằng trọng âm New England hay nhất của anh ta, vẫn không hay lắm. Anh ta hít một hơi sâu, nuốt ngược nước mũi vào trong. Clair nhìn anh ta trừng trừng. “Tôi thực lòng không muốn chết ở đây cùng anh đâu.” Kloz ngả người vào lưng ghế. Cái ghế kim loại cũ rít lên. “Nếu cô có thể chết ở bất kỳ đâu, với bất kỳ người nào thì cô sẽ chọn ai?” Cô suy nghĩ một lúc. “Matthew McConaughey. Tôi đã luôn nghĩ một anh chàng da trắng như anh ta thật sexy. Dù McConaughey đã hơn bốn mươi rồi, không còn là anh chàng trẻ trung trong Dazed and Confused nữa. Phải đến tận lúc già đi anh ta mới có kiểu mặt ấy.” “Ở đâu nào?” “Có thể là một bãi biển ở Barbados.” Kloz lắc đầu. “Ôi, tôi nghĩ chưa chắc đã hay đâu. Cách duy nhất để chết trên bãi biển là do cá mập. Chẳng ai muốn bị cá mập ăn thịt cả.” “Đây là một trò chơi ngu xuẩn.” Kloz tảng lờ cô. “Tôi sẽ chọn Jennifer Lawrence nhưng chỉ khi nàng mặc bộ đồ da nàng đã mặc trong The Hunger Games” “Thế chính xác anh muốn chết ở đâu?” “Toledo, Ohio. Miễn thắc mắc.” “Sao lại là Toledo?” Anh ta nhún vai. “Không có cá mập.” “Rõ ràng.” “Ngoài ra chẳng còn việc gì làm tại Toledo nên nếu tôi bị mắc kẹt ở đó cùng Jennifer Lawrence trong bộ đồ da, hai chúng tôi nhốt mình trong căn phòng trọ chẳng có gì ngoài…” Clair nhắm nghiền mắt lại, bịt chặt hai tai. “Đủ rồi. Tôi không muốn biết điều anh đang nghĩ đâu. Không phải bây giờ, mãi mãi không.” “Tôi chỉ cố gắng khiến tâm trạng cô vui lên thôi.” “Tôi biết.” “Tôi không muốn chết ở đây đâu.” “Tôi biết.” “Chúng ta không thể rời khỏi tòa nhà này, và tôi đang sắp phát điên lên đây.” “Tôi biết.” Kloz lấy chân phải làm trụ, chậm rãi xoay chiếc ghế anh ta đang ngồi ngược chiều kim đồng hồ. “Virus gây bệnh SARS có thời gian ủ bệnh dài đến mười ngày. Anh bạn từ CDC của chúng ta tuy vẫn chưa thấy nói gì, nhưng quy định của họ là nơi này vẫn bị cách ly trong hơn mười ngày kể từ vụ cuối cùng được biết tới. Nếu con virus này không giết chúng ta, có khả năng rất lớn chúng ta sẽ vẫn phải mắc kẹt lại đây gần hai tuần nữa.” “Họ sẽ không giam chúng ta ở đây lâu đến thế.” “Tại sao không?” Kloz đáp. “Chúng ta có giường ngủ, đồ ăn, được tiếp cận với đầy đủ thuốc men và được cách ly. Cô nghĩ xem còn nơi nào khác tốt hơn cho tất cả chúng ta chứ? Họ sẽ không dám để con virus thoát ra khỏi tòa nhà này đâu.” “Bishop có virus đấy. Hắn có thể đang ở bất kỳ đâu.” “Và nếu hắn lây nhiễm cho những người khác, nhiều khả năng nhất là CDC sẽ mang họ về đây để điều trị, với cùng những lý do giải thích việc họ cố gắng giam tất cả chúng ta ở đây - có giường ngủ, có thuốc men, có đồ ăn, được cách ly. Chúng ta sẽ bị giam ở đây với những cánh cửa khóa chặt để con virus sẽ chỉ hành hạ chúng ta mà thôi, và rồi nó sẽ tự chết. Nếu không được điều trị thì chẳng có nghĩa lý gì hết. Chẳng ai dám mạo hiểm để dịch bùng phát. Ngay cả nếu hôm nay họ có thể bắt giữ Bishop và cách ly hắn, họ cũng sẽ không dám thả chúng ta ra ngoài. Mà phải đến khi dịch bệnh này hoàn toàn chấm dứt.” Clair biết anh ta nói đúng nhưng cô sẽ không thừa nhận điều ấy. Cô vò nhàu chiếc khăn giấy rồi quẳng vào thùng rác nằm ngay gần đó. Có ba tiếng gõ nhanh lên cửa ra vào. Cả hai cùng ngước mắt lên. Jerome Stout xô cửa lao vào phòng trước khi cả hai kịp nói gì đó. Là đội trưởng nhóm an ninh bệnh viện, kể từ khi họ đến nơi này ông ta chưa hề nghỉ ngơi, trông ông ta đã kiệt quệ giống những người còn lại trong nhóm. Lớp râu ria lởm chởm đang bắt đầu mọc trên gương mặt đã cạo nhẵn, dưới hai nách của bộ đồng phục đã ướt đẫm mồ hôi. Cô nghe nói ông ta đã nhận công việc ở bệnh viện này sau khi nghỉ hưu tại Sở Cảnh sát Chicago ở tuổi năm mươi, năm năm trước. Ông ta vẫn chưa ký hợp đồng chính thức. Trên miệng ông ta có đeo mặt nạ phòng độc, khiến giọng mệt mỏi của ông ta như bị nghẹt. “Thanh tra, tôi cần cô đi với tôi.” “Tại sao?” Đôi mắt căng thẳng của ông ta liếc nhìn Klozowski ở góc phòng phía sau, rồi lại nhìn cô. “Chúng ta có một cái xác. Tệ lắm.” “Trời ơi.” Kloz nhỏ giọng nói. Clair đứng dậy dợm tiến ra cửa. “Đeo nó vào.” Stout hướng dẫn, hất đầu về phía chiếc mặt nạ họ đã đưa cho cô. Cô đeo mặt nạ qua đầu rồi quàng cái dây đai trùm tai, hối hả đi theo ông ta. Clair không muốn đi qua chỗ uống cà phê nhưng cô chưa kịp đề nghị ông ta đi đường khác, ông ta đã bước qua căn phòng đó. Khoảnh khắc mọi người trông thấy cô, ai cũng náo động. Khi cảnh sát đưa tám mươi bảy nạn nhân tiềm ẩn của Bishop đến bệnh viện này, họ được hướng dẫn ở yên trong căn phòng này và hai căn phòng cho nhân viên liền kề. Ngoài Klozowski, cô là đại diện duy nhất của Sở Cảnh sát Chicago tại hiện trường và họ nhận ra cô ngay lập tức. Vài người đeo mặt nạ, vài người thì không, tất cả đều đang la hét. Mọi người đừng dậy bước về phía cô, đôi mắt giận dữ. Họ muốn những câu trả lời, cũng chẳng khác gì cô, nhưng cô chẳng biết gì mà nói với họ cả. Cô chen qua nhanh hết sức có thể, cố gắng khuyên những người xung quanh mình bình tĩnh, mọi chuyện rồi sẽ sớm kết thúc. Mặc dù họ đã đánh hơi thấy có chuyện không ổn. Nhiều người trong số họ là bác sĩ, họ hiểu biết tình hình. Con cái, vợ/chồng họ cũng được mang tới đây. Mấy cái bàn được xếp gọn sang một bên, nhiều người bắt đầu dựng những chiếc lều tạm bằng ga giường của bệnh viện, tự cách ly bản thân khỏi những người khác. Ít nhất có hai mươi hoặc ba mươi người đang mất tích. Từ những gì cô được biết trước đó, vài gia đình có phòng để ở nhưng vẫn không đủ phòng cho tất cả. Vì nhiều người trong số này là nhân viên nên họ sẽ về văn phòng riêng, những người khác thì tận dụng các phòng chứa đồ. Vài người thậm chí đi dạo thăm thú khắp nơi như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhân viên y tế đã cố gắng gom lại tất cả trước khi họ làm virus lan tràn, nhưng hầu hết nhân viên đều hiểu rằng tất cả đã quá muộn. Giờ chính tòa nhà này, chứ không phải chỗ uống cà phê, mới chính là nơi đang chứa virus, đúng như Kloz đã nói. Stout dẫn cô đến dãy thang máy. Cô thở dài khi hai cánh cửa đóng lại, ngăn cách cô với đám đông giận dữ. Khi chỉ còn lại hai người, Stout nói: “Vài người trong số họ đã cố gắng phá cửa kính trong hành lang để thoát ra ngoài, tuy nhiên Sở đã bố trí đội SWAT canh gác phía ngoài. Tất cả đều được vũ trang đầy đủ. Tôi đang cố gắng không nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra nếu ai đó băng qua ranh giới.” Clair chính là người gợi ý họ nên bố trí đội SWAT nhưng cô sẽ không nói cho ông ta biết. Suốt thời gian làm việc tại Sở, cô đã gặp ba “sự kiện dân sự leo thang” (cảnh sát không thích gọi họ là những kẻ nổi loạn). Với mỗi sự kiện, trước tiên đều xuất hiện thứ gì đó, một điềm báo. Bệnh viện này bốc lên mùi điềm báo, cô không phải là người đầu tiên để ý thấy. Nhân viên đi đi lại lại làm việc gần như trong câm lặng, đôi mắt họ nhìn nhau và nhìn đám đông những người xa lạ trong quán cà phê của bệnh viện. Những ông bố bà mẹ cưng nựng con cái họ, những cái nhìn chết chóc ném vào nhau với mỗi cái ho hay cái hắt xì dù là nhẹ nhất từ ai đó ở cạnh bên. Có lời xì xào về chuyện cách ly người ốm từ CDC, họ đang nói chuyện với nhân viên cấp cao về việc dựng hàng rào cách ly một phần trên tầng hai, nhưng nếu kế hoạch này được triển khai thêm, họ cũng không chia sẻ thông tin chi tiết với cô. Họ đi thang máy lên tầng bốn. Khi cửa thang máy bật mở, Stout dẫn cô ngoặt vào tiền sảnh bên tay trái. Một tấm biển trên tường ghi chữ Tim mạch. “Một nữ y tá đã tìm thấy anh ta mười phút trước.” “Tìm thấy ai cơ?” Ông ta không đáp. Thay vào đó, ông ta ngoặt vào một tiền sảnh khác, rồi tiền sảnh thứ ba, bước vào cánh nhà điều hành hay sao đó. Hầu hết các cánh cửa đều đóng chặt, các rèm cửa kéo xuống hết. “Căn phòng thứ hai phía bên trái.” Stout nói, đưa tay chỉ. Clair nhìn theo ngón tay ông ta. Một tấm biển trên cánh cửa đóng chặt có ghi Bác sĩ Stanford Pentz. Bàn tay cô hạ xuống báng khẩu súng công vụ giắt trên hông. “Cô sẽ không cần đến nó đâu.” Clair vẫn mở chốt bao súng bằng da, siết chặt báng súng trong khi bàn tay kia vươn ra chạm vào núm cửa. Cánh cửa mở ra dẫn vào một văn phòng. Bên tay trái là chiếc sô pha, bên tay phải là một bàn làm việc bằng gỗ hồ đào cùng hai cái ghế bọc da nhung lông. Trên tường phủ kín vô số bằng cấp, một tấm ảnh gia đình duy nhất nằm trên bàn làm việc, có ba người - một người đàn ông ở tuổi sáu mươi, bà vợ và một đứa bé khoảng mười hai tuổi - tất cả đều đang mỉm cười và ăn diện trang phục đẹp nhất. Chính giữa phòng, quay lưng lại phía Clair và đối diện ô cửa sổ lớn chiếm trọn bức tường chắn của văn phòng, một người đàn ông đang quỳ. Đầu ông ta ngả về phía trước, cằm ông ta gục xuống ngực. Ông ta không đi giày. Một đôi giày da màu đen nằm bên cạnh ông ta. Clair bước đến gần hơn. Bên cánh cửa, Stout hắng giọng nhưng không nói gì. Clair bước vòng quanh người đàn ông, đứng giữa ông ta và ô cửa sổ, và đó là lúc cô trông thấy máu và ba chiếc hộp nhỏ nằm thẳng hàng trên sàn. N ash Ngày 5 - 8:30 sáng CHƯƠNG 10 Nash nhún vai qua làn áo khoác khi cửa thang máy dưới tầng hầm của Sở Cảnh sát Chicago mở ra. Bình thường vốn vắng hoe, hành lang giờ đây nhộn nhịp những hoạt động. Ngay khi cửa thang máy mở ra, một đứa nhóc tuổi chừng hai mươi bước vào trong, tay đẩy chiếc xe chất đầy các thùng đựng tài liệu. Nash đã nhận ra những cái hộp. “Cậu đưa mấy cái này đi đâu thế?” “Roosevelt.” Thằng nhóc đáp. Nash để ý thấy phù hiệu FBI gắn trên thắt lưng thằng nhóc. “Theo lệnh của ai?” Thằng nhóc vươn tay ra nhấn vào cái nút lên tầng trệt. Nó chỉ ngón tay phải về phía tiền sảnh. “Nếu anh có thắc mắc, vui lòng nói chuyện với Đặc vụ Poole.” Khi cửa thang máy sắp đóng, Nash kịp đưa chân chặn lại. Cửa ngừng lại rồi tiếp tục mở ra, anh vươn tay về phía bảng điều khiển thang máy nhấn nút xuống từng tầng rồi bước ra ngoài. Thêm một đặc vụ trẻ nữa bước qua anh, tay đang đẩy một xe có thêm bốn cái hộp nữa. Đội đặc nhiệm 4MK đã hoạt động dưới tầng hầm được vài năm, trong một không gian họ gọi là Phòng Tác chiến. Họ thấy ngồi dưới hầm sẽ giúp họ tập trung hơn là ngồi trong văn phòng cùng tất cả các thanh tra khác. Quá nhiều câu hỏi, quá nhiều ánh mắt soi mói, quá nhiều rò rỉ ra giới truyền thông. Sự cô lập sẽ chấm dứt mọi phiền toái. À, phần lớn phiền toái. Vài tháng trước, khi Anson Bishop được xác định là sát thủ 4MK và đã trốn thoát, FBI bèn tiếp quản cuộc điều tra. Họ chiếm luôn cả không gian đối diện với Phòng Tác chiến bên kia hành lang. Porter khăng khăng cho rằng chuyện này chỉ là tạm thời, hoặc Bishop sẽ bị tóm cổ hoặc FBI sẽ trả lại vụ này cho lực lượng thực thi pháp luật địa phương một khi tin hot này không còn chiếm trang nhất trên các tạp chí, nhưng điều ấy không bao giờ xảy ra. Thay vào đó, mọi thứ leo thang. Mọi chuyện đang ngày càng tệ đi. Trước tiên Nash ngó vào văn phòng FBI - bốn đặc vụ, nhưng anh chẳng biết ai. Tất cả đều đang đóng gói các thùng tài liệu và chất đống chúng gần cửa ra vào. Bên kia hành lang, trong Phòng Tác chiến, anh thấy Đặc vụ Frank Poole đang ngồi trên ghế trước phòng, nhìn trừng trừng ba tấm bảng bằng chứng màu trắng. Nash cảm thấy mặt mình đỏ bừng giận dữ khi bước vào trong. “Chuyện quái gì đây Frank?” “Đặc vụ Toàn quyền Hurless muốn tổng hợp lại mọi thứ ở văn phòng chi nhánh FBI tại Roosevelt. Chúng tôi đã có thông tin chi tiết gửi đến từ New Orleans và Simpsonville - sáu cái xác được phát hiện dưới hồ… căn nhà… mọi thứ Sam đã sục sạo suốt từ lúc anh ta rời Chicago đến khi chúng tôi tìm ra anh ta tại Khách sạn Guyon.” “Tại sao chúng ta không thể làm thế ở đây?” “Đó không phải là quyền của tôi.” Poole đáp, không rời mắt khỏi các tấm bảng. “Anh thân thiết với ngài thị trưởng đến mức nào?” “Tôi á? Tôi đã gặp ông ta hai lần tại các buổi họp mặt quan trọng ở thành phố, đã bắt tay và chụp ảnh cùng ông ta. Tôi không nghĩ ông ta biết tôi là ai đâu.” “Thế còn Anthony Warnick từ văn phòng của ông ta?” “Hôm nay tôi vừa gặp anh ta.” Nash đáp. “Sao thế?” Poole vẫn không ngước mắt lên. “Warnick đã gọi đến văn phòng thị trưởng. Thị trưởng đã gọi cho giám sát của giám sát viên của tôi, và trong chưa đầy năm phút tôi nhận được lệnh phải bổ sung thêm anh vào cuộc điều tra này. Mười phút trước đó Đặc vụ Toàn quyền Hurless muốn tôi kiềm chế anh với Sam. Kẻ nào đó đang nắm thóp ai đó. Chẳng điều gì khác giải thích được sự thay đổi chóng vánh như thế.” Poole đứng dậy, bước ngay đến tấm bảng đầu tiên và chỉ tay vào mấy từ được viết kèm thông tin về Arthur Talbot - Bạn bè với thị trường. “Chắc Sam đã viết ra dòng này.” Nash nói. “Chúng tôi biết Talbot đã chơi golf với ông ta. Cũng nằm trong chiến dịch tranh cử của ông ta. Các dự án bất động sản của ông ta đều là các dự án quy mô lớn. Tôi không thể hình dung nổi những chuyện này lại xảy ra mà ngài thị trưởng lại không có dính líu.” “Anh có liên kết ông ta với bất kỳ tội ác nào không?” Nash lắc đầu. “Chẳng có gì rõ ràng hết. Tôi không biết có ai nhìn nhận như thế nữa không. Talbot mới là trọng tâm của chúng tôi, không phải thị trưởng.” “Tôi nghĩ ông ta gài anh vào đây làm tai mắt cho mình.” Poole thẳng thừng nói. Nash nhếch mép. “Nếu đúng thế thì ông ta chọn nhầm người rồi. Tôi có nói chuyện với ông ta đâu.” Poole im lặng một lúc, rồi nói: “Anh còn bất kỳ điều gì lấn cấn trong đầu về ông ta không?” Lần này thì Nash phá lên cười. “Anh nghĩ ông ta dùng vũ lực đe dọa tôi hay sao thế?” Poole nhún vai. “Không có chuyện ấy đâu.” Nash khăng khăng. “Ông ta chẳng có gì để khống chế được tôi. Tôi là một hướng đạo sinh.” Poole há miệng định nói gì đó đáp lại nhưng đổi ý. Thay vào đó, anh ta hắng giọng. “Tập trung vào vụ án thôi vậy.” “Vâng, cứ làm vậy thôi.” Poole gõ gõ mấy ngón tay lên thành ghế thành vài tiếng gõ có nhịp điệu, rồi lại hướng mắt lên các tấm bảng. “Vài tiếng trước, tôi nhận được cuộc gọi của cảnh sát trưởng ở Simpsonville, Nam Carolina. Chị ta phát hiện một nam giới có tư thế ngồi quỳ trên các bậc thềm ở tòa án, tương tự như hai phụ nữ chúng ta đã phát hiện ở đây. Mắt, tai và lưỡi bị móc và cắt ra, đặt vào trong những chiếc hộp màu trắng thắt dây đen nằm cạnh xác chết. Những từ như “Cha hãy tha thứ cho con” được viết gần đó. Khắp người ông ta phủ một chất bột trắng, giống hệt hai người chúng ta phát hiện ở đây. Vẫn chưa nhận được tin gì từ phòng thí nghiệm, nhưng tôi nghĩ chúng có thể là muối.” “Chết tiệt, như thế nghĩa là hôm nay chúng ta có bốn cái xác.” Nash đáp. “Cái gì?” “Clair đã gọi cho tôi. Cô ấy tìm thấy một người đàn ông, một bác sĩ tên là Stanford Pentz, họ phát hiện ra ông ta trong văn phòng của mình tại Stroger. Giống với những người khác ở mấy cái hộp và chất bột trắng.” “Thế cái câu kia thì sao?” Nash gật đầu. “Cha hãy tha thứ cho con. Nó được viết lên tờ đơn thuốc nằm trên bàn làm việc của ông ta.” “Có cái gì viết lên trán ông ta không?” “Không, đó là khác biệt duy nhất.” “Trên trán người đàn ông được phát hiện tại Simpsonville cũng không viết gì.” Poole suy nghĩ một lúc rồi nói. “Bệnh viện đang bị phong tỏa. Cô ấy có đoán được thời gian tử vong không? Làm sao có người vào trong đó được?” Ba đặc vụ bước vào phòng và bắt đầu đóng thùng mọi thứ mang ra ngoài cửa. “Để mấy tấm bảng lại đi.” Poole hướng dẫn. Họ gật đầu rồi tiếp tục công việc. Poole lại nhìn về phía trước phòng. “Bốn cái xác được phát hiện cách nhau chỉ vài giờ. Hai xác ở trong thành phố này, một xác trong bệnh viện đang bị cách ly rất nghiêm ngặt, một cái xác nữa cách bảy trăm dặm. Một mình Bishop không thể làm được.” Nash túm lấy một cái ghế, ngồi xuống bên cạnh anh ta. “Anh có biết danh tính nạn nhân ở Nam Carolina không?” Poole gật đầu. “Một người tên là Tom Langlin. Ông ta là người viết báo cáo ban đầu về vụ đốt nhà của Bishop ở đó hồi những năm 90. Ông ta nghỉ hưu khỏi phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy rồi.” “Anh còn giữ báo cáo đấy không?” “Vẫn còn ở Nam Carolina. Tôi mới xem qua thôi.” Poole ngả đầu ra sau, hai mắt nhắm nghiền. “Tháng Tám năm 1995. Trước thời của tôi. Có quy định về phóng hỏa tại chỗ. Tom Langlin đã viết báo cáo ấy. Ông ta giờ về hưu rồi nhưng vẫn sống ở vùng này, tôi có thể lái xe đưa anh đến nhà ông ta nếu anh nghĩ là hữu ích. Theo báo cáo, toàn bộ vùng này bốc mùi gas nồng nặc. Vào lúc những chiếc xe tải đến nơi, cả ngôi nhà đã bị cháy rụi. Họ phát hiện ba xác chết trong nhà, tất cả đều là nam giới. Nguyên nhân chết được ghi là không xác minh được do tình trạng bị cháy. Một người sống sót, Anson Bishop, mười hai tuổi. Thằng bé lúc đó đang đi câu cá ngoài hồ và quay về nhà khi trông thấy khói. Họ tin rằng bố hắn chính là một trong ba người được tìm thấy trong nhà, mẹ hắn bị nghi ngờ là người phóng hỏa - có vẻ như bà ta đã mất tích. Thông tin về bà ta được phát trên phương tiện thông tin đại chúng, nhưng vẫn chưa biết bà ta đang ở đâu. Chiếc xe rơ-moóc phía sau nhà được thuê bởi Simon và Lisa Carter, họ cũng mất tích sau vụ cháy. Cũng chưa thấy báo cáo nào cho biết đã tìm được họ. Thằng bé vào Trung tâm Điều trị Camden nằm cách đây không xa.” Poole mở to mắt. “Điều này là cảnh sát trưởng cho tôi biết.” “Được rồi, đáng sợ thật. Anh còn nhớ từng từ cuộc nói chuyện đó không?” Poole vuốt tóc ra sau đầu, lại hướng sự chú ý lên mấy tấm bảng. “Tôi còn nhớ rõ lắm. Gần như rõ mồn một luôn.” “Lạy Chúa, nửa giờ trước tôi còn chẳng nhớ nổi mình đỗ xe ở đâu.” “Anh đừng nên làm thế.” “Làm gì cơ?” “Thói hài hước tự trào.” Poole đáp. “Tôi biết anh là người thông minh, anh rất giỏi trong công việc của mình. Hạ thấp bản thân xuống chẳng mang lại kết quả gì đâu. Nó khiến giá trị của anh bị hạ xuống trong mắt người khác đấy. Anh giỏi hơn thế mà.” Khóe miệng của Nash nhếch lên thành nụ cười nhẹ, giọng anh trầm xuống. “Tôi sẽ cho anh biết một bí mật nhỏ, Frank ạ. Người ta thường có xu hướng mất cảnh giác trước những cảnh sát khờ. Anh sẽ ngạc nhiên khi biết vài mẩu chuyện cười và mấy bộ đồ xộc xệch có thể khiến người ta lơ là đến thế nào. Ai đó như anh bước vào trong phòng và mọi thằng khốn đều cau có. Mọi người sẽ lập tức phòng bị. Họ để ý từng từ một. Nhưng với tôi, họ chỉ muốn uống bia. Họ quên mất rằng mình đang nói chuyện với một cảnh sát.” Anh hất đầu về phía các tấm bảng. “Chút sự hài hước cũng giúp tôi đương đầu với tất cả những chuyện này. Trong căn phòng này có quá nhiều chết chóc có thể khiến ta bị ám ảnh nặng nề một thời gian.” Poole thở hắt ra, nhìn xuống sàn. “Sam có phải là một phần trong chuyện này không?” Nash chúi hai mu bàn tay vào hai ống quần. “Tôi rất muốn nói không. Tôi rất muốn nói tuyệt đối không đời nào. Tôi đã quen biết anh ấy rất lâu rồi và anh ấy là một trong những cảnh sát xuất sắc nhất tôi từng có hân hạnh làm việc cùng. Nếu anh hỏi tôi câu này một tháng trước, tôi cho rằng có lẽ tôi sẽ nói anh nghe tất cả những điều đó. Nhưng bây giờ tôi không chắc, và điều đó khiến tôi khiếp sợ. Anh ấy bị ám ảnh. Đánh mất lý trí. Đi chệch đường như vậy. Giúp người đàn bà ấy trốn ngục… Tôi không ngừng tự nhắc nhở bản thân rằng anh ấy để tôi tránh xa việc này là nhằm bảo vệ tôi, cả Clair và Kloz cũng thế, nhưng tôi không có cảm giác như thế. Tôi cảm thấy nó giống như giấu giếm, lừa dối. Nếu tôi phải viết tất cả những gì anh ấy đã làm lên một trong những cái bảng kia, không viết tên anh ấy lên trên đầu, mà chỉ cần nhìn vào bằng chứng, những hành động của anh ấy, thì anh ấy đã trở thành nghi phạm số một của tôi. Tôi đang có khoảng thời gian khó khăn với chuyện đó, nhưng tôi biết là nó đúng. Như đã nói, chúng ta có bốn cái xác mới và trong suốt quãng thời gian đó anh ấy đang bị giam giữ. Anh ấy không thể nào là người chịu trách nhiệm, nhưng điều ấy không có nghĩa là anh ấy cũng hoàn toàn trong sạch. Có điều gì đó anh ấy không nói với tôi, một chuyện nghiêm trọng, và dù là chuyện gì đi nữa thì nó đang ngày càng lớn dần suốt quãng thời gian chúng ta giải quyết vụ này. Tôi sẽ khiếp sợ đến chết khi biết chuyện đó là chuyện gì, nhưng người cảnh sát trong tôi sẽ không dừng lại cho đến khi tôi biết. Dù thế nào đi nữa, đó là cách mọi chuyện diễn ra.” Cả hai im lặng trong vài phút, rồi Poole nói: “Tại Cục, họ tin rằng cuộc điều tra này có sự dàn xếp. Họ cho rằng đó là lý do tại sao 4MK nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật lâu thế.” Khi Poole còn chưa nói hết câu, Nash đã lắc đầu. “Sở dĩ 4MK nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật lâu thế là do hắn chính là một thằng tâm thần chó chết, nên các động cơ của hắn trừ hắn ra không ai có thể hiểu nổi. Nếu Sam có liên quan, chữ nếu to đùng, điều đó không đúng với những gì anh ấy đã làm ở khía cạnh công việc. Anh đã thấy căn hộ của anh ấy chưa, cái bức tường ấy? Đó không phải là những hành động của kẻ đang cố gắng đánh lạc hướng vụ án, mà đó là cái nhìn thấu suốt vào tâm trí bị ám ảnh. Một người muốn hạ gục Bishop bằng mọi giá. Người đàn ông đang ngồi trong phòng thẩm vấn kia vẫn muốn điều đó.” Nash quay sang Poole. “Anh cần phải cho anh ấy đọc những cuốn nhật ký đó. Hãy để anh ấy giúp đỡ. Không cần biết anh có tin tưởng anh ấy hay không, không còn ai có thể đọc được suy nghĩ phức tạp của Bishop giỏi hơn anh ấy đâu. Anh biết thế, cho dù anh có chịu thừa nhận nó hay không.” “Thùng hồ sơ đã được gửi đến chỗ anh ta mười phút trước rồi.” Poole nói. Nash nhíu mày. “Thế là anh bắt tôi nói suốt từ nãy đến giờ vô ích à?” “Nói cái gì cơ?” Poole hỏi. “Tôi không nghe rõ.” “À, vậy ra anh cũng thích đùa?” “Chỉ lần này thôi.” Poole đứng dậy rút di động ra chụp lại các tấm bảng. “Có buổi tóm tắt ngắn ba mươi phút tại Roosevelt. Ngài thị trưởng muốn anh phải có mặt.” Nash không rõ liệu lời thông báo cuối cùng này có phải là trò đùa không. P orter Ngày 5 - 8:35 sáng CHƯƠNG 11 Porter quá tỉnh táo nên không ngủ nổi. Họ chỉ cho phép anh rời khỏi phòng thẩm vấn đủ thời gian để đi vệ sinh và uống nước từ vòi nước trong hành lang. Khi một sĩ quan mặc đồng phục dẫn anh ra ngoài, mọi người trong hành lang thảy đều im lặng. Các thanh tra anh đã quen biết nhiều năm, các nhân viên, tất cả đều chỉ nhìn mà chẳng nói lời nào. Anh tự dằn lòng thôi thúc muốn giơ hai tay lên cao quá đầu và hét lên một tiếng “Hù!” thật to khiến tất cả bọn họ phải giật bắn mình. Khi đưa anh về lại phòng thẩm vấn, họ bỏ anh lại một mình. Anh mong mình bị buộc tội, tội gì cũng được từ vượt ngục đến gây án mạng tại Khách sạn Guyon nhưng điều đó không đến. Chưa đến. Anh cho rằng mình không cần vội. Anh biết họ sẽ không để anh thoát. Anh nhắm mắt lại, cố gắng nghỉ ngơi, nhưng lại thấy mình đang lắng nghe tiếng gào thét trong đầu - tất cả những chi tiết của vụ này cùng hét lên một lúc, một trăm giọng nói đang tranh cãi tóe lửa trong tâm trí anh. Khi ai đó gõ cửa, đôi mắt anh bật mở, anh nhận ra hai tiếng đã trôi qua. Anh không rõ tại sao họ phải gõ cửa làm gì - chắc chắn anh không thể mở cửa được. Anh cố ghìm ham muốn vặn thử núm cửa trong hơn một tiếng đồng hồ, rồi cuối cùng đành đầu hàng, khẳng định cánh cửa đã khóa. Khi tiếng gõ vang lên, anh chỉ ngước mắt lên nhìn cánh cửa và chờ đợi. Anh nghe thấy tiếng mở khóa lách cách. Một lúc sau, cánh cửa bật mở. Một cô gái tầm hai mươi tuổi đeo phù hiệu FBI củng thẻ ra vào của Sở Cảnh sát Chicago bước vào trong, cùng một thùng hồ sơ màu trắng. Cô ta đặt nó lên bàn. “Cái này từ Đặc vụ Poole.” Rồi cô ta bỏ đi, đóng và khóa cửa lại sau lưng mình. Căn phòng lại chìm trong tĩnh lặng, tiếng hệ thống điều hòa không khí rì rầm là âm thanh duy nhất. Porter thấy mình nhìn trừng trừng cái thùng. Anh biết bên trong có cái gì, anh có thể cảm thấy rõ nét những cuốn vở bài tập qua lớp bìa các tông mỏng đang đợi chờ như một sinh vật sống, còn thở đang nằm đó. Khi lòng bàn tay anh chạm vào nắp thùng, anh thề rằng mình cảm thấy rất ấm áp. Mồ hôi chảy nhỏ giọt từ lông mày xuống má. Anh cảm thấy nó rớt xuống vai, nhưng anh chẳng buồn đưa tay lên lau một bên mặt mình. “Tôi sẽ cần thứ gì đó để viết.” Anh nói mà không ngước mắt lên. Anh biết có người đang theo dõi anh từ phía bên kia ô cửa sổ một chiều. Có thể là rất nhiều người. “Nếu được thì thêm ít cà phê nữa.” Một phút sau hoặc lâu hơn, họ mang hết vào cho anh - một tấm bảng trắng, bút đánh dấu, một cái tách và cà phê trong cái bình có màu nâu thẫm quấn băng dính trên tay cầm. Chỉ khi được ở một mình lần nữa, Porter mới mở nắp thùng đựng hồ sơ, lấy ra từng cuốn vở một, trải chúng ra khắp mặt bàn. Chúng được đánh số, những con số được viết ngay trên góc phải của từng quyển - từ một đến mười một - bằng lối viết tay anh đã quá quen. Khi Porter thấy mình đang rót cà phê đen vào tách, ngồi lại xuống ghế cùng cuốn vở đầu tiên, anh cảm thấy những người phía bên kia ô cửa một chiều hơi rướn người vào gần cánh cửa. Anh phải kiềm chế bản thân không đọc lên thành tiếng. CHƯƠNG 12 N hật ký Nhà Finicky dành cho những đứa trẻ bất kham đầy tiếng ồn khi màn đêm buông xuống. Có tiếng lách cách của những khúc xương khớp già cỗi, bị bệnh thấp khớp hành hạ đang sống trong những bức tường, trong sàn nhà và trên trần nhà. Ngôi nhà thở hổn hển - những tiếng rì rầm và những tiếng thở hắt chua ngoa dường như luôn bắt đầu từ các tầng bên dưới rồi thoát ra từ đâu đó phía trên. Các phòng phía trong của nơi này chẳng dành cho ai ngoài những lá phổi mệt mỏi, đầy những khối u ác tính và mô sẹo, bị lạm dụng và lãng quên bởi những kẻ từng gọi nơi này là nhà. Nhà. Với tôi, từ ngữ này nghe thật vui nhộn vì một năm trước, tôi có thể nói cho bạn nghe nó có ý nghĩa như thế nào với tôi. Không thắc mắc, không nghi ngờ, tôi hiểu nhà là gì và có thể lấy tay chỉ nó ra trên bản đồ, nơi cho bạn biết con đường phù hợp nhất để tới đó. Nó là một ngôi nhà lẻ loi ở nơi ấy, ngôi nhà duy nhất tôi còn nhớ hoặc đã từng biết tới. Nhà là nơi thật thoải mái với chăn ấm. Lớp đất ẩm ướt giữa các kẽ ngón chân tôi khi chân trần bước trên lối đi dẫn ra hồ. Nhà là nơi có tiếng cười của mẹ và nụ cười của cha, có cơn sóng dịu dàng từ phía cô Carter đáng yêu khi tôi chạy qua sân nhà cô hy vọng hít hà được hương nước hoa, hay thoáng tia được đường cong cơ thể cô khi ánh mặt trời buông thả trên bộ váy màu vàng chanh của cô từ sau lưng. Khi nhắm mắt lại, tôi có thể quay về nơi đó, và tôi đã làm thế - tôi trở về nơi đó rất thường xuyên. Thời gian trôi đi mỗi lần quay về đó, lại có thứ gì đó đã thay đổi. Đầu tiên, những thay đổi này rất khó nhận ra - cái dây phơi quần áo trống trơn thay vì treo đầy những bộ đồ bằng vải lanh ẩm ướt, bay phần phật trong gió. Cài tủ lạnh, thường ngày chật ních đồ ăn, giờ chẳng còn gì ngoài một nửa gallon sữa hỏng. Những căn phòng đã từng ấm áp và hiếu khách giờ đây lạnh đến tê người vì hơi thở giá buốt của mùa thu, bụi xếp tầng. Và nơi ấy, nhà của tôi, ngày càng khó tìm, như thể nó được đặt trong cái hộp trong tâm trí tôi nhét vào trong bức tường ở đằng xa, mỗi ngày đều xuất hiện những cái hộp mới, chen chúc nhau ở phía trước, cái hộp đầu tiên vì thế cứ chậm rãi biến mất. Hôm nay thức dậy, tôi nghĩ về con mèo của tôi, hoàn toàn cô độc trên bờ hồ của tôi, chẳng ai còn quan tâm chăm sóc cho nó nữa. Tôi tự hỏi liệu tôi có được thấy căn nhà của mình lần nữa. Thế rồi tôi nhớ ra lần cuối cùng mình trông thấy căn nhà đó - ngọn lửa, những người đàn ông và tôi tự hỏi liệu có còn lại cái gì. Paul cất tiếng ngáy. Ngài Paul Upchurch, kẻ vẽ nên những thế giới, kẻ sáng tạo ra Những Bất hạnh của Maybelle Markel, kẻ chiếm cứ giường trên cùng trong căn phòng chúng tôi ở chung, đêm nào anh ấy cũng ngáy điếc cả lỗ nhĩ như cái máy phát điện không được bảo trì tử tế. Vì anh ấy nằm giường trên cùng, rất gần với trần nhà, nên từng tiếng hít vào ẩm ướt của anh ấy vọng lại càng to hơn. Đến nỗi mà, thi thoảng anh ấy đột nhiên bừng tỉnh giấc mà chẳng hiểu tại sao lại thế. Anh ấy lầm bà lầm bầm những thứ không đâu vào đâu, rồi anh ấy lãng đi, một tiếng sau hoặc hơn, anh ấy lại lặp lại đúng quy trình ấy. Tôi không được may mắn như thế. Vì lý do nào đó, khi hệ hô hấp hỏng hóc của anh ấy khiến tôi không ngủ được, tôi lại thấy mình thức giấc nhìn chằm chằm lên cái giường ngủ trên đầu, ánh sáng đỏ mỏng manh tỏa ra từ chiếc đồng hồ báo thức của chúng tôi bên kia phòng chiếu sáng trong không gian. Điều này dường như luôn xảy ra hai phút sau bốn giờ sáng. Đêm nay là một đêm như thế và khi tôi nhắm nghiền mắt lại, tất cả mọi thứ khác như được tăng cường độ. Tôi cố gắng loại bỏ hết tất cả, chỉ lắng nghe tiếng nàng. Tôi chưa gặp được Libby Mclnley, cô bé trong căn phòng đối diện, nhưng một phần trong tôi như cảm thấy mình đã quen biết nàng từ lâu, từng ngày trôi qua tôi đều cảm thấy sức hút của nàng. Sợi dây vô hình kéo hai chúng tôi lại gần nhau đang dần ngắn lại theo mỗi giờ trôi qua. Nó đã bắt đầu trong khi tôi nằm dưới sự bảo trợ của bác sĩ Joseph Oglesby nổi tiếng ở Trung tâm Điều trị Camden. Như lúc này đây, phòng nàng cách phòng tôi không xa về phía gần cuối hành lang - đủ xa để nằm ngoài tầm với, đủ gần để lan tỏa hơi ấm cho nhau. Suốt quãng thời gian ở đây, nàng chỉ giam mình sau những cánh cửa đóng kín, gần như khóc suốt. Tôi mong mỏi được nghe tiếng nàng cười, nếu tôi có tiền tôi sẵn sàng trả hậu hĩnh chỉ để nghe tiếng nàng hắt hơi, nhưng nàng chỉ khóc mãi, tôi chẳng hiểu tại sao. Ngoài cô Finicky, hai con bé khác trong căn nhà này đều lần lượt vào thăm nàng - cứ đi ra đi vào phòng nàng hàng giờ liền. Tôi biết tên chúng nó là Kristina Niven và Tegan Savala, mười lăm tuổi và mười sáu tuổi, nhưng ngoài trao nhau những ánh mắt và những câu chào hỏi vụng về mỗi khi gặp nhau ở hành lang, thực sự tôi cũng chẳng biết thêm gì về chúng. Vào đêm đầu tiên của tôi ở đây, Paul đã rất tử tế cho tôi biết rằng Tegan có cặp mông ngon vãi, cả Kristina cũng thế nếu con bé giữ vệ sinh sạch sẽ - theo Thang điểm Tét mông của nó sẽ là tám và sáu - cả hai đứa đều đã ở nhà Finicky này lâu hơn bất kỳ ai - sắp được hai năm rồi. Cá nhân mình, tôi vẫn đang cố gắng hiểu rõ cái nhà này thực sự là như thế nào. Tôi mong đợi đoàn diễu hành những ông bố bà mẹ tương lai dài dằng dặc, đến theo lịch cố định nhưng điều ấy vẫn chưa xảy ra, ở đây chẳng hề có ai đến nhận con nuôi, hiếm hoi lắm mới thấy vài người khách. Vị trí chính xác của chúng tôi vẫn là đề tài tranh luận. Ngôi nhà to lớn nằm lẻ loi giữa một khu đất rộng rãi chằng có căn nhà nào ở xung quanh. Tòa nhà duy nhất lọt vào tầm mắt là một kho thóc đổ nát, nơi chúng tôi thường được nghe kể là cực kỳ nguy hiểm và nên tránh xa, càng như thế chúng tôi lại càng thấy nó hấp dẫn. Paul đã nảy ra một kế hoạch. “Tụi mình sẽ rủ bọn con gái cùng đi khám phá. Tao dám cá trong ấy có cỏ khô và mấy cái chuồng ngựa yên tĩnh, biết đâu có cả gác xép - tao sẽ chơi trò tìm xúc xích với Tegan, còn mày sẽ chơi xúc xắc hay trò gì đó với Kristina. Có thể mày sẽ cảnh giới. Tụi mình sẽ cần phải mang theo một chai nước để xoay chai phân lượt.” “Trước khi anh bắt đầu đặt tên cho con mình, anh nên có gan nói chuyện với nó trước đã.” “Tao nói rồi mà.” “Anh ậm ọe thì có ấy.” Tôi nói. “Em nghe thấy rồi. Nó nói như là “chào buổi sáng” rồi anh trả lời là “à… ừ…” hay cái gì đấy…” “Tao là người đàn ông ít lời, hành động thì mạnh mẽ và thầm lặng. Nó kết tao rồi. Đó là lý do tại sao mắt nó nhìn cứ như muốn lột truồng tao ra.” “Anh nghĩ mắt nó như thế thật đấy à?” “Chính vì thế nên nó mới gọi tao là “Paul-Đưa-Em-Đến- Nhà-Thờ.” “Nó có gọi anh như thế đâu.” “Mắt nó cho thấy điều đó.” “Có khi là mắt nó cần đeo kính thôi.” “Đôi mắt nó như rực sáng muôn vì sao, lấp lánh ngàn tia lửa.” Paul đáp. “Nó luôn kể về tao với những đứa khác. “ “Làm sao anh biết?” “Thì bọn nó còn chuyện gì để nói nữa đâu? Nếu nó ở một mình với tao trong kho thóc ấy, tao không dám nghĩ những gì nó có thể làm đâu.” “Tốt hơn anh nên uống nhiều rượu vào.” Paul im lặng trong chốc lát rồi nói. “Mày đã bao giờ thấy con gái khỏa thân chưa?” “Chưa.” Tôi đáp, có lẽ là hơi quá nhanh. Nhưng tôi đã từng thấy một người phụ nữ, vào đêm ấy khi lên giường ngủ, tôi tự hỏi vào đúng giây phút này thì cô Carter đang ở đâu, và cô ấy đã ở xa nhà đến mức nào rồi. N ash Ngày 5 - 9:00 sáng CHƯƠNG 13 Văn phòng chi nhánh tại Chicago của Cục Điều tra Liên bang Mỹ số 2111 đường Roosevelt, cách Sở Cảnh sát Chicago khoảng mười phút. Nash lái chiếc Chevy của anh. Một trong số các đặc vụ FBI đang mang thùng tài liệu có nhã ý cho Nash đi nhờ nhưng anh không thể đồng ý. Anh cảm thấy làm thế không hay cho lắm. Ở tầng trệt, anh đăng ký tại bàn bảo vệ, giao nộp tất cả vũ khí, được cấp một tấm thẻ dành cho khách đến thăm, sau khi được chụp ảnh và đi qua máy dò an ninh. Poole đã dặn anh báo cáo tại phòng hội nghị trên tầng bốn. Nash không chắc mình trông đợi điều gì, nhưng đó không phải là thứ anh tìm thấy. Phòng hội nghị C ít nhất phải rộng đến vài nghìn mét với một tá dãy ghế ngồi kiểu sân vận động cao lên phía bức tường chắn, đối diện bục phát biểu được nâng cao và các màn hình video cao đến tận trần nhà. Mỗi màn hình đều mang hình ảnh nổi ba chiều huy hiệu FBI, sáng lấp lánh trong ánh sáng sinh động. Anh đến sớm mười phút, chẳng thấy bóng Poole hay giám sát viên của anh ta đâu. Ít nhất hai mươi đặc vụ đã có mặt, đứng rải rác khắp phòng. Trong khi Nash chẳng nhận ra ai hết, họ chắc chắn đã nhận ra anh. Hầu hết các giọng nói hoặc câm bặt hoàn toàn hoặc biến thành những lời thì thầm. Nhưng họ chẳng ngại ngần gì mà không nhìn anh chằm chặp. Nash cố ghìm thôi thúc đưa tay lên vẫy, anh tự rót cho mình một tách cà phê từ chiếc bàn uống nước gần cửa ra vào, rồi kiếm chỗ ngồi ở hàng ghế thứ ba và đợi chờ khi có thêm nhiều người bước vào phòng. Đúng chín giờ, các ánh đèn trên đầu mờ dần và hai cánh cửa ra vào tự động đóng lại. Nash nửa mong đợi những đoạn phim giới thiệu xuất hiện trên màn hình. Nhưng thay vào đó, Đặc vụ Toàn quyền Hurless bước ra từ cánh cửa bên, căn phòng chìm trong yên lặng. “Mặc dù tôi biết tất cả mọi người hẵng còn lạ lẫm với vụ án này, nhưng chúng ta không còn thời gian để tìm hiểu chi tiết. Tính đến sáng nay, chúng ta đã có bốn nạn nhân - ba người ở Chicago này, một người nữa ở Simpsonville, Nam Carolina. Thanh tra Sam Porter đã bị bắt và hiện đang bị tạm giữ tại Sở Cảnh sát Chicago.” Trước sự ngạc nhiên của Nash, vài đặc vụ rõ ràng hoan hỉ trước chuyện này. Vài tiếng vỗ tay vang lên. Hurless không để tâm đến họ. “Đặc vụ Poole sẽ cung cấp thêm chi tiết.” Poole cũng bước qua khung cửa Hurless vừa đi qua. Làm sao đó anh ta đã có thời gian cạo râu và thay đồ. Anh ta cầm bộ điều khiển trong tay và khi nhấn vào một trong mấy cái nút, các màn hình sau lưng anh ta đều sáng lên. Bốn cái xác. “Từng xác chết được phát hiện với cùng một tư thế - quỳ gối, hai bàn tay chắp lại trước mặt, đầu cúi thấp như thể đang cầu nguyện. Mắt trái, tai trái và lưỡi của từng xác bị móc ra rất chuẩn xác như trong phẫu thuật, để trong những chiếc hộp màu trắng thắt dây đen nằm bên trái cạnh nạn nhân. Ngoài Gunther Herbert và Libby Mclnley, Bishop luôn gửi mấy cái hộp theo đường thư tín trong vòng một tuần, Herbert và Mclnley là những ngoại lệ. Ngay cạnh từng xác chết, chúng tôi còn tìm thấy một thông điệp viết rằng “Cha hãy tha thứ cho con.” Poole bước sang bên trái sân khấu, chỉ về phía hai phụ nữ xuất hiện sau lưng anh ta. “Nạn nhân thứ nhất được phát hiện ở nghĩa trang Rose Hill. Người thứ hai đang ngồi trên đường ray tuyến tàu điện ngầm Red Line tại nhà ga Clark. Với cả hai người này, các dấu vân tay của họ đã bị tẩy đi bằng hóa chất. Đến giờ vẫn chưa nhận dạng được.” Anh ta băng ngang phòng đến với nạn nhân thứ ba. “Người đàn ông này được nhận dạng là Tom Langlin, từng là nhà điều tra phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy Simpsonville. Hung thủ của chúng ta đặt ông ta trên các bậc thềm tòa án, ngay giữa ban ngày ban mặt. Ông ta chính là người viết báo cáo đầu tiên về vụ cháy tại nhà của Bishop.” “Ý anh là nhà của Porter à?” Ai đó hét lên từ phía sau. “Chúng ta sẽ tìm hiểu điều đó.” Poole đáp. Anh ta bước đến đầu kia căn phòng bên tay phải, chỉ tay vào xác chết cuối cùng. “Đây là bác sĩ Stanford Pentz, ông ta làm việc tại khoa Tim mạch ở Bệnh viện Stroger. Ông ta được phát hiện trong văn phòng mình sáng hôm nay, ở tư thế cầu nguyện như những xác còn lại. Bệnh viện đang bị phong tỏa kể từ ngày hôm qua - vẫn chưa rõ thời điểm tử vong, nhưng nhiều khả năng nhất là trước khi bệnh viện bị phong tỏa. Hung thủ của chúng ta hầu như không thể mang xác chết xuyên qua mạng lưới an ninh dày đặc, không một ai được phép ra hay vào bệnh viện, ngoại trừ bác sĩ phẫu thuật được vào trong để phẫu thuật cho Paul Upchurch. Mọi người có thể tìm thêm thông tin về vụ này trong hồ sơ.” Một đặc vụ đang ngồi giữa lối lên xuống hàng thứ hai đứng dậy. “Anh cứ luôn miệng nói “hung thủ” thay vì nói thẳng ra là Bishop. Anh tin còn kẻ nào khác chịu trách nhiệm sao?” Poole liếc nhìn Hurless và ông gật đầu, rồi anh ta quay sang tay đặc vụ. “Bởi vì chúng ta có rất nhiều nạn nhân tại một vài bang cùng xuất hiện gần như cùng một lúc, chúng tôi không muốn rút ra kết luận ngay rằng Bishop đang hợp tác cùng một đồng bọn. Chúng tôi chắc chắn rằng hắn đã hỗ trợ Paul Upchurch bắt cóc Ella Reynolds, Lili Davies và Larissa Biel. Có thể còn kẻ nào khác đang hợp tác với cả hai tên này. Thanh tra Porter cho rằng Anson Bishop đang ở Chicago này cùng một phụ nữ, người có thể hoặc không là mẹ của hắn.” “Thanh tra Porter có phải là bố của Bishop không?” Câu hỏi này vang lên từ một người ngồi phía xa nhất trong phòng. Một phụ nữ châu Á mặc một bộ complet. Hurless chen vào. “Chúng tôi chưa đưa ra kết luận gì về vấn đề này.” Poole nói. “Cả hai nạn nhân nữ đều có dòng chữ Tôi là quỷ khắc trên trán, các nạn nhân nam thì không. Chúng tôi vẫn chưa hiểu mối liên hệ này. Không một chi tiết nào trong số này được phép tiết lộ cho báo chí.” Có vài tiếng xì xào trong đám đông. Poole quay lại với các màn hình video. “Còn một chi tiết nữa tất cả mọi người cần phải biết về những nạn nhân này. Với mỗi nạn nhân, làn da của họ đều có muối bao phủ. Nhưng trên quần áo thì không. Điều này cho thấy hung thủ đã phủ muối sau đó mới mặc quần áo cho nạn nhân. Muối này được phát hiện trên người họ giống với nước muối được tìm thấy trong bể """