" 39 Manh Mối tập 3: Kẻ đánh cắp Thanh Gươm PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 39 Manh Mối tập 3: Kẻ đánh cắp Thanh Gươm PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo 39 MANH MỐI PHẦN 3: KẺ ĐÁNH CẮP GƯƠM Nguyên tác: 39 Clues #3: The Sword Thief Tác giả: Peter Lerangis Dịch giả: Dương Thu Công ty phát hành: Phương Nam Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Trọng lượng vận chuyển: 400 grams Kích thước: 14 x 20 cm Số trang: 300 Ngày xuất bản: 20-07-2011 Giá bìa: 67.000₫ Nguồn: http://tve-4u.org Type+Làm ebook: thanhbt Cuốn sách này được giới thiệu ở đây nhằm chia sẻ cho những bạn không có điều kiện mua sách. Còn nếu bạn có khả năng hãy mua sách ủng hộ nha! Giới thiệu LIÊN MINH CHẾT CHÓC Chỉ có một qui luật duy nhất để tìm kiếm 39 manh mối trên thế giới: KHÔNG TIN BẤT CỨ AI. Sau Vienna là Nhật Bản, cuộc săn đuổi lúc này đã trở nên khốc liệt buộc Amy Cahill và Dan phải giả vờ liên kết với người chú không mấy đáng tin - Alistair. Amy và Dan không còn lựa chọn nào khác, đây là cơ hội duy nhất giúp chúng tìm ra manh mối thứ ba. Amy và Dan sẽ đối phó như thế nào khi đúng như qui luật dòng họ Cahill: tin người trong họ hàng chẳng khác gì tự sát. Mục lục CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 PHẦN KẾT CHƯƠNG 1 BỌN CHÚNG ĐANG GẶP RẮC RỐI LỚN Amy Cahill dõi mắt theo chiếc túi vải len màu đen tả tơi đang được công kênh trên băng tải hành lý. Các góc túi đều phồng căng. Tấm biển ở phía trên băng chuyền có dòng chữ CÁM ƠN QUÝ KHÁCH ĐÃ ĐẾN VENICE: CHÚNG TÔI SẼ TIẾN HÀNH KIỂM TRA NGẪU NHIÊN HÀNH LÝ ĐÃ QUA KIỂM SOÁT được viết bằng năm thứ tiếng. “Ồ, tuyệt nhỉ,” Amy nói. “Ngẫu nhiên đến đâu mới là ‘ngẫu nhiên’?” “Em nói chị rồi, chiến binh ninja phải luôn giữ gươm trong hành lý xách tay,” Cậu em Dan, nhân vật trong tình trạng “thiếu não thường kỳ” đã từ lâu lắm rồi, thì thầm với Amy. “Xin lỗi nhé, ngài Jackie Chan. Nhưng hành lý xách tay thì luôn luôn bị soi tia X đấy,” Amy thì thầm đáp lại lời nó. “Vẫn có những luật lệ bổ sung đặc biệt được đem áp dụng cho những thanh gươm võ sĩ đạo nằm trong ba lô. Ngay cả khi chúng thuộc quyền sở hữu của những đứa trẻ 11 tuổi vừa còi cọc vừa mắc chứng hoang tưởng, luôn nghĩ mình là ninja. “Dùng mấy cây đó để ‘thái món bê phô mai parmesan’ thì có gì sai nào?” Dan bảo. “Làm thế quá ổn. Người Ý sành ăn mà.” “Ông em có hiểu ‘nằm khám từ 5 đến 20 năm, no parole[1] là gì không?” [1] “Miễn nói thêm”, tiếng Ý - Anh. Dan nhún vai. Nó nâng chiếc lồng mắt lưới lên, bên trong chứa con mèo Mau Ai Cập hết sức cáu kỉnh đang quan sát cu cậu với ánh mắt hồ nghi. “Bái bai Saladin,” Dan hát hướng vào trong chiếc lồng. “Hãy nhớ, khi chúng ta tới được Tokyo rồi... sẽ có sushi cá hồng mỗi đêm cho mày!” “Meo?” Con Saladin rên rỉ trong lồng lúc Dan nhẹ nhàng đặt nó lên băng chuyền. “Mmmmm, hmmm, ử ử... á á aaaaaa!” Đằng sau chúng cất lên một tiếng rít như có kẻ bị bóp cổ. Dù mọi người xung quanh đều quay sang và chứng kiến cảnh tượng ấy với thái độ cảnh giác, song Amy và Dan thừa biết đó không là ai khác ngoài cô nàng au pair, Nellie Gomez, đang múa may theo một giai điệu phát ra từ chiếc iPod mang theo. Một trong vô số thứ hay ho về Nellie Gomez, đó là cô nàng chẳng buồn quan tâm rằng giọng hát của mình nghe như tiếng con chồn meerkat[2] đang hồi hấp hối. [2] Meerkat: Là một loài động vật có vú nhỏ, là thành viên của họ cầy Mangut. Meerkat sống trong tất cả các khu vực của sa mạc kalahari ở Botswana và Nam Phi. Amy nhìn theo chiếc lồng đến khi nó mất hút trong khoang chứa hàng. Nếu nhân viên sân bay kiểm tra chiếc túi thì chắc chắn sẽ có báo động. Những tay cảnh sát Ý hò hét. Amy, Dan và Nellie sẽ phải bỏ chạy. Cả ba chẳng lạ lẫm gì chuyện này. Dạo gần đây cả bọn đã phải chạy rất nhiều. Đó là từ lúc hai chị em chấp nhận cuộc thử thách trong di chúc mà Grace để lại. Vì chuyện này, Dan và Amy phải đến trang viên ở Massachusetts của bà - và ngay sau đấy cả trang viên chìm trong biển lửa. Rồi thì, cả hai suýt nữa thì mất mạng trong vụ sập tòa nhà ở Philadelphia, bị những thầy tu ở Áo tấn công, bị những chiếc thuyền truy đuổi trên kênh đào ở Venice. Cả hai đã trở thành đích ngắm cho những trò lừa bẩn thỉu từ mọi chi tộc của gia đình Cahill. Chốc chốc - có khi cứ khoảng ba giây - Amy lại tự hỏi vì cái lí do quái quỷ gì mà cả hai phải làm chuyện này. Nó và Dan có thể chọn cách bỏ túi mỗi đứa một triệu đô la ngon lành, như rất nhiều thành viên khác của gia đình Cahill đã chọn. Thế nhưng Grace lại cho chúng một cơ hội khác: cuộc đua tài tìm kiếm 39 manh mối dẫn đến một bí mật đã được chôn vùi suốt nhiều thế kỷ qua, nguồn sức mạnh vô song nhất mà thế gian từng biết đến. Ngay trước sự kiện đó, Amy và Dan vẫn có một cuộc sống khá ư nhàm tẻ, tầm thường. Sau khi cha mẹ hai đứa qua đời bảy năm về trước, bà trẻ Beatrice gắt gỏng đã mang chúng về nuôi - và thứ hay ho duy nhất mà bà từng làm được đến giờ là đã thuê Nellie về làm việc. Nhưng giờ đây cả hai đã biết mình thuộc về một cái gì đó to tát hơn rất nhiều, một đại gia đình của những vị tổ tông như Ben Franklin và Wolfgang Amadeus Mozart. Như thể tất cả những bậc thiên tài trên thế gian đều là người nhà Cahill. Điều này cũng tuyệt lắm chứ. “Chị Amy, có bao giờ chị muốn, kiểu như, vào trong băng chuyền để coi trong đó có gì không? Kiểu như, ‘Nè, đừng quan tâm tới tôi, tôi chỉ đang lang thang với mớ hành lý thôi’?” Dan cắt ngang dòng suy nghĩ của nó. “Thôi đi!” Amy giằng lấy tay cậu nhóc và cả hai đi thẳng đến cổng khởi hành. Nellie bám sát phía sau, một tay xoay nút điều khiển chiếc iPod và tay kia chỉnh sửa cái khuyên hình rắn trên mũi mình. Amy nhìn chiếc đồng hồ ở sân bay. 2 giờ 13 phút. Chuyến bay theo lịch sẽ xuất phát lúc 2 giờ 37 phút. Chuyến bay quốc tế. Hành khách phải có mặt ở sân bay hai giờ trước khi máy bay cất cánh, chứ không phải 24 phút. “Chúng ta sẽ trễ mất!” Amy lo lắng. Giờ thì cả ba đang chạy thật nhanh đến cổng số 4, lách qua những hành khách khác. “Chắc bọn họ sẽ không tìm được Rufus và Remus, nhỉ?” Dan nói với theo Amy. “Rufus và Remus là ai?” Amy hỏi. “Hai thanh gươm đó!” Dan đáp tên chúng theo tên hai người sáng lập ra nước Ý.” “Đó là Romulus và Remus,” Amy xì một tiếng. “Bọn họ sáng lập ra thành Rome. Và đừng bao giờ nói cái từ đó ra nhe ông!” “Rome á?” “Không phải - gờ-ư-ơ-mờ-ươm.” Amy hạ giọng thật thấp khi cả bọn đến được phía sau một hàng kiểm soát an ninh dài thượt. “Có muốn cả đám bị vào tờ-u-tu-huyền không hả?” “Ặc ặc.” “Ố - ố - ố - ồ...” Nellie lại rên rỉ sai bét nhịp theo một bản punk nào đó không thể hình dung ra. Hàng kiểm soát dường như kéo dài đến tận 32 giờ đồng hồ. Khoản tệ nhất với Amy, lúc nào cũng vậy, là phải cởi chiếc dây chuyền ngọc bích ra trước khi đi qua máy quét. Con bé không thích phải rời xa nó dù chỉ một phút. Khi đã xong xuôi, đồng hồ điểm 2 giờ 31 phút. Cả ba lao thật nhanh xuống hành lang dài hướng về phía cổng. “Đề nghị tất cả hành khách còn lại đi chuyến bay của hãng Hàng không Nhật Bản, số hiệu 807 tới Tokyo, đến cổng số 4,” Một giọng Anh đặc sệt phát ra từ hệ thống loa phóng thanh. “Vui lòng chuẩn bị sẵn vé trên tay, và... xin chàooooooo tạm biệt!” Cả ba dừng lại ở cuối một hàng, ngay sau một đứa nhóc đang khụt khịt. Nó quay lại và tương một cái hắt hơi thẳng vào Nellie. “Úi. Cẩn thận chút nào?” Cô nàng la lên và chùi cánh tay vào ống tay. “Có ai thấy vé máy bay của em đâu không?” Dan hỏi trong lúc lục tung túi của nó. “Xài của chị đây nèee,” Nellie lè nhè. “Đầy gỉ mũi.” “Thử kiếm trong cuốn sách xem,” Amy vừa nói vừa chỉ vào quyển sách bìa cứng thò ra khỏi túi quần sau của Dan. Nó rút ra quyển Những phim hài kinh điển mọi thời đại có một trang gấp lại làm dấu. Nó đã thó được quyển này ở ghế sau chiếc taxi trên đường đến sân bay. Vé máy bay đánh dấu trang số 93. “Đó là một thế giới điên, điên, điên, điên khùng[3],” Dan nói. [3] Tên bộ phim hài kinh điển của Mỹ năm 1963 của đạo diễn Stanley Kramer. “Quan sát thông minh nhất trong ngày của em đó,” Amy chọc nó. “Đó là tên một bộ phim,” Dan trả lời. “Em đang đọc. Cốt truyện quá hay...” “Xin mời bước lên - xin chào quý khách!” Cô tiếp viên tóc vàng hoạt bát với chiếc tai nghe của hãng Hàng không Nhật Bản cứ đong đưa mỗi khi cúi đầu chào khách. Cô đang đeo thẻ tên với dòng chữ I. RINALDI. Nellie đưa vé cho cô tiếp viên và đi vào đường hầm uốn lượn dẫn tới khoang máy bay. “Hai đứa, không quá khó đâu,” Cô nàng gọi với ra bên ngoài nơi chị em nó đang đứng. Dan chìa vé máy bay cho cô tiếp viên. “Đó là một bộ phim rất hài. Với đủ các diễn viên hài ngày xưa, đi tìm kho báu...” “Xin lỗi chị, thằng bé có vấn đề,” Amy nói với cô tiếp viên, tay chìa vé máy bay và thúc cậu nhóc tiến về phía đường hầm. Thế nhưng Rinaldi bỗng đi thẳng ra trước hai đứa và chặn đường chúng lại. “Un momento[4]?” Cô nói, miệng cố nặn một nụ cười thân thiện kiểu hàng không trong khi tai đang lắng nghe trao đổi từ bộ đàm. “Sì ... ah, sì sì sì sì... buono[5],” Cô nói vào ống nghe máy bộ đàm. [4] “Chờ một chút”, tiếng Ý. [5] “Vâng, à... vâng, tốt”, tiếng Ý. Đoạn, nhún vai với Dan và Amy, cô tiếp viên nói, “Hai em vui lòng đi theo tôi?” Khi cả hai đi theo cô về một góc, Amy cố sức trấn tĩnh không để mình run. Hai thanh gươm. Người ta đã tìm ra hai thanh gươm rồi. Dan giương cặp mắt ngây thơ vô số tội nhìn chị nó. Đôi khi chỉ cần nhìn vào Dan là Amy biết đích xác cậu nhóc đang nghĩ gì trong đầu. Có lẽ chúng ta nên chạy, mắt nó đang nói. Ừ, nhưng chạy đi đâu? Amy trả lời trong yên lặng. Em sẽ dùng chiêu điều khiển ý nghĩ của ninja để biến mình thành vô hình, nó đang nghĩ. Muốn làm vậy cũng cần PHẢI CÓ cái đầu, Amy trừng mắt nhìn thằng em. Nellie thò đầu ra khỏi cửa đường hầm. “Có chuyện gì vậy?” Cô nàng thắc mắc. “Là thủ tục thôi,” Rinaldi nói vọng ra, rồi xoay người về phía Dan và Amy. “Cấp trên của tôi nói đây chỉ là kiểm soát ngẫu nhiên. Hai em vui lòng chờ chỗ bức tường này nhé?” Cô vội vã chạy đi, tay cầm cặp vé máy bay, và biến mất sau một góc nhà. Từ phía trong đường hầm, một tiếp viên khác gọi Nellie, “Xin vui lòng về chỗ. Xin quý khách đừng lo, máy bay sẽ không cất cánh nếu vẫn chưa đủ hành khách.” “Mình ghét sân bay.” Nellie nháy mắt và quay trở lại đường ra máy bay. “Gặp hai đứa sau nha. Chị sẽ chừa lại một bịch đậu phộng.” Khi Nellie đi rồi, Amy rít lên với nhóc Dan, “Biết ngay mà - bọn họ đã kiểm tra túi của em. Họ sẽ quản thúc hai đứa mình, rồi thì liên lạc với bà Beatrice, và đây sẽ là lần cuối cùng chúng ta còn gặp Nellie...” “Chị bớt u ám đi có được không?” Dan cự lại. “Chúng ta sẽ nói là ai đócho thanh gươ... - là cái mà ai cũng biết là gì đó - vào túi. Chúng ta chưa thấy nó lần nào hết. Chúng ta là con nít. Người ta tin con nít. Hơn nữa, có khi bọn họ vẫn chưa kiểm tra hành lý của chúng ta. Biết đâu chỉ là kiểm tra hộ chiếu thêm một lần nữa để vẫn có thể cho ai đó xấu ơi là xấu được phép lên máy bay...” Amy huých khuỷu tay vào sườn nó. “Thông báo hành khách lên máy bay chuyến 807 đi Tokyo, cổng số 4, lần cuối cùng!” Giọng nói lại vang lên. Một tiếp viên khác đang đặt một dải ruy băng ngăn cách phía trước đường hầm dẫn vào máy bay. Giờ thì Amy thấy căng thẳng. Máy bay không thể trì hoãn chuyến bay mãi được. “Chúng ta phải gặp chị tiếp viên đó - chị Rinaldi,” Nó giục. “Đi nào!” Amy chụp tay Dan và cả hai chạy hộc tốc đến góc nhà lúc nãy. Vút! Hai đứa chạm trán một cặp khác cũng đang chạy nhanh về phía cổng. Amy nhảy né sang một bên, trong phút chốc làn gió tạt vào người con bé. Nó va phải Dan làm thằng nhóc suýt nữa té hẳn xuống sàn nhà. “Cái quái...?” Dan kêu lên. Hai kẻ lạ mặt đang quấn trong hai chiếc áo măng tô dài chấm đất, cổ áo cao che lấp khuôn mặt. Một trong hai đứa mang giày tây đen loại đắt tiền, đứa còn lại mang giày thể thao nạm đá quý. Khi cả hai lao qua Dan và Amy, tay chúng huơ hai tấm vé trong không trung, một đứa kêu to, “Tránh ra nào!” Amy nhận ra giọng nói đó. Nó chụp lấy Dan và quay ngoắt lại. Hai kẻ lạ mặt đang nắm dải phân cách, kéo nó sang một bên. “Chờ đã!” Amy la lên. Một nhân viên hàng không cũng thét lên, chạy thật nhanh đến ngăn chúng lại. Hai kẻ lạ mặt dừng lại một cách lịch sự và chìa vé cho người nhân viên. Sau khi nhanh chóng soát vé, ông ta gật đầu và chặn dải phân cách trở lại. “Chúc Amy và Dan thượng lộ bình an,” Ông nói. Hai hành khách bước vào cổng đường hầm và ngay tức khắc ngoảnh mặt lại. Chúng bẻ cổ áo xuống và cười toe toé Amy há hốc miệng khi thấy đó không phải ai khác mà chính là bọn họ hàng của mình, hai đối thủ trong cuộc tìm kiếm 39 manh mối, một cặp đôi mà sự bẩn thỉu của chúng chỉ đứng sau sự giàu sang và láu cá. “Sayonara[6], lũ ngốc!” Ian và Natalie Kabra đồng thanh hát. [6] “Tạm biệt”, tiếng Nhật. CHƯƠNG 2 “CHẶN CHÚNG LẠI!” DAN, Amy lao thẳng về phía đường hầm và hét to hết mức có thể. Ngay lập tức, nhân viên của chuyến bay chặn chúng lại. “Xin cho xem vé, per favore[1]?” Ông yêu cầu, khuôn mặt vừa ngạc nhiên vừa bực tức. [1] “Vui lòng”, tiếng Ý. Amy vô vọng đứng nhìn Ian và Natalie mất hút trong đường hầm dài nhằng. Cả hai nghe thấy tiếng khoang máy bay đóng lại, một tiếng ập vô tri vô giác phát ra. “Bọn chúng... bọn chúng là bọn Kabra!” Dan phân trần. “Bọn Kabra độc ác. Famoso, evillo, Kabritos[2]! Bọn chúng đang bắt cóc au pair của hai đứa con làm con tin!” [2] Tiếng Ý của Dan, tạm dịch: “Nổi tiếng, độc ác, bọn Kabra chúng nó.” Khi đám đông tò mò tập trung đông hơn, người nhân viên lặp lại, “Không có vé sao?” Ông ta nhìn thẳng vào Amy. Dan nhìn sang chị, cặp mắt nó như thét lên trong câm lặng, Chị là đứa lớn hơn - làm gì đó đi chớ! Những ý nghĩ cứ công kích liên tục vào não của Amy tựa như một show diễn đèn laser bị đứt quãng. Làm sao bọn Kabra lại có mặt ở đây? Nó và Dan đã bỏ mặc hai đứa nằm bất tỉnh trong căn phòng âm ỉ cháy ở tận Venice cơ mà. Ai đã giúp chúng? Làm sao bọn chúng bình phục nhanh như vậy? Làm sao bọn chúng cuỗm được vé máy bay của chúng ta? Mọi người đổ dồn ánh nhìn về phía Amy. Cả sân bay. Nó ghét người khác nhìn chằm chặp vào mình. Nó còn ghét hơn nữa khi chuyện bẽ mặt này là do bọn nhà Kabra gây ra. Lúc nào hai đứa kia cũng đi trước chị em nó một bước, luôn gần hơn với đầu mối dẫn đến bí mật của gia đình Cahill. Dù cho Dan và Amy có cố gắng đến đâu chăng nữa, bọn Kabra vẫn luôn thông minh hơn, nhanh nhẹn hơn, ngon lành hơn - và độc ác hơn. Hai anh em nhà Kabra đang đóng giả làm Dan và Amy. Chúng sắp sửa phục kích một au pair không có lấy manh giáp phòng thân. Làm sao Amy có thể nói bằng hết những điều này ra? Nó mở miệng, cố gắng, nhưng không thành. Có quá nhiều cặp mắt. Con bé cảm tưởng như có ai đó đã cột béng hết dây thanh quản của mình lại. Không một tiếng nói nào phát ra được. “Thôi được, cám ơn Amy,” Dan nói. “À, chú nhìn đi - chú sĩ quan - hai đứa nó đó? Hai đứa nhà Kabra đó? Rõ ràng là một trai một gái đúng không? Hai đứa nó đã giả dạng tụi con, chú hiểu không? Comprendo[3]? Vé ghi Cahill nhưng chúng không phải là Cahill - tức là về lý thuyết thì đúng, nhưng bọn chúng thuộc về một chi khác trong gia đình, là Janus, à không... là Lucian, và hai đứa con cũng không biết mình là ai, tức là chi nào, nhưng tất cả đều là bà con với nhau - gì thì gì, tất cả đều liên quan vào một thứ, à tức là một kiểu đấu với nhau để thực hiện di chúc của bà ngoại tụi con để lại, có thể nói vậy cũng được, nhưng chuyện dài lắm và PHẢI NGĂN TỤI NÓ LẠI! PRONTO[4]!” [3] Ch hiểu không, tiếng Ý. [4] “Mau lên”, tiếng Ý. “Rất tiếc,” Viên sĩ quan đáp, “Nếu cả hai không có vé...” Amy nắm lấy tay Dan. Cứ thế này cũng chẳng đi tới đâu. Trước tiên cả hai phải tìm bằng được cô Rinaldi - hay cấp trên đã cho lệnh triệu tập cô này. Nhân vật đó phải có quyền hơn tất cả mọi người ở đây. Biết đâu vẫn còn một cơ may nào đó. Có thể cả hai sẽ ngăn được máy bay cất cánh. Thế là hai đứa lại chạy về góc nhà và lượn tiếp một vòng. Chúng lao thật nhanh đến chỗ cả hai đã chạm trán với bọn Kabra, và ngay lập tức có mặt ở hành lang trung tâm. Từ đằng xa có thể quan sát được một dãy cửa hàng. Phía bên phải là phòng thiết bị và một cánh cửa kính có hàng chữ KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO. Bên trái chúng là một tốp người hiếu kỳ đang vây quanh cửa ra vào phòng vệ sinh nữ. Ở đó có đội nhân viên y tế xuất hiện và khiêng ra một phụ nữ đang nằm trên băng ca. Cảnh sát từ mọi phía chạy đến hỗ trợ. Hỗn loạn. Hỗn loạn toàn tập. Amy thấy căng thẳng khi chứng kiến hàng đống người lúc nó băng qua, chỉ mong tìm thấy một khuôn mặt quen thuộc nào đó. Kia rồi. Hình ảnh một mái tóc vàng xõa ngang vai thoáng qua làm Amy quay sang bên phải. “Dan, nhìn kìa!” “Ồ, giờ thì chị có thể nói được rồi đó hả,” Dan mỉa mai. “Cái gì nào?” Đang băng xuyên qua đám đông là một phụ nữ dáng cao cao trong bộ đồng phục Hàng không Nhật Bản ngoại cỡ. Dáng người quen thuộc đến nổi đã mở toang khóa cho giọng nói to hết cỡ của Amy. “IRINA!” Cô bé thét lên. Không thể nào lẫn được, Irina Spasky - cái bộ dạng cứng còng từ hồi ở quân đội, cử động của hai vai nhô lên nhọn hoắt như dao mỗi khi ả bước đi. Irina là một thành viên khác của gia đình Cahill cũng đang trên đường tìm kiếm 39 manh mối. Cũng như hai đứa Ian và Natalie, ả rất độc ác. Song không như Ian và Natalie, ả từng được KGB huấn luyện làm gián điệp. Irina không quay lại. Ả không lộ ra bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy đã nghe được tiếng kêu của Amy, ngoại trừ việc sải chân nhanh hơn. Rồi ả biến mất hút vào đám đông như thể chưa từng hiện diện ở đó. “Ngăn bà ta lại!” Dan phóng nhanh về phía trước, suýt nữa tông vào một người đàn ông ngồi trên xe lăn với dáng vẻ khá ư ủ rũ. “Polizia[5]!” Ông ta thét lớn, giơ chiếc gậy lên như thể muốn tặng cho Dan một nhát vào đầu. [5] “Cảnh sát!”, tiếng Ý. Dan khom người xuống. Amy kéo nó đi, vẫn đang cố tìm cho ra Irina. Hai đứa trẻ lao mình về phía trước, huých khuỷu tay để lách qua đám đông hành khách. Khi đến một khu vực có ít người hơn ở gần cuối ga hành khách, chúng chẳng thấy Irina đâu. “Ả biến mất rồi,” Dan nói. “Chị... chị không tin,” Amy tức tối, thở hổn hển lấy hơi. “Ả đã bắt tay với anh em Ian và Natalie. Bọn họ cùng bắt tay phá hoại chúng ta.” “Chị chắc chắn là ả hả?” Dan hỏi. “Ý em là, làm sao mà Irina xoay xở được bộ đồng phục kia chớ?” Trước khi nó kịp hỏi xong, một giọng Ý phát ra từ loa khuyếch đại cầm tay, và đám đông nhanh chóng dạt ra. Một chiếc xe cứu thương cỡ nhỏ len lỏi vào sân bay, còi cứu thương rú inh ỏ Những tiếng rì rầm lan nhanh trong đám đông đang có mặt ở đó, phần lớn bằng các ngôn ngữ Amy không hiểu. Nhưng nó để ý thấy có một cặp đang mang kính râm, lỉnh cà lỉnh kỉnh máy ảnh, mặc áo thun Hawaii xấu tệ và những nụ cười nhạt toẹt. “Nhìn kìa Dan - họ là người Mỹ,” Con bé nói. “Hãy nghe xem...” Hai đứa lân la lại gần cho đến khi có thể nghe được loáng thoáng cuộc trò chuyện. Cả hai đang nói về người phụ nữ trên cáng. Dan ngớ người. “Cô ta bị ướp muối trong phòng vệ sinh nữ sao?” “Bị tấn công[6],” Amy sửa lại. “Chắc đó là người giám sát chuyến bay Dan à! Irina đã hạ gục và cướp đi bộ đồng phục của chị ấy.” [6] Dan nghe nhầm từ “assaulted” (bị tấn công) thành từ “salted” (bị ướp muối). “Ái chà,” Dan đáp, bộ dạng gần như ngưỡng mộ. Amy nhìn về phía cửa sổ, chỗ nó trông thấy chiếc phản lực chầm chậm rời khỏi cổng số 4 và di chuyển ra đường băng. Máy bay chuẩn bị khởi hành. Tách khỏi cầu dẫn, lăn bánh ra phi đạo. Amy thấy hoảng hốt. “Đừng có nhìn nữa, bọn họ đi mất rồi!” “Cửa đâu? Chúng ta vẫn chạy theo kịp mà!” “Đúng. Em làm đi, Dan. Trong lúc chị cố thuyết phục họ cho một chỗ trên chuyến kế tiếp - vé chỉ cho một người, thì người ta đang xúc chỗ còn lại của em ra khỏi động cơ máy bay đấy.” Amy lại chạy tiếp, trở ra chỗ bàn đặt vé. “Hoặc là em có thể đi với chị Bên ngoài, cửa sổ của chuyến 807 nhìn từ xa chỉ còn là những cái lỗ màu bạc thẫm. Amy biết chắc đằng sau một trong số những ô cửa đó là Nellie, trong tình thế mà chẳng một ai nên rơi vào. Cô nàng đơn độc cùng bọn Kabra. Dan theo Amy qua chỗ kiểm soát an ninh đông đúc trở lại quầy tiếp tân. Hàng người đứng chờ vé đã gấp đôi ít nhất tới ba lần, và cả hai phải chọn chỗ sau cùng. Hai đứa lẳng lặng nhìn nhau. Amy biết đích xác Dan đang nghĩ đúng cái ý nghĩ trong đầu mình. Dan thở dài, cặp mắt buồn bã của nó di chuyển chầm chậm đến băng chuyền hành lý. “Con Saladin cũng ở trên máy bay mất rồi,” Dan nói. “Và cả mấy thanh gươm của chúng ta nữa.” Amy cố giữ không để mình quỵ xuống và òa lên khóc. Ngay chính giữa ga hành khách. Mọi thứ đã hỏng bét. Một chuỗi bảy năm trời xúi quẩy, kể từ lúc cha mẹ bỏ mạng trong đám cháy. Tại sao nó và Dan phải thực hiện điều này một mình chứ? Bọn Kabra có tiền. Cha mẹ chúng thanh toán tất cả mọi chi phí. Chưa hết, chúng còn hợp tác với Irina. Bọn Holt là cả một đại gia đình. Jonah Wizard luôn có cha hắn tính toán hết đường đi nước bước. Chỉ có Amy và Dan chống lại... những gia đình đó. Những liên minh. Các thế hệ. Cả hai không có lấy nổi một cơ hội. Giá mà Grace cho chúng biết sớm hơn, lúc cha và mẹ còn sống. Giá mà bây giờ cha mẹ vẫn còn sống! Nghĩ đến hai người khiến Amy cảm thấy mọi chuyện còn tồi tệ hơn. Nó vẫn mơ về họ hằng đêm. Nó thường thấy khuôn mặt họ những lúc rảnh rỗi - đang mỉm cười, tự tin và đôn hậu biết bao. Nó có thể cảm nhận được họ đồng ý hay không, thấy cả niềm hãnh diện mỗi khi nó làm đúng một điều gì đó. Họ vẫn hiện diện trong tâm trí nó và bỗng nhiên -Boong! Biến mất. Nó lại cảm thấy sự mất mát dâng tràn. “Amy?” Dan nói với giọng dò hỏi. Và cha mẹ đây rồi - thêm một lần nữa - trong cặp mắt của Ngốc đại ca. Không phải khuôn mặt của hai người, đúng vậy, mà chính là hai người đang nhìn vào nó, như thể họ mượn hình hài của Dan trong thoáng chốc. Đó là điều mà không một người có đầu óc tỉnh táo nào nhận thấy được. Khi đó, nó biết chắc chắn đâu sẽ là quy định đúng đắn. “Có một chuyến bay khởi hành lúc 5 giờ 10 phút,” Amy lên tiếng, mắt nhìn lên màn hình thông báo giờ khởi hành. “Nellie đang ngàn cân treo sợi tóc. Chúng ta phải đi theo ngay.” “Này, tuyệt - khỏi trốn chạy, khỏi đầu hàng!” Dan kêu lên. “Rồi. Mà chị nghĩ tụi mình sẽ trả tiền vé bằng cách nào đây?” WAW! WAW! WAW! WAW! Hồi còi báo động làm rung chuyển cả ga hành khách, cắt ngang cuộc trao đổi. Một tràng thông báo, trước tiên bằng tiếng Ý, rồi tiếng Pháp, tiếng Đức vang rền, trong lúc từng toán người bắt đầu lao về phía cổng - cho đến khi: “Quý khách vui lòng di chuyển ngay đến cửa thoát hiểm gần nhất, ga hành khách buộc phải sơ tán vì lý do an toàn...” Một tiếng thét xé toang bầu không khí và rồi người ta ùn ùn chạy, xô đẩy ngã chồng lên nhau. Amy lao về phía cửa, lôi theo thằng em, lắng nghe những tiếng la hét đứt quãng đang cất lên xung quanh, thi thoảng có giọng nói tiếng Anh: “Đánh bom...” “Bọn khủng bố...” “Điện thoại nặc danh...” Mọi người nhào về phía cửa tìm cách thoát thân. Trời đã về chiều, nhưng những con đường ngoằn ngoèo dẫn vào ga đều có rải rác những ánh đèn chớp tắt của phương tiện giao thông đang lao đến. Hành khách túa ra lề đường, quát vào điện thoại di động, bay thẳng lên xe buýt hay những chiếc taxi. Dan và Amy phải xô đẩy qua hàng đống người để đến được bãi đậu xe, toán người cuối cùng vừa mới trèo vào một chiếc buýt. Cửa đóng sầm lại trước mắt chúng và chiếc xe lao ngay vào con đường chật cứng, đang ồn ào nhốn nháo. Dan chạy theo, đập tay vào cửa sổ. “Dừng lại! Pasta[7]!” “Pa là gì?” Amy hỏi giọng bối rối. “Em chỉ có một nhúm từ vựng thôi mà!” Dan hét. “Linguini[8]! Mangia[9]! Buon giorno[10]! Gucci[11]!” [7] Tên một loại mì ống nổi tiếng của Ý. [8] “Mì ống sợi dài”, tiếng Ý. [9] Tiếng Ý của Dan, mangiare nghĩa là ăn. [10] “Chào buổi sáng”, tiếng Ý. [11] Tiếng Ý của Dan, Gucci là tên một hiệu thời trang nổi tiếng. Một chiếc limo đen thắng két chỉ cách Amy có vài phân, suýt nữa tông vào nó. “Gucci. Em biết sẽ thành công mà,” Dan hí hửng. Cửa kính phản quang bên phía tài xế hạ xuống, một người đàn ông mang kính râm với bộ râu mép rậm rì ra hiệu cho chúng vào trong xe. Amy mở cửa sau và trèo vào trong, kéo theo cậu em. “Nè!” Một hành khách khác cũng đang trong cơn hoảng loạn thét lên, rút trong túi ra cọc tiền giấy và vẫy vẫy tiền với tài xế qua cửa sổ xe. “Soldi, soldi[12]!” Dan đóng sầm cửa lại. Thêm ba người khác nhào đến cạnh chiếc xe, đập tay và la hét. Bác tài xoay về phía bọn họ và cho quay kính lên, suýt nữa thì cắt béng cánh tay của người đàn ông đang cầm tiền. “Chú ơi, cám ơn chú nha,” Dan nói với bác tài. “Hay là gracias[13] hoặc là gì cũng được.” [12] “Ti [13] “Cám ơn”, tiếng Tây Ban Nha. “Chún ta đi đến sân bay kòn lại?” Ông ta hỏi lại bằng một giọng phương ngữ nặng trịch không phải giọng Ý. “Có cả một sân bay khác sao?” Dan hỏi ngay. “Máy bay nhỏ,” Ông ta trả lời. “Nhưng mà...” Amy lắp bắp. “Tụi con đâu có ti...” Dan chọc vào sườn Amy. “Chị phải nói cho ông ấy biết sự thật,” Amy rít khẽ. Dan chọc thêm một cái nữa. Amy trừng mắt. “Có thôi đi không...?” Đến khi đó nó mới phát hiện ra còn một người đàn ông nữa đang ngồi đằng sau xe. Một người châu Á với nụ cười điềm tĩnh, trong bộ vest lụa, găng tay trắng và chiếc mũ quả dưa. “Xin chào, hai người họ hàng ưa lảng tránh của ta,” Alistair khẽ nói. CHƯƠNG 3 CHA CỦA ALISTAIR VẪN LUÔN NÓI, ở mỗi thành viên gia đình Oh đều có một phần nào đó dành riêng cho sự ngạc nhiên. Không phải Alistair nhớ chính xác những gì cha đã nói, khi Alistair vẫn còn là một đứa trẻ thì thân phụ lão qua đời. Nhưng rõ ràng đặc điểm của gia đình Oh chính là pha vào chân lý một chút hóm hỉnh Trời ạ, sự yên ắng đầy thù nghịch của hai đứa trẻ nhà Cahill khiến Alistair bức bối. Ban đầu lão còn nghĩ hẳn chúng nó sẽ thích thú trước sự ngạc nhiên có một không hai này... Kéttttt... kéttttt... Trong khi Serge quành vô lăng hết sang trái rồi sang phải, ném chiếc xe vào những khoảng trống mà không phải kẻ bình thường nào cũng dám len vào, bọn trẻ cứ lắc lư hết bên này sang bên kia. Cả hai dường như ghê tởm khi phải chạm vào Alistair hay thậm chí là nhìn vào lão, tựa như thể lão là một cái thứ gì đó kinh khiếp lắm, món măng tây luộc chẳng hạn. Như thể Alistair chẳng có tẹo công sức nào khi lôi chúng ra khỏi cái đám hỗn loạn và mang cả hai trở lại con đường đã chọn. Lão cố nở một nụ cười trấn an. Lão cảm thông với chúng. Hai đứa trẻ trông thật nhỏ bé, thật sợ sệt và cô độc. Lão hiểu cảm giác này. Hiểu hơn cả chúng. “Đón thử xem?” Serge hét to át cả tiếng còi rúc vang rền. “Toi kũng kó kon - kon gái mười bốn, kon trai mười mọt! Phải! Đún thế. Chúng xống ở Moscow[1]!” [1] Nhân vật này nói tiếng Anh giọng Nga. Moscow là thủ đô nước Nga. Alistair đưa mắt nhìn Dan, trông nó khá ốm yếu. Thằng bé cố gắng nắm tay nắm cửa có đến chục lần chỉ trong vỏn vẹn hai phút vừa rồi. May mắn là Alistair đã kiểm tra bảo đảm toàn bộ khóa an toàn đều được kích hoạt. “Con đừng lo lắng,” Lão nói với Dan. “Làm vậy chỉ khiến sau này con bị bệnh khớp cổ tay thôi. Hơn nữa, làm thế khiến cho ta thấy lo lắng về sự an toàn của con đấy.” “Vậy ra chính ông chủ mưu tất cả chuyện này, hử?” Dan hỏi. “Với bọn Kabra và Irina. Và cả vụ đánh bom dọa nạt. Chính ông đang làm việc cho bọn họ.” Mặt Alistair nhăn nhó. Lão biết rất khó để giành được sự tin tưởng của chúng. Dự kiến sẽ có cả những lời vu khống vô căn cứ. Lão biết sẽ có sự căm ghét, và như vậy cũng là dễ hiểu. Bỏ rơi cả hai trong căn nhà bốc cháy trong ngày đọc di chúc là một sự cần thiết đáng tiếc - nhưng lại là một sai lầm về mặt chiến lược lẫn về tính chất cá nhân. Một sai lầm mà lão rất lấy làm ân hận. “Tin ta đi cháu trai, ta thậm chí còn không có mảy may ý định...” “Tin ông ư?” Dan hỏi lại, quay hẳn ra đằng sau mặt đối mặt với Alistair. “Xem thử coi. Chính ông là người bỏ rơi chị em tụi này ngay lúc trang viên của bà Grace sụp xuống xung quanh cả hai. Chính ông là người đặt thiết bị theo dõi vào con Saladin...” “Thiết bị theo dõi à? Cái này phải không?” Alistair cho tay vào túi áo và lấy ra một thiết bị điện tử có kích thước bằng cục pin đồng hồ. “Ta lại cho rằng chính hai đứa đã cài nó vào ta đó chứ. Lúc ở bảo tàng Salzburg, khi ta đang ngủ.” “Ông x-ứng đáng như vậy, chú Alistair ạ,” Amy nói, giọng bực bội, “Sau khi đã giấu nó trong cổ con Saladin ngay t-t-từ đầu.” “Cũng không phải, con gái à,” Alistair đáp lại Amy bằng một nụ cười ấm áp, với hy vọng làm cho cô bé bình tĩnh trở lại. “Có ai đó đang theo dõi hai con. Không phải là ta. Hãy nhớ, nhiều kẻ khác trong dòng họ cũng đang theo dấu các đầu mối. Ta ở phe hai con. Ta, như con biết rồi đó, tin tưởng vào sự hợp tác.” “Chà, nghe khôi hài làm sao,” Dan quạt lại. “Đi mà kể lể trên Comedy Central[2] ấy!” [2] Kênh truyền hình cáp nổi tiếng về những chương trình hài kịch, xuất hiện dưới nhiều phiên bản bản địa trên thế giới. Bình tĩnh hơn bao giờ hết, Alistair khoanh bàn tay đeo găng trên đùi. “Hãy nghĩ xem hôm nay chính xác thì ai đã cứu hai đứa,” Lão nói. “Và chỉ trong một thời gian ngắn, ai là người đã không những tìm được hai đứa mà còn đưa ra cách để trốn thoát nữa. Hãy xem đó là một phần thưởng bổ sung, ta còn sắp mang hai đứa đến nơi muốn đến. Bằng máy bay riêng. Tất cả chuyện này, và ta chỉ muốn hai đứa đáp lại bằng một thứ duy nhất - địa điểm hai đứa đang muốn đến. Trong mọi tình huống, đó cũng là một điều tất yếu.” “Ông có hẳn m-máy bay riêng s Alistair mỉm cười khiêm tốn. “Không, không phải của ta. Nhưng ta có các mối quan hệ làm ăn của mình, vài đặc quyền ta có thể có được vào những lúc khẩn cấp. Vẫn còn đôi chút lợi thế về tiền bạc của một nhà phát minh món burrito có thể chế biến bằng lò vi sóng đó chứ.” “Chún ta bỏ chún trên mái bai!” Serge nói. “Pò, gzà, phô mai...” Ông bạn già Serge đáng yêu. Kinh nghiệm đã dạy cho cả hai biết thế nào là giá trị về phương châm hoạt động của công ty Oh: Con đường đến trái tim của một người chính là qua các món ăn chế biến được bằng lò vi sóng[3]. Amy nói. “Okay[4], một khi chúng ta lên chiếc máy bay này - nếu chúng cháu đồng ý - thì cái gì sẽ bảo đảm hai đứa cháu sẽ có...” [3] Alistair nhại lại câu châm ngôn, con đường vào trái tim của người đàn ông là qua dạ dày. [4] Được rồi, thôi được. “Chị Amy!” Dan bật lên. “Không đời nào. Chị cả à nếu làm, chính chúng ta sẽ tự làm lấy.” Amy trừng mắt. “Vậy em nghĩ chúng ta sẽ bơi đến Nhật chắc? Hãy bỏ hai đứa con xuống một cửa hàng, chú Alistair ạ. Con cần mua chân vịt. Loại thật lớn? Có khả năng đuổi cá mập?” Dan rên rỉ. “Chị nói tới chữ N rồi đó, Amy! Chị đã nói cho ông ấy rồi còn đâu!” “Lựa chọn của chúng mình là gì hả Dan?” Amy hỏi nó. “Bọn họ đang có Nellie, con Saladin và tha...” Amy ngưng bặt, và Alistair liếc nhìn con bé với dáng vẻ đầy khích lệ. Sinh linh đáng thương đã có tiến bộ đáng kể với chứng mắc cỡ của mình. “Th gì hả con...?” Lão hỏi. “T-h-ành lý,” Nó đáp. Alistair gật đầu. Nhật Bản. Tuyệt. Vậy đây chính là nơi đầu mối tiếp theo được cất giữ. Một bước ngoặt gặt hái được nhiều thành quả. Lão nhoài người lên chỗ gã tài xế, “Chúng ta qua Nhật được không Serge?” Gã nhún vai. “Chà, chiến đi dày đó. Chún ta phải dừn giữa chừn để châm nhiêng liệu. Ở Moscow. Tui sẽ gọi. Khi dừn lại, anh sẽ gặp kon của tui - Kolya và Tinatchka!” “Serge, làm ơn đi,” Alistair nói. “Đây đâu phải chuyến đi xã giao.” Serge phì ra một tràng cười lấy hơi từ bụng. “Kolya và Tinatchkia kông phải kộng sảng đâu!” *** Dan trừng mắt nhìn chị nó. Thanh gươm, con bé suýt bật ra từ đó. Bọn họ đang có Nellie, con Saladin và thanh gươm của chúng ta. Ít nhất thì Amy cũng kịp ngăn mình lại. Cho cái lão lươn lẹo này biết đích đến là một chuyện. Cho biết luôn đầu mối lại là một chuyện khác đấy. Một số cái cần phải giữ bí mật. Thậm chí Ngố tẩu tẩu cũng biết điều đó. Nó nhận thấy cái nhìn ngay lúc này trong mắt của Amy. Còn hơn cả sự phẫn nộ nó vẫn thường bộc lộ, hơn cả những phiên bản trường kỳ của Đồ ngốc hay Không, chưa tới lúc ăn. Cái nhìn đó nói rằng, Nếu làm hỏng việc thì chết tươi dưới tay ta. Đó chính xác là điều mà Dan đang cảm thấy. Alistair lại cho tay vào túi và lấy ra hai thiết bị điện tử kích thước nhỏ, giơ ra cho Dan và Amy với vẻ tươi tắn đầy giả tạo, như một tay quản gia loạn trí giả vờ mình là ông già Noel. “Đây là thiết bị định vị tối tân. Ta vẫn chưa hình dung được cách mã hóa tín hiệu sang chuẩn 1028, nhưng phần mã hóa mặc định thấp hơn là đã ổn. Vấn đề là, khi có mặt ở Nhật, chúng ta không được lạc dấu nhau.” Serge giơ tấm thẻ căn cước cho tay bảo vệ ở cng. Chiếc limo đi vào con đường hẹp dẫn đến một sân bay bé xíu. Nó chạy qua nhiều chiếc máy bay cánh quạt cỡ nhỏ và cuối cùng dừng lại ở một khu bảo dưỡng trải dài, đang mở cửa. Serge nhanh chóng ra khỏi xe và mở cửa. Đang cơn phấn chấn, gã làm một điệu bộ trịnh trọng hướng về khu bảo dưỡng. “Hãy chào cục cưng Ludmila của ta đi nào.” “Thêm một đứa nhóc nữa ư?” Dan hỏi gã. “Ông có bao nhiêu đứa vậy?” Nó nhìn qua trái rồi qua phải. Nơi này vắng tanh ngoại trừ một vài chiếc phản lực và dăm ba phi công bặm trợn tóc tai bờm xờm, chẳng ai trông giống như có tên là Ludmila cả. “Ừ... chị cũng chẳng thấy cô nàng nào cả,” Amy nhỏ nhẹ nói. Nhưng Dan đã bị một luồng sáng bạc làm phân tâm. Một chiếc phản lực bóng loáng đến lố bịch xuất hiện ngay trong tầm nhìn. Nó có cửa sổ phản quang, nhìn nghiêng trông như một con dao, và một buồng lái mở như ra hiệu rằng Hãy có mặt trong chuyến đi ngon lành nhất của đời mình. “Đó,”Sergenói,trong lúcchiếcphản lựcdừng lại ngaytrướcmặt họ,“Đó làLudmila.” CHƯƠNG 4 CÁI TỪ ĐẶC BIỆT HẠNG THƯỜNG ghi trên vé máy bay làm Natalie liên tưởng đến hình ảnh những chiếc ghế da, xà ích mặc đồng phục và những chú ngựa tốt mã. Chứ đâu phải những chiếc ghế vừa cứng vừa nhỏ, cộng với một con heo. Không phải là quá quắt khi mô tả vẻ ngoài của cô nàng trông trẻ. Thật kinh khủng. Xem những chỗ xăm mình và xỏ khuyên kìa. Những thứ mà một ngày nào đó sẽ khiến cô nàng cảm thấy xấu hổ trước nghề nghiệp của mình - đó là nếu như cô nàng kiếm nổi một công việc thực sự. Lại còn thái độ khiếm nhã của cô nàng khi trông thấy Natalie và anh trai nó xuất hiện. Nó chẳng hy vọng có một lời chào nồng ấm lẫn những cái ôm thân thiện, tuy nhiên một tràng những ngôn ngữ hàng tôm hàng cá thì kể cũng hơi... khó chịu. Đó mới chỉ là nói giảm thôi đấy. Nhưng tất cả những mô tả trên kia lại là những gì có thể đoán trước được nơi Nellie. Và Natalie lẫn thằng anh Ian của nó có thể chấp nhận được sự thô lỗ chứ. Đôi chút hy sinh là cần thiết để có được thông tin mà chúng đang cần. Không, phần tệ hại nhất chính là sự luộm thuộm. Giấy gói kẹo, vụn khoai tây cứ văng tung tóe ra hai chiếc ghế bên cạnh, ba lô thì quẳng thẳng xuống sàn máy bay thay vì nẹp chặt vào ghế đằng trước. Cái thói quen xấu là tọng thẳng vào miệng một nắm bánh snack rồi vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói. Dễ sợ thật. Thói quen luộm thuộm tạo ra một tâm hồn luộm thuộm, theo một châm ngôn cổ của nhà Kabra. Hay có lẽ nó được trích từ quyểnNhững danh ngôn quen thuộc của Bartlett[1]. Natalie cũng không chắc. [1] Bộ sách tham khảo về danh ngôn được cho là đồ sộ và lâu đời nhất nước Mỹ, xuất bản lần đầu năm 1855, tác giả tuyển tập là Jon Barlett. Nó liếc ngang cô nàng trông trẻ đáng ghê tởm đang thao thao trong khi miệng nhồm nhoàm thức ăn. “Mìm mỏng thoi, hay đứ. Sẽ chả có tói đao đao!” Nellie vừa nói vừa phẹt nhiều miếng đậu phộng và bánh cớm ra khỏi mép. Thằng anh Ian của Natalie phẩy một vụn bánh rice krispie[2] khỏi mái tóc đen óng của nó. “Làm ơn nhai cho kỹ, nuốt đi rồi hẵng nói, được không?” [2] Một loại bánh thường dùng cho bữa sáng. Người ta thường trộn với sữa khi dùng chex, Rice Krispie. Nellie nuốt đánh ực một tiếng. “Xin lỗi, chị đây cóc thèm nghe hai đứa nói gì, tụi mày đừng mong thoát khỏi cám cảnh này nha.” “Vậy à?” Ian ngoảnh nhìn phía sau, ngước lên trên và nhìn xuống dưới chiếc phi cơ đông kín người. “Để coi thử xem có ai đang cảm thông với số phận của bà chị hay không? Không ư? Natalie nói sao nào - mình có thoát không em?” “Có thể chọn cách dễ dàng, bà chị biết mà, bằng cách trả lời một câu hỏi đơn giản...” Natalie thúc giục. Chúng đã hỏi Nellie cả chục bận rồi, vau mỗi lần hỏi, câu trả lời chỉ bỗ bã hơn thôi. Nhưng rồi trước sau gì thì ả cũng sẽ phải hiểu ra. Nếu ả biết cái gì tốt cho mình. Nhược bằng không, thì nhà Kabra cũng có phương cách khác. “Vậy đó. Một lần chót - vì sao các người đến Nhật?” Nellie giằng một quyển tạp chí ra khỏi chiếc túi đính ở băng ghế trước, quẳng bộ tai nghe và vài mẩu khăn giấy đã sử dụng về phía Ian, thằng này vội né cùng với tiếng kêu oái không giấu nổi sự kinh tởm. “Vì chị mày thích Sudoku.” Nellie đáp. “Người ta sẽ có những ô Sudoku hay ho nhất trên chuyến bay đến Nhật Bản, phải không? Bộ hai đứa chả biết cóc khô gì hết hay sao?” “Quý khách muốn dùng thêm trà, cà phê hay bánh snack để chúng tôi có thể phục vụ chuyến bay tốt nhất cho quý khách ạ?” Một tiếp viên hàng không xuất hiện, chầm chậm băng qua lối đi chính giữa. “Một diet Coca-Cola không đường và một trật tự nghiêm ngặt, được không ạ?” Nellie trả lời. “Bởi vì hai cô cậu này không được phép có mặt ở đây và bọn chúng đang sách nhiễu tôi, thưa cô.” Ian nổ ra một tràng cười sảng khoái. “Há há! Ồ, chị họ Nell, lúc nào chị cũng làm em cười vỡ bụng với những trò đùa của mình và cả những chuyện khác nữa... đúng không, hả, Amy?” “Phải rồi, anh Daniel,” Natalie hùa theo. “Hệt như lúc còn ở nhà. Ở... Homedale.” “Nghe thuyết phục đó,” Nellie bảo. “Có cảnh sát trên máy bay không vậy ta? Nếu không có thì tôi đây cũng muốn thực hiện một cuộc bắt giữ của thường dân. Chúng ta có được làm vậy ở Ý hay ở bất kỳ nơi nào khác không?” Mỉm cười một cách khó xử, cô tiếp viên đặt một lon diet Coca Cola không đường vào khay của Nellie. Khi cô đứng thẳng người lên, Natalie quay về phía người phụ nữ đang lúng túng đó và dùng ngón tay xoay một vòng trên tai nó diễn tả điệu bộ cuckoo nhẹ nhàng. Ngoài cửa sổ, chớp nhá lên. Máy bay thình lình chao đảo. “E hèm, có vẻ như chúng ta đang gặp phải chút rung lắc...” viên phi công thông báo qua hệ thống loa phát thanh. Cô tiếp viên đẩy xe trở lại đầu lối đi, lớn tiếng thông báo. “Xin quý khách vui lòng trở lại vị trí của mình. Ian than. “Mình... mình thấy không ổn lắm...” Khi nó cúi xuống, mặt tái xanh, thì đến lượt Nellie tỏ ra cảnh giác. Natalie mỉm cười. Nó và thằng anh Ian đã tính toán hết. Những dấu hiệu nhất định dành cho những sự kiện ngẫu nhiên nhất định. Nhà Kabra là bậc thầy hoạch định kia mà. Hành động của Ian chỉ có duy nhất một ý nghĩa, và Natalie biết ngay mình phải làm gì. Tuy nhiên, nó vẫn không khỏi cảm thông cho cô gái. Bên dưới vẻ ngoài đầy chất ngông nghênh của cô nàng vẫn còn chút gì đó của tinh thần, của sự gan dạ. Trong một tình huống khác, thời điểm khác, biết đâu cô nàng có thể là một người làm công giỏi giang cho nhà Kabra. “Ông con không có phát bệnh đó chứ?” Nellie hỏi. “Bởi chị mày đây ghét cái cảnh ói mửa lắm.” Cô nàng trờ người ra phía trước để luồn qua đống bề bộn trên sàn máy bay và tìm chiếc túi chống ói. Kia rồi. Trong lúc Nellie xoay đi chỗ khác, Natalie cho tay vào túi và rút ra một lọ chất lỏng sẫm màu. Với cử động khéo léo, nó nghiêng chiếc lọ vào lon soda của Nellie. Chỉ cần hai giọt là xong việc. Máy bay lại chồm lên, khiến Natalie hơi do dự và toàn bộ chỗ chất lỏng trong lọ trút thẳng vào trong lon Coca-cola. Úi chà. *** Tiếng bíp bíp của điện thoại đánh thức Dan sau một giấc ngủ thật sâu. Thứ đầu tiên nó nhìn thấy là tay của Amy, trắng bợt, đang nắm chặt tay vịn. “Chị không hiểu sao em có thể ngủ suốt ngay giữa lúc như vầy...” Nó rít qua kẽ răng. Chiếc phi cơ lại nghiêng sang trái, khiến Amy thét lên một tiếng. “Tuyệt!” Dan thốt lên. “Làm lại đi chú Serge!” Serge cười lớn. “Thch hả?” “Không!” Amy cự lại. Alistair đang dán tai vào điện thoại. “Đây là ai nhỉ?” Lão nói, ra dấu cho tất cả yên lặng. “Irina sao?” Amy rên rỉ. “Phải, bọn chúng đã trốn thoát,” Alistair nói lớn. “Bọn chúng ở cùng tôi, khá an toàn và có vẻ... cái gì? Cô nói Nhật sao?” Alistair cười hềnh hệch. “Người ơi, cô nghĩ là... cô thật sự tin là hai đứa Dan và Amy không để bọn Kabra đoạt lấy vé hay sao - tin là chúng nó không cố tình cho con bé trông trẻ lên máy bay để đánh lạc hướng hay sao... Ồ, cưng à. Ồ, như vậy thật giàu có... Không, không, Irina à... Cái gì? Cưng không muốn hợp tác nữa hay sao? Chắc cưng đã nghe nhầm rồi. Phải, CHẮC CHẮN BỌN CAHILL ĐANG ĐẾN NHẬT. ĐIỀU ĐÓ HOÀN TOÀN CHÍNH XÁC. Tạm biệt cưng nhé.” “Ừm... tất cả nãy giờ là cái gì vậy?” Dan hỏi. Alistair mỉm cười. “Ta khá rõ về Irina. Ngay lúc này, cô ta tin chính hai đứa đã lừa bọn Kabra, chứ không phải bị bọn Kabra lừa. Và tin ta đi, sau những gì ta vừa nói xong, Nhật Bản sẽ là nơi cuối cùng cô ta nghĩ đến...” “Khoan đã. Ông nghĩ ông đã thuyết phục được Irina sao?” Dan hỏi. “Cháu không có ý gì, nhưng câu này nghe hơi bị dỏm đó.” “Có thể ta đã thất bại đây đó trong đời mình, nhưng ta học về con người rất nhanh,” Alistair trả lời nó. “Ta biết đích xác những gì sẽ áp dụng được với Irina Spasky.” Amy xoay đầu nhìn Alistair, sắc mặt nó dần tái đi. Lão là một kẻ thông minh trong nhiều lĩnh vực, nhưng lại hơi lạc hậu. Và lão đã bỏ sót một điều hết sức hiển nhiên. “Xin đừng... quá đắc thắng...” Nó nói. *** Giọng của viên phi công, bằng tiếng Nga, yêu cầu bãi trống để hạ cánh và nhanh chóng nhận được tín hiệu hồi Nghiêng sang phải, chiếc phản lực hạ thấp dần xuống một sân bay nhỏ nằm ở ngoại ô Moscow. Giữa khung cảnh khô khan, nứt nẻ, đường băng hạ cánh trông như một dải màu xám ma quái. Ngón tay của vị hành khách cô độc ghì thật chặt vào thành ghế trong khi những bánh xe phản lực nện thẳng xuống nền đất. Các cú hạ cánh lúc nào cũng khó khăn hơn ả ta hình dung. Khi chiếc máy bay giảm tốc độ, tấp vào đường bê tông, vị khách nhìn thấy một chiếc Cessna[3] màu bạc bóng lưỡng đang được tiếp nhiên liệu. Một cỗ máy thật ấn tượng. [3] Một trong những loại máy bay thể thao 4 chỗ thông dụng nhất trên thế giới. “Dừng lại ở đây,” Irina ra lệnh. Giờ thì ả đã nhìn thấy ông già chống gậy bước đi. Như mọi khi, lão vẫn ăn mặc hết sức chỉn chu, phải lối. Chiếc mũ quả dưa và cặp kính râm tạo một cảm giác trang nhã hết mực. Irina ưa người theo phong cách cổ điển, chứ không phải kẻ nô lệ của thời trang. Bộ cánh hôm nay của lão trông có hơi chật, nhưng vào những lúc căng thẳng như thế này, ai mà chẳng tăng cân chút ít chứ? Một thoáng sau, hai con quỷ nhỏ xuất hiện, bó mình trong hai bộ mũ và áo khoác. Chúng được bao bọc như mọi khi - trước là bởi Grace Cahill, sau là bởi tay họ hàng. Vì sao lão ta lại bán linh hồn mình cho hai đứa ranh con này, Irina không sao hiểu được. Một ngày nào đó lão sẽ ngộ ra thôi. Bọn chúng sẽ phản bội ông, Alistair ạ, ả nghĩ, trừ phi ông phản bội chúng trước. Irina mỉm cười. Nghĩ về sự yếu đuối của con người lúc nào cũng khiến ả thấy hưng phấn, nhất là sau một chuyến hành trình dài. Nhớ hồi còn làm cho KGB, phản bội mang biết bao màu sắc khác nhau - tống tiền, nói dối, nghe lén, báo lá cải. Đội nhóm - há há! Nhóm chẳng làm được tích sự gì trong cuộc tìm kiếm 39 manh mối. Với bí mật sẽ được tiết lộ về quyền năng vô song này, sự ghen tị là không thể tránh khỏi và không liên minh nào có thể tồn tại được. Irina sẽ tự mình đi tìm đầu mối. Không cần đến những đứa nhóc giàu có biếng nhác, bọn độc tài gốc Mễ trên trời dưới đất, hay những đứa trẻ mồ côi khờ khạo. Với chúng - bọn nghiệp dư tài tử ấy, đây là một trò chơi còn quá bí ẩn. Với Irina thì không. Chiến lợi phẩm, ả quá biết, chỉ xứng đáng vào tay kẻ chịu nhiều mất mát nhất. Xứng đáng với con sói cô độc luôn tìm kiếm sự công bằng. Và sự phục thù. Bên kia đường băng, cả ba trèo vào chiếc phi cơ. Irina ngả người về phía trước, liếc nhìn điện thoại di động vẫn còn hiển thị tọa độ GPS[4] và người nhận cuộc gọi cuối cùng: OH ALISTAIR. “Ồ, ông Alistair, quả thật là như vậy,” Ả thì thầm. “Ông đang khiến cho cuộc tranh tài này trở nên quá dễ dàng với tôi rồi...” “Shto[5]?” Viên phi công của ả thắc mắc. [4] Viết tắt của The Global Positioning System - Hệ thống định vị toàn cầu. [5] Cái gì, tiếng Nga. “Alexander, hãy bám theo chúng.” Hắn kéo số và động cơ máy bay hoạt động trở lại. Phía trước, chiếc Cessna cũng vào vị trí cất cánh. Giờ thì ả sẽ biết liệu lão Alistair có nói thật về đích đến sau cùng hay không. Ả cười mãn nguyện. Chưa ai từng qua mặt được Irina Spasky này. CHƯƠNG 5 THẰNG EM CỦA AMY chẳng bao giờ cảm thấy thoải mái được với một nơi chốn mới cho đến khi nó phải làm một hành động kì quặc nào đó. Ở Tokyo, điều đó xảy ra vào buổi sáng đầu tiên khi tất cả đã đến nơi và trọ tại khách sạn Cám Ơn Quý Khách. “Dan, không được cứ thế mà lấy đi nha - như vậy là ăn cắp,” Amy cản nó lại khi thấy cu cậu loay hoay nhét cái gạt tà của khách sạn vào túi sau. “Người ta sẽ không biết là nó bị mất đâu!” Dan cãi lại. “Em cần cho nó vào bộ sưu tập.” Dan sưu tầm đủ mọi thứ. Miễn là thứ đó vừa vặn trong nhà và không bị dính vào sàn nhà, nó sẽ đưa vật đó vào bộ sưu tập. “Chị con nói đúng đó,” Alistair điềm đạm khuyên, chống tay trên chiếc gậy khi đang chuẩn bị bước ra ngoài cửa chính. Lão sực nức mùi phấn và nước cạo râu. Từ sân bay về đến đây, lão đã mua cho Dan và Amy vài bộ quần áo mới, còn bắt chúng phải tắm táp sạch sẽ rồi làm một giấc thật dài. Amy chưa hề chợp mắt dù chỉ một phần ngàn giây. Vì một lẽ, con bé thấy căng thẳng. Lẽ khác, Dan cứ khịt khịt trong giấc ngủ. Thằng bé thật tình đang rất nhớ con Saladin. Nhưng bấy nhiêu cũng không chữa hết cơn ám ảnh sưu tập của Dan. Amy chìa bàn tay ra. Chần chừ, rốt cuộc cu cậu cũng đành bỏ chiếc gạt tàn lên tay chị nó. “Okay, nhưng mà chị cho em giữ cái hộp diêm khách sạn Cám Ơn Quý Khách được không?” Nó mặc cả. Amy đặt chiếc gạt tàn lại trên bàn ở sảnh khách sạn, Dan nem nép bám theo sau nó. Hai đứa vẫn không thể phát âm được tên thật của khách sạn. Vì thế, chúng đặt tên khách sạn theo câu duy nhất mà tất cả nhân viên đều sử dụng. Nhặt lấy một hộp diêm ở bàn tiếp tân, Amy mỉm cười với viên thư ký. “Cám ơn quý khách!” Ông ta lên tiếng. Khi quay trở ra cửa, Dan nhìn Alistair lúc lão đang nhìn về hướng khác. “Hãy tẩu thoát nào,” Dan thì thào. “Chúng ta phải tìm cho ra đồng bọn. Nellie và con Saladin.” “Em có điên không?” Amy thì thầm đáp lại với nó. “Alistair đã trả chi phí cho chúng ta ở tại khách sạn này. Ông ta lại biết tiếng Nhật và sắp sửa dẫn chúng ta dạo phố.” “Chị thích ông ta rồi!” Dan kinh hoàng thốt lên. “Ông ta đã làm chị đổi ý mất rồi!” Amy quay ngoắt về phía nó. “Chị không ưa cũng không tin ông ta. Nhưng nếu không có ông ta thì chúng mì sẽ kẹt ở đây Dan à. Vì vậy ta phảigiả vờ, chí ít là tới lúc Nellie tìm ra hai đứa mình.” “Hay chúng mình tìm thấy chị ấy!” Dan lẩm bẩm khi nó và Amy đi tới chỗ Alistair ở cổng. Cả ba cùng đi trong tiết trời hanh khô nắng nhẹ. Phía trái, ngay trước một trung tâm mua sắm cao tầng hào nhoáng, những người vận trang phục các anh hùng trong truyện manga đang chào đón khách mua hàng. Mùi hương thoang thoảng của một loài hoa nào đó từ phía công viên bên kia con phố chật kín ô tô và xe máy lan tỏa trong không khí. Tokyo làm Amy nhớ tới New York, không có cảnh người ta la hét với nhau. Mắt Dan hướng lên trên, chăm chú nhìn một công trình bằng thép vươn thẳng lên bầu trời phía trên công viên. “Tuyệt, có ai đó đã đem tháp Eiffel qua đây và sơn nó thành màu đỏ với trắng kìa!” Alistair mỉm cười. “Tháp Tokyo cao hơn bà con của nó ở Paris, nhưng cũng nhẹ hơn, nhờ vào các cải tiến trong việc thi công bằng thép, ta có thể bổ sung thêm là những cải tiến do chính một kỹ sư người nhà Ekat thực hiện. Chị họ tăm tiếng của ta. Và con có thấy cái tòa tháp cao với những cạnh uốn cong kia không? Nó biểu trưng cho một loại hoa Nhật Bản vốn đầy ắp trong công viên Shiba. Là con đẻ của một kiến trúc sư nhà Janus...” “Gượm đã, công viên có hoa làm bằng thép sao?” Dan thắc mắc. “Chị biết có người có óc làm bằng thiếc đấy.” Amy châm chọc, rồi quay sang Alistair. “Sao ông lại biết nhiều về chi tộc của mình thế ạ?” “Một ngày nào đó ta sẽ cho con thấy bộ sưu tập của ta,” Alistair đáp. “Nhưng bây giờ hãy làm nhiệm vụ trước đã. Từ đây đến thư viện Metropolitan tốn mười phút đi taxi.” “Thư viện ư. Úi chà. Không thể chờ được sao,” Dan kêu lên, mó máy hộp diêm của nó một cách hờ hững. “Nè, em biết rồi. Hai người đi đi. Em sẽ tìm một ít sushi cá hồng rồi đón xe đi đến sân bay. Gặp sau nha.” “Điều gì làm cho con tin là Saladin có ở sân bay vậy?” Alistair hỏi nó, tiếp tục sải bước xuống phố. “Con hình dung chỉ hai tình huống xảy ra,” Dan nói. “Một - bọn Kabra đã tẩ Nellie và dẫn chị ấy đi quanh đây tìm kiếm hai đứa tụi con. Hay là hai - Nellie cố gắng khuất phục bọn chúng bằng những thế võ ninja hảo hạng mà chính chị ấy cũng không biết đã được Dan này dạy cho bằng thần giao cách cảm. Thật ra thì con vẫn cá là tình huống thứ nhất sẽ xảy ra. Cách nào đi chăng nữa thì con Saladin vẫn sẽ...” Mặt Dan sa sầm. “Con không thể - không thể không nghĩ về nó, nằm bất động trên băng chuyền hành lý, cô độc một mình, chiếc băng chuyền cứ quay vòng quanh, vòng quanh...” “Ta biết con thương con vật của mình,” Alistair an ủi. “Nhưng con cũng phải nghĩ đến sự an toàn của con trước nhất. Bọn Kabra sẽ chờ cả hai đến Nhật Bản. Thậm chí có thể bọn chúng còn chờ sẵn tụi con đến sân bay để tìm kiếm con mèo và cô bảo mẫu thân thương...” “Au pair mới đúng,” Dan chỉnh lại. “Con không thể đi thẳng vào một cái bẫy được,” Alistair nói tiếp. Không biết được hiện Nellie và con Saladin ở đâu cũng khiến Amy lo đến phát ốm. Nó đã cố liên lạc với Nellie bằng điện thoại từ lúc đến đây. Con bé cũng không thích phải nói Dan đừng đi tìm cả hai. Nhưng lời khuyên của Alistair có lý. “Quá rõ bọn Ian và Natalie rồi,” Amy nói và theo chân Alistair vào nơi chờ taxi, “Bọn chúng sẽ tìm chúng ta.” “Nhưng mà...” Dan vẫn phản đối. “Chúng ta phải tiến về phía trước,” Amy nói. “Nellie sẽ an toàn mà.” Dan thở dài thất vọng. “Cả con Saladin nữa chứ. Ý em là, một con mèo với mọi...” Cả ba thả bộ đến quảng trường, Dan tiếp tục đốt hết que diêm này đến que diêm khác, rồi thổi tắt. “Em dừng việc đó lại được chưa?” Amy hỏi. “Tại sao chớ?” Dan nói, lại quẹt thêm một que khác. “Vui mà. Nó làm đầu óc em khỏi nghĩ tới sự thể là chúng ta đang bỏ rơi hai người mà chúng ta hết lòng yêu quý, thêm nữa là ta đang ở xứ sở của ninja, quái vật Mothra[1] và các món võ rất ngon lành, vậy mà chúng ta lại bỏ phí một ngày trong thư viện.” [1] Mothra, một quái vật giả tưởng dưới dạng sâu bướm, xuất hiện phổ biến từ những năm 60 tại các tiểu thuyết Nhật Bản sau đó lan ra các nước trên thế giới và đã đi vào phim ảnh. Khi đến gần chiếc taxi đang chờ khách, Alistair nói gì đó với tay tài xế bằng một tràng tiếng Nhật nhanh nhẩu, nghe thật trôi chảy rồi ra hiệu cho Dan và Amy lên xe. Xe tăng tốc vượt qua hàng đống xe cộ, băng qua hàng dãy các tòa nhà bằng thép hiện đại và thi thoảng là một ngôi chùa cổ kính có kiến trúc lộng lẫy nằm lọt thỏm giữa những khu vườn. “Sao chúng ta không vào ở trong mấy túp lều kia nhỉ?” Dan hỏi. “Đó là những ngôi đền cổ,” Alistair đáp. “Hai đứa sẽ còn thấy nhiều hơn nữa khi gần đến nơi. Lãnh chúa quân sự - vị shogun[2] - đã ra lệnh toàn bộ đền đài phải được di dời đến đây. Vào thời bấy giờ, khu vực Roppongi hãy còn là một tiền đồn hoang vu của kinh đô nước Nhật, khi đó có tên là Edo. Một phần của khu vực này trước kia là vùng đất săn bắn cho các shogun.” [2] Shogun: tướng quân (Nhật Bản). “Quá hay,” Amy reo lên. Con bé luôn thích thú khi được biết về nguồn gốc của những thành phố. Dan gật gù, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ với bộ mặt cù lần. “Em nghĩ mình vừa trông thấy một minh tinh.” Điện thoại của Alistair vang lên. “Alô...? Phải... ah, giỏi lắm, Serge. Bà ta cái gì? À, hiểu mà - ha! Tốt lắm. Và cám ơn ông bạn rất nhiều. Da. Do svidanya[3]!” [3] “Xin chào và hẹn gặp lại”, tiếng Nga. Lão cất điện thoại đi và quay sang hai đứa nhóc. “Serge đã đến Siberia an toàn với hai đứa con của ông ấy. Irina hoàn toàn tin vào trò ngụy trang của ta. Ả nghĩ họ chính là ba chúng ta. Đến khi nhận ra mình đã bị lừa thì ả bắt đầu chửi rủa bằng những từ ngữ mà đến Serge nhà mình cũng phải xấu hổ.” “Đúng vậy!” Dan reo hò, đập tay mừng chiến thắng với chị mình và ông chú họ. “Ta phải cám ơn con, Amy ạ.” Alistair nói, vẻ hồ hởi. “Ta thật ngu ngốc mới không nhận ra Irina có thể theo dấu chúng ta bằng GPS trên di động.” “Con cũng nghĩ đến điều đó, ngay tức thì,” Dan ra chiều khiêm tốn. “Chỉ là con mắc cỡ không nói thôi.” Amy tròn xoe mắt. “Vậy chị thành Nữ hoàng nước Anh rồi.” “Thật tình là nhìn chị cũng chán ngắt và nhăn nheo đó chớ,” Dan chọc chị nó. Và nó né đi ngay trước khi Amy kịp nện cho nó một nhát. Chẳng bao lâu chiếc taxi đã dừng lại trước một tòa nhà khổng lồ, hiện đại, mang hình dáng chiếc hộp ở rìa một công viên um tùm. “Arisugawanomiya!” Tài xế xe thông báo. Dan hoảng hồn. “Em đã làm chuyện gì sai ư?” “Đó là tên công viên, và tòa nhà này là trụ sở chính thư viện Metropolitan Tokyo,” Alistair giải thích với nó khi thanh toán tiền cho tài xế và ra khỏi xe. “Chúng ta chỉ có chút ít thời gian trước khi Irina bắt kịp. Vì đã bỏ thiết bị GPS, chúng ta cũng cần ở gần nhau. Và hãy để điện thoại sang chế độ ‘rung’ lúc ở trong thư viện.” “Vậy thì làm sao mà em vui được chứ?” Dan lại làu nhàu. Ngay khi cả ba bước vào tòa nhà, một quản thư mảnh mai xuất hiện bên cạnh Alistair, cúi chào mọi người và trao đổi bằng thứ tiếng Nhật nhanh như tên bắn. Cô mỉm cười với Dan và Amy, rồi ra hiệu mời cả ba đi theo. “Ông quen cô ấy ư?” Dan thì thào lúc họ bước lên một cầu thang lớn bằng cẩm thạch. “Từ những ngày mà ông còn săn bắn kiểu shogun phải không?” “Không, cô ta chỉ lịch sự mà thôi,” Alistair trả lời nó, tật khập khiễng của lão thật khó có thể nhận ra khi lão bước đi. “Đó là sự tôn kính dành cho tuổi tác của ta. Mặc dù có lẽ cô Nakamura đây cũng còn nh những lần ta xuất hiện trên truyền hình mười năm về trước. Món burrito teriyaki ngon khủng hoảng của hãng khi đó quả là một hiện tượng.” Họ đi vào một gian phòng nhỏ riêng tư ấm cúng, đầy những kệ sách. Một bức tường có các cửa sổ nhìn ra phía đường. Ngay chính giữa là một dãy máy tính. “Xin quý khách cứ tự nhiên hỏi tôi nếu có vấn đề gì cần tìm hiểu,” Cô Nakamura nói tiếng Anh với giọng hơi nặng, cúi đầu chào Alistair rồi ra ngoài đóng cửa lại. “Ta nói với cô ấy chúng ta đến đây để tìm hiểu một trang web tương tác mới nói về dây chuyền nhồi bánh burrito,” Alistair nói, hai tay tì trên cây gậy và cúi người về phía Dan và Amy. “Nhưng câu hỏi ta dành cho hai đứa là: vì sao chúng ta thật sự có mặt ở nơi này?” Mắt Amy phóng sang Dan. Alistair đã hỏi câu này trước đây, và mỗi lần như thế chúng đều lảng đi. Lão thừa biết hai đứa đang giấu mình một điều gì đó. Vấn đề nằm ở hai thanh gươm. Alistair hoàn toàn không biết về sự hiện diện của chúng. Lão cũng chưa từng nhìn thấy bí mật được khắc vào một lưỡi gươm. Lão càng không biết đầu mối thứ hai là Wolfram. Thậm chí ông ấy còn rối hơn chúng ta nữa, Amy nhủ. Iron Solute và Wolfram chẳng phải là hai manh mối có ăn nhập gì với nhau. Cái đầu tiên là một thành phần của mực in, thứ hai lại là một hóa chất cháy được trong bóng đèn điện nóng sáng. Làm sao hai thứ đó có thể liên hệ được với nhau? Amy và Dan cũng cần biết thêm rất nhiều. Nhưng có một thứ thì đã khá rõ ràng. Theo một cách nào đó các thanh gươm chính là chìa khóa dẫn đến đầu mối tiếp theo. Có lẽ Alistair có thể giúp chúng tìm ra nó, Dan nghĩ. Nhưng rủi ro cũng rất cao. Biết đâu Alistair chỉ cần có chút thông tin là sẽ lỉnh đi, như lão từng làm lúc trước. Chớ có tin một ai - câu nói đó đã trở thành châm ngôn hành động của Dan và Amy. Mỗi khi quên, chúng sẽ phải hối tiếc. Và chúng cực kỳ cần hạn chế những hối tiếc. “Đó là... một mật mã,” Dan cố gắng ngẫu hứng bịa ra một lời nói dối vô hại. “Trong nhạc. Nhạc của Mozart. Đoạn mã ghi là, ừm, ‘Hãy đến Nhật.’ Trong nốt Rê? Tụi con chỉ biết tới chừng đó.” Alistair nhún vai, ngồi xuống bên một chiếc laptop. “Không có quá nhiều để bắt đầu, nhưng điều này cũng không khiến chúng ta chùn bước, phải không. Mỗi người chúng ta tìm kiếm thử một lúc rồi đối chiếu, nhé?” Amy và Dan bảo đảm mình đã ngồi đối diện với lão, để màn hình chúng đang sử dụng không bị Alistair nhìn thấy. Amy gõ vào thanh tìm kiếm. nhật bản gươm wolfram 87.722 kết quả “Sẽ là một ngày lao động mệt mỏi đây,” Amy lẩm nhẩm. Dan gõ. hình ảnh chiến binh ninja 1.694.117 kết quả Nó cười. Rốt cuộc cũng không đến nỗi quá tệ. Xăm mình và vẽ lên cơ thể chỉ có là thuộc về nô lệ và tù nhân của người Nhực Bản cổ đại. Một số hình vẽ chính là bản xao lịch sử của cát nghệ nhân xăm của chúng ta tất cả đều tốt nghiệp chong chường ở lịch sử. Dan kéo thanh trượt xuống. Các hình vẽ rõ ràng hơn bản dịch tiếng Anh. Một số hoa văn thật tuyệt vời, phủ hết toàn bộ tấm lưng của một người. Có hàng tá thứ - hình rồng, cảnh trí trong lịch sử, vùng nông thôn, những hình cuộn trang trí tinh xảo... Nó dừng lại. Có gì đó trong một tấm hình trông quen lắm. Kéo thanh trượt lên lại phía trên, nó đã tìm thấy và click chuột vào đó. Chầm chậm, phiên bản phóng to của bức hình đã mở rộng khắp màn hình. “Dan, em nghĩ em đang làm cái quái gì vậy?” Amy nhìn qua vai nó và thắc mắc. “Thấy cái này ngon lành chứ, không phải thế sao?” Dan hỏi lại. Amy chỉ vào màn hình laptop nó đang sử dụng, trên đó hiển thị bản đồ nước Nhật. “Chúng ta phải định vị được đầu mối của mình!” “Ừ, vậy em xin lỗi nha, hỡi nhà thám hiểm Dora[4] vĩ đại, hãy nhìn kỹ đi - thấy các ký tự trên đó chứ? Có phải chúng hệt như các ký tự trên thanh gươm hay không!” [4] Dora là nhân vật chính trong series phim hoạt hình nổi tiếng trên thế giới, một cô bé nhỏ tuổi tham gia các chuyến phiêu lưu cùng với tấm bản đồ để giúp đỡ mọi người. Ái chà. Tay Dan ngay tức khắc bụm miệng lại. Nó không có ý nói chữ G ươm. Mắt Amy trợn trừng lên. Dan, đồ ngu si đần độn! Đôi mắt ấy nói trong im lặng. Dan và Amy đều nhìn sang Alistair, lúc này vẫn đang chăm chú viết lại thứ gì đó lão nhìn thấy trên màn hình. Chầm chậm, lão ngẩng đầu lên. Mặt tái xanh, như thể bị bệnh. “Chú Alistair ơi...?” Dan hỏi. “Chú có làm sao không?” Trong chừng vài giây Alistair không trả lời nó. Lão tháo kính ra và dùng khăn mùi soa để lau. “Ổn. Nhìn màn hình quá lâu... khi lớn tuổi mọi thứ đều khó khăn hơn. Tha lỗi cho ta. Hai đứa, ừm, đã tìm thấy gì chưa?” “Rồi,” Dan nói. “Chưa,” Amy vội đáp. “Rồi và chưa,” Dan chỉnh lại câu trả lời. “Còn ông?” Alistair gật đầu vẻ lơ đãng. “Nào. Lại đây xem.” Hai đứa lao nhanh đến để nhìn vào màn hình của Alistair. Lão đang thu nhỏ trang webmail để hiện ra một trang web trên đó có bức hình chiến binh Nhật Bản với dáng vẻ vô cùng đáng sợ, tay cầm một đầu người đã bị cắt lìa. “Eo ôi...” Amy lẩm bẩm. “Nè chị, chỉ là tấm hình chừng mấy pixel thôi mà.” Dan nói, “Nhưng mà... úi c “Phải, đây là Chuột hói đầu[5],” Alistair ôn tồn nói, giọng vẫn xa xăm và lơ đãng. “Còn được biết đến với cái tên Toyotomi Hideyoshi.” [5] Biệt hiệu của Toyotomi Hideyoshi. “Hide-ai-đây ạ?” Dan hỏi lại. “Ông ta... ông ta là chiến binh vĩ đại nhất trong lịch sử Nhật Bản,” Alistair tiếp tục kể, “Nhưng hầu hết các di tích để lại đều thể hiện ông là một người dị tướng. Sống vào những năm 1500. Ban đầu là nông dân và sau đó trở thành một kẻ có quyền uy không sao tưởng tượng nổi, chinh phạt rất nhiều bộ tộc và vùng lãnh thổ, là người lần đầu tiên thống nhất toàn bộ nước Nhật thành một thế lực duy nhất.” Alistair ngưng lại, hạ giọng. “Và ông ấy cũng là một trong những tổ tiên Cahill của các con...” “Con nghĩ con đã nhìn ra sự tương đồng với Amy rồi,” Dan chọc chị nó. “Thực tế, đó là một người nhà Tomas. Dòng dõi của Thomas Cahill. Thomas đã đến vùng Viễn Đông vào thế kỷ 16 - có người nói để buôn bán, kẻ khác lại nói để che giấu nỗi ô nhục sau khi lạc mất dấu cô em gái bướng bỉnh. Dù gì đi nữa, ông ấy cũng đã định cư tại đây và gia đình của ông trở thành chi Tomas, nổi tiếng bởi sự thô lỗ lẫn cung cách chiến binh.” Dan nhìn kỹ hơn. “Nhà Holt - bọn họ chính là người nhà Tomas. Trông họ như những khúc cây và bộ não của loài khủng long. Còn gã này trông cứ như con chồn ấy nhỉ.” “Hideyoshi là người họ Tomas cũng có lý.” Amy nói. “Sức mạnh. Hãy nhìn cái bộ dạng kinh tởm mà ông ấy cầm cái đầu kia.” “Tiến hóa thật khó lường. Nó không ưu ái nhà Tomas.” Nét u ám trên mặt Alistair giãn ra chút ít, dần làm thành nụ cười nửa miệng. “Dĩ nhiên, ta cũng đang có đôi chút thành kiến với tư cách một người nhà Ekat. Dù gì thì ta cũng rất tin cuộc tìm kiếm nên bắt đầu từ Hideyoshi. Nhân vật này có rất nhiều bí mật. Có người còn cho rằng các bí mật đã làm hại ông ta.” “Bí mật là tên lót của chúng ta, ông à, Alistair hướng cái nhìn vào Dan, rồi đến Amy. Màu sắc rốt cuộc cũng từ từ trở lại trên khuôn mặt lão. “Ta định sẽ giữ thông tin này cho riêng mình. Sau những gì xảy ra ở Salzburg thì ta cũng không chắc có thể tin tưởng hai đứa được nữa hay không. Thực ra thì hôm nay ta đã định tìm kiếm toàn bộ những thứ liên quan đến Hideyoshi mà không cho hai đứa biết.” “Á à, té ra hai chúng ta cũng giống nhau sao,” Dan buột miệng. “Ba,” Amy chỉnh lại. Với một cái liếc nhanh đầy ngụ ý về phía Dan, nó nói thêm: “Chúng con cũng không nghĩ mình có thể tin ông nữa, chú Alistair ạ.” Alistair gật đầu. “Ta đã hết sức cố gắng để giành được niềm tin của cả hai thêm một lần nữa. Niềm tin là một thứ gì đó rất mong manh - khó tạo ra, mà lại dễ phá vỡ. Cũng không thể nào đổi chác được. Chỉ khi nó được cho không thì may ra mới có thể được nhận về.” Lão nhìn từ Amy sang Dan. “Để phá vỡ sự hồ nghi, ai đó phải thực hiện trước thôi. Ta rất vui sẽ là người thực hiện bước đi này. Cả hai xứng đáng với điều đó.” Bằng vẻ trang nghiêm, lão quay trở lại màn hình. “Hideyoshi là một kẻ hơi tâm thần luôn ưa thích cất giấu mọi thứ,” Alistair tiếp tục, tay kéo thanh trượt của trang web xuống đoạn viết về tiểu sử. “Chẳng hạn như ở cuộc săn gươm năm 1588, ông ta bắt tất cả nông dân và tá điền phải nộp hết gươm của họ cho mình. Ông ta nói muốn dùng gươm để nấu chảy và đúc một tượng Phật thật lớn. Nhưng đó là một lời nói dối.” “Vậy sự thực là...?” Amy hỏi. Alistair nhún vai. “Đó vẫn là một trong những bí ẩn lớn lao về ông. Ông ta thậm chí còn áp dụng nhiều biện pháp để ngăn nông dân và tá điền trở thành tầng lớp võ sĩ. Dường như ông ta sợ điều này xảy ra.” “Nhưng chính ông ta xuất thân từ tầng lớp dân nghèo mà,” Amy thắc mắc. “Amy-san à, chị phải tư duy như một võ sĩ chứ,” Dan nói. “Ông ấy sợ vì ông ấy đã xuất thân từ tầng lớp dân nghèo. Ông ấy nghĩ ai đó cũng sẽ làm y như vậy - và phết vào cái mông ninja của ông ấy thì o.” Alistair gật gù. “Có lẽ ông ta nghi ngờ sẽ có thêm con cháu Tomas - hay tệ hơn, con cháu Ekaterina - cũng đang sống trong các tỉnh lị thời bấy giờ. Hai nhánh Ekat và Tomas đã đối đầu nhau từ những ngày trước. Phải chăng ông ta muốn giấu đi các thanh gươm không cho nhà Ekat sở hữu để ngăn không cho họ chống lại mình? Chúng ta vẫn chưa rõ. Chỉ đến khi chúng ta phát hiện ra ông ta giấu các thanh gươm đó ở đâu thì mới biết được. Cái nơi đâu này sẽ dẫn đến chỗ tại làm sao.” Thêm một cái nhún vai, Alistair quay về phía hai đứa nhóc. “Rồi đó, ta đã kể hết cho hai con những gì ta biết.” Dan liếc sang chị mình. Bóng đã được đá sang phần sân của hai đứa. Ông ấy đã cho chúng ta biết bí mật của mình, mắt Amy đang nói với nó. Chúng ta mắc nợ ông ấy. Ông ấy cũng đang nhìn vào webmail của mình, Dan đáp lại bằng ý nghĩ. Ông ấy không cho chúng ta xem CÁI ĐÓ. Cái đó khác nha, Amy cãi lại. Chúng ta cần ông ấy. Ngoài tiền bạc và tiếng Nhật ra thì ông ta còn giúp ích gì nữa nào? Ngoài trên răng dưới dép thì em có gì hay nào? Dan trừng mắt nhìn Amy. Chị lớn, vậy CHỊ là người nói đi. Amy quay sang Alistair. “Tụi con nghĩ là... tụi con đã tìm thấy một vài thanh gươm,” Nó nói. “Ở Venice.” “Gươm của Hideyoshi - mà ở Ý sao?” Alistair kinh ngạc đến lặng người. Buông một tiếng thở dài, Dan lẩm bẩm. “Chúng ở trong nhà một tay người Ý, tên là Fidelio Racco.” “Racco...” Alistair nói. “Một Janus. Nhưng đầu mối lại chỉ đến một căn cứ Tomas. Ngạc nhiên nhỉ. Ngay tại Nhật, người ta vẫn đồn đãi về những chỗ cất gi bí mật của Hideyoshi, nhưng chúng đều được canh gác cẩn mật bởi hậu duệ của Hideyoshi - nhiều kẻ trong số đó là yakuza[6].” [6] Băng đảng xã hội đen Nhật Bản, nổi tiếng với cách xăm mình. Dan nở một nụ cười. Giờ thì ông ấy đã nói tới ninja. “Ái chà - bá cháy!” Dan thốt lên. “Em đã đấu với yakuza ở cấp Bốn trong trò... ưm, Ninja Garden, em nghĩ như vậy? Bọn này là những tên cướp điên khùng! Bọn chúng cắt tay của chúng ta ra và đem nhắm bữa trưa.” “Phải gặp bọn họ sớm thôi,” Amy nói. “Tụi con đã cố mang hai thanh gươm đến đây,” Dan nói tiếp. “Chúng nằm trong hành lý. Một thanh có một số dấu hiệu. Tụi con biết chúng quan trọng - có lẽ chúng cung cấp được thông tin về đầu mối kế tiếp.” Mắt Alistair mở to. “Có cách nào để lấy lại hai thanh gươm đó không?” “Có lẽ chúng ta cũng không cần lấy lại đâu.” Dan hất hàm về phía màn hình. “Các dấu hiệu đó có trong hoa văn của hình xăm này.” Dan chưa thấy Alistair di chuyển nhanh như thế lần nào. Lão chồm qua vai Dan và trỏ vào bức hình. “Con chắc những thứ này được in trên thanh gươm chứ?” “Chắc,” Dan nói. “À, không hẳn. Còn các dấu hiệu khác nữa. Ở trên đây không có.” Amy lắc đầu. “Làm sao em chắc chắn vậy? Em có biết tí tiếng Nhật nào đâu.” “Ừm, đúng đó,” Dan bực dọc. “Và em cũng không đọc trôi được lấy một nốt nhạc. Nhưng mà xem nào, ai là người đã nhớ toàn bộ bản nhạc của Mozart và tìm ra đầu mối vừa rồi nhỉ? Chờ đã, khoan, khoan, để em nhớ thử coi. À. Nhớ rồi - là em!” “Da con có chắc rằng các dấu hiệu còn thiếu không?” Alistair hỏi. “Bởi vì thông điệp, tự nó thường khá là vô thưởng vô phạt - một câu thần chú về may mắn, danh dự, chiến thắng và đại loại như vậy.” “Hoàn toàn chắc. Ở đầu mỗi hàng, có một ký tự rất kỳ quặc. Như của một thứ ngôn ngữ nào đó. Bác biết đó, chắc là tiếng Phạng.” “Tiếng Phạn, đúng là đồ não bị xăm,” Amy sửa lưng Dan, trong lúc vẫn ngồi trước laptop. “Em chẳng nhớ được thứ gì cho ra hồn cả.” Rồi nó quay sang Alistair, lúc này lão đang gõ thật mạnh trên bàn phím của mình. “Bác biết gì về mấy gã yakuza đó vậy, hở chú Alistair?” Nó nghĩ mình vừa nhác thấy Alistair rùng mình. “Bọn chúng rất bẩn tính và nguy hiểm,” Lão khẽ nói. “Tin ta đi, chúng ta không nên dây với chúng đâu.” “Ông có chỗ quen biết nào với chúng không?” Dan hỏi. “Chúng biết và xem thường ta,” Alistair đáp. “Ta là một người Ekat. Thành viên nhà Tomas và Ekat có cừu hận suốt nhiều thế kỷ nay. Đã từ lâu bọn yakuza bị nghi ngờ đang cất tấm bản đồ dẫn đến một hầm mộ bí ẩn nằm dưới mặt đất. Và nếu ta buộc phải hiểu thông điệp vừa nãy, thì tức là chúng ta có thể vừa tìm thấy một bản sao của tấm bản đồ đó.” Ông ấn nút IN. Từ máy in của thư viện, một tấm bản đồ tiến dần ra khay giấy. Một hình ảnh từ xa xưa thể hiện mạng lưới chằng chịt các đường hầm. “Tuyệt!” Dan reo lên. “Ông biết hết tất cả những thứ này ư?” Amy ngạc nhiên. Alistair lắc đầu. Một lần nữa, mặt lão tái nhợt và nặng trĩu. “Đã từ lâu ta tìm kiếm một số tài liệu... của nhà Ekat bị đánh cắp nhưng không liên quan đến nó. Một đồng nghiệp của ta đã tìm được một ngôi mộ bí mật. Ta nhận tin của ông ấy trên mail khi còn ở Salzburg, với một số tài liệu đính kèm - trong đó có tấm bản đồ này. Ông cho chúng xem tờ giấy vừa in, phía trên có dòng tiêu đề GIÁ TRỊ CHƯA XÁC ĐỊNH. “Khoan đã - tài liệu Ekat? Đồng nghiệp? Ông còn giấu gì chưa cho hai đứa con biết nữa? Làm sao ông có thể...?” Amy đang nói bỗng nghẹn lại. Con trỏ trên màn hình của Dan đang di chuyển từ chính giữa màn hình sang góc trái. “Dan?” Amy hỏi. “Dừng lại ngay, được không?” “Dừng cái gì?” Dan hỏi. “Ai cũng biết thư viện làm em chán, nhưng em không thể nghiêm túc một việc gì được hay sao?” Amy trả lời nó. “Đang làm trò khỉ gì phải không? Em có gì trong túi quần và nó đang gửi tín hiệu tới màn hình máy tính kìa. Nếu không thì, tại sao mũi tên trên màn hình lại di chuyển?” Giờ mũi tên đã đến nút BACK[7], lật nhanh qua các trang mà Dan đã xem - hình xăm, thông tin về Hideyoshi và cuộc săn gươm, trang facebook của ba đứa con gái học lớp 6... “Ê!” Dan la lên. “Đó là keylogger[8].” Alistair nhanh chóng giật lấy chiếc laptop. “Đã có ai đó đột nhập từ xa vào máy tính và đang xem hết tất cả những gì Dan vừa xem hôm nay.” [7] QUAY LẠI. [8] Keylogger là một chương trình theo dõi thao tác bàn phím, nó có thể ghi lại mọi thao tác thực hiện trên bàn phím vào một tập tin nhật ký (log) để cho người cài đặt nó sử dụng. Thậm chí, keylogger còn có thể ghi lại hình ảnh hiển thị trên màn hình (screen) bằng cách chụp (screen-shot) hoặc quay phim (screen capture) thậm chí còn ghi nhận cách con trỏ chuột trên máy tính di chuyển. Vì chức năng mang tính vi phạm vào riêng tư của người khác nên các trình klogger được xếp vào nhóm các phần mềm gián điệp. Bằng một động tác dứt khoát, lão rút dây điện đằng sau máy, màn hình tắt ngóm. Tiếng bíp liên tục phát ra, và một bảng LCD chuyển sang các chữ cái tiếng Nhật màu đỏ trông gần giống với chữ KHẨN CẤP. “Sao bọn chúng làm được chứ?” Amy ngạc nhiên. Dan chộp lấy chiếc laptop, kiểm tra card PC. “Đường truyền không dây 802.11g,” Nó nói với Amy. “Vậy bọn chúng khá gần đây. Em không rõ, có lẽ là chừng mười thước - hay chỉ năm thước nếu chúng có bộ khuếch sóng gì đó?” Alistair hướng về phía cửa sổ. “Có nghĩa là bọn chúng hoặc đã ở trong tòa nhà này hoặc ở đâu đó một trong số những chiếc xe hơi ngoài kia.” Một trong số hàng trăm chiếc xe hơi, có thể nói là vậy - nếu tính đến những chiếc đang đậu ở lề đậu xe, ở bãi đậu xe trong công viên sát bên cạnh, và cả những chiếc đang nối đuôi nhau trên đường. Tạch-tạch-tạch-tạch! Tiếng gõ vào cánh cửa khiến cho tất cả giật bắn mình. “Mọi thứ trong này vẫn ổn chứ?”. Một giọng nói rụt rè, nhút nhát vọng vào. Nghe như là cô Nakamura, nhưng lại có điều gì đó không ổn trong giọng nói của cô... Alistair đến mở cửa. “Có thể cô ấy biết làm thế nào để dò ra dấu vết.” “Ôi không!” Amy thốt lên. “Cô Nakamura,” Alistair nói, kéo mạnh tay nắm cửa, “Thư viện của cô đã bị đột nhập...” Cửa mở - và Alistair nhìn chằm chằm vào bộ ngực đồ sộ trong chiếc áo thun cỡ XXXL “Không đùa đâu, Sherwood đấy,” Eisenhower Holt sấn vào, với một nụ cười rộng đến nỗi gần chạm vào mép hàng ria quân đội chỉn chu của gã. “Nào, tất cả vào đội hình... và diễu binh nào!” CHƯƠNG 6 Brrr.... Điện thoại Amy rung rung. Nó liếc quanh chiếc xe tải. Ở ghế bên cạnh vô lăng, Eisenhower Holt đang tranh cãi với vợ gã, Mary-Todd, là người đang cầm lái. Dãy kế tiếp, hai đứa sinh đôi 11 tuổi Reagan và Madison Holt đang thi xem ai có thể hất gỉ mũi vào tóc thằng anh Hamilton. Con chó ngao Arnold sủa váng lên đầy vẻ tham lam, ngoạm lấy những mảnh “vũ khí” bay vèo qua bằng bộ hàm khủng khiếp của nó. “Ngưng lại đi, nó giết tao mất!” Ham la lên. “Vấn đề là chỗ đó,” Madison vỗ tay. “Sherwood[1] là khu rừng, cưng à,” Mary-Tood nằng nặc với chồng. “Tay thám tử là Sherlock[2].” [1] Khu rừng tương truyền là nơi sinh sống của Vua lục lâm Robin Hood. [2] Tức Sherlock Holmes. “Anh sẽ dò lại!” Eisenhower tuyên bố. “Để anh nhắc cho mình nhớ, Mary-Todd nhé, ở học viện West Point, chỉ số IQ của anh gần đạt 100 hoàn hảo. À, 89 - nhưng mà đó là anh còn chẳng thèm luyện tập gì!” “1 được xem là bình thường thôi, cục cưng,” Mary-Todd đáp. “Bình thường là kẻ thù của sáng tạo,” Eisenhower gào lên. “Một người nhà Holt không bao giờ bình thường - như đã quá rõ trong cuộc vây bắt hết sức thiên tài bọn nhà Cahill!” Brrrrr.... Amy cho tay vào túi quần bên trái và lôi chiếc điện thoại ra, bảo đảm không để ai trông thấy được. Phía bên phải, nó bị trói vào Alistair, lúc này lão đang giận sôi cả tiết. Còn Alistair lại đang bị trói tiếp vào Dan - cậu chàng, trái lại, như bị mất trí, ngồi đọc ngon lành hàng tá những sách hướng dẫn du lịch mà bọn Holt đã bỏ lại trên sàn xe. Amy nhanh chóng liếc thấy màn hình hiện cuộc gọi đến. GOMEZ, NELLIE Nó cố gắng không la lên, nhìn chằm chằm vào Alistair và Dan, giơ màn hình điện thoại cho cả hai thấy. Nellie vẫn còn sống! “ ĐƯỢCCCCC LẮMMM, TUYỆTTTT!” Dan reo lên. “Thằng nhóc Cahill đồng ý với anh kìa!” Eisenhower cười nham nhở, quay người lại phía đằng sau xe tải. “Nhóc con thông minh. Mày sẽ được đi đây đi đó với tụi tao... trong vai một tù binh! Há há!” Cả nhà Holt cười ồ lên, trừ con Arnold, dường như vẫn còn bối rối không biết chỗ đồ ăn đang bay tự dưng biến đâu mất. “Dở ở chỗ tụi mày không có đủ thông minh để phát hiện ra tụi tao đã theo từng đường đi nước bước,” Eisenhower nói tiếp, “Bằng chính công nghệ hack có bản quyền của nhà Holt. Đầu tiên tụi tao đột nhập vào thiết bị dò tìm trên con mèo của tụi mày - đến khi phát hiện con mèo hóa ra lại là ông chú của tụi mày!” Madison và Reagan nhìn bố chúng với vẻ hoang “Rồi bọn tao theo đuôi hắn đến sân bay, là nơi tao đã ra lệnh cho cả nhà thực hiện trò kông nghệ xuất sắc nhứt,” Eisenhower tiếp tục nói, “Đột nhập vào hệ thống bán vé sân bay!” “Nhưng rồi tao đã nhắc với ông xã tất cả những gì ổng cần là dí theo chiếc limo,” Mary - Todd lên tiếng Madison xen vào: “Còn khi chúng tao có mặt ở sân bay thứ hai kia ấy hả? Và thấy bọn mày vào chiếc phản lực? Chúng tao chỉ cần hỏi cái gã phi công siêu “hot”, gã Fabio đó? Rằng bọn mày đi đâu?” Nó lại nhe răng cười toe toét. “Và gã đã kể.” “Gâu” con Arnold phụ họa. “Gio đó,” Eisenhower nói, “Bọn tao có thể trưng dụng chuyến bay tới Nhật, bọn tao đã vượt mặt chúng mày tới được sân bay trước rồi chờ tới khi tụi mày có mặt, theo sát từng động tĩnh của tụi mày cho đến lúc đạt được thành công cuối cùng - keylog vào từng chiếc laptop và lấy hết thông tin của tụi mày! Và giờ thì tao đã có cả ba trong tay, đã có thể thực hiện được mục tiêu của cuộc đời. Không chỉ là tìm bằng hết ba mươi chín đầu mối trước tiên. Mà còn đặt tên tuổi nhà Holt vào đúng nơi của nó - ở từng gia huy của nhà Tomas... gia huy. Lịch sử sẽ không còn nhắc đến tên nhà Holt như những kẻ ngu si. Sẽ không còn là những con chiên ghẻ, là vết nhơ dưới đũng quần của dòng họ, là dòng ghi chú hôi hám của truyền thuyết nhà Tomas. Và bọn mày sẽ giúp bọn tao hoàn thành sứ mệnh lịch sử bằng cách dẫn bọn tao đến chính cái thứ bọn mày đã tìm thấy - đầu mối kế tiếp, nằm ở những con đường hầm của thành phố Tokyo!” “Tự ông hình dung ra tất cả những thứ này sao?” Amy hỏi gã, trong lòng khó kiềm được cảm giác thư thái khi biết cô nàng au pair vẫn bình an. “Chừng năm mươi ba phần trăm,” Eisenhower thú thật. “Hơn bốn mươi bảy phần trăm thôi,” Mary - Todd nói. “Anh biết ngay là không đúng mà,” Eisenhower nói. “Ủa, cha! Con mới đã làm hết mấy món kỹ thuật đó chứ bộ,” Reagan than vãn. “Cha cái gì?” Eisenhower lên giọng. “Thưa cha,” Reagan đáp. “Lập luận của ngươi cũng ngớ ngẩn như chính cuộc nói chuyện của lũ các người vậy,” Alistair lên tiếng, giọng không giấu được cơn giận dữ. “Các người đừng hòng kiếm được tí ti gì từ cái trò hack hiếc vào hệ thống. Chẳng qua lũ các người đã lấy cắp bản đồ của ta, cái đồ ba hoa.” “Chú Alistair?” Amy lên tiếng. Chưa khi nào nó thấy Alistair như lúc này. “Có đứa nào vừa meo meo ở phía sau vậy?” Eisenhower thắc mắc. “Ta vừa nghe như thể có một tên Ekat lên tiếng?” “Gâu?“ Arnold gầm gừ, nước dãi chảy ròng ròng. Alistair cười một cách man dại. “Điều gì khiến cả bọn đê tiện chúng mày nghĩ có thể đọc được cái bản đồ ấy nào? Nó được viết bằng tiếng Nhật đó.” “Ha! Đừng hòng có thứ gì qua mặt được người nhà Holt!” Eisenhower gầm lên. “Tao đã nghe lén bọn mày qua cánh cửa thư viện, nói về hầm mộ cổ xưa dưới lòng đất. Do đó bọn tao sẽ bắt đầu tại... quận hầm mộ dưới lòng đất. Tiếp tục tiến lên!” Chiếc xe tải lảo đảo nghiêng sang trái. Dan ngẩng đầu lên khỏi tấm bản đồ hệ thống tàu điện ngầm Tokyo. Mặt sáng rỡ, hệt như mỗi khi nó vừa giải được một đoạn mã hay phát hiện ra một mánh mới của trò World of Warcraft. “Hầm mộ á? Tôi nghĩ tốt hơn cả là ta đi tìm hệ thống tàu điện ngầm ấy.” Chiếc xe tải lại nghiêng sang phải. “Con muốn đi tè cơ,” Madison kêu to. Chiếc xe tải thắng két vào vệ đường. “Ai đó đưa ra quyết định coi nào?” Mary - Todd hỏi ý kiến. Trong lúc nhà Holt tiếp tục nhao nhao tranh luận như thường lệ thì Alistair thì thầm với Dan. “Hệ thống tàu điện ngầm ư, con trai? Vì sao?” “Trước tiên, cháu đã nhớ bản đồ của ông,” Dan bắt đầu hơi có phần phấn khích. “Suỵt!” Amy nhắc nhở. “Các đường hầm bí mật và tàu điện ngầm,” Dan tiếp tục nói oang oang. “Cả hai đều khớp với nhau - gần như từng chi tiết! Cháu hình dung có lẽ là hệ thống tàu điện ngầm được xây thẳng lên trên các đường hầm trước đó!” Cả nhà Holt im bặt ngay tức thì. “Dan...” Amy cảnh báo nó. “Em nói cho họ biết mất rồi còn đâu!” Dan ngẩng lên, hốt hoảng. “Em nói với chú Alistair thôi mà.” “Nhưng tụi taoooooo nghe thấy cả rồi,” Reagan hát váng lên, thè cả lưỡi ra chế nhạo nó. “Còn nữa, nếu mày không nói ra thì mày cũng thành cục thịt viên thôi.” “Gâu,” Arnold xen vào, nhe ra những chiếc răng lớp nhớp nước dãi. Mặt Dan trắng bệch ra. Nó đưa cái liếc nhìn đầy ăn năn về phía Amy và Alistair, hai người giờ đây mặt mũi cũng sa sầm cả lại. “Ừm, à vấn đề là...? Nó không thật sự khớp nhau đâu. Vậy là em sai rồi. Tại vì, ừm xem nào, có một khác biệt lớn đấy. Ở giữa tấm bản đồ cổ, có một đoạn giao với một căn phòng lớn. Còn trong tấm bản đồ xe điện ngầm thì đường ray song song nhau. Đó... thấy chưa? Sai chỗ là cái chắc...” “Chỗ hai tấm bản đồ lệch nhau chính là nơi bí mật được cất giữ!” Eisenhower reo lên. “Lúc nào anh cũng giỏi giang!” Mary - Todd nịnh chồng. Amy rên rỉ vì thất vọng. Dan càng ngu đi thì Eisenhower Holt càng khôn ra. “Tuyệt,” Hamilton tiếp tục với cái cười chế nhạo. Bất thình lình, Eisenhower lại lườm bọn họ bằng cặp mắt khép hờ. “Nè, không phải tụi mày đang lừa tụi tao chớ? Tụi tao không ngu như tụi mày nhìn thấy đâu. Hay là... sao cũng được.” “À...” Dan cứ nhìn Amy rồi sang Alistair trong tuyệt vọng. “Ở hai bên đều có trạm dừng cho tàu điện ngầm. Có lẽ cái ở đầu phía Bắc, Yotsuya, thì gần hơn.” “Chúng ta sẽ đến cái ở đầu phía Nam,” Eisenhower ra lệnh. Thế là chiếc xe tải lại chao đảo lao đi. “Giờ thì con thực sự phải đi tè đó,” Madison lại than vãn. *** Họ yên lặng chờ cho đến khi tàu rời ga Nagatacho. Lúc này ke ga chỉ còn có bọn họ. Lịch tàu chạy, cái mà Alistair đã lấy từ chỗ người phục vụ, cho thấy chuyến tàu tiếp theo sẽ đến lúc 5 giờ 40. Lão xem đồng hồ. Rồi lão nhìn xuống đường tàu - những đường ray tối, hẹp dẫn vào một đường hầm mịt mùng ở cả hai đầu. “Bây giờ là 5 giờ 17,” Lão nói, giọng hơi run. “Chúng ta có chính xác 23 phút.” Eisenhower đứng lại ở mép ke ga. “Tất cả, hãy tập hợp!” Gã hét lên. “Con muốn đi trước!” Madison n “Chính nó đã bắt chúng ta phải chờ lúc nó vào toilet,” Reagan phàn nàn. “Con đi được không? Nha cha?” “Gần tới sinh nhật mẹ rồi,” Hamilton nói. “Gâu,” Arnold tiếp lời, sục khắp mép ke ga để đuổi theo một con chuột cống đen sì đang lao qua mấy thanh ray. “Mỗi người nhà Holt tự hành động!” Eisenhower thét, rút trong túi ra cặp găng làm vườn, đeo vào tay rồi khom người thấp xuống. “Và nhớ là không được chạm vào ray thứ tư.” “Thứ ba, cục cưng à,” Mary - Todd chỉnh lại. Khi Madison và Reagan đi theo thì Alistair nắm lấy tay của cả Amy và Dan, chầm chậm bước giật lùi. Lão đang cố tìm cách tẩu thoát. Nhưng Mary - Todd và Hamilton đã chặn đường, khoanh tay trước ngực. “À há!” Hamilton lắc đầu. “Có cố găng đấy, ông chú,” Dan thì thào. Lúc đó là 5 giờ 19 phút. Còn 21 phút nữa. Buông tiếng thở dài, Dan trèo lên một đường ray, theo sau Amy, Alistair và đám Holt còn lại. Một dòng nước đen kịt như mực chảy bên dưới đường ray. Một mẩu giấy gói kẹo cao su đang nổi lềnh bềnh. Phía trước, con đường hầm lao vào bóng tối thăm thẳm. Dan thấy buồn nôn. Cả nó lẫn Amy đều không may mắn lắm mỗi khi ở trong lòng đất. Những hình ảnh bắt đầu lềnh bềnh trôi trong đầu nó. Chạy... chạy... chạy trốn Jonah Wizard trong cái bảo tàng dưới lòng đất ở Venice... chạy khỏi bọn Kabra trong hầm mộ Paris... khỏi chiếc tàu... chạy trốn khỏi ký ức... Nó vẫn còn hình dung được cánh tay của Amy vươn ra để lôi nó khỏi chiếc tàu điện đang lao tới lúc ở Paris, chiếc ba lô biến mất hút dưới hàng tấn thép đang rầm rập phóng đến, tiếng thét phát ra như xé toang cổ họng của nó. Với bất kỳ ai khác, tấm hình đã phai màu mà nó giữ trong ba lô - một cặp vợ chồng đang mỉm cười hạnh phúc - có lẽ sẽ thật nhạt nhòa và chẳng có gì thú vị. Thế nhưng với riêng Dan, kỷ vật ấy quan trọng như chính cuộc sống vậy. Nó đã nhìn ngắm tấm ảnh đó hàng ngày, nhớ từng pixel chi tiết trên đó. Đó là kỉ niệm duy nhất còn lại, tấm ảnh duy nhất còn lại của cha và mẹ,ó không tài nào nhớ được. Và giờ thì tấm ảnh cũng không còn nữa, cách nơi đây cả một châu lục xa xôi. “Huầy - hai - ba - bốn...” Eisenhower gào to. Amy đẩy Dan về phía trước, lắc cho ký ức bật ra khỏi đầu nó. Thình-thịch-thình-thịch-huỵch, bước chân của nó khua vang. “Hở?” Dan ré lên. “Đừng có thắc mắc,” Amy nói. Thậm chí trong cảnh tối tù mù này, nó cũng có thể nhận thấy mặt của Amy trắng bệch ra. Cả bọn tiếp tục lê bước về phía trước, vẫn trên đường ray giữa để tránh ray điện thứ ba, cho đến khi ánh đèn của ga tắt lịm. “Báo cáo nào!” Eisenhower ra lệnh. Tay Dan run rẩy khi nó rọi chiếc đèn pin bỏ túi vào tấm bản đồ tàu điện. Phía trước họ, không thể nhìn thấy được ánh sáng của ga kế tiếp. Cả bọn đã băng qua trung điểm giữa hai ga rồi. “Theo trên đây,” Dan nói, “Chúng ta lẽ ra phải đến đó rồi. Chỗ giao nhau phải nằm về phía bên trái.” “Bình tĩnh nào!” Eisenhower lên tiếng. “Đứng vào hàng để kiếm cách mau!” Amy giơ tay sang trái, chạm vào bề mặt đường hầm bẩn thỉu. “Chỉ là một bức tường, không hơn!” “Cứ tiếp tục tìm kiếm,” Eisenhower ra lệnh. Dan điên cuồng đẩy và đấm, nhưng bức tường vẫn không suy chuyển. Xi măng dày cộp. Nó xem giờ, chiếc đồng hồ bắt đầu mất dần tính năng phát sáng trong bóng tối. 5 giờ 30 phút. “Ý tưởng này thật ngu si,” Giọng của nó vang vọng trong đường hầm. “Nhìn xem, chúng ta chỉ có mười phút. Ta rời khỏi nhà ga cách đây mười một phút. Vẫn còn đủ thời gian để quay trở lại trước khi...” “Nhiệm vụ bị hủy!” Eisenhower rống lên. “Sang trái! Và... hai-ba bốn Dan bắt đầu chạy, xém chút nữa vấp vào chị mình. “Oái!” Amy la lên. “Dan!” “Xin lỗi!” Dan trả lời. “Gặp lại chị ở chỗ ke ga”. “Dan, chân chị bị kẹt rồi!” Dan quay phắt lại và rọi đèn pin vào dáng Amy đang cúi xuống. Con bé nhăn mặt, chân trái đã kẹt vào bên dưới một đường ray. “Để ta cứu nó!” Hamilton la lên. “Không, để em!” Reagan rít lên lanh lảnh. “Chẳng bao giờ em được đi giải cứu đầu tiên hết!” “Giải tán!” Eisenhower lại gào lên. “Gâu,” Arnold sủa. Dan len qua đám người, ráng đến chạm vào chị nó lúc này đang thét hết sức bình sinh, “Các người chỉ làm mọi thứ tồi tệ hơn thôi!” Tóc Dan bắt đầu khẽ dựng xoáy phía sau gáy. Một làn gió tuy yếu nhưng đều đặn đang lướt qua đường hầm từ phía Nam. Dan có thể thấy mặt Amy ngước nhìn nó, mắt mở to. “Dan? Giờ tàu chạy chính xác cỡ nào?” “Em không biết!” Dan đáp. “Khi một đoàn tàu chạy vào đường hầm, em có thấy không khí được đẩy đi?” Reng-g-g-g-g-g-g-g-g! Dan quay đầu về nơi âm thanh phát ra. Hai đèn pha từ đằng xa, tựa như cặp mắt của một loài bò sát đang xuyên qua bóng tối, hướng về phía chúng - và càng lúc cà “Nhà Holt - chạy mau!” Eisenhower ra lệnh. Như một khối thống nhất, nhà Holt quay đầu lại và chạy thục mạng đến ga kế tiếp. “Đừng bỏ chúng tôi!” Amy thét lên. Dan vẫn tiếp tục kéo. Chân Amy bị mắc lại ở đó. Kẹt cứng. “OÁIII!” “Em... sẽ... làm được,” Dan rít qua kẽ răng. Nó quỳ xuống dòng nước đang chảy nhỏ giọt giữa hai ray, giờ chúng cũng rung lên theo chuyển động của con tàu. “Chạy đi, Dan!” “Chờ đã... em biết rồi...” Chiếc dây giày. Dan thò tay vào dây giày của Amy và giật thật mạnh. Chúng đã bị thắt nút lại. Ướt nhẹp và kẹt chặt. Chân của Amy dường như bị dính keo vào chiếc giày. Giá như nó có thể tháo ra, sử dụng chỗ nước bên dưới để làm trơn... Tiếng rít ken két của phanh lan khắp đường hầm. Gió tốc xoáy quanh Dan như một cơn cuồng phong, ném bụi đất và mảnh vụn vào mắt nó. Mắt nó đã lóa lên trắng xóa. Cơ thể bảo nó phải chạy đi. Ngay bây giờ. “CỨ CHẠY ĐI!” “Thôi nào Amy, em không bỏ chị được đâu...” Con bé đã cứu mạng nó. Nó cũng có thể cứu chị mình. Nó phải làm điều này. Kéo đi! Gió mạnh dữ dội. Âm thanh đập vào tai nó như một vật cứng. Nó lại kéo, lắc, giật, đập mạnh. Còn Amy thì đang cản nó lại, đẩy nó ra - cốt để cứu mạng nó. Hơi thở lạnh ngắt của Amy phà vào cổ nó, đám gân nổi lên chằng chịt nơi cổ họng con bé. Nó nhận ra Amy đang thét thật to, nhưng nó không thể nghe thấy gì cả. HO-O-ON-KKKKKKKKKKKKK! Toàn thân Dan đông cứng lại khi nó ngoảnh đầu nhìn về phía ánh đèn đang lao thẳng tới. CHƯƠNG 7 “ÁAAAAAAAAAAAA!” Amy không cảm thấy gì nữa hết. Gió. Tiếng rít chói lói của phanh tàu bằng kim loại, tiếng còi át hết tất cả mọi âm thanh. Hẳn nó đã nhắm nghiền mắt, bởi nó chẳng còn thấy được gì nữa. Amy ngã xuống. Cảm giác như cả cơ thể đang lềnh bềnh. Nó đang bay. Rồi vai con bé đập vào lớp xi măng, cứng và lạnh ngắt. Khi mở mắt ra, tất cả tuyệt nhiên yên ắng và tối đen. “Chắc l-l-à... mình đã chết rồi chăng?” Nó lắng nghe chính giọng nói của mình, cao và mỏng đến kỳ lạ. Trong một lúc lâu, nó không nghe thấy gì nữa. Và rồi: “Chào người chết. Em là Dan đây. Tiếng quẹt que diêm vang lên đánh xoẹt, và ánh sáng lờ mờ viền quanh hai khuôn mặt. Amy nhỏm dậy. Mắt cá bên trái của nó nhức nhối, và chiếc giày cũng không còn. “Chú Alistair? Dan?” Tóc Dan dựng đứng, mặt nó bám đầy bụi đen kịt, còn đôi mắt thì tròn xoe và đang mở thao láo như hai quả bóng mềm. “Chính là ông ấy, là ông chú Alistair đó. Ông cứu mạng chúng ta. Lao ra. Từ phía bức tường. Bằng cách nào mà...?” Dan lảo đảo chồm về phía Amy, cả thân người nó gập xuống khi trố mắt nhìn vào chân con bé. “Nó vẫn còn nguyên này. Ông ta không cắt nó ra khi...” Nói đến đó, đầu gối của Dan quỵ hẳn và nó té xuống nền đất. “Dan!” Amy thét lên. Khi vươn người nắm lấy tay thằng em, mắt cá con bé nhói đau khủng khiếp. “Ổn mà,” Dan an ủi, ngồi bật dậy. “Em không sao đâu. Đừng gọi 911. Tóc em có bạc trắng không? Giống trong phim, lúc mà người ta thấy sợ ơi là sợ ấy?” “Cả hai đứa đều đã an toàn,” Alistair nói trong lúc di chuyển que diêm dò xung quanh các góc tường của căn phòng lớn. “Dan, tóc của con vẫn còn màu đen - và con đã nói đúng về nơi trú ẩn bí mật. Nó ở gần nơi con đã đoán ra. Có một bức khắc cỡ nhỏ trên tường, một biểu tượng cổ xưa giống như một hộp điện. Khi ta ấn vào, cửa mở ra. Ta chỉ việc kéo cả hai vào theo.” Amy tiến về phía trước bằng cái chân lành lặn, giơ chân đau lên, và choàng tay ôm chầm lấy Alistair. “Con cảm ơn,” Nó nói. Nó cảm nhận được Alistair lúng túng. Thoáng chút sợ hãi, nó thấy như mình vừa có một hành động cực kỳ sai lầm. Có thể nói lão không phải loại người thích được ôm. Rồi, lạ thay, Alistair cũng ôm chầm lấy nó. “Ta... cũng nợ con một lần,” Lão nhẹ nhàng nói. “Hoặc hai đấy,” Dan xen vào. Alistair gật đầu. “Ta cho rằng trí nh mình không thật tốt trong các tình huống chết người như thế này.” “Giờ thì ông đã bù lại được rồi,” Amy vùi đầu vào vai áo jacket lụa vẫn còn sực nức mùi nước hoa cạo râu của Alistair. Alistair nhẹ nhàng đẩy nó ra, nhìn xuống chân nó vẻ đầy quan tâm. “Chân của con sao rồi?” “Giống như là nó bị kẹt dưới đường ray rồi bị lôi ra khỏi chiếc giày,” Amy nói, khẽ nhăn mặt. “Con có thể nhúc nhắc được, nhưng chắc con bị trật mắt cá rồi.” “Cá là chị không thể nhảy điệu tap-dance[1] được.” Dan chọc, dẫu giọng nó vẫn còn hơi mệt mỏi. [1] Nhảy thiết hài, một điệu nhảy đường phố thịnh hành ở Mỹ, dùng gót chân nện xuống đất để tạo âm thanh và nhịp điệu. Amy mỉm cười với thằng em, chưa bao giờ hình dung được mình có thể một lần thích thú cái thói hài hước ngớ ngẩn của nó. Amy cảm nhận được luồng hơi ấm áp tỏa ra từ phía thằng bé. “Ồ, không, em thấy cái nhìn này rồi - dẹp cái vụ ôm iếc đi!” Dan nói, lùi ngay lại. Nó uể oải giương chiếc đèn pin bé tí quét chầm chậm quanh căn phòng, đến khi ánh sáng chạm tới chồng hiện vật cổ đang nằm ngổn ngang trên sàn, phủ một lớp bụi dày đen kịt - quần áo, những món kim loại xỉn màu, một chiếc hộp kim loại, một quả cầu và một vật hình trụ nặng trịch. Khi cả ba lại gần hơn, Alistair bắt đầu nhận xét, “Ừm, có lẽ bọn yakuza đã kiểm soát một hệ thống đường ngầm dưới mặt đất, nhưng dường như nhiều thế kỷ """