" 39 Manh Mối tập 2: Bí Mật của Mozart PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 39 Manh Mối tập 2: Bí Mật của Mozart PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo 39 MANH MỐI PHẦN 2: BÍ MẬT CỦA MOZART Nguyên tác: 39 Clues #2: One False Note Tác giả: Gordon Korman Dịch giả: Dương Thu Công ty phát hành: Phương Nam Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Trọng lượng vận chuyển: 400 grams Kích thước: 14 x 20 cm Số trang: 300 Ngày xuất bản: 20-07-2011 Giá bìa: 75.000₫ Nguồn: http://tve-4u.org Type+Làm ebook: nhbt Cuốn sách này được giới thiệu ở đây nhằm chia sẻ cho những bạn không có điều kiện mua sách. Còn nếu bạn có khả năng hãy mua sách ủng hộ nha! Giới thiệu Cuộc đua tìm kiếm 39 manh mối có ẩn tàng những sức mạnh lớn lao đã bắt đầu. Amy Cahill - cô bé mười bốn tuổi và em trai cô - Dan - thấy bất ngờ khi biết chúng đang là nhóm dẫn đầu. Cuộc tìm kiếm đã dẫn dắt hai chị em đến Vienna với chìa khóa tìm ra manh mối tiếp theo là tờ nhạc phổ của Mozart. Bám theo bên gót hai chị em là một đám người khát quyền lực - những kẻ luôn thấy khó khăn khi phải nhìn chiến thắng trong tay người khác. Dan và Amy không nhận ra được là: một bước tiến tới gần chiến thắng của chị em cũng là một bước dấn sâu vào cạm bẫy. Mục lục Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 1 CUỘC TUYỆT THỰC BẮT ĐẦU cách Paris hai giờ về phía Saladin đỏng đảnh ngửi ngửi hộp thức ăn cho mèo đang mở sẵn, đoạn hếch mũi lên. “Thôi nào, Saladin,” Con bé Amy Cahill, 14 tuổi, vỗ về nó. “Đây là bữa tối của mày đó. Đường đến Vienne còn xa lắm.” Con mèo giống Mau Ai Cập khịt mũi đầy kiêu ngạo như để bày tỏ cách diễn đạt không lời của mình: Cô đùa chắc. “Nó đã quen ăn cá hồng rồi,” Amy nói với Nellie Gomez, cô nàng au pair[1] của hai đứa, với vẻ áy náy. [1] Au pair: xem chú thích ở cuốn 1. Nellie vẫn chẳng chút mủi lòng. “Em có biết cá tươi đắt cỡ nào không vậy? Chúng ta phải tiết kiệm chứ. Đâu biết được bọn mình sẽ phải chạy tới chạy lui trong bao lâu nữa để tìm các đầu mối quý hóa của tụi em?” Saladin buông ra một tiếng meo đầy vẻ bất bình. Cậu em 11 tuổi của Amy, Dan Cahill, ngẩng mặt lên khỏi tờ nhạc phổ mà nó đang xem. “Em cũng đồng ý. Không thể tin được là tụi mình phải đi trên chuyến tàu lề mề nhất châu Âu. Chúng ta phải tiến nhanh chứ! Người ta thi thì có máy bay riêng, còn tụi mình lại lãng phí thời gian trên chuyến “Tàu Cóc Thành” này. Chúng ta sẽ vẫn phải dừng lại ở từng thị trấn khỉ ho cò gáy của Pháp sao?” “Không đâu,” Nellie thành thật đáp. “Chẳng bao lâu nữa ta sẽ dừng lại ở từng thị trấn khỉ ho cò gáy ở Đức, rồi ở Áo. Coi nào, giá rẻ mà, hiểu không? Chị cũng không thích giữ trẻ trong cuộc truy tìm này...” “Trông nom tụi em trong cuộc thi này,” Dan chỉnh. “... Để rốt cuộc phải dừng lại giữa đường vì tụi em chi hết sạch sành sạch tiền vào cá hồng và vé xe lửa hạng sang đâu.” Cô kết luận. “Tụi em rất lấy làm cảm kích vì sự giúp đỡ của chị, Nellie ạ.” Amy nói. “Không có chị, tụi em không sao được như ngày hôm nay.” Amy vẫn còn bị chóng mặt sau hai tuần ngắn ngủi nhưng lại có quá nhiều biến động. Một phút trước mình còn là đứa trẻ mồ côi, chỉ một phút sau, mình đã là một thành viên trong gia đình quyền thế nhất thế gian! Một tình huống không sao tưởng tượng nổi xảy đến với hai đứa trẻ vốn trước đây bị tống vào tay một kẻ giám hộ lạnh lùng và đến lượt bà ta lại tiếp tục tống chúng vào tay một loạt những au pair khác. Giờ thì chúng đã sáng tỏ một sự thật: chúng là họ hàng của những Benjamin Franklin, Wolfgang Amadeus Mozart và nhiều nhân vật nữa - những bậc thiên tài, những nhân vật nhìn xa trông rộng và chức sắc lãnh tụ hàng đầu trên thế giới. Chúng ta không là ai cả. Nhưng rồi bất chợt chúng ta có cơ may xoay chuyển thế giới... Tất cả là nhờ vào cuộc tranh tài mà bà Grace của chúng để lại trong chúc thư. Ít nhiều gì thì bí ẩn về quyền lực kéo dài nhiều thế kỷ của nhà Cahill cũng đã mất đi - điều bí ẩn chỉ có thể tìm thấy được bằng cách nối kết 39 manh mối lại với nhau. Những đầu mối này được giấu ở khắp nơi trên trái đất. Do đó đây là một cuộc truy tìm kho báu. Nhưng là cuộc truy tìm ra trò - rong ruổi khắp các đại dương, châu lục, mà giải thưởng không gì khác: chính là sự cai trị cả thế giới. Nhưng thuyền to thì sóng lớn. Những kẻ thù cũng sẽ không từ thủ đoạn nào để ngăn cản lũ trẻ. Đã có nhiều thiệt hại. Có thể sẽ còn nhiều nữa... Amy quan sát Dan đang ngồi đối diện mình. Hai tuần trước, chúng ta còn cãi nhau chỉ vì một chiếc điều khiển từ xa. Con bé dường như không thể giải thích với Dan rằng điều này kỳ quặc nhường nào. Thằng em nó không hề thấy gì khác thường khi mình thuộc dòng dõi một gia đình quyền thế và có tầm ảnh hưởng nhất trong lịch sử. Nó chấp nhận điều đó mà không có lấy dù chỉ một thắc mắc. Rốt cục thì, chuyện đó lại nói được nhiều điều hay ho về nó. Dan không cảm thấy có chút bất lợi nào khi trở thành con bạc lớn trong cuộc chơi này. Đứa bé tội nghiệp chỉ mới 11 tuổi, mồ côi cha mẹ và bây giờ thậm chí bà Grace cũng không còn. Quá phấn khích trước cuộc đua tranh, bọn trẻ hầu như không bày tỏ niềm thương tiếc về cái chết của bà ngoại chúng. Như vậy thật không phải. Cả Amy lẫn bà Grace Cahill đều rất gần gũi với nhau. Thế nhưng cũng chính bà Grace là người đã đẩy chúng vào chuyến phiêu lưu bão táp này. Nhiều lúc Amy cũng không biết nên nghĩ thế nào nữa... Nó lắc đầu để xua đi ý nghĩ đó và tập trung trở lại vào đứa em mình. Dan vẫn lần dò trên tờ nhạc phổ, tìm kiếm các dấu tích ẩn giấu bên trong hay kí tự bí mật nào đó. “Được không?” Amy hỏi. “Zero,” Dan đáp. “Chị có chắc gã Mozart này cũng là người nhà Cahill chứ? Ý em là, Ben Franklin chắc chẳng bao giờ hỉ mũi ra mẩu khăn giấy mà lại không gài vào đó một thông điệp mã hóa. Còn đây chẳng có gì ngoài bản nhạc chán ngắt.” Amy tròn xoe cặp mắt màu xanh lá của mình. “Gã Mozart này á? Bộ em sinh ra đã là một thằng ngốc xít hay em phải có một tấm bằng chứng nhận là đồ ngốc trong tay mới được? Wolfgang Amadeus Mozart được xem là nhà soạn nhạc cổ điển vĩ đại nhất của nhân loại đó.” “Đúng vậy, cổ điển. Chán òm.” “Các nốt nhạc ứng với chữ cái từ A đến G.” Nellie trầm ngâm. “Biết đâu ta có thể tìm ra được một thông điệp nào đó theo cách này.” “Đã làm vậy rồi.” Dan đáp. “Thậm chí em còn cố đảo lại trật tự các chữ cái xem liệu các từ có bị đảo hay không. Hãy chấp nhận đi nào - tụi mình suýt nữa bị giết vì một đầu mối mà hóa ra chẳng phải là đầu mối một tí tẹo nào hết.” “Nó là một đầu mối.” Amy quả quyết. “Nhất định phải như vậy.” Đầu mối. 39 manh mối. Chưa từng có cuộc tranh tài nào diễn ra với nhiều hứa hẹn - lẫn hiểm nguy đến nhường này. Đặt trên bàn cân với uy quyền vô song, cái chết của hai đứa trẻ mồ côi người Mỹ có khác gì một dòng chú thích cỏn con. Nhưng chúng ta đã không chết. Chúng ta đã tìm ra đầu mối đầu tiên - sau khi vượt qua một chuyến đi đầy cạm bẫy xuyên suốt cuộc đời của Benjamin Franklin. Amy hoàn toàn tin tưởng Mozart chính là chìa khóa cho đầu mối thứ hai. Câu trả lời vẫn đang nằm ở phía cuối những đường ray của thành phố Vienna, nơi Mozart đã sống và sáng tác những tuyệt tác lưu danh thiên cổ. Bọn chúng chỉ có thể hy vọng là các đối thủ sẽ không đến đó trước. *** “Con ghét nước Pháp.” Hamilton Holt cằn nhằn, nắm chặt chiếc hamburger bé tí trong bàn tay quá khổ của nó. “Cứ y như là cả đất nước này đang ăn kiêng vậy.” Nhà Holt đứng ở quầy phục vụ bữa trưa của nhà ga xe cách vùng Dijon trên đất Pháp 30 cây số về phía Đông. Họ hy vọng sẽ qua biên giới bằng cách giả làm một gia đình Mỹ đang đi nghỉ mát. Nhưng trông họ giống hàng công của một đội bóng bầu dục hơn - thậm chí ngay cả với hai đứa con gái sinh đôi dù chúng không nhiều tuổi hơn Dan. “Tập trung vào giải thưởng nào, Ham.” Eisenhower Holt nhắc nhở con trai. “Khi tìm ra hết 39 manh mối, chúng ta sẽ giã từ vĩnh viễn những món ăn cầm hơi này và chén những bữa tiệc buffet thỏa-thê ngay trên nước Mỹ. Còn bây giờ, ta cần phải đuổi kịp những đứa nhãi nhà Cahill trước đã.” Madison ngoạm một phần bữa trưa của nó và nhăn mặt. “Có nhiều mù tạt quá!” “Đây là Dijon, đồ ngu,” Reagan, đứa song sinh với nó, độp lại. “Dijon là kinh đô mù tạt của thế giới đấy.” Madison Khờ thoi một quả đấm vào bụng nó. Cú đánh có thể khiến con tê giác đang chạy phải khựng lại, thế nhưng Reagan chỉ thè lưỡi ra một cách khinh bỉ. Điều đó mới khiến người nhà Holt tổn thương ghê gớm. “Yên nào các cô gái,” Mẹ chúng, bà Mary - Todd, hòa giải êm đẹp. “Ta nghĩ là đã nghe thấy tiếng xe lửa đến.” Cả gia đình quan sát động cơ diesel già cỗi lừ lừ hiện ra trong tầm mắt. Madison cau mày lại. “Con nghĩ xe lửa ở châu Âu phải nhanh chứ.” “Bọn nhà Cahill khó đoán lắm, hệt như cha mẹ của chúng vậy,” Cha nó trả lời. “Chúng đã chọn đi đoàn tàu mà ta khó ngờ nhất. Ok, vào đội hình nào.” Gia đình này rất quen với khẩu lệnh đầy mùi huấn luyện của Eisenhower. Gã hẳn là đã bị đá ra khỏi Học viện quân sự West Point, nhưng điều đó không có nghĩa rằng gã là một kẻ điều khiển tồi. Và không gì thôi thúc nhà Holt nhiều bằng một dịp được san bằng với những tay họ hàng trịch thượng của họ. Cuộc tranh tài này chính là cơ hội để chứng minh bọn họ cũng “Cahill” như ai. Chính họ mới là người sẽ tìm bằng hết 39 manh mối - thậm chí nếu phải thải béng hết tất cả những kẻ kia cho vào món xà lách trộn để điều đó xảy ra. Nhà Holt tản ra, lẩn vào rừng cây ở đằng xa nhà ga. Chuyến tàu xình xịch ì ạch dừng lại trong sân ga, vài hành khách bước xuống. Những người soát vé và nhân viên khuân vác mải dỡ hành lý nên không để ý thấy một gia đình năm người ục ịch trèo lên toa sau. Nhà Holt đã lên tàu. Họ bắt đầu lục tìm các toa từ sau ra trước. Kế họach ban đầu là phải tránh thu hút sự chú ý, nhưng điều đó thật không dễ dàng gì với kích thước ô dề của gia đình nhà Holt. Vai và gối cứ thi nhau xô lấn. Chân giẫm lên sàn huỳnh huỵch. Các ánh nhìn bực dọc cứ qua qua lại lại, xen cùng với tiếng chửi rủa bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ở toa thứ ba, chiếc cùi chỏ đung đưa của Hamilton đã làm rơi nón của một bà lão, làm bà đánh rớt chiếc lồng chim đặt trong lòng mình. Nó đổ cạch xuống sàn tàu, khiến cho con vẹt bên trong hoảng hốt vỗ cánh phành phạch và ré lên inh ỏi. Ở sáu dãy ghế phía bên trên, sự việc khiến Saladin ngóc hẳn lên khỏi ghế để nghe ngóng tình hình. Và khi Amy nhìn xem điều gì khiến chú mèo quan tâm thì... “Nhà Ho... Ho...” Mỗi khi bối rối nó luôn mắc tật nói lắp. “Nhà Holt,” Dan hốt hoảng. May thay, bà chủ con vẹt đã nhoài người xuống để cứu cái lồng, làm cản lối đi. Dan nhanh chóng nhốt Saladin và cả tờ nhạc phổ vào hộc hành lí phía trên đầu. “Đi nào, thưa bà...” Eisenhower lẩm bẩm vẻ thiếu kiên nhẫn. Rồi gã nhác thấy Dan. Gã to lớn chồm hẳn qua con vẹt và người chủ của nó. Dan chộp lấy tay Amy rồi chạy thẳng đến phía cuối toa tàu. Nellie đá một chiếc ba lô ra lối đi chính giữa để ngáng chân Eisenhower, và gã đổ phịch xuống sàn tàu. “Excuser-moi, monsieur[2],” Nellie nói bằng thứ tiếng Pháp chuẩn mực, vờ cúi xuống giúp gã đứng dậy. [2] “Xin ông thứ lỗi”, nguyên tác tiếng Pháp. Eisenhower gạt tay cô ra. Không còn lựa chọn nào khác, cô ngồi phệt lên trên gã, ấn toàn bộ trọng lượng của mình vào giữa xương vai của gã. “Mày đang làm cái quái gì vậy, đồ ngoại quốc khùng điên?” “Nó không phải người ngoại quốc đâu cha!” Hamilton tìm mọi cách để hất cẳng cô nàng au pair ra khỏi lưng ông bố và đẩy cô trở lại ghế. “Đó chính là au pair của bọn nhãi Cahill!” “Tôi sẽ hét lên đó,” Nellie dọa. “Vậy thì ta sẽ ném mi ra ngoài cửa sổ tàu,” Hamilton đáp, đơn giản và trơn tru đến độ chẳng cần mảy may nghi ngờ việc nó có thể ra tay và thực hiện chính xác điều vừa nó Eisenhower bò lồm cồm. “Giữ chân nó lại, Ham. Đừng rời mắt khỏi nó dù chỉ một giây đấy.” Rồi gã vùng dậy, dẫn đầu cuộc vây bắt bầy đàn của nhà Holt, những con thú săn đang rượt theo con mồi. Amy và Dan đã đến chỗ nối dẫn vào toa nhà hàng. Chúng chạy qua những thực khách đang ăn, xô đổ những đĩa thức ăn đang nghi ngút khói. Dan ngoái đầu nhìn lại. Dáng điệu tức tối của Eisenhower Holt đã choán hết cửa sổ chỗ nối toa. Nó huých người bồi bàn và trỏ về phía sau: “Thấy gã đó không? Gã nói anh đã cho thuốc hoóc môn tăng trưởng vào món súp của gã đó!” Amy nắm tay Dan, nhìn vào mắt nó bằng đôi mắt đầy sợ hãi và rít lên: “Sao em còn giỡn được chứ? Em biết là bọn họ nguy hiểm đến mức nào mà!” Bọn trẻ nhà Cahill lại trườn qua cửa sập và xộc vào toa kế tiếp. “Nói em nghe đi,” Dan bối rối. “Ước gì em có thể vừa vặn trong hộc hành lí như con Saladin. Chẳng lẽ trên tàu không có bảo vệ sao? Chắc chắn ở Pháp người ta phải có luật chống lại năm tên người tiền sử đang bắt nạt hai đứa trẻ chứ.” Amy hốt hoảng. “Bọn mình không thể nói với bảo vệ được! Không thể mạo hiểm để bất cứ ai hỏi về thân thế của chúng ta và những gì chúng ta đang làm. Nên nhớ, dịch vụ công ích vẫn còn đang truy tìm chúng ta ở Boston.” Nó mở cửa chỗ nối với toa tiếp theo và đẩy Dan lên trước mình. Đây là toa chở thư. Hàng trăm túi vải chất đống la liệt, cùng với các kiện hàng và giỏ thư đủ mọi hình dáng và kích cỡ. “Amy này...” Dan bắt đầu chất những chiếc hộp chặn trước cửa sập. Ngay lập tức chị nó hiểu ra vấn đề. Cả hai hợp sức dựng lên một chiến lũy từ các giỏ hàng, nhét cái món trên cùng - là một đùi heo sấy khô - chẹt vào dưới tay nắm cửa. Dan thử thử nâng nó lên. Nó không hề nhúc nh Một loạt tiếng quát tháo huyên náo cất lên từ toa bên cạnh. Nhà Holt sắp đuổi đến nơi. Amy và Dan tìm lối để thoát ra phía trước, trườn qua các túi thư. Amy bước vào khoang nối và lần tìm cánh cửa sập để đến toa kế tiếp. Cửa khóa. Nó nện thình thịch vào tấm kính đã bị trầy xước. Phía sau là gian của nhân viên đoàn tàu, trong đó có trường kỷ và giường nằm, chẳng thấy một ai. Con bé nện mạnh hơn nữa. Không ai trả lời. Cả hai đã bị dồn vào đường cùng. Phía ngoài toa tàu, bản mặt như đá granite của Eisenhower xuất hiện trên cửa sổ. Cả đoàn tàu như rung chuyển khi gã huých vai vào cánh cửa. “Dẫu sao họ cũng là họ hàng của chúng ta,” Amy lập luận không lấy làm chắc chắn lắm. “Họ sẽ chẳng bao giờ làm hại chúng ta thật đâu...” “Họ suýt nữa đã chôn sống chúng ta khi còn ở Paris còn gì!” Dan vặn lại. Từ trên sàn tàu, nó rút ra một cây gậy hockey trong lớp giấy gói màu nâu. “Em không có ý định nghiêm túc đấy chứ...!” Ngay lúc đó, Eisenhower chạy ra xa lấy đà và huých vào cánh cửa. Trong tiếng đổ đinh tai, cánh cửa sập vỡ toác ra và rơi ập xuống người Dan. Thằng bé té một cú thật mạnh. Cây gậy lăn lạch cạch trên sàn. “Dan!” Giận đến điên người, Amy vớ lấy cây gậy và nện vào đầu Eisenhower. Súc thịt to lớn đó lãnh trọn cú đánh, lảo đảo và ngã phịch xuống một bao thư. Dan đứng dậy, rất đỗi ngạc nhiên. “Oa! Đo ván luôn!” Chiến thắng không kéo dài quá lâu. Nhà Holt đã ập đến toa tàu. Madison chộp cổ áo Amy. Reagan kéo Dan bật dậy. Hai đứa đã bị thó gọn. Chương 2 “Ôi cục cưng!” Mary - Todd Holt quỳ xuống bên ông chồng. “Ông có làm sao không?” Eisenhower ngồi dậy, trên đỉnh đầu phồng lên một cái bướu to bằng quả trứng. “Tất là nhiên sao không hết!” gã ráng trả lời vợ, từ ngữ líu ríu lộn tùng phèo hết cả lên. “Bà nghĩ là cái con côn trùng bé tí kia có thể dừng được tôi à?” Reagan vẫn nghi ngờ. “Con không biết đâu cha à! Con nhỏ đó đã nện cây gậy bóng chày vào đầu cha đó!” “Gậy hockey,” Dan chỉnh lại. “Đó có thể là những từ cuối cùng mày thốt ra đấy, thằng oắt con...” Nạn nhân đứng thẳng trên hai chân, rồi lại lảo đảo và suýt đổ ập xuống lần nữa. Bà vợ ngay lập tức đỡ lấy gã, nhưng Eisenhower xua bà ra. “Tôi ổn mà. Chỉ là tàu đang chạy đó thôi. Bà nghĩ tôi không chịu được nổi một cú sao? Ngày trước ở West Point chúng cũng nói như vậy, còn giờ thì hãy nhìn tôi đây!” “Mấy người muốn gì?” Amy gặng hỏi. “Đó là hãy liệu mà động não đi,” Mary - Todd bảo. “Hãy đưa bọn ta đầu mối ở Paris, và bọn bây sẽ được yên thân.” “Như vậy đã là tốt hơn cái bọn bây xứng đáng nhận được rồi,” Chồng bà ta chêm vào, tay khẽ khàng xoa đầu. “Tụi này không có thứ đó,” Amy nói. “Chính nhà Kabra đang giữ nó.” “Bọn chúng chỉ lấy cái chai,” Madison chỉnh lại. “Đừng lo, sớm muộn gì tụi kia cũng phải trả giá. Nhưng bọn mày lại giữ tờ giấy.” “Tờ giấy nào chứ?” Dan bướng bỉnh vặn lại. Đáp lại Dan, Eisenhower túm lấy cổ áo thằng bé và nhấc nó lên dễ như nó có thể giơ tay ngoắc người bồi tàu. “Nghe này, đồ bọ xít nhãi nhách. Mày nghĩ tụi mày ngon vì được mụ Grace ưu ái chứ gì. Nhưng với tao, hai đứa tụi bây còn chưa bằng cái thứ người ta phải dọn dẹp đổ đi ở dưới đáy lồng chim, rõ chưa!” Bàn tay to kềnh của gã thắt cổ Dan, kẹp siết lại như một chiếc kìm công nghiệp. Dan há miệng cố hớp hơi để hít vào và nhận thấy chẳng được tí ti không khí nào. Nó đang bị siết cổ. Mắt nó dõi sang mắt chị nó, nhưng không sao tìm ra sự giúp đỡ, mà chỉ thấy một nỗi sợ hãi y hệt với nỗi sợ trong đôi mắt nó. Người ta luôn thấy nhà Holt trông thật tức cười, với dáng người vạm vỡ như lực sĩ, thứ biệt ngữ chỉ đạo đầy hăng hái và những bộ đồ thể thao phù hợp không kém. Thế nhưng đây mới chính là hồi chuông cảnh tỉnh lạnh ngắt. Bọn họ là những kẻ thù đầy nguy hiểm. Khi tình thế trở nên quá căng, họ thậm chí có thể... Làm điều gì chứ? Amy không hề muốn biết đó là gì. “Ngừng lại ngay! Bọn này sẽ đưa các người bất kỳ thứ gì các người muốn!” Madison hoan hỉ. “Con đã nói mà, cứ ép hết ga là tụi nó sẽ phun ra thôi.” “Coi nào, Madison,” Mẹ nó nhắc nhở. “Amy đã làm điều khôn ngoan. Không phải nhà Cahill ai cũng có được điều đó đâu.” Amy chạy đến bên cạnh Dan, khi nó bị ném thẳng không chút khách khí xuống một cái túi đựng thư lổn nhổn. Amy nhẹ cả người khi thấy sắc hồng hào của cậu chàng đã về lại trên má. Dan bực tức. “Chị đâu cần phải làm như vậy “Bà Grace không muốn chúng ta bị giết đâu,” Amy thì thầm. “Bọn mình sẽ tìm cách khác.” Nhà Holt bắt đầu diễu binh về phía cuối đoàn tàu. “Chẳng hiểu tí mô tê gì,” Eisenhower lầm bầm trong lúc nhân viên khuân vác lướt qua gã. Miễn cưỡng, cả đám trở lại ghế ngồi của chúng. Hamilton ngồi cùng với Nellie, cái tảng thịt ô dề của nó ép cô sát về phía cửa sổ tàu. Thế nhưng sự khó chịu của cô nàng au pair nhanh chóng bị quên đi ngay khi vừa nhác thấy Amy và Dan. “Bọn kia có làm tụi em đau không?” Cô nàng hỏi đầy lo âu. “Hai đứa không sao chứ?” “Tụi em ổn,” Amy trả lời vẻ buồn bã. Quay sang Eisenhower, nó nói thêm, “Nó nằm ở khoang hành lý phía trên đầu ấy.” Nhà Holt suýt nữa thì giẫm bừa lên nhau vì háo hức mở tung khoang hành lý ra. Ngaoooo, con Saladin nhảy tọt xuống sàn. Liền sau đó là một trận bão giấy bị nghiền nát bươm - tất cả những gì còn sót lại của tờ nhạc phổ do chính Mozart chắp bút. “Ôi đầu mối của chúng ta!” Nellie thét lên. “Của các người sao?” Tiếng gầm của Eisenhower nghe ra không phải của con người. Gã chộp lấy con Saladin, dốc ngược xuống và lắc liên hồi. Với một tiếng oẹ của loài mèo mà nghe tựa như một tiếng nấc, Saladin ợ ra một túm lông dính toàn các nốt nhạc theo đúng nghĩa đen. Không còn cứu vãn được gì nữa. Chỉ toàn là giấy vụn. Cơn tam bành của Eisenhower Holt cho thấy cơ bắp của gã đã phát triển lên tới tận dây thanh quản. Cơn giận khiến cho hành khách phải ùa nhau kéo sang các toa bên cạnh để tránh. Một lúc sau, một nhân viên soát vé mặc đồng phục lao nhanh đến lối đi chính giữa, xoay xở đi xuyên qua đám hành khách đang hoảng h “Cái quái gì đang xảy ra ở đây vậy?” Người đàn ông lên tiếng bằng giọng Pháp đặc sệt. “Vui lòng cho tôi xem vé tàu của ông.” “Thứ này mà gọi là tàu à?” Eisenhower gào lên. “Nếu mà ở Mỹ, tao cũng chẳng cho con chuột ở nhà tao đi cái thứ cà tàng cà dịch này đâu!” Nhân viên soát vé đỏ chín mặt. “Rồi ông sẽ phải nộp lại hộ chiếu, monsieur à! Ở ga kế tiếp, ông sẽ phải nói chuyện phải quấy với chính quyền!” “Tại sao phải chờ chứ?” Eisenhower quẳng con mèo vào tay Amy. “Giữ lấy con chuột của tụi mày này. Nhà Holt - tấn công!” Cả năm thành viên nhà Holt chạy đến cánh cửa nối liền các toa tàu và lao thẳng ra khỏi con tàu đang chuyển động. Amy và Dan thò hẳn ra ngoài cửa sổ chứng kiến cảnh những anh chị em họ của chúng đang cuộn mình lăn xuống sườn đồi theo đội hình khít. “Úi chà chà!” Nellie thốt lên. “Không phải ngày nào cũng được thấy cảnh này đâu nha.” Amy nước mắt lưng tròng. “Em ghét bọn này! Giờ chúng ta đã mất đầu mối duy nhất rồi!” “Không phải vậy đâu Amy ạ,” Dan điềm tĩnh nói. “Chỉ là nhạc. Ngay cả khi nó được Mozart viết - hàng khủng.” “Thật sự là hàng khủng đấy,” Cô chị than thở. “Chúng ta không thể tìm ra bí mật ẩn giấu bên trong không có nghĩa là nó không có bí mật nào. Chí ít chị cũng đã muốn chơi thử các nốt nhạc trên một cây dương cầm nào đó. Có thể nó sẽ cho chúng ta biết một điều gì thì sao.” Dan bỗng ra vẻ ngạc nhiên. “Chị muốn mấy nốt nhạc sao? Dễ ợt.” Nó hạ khay bàn gấp trước mặt xuống, lấy ra một tờ giấy ăn và bắt đầu vẽ. Amy hết sức kinh ngạc quan sát nó vẽ ra 5 dòng k bắt đầu đặt các nốt nhạc vào. “Em đâu biết viết nhạc hả!” “Có thể là vậy,” Dan đồng ý, đầu vẫn không ngẩng lên. “Nhưng em đã nhìn tờ nhạc phổ ấy suốt từ lúc ở Paris đến giờ. Chính là nó đây. Em bảo đảm với chị.” Amy không tranh cãi nữa. Em của nó có trí nhớ bằng hình ảnh. Đã nhiều lần người bà quá cố khen ngợi về điều này. Làm sao nó biết một ngày nào đó tài năng của thằng em trở nên quan trọng đến thế? Vào lúc đoàn tàu lạch đạch trườn qua biên giới vào nước Đức, Dan đã hoàn thành việc tái tạo tờ nhạc phổ, chính xác đến từng chi tiết. Còn Saladin thì không được phép bén mảng đến gần. Trong lúc Amy, Dan và Nellie bước khỏi ga Westbahnhof ở Vienna, cả ba không hề mảy may biết rằng chúng đang bị theo dõi. Ở băng sau một chiếc limousine đen cáu cạnh đậu đối diện cổng chính, Natalie Kabra quan sát qua một cặp ống nhòm siêu cự ly, dõi theo từng cử động của cả ba. “Em thấy chúng rồi,” Con bé nói với thằng anh trai ngồi cạnh trên lớp đệm da mềm mại bên trong xe. Rồi nó làm bộ dạng khinh bỉ. “Chúng nó lúc nào cũng trông như bọn vô gia cư. Hành lý của chúng nó đâu nào? Một cái túi len thô và mấy chiếc ba lô. Bộ chúng nó nghèo dữ vậy sao?” “Nghèo không thể chấp nhận được đối với dòng họ Cahill,” Ian đáp trống không, trong khi bận suy ngẫm về một nước cờ trên màn hình chiếc limo đang hạ xuống. Kể từ khi ở Paris, nó đã và đang đấu trí với chiếc siêu máy tính của Nga mang tên Vladivostok. “Một nước đi mới ngu ngốc làm sao,” Nó lèm bèm với đối thủ. “Anh nghĩ máy tính phải thông minh chứ.” Natalie thấy khó chịu. “Ian, anh có thể tập trung hơn được không? Trí thông minhạng không có nghĩa là chúng ta vẫn cứ lẹt đẹt ở đây đâu.” Anh nó rất thông minh, thằng này luôn nghĩ chẳng ai thông minh hơn mình cả. Mà đôi khi chính lẽ thông thường mới có giá trị chứ không phải là chỉ số IQ. Ian có thừa IQ. Natalie biết việc của mình chính là phải thêm vào chút ít lẽ phải trái cho thằng anh. Natalie nể phục tài năng của anh mình - nhưng anh nó vẫn phải có ai đó canh chừng. Hí hửng cười, Ian cho thí con tượng khi đã tài tình tìm được cách chiếu tướng chỉ trong vòng 7 nước đi nữa. “Chúng ta đã có chiếc lọ ở Paris,” Ian nhắc con em. “Không một đội nào có cửa giành chiến thắng hết. Đặc biệt là những đứa Cahill kiết xác kia. Chúng ta sẽ chiến thắng.” “Hoặc sẽ thất bại, nếu như quá tự tin,” Con em lại nhắc nhở thằng anh. “Chờ đã... tụi nó đang vào taxi.” Nó vỗ vào kính xe. “Tài xế... hãy đuổi theo chiếc xe đó.” Chương 3 NÓI TỚI KHÁCH SẠN, không phải hễ cứ to hơn là tốt hơn - nhưng căn phòng họ thuê tại Franz Josef cũng không khác một cái nhà kho là mấy. Mặt khác, giá thuê có thể chấp nhận được và Nellie tuyên bố rằng ở đây sạch sẽ. “Em vẫn muốn chúng ta lẽ ra nên ở tại khách sạn Wiener,” Dan càu nhàu. “Đọc là Vee-ner,” Nellie sửa lại. “Từ đó có nghĩa là một người sinh sống ở Vienna - như chữ Bostonian để chỉ người sống ở Boston.” “Nghe vẫn vui tai chứ bộ,” Dan cố chống chế. “Em sẽ quay lại đó để xin một chiếc bảng hiệu của họ cho bộ sưu tập của em.” “Chúng ta không có thời gian cho việc đó đâu,” Amy quát lên, đặt con Saladin xuống đất. Ngay lập tức con mèo khám phá căn phòng, như thể nó có cơ may tìm ra cá hồng tươi khoái khẩu ở đâu đó. “Chúng ta đã đến Vienna trót lọt, nhưng vẫn chưa biết sẽ phải làm gì tiếp theo.” Dan mở khóa kéo của chiếc túi len thô của Nellie và lấy chiếc laptop ra. “Chị có thể nhìn vào những nốt nhạc cho tới khi mắt lồi hết cả,” cậu nói trong khi đang cắm cục adapter 220V vào và bật. “Nếu ở đâu cũng có câu trả lời, trên mạng cũng sẽ có.” Amy bực tức. “Em nghĩ em Google ra bằng hết giải pháp cho các vấn đề trên thế giới ngày nay sao.” “Không, nhưng em có thể Google về Mozart.” Mắt nó mở tròn. “Chao ôi - tới 36 triệu hit! Nhìn đây này - Mozart, một Wiener nổi tiếng nhất mọi thời đại. Em cá là người dân ở Oscar Mayer[1] sẽ cãi cọ về vụ này cho coi.” [1] Oscar Mayer: được đặt tên theo một di dân gốc Đức, người đồng sáng lập thương hiệu thực phẩm xúc xích nổi tiếng và lâu đời nhất nhì nước Mỹ. Hãng có loạt xe chuyên dụng để quảng bá sản phẩm mang tên Wienermobile xuất hiện từ năm 1936. “Chị rất chắc chắn công việc của chị là bảo ban hai đứa trưởng thành.” Nellie nói một cách lơ đãng, mắt nhìn ra cửa sổ. “Mấy đứa biết đó, Vienna là một thành phố rất đẹp. Hãy quan sát xem kiến trúc của nó kìa - chị cá rằng nhiều tòa nhà ngoài kia có tuổi đời từ tận thế kỷ 13!” Amy trỏ tay. “Em nghĩ đằng kia là tòa tháp của Giáo đường Thánh Stephan. Nó phải cao cỡ một cao ốc văn phòng ở Mỹ ấy chứ!” Khắp nơi, các miệng máng xối, các mặt tiền bằng đá điêu khắc tinh xảo, các họa tiết hình lá bằng vàng ánh lên trong ánh nắng mặt trời. Xa xa phía trên các mái nhà gần nhất, Ringstrasse, một đại lộ rộng thênh, đang chuyển đưa từng dòng khách bộ hành và xe cộ qua lại. Dan chẳng hề chú tâm đến cảnh trí, nó hoàn toàn tập trung vào việc lướt web. “Dòm xem này, Amy. Em đã hoài công chép lại cái thứ nhạc ngốc nghếch đó. Toàn bộ đều có trên Internet. Tác phẩm đó tên là gì nhỉ, nhắc lại em với?” Amy lao ngay đến bên cạnh Dan và nhìn qua vai nó. “KV 617 - một trong những tác phẩm cuối đời của Mozart... đây rồi!” Dan nhìn qua tờ phổ, đôi lông mày nhíu lại. “Đúng là nó rồi - gần như vậy. Tất cả đều hệt như nhau cho đến chỗ này...” Nó trỏ. “Thế rồi...” Amy lấy miếng giấy ăn trên tàu rồi cầm nó đặt cạnh màn hình máy tính. “Khác nhau sao?” “Không hoàn toàn,” Dan đăm chiêu “Chị thấy không? Ở đây nó lặp lại từ đầu. Nhưng có ba dòng mà bản trên Internet lại không có. Lạ thật, đúng không? Cứ như là trang web đã thiếu sót gì đó.” “Hay là,” Amy hồi hộp, cặp mắt chớp liên hồi. “Mozart đã thêm ba dòng này vào bản nhạc ông gửi cho Ben Franklin ở Paris! Dan - chúng ta đang đi tìm một thông điệp bí mật giữa hai danh nhân nổi tiếng nhất trong lịch sử! Những dòng viết thêm này chính là đầu mối đó!” Dan không hề dao động. “Khác nhau cái gì chứ? Chúng ta còn không biết phải hiểu nó ra sao kia mà.” Amy thở dài bực bội. Em nó còn chưa chín chắn và thật phiền phức. Nhưng mà có lẽ đặc điểm khó chịu nhất chính là điều không thể chối cãi: nó thường hay đúng. *** Mozarthaus, số 5 đường Domgasse, là một bảo tàng kiêm thư viện dành cho nhà soạn nhạc lừng danh. Tọa lạc ngay tại căn nhà duy nhất của Mozart còn được bảo quản đến tận ngày nay, đây là một địa điểm thu hút khách tham quan. Chỉ mới 9 giờ sáng mà du khách đã xếp hàng cả nửa con phố chờ đến lượt mình vào tham quan. Dan bực dọc nói. “Đây là nhà Mozart mà, đâu có phải công viên Disneyland! Người ta đang làm cái gì ở đây vậy chứ?” Cô chị trợn mắt nhìn thằng em. “Đây chính là nơi Mozart đã từng sống. Có khi còn có cả chiếc giường trước kia ông đã ngủ. Chiếc ghế ông đã ngồi. Chiếc bình mực ông đã dùng để viết nên những tác phẩm hay nhất thế gian này.” Dan sụ mặt. “Còn em thì đang phải đứng xếp hàng chỉ để thấy một căn nhà có toàn đồ cổ sao?” “Phải, Dan à,” Amy khẳng định. “Cho tới khi chúng ta hiểu được ý nghĩa của đầu mối kia, cô của chúng ta là phải tìm hiểu về Mozart càng nhiều càng tốt. Ai biết được khi nào chúng ta sẽ tìm thấy một thứ gì đó cho biết chúng ta đang tìm kiếm cái gì chứ?” “Trên một chiếc ghế sao?” Dan hỏi đầy vẻ nghi ngờ. “Có thể chứ. Nghe này - chúng ta biết nhà Holt đang theo dấu mình và chị cá là đám còn lại cũng không cách nhà đó quá xa đâu. Họ lớn tuổi hơn chúng ta, thông minh hơn chúng ta, giàu có hơn chúng ta. Không được bỏ phí một giây nào cả.” Phải 40 phút sau cả hai mới thật sự vào được bên trong căn nhà. Dan không thích thú gì với màn chờ đợi, nhưng giờ thì nó đã sẵn sàng thừa nhận đây mới chính là phần thú vị nhất của chuyến đi. Vai kề vai với những vị khách tham quan khó ưa và những kẻ mê nhạc phù phiếm, cả hai rảo quanh gian phòng của nhà soạn nhạc vĩ đại, lần theo một dải dây thừng màu tím. Một du khách người Úc bỗng nhiên xúc động quá đỗi trước những đồ vật của nhà soạn nhạc đại tài nên đã bật khóc thật sự. “Nào bạn hiền, đừng khóc chứ. Sẽ chóng qua thôi mà,” Dan làu bàu khe khẽ. Giá mà nó có thể khiến cho chính mình tin vào điều này. Người ta nhắc bọn trẻ nhà Cahill không được phép đụng vào bất kỳ vật gì bằng ít nhất 6 ngôn ngữ khác nhau. Mỗi nhân viên bảo vệ trong tòa nhà chỉ cần nhìn vào Dan và ngay lập tức họ biết nó có thể khuấy tung mọi thứ ở đây lên rồi. Cứ mỗi chu và choa thốt lên từ đám đông mộ điệu Mozart, vai của Dan lại chùng xuống một ít. Amy cũng khổ sở không kém, nhưng là vì một nguyên nhân khác. Khi ta không biết đang tìm cái gì thì sẽ khiến cho cuộc tìm kiếm chẳng khác gì hơn sự vô vọng. Nó dò xét từng khoảng trống trên bức tường màu trắng tìm xem có các dấu hiệu mã hóa hay không, cho đến khi đầu nó ong lên và đôi mắt hăm he muốn nhảy ra khỏi hốc mắt. Nhưng rõ ràng là căn phòng này vẫn được giữ nguyên như trước kia - một gian phòng hơn hai trăm năm tuổi được biến thành một viện bảo tàng. Chúng ta trông đợi sẽ tìm thấy gì? Amy ủ rũ tự nhủ. Một bảng hiệu đèn neon ghi rằng - Nhà Cahill hãy lưu ý: Đầu mối đằng sau chiếc gương sao? Trên đời có cái gì dễ dàng đến thế Khi cả hai quay trở về lối ra, Dan bật một tiếng thở dài thật sảng khoái. “Ơn Chúa, thế là đã xong. Chí ít Ben Franklin còn có một vài phát minh hay ho. Gã này cứ ngồi lì viết nhạc suốt ngày. Hãy ra khỏi nơi này đi nào. Em cần hít thở chút không khí không bị nhàm-văn-chán.” Amy miễn cưỡng gật đầu. Ở nơi đây không có gì để tìm cả. “Chị nghĩ tụi mình nên quay về khách sạn. Không biết chị Nellie có cho con Saladin ăn uống gì không.” Dan ra vẻ lo lắng. “Em nghĩ có thể chúng ta sẽ phải bán một ít nữ trang của bà Grace để mua cá hồng nữa đó.” Ngay lập tức, Amy thở hắt ra một tiếng khe khẽ rồi nắm lấy tay thằng em. “Ok, được rồi,” Dan bảo. “Cứ giữ lấy sợi dây chuyền của bà...” “Không, nhìn này. Có một thư viện bên dưới tầng hầm. Thư viện về Mozart đó!” “Amy à, đừng làm vậy với em nữa mà! Thuốc chữa chán không phải là tìm cái gì đó còn chán hơn nữa đâu!” Thế nhưng khi nó bước xuống cầu thang đi vào cái thư viện u ám, bụi bặm, Dan vẫn bám theo. Xét cho cùng, nhiều đầu mối tốt nhất của cả hai đã đến từ các thư viện đó thôi. Và hơn nữa, nếu cả hai đã rời khỏi Mozarthaus trắng tay, điều đó có nghĩa là nhóc Dan chưa có gì để phải chịu đựng cả. Thư viện này không cho mượn sách. Chiếc máy tính già hai thập kỷ lưu trữ một danh mục các đầu sách ở đây. Một khi đã quyết định xong cần thứ gì, chúng ta sẽ điền vào mẫu giấy yêu cầu và gửi cho bà thủ thư nom tựa như bà ngoại của Mozart. Hai đứa chờ đến phiên mình để sử dụng máy, và Amy sử dụng bàn phím. Nó chuyển ngôn ngữ từ tiếng Đức sang tiếng Anh và tìm kiếm KV 617, sau đó là Ben Franklin. Không tìm thấy gì mới mẻ, Amy bèn chuyển sang đời tư của Mozart. Đây là lúc con bé tìm thấy Maria Anna “Nannerl” Mozart. “Mozart còn cười chị lớn nữa!” Amy thì thầm nhưng với giọng lanh lảnh. “Em thông cảm cho ông ta,” Dan vừa nói vừa ngáp. “Chị nhớ Grace đã từng nói về bà này,” Amy tiếp tục nói. “Bà ấy cũng tài năng chẳng kém gì Mozart, nhưng lại không được đào tạo lẫn tiếp xúc với âm nhạc bởi vì bà là một đứa bé gái.” Amy đẩy thanh ngang xuống phía dưới tập tin. “Và nhìn này! Nhật ký của bà ở ngay tại thư viện này!” Dan phật ý. Nó biết Amy gần gũi bà ngoại hơn, nhưng ngay cả như vậy thì nó vẫn không lấy gì thích thú với những điều chị của nó và người bà quá cố đã tâm sự cùng nhau. “Em nghĩ chị đang tìm về Mozart chứ đâu phải chị của ông ta.” “Nếu Mozart là người nhà Cahill thì Nannerl cũng vậy,” Amy phân tích. “Nhưng mà vẫn còn có một cái gì khác nữa. Hãy nhìn chúng ta đây. Cả buổi sáng này với em thì thật mù mờ, còn chị lại nhớ đến từng chi tiết. Liệu điều này có giống với Mozart và Nannerl không?” “Tuyệt vời. Giờ thì chị gọi Mozart là đồ ngốc.” Nó ngẩng đầu lên bực tức. “Và em nữa!” “Không phải ngốc. Nhưng não của con trai có cấu tạo hoàn toàn khác. Chị cá rằng sẽ có những thứ Nannerl đã ghi trong nhật ký mà chính Mozart có đến một triệu năm cũng không buồn để ý tới.” Amy nhanh chóng điền vào mẫu giấy yêu cầu và trao cho người thủ thư lớn tuổi. Người thủ thư rất lấy làm ngạc nhiên. “Đây chính là nhật ký viết tay bằng tiếng Đức. Hai đứa có đọc được tiếng Đức không?” “Đờ-ược ạ...” Amy trả lời ấp úng. “Tụi con rất cần đọc quyển nhật ký này.” Dan nói to vẻ dứt khoát. Khi người thủ thư khật khà đi tìm quyển sách, nó thì thào. “Chắc hẳn trong cuốn sách sẽ có thứ gì đó chúng ta có thể hiểu được - một bản vẽ, các ghi chú được ẩn giấu, cũng giống như mấy thứ của Franklin Amy gật đầu đồng ý. Có manh mối dù là nhỏ nhất dẫu sao vẫn còn hơn là chựng lại ở con số 0 tròn trĩnh. Hai đứa đợi tưởng chừng như đã lâu lắm. Rồi chúng nghe có tiếng thở hổn hển và tiếng kêu khe khẽ, rồi người thủ thư chạy trở lại, khuôn mặt tái mét, đôi mắt mở to. Với đôi bàn tay run lẩy bẩy, bà bấm số điện thọai và bắt đầu nói bằng giọng thật hoảng hốt. Cả hai không hiểu được tiếng Đức, nhưng Amy và Dan có thể nhận ra từ duy nhất rất đỗi quen thuộc - polizei. “Nghĩa là cảnh sát!” Amy thì thào vội vã. “Chị có nghĩ bà cụ này đã nhận ra chúng ta đang bị dịch vụ công ích truy lùng ở Massachussets không vậy?” Dan hỏi gặng giọng lo lắng. “Làm sao có chuyện đó được? Thậm chí chúng ta có nói tên tuổi ra đâu!” Câu trả lời đến từ chính bà thủ thư đang như quẫn trí. “Ta rất lấy làm tiếc! Đây quả là một bi kịch! Nhật ký của Nannerl đã không còn nữa! Nó đã bị đánh cắp!” Chương 4 NELLIE GOMEZ CHƯA TỪNG LÀM NGƯỜI CHĂM SÓC MÈO. Đó là trước khi cô trở thành người chăm sóc con mèo Mau giống Ai Cập không chịu chén đồ ăn đóng hộp. Cô tắt iPod đi và hết mực chăm chút cho Saladin. Cô hy vọng rằng giờ đây con mèo chịu ăn. Nhưng dường như con mèo còn khó tính hơn vẻ ngoài của nó. Cô từng nghe nhiều câu chuyện về tính cách xuất chúng của bà Grace Cahill. Rõ là bà ngoại của Amy và Dan cũng cố gắng khơi gợi một tính cách tương tự nơi chú mèo cưng của mình. Còn phiền phức hơn nữa, con Saladin cứ gãi miết vào chỗ cổ và tai của nó. Nellie nhấc con vật lên. “Có chuyện gì vậy cưng? Mày có rận sao?” Cô nghĩ về rận chỉ trong một tích tắc rồi nhanh chóng đặt ngay con mèo xuống. Nellie là cô nàng dám tạm ngưng việc học hành để dẫn dắt hai đứa trẻ vào một cuộc tìm kiếm kho báu cam go vòng quanh thế giới. Nhưng cô lại không ưa được lũ chấy r Bỗng có tiếng chìa khóa tra vào ổ, rồi Amy và Dan lê bước vào phòng. “Úi chà,” Nellie thốt lên. “Một buổi sáng mệt nhọc nhỉ?” “Ôi, te tua toàn tập,” Dan trả lời với giọng châm biếm. “Chị hãy hình dung một căn nhà cả triệu năm tuổi hoàn toàn không có video game và tới khi tìm thấy được một quyển sách để đọc thì nó thậm chí cũng không còn ở đó nữa. Một lũ ngốc xít! Đi gọi cả quân đội đến chỉ vì một quyển nhật ký biết đâu đã bị mối mọt ăn béng từ thế kỷ trước rồi.” “Mối ăn gỗ, không phải giấy,” Amy nhắc nó, quá sức mệt mỏi và chán nản để châm ngòi cho một cuộc cãi vã ra trò tiếp theo. Nó lôi ra một cái túi. “Dẫu sao tụi em cũng đã mua bữa trưa về.” Nellie trố mắt nhìn. “Burger King à? Chúng ta đang ở Áo, đất nước của thịt cốt-lết bê Schnitzel, thịt rán Sauerbraten, của măng tây trắng, của món bánh bột ngon nhất trên thế giới, còn hai em lại xách về đồ ăn nhanh của Mỹ sao? Chị nghĩ đó phải là Dan chứ sao lại là em hả Amy?” Dan lấy một cái burger, vặn TV và đổ phịch xuống ghế đệm. “Măng tây trắng á! Bộ màu xanh chưa đủ gớm ghiếc hay sao. Mèn ơi, cứ như những điếu thuốc ướt nhoét trơn trợt.” Màn hình tivi sáng lên. Hình ảnh nổ tanh tách rồi sắc nét trở lại. Cả ba cái quai hàm trễ xuống. Ngay chính giữa màn hình đập vào mắt là hình ảnh của một gã thiếu niên hết sức quyến rũ, chói lóa trong bộ đồ hip hop thời trang nhất hiện nay. Cười nhe sạch sành sanh 32 cái răng trắng lóa, anh chàng đang chủ trì một cuộc họp báo, trong lúc bầy phóng viên và đám đông fan hâm mộ vây kín xung quanh. Cậu thiếu niên hoàn toàn thoải mái với tiếng tăm tên tuổi của mình, và tại sao lại không kia chứ? Cậu có chương trình truyền hình thực tế ăn khách nhất thế giới, có đĩa single đứng đầu các bảng xếp hạng nhạc pop, có chuỗi cửa hàng quần áo bán chạy nhất, một series sách thiếu nhi, nhân vật hành động, bộ dao bếp làm quà lưu niệm mà ai ai cũng biết đến, và cả nhà bào chế món kẹo bạc hà của riêng mình. Tên cậu nhóc là Jonah Wizard, một ngôi sao quốc tế, một kẻ vai vế lẫy lừng, một họ hàng nhà Cahill, một đối thủ khác cũng trong cuộc “Jonah!” Amy thốt lên, trán nó nhăn nhúm lại lộ rõ vẻ âu lo. Mỗi lần nghĩ đến cuộc tranh tài là nó lại thấy lo. Những đấu thủ kia dường như có quá nhiều thứ để phục vụ cho mục đích của họ - danh vọng, cơ bắp, kinh nghiệm, sự huấn luyện, và hàng đống, hàng đống tiền. Làm thế nào mà hai đứa trẻ mồ côi không tên không tuổi có thể đọ sức lại chứ? Con bé liếc mắt về bảng chỉ ngày tháng ở góc dưới màn hình. “Ghi hình ngày hôm qua! Gã này đang làm gì ở Vienne nhỉ?” “Cậu chàng đang trong chuyến lưu diễn quảng bá đĩa hát,” Nellie cung cấp thông tin. “DVD phiên bản châu Âu của album Who Wants to Be a Gangsta? sẽ trình làng vào tuần này.” “Chỉ là cái vỏ bề ngoài thôi!” Dan la lên. “Gã ở đây vì biết đầu mối kế tiếp có liên quan đến Mozart. Biết đâu gã đã tìm thấy thứ gì đó mà chúng ta đã bỏ qua ở Paris thì sao.” “Hay gã làm việc cho bọn nhà Holt,” Nellie thêm vào. “Hẳn là bọn kia đã dò xét xem đoàn tàu của chúng ta đi về đâu.” Amy quan sát gã anh họ nổi tiếng trên truyền hình. Vì sao con phố đó lại quen thuộc quá đỗi? Bất chợt, nó hiểu ra ngay. “Dan à - kia chính là Domgasse!” Dan chăm chú nhìn. “Đúng rồi! Mozarthaus chỉ cách nơi đó có vài cánh cửa mà thôi! Và trông này - chính là bà lão thủ thư, cái người đã gọi biệt đội SWAT[1] đến để thông báo về quyển nhật ký bị mất cắp!” [1] Viết tắt của Special weapons and tactics - lực lượng đặc nhiệm. Nellie cau mày trước người phụ nữ Áo luống tuổi đang đứng trong tư thế lom khom. “Không phải là ý chị nghĩ tới khi nhắc đến một fan hip hop kì cựu.” Amy nhún vai. “Em nghĩ mọi người ai cũng muốn xem mặt một ngôi sao tầm cỡ như vậy...” Đoạn hơi thở của nó nghẹn lại ở cổ. “Nào mọi người, em hiểu rồi! Liệu có tình cờ hay không khi mà Jonah lại lựa ngay nơi này để làm họp báo chứ? Lỡ đâu thằng này thực hiện ở đó nhằm đánh lạc hướng mọi người để tranh thủ thó lấy quyển nhật ký của Nannerl ra khỏi Mozarthaus thì sao?” “Có lý,” Dan đăm chiêu, “Ngoại tr việc nó đang trên màn hình, với hai mươi chiếc camera dí vào mặt, và không chôm chỉa thứ gì.” Amy lắc đầu không tán thành. “Đã bao giờ chúng ta thấy Jonah không có ông bố đứng ngay đằng sau nói chuyện điện thọai và bàn thương vụ làm ăn ngay trên chiếc BlackBerry của lão hay chưa? Vậy bố nó ở đâu trong buổi họp báo này chứ?” Dan gợi ý. “Biết đâu Jonah tổ chức buổi họp báo để cho ông bố của nó có cơ hội lẻn vào Mozarthaus và cuỗm đi quyển nhật ký cũng nên! Amy, chị đúng đó - quyển nhật ký quan trọng thật!” “Đúng vậy, và lúc này kẻ thù đang giữ nó trong tay!” “Chuối thật,” Dan đồng tình, “Chúng ta chỉ trễ có một ngày thôi. Nhưng mà...” Mắt nó lóe lên một tia cảm hứng. “Họ đã cuỗm quyển sách ra khỏi viện bảo tàng, cớ gì chúng ta không cuỗm lại quyển sách từ tay họ?” “Gượm đã,” Nellie xen vào. “Có sự khác biệt rành rành giữa việc tìm ra các đầu mối và việc lấy cắp của người khác. Tụi em đâu phải bọn đầu trộm đuôi cướp chứ.” “Thế nhưng cha con nhà Jonah đích thị là như vậy còn gì,” Dan cãi lại. “Nếu chúng ta thi tài với họ, chúng ta cũng phải sẵn sàng làm điều họ đã làm.” Nellie vẫn không suy chuyển gì. “Chừng nào chị còn là người giữ trẻ cho hai đứa...” “Au pair!” Dan thẳng thừng ngắt ngang. “...Chị sẽ không thể làm ngơ và để hai đứa lấn về phía cái ác.” “Nhưng như vậy chúng ta sẽ thua mất!” Dan rên rỉ. Amy lên tiếng, cử chỉ lấy làm trịnh trọng. “Dù có ghét phải đồng tình với Dan cỡ nào đi chăng nữa, thì nó vẫn có lý đấy. Em biết trộm cắp là việc làm sai, nhưng cuộc thi này thật quá to tát để chúng ta phải bận tâm xem có nên trở thành người tốt hay là không. Một cơ hội để tác động lên lịch sử nhân loại - chúng ta có thể thay đổi cả thế gian này!” “Có thể đó là cơ hội để thay đổi thế giới,” Nellie sửaĐó là điều ông William McIntye đã nói. Ông ấy cũng nói rằng, chớ có tin ai, kể cả chính ông.” Những giọt nước mắt bất ngờ trào ra từ hai mắt của Amy. Nó chớp chớp mi giấu chúng vào trong một cách bướng bỉnh. Điều nó nói ra rất quan trọng, sao lại nói trong sụt sùi nước mắt thế kia. “Chúng em chưa nhận biết được cha mẹ mình là ai thì họ đã qua đời. Chúng em chỉ có Grace và giờ bà cũng không còn nữa. Cuộc thi này quả là có quan trọng với những người bọn họ, nhưng với chúng em, nó là tất cả. Chúng em không thể làm nửa vời được. Chúng em phải làm bằng mọi giá. Điều đó có nghĩa là tìm các đầu mối bất kể chúng đang ở đâu - ngay cả khi chúng ở trong phòng khách sạn của một người nào khác.” Nellie vẫn không nói năng gì. Amy nuốt cục nghẹn trong cổ rồi nói tiếp. “Chị không phải là người nhà Cahill, nên chị cũng không nên liều mình làm gì. Nhưng nếu chị không chịu được những điều tụi em cần phải làm, tụi em đành tìm cách tiếp tục mà không có chị theo cùng.” Dan hết sức ngạc nhiên nhìn cô chị. Con đường trước mắt khi đó sẽ gian nan hơn, khó khăn hơn, nguy hiểm hơn gấp hai mươi lần nữa nếu không có cô nàng au pair này. Sự đùm bọc của người lớn là cần thiết trong mỗi đường đi nước bước, mỗi giới hạn, thậm chí là ở mỗi căn phòng bọn trẻ sẽ thuê. Trong cuộc thử sức này, rõ ràng hai đứa đã ở chiếu dưới. Tự làm một mình thì chúng chỉ có nước trông chờ vào phép màu mới đi được từ nơi này sang nơi khác, sống hết ngày này đến ngày khác. Nellie hiểu rõ lũ trẻ nhà Cahill. Cô đã quen với sự bốc đồng của Dan, còn Amy lại là đứa bé 14 tuổi đa sầu đa cảm nhất mà cô từng biết. Đột nhiên, Nellie bị một cơn tình cảm và danh dự xâm chiếm. “Tụi em nghĩ có thể gạt chị đi dễ thế sao?” Cô hỏi. “Đâu có ngon vậy chứ. Có thể đây là sô diễn của tụi em, nhưng chị vẫn là người đưa ra luật lệ. Không đời nào chị để mặc hai đứa đi thó đồ của gã siêu sao đó. Kéo ghế lại đây - chúng ta phải lên kế họach trộm cắp một cách bài bản chứ.” *** Khách sạn Royal Hapsburg tọa lạc ngay trung tâm quận Landstrasse của Vienne, trung tâm của giới thượng lưu quyền thế ở Áo. Tòa nhà từng là cung điện hoàng gia của đế quốc Áo Hung xưa kia, những chiếc đèn pha sáng lóa chiếu rọi khiến đá cẩm thạch và vàng lá bừng sáng cả bầu trời “Làm sao chúng ta biết đây là khách sạn của thằng đó?” Dan hỏi trong lúc cả ba đang lượn xung quanh dãy nhà. “Rất đơn giản,” Amy bảo. “Đây là nơi ngon lành, xinh đẹp nhất, đắt đỏ nhất trong thành phố. Hắn còn ở đâu khác nữa đây?” Nó trỏ vào cánh cổng lộng lẫy nơi hàng tá phóng viên và nhiếp ảnh gia đang bu quanh. “Đã đủ để chứng minh chưa nào?” “Buổi lễ ra mắt DVD mới của Jonah diễn ra lúc tám giờ,” Nellie nói xen vào. “Chắc hẳn cu cậu sẽ đi xuống, trò chuyện với cánh phóng viên vài phút, sau đó lại đến Eurotainment TV là nơi đang chủ trì buổi lễ. Trên báo, họ nói mọi người bất kể là ai đều đến được, hễ muốn tới thì cứ việc tới.” Dan cau mặt. “Em nghĩ chị đã hết làm fan của Jonah Wizard từ khi tay đó sỉ nhục chị ở tận Paris rồi chứ.” “Chị đang giúp hai đứa trộm đồ của hắn, có phải không? Chị đang nói đây là khi cu cậu xuất hiện ở chỗ này, có nghĩa rằng chúng ta có thể lẩn vào bên trong phòng hắn ở.” Như có ám hiệu, một chiếc Bentley màu trắng có tài xế riêng đi vào chỗ vỉa hè và dừng lại, chờ đợi VỊ KHÁCH CỰC KỲ QUAN TRỌNG. Bỗng có tiếng nhao nhao của cánh báo chí, và ngôi sao từ trong khách sạn bước ra, với người cha luôn luôn hiện diện sát phía sau đúng nửa bước chân. Máy ảnh lóe lên sáng rực trời đêm. “Mau lên!” Amy giục. “Không thể để gã thấy chúng ta được!” Cả ba nấp sau một sạp báo và quan sát Jonah trổ tài diễn thuyết trước đám đông. “Coiiii nàoo, yo?... Xin cảm ơn vì đã có mặt... Thật trân trọng...” Đằng sau nó, ngón tay của người cha cứ nhòe đi vì bận bấm trên chiếc BlackBerry, chắc hẳn để chia sẻ sự hào nhoáng của con trai mình cho cả thế gian. Cánh nhà báo bắt đầu tuôn ra hàng loạt câu hỏi dành cho ngôi sao. “Jonah, chúng ta có thể trông đợi điều ngạc nhiên nào ở DVD mới của câu phiên bản tại Châu Âu “Có tí sự thật nào không khi người ta đồn cậu đang hẹn hò với Miley Cirus[2]?” [2] Diễn viên, ca sĩ teen của hãng Walt Disney. “Cậu có biết thế võ kung fu mà nhân vật truyện tranh của cậu không đáp ứng được yêu cầu về an toàn hay không?” Jonah trả lời các câu hỏi này theo phong thái hằng ngày của nó, cố gắng sao cho thật ngon lành cành đào - vừa thành thị lại vừa dân dã. Amy không ưa Jonah, thế nhưng con bé không thể không ngưỡng mộ trước sự điêu luyện và kỹ năng của nó khi xử lý với các tay paparazzi[3]. Không chỉ đơn thuần là nói những điều hợp nhẽ với báo chí, Jonah còn biết cách làm cho báo giới yêu mến nó. [3] Paparazzi: Phóng viên chuyên săn ảnh Mình hoàn toàn trái ngược với tay này, Amy tự nhủ. Chỉ cái ý nghĩ nói chuyện với một đám đông khổng lồ đã khiến nó phát khiếp. “Này Jonah,” Một phóng viên gọi tên nó. “Cậu đã ở trên đỉnh thế giới ở tuổi 15. Cậu có lo rằng từ nay về sau cậu sẽ chỉ còn xuống dốc thôi không?” Cây đinh của dư luận cười toe toét. “Thong thả nào, yo. Ai nói tôi đã đến đỉnh rồi chứ? Thậm chí tôi còn không phải là trái chuối ngon lành nhất ở khách sạn này nữa mà. Anh à, đại Công tước của Luxembourg đang ở ngay đây. Chớ hiểu sai ý tôi, sao tôi cứ giống như đang nói càn vậy nhỉ. Thế nhưng chẳng phải làm hoàng tộc vẫn còn ngon hơn là có món kẹo đặt theo tên mình hay sao?” “Đi thôi,” Nellie giục. “Sự khiêm nhường của thằng này khiến chị phát ói.” Trong lúc Jonah tiếp tục phù phép đám đông, hai đứa trẻ Cahill và Nellie lẻn qua góc đường và lẩn vào bên trong khách sạn qua một lối đi ở bên hông. Cả ba bước qua một dã thang máy chạm trổ bằng vàng và lẻn qua một cánh cửa trên đó có tấm biển bằng tiếng Đức. “Chỉ dành riêng cho nhân viên,” Nellie khẽ dịch lại. “Chị biết cả tiếng Đức sao?” Amy ngạc nhiên kêu lên. Nellie nhún vai đáp, “Cái này giống như kiến thức thông thường thôi. Kìa, thang máy dành cho hành lý kia rồi.” Cả ba đi xuống dưới tầng hầm, nơi đó họ tìm thấy nguyên một mê cung toàn là những hành lang. Amy sợ sẽ bị ai đó trờ tới từ các góc quanh hay sau mỗi cánh cửa. Nỗi sợ khiến toàn thân nó lạnh ngắt, như thể cột sống của nó đã dính đầy ni-tơ lỏng. Sàn nhà cũng lạnh, nhưng không đủ lạnh để lý giải cho sự run rẩy của Amy. “Vì sao ở đây trống trải quá?” cuối cùng thì Amy lên tiếng. “Hầu hết nhân viên chỉ làm ca ngày,” Nellie phỏng đoán. “Đây rồi!” Cô nói tiếp, dẫn hai đứa đi qua cánh cửa vào trong một chỗ giống như phòng thay quần áo. Cô chọn bộ đồng phục của nhân viên dọn phòng từ một chiếc tủ lớn, đi ra đằng sau một cánh cửa rèm và nhanh chóng khoác bộ đồ lên người. “Có thể chúng ta nên bỏ luôn cái khoen mũi,” Amy dè dặt góp ý. “Không cần đâu,” Nellie trả lời. “Mớ áo bề bộn ở đây cần thêm tí bề bộn nữa. Nào hai anh chị.” Cô quẳng bộ quần áo của mình, rồi cả Amy và Dan, vào một chiếc xe làm phòng. Một chồng ga trải giường và khăn tắm được chất lên trên để giấu đi những hành khách nằm trong đó. “Làm sao chúng ta biết gã ở phòng nào?” Dan thì thào vọng lên từ dưới chồng quần áo trong lúc Nellie đẩy cả bọn hướng về phía thang máy. “Phòng dành cho hoàng gia, dĩ nhiên rồi,” Nellie lẩm bẩm. “Còn nơi nào đủ để chứa cái thứ bất tài vô tướng đó chứ? Và hãy yên nào. Quần áo mà đòi lên tiếng Thang máy đưa cả bọn lên tầng cao nhất, tầng 17. Nellie đẩy xe vào trong sảnh, dừng lại trước phòng 1700, nơi có một vương miện mạ vàng được trưng ngay phía trên cửa ra vào. Biết chắc mẩm nhà Wizard đang trên đường đến buổi tiệc, cô nàng mạnh dạn rút chiếc thẻ từ ra khỏi khay và đặt vào đầu đọc thẻ. Có tiếng bíp, đèn xanh sáng lên và cả bọn đã vào được bên trong. “Ái chà chà,” Cô nàng au pair thốt lên. “Vậy ra đây chính lối sống của kẻ Giàu có và Danh tiếng sao.” Căn phòng thật lộng lẫy với các món đồ nội thất cực kỳ quý hiếm; các món trang trí như sofa, ghế đệm theo phong cách thế kỷ 19, mềm mại, căng phồng và được bọc bằng nhung sang trọng; những chiếc đèn lồng và chậu hoa tinh tế của Trung Hoa; tất cả mọi thứ sực nức một phong cách quý phái. Nellie rướn người xuống chuẩn bị kéo hai đứa trẻ nhà Cahill ra khỏi nơi ẩn náu thì có một giọng đặc sệt lên tiếng thắc mắc, “Một cô hầu phòng lại không gõ cửa phòng Điện hạ hay sao?” Chương 5 THẤT THẦN, Nellie vội buông đám vải lanh xuống. “Ôi... tôi xin lỗi,” Cô cố xoay xở. “Tôi nghĩ căn phòng không có ai. Tôi có nhiệm vụ phải mang khăn tắm mới đến phòng nhà Wizard.” “Thưa quý cô kính mến, đây là phòng của ngài đại Công tước Luxembourg”. Môi trên của gã khẽ cong lên. “Còn tay diễn viên truyền hình người Mỹ thì đang ở phòng bên dưới - cùng với một bãi bầy hầy hắn ta tạo ra, nếu tôi có thể thêm vào.” Nellie bắt đầu đẩy chiếc xe ngược trở lại cánh cửa. “Xin ngài thứ lỗi. Tôi sẽ ra khỏi nơi đây ngay.” “Nếu có thể, mong cô hãy chờ đôi chút. Vì cô đang có mặt tại đây, giường ngủ của điện hạ cũng đang cần chỉnh trang đôi chú Nellie vẫn tiếp tục đẩy xe về phía cửa. “Nhưng mà, tôi thật sự cần có mặt tại phòng nhà Wizard thưa ngài...” “Nhảm nhí. Chỉ mất có một chút thời gian thôi. Và vẫn còn nhiều vấn đề mà tôi muốn có sự quan tâm của cô đấy. Nếu cô vui lòng đi theo tôi vào trong phòng tắm...” “Tôi đến ngay đây,” Cô gọi với theo. Đoạn cúi xuống thùng đựng vải lanh, ấn thẻ chìa khóa vào đó và khẽ nói, “Khi nào nghe tiếng chị ở phòng kế bên, hãy ra khỏi đây ngay!” “Còn chị thì sao?” Amy rít lên khe khẽ. “Tự chị xoay xở được. Em lấy cuốn nhật ký đi. Chị sẽ gặp lại hai đứa tại khách sạn chúng ta đang ở. Hãy thận trọng!” Rồi cô đi mất. Một lúc sau, cả hai nghe được giọng cô nói thật lớn, “Căn phòng tắm này còn lớn hơn cả căn hộ tôi đang ở!” Các tấm ga bay tung lên, Amy và Dan trườn ra khỏi chiếc xe đẩy và băng thẳng qua cánh cửa đi vào hành lang. “Jonah ở dưới đây một tầng,” Dan ré lên. Hai đứa chạy về phía thang bộ. Căn phòng 1600 giống hệt căn phòng đồng hạng ở tầng trên, ngoại trừ chiếc vương miện là không có. “Tội nghiệp Jonah nhỉ,” Amy mỉa mai khi hai đứa đi vào căn phòng với chiếc thẻ chìa khóa trong tay. “Nó thật sự sống trong nghèo khổ ở nơi này.” Nếu những căn phòng ở đây có kém phần sang trọng so với nơi ở của ngài đại Công tước thì cả Amy lẫn Dan đều không thể chỉ ra nó lồi lõm chỗ nào. Căn phòng thật hoành tráng được trang hoàng lộng lẫy. Sàn bằng đá hoa cương láng óng; những tấm thảm dày được dệt thủ công nom rất đỗi sang trọng. Mỗi chậu hoa, gạt tàn ở mỗi đầu bàn trông như thể đã được bàn tay một nghệ sĩ nào đó sắp đặt “Xem chừng nơi này biến chỗ chúng ta sống ở Boston thành một cái nhà xí,” Dan bình luận. Amy thở dài. “Chị không thèm quan tâm tới đời sống thượng lưu. Nhưng thi thoảng điều này khiến chị thấy bứt rứt trước sự giàu có của những kẻ so tài với mình.” “Bà Grace rất khá giả.” Trán của Dan nhăn lại lúc nó nhớ tới đám cháy đã thiêu rụi toàn bộ dinh cơ của bà ngoại hai đứa. “Đằng nào em cũng thích là một đứa nghèo và bình thường hơn là một thằng giàu ngốc nghếch như Jonah hay bọn Rắn Hổ mang[1].” [1] Biệt danh Dan dùng để gọi bọn nhà Kabra một cách khinh bỉ. “Đúng vậy, nhưng tiền bạc lại là ưu thế lớn trong một cuộc thi như thế này,” Chị nó đáp lại vẻ chán chường. “Tiền mở ra nhiều cánh cửa trong khi chúng ta buộc phải đi đường vòng mới tới được. Chúng ta hoàn toàn không thuộc về thế giới của bọn họ, Dan à.” “Đó là lý do vì sao chúng ta cần ăn gian.” Nó dò xét căn phòng khách xa hoa. “Xem nào, nếu em là một thằng ngố học đòi có đầu được gắn lên một thanh kẹo bạc hà thì em sẽ giấu quyển nhật ký đã thó được ở đâu đây?” Amy mỉm cười vẻ bất chấp. “Tốt hơn cả là chúng ta nên tìm hết nơi này.” Hai đứa trẻ bắt đầu sục sạo khắp gian phòng đồ sộ, kiểm tra bên dưới đệm sofa, trong ngăn kéo, đằng sau các tấm màn, dưới drap trải giường và cả trong các tủ áo. “Này, coi ở đây thử xem.” Dan vục tay vào một thùng các tông nhỏ và lôi ra một hình nhân cao 20 cm, chính là Jonah Wizard trong chiếc quần jeans Phat Farm bằng nhựa và áo jacket thể thao. “Không giống cho mấy,” Nó bình luận. “Ngoài đời gã xấu hơn vầy nhiều.” “Đặt nó lại ngay!” Amy hét lên trong lúc đang lục lọi một ngăn kột nhập phòng gã này đã là xui lắm rồi. Chúng ta không cần phải vác mấy món đồ chơi ngu xuẩn của gã đi đâu.” “Cho bộ sưu tập của em mà,” Dan cự lại. “Gã có cả một hộp mấy thứ này. Chị nè - chắc đây là hình nhân trình diễn được thế kung fu.” Nó ấn nút và quan sát nắm đấm nhỏ xíu bật ra. “Woaa - không ngạc nhiên khi người ta nhắc tới thứ này! Có thể tách vỏ hạt dẻ bằng chính nó ấy chứ!” “Nhìn này!” Mắt Amy chớp chớp liên hồi đầy vẻ phấn khích. Nó xoay món đồ chơi trên tay Dan. Khi công tắc được bật lên, một dãy các chữ cái và con số màu đỏ hiện lên đằng sau băng quấn đầu của hình nhân. “GR63K1!” Amy nói một lèo không kịp thở. “Một kiểu mật mã nào đó!” Dan khịt mũi cười nhạo cô chị. “Với một học sinh chuyên học gạo điểm A thì trông chị ngốc lắm đó. Đúng rồi, đó là một mã số - nhưng mà dùng để tải một screensaver[2] hình Jonah Wizard miễn phí từ website của nó! Quảng cáo nó đầy trên truyền hình ở quê nhà đấy thôi.” [2] Screensaver: ảnh bảo vệ màn hính máy tính, điện thọai. Mặt cô chị ửng đỏ. “Ít ra thì chị không giống củ khoai làm biếng suốt ngày chúi mũi vào màn hình như em,” Nó lẩm bẩm trong bối rối, đoạn tập trung trở lại việc tìm kiếm. Dan nhét hình nhân vào túi mình rồi tiếp tục công việc cùng chị. Dãy phòng gồm năm phòng - phòng khách, hai phòng ngủ, một phòng thay quần áo và nhà bếp. Chúng lục xét từng centimet một mà vẫn không tìm thấy kết quả. Phòng ngủ lớn có một chiếc tủ két, nhưng lại mở toang và hoàn toàn trống không. Thậm chí lục hết nhà bếp lẫn quầy bar mini cũng chẳng đem lại điều gì khá khẩm hơn. “Chị không nghĩ gã đem theo bên người chứ?” Dan chợt hỏi. Amy lắc đầu. “Ai mà đem một món đồ quý như vậy đến nơi toàn bộ máy camera của châu Âu chĩa vào mình chứ. Nó phải ở ngay đây. Chúng ta phải tìm cho ra nó. “Tìm ở đâu bây giờ?” Dan bắt đầu mất kiên nhẫn. “Dù gì ở đây cũng quá tối! Khách sạn sang trọng mà sao nhét cả tá mành bịt sạch hết cửa sổ vậy?” Nó vặn công tắc đèn lên. Một dàn nến trang trí bằng pha lê chiếu sáng ngay trên đỉnh đầu. Amy và Dan há hốc miệng vì kinh ngạc. Ngay giữa chùm đèn là một chiếc giỏ tạo thành từ những sợi dây pha lê. Ở đó, bật lên ngay giữa ánh sáng chói lóa, chính là bóng của một quyển sách không thể lẫn vào đâu được. “Quyển nhật ký!” Cả hai đồng thanh. Dan chạy đi tìm một cái ghế. “Vẫn không đủ cao!” Chị nó hét lên. “Lại đây giúp chị khiêng cái bàn coi.” Cả hai khiêng cái bàn thủy tinh nặng trịch và đặt nó ngay bên dưới dàn nến. Dan trèo lên trên đó, nhưng như vậy vẫn còn quá thấp. “Cho em thêm cái ghế.” Ngay lập tức, Amy cũng trèo lên cái bàn, giữ thăng bằng cho chiếc ghế và em nó đang nhón chân trên hai quyển danh bạ điện thoại kê trên đó. Rướn hết sức vươn qua chỗ những sợi pha lê, Dan thấy tay mình đã chạm đến gần bìa quyển sổ đóng bằng da. “Tóm được rồi!” Nó lấy ra quyển nhật ký của Maria Anna “Nannerl” Mozart. *** Công việc trông nom hai đứa trẻ nhà Cahill đã mang đến cho Nellie những kinh nghiệm mà chính cô cũng không sao tiên liệu được. Đây là một trong số đó - quỳ cả thân người trong phòng tắm bằng cẩm thạch và cọ toilet cho một gã đại Công tước nào đó. Không đời nào ở đây có ẩm mốc được, cô xót xa nghĩ. Nhưng biết đâu hoàng tộc có thể phát hiện những tì vết mà tiện dân không sao thấy được, kiểu như trong truyện “Công nương và hạt đậu” “Công tước và cái chậu[3].” Tựa này vần vè đấy chứ. [3] Nguyên văn: The Grand Duke and the Bowl. Một điều chắc chắn, Amy và Dan mắc nợ lớn với cô trong việc này. Nellie băn khoăn không biết hai đứa có tìm thấy quyển nhật ký. Giá mà có cách nào đó để biết xem nhiệm vụ đã hoàn thành hay chưa. Để khi đó cô có thể phang cây cọ toilet vào gã trợ lý đại Công tước khỉ gió rồi biến khỏi cái trò hề năm-sao này. Trán cô nhăn nhúm lại khi mường tượng ra tình huống xấu hơn - Amy và Dan bị tóm, bị nhốt, hay còn tệ hơn thế nữa. Ai mà biết được nguy hiểm rình rập ở đâu trong cuộc thi được-ăn-cả này chứ? Bảo vệ khách sạn cũng thật đáng sợ, nhưng cái bọn anh chị em họ Cahill tâm thần kia mới là lũ không từ bất cứ thủ đoạn nào! Kẻ chiến thắng cuộc thi có thể cai quản thế giới theo nghĩa đen của từ này. Rất nhiều kẻ khùng điên đã làm những việc tồi tệ để mong có được giải thưởng là thứ quyền lực đó. Hai đứa trẻ liệu có cơ may nào hay không? Những ý nghĩ không lấy gì làm dễ chịu của cô bỗng vỡ đi như bong bóng xà phòng khi có một giọng nói cất lêng. “Cô không làm việc cho chúng tôi, thưa Fraulein[4]. Cô đang làm gì trong phòng này vậy?” [4] Cô gái trẻ, tiếng Đức. Tim muốn lọt ra ngoài, Nellie xoay người lại. Cạnh người của Đại công tước là một lính gác mặc đồng phục. Cô cố sức lấp liếm tình hình. “Dĩ nhiên là tôi làm việc ở đây. Ông nghĩ tôi vào khách sạn để tìm thú vui bằng cách cọ toilet cho người lạ chắc?” “Cô không làm việc ở đây,” Người đàn ông trả lời không một chút hài hước. “ biết mặt hết toàn bộ nhân viên ở đây sao?” Nellie lên giọng thách thức. “Không,” Hắn thừa nhận. “Nhưng cô lại có khuyên ở mũi. Điều này trái với quy định của khách sạn. Cô đi theo tôi.” Nellie suy nghĩ rất lung. Cô không hình dung mình đã lún sâu vào rắc rối như thế nào nữa. Cô là một người ngoại quốc tại đất nước này. Nếu bị trục xuất, điều gì sẽ xảy đến với Amy và Dan chứ? “Thôi được, ông đã bắt được tôi rồi. Tôi tình cờ lọt vào trong đây. Tôi đang cố lẻn vào phòng của Jonah Wizard. Tôi là fan cuồng của chàng. Tôi cần phải gặp được chàng! Nhưng tôi đã vào nhầm phòng.” Mắt gã kia nhìn cô vẻ dò xét. “Và cô làm điều này chỉ có một mình chứ? Không còn ai khác nữa?” “Hoàn toàn một mình,” Cô đáp, có vẻ là hơi quá sớm. “Yêu Jonah Wizard nào phải là có tội. Chàng ta là người tuyệt vời nhất...” Ngay bên dưới chân họ, một tiếng rơi vỡ thật to vang lên làm rung chuyển cả tòa nhà. Nhân viên bảo vệ nhìn Nellie bằng đôi mắt hình viên đạn. “Phòng Wizard! Fraulein, tốt hơn hết cô hãy hy vọng sự phá bĩnh này không liên quan gì đến mình, nếu không cô sẽ được nếm rất nhiều điều về sự hiếu khách của người Áo chúng tôi đó, thưa cô.” *** “Dan, em có sao không?” Dan nằm trên sàn căn phòng lớn, ngay giữa những gì còn lại của chiếc ghế và chiếc bàn đã gãy nát. Nó rên rỉ ngồi dậy, cuốn nhật ký cặp vào tay như một trái bóng. “Đã xảy ra chuyện gì vậy?” “Chị không biết nữa,” Amy đáp, ngay cả nó cũng chưa tỉnh hoàn toàn. Nó dựng thằng bé đứng lên và kiểm ra xem có bị trầy xước gì không. “Hoặc là chiếc ghế gãy và đánh r xuống bàn, hoặc là cái bàn đã gãy trước, và làm gãy luôn chiếc ghế. Không sao hết. Chúng ta phải ra khỏi đây ngay - chắc hẳn một nửa khách sạn này đã nghe thấy tiếng vỡ đó!” Hai đứa chạy ra khỏi phòng 1600 vừa lúc nhân viên bảo vệ ập xuống từ cầu thang phía trên, và kéo theo không ai khác ngoài Nellie. Không thể nào giả đò vô tội được nữa. Cửa vẫn còn chưa khép lại, và đám đổ nát có thể thấy rõ ngay từ ngoài sảnh nhìn vào. Hai đứa trẻ Cahill đã thoát đi, chạy thật nhanh đến góc quanh gần nhất và khuất khỏi tầm nhìn. Tên bảo vệ định rượt theo, nhưng Nellie đã chộp lấy tay gã và kéo giật trở lại thật mạnh, suýt chút nữa làm trật khớp vai của gã. “Ông không thể bỏ đi được! Nếu Jonah đang nằm trong đó, máu đổ đầm đìa thì sao?” Gã bảo vệ nộ khí xung thiên. “Đồ con gái ngốc nghếch! Anh hùng của mày thậm chí còn không ở trong tòa nhà này!” Gã lấy máy bộ đàm ra khỏi thắt lưng và xổ một tràng tiếng Đức nhanh như tên bắn. Nellie cố nuốt cục nghẹn tắc ngay cổ họng. Gã đã cho người có mặt ở các thang máy và tại cuối mỗi thang bộ của từng tầng ở đây. Amy và Dan đã bị sa bẫy. Chương 6 KHI CỬA THANG MÁY MỞ RA, hai đứa trẻ nhà Cahill chy tới bằng hết tốc lực, đến nỗi suýt nữa chạy quá khỏi nó. Amy bật phanh lại trước, đoạn chộp lấy Dan kéo ào vào trong. Nó bấm nút L. Cả hai đứng yên, ngực đập thình thịch trong lúc thang máy đang di chuyển xuống. Hai cặp mắt lo lắng dõi theo từng dòng hiện lên khi con số đang đếm ngược trở xuống bắt đầu từ 16. Bất chợt, tay của Dan thò ra và ấn số 2. “Hẳn họ đang chờ chúng ta ở sảnh,” nó giải thích hành động của mình với vẻ căng thẳng. “Nhưng đó là lối ra!” Amy rít lên. “Không cách nào thoát được tầng hai hết!” “Chắc chắn được.” Cửa mở, Dan lôi Amy ra tầng 2, ngay khu vực tổ chức yến tiệc và chiêu đãi hội nghị. Amy gần như phát điên lên. “Làm cách nào?” “Bằng cách nhảy xuống.” Amy dòm nó trừng trừng. “Bộ em điên rồi s_” Hai đứa luồn qua một ngã rẽ tại hành lang, và đoạn đường phía trước khách sạn xuất hiện ngay trước mắt chúng, qua tấm kính lớn lắp từ sàn đến tận trần nhà. Dan mở cánh cửa kiểu Pháp và hai đứa bước ra một ban công hẹp bằng đá. “Không đời nào, Dan! Chị không nhảy đâu! Gãy chân mất!” “Nhìn xuống đi chị!” Nó ra lệnh. Cách phía dưới chưa đầy hai mét là một tấm bạt căng ngang toàn bộ cổng chính của khách sạn. Dan thả một chân ra ngoài các chấn song bằng đá. “Dễ ẹc,” Nó nói, trong lúc cố gắng tỏ ra tự tin hơn những gì đang thật sự cảm thấy. “Còn thấp hơn một cú rơi từ tấm ván lướt sóng ấy chứ.” “Nhưng làm gì có nước ở đây!” Nó rơi bịch xuống. Amy rụng rời chứng kiến cảnh tượng đó, nghĩ rằng thằng bé sẽ rơi toạc qua tấm bạt và tan thành từng mảnh khi va xuống sàn bê tông. Nhưng không, tấm bạt giữ nó lại. Miệng cười nhe hết hai hàm răng với cô chị, nó trèo lên phía đỉnh tấm bạt, tìm thấy một cột đỡ bằng thép cứng cáp, uốn cong bên vệ đường. Nó vẫy gọi Amy bằng quyển nhật ký của Nannerl. Chưa bao giờ Amy trải qua quá nhiều cung bậc của nỗi sợ hãi cùng một lúc như thế này - sợ bị tóm, sợ cho số phận của Nellie, sợ cho thằng em điên rồ của mình quá ngu ngốc để hiểu ra điều gì là không nên làm, và một nỗi sợ quá hiển hiện là nó sẽ phải trèo ra một ban công ở tầng một để tấm vải quá mong manh. “Nhanh lên nào!” Bên dưới vang lên tiếng giục hối hả. Mình không thể làm được... mình không thể... Sự xấu hổ ập đến cũng mạnh mẽ như nỗi sợ của nó. Amy đã trở thành một Cahill nào đó! Vận mệnh của cả thế giới đang nguy vong, vậy mà nó không ép nổi mình vào một cú nhảy chỉ có chưa đầy hai mét - thậm chí là còn sau cả khi nhìn thấy chính đứa em mười một tuổi của mình vừa thực hiện xong. Con xin lỗi, bà Grace ạ... Chính cái ý nghĩ này đã thổi vào Amy một hành động bất ngờ bộc phát. Nó đã lơ lửng trong không trung trước khi kịp quyết định sẽ làm điều đó. Nó rơi xuống tấm vải như một người nghệ sĩ nhào lộn nghiệp dư buông mình vào tấm lưới an toàn. Vài giây sau, Dan đang kéo lê Amy trên đường. Hai đứa vào một chiếc taxi và khi đã cách xa khu vực đó nhiều dãy nhà chúng mới dám mở miệng nói. “Nellie...” Dan lên tiếng. “Chị biết rồi...” Căn phòng nhỏ bé của chúng tại khách sạn Franz Josef lúc này dường như tồi tàn và thậm chí nhỏ lại, sau khi chúng vừa được “kinh qua” Royal Hapsburg. Lời chào nhận được từ Saladin cũng không làm cả hai thấy vui vẻ gì hơn. Con mèo Mau Ai Cập vẫn không chịu ăn thức ăn cho mèo, và thực tế là nó còn rải cả bữa tối của mình ra khắp tấm thảm. Mùi tanh của cá treo lơ lửng khắp phòng. Thêm vào đó, vết trầy xước của nó bắt đầu lan ra túm lông ở xung quanh cổ và trở nên tệ hơn bao giờ hết. Hai đứa trẻ nhà Cahill đều mệt đứ đừ, nhưng không đứa nào nghĩ đến việc đi ngủ. Ngay lúc này Nellie quan trọng hơn hết thảy. Chúng quá chú tâm vào 39 manh mối, đến nỗi không còn nghĩ đến những gì cô au pair đã hy sinh cốt để có thể theo sát chúng cũng như sứ mệnh chúng đang theo đuổi. Nellie đã gác lại cuộc sống thường nhật của mình, xa nhà hàng ngàn dặm đường, thậm chí còn thanh toán các khoản chi phí của chúng bằng chính tài khoản của mình. Chắc chắn rồi, cả hai đã định sẽ đền ơn bà chị này. Amy và Dan có nữ trang của bà Grace để lại, có thể đáng giá không ít. Nhưng nữ trang có thể bị mất hay bị đánh cắp, và không gì bảo đảm hai đứa nhóc sẽ chiến thắng trong cuộc tranh đua này hết. Thậm chí cũng không có gì bảo đảm hai đứa sẽ tham gia cho đến chặng cuối cùng. Giờ đây lại không biết Nellie đang ở đâu - bị bắt, biết đâu đang bị quản thúc. Hai chị em Amy và Dan lại không thể làm được bất cứ điều gì. Không gì hết ngoài việc chờ đợi. *** Lúc hai giờ sáng, Amy và Dan vẫn còn đang ngồi, mắt dán vào chiếc TV chiếu phim nhiều tập Hòn đảo của Gilligan lồng tiếng Đức. Bỗng có tiếng gõ bất thình lình vào cánh cửa, y như điện giật vào dây thần kinh đang uể oải của cả hai, đến nỗi chúng suýt nữa gạt nhau ngã quay trong lúc cố gắng chạy đến mở cửa. “Chị Nellie!” Amy la lên. “Cám ơn...” Ngay lúc đó trong phòng xuất hiện Irina Spasky, một người họ hàng gốc Nga của nhà Cahill. Lại một đấu thủ khác trong cuộc tìm kiếm 39 manh mối, và quả là như vậy thật. Người ta đồn đãi rằng Irina từng là điệp viên KGB cũ, bất nhẫn, hiệu quả, và luôn tỏ ra nguy hiểm đến chết người. Ả đi ngay vào chuyện chính. “Ả au pair của hai đứa bây đã bị chính quyền Vienna bắt giam.” Dan sợ hãi. “Làm sao mà bà biết được?” Mặt Irina khẽ nhăn lại, trông giống như thứ được gọi là nụ cười mà ả ta có thể tạo ra. “Ta đã từng giám sát vũ khí hạt nhân đi qua một đường hầm bí mật xuyên bên dưới bức tường Berlin. Ta có thể nhìn xuyên thấu cửa kính xe cảnh sát. Nhưng nếu hai đứa bây không cần ta giúp đỡ thì...” Amy chộp ngay lấy ý này. “Bà giúp được chị Nellie sao? Bằng cách nào chứ?” Trông Irina rõ phật ý. “Miễn là nó trở về được với hai đứa bây, còn về bằng cách nào thì đâu phải chuyện của mày chứ?” “Đúng là không phải chuyện của tụi cháu tí nào!” Amy đồng ý cái rụp. “Chỉ cần giúp chị ấy thoát ra! Cảm ơn cô!” “Ta thích những lời cảm ơn hay ho hơn là những lờ nói suông. Chúng ta nói về món đồ mà tụi bây đã khoắng đi khỏi căn phòng sang trọng của gã họ hàng Jonah Wizard đáng ghét của chúng ta chứ?” “Không!” Dan quát lên. “Một lời khuyên,” Irina nói với Amy. “Chớ bao giờ để cho thằng nhãi hấp tấp này nói thay cho cưng nhé. Có lẽ là cưng khỏi cho nó nói luôn đi. Trong KGB, người ta thấy rằng băng dính vừa hiệu quả lại vừa tiết kiệm.” Amy nghĩ ngợi. Hai đứa đã mạo hiểm tính mạng để lấy được quyển nhật ký. Đó là còn chưa kể Irina muốn đoạt lấy nó, điều đó chỉ chứng minh được quyển nhật ký quan trọng đến mức nào. Nhưng làm sao tụi nó có thể để mặc Nellie ngồi tù chỉ vì mình được. Nếu ả họ hàng người Nga này giải thoát được cho Nellie, chúng không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận thỏa thuận. “Để cháu đi lấy nó,” Amy buồn bã đồng ý. “Em đi,” Dan thở dài. Nó ngạc nhiên quá đỗi khi thấy Dan đến bên chiếc ba lô của mình đang đặt trên giường ngủ. Nhưng thay vì lấy ra quyển nhật ký của bà Nannerl, thằng bé thò tay vào túi áo khoác và lôi ra hình nhân Jonah Wizard mà nó đã cuỗm đi ở căn phòng 1600. Nó đang muốn đưa cho ả món đồ dỏm! Amy cố hết sức nén lại nỗi sợ hãi trong lúc Dan đưa món đồ chơi cho Irina. Cựu điệp viên KGB không thèm cử động để đón lấy món đồ. “Một món đồ chơi trẻ con ư? Mày đang đùa phải không.” Dan nhún vai, “Cô nói cháu lấy đưa cho cô món đã lấy ra từ phòng của Jonah. Thì nó đây.” Đừng có mà cố! Amy muốn thét lên thật to. Nếu Irina biết rõ món đồ mà ả đang tìm kiếm thì sao? Mắt nó trợn căng nhìn chằm chằm vào em trai mình. Dan không thèm đếm xỉa đến thông điệp của chị nó. “Nó dường như chỉ là một hình nhân trò chơi hành động thôi,” nó nói với Irina. “Xem này.” Nó cầm món đồ chơi sao cho bàn tay nhỏ xíu trên đó bao lấy ngón tay út của ả và ấn nút ở sau lưng Jonah để kích họat thế võ kung f Cựu điệp viên không nói tiếng nào, thế nhưng mạch máu trên trán ả lộ hẳn ra và phồng lên chừng như sắp nổ tung. Mắt ả tò mò ngó chằm chằm vào đoạn mã dùng trên website đang phát sáng phía sau băng đô của Jonah. “Thấy chưa?” Dan hỏi lại. “Nó là...” “Trong giao dịch không cần nhiều lời.” Ả chộp lấy hình nhân khỏi tay Dan và nâng niu nó với một sự kính trọng vừa đến tức thời. “Chúng ta có một thiết bị tương tự như vậy ở KGB,” Ả thừa nhận, trong khi đang xem xét ngón tay út đang tấy lên nhanh chóng. “Thô bạo nhưng hiệu quả. Ả au pair sẽ về ngay thôi.” Và ả biến đi mất, cũng nhanh như lúc ả xuất hiện. Amy vẫn còn run lẩy bẩy lúc nó choàng vai ôm lấy đứa em. “Không thể tin được là em đã làm điều đó! Nếu Irina biết về quyển nhật ký thì sao?” “Mụ ta có biết đâu,” Dan cãi. “Nhưng có thể chứ! Hay mật mã nữa! Lỡ đâu ả đã xem đoạn quảng cáo về screen_saver!” Nó điềm tĩnh. “Em không tin Irina lại xem Cartoon Network[1].” [1] Kênh giải trí dành cho thiếu nhi, chủ yếu chiếu phim họat hình. “Em đã đánh lừa một điệp viên người Nga đó! Em có thể khiến Nellie bị giết, hay chính chúng ta nữa không chừng!” Dan tức tối. “Sao chị cứ ong óng hét vào mặt em toàn những chuyện không xảy ra vậy? Nếu chị chưa chịu nhận ra, thì em đã làm một điều tốt! Chúng ta vẫn còn quyển nhật ký và Irina lại trên đường giải thoát cho Nellie. Chị có nghĩ đây sẽ là một cuộc vượt ngục thứ thiệt không chớ? Tiếc là chúng ta không thể xem được.” Amy trông thật ủ rũ. “Thành thật mà nói chị không muốn nghĩ đến những gì ả KGB kia có thể làm được. Điều gì ả làm được đối với cảnh sát Vienne, ả cũng có thể làm với chúng ta vào bất cứ lúc nào.” Dan không cưỡng nổi nụ cười tươi rói nở trên mặt. “Nhưng m ngay lúc này, trong đêm nay, chúng ta đã trên cơ ả đó. Điều này đáng phải ăn mừng lắm chớ!” “Ai đang ăn mừng hả?” Tiếng nói uể oải vọng từ ngoài cửa vào bên trong. “Chị Nellie!” Amy bật dậy và quàng hai tay ôm chầm lấy chị au pair. Rồi nó lùi lại một bước, cau mày thắc mắc. “Làm thế nào mà Irina giải thoát cho chị nhanh dữ vậy? Ả chỉ vừa đi có 5 phút thôi mà.” “Chả có ma nào giải thoát hết,” Nellie trả lời. “Bọn họ để cho chị đi. Họ nghĩ chị là một fan cuồng bị hâm nặng của Jonah Wizard. Rõ thôi, khách sạn đầy ăm ắp ngữ này. Có hai đứa ngốc nào đó còn nhảy thẳng ra ngoài ban công. Hai đứa có chụp hình tụi nó không?” “Sắc nét tới từng chi tiết,” Amy chua chát đáp. “Cái đồ KGB xạo sự!” Dan tức tối. “Không thể tin được ả vừa lừa mình - ngay khi mình vừa định lừa ả!” “Sao mà đêm dài thế không biết.” Nellie ngáp dài. “Mấy tay mất nết ở khách sạn không chịu cho lấy đi bộ đồ của nhân viên dọn phòng, thế là cánh cảnh sát phải vác chị trở lại đó để tìm mớ quần áo của chị trong chiếc xe đẩy - lọt trong tầng hầm với chừng năm mươi bộ khác. Rồi vì không muốn dắt họ đến chỗ hai đứa đang ở, chị nói người ta cho xuống ở khách sạn Wiener. Chị cuốc bộ từ đó về tới đây. Nhưng cũng đừng lo - ngoài kia mưa mới có nửa dặm thôi mà.” Cô nàng lau lau tóc bằng ống tay áo. “Bộ có một mình chị bị gì, hay là ở đây đang có mùi như mùi cá vậy hai đứa?” “Tụi em đã có quyển nhật ký,” Amy kể với Nellie đầy hứng khởi. “Chúng ta hãy ngủ nào, và sáng mai chúng ta sẽ đọc nó. Ai cũng biết nhà Holt, Irina và Jonah chỉ cách chúng ta có một tích tắc mà thôi. Ta phải đi thật nhanh nếu vẫn muốn tiếp tục dẫn đầu.” *** Trong lúc quay về trong men chiến thắng sau buổi tiệc ra mắt DVD, Jonah Wizard và cha nó thấy một đội nhân viên bảo trì đang quét dọn những mảnh kính vỡ trên sàn đá hoa cương trong căn phòng của họ. Hai người chạy thẳng tới ngay bên dưới chiếc đèn chùm nơi đã cất giấu quyển nhật ký của Nannerl. Hình dáng sẫm màu đã không còn ở đó. Có một vài sợi pha lê bị vỡ lòng thòng buông xuống. “Vậy mà mấy người dám hứa hẹn sẽ bảo đảm an ninh gấp đôi cho Jonah sao!” Ông Wizard trút cơn lôi đình lên quản lý khách sạn, người vừa mới phải trèo ra khỏi giường ngủ chỉ để xin vị khách rất quan trọng này lượng thứ. “Chúng tôi tin điều này hoàn toàn là vô hại, mein Herr[2],” Người này mềm mỏng. “Một cô ả si tình. Cậu ấm tài năng của ông có thứ ảnh hưởng này đối với các cô gái trẻ có phải không ạ?” Nhà Wizard không một mảy may nào tin vào điều đó. Chẳng có phan[3] phiếc nào đột nhập vào căn phòng mà chỉ khoắng đi quyển nhật ký của Nannerl Mozart sất. Đây chỉ có thể là trò của một trong những đấu thủ đang tranh đua để giành lấy 39 manh mối mà thôi. Một chuyện nội bộ của nhà Cahill. [2] Thưa Ngài, tiếng Đức. [3] Nguyên bản: fan “Ồ, ông.” Siêu sao truyền hình nói thẳng với quản lý. “Vậy ông hãy mô tả cô nương đã mết tôi đến mức đột nhập vào túp lều của tôi đi.” Người quản lý cầm ra một tấm ảnh chân dung lấy từ sở cảnh sát Vienna. Khuôn mặt trứ danh bỗng xụ xuống nhăn nhó. Khi mải mê xả láng với những siêu sao Hollywood và đám đông hâm mộ khổng lồ, rất khó nhận ra được một khuôn mặt không biết là ai dọc đường. Nhưng cô nàng trong ảnh thì lại khá quen. Làm sao mà Jonah biết người này chớ? Rồi nó chú ý thấy chiếc khuyên mũi. Chính là ả au pair của đám nhóc Cahill - tên là Nancy hay Netta gì đó. Ra là Amy và Dan cũng đã đến được Vienna. Tệ hơn nữa, hóa ra bọn này đã trên nó một nước cờ. Jonah Wizard không muốn về nhìbất kỳ thứ gì. Dù đó là bảng xếp hạng TV, bảng xếp hạng nhạc pop, và chắc chắn không phải là trong cuộc thi này rồi. Khi dẫn đầu, mi có sự tự tin. Sự tự tin giúp mi có thái độ đúng đắn. Và chính thái độ mới là cái khiến mi luôn dẫn đầu. Một cơn âu lo đến nhức nhối rung động tận nơi sâu kín và tăm tối nhất trong đầu nó. Phải thôi, nó là kẻ đứng đầu trên bảng xếp hạng, thống trị hết tất cả mọi hạng mục của ngành công nghiệp giải trí. Và nó xứng đáng với thành công ấy. Jonah này đã giành được nó. Mồ hôi và công sức chứ chả chơi. Tài năng. Câu châm ngôn của nhà Wizard là vậy. Nhưng mẹ của mi là Cora Wizard nên điều ấy không có gì là ngạc nhiên, bởi bà có mối quan hệ rất sâu sắc đến mọi lĩnh vực nghệ thuật kia mà... Siêu sao cau mặt lại. Đó là lý do vì sao nó không đời nào bất cẩn được! Chỉ có một sơ sót bé tí, vậy là nó bắt đầu phải nghi ngờ bản thân. Nếu thua - dù chỉ một lần - khi đó nó sẽ trở thành một thói quen. Và trước khi nhận ra thì mi đã là một thằng thất bại. Nó không thể cho phép lũ oắt Cahill nẫng tay trên được. May mắn thay, nó biết một điều về quyển nhật ký mà Amy và Dan vẫn còn phải lần mò mới tìm ra được. Chương 7 NHẬT KÝ KHÔNG PHẢI THỨ DAN QUAN TÂM - thậm chí cả khi vit bằng tiếng Anh và viết bởi những người mà nó có quan tâm đến. Nó tránh xa quyển nhật ký, cố gắng dụ con Saladin chén một lon cá ngừ, trong lúc Nellie và Amy cặm cụi bên quyển nhật ký bọc bằng da. Nellie đang dịch những từ ngữ cầu kỳ và cũ kỹ của Maria Anna Mozart. “Có gì hay không mấy chị?” Nó gọi với về phía hai người. “Thật là một tấn bi kịch,” Amy trả lời Dan. “Nannerl là một trong số những nhạc công xuất chúng nhất vào thời bấy giờ. Nhưng lại có quá ít người từng nghe bà trình diễn. Bà là một thiên tài - tài năng không kém cạnh người anh Mozart là mấy. Nhưng vào thời đó, các cô gái trẻ chỉ có việc lấy chồng, rồi thì nấu nướng và quét dọn, rồi có em bé.” Dan trông thật hờ hững. “Em cũng chưa nghe gì về anh trai của bà ta mà - cho tới trước khi cuộc thi này bắt đầu. Ý em là, em đã nghe Baby Mozart[1] - chị biết mà, cái video...” [1] Bộ đĩa nhạc Mozart với các giai điệu dành cho trẻ em, được cho là để tăng cường trí thông minh. Nellie nhíu mày lại và nhìn về hướng thằng bé. “Em sẽ còn nhận ra rất nhiều nhạc của ông. Chúng ta đang nói về nhiều trong số những giai điệu nổi tiếng nhất mọi thời đại. Thậm chí là Twinkle, Twinkle, Little Star[2] - phần nhạc cũng do Mozart sáng tác đó.” [2] Một bài đồng dao nổi tiếng của Tây phương có tên Ah Vous dirai-je, Maman mà dựa vào đó Mozart đã sáng tác bộ 12 biến tấu trên đàn piano vào khoảng năm 1781-1782, khi ông 25 tuổi. “Em có thể đoán được những gì mà Nannerl có thể cống hiến cho xã hội nếu như bà được phép phát triển tài năng của mình,” Amy thêm vào. “Em không quan tâm nhạc nhách gì hết” Dan phản pháo, “Bà ta có cho thêm manh mối gì không nào?” Amy lắc đầu. “Không có các chú thích ở bìa sách hay cái gì đại loại như vậy cả.” “Có một lá thư của anh trai bà dán ở đây,” Nellie cung cấp tiếp thông tin, “Nhưng dường như Mozart nói về lúc ông ngừng làm việc. Ông nói chỉ muốn dùng bản hợp đồng của mình làm giấy đi vệ sinh.” “Thật vậy sao?” Dan bất chợt quan tâm đến chuyện này. “Mozart nói thế á? Đưa em xem!” “Nó là tiếng Đức, đồ ngốc,” Chị nó bảo. “Họ cũng có từ ‘giấy vệ sinh’ chớ bộ.” “Vâng, nhưng em không nghĩ một nhân vật cừ khôi như Mozart biết từ này.” “Khoan đã!” Giọng Amy cất lên vẻ dè chừng. Nó lật sang trang kế tiếp, giữ gáy sách hết sức cẩn thận. “Ở đây thiếu vài trang này! Ít nhất là hai trang. Hai người nhìn đây!” Cả ba quan sát quyển nhật ký thật cẩn thận. Amy nói đúng. Tên trộm đã hơi quá thận trọng khi phi tang chứng cứ của mình - phần bị lấy đi mất được cắt bằng một con dao rất bén. Phần cắt xén gần như không thể nhận thấy được. “Chị có nghĩ Jonah làm chuyện này không?” Dan hỏi. “Chị cũng nghi là vậy,” Amy trả lời nó. “Nhưng vậy thì cần gì gã ta phải giấu quyển nhật ký trên cái đèn chùm nếu gã đã lấy đi hết những phần quan trọng rồi?” “Để đánh lạc hướng chúng ta hay sao?” Dan nêu ý kiến. “Có lẽ, nhưng mà hãy nhớ là - quyển sách này ngót nghét cũng hơn hai trăm năm tuổi. Từ lúc đó cho đến nay những trang giấy này hoàn toàn có thể bị lấy đi bất kỳ lúc nào. Theo những gì chúng ta được biết, chính Nannerl đã xé ra vì bà đã làm vấy mực lên đó.” “Không phải nói xấu đâu, hai nhóc.” Nellie chen vào, “nhưng chị đã ở chung với nhà tụi em đủ lâu để thấy chuyện này đầy ắp những gì của nhà Cahill. Chưa khi nào chị thấy một tập hợp đâm sau lưng chiến sĩ nhiều như vậy hết.” “Chị nói đúng,” Dan rầu rĩ thừa nhận. “Cứ hễ lúc nào chúng ta nghĩ mình đang tiến triển với các đầu mối của cuộc thi thì hóa ra đã có một ai đó nhanh chân hơn.” “Bình tĩnh nào,” Amy bảo nó. “Manh mối đâu có nằm trong quyển nhật ký; đó là âm nhạc. Và chúng ta lại là những kẻ duy nhất có món đó trong tay. Hãy xuống dưới nhà, chỗ sảnh khách sạn. Chị thấy đó có một cây piano.” *** Hai đứa làm thành một bức tranh thật đáng yêu - một cô bé Mỹ bên chiếc dương cầm, còn đứa em trai đứng bên cạnh. Nếu chỉ ra chi tiết tấm nhạc phổ thực chất là mặt sau một tờ giấy ăn của đường sắt châu Âu còn Amy chơi đàn cũng ngượng ngập thì quả là hơi bị khắt khe. “Ôi bà trẻ Beatrice đáng yêu của chúng ta,” Amy nói nhỏ với Dan. “Chính Beatrice đã cắt bớt thời gian học piano của chị để lấy thêm ít tiền lẻ đó.” Beatrice là em gái của bà ngoại chúng, và cũng là giám hộ của chúng trên danh nghĩa. Cũng chính nhờ bà trẻ đáng yêu này mà giờ đây Amy và Dan đang bị dịch vụ công ích của Khối thịnh vượng chung tiểu bang Massachusetts truy lùng. “Hãy chơi bản mới đi,” Dan đề nghị. “Cái phần không nằm trong bài hát thật đó. Lỡ đâu một cánh cửa bí mật sẽ mở ra, hay chúng ta gọi được thần đèn của nhà Cahill đến giúp, hay gì đó đại loại như vậy thì sao.” Amy chơi thử, một giai điệu thanh thoát, nhẹ nhàng, rất khác với phần nhạc cổ điển nặng nề được viết xung quanh nó. Bất thình lình, có một phụ nữ đang đứng cạnh cây dương cầm cất tiếng hát theo bài hát đang được Amy đánh. Ca từ của nó là tiếng Đức, nhưng rõ ràng giai điệu của nó giống hệt nhau và nó khiến cho người phụ nữ thấy sảng khoái. “Bà biết bài hát này sao!” Amy thốt lên ngạc nhiên. “Có phải là của Mozart không ạ?” “Nein[3] - không phải của Mozart. Đó là một ca khúc nhạc dân gian Áo có tên là “Der Ort, wo ich geboren war”. Trong tiếng Anh có nghĩa là “Nơi tôi được sinh ra”. Cám ơn hai cháu thật nhiều. Đã nhiều năm nay bà không còn nghe bản nhạc này.” [3] Không phải, tiếng Đức. Amy tóm lấy tay Dan và kéo nó đến bên chỗ khu của hốc tường nơi có một cái lò sưởi. “Chính nó! Chính là đầu mối đó!” “Cái gì chớ? Một bài hát cũ sao?” “Đó là một thông điệp giữa Mozart và Ben Franklin!” Dan ngạc nhiên quá đỗi đến nỗi mắt nó lồi hẳn ra. “Được được, nhưng trên đó viết cái gì?” “Viết là ‘hãy đến nơi mà ta đã được sinh ra.’ Mozart sinh ra tại thị trấn Salzburg, ở vùng núi Alps thuộc địa phận nước Áo. Và đó chính là nơi chúng ta sẽ phải đến.” *** Chiếc xe cả bọn thuê là một con Fiat cũ rích cứ kẽo cà kẽo kẹt từng khớp một và không thích thú gì việc trèo lên dãy Alps, nhưng lại sẵn sàng lăn khí thế xuống phía dưới. Một phần cũng hẳn là tại Nellie. Trước đây cô nàng chưa khi nào chạy xe sang số bằng tay hết. “Thật là bá cháy hết sức cho một chuyến leo núi,” Dan càu nhàu. “Nè - có muốn chạy thử không, ông tướng?” Nellie bực dọc xỉa lại ngay. Và Dan trả lời là “có”, hăm hở đến độ cô nàng thấy tiếc vì đã hỏi nó như vậy. Saladin lãnh trọn ba giờ đồng hồ say xe. Nhưng may mắn ở chỗ, con mèo đâu có gì trong bụng, thành thử cũng chẳng oẹ ra cái gì. Chuyến đi đã có thể tiện nghi và thoải mái hơn nhiều nếu đi bằng xe lửa. Thế nhưng cuộc đụng độ với nhà Holt từ lần rời khỏi Paris đã buộc cả bọn phải chọn cách di chuyển khác. Trên một chuyến xe lửa công cộng thật dễ khiến cả đám bị phát hiện. Với đầu mối mới nhất và cũng là duy nhất trong tay, chắc chắn tất cả những đội kia cũng đang lăm lăm đuổi theo chúng. Bất chấp chuyến đi khá ư là khó chịu, cảnh vật xung quanh thật hùng vĩ. Xa lộ uốn lượn qua suốt dãy Alps tại Áo như một dải ruy băng xoắn xuýt dưới bàn chân của những gã khổng lồ. Chẳng mấy chốc cổ chúng đã mỏi nhừ vì cứ thò miết ra cửa sổ để chiêm ngưỡng những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa. “Giờ thì nó đã giống hơn rồi đây,” Nellie đồng tình. “Chị tham gia vào cuộc hành trình này để được quan sát thế giới, chứ không phải chết dí trong một cái bót cảnh sát ở Vienna.” Chính nhóc Dan cũng rất ấn tượng trước những ngọn núi nhấp nhô hùng vĩ. “Em cá là nếu mình cuộn lại giống như một quả bóng tuyết ở trên đỉnh thì đến khi lăn xuống tới phía dưới nó cũng đủ hạ nốc ao cả một thị trấn chứ chẳng chơi!” Vừa quá hai giờ, cả bọn đã đến Salzburg - một thành phố nhỏ bé của những tòa tháp óng ánh, của kiến trúc baroque, của những khu vườn rực rỡ e ấp giữa những ngọn đồi xanh ngát. “Thật tuyệt vời!” Nellie thốt lên. “Nơi đây rộng lớn hơn em tưởng,” Amy nói một cách thất vọng. “Chúng ta không biết mình đang tìm cái gì, thậm chí cũng không biết nên bắt đầu từ đâu nữa.” Nellie nhún vai. “Khá rõ ràng mà. Tên bài hát là ‘Nơi tôi được sinh ra.’ Ta sẽ tìm một quyển sách hướng dẫn rồi tìm ngay căn nhà mà Mozart đã lớn lên ở đó.” Tiếng rên rỉ của Dan thậm chí còn lớn hơn và thảm thiết hơn những tiếng meo meo cau có của con Saladin. “Ôi trời đất ơi, làm ơn đừng vậy nữa chớ. Hai người đừng có dắt em tới một căn nhà Mozart nữa đi. Giờ em còn chưa hết ngán cái căn hồi trước đây!” “Đừng nhõng nhẽo,” Amy dứt khoát. “Mình không phải khách du lịch. Mình đến nơi có các đầu mối.” “Tại sao mấy đầu mối không bao giờ ở trong một nơi chính xác trên bản đồ vậy?” Dan lại cằn nhằn. Bỗng dưng nó bật dậy. “Coi chừng!”"> Một khách bộ hành hối hả trên đường ngay trước mũi chiếc Fiat. Nellie dồn hết sức bình sinh để đạp thắng xe. Bánh xe ngừng quay, và chiếc xe phanh kít lại cách vị khách qua đường luống tuổi chỉ vài centimet. Nellie xém chút nữa đã lên cơn lôi đình. “Đồ ngu!” Cô nàng vươn tay tọng một cú thật mạnh vào còi xe. Amy chộp ngay lấy khuỷu tay của Nellie. “Đừng!” Nó rít lên, cố gắng thụt đầu xuống phía dưới. “Hãy nhìn xem đó là ai kia!” Chương 8 BA CẶP MẮT ĐỔ DỒN VỀ MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG châu Á cao dỏng, lưng thẳng đơ đang hối hả băng qua đường, lọc cọc khua cây gậy đi bộ đầu nạm kim cương. Alistair Oh, họ hàng Hàn Quốc của bọn nhỏ và cũng là một đối thủ khác trong cuộc tranh tài. “Quá nhiều khó khăn với chúng ta khi làm một đội dẫn đầu.” Dan bình luận. “Lão ở đây chắc đâu chỉ để hít thở không khí miền núi,” Nellie đồng tình. Cả bọn nhìn Alistair băng nhanh qua đường và trèo lên một chiếc xe buýt đang đậu phía bên kia. “Bám theo ngay,” Amy chợt có ý kiến. “Hãy xem cha này đang làm gì.” Nellie làm một cú rẽ phải trái luật từ làn đường bên trái và lọt thỏm ngay giữa dòng xe ngay phía sau chiếc xe buýt. Cô nàng vẫy tay chào hồn nhiên với những gã tài xế Salzburg đang chửi um lên và bấm còi inh ỏi. “Chị biết đó,” Dan trầm ngâm, “Nếu muốn tìm xem lão này đang đi đâu, tại sao chúng ta lại không hỏi trực tiếp? Ta vẫn có một liên minh với nhau hồi ở Paris kia m “Em còn nhớ những gì ông McIntyre đã nói không?” Amy phản đối. “Đừng tin một ai.” “Có lẽ vậy. Nhưng mà chính Alistair đã cứu chúng ta trong Hầm mộ.” Amy vẫn không suy chuyển. “Chỉ vì ông ấy phải giúp ta chặn nhà Kabra lại mà thôi. Có một điều mà đến giờ chúng ta cần phải hiểu đó là nhà Cahill đã chiến đấu với nhau hàng nhiều thế kỷ qua. Ông ấy sẽ chẳng từ thứ gì nhằm ngăn không cho chúng ta đoạt được 39 manh mối đâu.” Cả bọn đi theo chiếc xe buýt khi nó băng qua cầu Staatsbrucke - chiếc cầu nằm ngay trung tâm thị trấn. Có thêm khách lên xe, nhưng chẳng ai bước xuống. Các con đường đầy ắp xe hơi và taxi, lại còn vô số các đám đông khách ngoạn cảnh có mặt ở khắp nơi. Một nhóm học sinh trung học bước ra ngay trước đầu chiếc Fiat, chiếc xe buýt bo theo một khúc quanh và biến khỏi tầm mắt. “Đừng để mất dấu họ,” Dan cuống cuồng hối thúc. Cuối cùng con đường đã quang, và chiếc Fiat lắc lư chao đảo, khiến Nellie điều khiển hết sức khó khăn. Ba người xóc nảy lên khi xe đi vào mấy con phố hẹp và hoàn toàn không thấy bóng dáng chiếc xe buýt ở đâu cả. Amy chỉ tay. “Ở đằng kia!” Chiếc xe buýt đã thoát ra khỏi mạng lưới chằng chịt các con đường trung tâm và đang bon bon quanh một sườn đồi. Trong tiếng đinh tai của động cơ, cả bọn lại nhanh chóng đuổi theo, Nellie tăng tốc khi chiếc Fiat vừa quành qua một khúc cua. Cả bọn quá tập trung vào tốc độ đến nỗi chạy vượt qua luôn chiếc xe buýt trong lúc nó đang thả hành khách xuống một cánh cổng đá cổ xưa. Amy quan sát thật kỹ một dãy căn nhà rất cổ phía trên có những tháp chuông và thánh giá. “Một nhà thờ ư?” Vẻ khổ sở hiện rõ trên khuôn mặt Dan. “Bộ giống Mozart chưa đủ chán hay sao.” “Nhà thờ gần đây nhất mà ta đã vào không chán em trai à,” Amy nhắc nó nhớ. “Suýt nữa là bị giết thôi.” Nellie làm một cú quay đầu chữ U và tấp xe vào điểm cách chiếc buýt một khoảng an toàn. “Tổng viện Thánh Peter,” cô dịch lại khi liếc mắt nhìn vào một tấm biển bằng sắt uốn. Cả bọn có thể thấy dáng người dong dỏng của Alistair hiện ra tại con đường dốc băng xuyên qua cánh cổng. Nellie chau mày. “Hai đứa nghĩ đầu mối của tụi em có thể nằm ở đây sao?” “Alistair cho là như vậy,” Amy quả quyết. “Tụi em không thể bỏ cuộc cho đến khi tìm ra một cách nào khác. Sao chị không thử tìm một khách sạn và cho con Saladin nghỉ ngơi một chút sau chuyến đi?” Cô nàng au pair lưỡng lự. Dan lên tiếng. “Nơi này có đầy khách du lịch. Nguy hiểm chỗ nào chứ?” “Được rồi,” Nellie quyết. “Một giờ nữa chị sẽ quay lại đây. Đừng có để mình bị giết đó.” Rồi cô lái xe đi. Hai đứa đi qua cánh cổng, và Amy chọn một tài liệu mỏng bằng tiếng Anh trong kệ. “Woaa”, Nó mừng rỡ. “Nơi đây đã có lịch sử hơn 1.300 năm. Tu viện được thành lập vào năm 686, nhưng họ cho rằng người La Mã thậm chí còn có mặt ở đây trước cả lúc đó.” “Người La Mã?” Dan cho thấy nó đang có chút hứng thú về đề tài. “Những đạo quân La Mã có vài kỹ năng đánh nhau rất bá cháy đó nha.” “Đó là lý do vì sao em thấy các món vũ khí La Mã ở khắp châu Âu,” Amy lý giải. “Quân đội của họ mạnh đến nỗi họ đã chinh phục gần hết thế giới vào thời điểm đó.” “Đúng là không sao ngăn lại được,” Dan đồng tình. Nó lại nhăn nhó. “Vậy cái nhà thờ này thì sao đây?” “Nó được xây sau một chút, vào thế kỷ 12 - rất lâu sau khi người La Mã bỏ đi. Những ngôi mộ lâu đời nhất trong nghĩa trang có niên đại trong khoảng thời gian này.” “Nghĩa trang sao?” Dan rạng rỡ hẳn lên. “Nơi này bắt đầu làm em thích rồi đây!” Cả hai khom người xuống thấp cho đến khi nhóm du khách của Alistair tràn vào chánh điện, đoạn lần qua cánh cổng vòm dẫn ra nghĩa trang. Nơi đây không giống với bất kỳ nghĩa trang nào mà Dan từng được thấy - các bụi cỏ mọc um tùm, những cột mốc đánh dấu gần như bị che khuất bởi các vòm lá. Thay vì những bia mộ, những nấm đất chôn người chết được thể hiện bởi những biển tên bằng sắt uốn với những dòng chữ kiểu cổ thật bắt mắt. “Chúng làm em nhớ đến bộ sưu tập muỗng của bà Beatrice,” Dan làu bàu với Amy. Amy vẫn gí mũi vào cuốn tài liệu. Ngay lập tức, nó chộp lấy cổ tay em mình và ấn thật mạnh vào xương mác. “Dan ơi - trong đây ghi chỗ này chính là nơi an táng Nannerl Mozart!” Cặp mắt Dan mở to kinh ngạc. “Chúng ta sẽ đào một cái xác lên hay sao? Tiệt zời!” “Suỵt! Tất nhiên là không rồi!” “Nhưng nếu như Mozart đã đặt một đầu mối vào xác bà chị mình thì sao?” Amy lắc đầu. “Mozart qua đời trước Nannerl. Lúc này đây ta đang đi tìm một ngôi mộ tập thể. Quyển sách này nói đó là nơi bà được an táng.” “Là gì?” Dan hỏi. “Giống như một nhà chung cư cho người chết hở?” “Hãy tỏ ra tôn trọng một chút đi cưng. Một trong những người khác nằm trong nghĩa trang này chính là Michael Haydn, cũng là một nhà soạn nhạc lừng danh, là một trong những người nhiệt tình ủng hộ Mozart nhất.” Dan vẫn chưa thể chịu ngừng lại. “Vậy giờ này ông ấy đang làm gì - tối tác [1] Chơi chữ, compose là sáng tác nhưng decompose là phân hủy (của xác chết). “Đừng có nói những điều kinh tởm như vậy chứ. Đi nào.” Hai đứa mất một vài phút đi rảo quanh trước khi tìm ra ngôi mộ. So với những ngôi mộ được trang hoàng lộng lẫy và cầu kỳ ở nhà thờ thánh Peter, nó chỉ là một kiến trúc bằng đá giản đơn trên đó khắc tên người chết với vài dòng trích dẫn từ kinh thánh được khắc lên tường. Không có tí dấu hiệu nào của một đầu mối ở đây. “Nannerl ạ, không ai quên bà đâu,” Amy khẽ nói, lòng buồn buồn. “Người ta đã bắt đầu xem bà là một thiên tài đích thực rồi.” “Điều gì thật sự là thu hút ở bà Nannerl Mozart này chứ?” Dan hỏi. “Ừ thì bà ta cũng giỏi như em mình. Rồi sao nữa?” “Bộ em không thấy như vậy quá bất công sao?” Amy vặn lại. “Bà ta không được người khác biết đến và tôn trọng chỉ vì bà là một thiếu nữ.” “Em đồng ý,” Dan đáp. “Bà ta rất là bảnh đó chứ. Nhưng giờ thì bà ấy cũng đã ở trong nấm mồ này vài trăm năm rồi, tôn trọng gì đi nữa thì có làm được gì khác hơn đâu?” “Khác với chị,” Amy cãi lại. “Nếu hai đứa mình là con cháu của Mozart thì sao? Em nghĩ sao nếu mình được xem là một thiên tài bẩm sinh còn chị không là ai cả trong khi thực tế hai đứa chúng ta tài giỏi ngang nhau?” Dan vẫn khăng khăng. “Điều này không thể nào xảy ra với chúng ta được. Chúng ta có giỏi ở bất kỳ cái gì giống nhau đâu. Chị Amy, xem cái gì kia?” Dan nhìn lom lom lối vào Hầm mộ vẻ tò mò. Tu viện tựa lưng vào một bề mặt đá phẳng. Nằm cách mặt đất chừng hai mươi mét, toàn bộ đường nét chính của tu viện như khắc vào trong ngọn núi. “Ai lại đặt một tòa nhà giữa lưng chừng vách núi như vậy chớ” Khi quan sát kỹ hơn, hai đứa tìm thấy một cầu thang thô sơ đẽo thẳng vào đá, dẫn lên một cổng vào tựa như lối vào hang động. Amy thử dò trên cuốn tài liệu. “Đây rồi. Đây là lối đi vào hầm mộ Salzburg.” “Hầm mộ á?” Dan nhắc lại vẻ lo lắng. Hai đứa từng suýt chút nữa là lạc vĩnh viễn trong hầm mộ Paris. Nó không lấy gì ngạc nhiên nếu màn biểu diễn đó lại được tái hiện ở đây. “Ừm, đây không phải là kiểu hầm mộ rải đầy xương người đâu,” Amy lý giải. “Nhưng trong đây ghi là có các đường hầm ở trong ngọn đồi. Nếu có đầu mối tại nhà thờ thánh Peter, chị cá là nó sẽ nằm đâu đó quanh đây.” Một nhóm khách du lịch xuất hiện trước mắt chúng, đang tìm đường đi lên lối vào ở trên vách núi. Ngay giữa đoàn khách nổi bật lên cái dáng cao kều của Alistair Oh. “Và đấu thủ lại vừa vượt lên trước chúng ta,” Dan bổ sung. Ngay khi đoàn khách trong đó có Alistair biến mất đằng sau bề mặt đá, hai đứa trẻ nhà Cahill đi thật nhanh đến những bậc thang bằng đá gồ ghề lởm chởm. Amy cảm nhận được một sự bất an đang rình rập mỗi khi nó bước vào bên trong ngọn núi - như thể chúng đang bị một sinh vật nào đó vừa già cỗi như quả đất, lại bất di bất dịch, có kích thước khổng lồ và luôn im lìm nuốt chửng """