"
39 Manh Mối tập 6: Trong Vùng Nước Thẳm PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 39 Manh Mối tập 6: Trong Vùng Nước Thẳm PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
39 MANH MỐI PHẦN 6: TRONG VÙNG NƯỚC THẲM
Nguyên tác: 39 Clues #6: In too deep
Tác giả: Jude Watson
Dịch giả: Huỳnh Nguyên Chính
Công ty phát hành: Phương Nam
Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn
Trọng lượng vận chuyển: 230 grams
Kích thước: 14 x 20 cm
Số trang: 252
Ngày xuất bản: 10-20
Giá bìa: 79.000₫
Nguồn: http://tve-4u.org Type+Làm ebook: thanhbt
Cuốn sách này được giới thiệu ở đây nhằm chia sẻ cho những bạn không có điều kiện mua sách.
Còn nếu bạn có khả năng hãy mua sách ủng hộ nha!
Giới thiệu
KHÔNG TIN BẤT KỲ AI!
Cô bé 14 tuổi Amy Cahill và em trai Dan đến Vùng đất ngầm để tìm xem cha mẹ chúng đã phát hiện được điều gì về cuộc săn tìm 39 Manh mối. Nhưng cuộc hành trình lần theo dấu vết của cha mẹ đã khuấy lên trong lòng Amy rất nhiều ký ức kinh hoàng đến mức cô bé không thể chia sẻ với ai… ngay cả Dan. Bị những bóng ma của quá khứ săn đuổi, bị những đối thủ nguy hiểm chết người đeo bám, Dan và
Amy không còn biết ai là bạn ai là thù. Sự mù quáng đó đó đã dẫn chúng đến một sai lầm nghiêm trọng… và cái chết của một đồng minh giấu mặt.
Mục lục
CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11
CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 CHƯƠNG 23 CHƯƠNG 24 CHƯƠNG 25
CHƯƠNG 26
>
CHƠNG 1
TIẾNG NƯỚC XỐI ÀO ÀO dội vào tai Amy Cahill. Nếu nhắm mắt lại, con bé có thể hình dung mình đang đứng dưới một con thác tuyệt đẹp của vùng nhiệt đới. Nhưng thật không may, nó lại đang trốn trong một nhà vệ sinh của sân bay.
Bên trong căn buồng nhỏ tin hin, nó gập chân lại và giữ cái ba lô thăng bằng trên hai đầu gối. Tiếng dội nước toa-let, tiếng vòi nước chảy và tiếng những va-li có bánh xe được kéo lê theo những bước chân vội
vàng. Sân bay Sydney của nước Úc là một nơi bận rộn.
Bận rộn là điều tốt. Sự bận rộn là chỗ để ẩn nấp. Nếu bạn muốn “cắt đuôi” kẻ theo dõi mình, thì nhà vệ sinh có thể cho bạn một cơ hội hoàn hảo, nếu bạn không ngại chuyện ngồi thu lu trong toa-let đến 15 phút.
Cắt đuôi. Mới vài tuần trước, cái từ đó chỉ có nghĩa là không để cho thằng em trai, Dan, đọc trộm nhật ký của nó. Còn bây giờ đó thực sự là cuộc sống thật. Quá thật với một đứa bé 14 tuổi.
Amy len lén nhìn ra ngoài căn phòng nhỏ. Một đám khách du lịch choai choai vừa vào nhà vệ sinh một lúc trước và đang tán dóc bằng tiếng Pháp trong khi rửa tay và làm điệu làm bộ trước tấm gương. “Allons-y”[1], tay hướng dẫn viên gào lên. Vừa nói chuyện và cười đùa, cả đám bọn họ vừa bắt đầu kéo va-li đi về phía cửa ra.
[1] “Đi thôi” - tiếng Pháp trong nguyên bản.
Đó là một cơ hội hoàn hảo. Amy chuồn ngay ra khỏi toa-let. Vừa
mỉm cười với một cô bé người Pháp dễ thương, nó vừa lẩn vào trong nhóm. Đám phụ nữ đổ xô ra vào tất bật ở chỗ những cái cửa và đám khách du lịch bị rối tung lên bởi một bà người Úc dẫn theo bốn đứa con gái. Amy nhẹ nhàng lẻn vào giữa đám đông khi họ đi ra khỏi cửa.
Con bé để cho đám khách du lịch chắn giữa nó và cánh cổng đối diện. Ngay khi họ kéo đi hết về khu lấy hành lý, nó lủi ngay vào một quầy cà-phê. Nó đưa mắt rà khắp hành lang, tìm xem có người quen nào... hoặc người lạ mặt đáng ngờ nà
Mọi thứ trông đều bình thường. Vấn đề duy nhất nằm ở chỗ bình thường chưa chắc đã là tốt. Bởi vì một sự bình thường mới mẻ đồng nghĩa với việc bất cứ ai cũng có thể là mối đe dọa.
Mối đe dọa có phải là gia đình người Nhật mang những đôi giày “hàng độc” kia không? Hay là đám choai choai người Mỹ đeo ba lô, mặc áo thun đồng phục thi đấu có chữ “NGỬI RA MÀY RỒI NHÉ”? Còn người phụ nữ đứng tuổi đang tóp tép nhai bánh xốp, bà mẹ có cái xe nôi, người đàn ông đang dừng lại để gọi điện thoại di động kia thì sao?
Bất cứ ai trong số họ cũng có thể theo dõi nó và Dan, em trai nó. Bất kỳ ai trong số họ cũng có thể là người nhà Cahill. Amy chưa bao giờ tưởng tượng được là có lúc cái họ của nó sẽ khiến nó thấy lạnh xương sống.
Kể từ khi di chúc của bà nó được công bố, nó đã bị săn đuổi hết từ lục địa này tới lục địa khác bởi chính... họ hàng của mình. Bà Grace Cahill của nó đã đặt ra một thách thức cho tất cả các chi họ của dòng họ Cahill - hoặc tham gia cuộc đua tìm 39 manh mối để trở thành
người quyền lực nhất thế giới, hoặc ra đi với một triệu đôla. Amy và Dan đã chọn cuộc săn tìm. Không phải một triệu đô không hấp dẫn. Nhưng tụi nó biết bà muốn tụi nó chiến thắng.
Lúc đó hai đứa không hề biết là tụi nó sẽ dính vào chuyện gì.
Đôi khi Amy tự hỏi điều gì đáng sợ nhất trong chuyện săn tìm những manh mối. Có lẽ không phải là chuyện bị chôn sống, hoặc chuyện suýt bị một đoàn tàu lửa nghiền nát, hoặc bị nhốt trong lăng mộ của xác ướp. Thực tế, tất cả những
chuyện đó đều đã xảy ra với nó... và nó vẫn sống sót. Có lẽ, đáng sợ nhất là điều này - trở nên nghi ngờ tất cả mọi người trên trái đất này. Amy và Dan đã phải trả giá đắt để học được rằng bất kỳ ai trong số họ cũng có thể là một kẻ chỉ điểm.
Không lẽ cả phần đời còn lại của nó cứ như thế này sao? Cứ phải ngoái lại sau lưng suốt hay sao? Giờ thì đừng có mà chửi em, Dan sẽ nói thế. Tuy thằng em nhỏ hơn đến 3 tuổi, nhưng Amy cần đến em trai như một chỗ giúp nó bấu víu vào đời thực. Amy rảo bước lên.
Cả đám đã dự kiến sẽ gặp nhau ởrạm trung chuyển của sân bay. Ngay khi chuyến bay từ Moscow đến đây hạ cánh, Amy, Dan và Nellie Gomez, au pair[2] của tụi nó, đã tách nhau ra. Thay vì hối hả đón taxi, tụi nó sẽ lang thang ở sân bay một chút, để cho kẻ nào đang theo dõi chúng bị “leo cây” chơi.
[2] Xem chú thích ở cuốn 1 - “Mê cung xương”.
Tụi nó đến Sydney theo một linh cảm. Khi ở Nga, hai chị em nó đã phát hiện ra cha mẹ chúng đã từng đi du lịch bằng hộ chiếu giả của Úc.
Trong khi đi xuống theo hành lang đông đúc, Amy nghĩ về bức ảnh chụp cha mẹ mà Lucian Nataliya đã gửi cho chị em nó. Nó và Dan đã thay nhau giữ tấm ảnh, vì cả hai đứa đều muốn được nhìn ngắm nó. Kể từ khi cha mẹ tụi nó qua đời trong vụ cháy nhà, tất cả ảnh của họ cũng đã bị hủy hoại hết. Tất cả trừ một tấm, thế mà Dan lại làm mất nó hồi ở Paris.
Kể từ lúc thấy tấm ảnh đó, từng mảnh ký ức nhỏ cứ lần lượt ùa về với Amy. Nó bất chợt nhớ về những thứ ngốc nghếch, kiểu như họ đã cùng “ăn điểm tâm vào buổi tối”
trong những tối thứ năm như thế nào, hay chuyện mẹ nó luôn mang theo bút dạ quang đủ màu trong ví để họ có thể vẽ lên miếng lót ly khi cả nhà đi ăn ở đâu đó. Hay chuyện có lần họ đã lấy nhôm làm thành đồ trang sức và... đội những cái vương miện đó đi vào hiệu tạp hóa như thế nào. Nó gần như quên mất mẹ nó là người ngớ ngẩn ra sao.
Tám năm trước, cha mẹ nó cũng đã từng đến sân bay này. Họ cũng đã đi dọc những hành lang này. Mẹ ơi, cha ơi... cha mẹ giờ đang ở đâu?
Có thể nó và Dan đã đi chệch
hướng. Có thể chuyến hành trình này sẽ không dẫn đến một manh mối nào. Đâu có bằng chứng nào cho thấy là tụi nó sẽ tìm được. Nhưng trong khoảnh khắc nhìn thấy những tấm hộ chiếu đó, cả hai đứa đều biết đâu là nơi chúng sẽ tới tiếp theo. Thậm chí lúc đó tụi nó không cần phải nói với nhau một lời nào.
Mối liên lạc duy nhất của tụi nó ở Úc là người em họ của cha nó, Shepard Trent. Ông này lớn lên cùng cha của chúng, nên hai đứa luôn gọi ông là “chú”. Tụi nó biết ông sống ở Sydney. Thế nào cha mẹ tụi nó cũng qua thăm ông ấy khi họ đi du
lịch tới đây. Chú Shep sẽ là điểm dừng chân tiếp theo của chúng.
Rắc rối duy nhất là tụi nó vẫn chưa liên lạc được với chú ấy. Điện thoại của ông đã bị cắt. Nellie đã xoay xở tìm ra được một địa chỉ từ trên Internet, nhưng chúng không có cách nào biết là địa chỉ này có thật hay không.
Amy đi tới điểm hẹn. Cả bọn đã thống nhất với nhau là dùng phương tiện công cộng sẽ tốt hơn taxi. Nếu muốn trà trộn, tụi nó nên lẩn vào những đám khách du lịch.
“Nè anh bạn, nướng một con chuột túi lên ăn chơi đi!”
Amy nhăn mặt khi cái giọng Úc “bồi” đập vào tai. Rồi nó sém té ngửa khi thấy Dan đội một chiếc mũ rộng vành kiểu Úc và diện một cái áo khoác kiểu dùng để đi trong vùng bán hoang mạc. Thằng nhóc còn quấn quanh cổ một con rắn giả làm bằng cao su.
“Em gọi thế này là trà trộn đó hả,” nó rít lên, giật cái mũ ra khỏi đầu thằng nhóc và nhét vào túi hông của cái ba lô đang đeo.
“Chớ em biết làm gì trong cửa hàng của sân bay đây?” Dan hỏi lại. “Em phải mua cái gì đó chớ. Chị có biết Úc là nơi có nhiều sinh vật chết người nhất trên thế giới không? Nhìn con rắn này nè - nó được gọi là tai-pan. Nọc độc của nó có thể giết, coi nào, khoảng hai ngàn con cừu. Hay là hai trăm con gì đó. Dù sao đi nữa, nếu chị bị những em bé này cắn một phát thì chị phải, coi nào, được máy bay chở tới bệnh viện chích thuốc giải độc gấp, còn không là chị sẽ chết một cách khủng khiếp ngay tại chỗ.” Để minh họa, Dan siết chặt lấy con rắn và bắt đầu phát ra những tiếng khò khè như bị
bóp cổ, mắt nó trợn trừng và nín thở. “Aaaaaaa,” thằng nhóc la chói lói.
“Hai đứa đây rồi, đúng giờ ngay chóc. Đúng là một phép lạ đấy.” Nellie rảo bước tiến lại. Cô nàng hoàn toàn không để ý tới đôi mắt lồi ra, khuôn mặt đỏ gay và âm
thanh như bị nghẹt thở của Dan. “Chị thích chỗ này rồi đó, mấy đứa thấy sao? Chị vừa ăn cái bánh lamington ngon nhất trần đời,” cô nàng vừa nói vừa liếm chỗ chocolate dính trên mấy ngón tay. “Ngày nào cũng được xực bánh rán.”
Đêm cuối cùng ở Moscow, Nellie đã tự tỉa mái tóc của mình bằng kéo cắt móng tay. Bây giờ những món tóc đen nhánh có móc lai màu bạch kim của cô nàng chĩa ra lua tua trên đầu như những dấu chấm cảm. Nellie lùa mấy ngón tay vào đó, làm cho mái tóc dựng đứng hết cả lên
Dan ngã lăn ra sàn, một chân co lại giật giật. “Chị đã mua vài tấm bưu thiếp,” Nellie vừa nói tiếp vừa bước ngang qua Dan để khoe với Amy. “Nước Úc đẹp thật. Chị tự hỏi không biết tụi mình có thời gian ra biển chơi không nữa.”
Dan lại giật nảy lên. “Bạch tuộc đốm xanh!” nó gào to. “Chết tươi ngay lập tức!”
“Ở đây có một chuyến xe buýt đưa chúng ta vào trung tâm Sydney,” Nellie vừa nói vừa mở ra một tấm bản đồ. “Tới đó, chúng ta có thể chuyển qua một xe buýt khác để tới chỗ chú của mấy đứa. Chị nghĩ đó là cách tốt nhất. Chị đã vẽ ra tuyến đường rồi.”
“Tuyệt,” Amy nói.
“Ngay cả một con thú mỏ vịt cũng
có thể giết chị nếu chị không cẩn thận,” Dan đế thêm. “Cái chỗ này hay dã man.”
Cả bọn bước ra ngoài trời trong ánh nắng rực rỡ của nước Úc và xếp hàng lên xe buýt. Sau những đám mây xám xịt của nước Nga, cả bọn được chiêu đãi bằng những cơn gió mơn man và bầu trời xanh biếc.
Nellie giơ chiếc lồng nhốt Saladin lên ngang mặt mình và kêu grừ grừ với con mèo. “Chúc một ngày tốt lành, anh bạn,” cô nàng nói bằng giọng Úc, “chút nữa thôi, mày sẽ được ăn cá hồng, tao hứa đấy.”
Để đáp lại, con Saladin kêu “Meo” rõ to khi chiếc xe buýt dừng lại trong tiếng phanh xe rít lên rền rĩ. Tiếng mèo kêu làm một bà già ngồi phía trước tụi nó giật mình. Bà ta quay người lại. “Cái gì thế, cháu thân mến? Có phải là một loài chim kỳ quái nào đó của nước Úc không?” Bà giương đôi mắt cận thị nhìn lom lom vào chiếc lồng đựng con mèo trong lúc lục tìm khăn giấy trong ví cầm tay.
“Chỉ là con mèo thôi ạ,” Amy nói với vẻ biết lỗi. “Cháu đoán là nó đói.”
“Ồooo, bà yêu mèo lắm.” Bà ta kéo cái va-li màu đỏ có bánh xe trong khi hàng khách du lịch chậm chạp tiến lên phía
Amy nói nhỏ với Dan, “Chị hy vọng là chú Shep vẫn còn ở địa chỉ này. Không thì mình chả biết làm sao để tìm chú ấy.”
“Tụi mình chỉ cần lang thang ở mấy cái tiệm bán dụng cụ lướt sóng,” Dan nói. “Ở đó thế nào mình cũng sẽ tìm được chú ấy thôi.”
Shep là một tay lướt sóng lãng tử. Khi còn nhỏ, hai đứa đã từng gặp
ông, nhưng Amy chỉ có một ký ức mờ nhạt về ông, còn Dan thì không nhớ chút xíu nào luôn. Ông không đến dự đám tang cha mẹ nó 7 năm trước. Nhưng hồi còn ở Boston, một trong những bộ sưu tập của Dan là những tấm bưu thiếp Shep đã gửi cho tụi nó trong nhiều năm, từ những nơi như Bali hoặc Oahu. Mặt trước những tấm bưu thiếp luôn có hình một con sóng lớn.
Cả bọn leo lên xe buýt và xếp gọn ba lô xuống dưới ghế ngồi. Bà già có cái va-li đỏ ngồi sau tụi nó và mở bản đồ ra khi xe buýt chuyển bánh. Tấm bản đồ đập vào phía sau đầu
của Amy. “Ôi, xin lỗi cháu yêu,” bà già nói. “Bà vừa đập cả dãy núi Xanh vào cháu rồi.”
“Không sao đâu,” Amy đáp. “Bà đừng bận tâm.”
“Đúng là người Mỹ! Bà biết mà! Rất thân thiện. Bà đã đi du lịch tới thành phố Kansas một lần rồi. Thịt nướng ở đó thật ngon. Cháu có phải người ở Kansas không? Không à? Thật là đáng tiếc.” Bà già bắt đầu lẩm bẩm một mình trong khi xem xét tấm bản đồ. Cứ chốc chốc tấm bản đồ lại đập vào đầu Amy, nhưng nó không để ý tới nữa.
Khi xe buýt vào tới trung tâm thành phố, dòng xe cộ ùn ùn xung quanh, còn họ chầm chậm lướt qua hết khu nhà này đến khu nhà khác. Sự khác biệt thật đáng kinh ngạc so với Moscow. Ngoài đường mọi người bước đi bằng những bước chân dài khỏe khoắn như của các vận động viên, mặc những bộ quần áo mùa hè rực rỡ, tán gẫu và cười đùa với bạn bè. Mọi người ở Sydney đều có vẻ khỏe mạnh và hạnh phúc.
“Người ta gọi đây là xứ Oz[3] cũng đúng,” Dan nói. “Cứ như trong chuyện tưởng tượng ấy.”
[3] “Xứ Oz” - xứ sở thần tiên trong bộ phim Mỹ “The wizard of Oz” (Phù thủy xứ Oz) của đạo diễn Victor Fleming, công chiếu năm 1993.
Nellie dán mắt vào những điểm dừng khác nhau trên tấm bản đồ. Amy nhìn chăm chăm vào các ký hiệu.
“Chú Shep sống gần Darlinghurst đúng không?” Amy hỏi.
“Này bà chị, đừng có mà gọi em là “darling,”[4] Dan nói. “Đừng bao giờ. Đó là luật đấy.”
[4] “Darling” là cách gọi trìu mến một người thân yêu.
“Darlinghurst là một khu ở Sydney, thằng ngốc à,” Amy đáp.
“Thằng ngốc, cho phép. Darling, không cho phép.”
Bà già dễ mến ngồi sau tụi nó đứng dậy khi xe lăn bánh vào trạm dừng. Vừa kéo va-li, mở bản đồ, bà vừa vẫy chào tụi nó “Tạm biệt các cháu! Đi chơi vui nhé!”
“Chúc bà cũng thế!” Amy vẫy tay
chào lại. Những cánh cửa xe rít lên khi đóng lại.
Nellie tham khảo bản đồ lần nữa. “Chúng ta đang ở gần Circular Quay5. Chỉ còn hai trạm dừng nữa trước khi mình chuyển xe.”
Amy chồm tới để nhìn tấm bản đồ. Có gì đó khang khác. Một sức nặng quen thuộc nào đó đã biến mất...
“Sợi dây chuyền của bà Grace!” Amy cảm thấy bủn rủn khi đưa tay sờ lên cổ. “Mất rồi!”
“Em chắc không?” Nellie hỏi lại, đưa
mắt tìm trên ghế.
Amy không mở miệng trả lời nổi. Cổ họng nó nghẹn ứ một cục to và nó phải kiềm mình để khỏi bật khóc. Sợi dây chuyền đó không một sợi dây chuyền. Nó còn là một cái gì đó mà bà Grace từng yêu quý. Mỗi lần chạm vào nó, Amy lại cảm thấy sự hiện diện sống động của bà, và thấy mình được kết nối với lòng can đảm của chính bà Grace.
Chiếc xe buýt quành qua một khúc cua trong lúc Amy điên cuồng bới tung sàn xe. “Nó không còn ở đây!”
“Lần cuối em còn nhớ tới nó là khi nào?” Nellie hỏi.
“Khi chúng ta đứng chờ xe buýt,” Amy trả lời, tập trung suy nghĩ. “Em đã giấu nó vào bên dưới áo thun.”
“Nó không bị rớt mất,” Nellie nói. “Nó đã bị đánh cắp. Chính bà già đó.”
“Thật không? Bà ấy rất tử tế mà. Bà ấy cứ để tấm bản đồ đập vào đầu em và xin lỗi...,” Amy há hốc mồm ra giữa chừng.
Nellie gật gù, “Chính xác. Để đánh
lạc hướng em.”
Dan bắt đầu nhấn vào cái nút DỪNG LẠI trên tay vịn ghế ngồi của nó. “Nhanh lên nào. Cùng đi đá đít vài bà già nào!”
CHƯƠNG 2
CÁI BA LÔ CỦA DAN đập uỳnh uỵch vào xương sống nó. Thật tuyệt khi được chạy bộ sau cả triệu giờ đồng hồ ngồi máy bay. Rắc rối duy nhất của chuyện đi du lịch quá nhiều chính là... đi du lịch.
Chuyện đó, và cả chuyện thiếu thốn món kem Garcia vị anh đào trên những chuyến bay nữa chứ.
Nellie dễ dàng chạy qua mặt nó, dù cô nàng phải mang chiếc lồng chứa con Saladin đang đu tòn teng trên
một tay, lưng đeo cái ba lô chật căng, còn đồ cắm trại của cả bọn cứ đập vào hông cô theo mỗi bước chạy. Có vẻ như Nellie chỉ dành thời
gian để ăn với ngủ, nhưng cô vẫn có một thể hình tuyệt vời. Không gì có thể so sánh với chuyện có một lính đặc công làm au pair cho mình.
Cả bọn chạy tới trạm xe buýt nơi bà già đã xuống. Chúng cuống cuồng nhìn quanh, nhưng không có dấu hiệu nào của bà ta. Khách bộ hành nhộn nhạo xung quanh chúng, đi lại hối hả, cười nói nhỏ to. Một phụ nữ cao, thanh lịch mang đôi giày cao gót màu xanh lá cây bằng da lộn đi
dạo qua dạo lại để ngắm một tòa nhà đẹp. Xung quanh đó chẳng có ai đi tập tễnh, tay vẫy vẫy tấm bản đồ cả.
Dan chợt nhìn thấy một chấm đỏ nằm giữa một bụi cây. Nó vội vàng chạy đến.
Nó lôi ra cái va-li màu đỏ của bà già. Cái va-li nhẹ một cách đáng ngạc nhiên. Dan bật khóa ra; bên trong va-li trống rỗng.
Hai vệt đỏ loang ra trên đôi gò má tái nhợt của Amy, như thể có ai đó đã tát vào mặt con bé. Dan biết
dấu hiệu này. Amy đang cố gắng để không bật khóc.
“C-c-chị làm mất sợi dây chuyền của bà Grace rồi. Chị không thể tin được!” Amy sụm xuống trên những bậc thang phía trước một tòa nhà bằng đá.
“Sẽ tìm lại được thôi mà,” Dan nói. Thằng bé nghĩ rằng nó hiểu cảm giác của Amy. Khi nó làm mất tấm ảnh của cha mẹ trong đường hầm tàu điện ngầm ở Paris, nó đã khóc như một đứa con nít. Ngay giữa nơi công cộng.
Dan nhìn lên tòa nhà mà Amy đang ngồi phía trước. Nó thấy chữ “viện bảo tàng” trên tấm biển. Bình thường thì cái chữ “viện bảo tàng” đó sẽ làm cho từng centimet trong người nó nhộn nhạo như ong vỡ tổ trong khi đợi chị nó lôi nó vào bên trong, nhưng lúc này một viện bảo tàng có lẽ sẽ làm chị nó khuây khỏa. Amy đang đưa tay gạt nước mắt nhanh đến nỗi làm phát ra tiếng gió.
“Ê, nhìn nè, một viện bảo tàng,” thằng nhóc nói. “Có muốn vào trong chơi không?”
“Hả? Dan, em có nhìn thấy đó là chỗ nào không vậy? Nó là một viện bào tàng đó.” Nellie nói. “Chị nghĩ chị còn nhớ em từng nói thà để nhện nó ăn mất tròng mắt còn hơn đặt chân vào bảo tàng một lần nữa mà.”
Dan hất đầu về phía cô chị đang khóc sưng c để Nellie hiểu ý định của nó. Nellie tặng cho nó một cái gật đầu với vẻ cảm kích.
“Đó chỉ là chuyện ngớ ngẩn,” Dan nói. “Nhện nào mà ăn được tròng mắt chứ.” Nó nghĩ ngợi một thoáng. “Nhưng có khi mấy con nhện ở Úc
này làm được đấy. Oách thật. Dù sao thì đây cũng là Bảo tàng Công lý và Cảnh sát. Có thể trong đó có trò hay. Đi nào Amy, cùng kiểm tra chỗ này xem sao. Có lẽ tên trộm đã bỏ chạy vào trong này để trốn tránh chúng ta cũng nên. Chị có thể đọc mấy cái nhãn,” nó dỗ ngon dỗ ngọt.
Nellie ngồi xuống bậc thang. “Chị sẽ chờ ở đây. Kiểu gì họ cũng không cho chị đem con Saladin vào trong đâu.” Cô nàng mở cuốn Từ điển tiếng lóng Úc ra. “Chị sẽ tranh thủ tắm nắng một chút,” Nellie vừa nói vừa đeo cặp kính mát vào. “Chị sẽ phun cái núm vú giả ra nếu em gặm
mắt cá chân quá lâu, còn nếu tụi em không làm thế thì nó sẽ là quả táo!”[1]
[1] Circular Quay - bến cảng nằm ở phía Bắc thành phố Sydney, Úc.
“Làm ơn nói tiếng Anh dùm đi,” Dan nói.
“Nếu em đi lâu quá, cậu cả ạ, em sẽ tiêu đời với chị.”
“Hiểu rồi. Đi nào Amy, em cá là ở đây họ có vũ khí đấy.” Dan nhảy lên các bậc thang trong khi Amy lê bước theo một cách chậm chạp.
Song ít ra thì con bé cũng đang bước đi.
Sau khi mua vé vào cửa, Dan ngừng lại ở một bức tường treo đầy ảnh của những tên tội phạm trong những năm 1890. Tất cả bọn họ đều có vẻ trông như thể sắp lấy mặt bạn ra làm bữa ăn sáng vậy. Thật là hay không thể tả.
“Amy, nghe cái này nha! Một hôm nọ, anh chàng này bị mất tích, và rồi một ngày sau đó có con cá mập ở công viên biển khạc ra một cánh tay của anh ta! Em yêu chỗ này quá!” Nhưng Amy đã đi lang thang
qua ngắm khu phòng xử án rồi.
Dan chồm về phía trước để xem xét cái mặt nạ tử thần của Thuyền trưởng Ánh trăng. Lần đầu tiên nó thấy một viện bảo tàng gây được ấn t
Amy không hiểu được em trai mình. Cuộc sống của chị em nó chưa đủ lộn xộn hay sao chứ? Sao thằng nhóc lại thấy một chỗ như thế này hấp dẫn được nhỉ?
Nó thấy người phụ nữ thanh lịch mang đôi giày da lộn màu xanh cúi người về phía trước để xem xét bức
tường treo những tấm hình thẻ căn cước. Cô ta nhìn chăm chú vào bức tường, nhưng Amy không biết cô ta đang nhìn cái gì. Song dù là cái gì thì điều đó cũng hẳn phải thú vị lắm.
Người phụ nữ quay lại và thọc tay vào ví, cử chỉ này làm dấy lên trong Amy một điều gì đó. Một điều gì đó thân thuộc... như thể nó biết người phụ nữ này. Nhưng nó đâu có biết ai ở Úc.
Cho đến giờ nó vẫn hay làm theo bản năng của mình, không cần biết là bản năng đó có vẻ lạ lùng tới
mức nào. Khi người phụ nữ đi xuống tiền sảnh, Amy bèn đi theo. Nhưng khi nó rẽ qua góc tường thì người phụ nữ đã biến mất.
Mô hình phục dựng của một xà lim kiểu cũ thu hút sự chú ý của nó. Amy bước vào trong. Giá có một cái thế này để nhốt mấy thằng em trai khi chúng lộn xộn thì tiện biết mấy. Chỉ cần nhốt năm phút là...
Đột nhiên, nó nghe thấy cánh cửa đằng sau lưng rền rĩ đóng sập lại. Nó quay ngoắt lại. Người phụ nữ đang cười với nó một cách vui vẻ từ bên ngoài các chấn song của xà lim.
Cô ta thật đẹp với đôi mắt to màu hổ phách và mái tóc đen óng ả làm tôn lên khuôn mặt của cô ta. Làn da cô ta thật mượt mà và hoàn hảo đến mức trông như một con búp bê bằng sứ.
“Đừng hoảng hốt. Đây là cách duy nhất để tôi có thể nói chuyện với cháu,” cô ta nói bằng giọng Anh. Giọng cô dày và mượt mà, như thể cô ta đang ngậm cả một muỗng đầy sữa chua trong miệng. Cô ta cúi người tới gần hơn, như thể đang tâm sự với Amy. “Nhà Cahill chúng ta biết cách để chạy trốn khỏi nhau, đúng không nào,” cô ta nháy mắt.
Amy những muốn tự đá cho mình một cái. Người phụ nữ này là một người nhà Cahill! Theo phản xạ tự nhiên, Amy đưa mắt nhìn xung quanh để tìm một lối thoát khác.
“Tôi vẫn thấy một kẻ sợ sệt,” nụ cười của người phụ nữ vẫn không thay đổi. “Cháu không bao giờ tin vào dũng khí của chính mình. Grace vẫn thường nói thế.”
Amy cảm thấy lòng nhói đau vì những lời đó. Nó nghênh mặt lên. “Đ-đ-đừng có nói động tới bà tôi. Cô là ai?”
Cô ta ngẩng đầu lên và dò xét Amy, nụ cười trìu mến vẫn còn nguyên trên môi. “Ái chà, cái nhìn của bậc vương giả. Giờ thì tôi đã thấy Grace ở trong cháu. Tôi là Isabel Kabra.”
“Mẹ của Ian và Natalie ư?”
Cô ta gật đầu. “Tôi đã cố đứng ngoài cuộc săn lùng ba mươi chín manh mối. Tôi cũng đã cố giữ Ian và Natalie đứng ngoài cuộc. Thật không may...” Cô ta nhún vai một
cách thật thanh lịch, “Bọn trẻ lại chú ý đến cha chúng nhiều hơn. Nhưng mọi chuyện đã đi quá xa rồi.
Các con tôi cần tôi giúp đỡ. Do đó, tôi đã tìm theo chúng đến đây.”
“Tụi nó đang ở Sydney ư?” Đó không phải là tin tốt chút nào.
“Ngay lúc này bọn trẻ đang nhận phòng ở khách sạn Đài thiên văn. Natalie chắc là đang kiểm tra các đồ dùng miễn phí trong phòng tắm. Còn Ian... à, Ian hẳn là đang nghĩ về cháu.”
Amy ghét cái cảm giác sung sướng trào ra đang làm trái tim nó đập loạn nhịp. Mặc dù nó chẳng tin điều này một chút nào. Nó trợn mắt:
“Thôi, cho tôi xin đi.”
“Tôi thừa nhận là cách cư xử của nó thật đáng hổ thẹn. Nó e ngại những cảm xúc của chính mình. Nó đã thú nhận với tôi rằng nó ngưỡng mộ cháu biết chừng nào.”
“Nhìn tôi có giống người vừa té khỏi xe tải chở dưa bở không hả?”
Đôi mắt của Isabel Kabra lóe lên. “Thật là một cách diễn đạt thú vị. Ian là đứa thích thể hiện. Bên dưới vẻ bề ngoài cao ngạo đó là một chàng trai bình thường với sự bất an riêng của nó. Tôi có những đứa
con... phức tạp. ta vẫy vẫy bàn tay được chăm chút cẩn thận. “Tin tôi đi, tôi muốn giữ bọn trẻ tránh xa khỏi chuyện ngớ ngẩn này của nhà Cahill. Chúng tôi có một cuộc sống sang trọng dễ chịu ở London. Xe hơi, quần áo, máy bay riêng. Chúng còn muốn gì hơn nữa chứ?”
“Nghe đâu là muốn trở thành người quyền lực nhất thế giới thì phải,” Amy nói.
“Chính xác thì điều đó có ý nghĩa gì chứ?” Isabel hỏi. “Cháu đã nghĩ về điều đó chưa?”
Nó đã nghĩ nhiều chứ. Nó vẫn không thể hiểu được điều đó. Một điều có vẻ quá phi thực tế, giống như thứ gì đó trong phim hoặc trong trò chơi điện tử.
“Điều gì sẽ là cội nguồn quyền lực của cháu?” Isabel hỏi nhẹ nhàng. “Và làm thế nào để sử dụng được nó?” cô ta vừa nói vừa cười mỉm. “Ý tôi là, một đứa bé 14 tuổi và một đứa 11 tuổi sẽ thật sự cai trị được thế giới hay sao chứ? Cháu chắc cũng phải thừa nhận rằng điều đó có phần lố bịch.”
“Ái chà chà,” Amy nói. “Cô có thể
làm lại điều đó được không? Ý tôi là làm cái việc sỉ nhục tôi bằng một cách thật dễ thương ấy?” Amy không thể tin giọng nói lạnh lùng mỉa mai đó là của chính nó.
“Tôi không có ý xúc phạm,” Isabel đáp bằng một giọng tử tế. “Chỉ là sự thật thôi. Chắc cháu nghĩ nếu cháu chiến thắng cuộc săn lùng các manh mối, thì mối nguy hiểm mà cháu phải đối mặt sẽ chấm dứt?” Cô ta lắc đầu. “Nó sẽ chỉ là sự bắt đầu. Người ta chỉ cần nhìn vào lịch sử để thấy điều đó. Các con tôi là những học sinh kém. Nhưng còn cháu là một nhà nghiên cứu giỏi. Cháu biết
lịch sử đã chứng minh rằng bất cứ kẻ chinh phục nào cũng có lúc suy tàn mà.”
Sao cô ta biết về mình nhiều thế? Amy tự hỏi, Còn mình lại chả biết gì về cô ta.
“Tôi rất mến cha mẹ cháu,” Isabel nói. “Họ thật đẹp đôi và đầy hứa hẹn... Tôi đã bàng hoàng khi nghe về vụ cháy. Nếu họ còn sống, có lẽ mọi chuyện ngày nay sẽ khác. Có lẽ nhà Cahill sẽ... văn minh hơn. Nhưng như tình hiện nay, chúng ta chỉ còn một hy vọng duy nhất. Nhà Lucian.”
Amy xì một tiếng rõ to. “Ngạc nhiên ghê há. Thì ra cô là một người nhà Lucian.”
“Đương nhiên, tôi cảm thấy rằng người nhà Lucian là những người được trang bị tốt nhất để tiếp nhận quyền lực tối thượng. Chúng tôi kết hợp những phẩm chất tốt nhất của tất cả dòng họ Cahill. Chúng tôi là những thủ lĩnh. Chúng tôi có một mạng lưới toàn cầu sẵn sàng trong tay. Còn cháu và em trai cháu... các cháu đơn độc. Cha mẹ các cháu đã chết, Grace đã chết, không còn ai bảo vệ các cháu. Tôi chỉ muốn cho
bé gái mà tôi còn nhớ - cô bé gái mặc bộ quần áo ngủ mà cách đây đã lâu tôi đã từng bế lên đùi nựng nịu - được lớn lên an toàn. Chỉ cần cháu biết một điều là...” cô ta ngập ngừng.
“Điều gì?”
Tiếng bước chân vang vọng trên hành lang. Isabel nhìn về hướng phát ra âm thanh.
“Hãy tin tôi,” cô ta thì thầm, và rồi vội vã đi ra.
CHƯƠNG 3
AMY ĐẬP VÀO CÁNH CỬA XÀ LIM. “Có ai không? Cứu với!” nó gào lên.
Dan xuất hiện và nhìn vào trong các chấn song. “Dù chị đã làm gì đi nữa, em sẽ luôn ủng hộ chị,” nó nói.
“Đừng có đứng đó mà nhăn nhở. Đi tìm bảo vệ đến mở cánh cửa này ra!” Amy la lên.
Dan đẩy vào cánh cửa, nó từ từ mở ra.
Amy chớp chớp mắt. Tại sao nó lại nghĩ là cái cửa bị khóa chứ? Nghĩ kỹ lại thì Isabel có nói là cái cửa bị khóa
Nó cảm giác hai chân mình đang run lẩy bẩy. Nó đã sợ nhiều hơn mức mà nó muốn thừa nhận.
“Đi nào,” Dan nói. “Em tìm thấy có bộ sưu tập dao kiếm này hay lắm. Một cái còn có vết máu trên đó nữa đấy!”
“Dan này, Isabel Kabra vừa ở đây,” Amy nói.
“Isabel Kabra hả? Bọn Rắn hổ mang[1] sinh sôi nảy nở à? Đó là ai vậy?”
[1] Họ của Isabel là Kabra, Dan cố tình chơi chữ thành Cobra - nghĩa là rắn hổ mang.
“Mẹ của Ian và Natalie!”
“Ôi trời đất. Mấy đứa đó cũng có một bà mẹ nữa hả?”
“Cô ta thậm chí có thể coi là... tử tế,” Amy nói. “Thực ra cô ta đã xin lỗi dùm cho Ian.”
“Quá trễ rồi. Mấy đứa con của cô ta đúng là lũ chó cắn càn.”
“Cô ta nói nhà Lucian sẽ thắng...” “Xì!”
“... và bảo chị nên tin cô ta. Cô ta sắp nói với chị cái gì đó.”
Dan làm ra vẻ chế giễu. “Để em đoán nha. Về nhà đi mấy nhóc, trò chơi này quá nguy hiểm với tụi mày, tụi mày sẽ thua chắc thôi. Và tràng giang đại hải mấy thứ đại loại như vậy. Tụi mình đã nghe cái điệu này cả triệu lần từ khi bắt đầu rồi. Rốt
cuộc thì chi họ nào có được gien thuần chủng kia chứ? Tất cả bọn họ đều có giọng điệu như nhau.”
Amy quyết định lờ đi chuyện Ian đang thật sự thích nó. Nó thì t không tin điều đó rồi. Còn Dan sẽ tuyệt đối không tin điều đó.
“Cô ta nói đã từng gặp chị khi chị còn nhỏ, nhưng sao chị chả nhớ chút gì về cô ta,” Amy nói.
Dan nghe một cách lơ đãng. “Tốt hơn cả là tụi mình nên ra ngoài, không là Nellie sẽ có một cuộc tấn công làm chúng ta không kịp trở tay
đấy.”
Trong khi hai đứa đi về phía lối ra, Amy chợt dừng lại chỗ bức tường treo những tấm hình thẻ. “Tại sao cô ta lại ở chỗ này?” nó tự hỏi. “Đó không chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cô ta đã dừng lại ở đây, ngay chỗ những tấm hình. Cô ta đã vươn người vào đúng chỗ này...,”
Amy đứng lại. “Dan! Một tấm hình thẻ bị mất rồi!”
Bị cắt gọn ra khỏi tấm kính chịu lực, một tấm hình đã biến mất.
“Giờ thì tụi mình sẽ không bao giờ
biết ai đã ở đó,” Amy nói.
Dan nhắm mắt lại. Amy biết thằng em trai đang rà soát lại những bức ảnh trong tâm trí nó. Mặc dù có tới trên dưới một trăm bức ảnh trên tường, nhưng Amy biết là thằng em sẽ nhớ ra được tấm hình bị mất.
“Theo em,” thằng nhóc nói. Amy rảo bước theo thằng em vào gian hàng bán đồ lưu niệm. Trên tường có một bức poster được đóng khung, đang trưng ra những khuôn mặt tội phạm y hệt. Dan chỉ vào hình một người đàn ông còn khá trẻ, có mái tóc bẩn thỉu và nét mặt
trống rỗng vô hồn. Một bên mặt của hắn ta lộ ra những vết sẹo trắng hếu chạy dài từ trán xuống cằm. “Hắn đó.”
“Bob “Troppo”[2],” tay nhân viên bán hàng ngồi sau quầy đăng ký lên tiếng.
[2] Troppo - trong tiếng lóng của người Úc có nghĩa là phát điên vì sống quá lâu một mình trong rừng.
“Đó có phải là câu chào hỏi theo kiểu Úc không ta?” Dan thì thầm với Amy. Nó vẫy tay chào lại. “Bob “Troppo”,” thằng nhóc la
Tay nhân viên tiến đến gần quầy tính tiền. “Là tôi nói tới thằng cha mà mấy em đang nhìn đó. Hắn được gọi là Bob “Troppo”. Không ai
biết tên thật của hắn vì hắn không bao giờ chịu nói ra. “Bị rừng ám” là cách người Úc nói về một người sống quá lâu trong rừng nhiệt đới tới mức thành ra bị hơi tửng tửng. Hắn ta từng sống ở Sydney hồi những năm 1890.”
“Hắn ta đã làm gì thế?” Dan hỏi “Bắt người ta đem đi câu cá sấu hay là cột người ta vào đường ray xe lửa?”
“Hắn đã cố ám sát Mark Twain.”
Amy và Dan liếc nhìn nhau thật nhanh. Mark Twain là một người nhà Cahill. Ông là người thuộc chi họ Janus, chi họ của những người khéo léo, những nghệ sĩ.
Tay nhân viên, một chàng trai trẻ vạm vỡ mặc quần soóc bằng vải khaki, tựa hẳn người vào quầy tính tiền. “Các em biết không, hồi năm
1896, ông Twain có một chuyến đi diễn thuyết. Người ta thấy “Troppo” nói chuyện với ông ấy trong một con hẻm bên ngoài thính phòng nơi
ông ấy diễn thuyết. Nghe đâu họ đã lời qua tiếng lại, rồi “Troppo” cầm cây ba-toong phang vào vai ông ấy.”
“Nghe không giống như một vụ ám sát có chủ ý,” Amy nói.
“Trong cây ba-toong có giấu một con dao. Chừng đó cũng quá đủ để kết án hắn ta, đặc biệt là khi hắn chẳng thèm bào chữa lấy một lời. Dù sao thì sau đó hắn cũng đã vượt ngục bằng một cách thật tài tình.” Anh chàng nhân viên rướn người về phía trước như thể anh ta sắp tiết lộ một bí mật. “Hắn bị tống giam,
nhưng hằng đêm người ta cho hắn làm công việc lau sàn nhà giam, các em hiểu không. Thế là mỗi đêm hắn cạo ra một mẩu sáp từ sàn gỗ và giấu trong xà lim. Rồi sau đó hắn dùng sáp lấy được khuôn của một cái chìa khóa. Có phải là thần tình không nào?”
Dan và Amy lại liếc nhìn nhau. Tụi nó hiểu nhau quá rõ và trông cậy vào nhau trong mọi việc trong một thời gian dài đến mức có thể trao đổi mà không cần phải nói. Có phải là một người nhàEkaterina? Ekat là chi họ mưu trí và có óc sáng chế.
“Chuyện gì đã xảy ra với hắn?” Amy hỏi.
“Chả ai biết. Người ta đồn là hắn đã lủi vào rừng mất tăm. Mấy em có muốn mua một vài cái còng tay không? Hay mua một cuốn sách đi?”
“Còng tay hả?” Dan hỏi lại.
Amy kéo áo thằng em. “Thôi, cảm ơn anh. Tụi em phải đi đây. Cảm ơn anh vì câu chuyện!”
Amy và Dan bước ra khỏi cửa hàng và tiến về phía cánh cửa.
“Bob “Troppo” coi bộ điên điên,” Amy nói.
Dan gật đầu. “Chắc chắn là một người nhà Cahill rồi.”
“Nhưng Isabel muốn gì ở ông ta chứ?” Amy băn khoăn. “Ông ta có phải là lý do khiến nhà Kabra có mặt ở Sydney không? Hay là...”
“...hay là tụi mình?” Dan hỏi. ***
Amy, Dan và Nellie đứng yên trước một cánh cửa bằng kim loại. Không
"""