"
21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21 PDF EPUB Bản Đẹp
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21 PDF EPUB Bản Đẹp
Ebooks
Nhóm Zalo
THÔNG TIN EBOOK
21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21
Yuval Noah Harari
Nhà Xuất Bản Thế Giới & Nhã Nam
More Books At
fb.com/groups/yeukindlevietnam Notion Ebook Member
tinyurl.com/downloadebookyeukindle
Dành tặng chồng tôi, Itzik, mẹ tôi Pnina và bà tôi Fanny vì tình yêu và sự ủng hộ của họ qua năm tháng
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
B
ạn đọc Việt Nam đã biết đến cây viết thể loại lịch sử-triết học Yuval Noah Harari qua hai tác phẩm mới được dịch ra tiếng Việt của ông là Homo Sapiens và Homo Deus. Lần này chúng tôi xin giới thiệu tiếp cuốn thứ ba có tựa đề là: 21 bài học cho thế kỷ 21.
Trong cuốn sách này tác giả xuất phát từ góc nhìn của một nhà tương lai học để hình dung ra thế giới hiện đại trong kỷ nguyên số sẽ vận hành ra sao. Từ đó, ông nêu ra các giả thiết về sự tác động to lớn của kỷ nguyên số tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người, cũng như các quan niệm truyền thống về tự do, hy sinh, dân tộc, tôn giáo v.v…
Cũng giống như Newton đã thắc mắc khi nhìn thấy quả táo rơi xuống đất - mà người bình thường khác thì không để ý - để từ đó làm tiền đề cho sự phát hiện ra định luật hấp dẫn, tác giả Yuval Noah Harari luôn “lật ngược lại vấn đề” để có một cái nhìn “trái chiều”, khác lạ với cách nhìn quen thuộc từ xưa đến nay. Chính điều này làm cho nội dung cuốn sách trở nên cuốn hút người đọc.
Tuy nhiên, tác giả cũng thừa nhận mình là người đa nghi nhưng không muốn mọi người có ấn tượng sai lầm rằng cái gì có tác dụng với ông thì cũng sẽ có tác dụng với tất cả mọi người bởi lẽ các cá nhân không ai giống ai, cả về cấu tạo cơ thể, hệ thần kinh lẫn duyên nghiệp, v.v… ông cũng không ngần ngại tuyên bố là độc giả cũng nên biết cặp kính ông dùng “để nhìn thế giới, từ đó bóp méo tầm
nhìn cũng như những viết lách của tôi, có màu gì” và ông cũng sẵn sàng đặt mình vào “tầm ngắm” để độc giả phán xét. Do vậy, độc giả hãy đọc cuốn sách với tinh thần phản biện vì không phải tất cả các luận thuyết của tác giả đều đã, hay sẽ là đúng đắn, là chân lý, là khách quan. Các triết gia cứ viết luận bàn, còn thế giới sẽ vận hành theo quy luật riêng của nó!
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI
GIỚI THIỆU
T
rong một thế giới ngập tràn những thông tin không chính đáng, sự sáng suốt là sức mạnh. Trên lý thuyết, bất cứ ai cũng có thể tham gia cuộc tranh luận về tương lai của loài người, nhưng thật khó để giữ một tầm nhìn sáng suốt. Thường thì chúng ta còn không nhận thấy có một cuộc tranh luận đang diễn ra và những câu hỏi mấu chốt của nó là gì. Hàng tỷ người trong chúng ta không đủ xa xỉ mà tìm hiểu bởi chúng ta còn nhiều việc cấp thiết hơn phải thực hiện: ta phải đi làm, nuôi con hoặc chăm sóc cha mẹ già. Đáng tiếc là lịch sử không có chiết khấu hay giảm giá. Nếu tương lai của loài người được định đoạt lúc bạn vắng mặt, vì bạn đang mải lo chuyện ăn, chuyện mặc cho con mình, thì cả bạn và các con đều sẽ không được miễn trừ hậu quả. Điều này thật bất công; nhưng ai bảo lịch sử là công bằng kia chứ!
Là một nhà sử học, tôi không thể cho người khác cơm ăn hay áo mặc; nhưng tôi có thể thử mang lại một sự sáng tỏ nhất định, từ đó giúp tạo ra một sân chơi toàn cầu công bằng. Nếu điều này trao quyền cho thêm một nhóm người, dù nhỏ, giúp họ tham gia vào cuộc tranh luận về tương lai của giống loài mình, thì xem như tôi đã hoàn thành công việc.
Cuốn sách đầu tiên của tôi, Sapiens, nghiên cứu về quá khứ của loài người, xem xét tại sao một loài vượn tầm thường lại trở thành chúa tể của hành tinh Trái đất.
Homo Deus, cuốn sách thứ hai của tôi, khám phá tương lai lâu dài của sự sống, suy ngẫm về cách con người rốt cuộc có thể trở thành những vị thần như thế nào và số phận sau cùng của trí tuệ và ý thức có thể là gì.
Trong cuốn sách này, tôi muốn xoáy ống kính vào vấn đề “ngay tại đây” và “ngay lúc này”. Tiêu điểm của tôi đặt ở các sự kiện hiện tại và tương lai gần nhất của các xã hội loài người. Điều gì đang xảy ra ngay lúc này? Những thách thức lớn nhất và những lựa chọn quan trọng nhất của ngày nay là gì? Ta cần chú ý đến điều gì? Ta nên dạy con cái ta những gì?
Dĩ nhiên, bảy tỷ người trên thế giới sẽ có bảy tỷ “chương trình nghị sự” (tức quan niệm về các vấn đề và mục tiêu tương lai) khác nhau; và như tôi đã nói ở trên, nghĩ về bức tranh tổng thể (hay tương lai của loài người) là một điều xa xỉ khá hiếm hoi. Một người mẹ đơn thân đang chật vật nuôi nấng hai đứa con trong một khu ổ chuột ở Mumbai phải tập trung vào việc lo bữa mai; những người tị nạn lênh đênh trên một con thuyền giữa Địa Trung Hải căng mắt nhìn về chân trời mà tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của đất liền; một người hấp hối trong một bệnh viện đông đúc ở London gom hết sức tàn để hít thêm một hơi nữa. Họ đều có những vấn đề cấp bách hơn rất nhiều so với sự nóng lên toàn cầu hay cuộc khủng hoảng của nền dân chủ tự do. Không một quyển sách nào có thể giải quyết thấu đáo tất cả những điều đó và tôi không có bài học nào để dạy cho những người trong những hoàn cảnh như vậy. Tôi chỉ có thể hy vọng được học hỏi từ họ.
“Chương trình nghị sự” của tôi ở đây mang tính toàn cầu. Tôi nhìn vào những động lực chính đang định hình các xã hội trên khắp
thế giới và có khả năng ảnh hưởng đến tương lai của hành tinh chúng ta nói chung. Biến đổi khí hậu có thể nằm ngoài phạm vi quan tâm của những người đang ở giữa cơn sống chết, nhưng rốt cuộc nó có thể khiến những khu ổ chuột Mumbai không còn sinh sống được nữa, đẩy những làn sóng người tị nạn khổng lồ mới qua Địa Trung Hải và dẫn đến một cuộc khủng hoảng toàn cầu về y tế.
Thực tế được đan dệt từ nhiều tình tiết, sự kiện và cuốn sách này cố gắng bao quát các lĩnh vực khác nhau của trạng huống toàn cầu của chúng ta nhưng không phải là toàn bộ. Không như Sapiens và Homo Deus, cuốn sách này không phải là một tự sự lịch sử mà là một bộ các bài học được tuyển lựa. Những bài học này không đúc rút thành những câu trả lời đơn giản. Chúng hướng đến việc khuyến khích đào sâu suy nghĩ và giúp độc giả tham gia vào một số cuộc đàm luận chính yếu trong thời đại của chúng ta.
Cuốn sách này được viết ra như một cuộc chuyện trò với công chúng. Nhiều chương được viết để trả lời các câu hỏi mà các độc giả, phóng viên và đồng nghiệp đã đặt cho tôi. Một số phần trong sách trước đó đã được xuất bản ở các dạng khác, nên tôi có cơ hội nhận được những ý kiến phản hồi và mài giũa các lập luận của mình. Một số phần tập trung vào công nghệ, một số vào chính trị, một số vào tôn giáo và số khác vào nghệ thuật. Có những chương tôn vinh trí khôn của con người và một số khác nhấn mạnh vai trò thiết yếu của sự ngu dốt của chính giống loài ấy. Nhưng câu hỏi bao trùm vẫn thế: điều gì đang xảy ra trên thế giới ngày nay và đâu là ý nghĩa sâu xa của các sự kiện đó?
Sự nổi lên của (hiện tượng) Donald Trump nói lên điều gì? Ta có thể làm gì với vấn nạn “tin giả”? Tại sao nền dân chủ tự do lại lâm
vào khủng hoảng? Chúa đã trở lại rồi chăng? Một cuộc thế chiến mới đang đến? Nền văn minh nào thống trị thế giới: phương Tây, Trung Quốc hay Hồi giáo? Châu Âu có nên mở cửa cho người nhập cư? Chủ nghĩa dân tộc có thể giải quyết được các vấn đề về bất bình đẳng và biến đổi khí hậu không? Ta nên làm gì với chủ nghĩa khủng bố?
Mặc dù cuốn sách này có cái nhìn mang tính toàn cầu, tôi cũng không phớt lờ góc độ cá nhân. Trái lại, tôi muốn nhấn mạnh những mối liên hệ giữa các cuộc cách mạng vĩ đại của thời đại chúng ta với đời sống nội tại của mỗi con người. Chẳng hạn, chủ nghĩa khủng bố vừa là một vấn đề chính trị toàn cầu vừa là một cơ chế tâm lý học nội tại. Chủ nghĩa khủng bố hoạt động bằng cách nhấn một cái nút sợ hãi thẳm sâu trong tâm trí ta và cướp đi những tưởng tượng riêng tư của hàng triệu người. Tương tự, cuộc khủng hoảng của nền dân chủ tự do diễn ra không chỉ trong các nghị viện và các điểm bỏ phiếu mà còn trong các nơron và khớp thần kinh. Nói rằng sự riêng tư cũng thuộc chính trị thì nghe hơi sáo, nhưng trong một kỷ nguyên mà các nhà khoa học, các tập đoàn và các chính phủ đang nghiên cứu giải mã não người thì điều hiển nhiên này lại càng đe dọa chúng ta hơn bao giờ hết. Do đó, cuốn sách này đưa ra những quan sát về cả hành vi của các cá nhân cũng như toàn xã hội.
Một thế giới toàn cầu đặt những áp lực chưa từng có lên hành vi và đạo đức cá nhân của chúng ta. Mỗi chúng ta bị vướng vào vô vàn những mạng lưới giăng mắc muôn nơi, một mặt hạn chế các hoạt động của chúng ta, mặt khác lại truyền đi những vùng vẫy, dù là khó thấy nhất, của chúng ta tới các điểm xa xôi. Những thói quen hằng ngày của chúng ta có thể tác động đến đời sống của những
con người và động vật cách nửa vòng trái đất; một số hành động của cá nhân có thể bất ngờ trở thành tiêu điểm của cả thế giới, như cuộc tự thiêu của Mohamed Bouazizi ở Tunisia đã châm ngòi cho làn sóng cách mạng Mùa Xuân Ả Rập, như việc những người phụ nữ chia sẻ câu chuyện bị xâm hại tình dục của mình và nhóm lên phong trào #MeToo.
Chiều kích toàn cầu này của cuộc sống cá nhân đồng nghĩa với việc hé lộ những thiên kiến tôn giáo và chính trị của chúng ta, những đặc quyền chủng tộc và giới tính của chúng ta, và sự đồng lõa vô ý của chúng ta trong những áp đặt mang tính thể chế đã trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhưng liệu đấy có phải là một hành động táo bạo có tính thực tế? Làm sao tôi có thể tìm một chỗ đứng vững chắc về mặt đạo đức trong một thế giới vượt xa chân trời của mình, hoàn toàn vuột khỏi tầm kiểm soát của con người, một thế giới nghi ngờ mọi thánh thần và mọi ý thức hệ?
Cuốn sách này bắt đầu bằng việc khảo sát trạng huống chính trị và công nghệ hiện tại của chúng ta. Khi thế kỷ 20 khép lại, có vẻ những cuộc chiến ý thức hệ vĩ đại giữa chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa tự do đã đi đến hồi kết là chiến thắng giòn giã của chủ nghĩa tự do. Nền chính trị dân chủ, nhân quyền và chủ nghĩa tư bản thị trường tự do có vẻ đã được ấn định để thống trị toàn thế giới. Nhưng như thường lệ, lịch sử đã có một bước ngoặt không ngờ; sau khi chủ nghĩa phát xít sụp đổ, giờ chủ nghĩa tự do đang lâm nguy. Vậy ta đang đi về đâu?
Câu hỏi này đặc biệt thấm thía bởi chủ nghĩa tự do đang mất dần sự tín nhiệm đúng lúc cuộc cách mạng kép trong công nghệ thông tin và công nghệ sinh học buộc chúng ta đối mặt với những
thử thách lớn nhất mà loài người từng gặp phải. Cuộc hợp nhất của công nghệ thông tin và công nghệ sinh học có thể sẽ sớm đẩy hàng tỷ người ra khỏi thị trường lao động và làm suy yếu cả tự do lẫn công bằng. Các thuật toán Big Data có thể tạo ra những “nền độc tài số”, trong đó mọi quyền lực tập trung trong tay một nhóm tinh hoa cực nhỏ trong khi hầu hết những người khác phải gánh chịu, không phải sự bóc lột mà là một thứ tồi tệ hơn nhiều: sự vô dụng.
Tôi đã bàn về sự hợp nhất của công nghệ thông tin và công nghệ sinh học trong cuốn Homo Deus. Nhưng trong khi cuốn sách đó tập trung vào tương lai dài hạn với tầm nhìn hàng thế kỷ, thậm chí hàng thiên niên kỷ, thì cuốn sách này tập trung vào các cuộc khủng hoảng xã hội, kinh tế và chính trị sát sườn hơn. Mối quan tâm của tôi ở đây không nằm ở việc tạo ra sự sống vô cơ mà thiên về mối đe dọa đối với nhà nước phúc lợi và những tổ chức cụ thể như Liên minh châu Âu.
Cuốn sách này không cố bao quát mọi ảnh hưởng của các công nghệ mới. Cụ thể thì mặc dù công nghệ mang lại nhiều hứa hẹn tuyệt vời, dự định của tôi ở đây là chủ yếu nêu bật các mối đe dọa cũng như hiểm họa của nó. Những tập đoàn và các doanh nghiệp dẫn đầu cuộc cách mạng công nghệ đương nhiên đều tụng ca các sáng tạo của mình nên các nhà xã hội học, triết học và sử học như tôi phải gióng hồi chuông cảnh báo và giải thích tất cả các cách mà mọi thứ có thể trở nên cực kỳ tồi tệ.
Sau khi phác ra các thử thách mà chúng ta đang đối mặt, trong phần hai của cuốn sách, tôi nghiên cứu một loạt cách ứng phó tiềm năng. Liệu các kỹ sư Facebook có thể dùng AI (trí tuệ nhân tạo) để tạo ra một cộng đồng toàn cầu bảo vệ tự do và công bằng của loài
người không? Có lẽ câu trả lời là đảo ngược quá trình toàn cầu hóa và tái trao quyền cho nhà nước? Có lẽ chúng ta cần quay ngược lại nhiều hơn nữa và tìm kiếm hy vọng cũng như trí tuệ từ cội nguồn của các truyền thống tôn giáo cổ xưa?
Trong phần ba của cuốn sách, chúng ta sẽ thấy rằng mặc dù các thách thức của công nghệ là chưa có tiền lệ và các mâu thuẫn chính trị là rất gắt gao, con người vẫn có thể nắm bắt thời cơ nếu chúng ta biết kiểm soát nỗi sợ và có các quan điểm khiêm nhường hơn. Phần này xem xét những gì có thể làm đối với hiểm họa của chủ nghĩa khủng bố, với mối đe dọa của chiến tranh toàn cầu và với những thiên kiến cũng như thù hằn đã châm ngòi cho những mâu thuẫn đó.
Phần bốn bàn về khái niệm hậu-sự thật và đặt câu hỏi: chúng ta vẫn có thể hiểu những sự phát triển trên toàn cầu và phân biệt sai trái với công lý đến mức độ nào. Liệu Homo sapiens có thể hiểu được thế giới mà nó đã tạo ra? Liệu có còn một ranh giới rõ ràng giữa thực tế và hư cấu?
Trong phần năm và cũng là phần cuối, tôi thu thập những đầu mối khác nhau và có một cái nhìn tổng thể hơn về đời sống trong một thời đại nhiễu loạn, khi những câu chuyện cũ đã sụp đổ và chưa có câu chuyện mới nào xuất hiện để thay thế chúng. Chúng ta là ai? Chúng ta nên làm gì trong đời? Những loại kỹ năng nào là cần thiết? Với tất cả những gì chúng ta biết và không biết về khoa học, Chúa, chính trị và tôn giáo, chúng ta có thể nói gì về ý nghĩa cuộc đời ngày nay?
Điều này nghe có vẻ quá tham vọng, nhưng Homo sapiens không thể chờ được. Triết học, tôn giáo và khoa học đều đang cạn
dần thời gian. Con người đã tranh luận về ý nghĩa cuộc sống hàng ngàn năm nay. Chúng ta không thể kéo dài cuộc tranh luận này mãi. Cuộc khủng hoảng sinh thái đang lấp ló, mối đe dọa của các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt đang ngày càng lớn, và sự trỗi dậy của các công nghệ đột phá mới sẽ không cho phép điều đó. Có lẽ quan trọng nhất là việc trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học đang đem lại cho con người quyền năng tái định hình và tái thiết kế sự sống. Rất sớm thôi, ai đó sẽ phải quyết định sử dụng quyền năng này như thế nào, dựa trên một câu chuyện ngụ ý hay công khai nào đó về ý nghĩa cuộc sống. Các nhà triết học là những người rất kiên nhẫn, nhưng các kỹ sư thì thiếu kiên nhẫn hơn rất nhiều, và các nhà đầu tư là ít kiên nhẫn hơn cả. Nếu bạn không biết phải làm gì với quyền năng tái thiết kế sự sống thì các động lực thị trường sẽ không đợi cả ngàn năm để bạn đưa ra câu trả lời đâu. Bàn tay vô hình của thị trường sẽ áp đặt câu trả lời mù quáng của nó lên bạn. Trừ phi bạn vui vẻ phó thác tương lai của mình vào lòng từ bi của các bản báo cáo doanh thu quý, bạn cần có một ý kiến sáng suốt về ý nghĩa cuộc sống này.
Trong chương cuối, tôi tự cho phép mình đưa ra một vài nhận định cá nhân, nói chuyện với tư cách một Homo sapiens với một Homo sapiens khác, ngay trước khi tấm màn nhung khép lại với giống loài chúng ta và một vở kịch hoàn toàn khác bắt đầu.
Trước khi bắt đầu hành trình tri thức này, tôi muốn làm rõ một điểm tối quan trọng. Trong phần lớn cuốn sách này, tôi bàn về những khiếm khuyết của thế giới quan tự do và hệ thống dân chủ. Tôi làm như vậy không phải vì tôi tin nền dân chủ là đặc biệt có vấn đề mà vì tôi nghĩ nó là mô hình chính trị linh hoạt nhất mà con
người đã phát triển được để đối phó với những thách thức của thế giới hiện đại. Mặc dù nó có thể không phù hợp cho mọi xã hội trong mọi giai đoạn phát triển, nó đã chứng tỏ giá trị của mình trong một số xã hội và hoàn cảnh. Thế nên khi nghiên cứu những thử thách mới trước mắt, chúng ta cần phải hiểu những hạn chế của nền dân chủ tự do và khám phá xem chúng ta có thể điều chỉnh cũng như cải tiến các thể chế của nó như thế nào.
Thật không may, trong môi trường chính trị hiện tại, mọi suy nghĩ phản biện về chủ nghĩa tự do và dân chủ có thể bị nhiều phong trào phi tự do khác nhau lợi dụng, mục đích của họ là làm mất uy tín của nền dân chủ tự do hơn là tham gia một cuộc đàm luận mở về tương lai của loài người.
Do đó, với tư cách tác giả, tôi buộc phải đưa ra một lựa chọn khó khăn. Tôi có nên cởi mở nói rõ lòng mình và chấp nhận nguy cơ những lời nói của tôi có thể bị dùng ngoài văn cảnh? Hay tôi nên tự kiểm soát mình? Các chế độ phi tự do có một đặc điểm là họ làm cho quyền tự do ngôn luận trở nên khó khăn hơn ngay cả bên ngoài biên giới của họ. Chính vì sự lan rộng của những thể chế đó mà việc tư duy mang tính phản biện về tương lai của loài người đang ngày càng trở nên nguy hiểm.
Sau một hồi tự soi thấu bản thân, tôi đã chọn thảo luận tự do. Nếu không chỉ trích mô hình tự do, chúng ta không thể sửa chữa những khuyết điểm của nó hay tiến xa hơn nó. Nhưng làm ơn lưu ý rằng cuốn sách này chỉ có thể được viết ra khi con người vẫn còn được tương đối tự do nghĩ gì họ thích và thể hiện bản thân như họ muốn. Nếu bạn tôn trọng cuốn sách này, bạn cũng nên tôn trọng quyền tự do biểu đạt.
Phần I
THÁCH THỨC CÔNG NGHỆ
Loài người đang mất lòng tin vào câu chuyện tự do đã thống trị nền chính trị toàn cầu trong vài thập kỷ gần đây, chính xác là từ khi sự hợp nhất của công nghệ sinh học và công nghệ thông tin bắt ta đối đầu với những thách thức lớn nhất mà loài người từng phải đối mặt.
1
Vỡ mộng
Thời khắc kết thúc của lịch sử vừa được hoãn lại C
on người suy nghĩ theo các câu chuyện hơn là theo các thực tế, số liệu hay đẳng thức; câu chuyện càng đơn giản càng tốt. Mỗi người, nhóm người và quốc gia đều có những câu chuyện và huyền thoại riêng của mình. Nhưng trong thế kỷ 20, giới tinh hoa toàn cầu tại New York, London, Berlin đã “nhào nặn” nên ba câu chuyện vĩ đại tự nhận là giải thích được toàn bộ quá khứ và tiên đoán được tương lai của cả thế giới: câu chuyện về chủ nghĩa phát xít, câu chuyện về chủ nghĩa toàn trị và câu chuyện về chủ nghĩa tự do. Thế chiến thứ hai hạ gục câu chuyện phát xít, và từ cuối thập niên 1940 đến cuối thập niên 1980, thế giới trở thành một “chiến trường” với hai câu chuyện: chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa tự do. Rồi câu chuyện toàn trị đi qua và câu chuyện tự do còn lại là “kim chỉ nam” “thống trị” quá khứ của con người và là cuốn “cẩm nang” không thể thiếu cho tương lai của thế giới, hoặc ít nhất với giới tinh hoa toàn cầu là như vậy.
Câu chuyện tự do tôn vinh giá trị và quyền năng của tự do. Nó kể rằng hàng ngàn năm nay, loài người đã sống dưới những chế độ áp chế cho con người rất ít quyền chính trị, các cơ hội kinh tế, hay tự do cá nhân; chúng hạn chế nặng nề sự chuyển dịch của các cá nhân, ý tưởng và hàng hóa. Nhưng con người đã đấu tranh cho tự
do, và tự do đã từng bước chiếm thế thượng phong. Các thể chế dân chủ thay thế những nền độc tài tàn bạo. Doanh nghiệp tự do vượt qua các rào cản kinh tế. Con người học cách nghĩ cho bản thân và đi theo trái tim thay vì mù quáng tuân phục những thầy tu đầy thiên kiến và những truyền thống bảo thủ. Những con đường mở, những cây cầu rộng và những sân bay đông đúc đã thay thế tường, hào và dây kẽm gai.
Câu chuyện tự do thừa nhận rằng, thế giới không phải cái gì cũng tốt đẹp và vẫn còn rất nhiều trở ngại phải vượt qua. Đâu đó trên hành tinh chúng ta vẫn có những kẻ độc tài thống trị, và ngay ở các quốc gia “tự do” nhất, nhiều công dân vẫn chịu cảnh nghèo đói, bạo lực và áp bức. Nhưng ít nhất chúng ta biết phải làm gì để vượt qua những vấn đề này: cho con người nhiều tự do hơn. Chúng ta cần bảo vệ quyền con người, cho mọi người quyền bầu cử, thiết lập thị trường tự do và để cho các cá nhân, ý tưởng cũng như hàng hóa di chuyển khắp thế giới càng dễ dàng càng tốt. Theo giải pháp tự do triệt để được cả George W. Bush và Barack Obama chấp nhận theo vài phiên bản hơi khác nhau này, nếu chúng ta cứ thế tiếp tục “mở cửa” và toàn cầu hóa các hệ thống chính trị và kinh tế, chúng ta sẽ đem lại hòa bình và thịnh vượng cho tất cả mọi người1.
Các quốc gia tham gia vào cuộc hành quân tiến bộ không gì có thể cản bước này sẽ được tưởng thưởng bằng hòa bình và thịnh vượng sớm hơn. Quốc gia nào cố đi ngược điều không thể tránh khỏi này sẽ phải gánh chịu hậu quả cho đến khi chính họ hiểu ra, mở cửa biên giới, tự do hóa xã hội, chính trị và thị trường. Điều này
có thể cần thời gian, nhưng cuối cùng thì ngay cả Triều Tiên, Iraq và El Salvador rồi cũng sẽ giống Đan Mạch hay Iowa.
Vào những năm 1990 và 2000, câu chuyện này trở thành một câu thần chú toàn cầu. Nhiều chính phủ từ Brazil đến Ấn Độ đã đưa “công thức” tự do vào trong một nỗ lực tham gia vào cuộc hành quân không gì có thể ngăn cản nổi này của lịch sử. Những nơi không làm được điều này trông như một vùng nguyên thủy lạc hậu. Vào năm 1997, tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tự tin chỉ trích chính phủ Trung Quốc, nói rằng việc từ chối tự do hóa nền chính trị Trung Hoa đã đặt nước này “đi ngược trào lưu lịch sử”2.
Tuy nhiên, từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, người dân khắp nơi trên thế giới đã ngày càng trở nên vỡ mộng với câu chuyện tự do. Tường rào và tường lửa được ưa dùng trở lại. Sự phản đối nhập cư và các thỏa thuận thương mại đang gia tăng. Một số chính phủ khoác danh nghĩa dân chủ đang làm suy yếu tính độc lập của hệ thống tư pháp, biến mọi sự đối lập thành tội phản quốc. Những lãnh đạo chính trị ở các nước như Thổ Nhĩ Kỳ và Nga thử nghiệm các kiểu dân chủ phi tự do mới. Ngày nay, rất ít người dám tự tin tuyên bố Trung Quốc “đi ngược trào lưu lịch sử”.
Năm 2016, được đánh dấu bằng cuộc bỏ phiếu Brexit ở Anh và sự nổi lên của Donald Trump ở Mỹ, báo hiệu thời điểm con sóng thủy triều của sự vỡ mộng này vỗ vào những quốc gia theo chủ nghĩa tự do trung tâm ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong khi một vài năm trước, người Mỹ và người châu Âu vẫn đang cố tự do hóa Iraq và Libya bằng họng súng, nhiều người ở Kentucky và Yorkshire giờ đang bắt đầu coi viễn cảnh tự do như một cái gì đó không đáng
mong ước hay không thể đạt được. Một số phát hiện ra mình bắt đầu hoài vọng thế giới theo trật tự cũ, và họ đơn giản là không muốn từ bỏ các đặc quyền chủng tộc, dân tộc hay giới tính của mình. Một số đi đến kết luận [đúng hoặc sai] rằng tự do hóa và toàn cầu hóa là một phi vụ lớn chỉ kiếm lời cho một nhóm thiểu số tinh hoa với cái giá phải trả của cả đám đông.
Vào năm 1938, con người được đưa cho ba câu chuyện toàn cầu để lựa chọn; đến năm 1968 chỉ có hai và vào năm 1998, có vẻ như chỉ còn một câu chuyện trụ lại. Đến năm 2018, ta có số không tròn trĩnh. Chẳng trách mà giới tinh hoa theo tư tưởng chủ nghĩa tự do, những người đã thống lĩnh phần lớn thế giới trong những thập kỷ gần đây, đang sốc và mất phương hướng. Có một câu chuyện là an tâm hơn tất cả. Mọi thứ rõ ràng tuyệt đối. Đột ngột chẳng còn câu chuyện nào thì thật đáng sợ. Chẳng còn gì có ý nghĩa nữa. Những người theo chủ nghĩa tự do không hiểu tại sao lịch sử lại đi chệch khỏi con đường đã vạch sẵn từ trước và họ thiếu một lăng kính thay thế để diễn giải hiện thực. Mất phương hướng khiến họ nghĩ “Ngày tận thế” đang đến, như thể việc lịch sử không đi đến được kết cuộc có hậu mà người ta trông mong chỉ có thể có nghĩa là lịch sử đang lao về phía “Diệt Vong” trong cuộc xung đột giữa Thiện và Ác. Đã đến lúc phải xem xét tình hình hiện tại khó chịu này thay vì lờ nó đi, nhưng người ta lại không thể, trí óc cứ bám lấy các viễn cảnh thảm họa. Như một người tưởng tượng một cơn nhức đầu tệ hại là dấu hiệu của một khối u não giai đoạn cuối, nhiều người theo chủ nghĩa tự do sợ rằng Brexit và sự nổi lên của Donald Trump báo hiệu cái kết của văn minh nhân loại.
TỪ DIỆT MUỖI ĐẾN DIỆT SUY NGHĨ
Tốc độ đứt gãy do công nghệ3 ngày càng tăng làm cho cảm giác mất phương hướng và ngày tàn đang cận kề của chúng ta trở nên tồi tệ thêm. Hệ thống chính trị tự do được định hình trong thời đại công nghiệp để quản lý thế giới các động cơ hơi nước, nhà máy lọc dầu và màn hình tivi. Nó gặp khó khăn khi đối đầu với các cuộc cách mạng đang diễn ra trong công nghệ thông tin và công nghệ sinh học.
Cả chính trị gia lẫn cử tri đều gần như không hiểu được các công nghệ mới, nói gì đến việc quản lý tiềm năng bùng nổ của chúng. Từ những năm 1990, mạng Internet đã thay đổi thế giới có lẽ nhiều hơn bất kỳ yếu tố nào khác, thế nhưng cuộc cách mạng internet lại do các kỹ sư dẫn dắt nhiều hơn là các đảng phái chính trị. Bạn có bao giờ bầu gì cho mạng Internet chưa? Hệ thống dân chủ vẫn đang chật vật để hiểu xem ai vừa giáng cho mình một cú và nó không được trang bị để đối mặt với những cú sốc tiếp theo, như là sự trỗi dậy của AI (trí tuệ nhân tạo) và cuộc cách mạng blockchain.
Ngày nay, máy vi tính đã biến hệ thống tài chính trở nên phức tạp đến nỗi rất ít người có thể hiểu được. Khi AI phát triển, sớm thôi, sẽ không ai trong chúng ta có thể hiểu nổi nền tài chính nữa. Việc này sẽ ảnh hưởng ra sao đến tiến trình chính trị? Bạn có thể tưởng tượng ra một chính phủ “gò lưng” chờ một thuật toán xét duyệt ngân sách hay bản cải cách thuế mới cho mình không? Trong khi đó, các mạng blockchain ngang hàng (P2P4) và các đồng tiền mã hóa như Bitcoin có thể hoàn toàn tái cơ cấu hệ thống tiền tệ, khiến
các cải cách thuế triệt để là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn, việc tính và đánh thuế thu nhập bằng đô la có thể trở thành bất khả thi hoặc bất hợp lý vì hầu hết các giao dịch sẽ không bao gồm việc trao đổi các đồng tiền quốc gia, hay thậm chí là bất cứ đồng tiền nào, một cách rõ ràng. Các chính phủ do đó cần phải phát minh ra những loại thuế hoàn toàn mới, có lẽ là một loại thuế đánh vào thông tin (vừa là tài sản quan trọng nhất trong nền kinh tế, vừa là thứ duy nhất được trao đổi trong vô số các giao dịch). Hệ thống chính trị có thể xoay xỏa để đối phó với cuộc khủng hoảng này trước khi cạn tiền không?
Quan trọng hơn, cuộc cách mạng kép trong công nghệ thông tin và sinh học có thể tái cơ cấu không chỉ các nền kinh tế và các xã hội mà chính cơ thể và tâm trí của chúng ta. Trong quá khứ, con người đã học cách kiểm soát thế giới bên ngoài, nhưng chỉ kiểm soát được rất ít thế giới bên trong. Chúng ta biết cách xây một cái đập và ngăn dòng một con sông, nhưng không biết làm thế nào để ngăn cơ thể khỏi lão hóa. Chúng ta biết làm sao để thiết kế một hệ thống tưới tiêu nhưng không biết làm thế nào để thiết kế một bộ não. Nếu một con muỗi vo ve bên tai và phá giấc ngủ, chúng ta biết làm thế nào để diệt con muỗi; nhưng nếu một ý nghĩ vo ve trong đầu và làm trằn trọc thâu đêm, hầu hết chúng ta không biết làm gì để diệt ý nghĩ đó.
Các cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin và công nghệ sinh học sẽ cho chúng ta khả năng kiểm soát thế giới bên ngoài, đồng thời tái định hình và tái thiết kế sự sống. Chúng ta sẽ học cách thiết kế các bộ não, kéo dài sự sống và tiêu diệt ý nghĩ tùy thích. Chẳng ai biết hậu quả sẽ là gì. Con người luôn giỏi chế tạo công cụ
hơn là sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Nắn dòng một con sông bằng cách xây một con đập thì dễ hơn nhiều việc dự đoán tất cả những hệ lụy phức tạp mà điều này sẽ gây nên cho hệ sinh thái rộng lớn hơn. Tương tự, nắn dòng suy nghĩ thì dễ hơn là hiểu được việc đó sẽ ảnh hưởng ra sao tới tâm lý cá nhân hay hệ thống xã hội của chúng ta.
Trong quá khứ, chúng ta đạt được quyền năng kiểm soát thế giới xung quanh và tái định hình cả hành tinh này; nhưng chúng ta không hiểu sự phức tạp của hệ sinh thái toàn cầu nên những thay đổi chúng ta tạo ra đã vô tình làm gián đoạn toàn bộ hệ sinh thái và giờ ta đang đối mặt với một cuộc sụp đổ sinh thái. Trong thế kỷ tiếp theo, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin sẽ cho chúng ta quyền năng kiểm soát thế giới bên trong và tái định hình bản thân; nhưng vì không hiểu sự phức tạp của chính tâm trí mình nên những thay đổi chúng ta sẽ tạo ra có thể làm đảo lộn hệ thần kinh đến mức chính nó cũng có thể sẽ sụp đổ.
Các cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin và công nghệ sinh học hiện đang được các kỹ sư, doanh nhân và các nhà khoa học khởi xướng; họ là những người gần như không ý thức được tầm ảnh hưởng chính trị của các quyết định mà họ đưa ra, và chắc chắn không đại diện cho bất cứ ai. Liệu các nghị viện và đảng phái chính trị có xắn tay vào? Hiện tại thì có vẻ không phải vậy. Sự đứt gãy do công nghệ gây ra thậm chí còn không phải là một đề mục ưu tiên trong các chương trình nghị sự. Trong cuộc tranh cử tổng thống Mỹ 2016, sự đứt gãy của công nghệ được nói đến ở trên chủ yếu lại liên quan đến vụ lùm xùm về email của Hillary Clinton; và mặc dù các bài nói chuyện của hai ứng cử viên đều về tình trạng mất việc làm,
không ai đả động đến nguy cơ của tự động hóa5. Donald Trump cảnh báo các cử tri rằng người Mexico và người Trung Quốc sẽ lấy đi việc làm của họ, do đó họ nên xây một bức tường dọc biên giới với Mexico6. Ông ta chưa bao giờ cảnh báo cử tri rằng các thuật toán sẽ lấy đi việc làm của họ cũng như không gợi ý xây một bức tường lửa dọc biên giới với California.
Đây có thể là một trong những nguyên do (dù không phải là duy nhất) các cử tri ngay tại những vùng trung tâm của xã hội phương Tây tự do đang mất dần lòng tin vào câu chuyện tự do và tiến trình dân chủ. Người thường có thể không hiểu trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học, nhưng họ có thể cảm nhận được tương lai đang bỏ họ lại phía sau. Vào năm 1938, tình trạng của một thường dân ở Liên bang Xô-viết, Đức hay Mỹ có thể tệ, nhưng người ta liên tục rỉ vào tai anh ta rằng anh là thứ quan trọng nhất thế giới, rằng anh là tương lai (đương nhiên miễn anh là một “người bình thường” chứ không phải người Do Thái hay người Phi). Anh ta nhìn những tấm áp-phích tuyên truyền, thường vẽ những người thợ mỏ, công nhân thép và các bà nội trợ trong những tư thế anh hùng, và thấy mình ở đó: “Mình có trong tấm ápphích ấy! Mình là người hùng của tương lai!7”
Đến năm 2018, thường dân ngày càng cảm thấy mình vô dụng. Rất nhiều từ ngữ bí ẩn đang được bàn qua tán lại một cách đầy hứng khởi trong các buổi TED Talk, các viện nghiên cứu của chính phủ và các hội thảo công nghệ cao: toàn cầu hóa, blockchain, công nghệ di truyền, trí tuệ nhân tạo, học máy; và thường dân có thể nghi ngờ là chẳng có từ nào trong đó nói về họ cả. Câu chuyện tự
do là câu chuyện của những thường dân. Làm sao nó còn thỏa đáng được trong một thế giới của người-lai-máy và các thuật toán kết nối mạng?
Trong thế kỷ 20, quần chúng làm cách mạng chống bóc lột và tìm cách biến vai trò chính yếu của mình trong nền kinh tế thành quyền lực chính trị. Giờ đây, quần chúng sợ sự vô dụng và lao vào sử dụng chút quyền lực chính trị còn sót lại của mình trước khi quá muộn. Brexit và sự nổi lên của Trump do đó có thể minh họa cho một quỹ đạo đối lập với quỹ đạo của các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa truyền thống. Các cuộc cách mạng Nga, Trung Quốc và Cuba được tạo ra bởi những người quan trọng với nền kinh tế nhưng chưa mạnh về chính trị; vào năm 2016, Trump và Brexit được chống lưng bởi nhiều người vẫn thích hưởng quyền lực chính trị nhưng e sợ rằng mình đang mất giá trị kinh tế. Có lẽ trong thế kỷ 21, các cuộc nổi dậy dân túy sẽ được tiến hành không phải để chống lại một lớp tinh hoa kinh tế bóc lột con người mà sẽ chống lại một lớp tinh hoa kinh tế không cần đến người dân nữa.8 Đây rất có thể sẽ là một trận chiến nhất định thua. Đấu tranh chống lại sự vô dụng thì khó hơn rất nhiều chống lại sự bóc lột.
PHƯỢNG HOÀNG TỰ DO
Đây không phải lần đầu tiên câu chuyện tự do đối mặt với một cuộc khủng hoảng lòng tin. Từ khi câu chuyện này có sức ảnh hưởng toàn cầu, trong nửa sau thế kỷ 19, nó đã chịu nhiều cuộc khủng hoảng định kỳ. Kỷ nguyên đầu tiên của toàn cầu hóa và tự do
hóa kết thúc trong cuộc tắm máu của Thế chiến thứ nhất, khi nền chính trị quyền lực đế quốc rút ngắn cuộc “hành quân” tiến bộ toàn cầu. Trong những ngày tiếp sau cuộc ám sát thái tử Franz Ferdinand Ở Sarajevo, hóa ra những bậc nắm quyền vĩ đại lại tin vào chủ nghĩa đế quốc hơn chủ nghĩa tự do rất nhiều; và thay vì thống nhất thế giới qua thương mại tự do và hòa bình, họ tập trung vào việc chiếm một miếng to hơn của quả địa cầu bằng vũ lực. Thế nhưng chủ nghĩa tự do đã sống sót qua thời khắc của Franz Ferdinand và trỗi dậy mạnh mẽ hơn trước từ cơn lốc chiến tranh, vốn được hứa hẹn là “cuộc chiến để chấm dứt mọi cuộc chiến”. Có vẻ như cuộc tàn sát không tiền khoáng hậu này đã dạy con người cái giá khủng khiếp của chủ nghĩa đế quốc, và giờ đây con người cuối cùng cũng đã sẵn sàng kiến tạo một trật tự thế giới mới dựa trên các nguyên tắc của tự do và hòa bình.
Thế rồi thời khắc của Hitler lại đến; vào thập niên 1930 và đầu thập niên 1940, chủ nghĩa phát xít dường như là không thể cưỡng lại. Chiến thắng mối đe dọa này thuần túy báo hiệu một mối đe dọa khác. Trong thời khắc của Che Guevara, giữa những năm 1950 và 1970, có vẻ như một lần nữa chủ nghĩa tự do đã đến hồi cáo chung, và tương lai thuộc về chủ nghĩa toàn trị. Cuối cùng, chủ nghĩa toàn trị lại ra đi. Siêu thị hóa ra mạnh hơn nhà tù rất nhiều. Quan trọng hơn, câu chuyện tự do hóa ra lại mềm mỏng và linh hoạt hơn bất cứ đối thủ nào của nó. Nó chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa toàn trị bằng cách kế thừa một số ý tưởng và hành động tốt nhất của các đối thủ. Cụ thể, câu chuyện tự do học được bằng việc mở rộng vòng tròn thấu cảm và tôn trọng sự bình đẳng cùng với sự tự do.
Ban đầu, câu chuyện tự do chủ yếu quan tâm đến những quyền tự do và đặc quyền của đàn ông trung lưu châu Âu, và có vẻ mù lòa trước tình cảnh của những người lao động, phụ nữ, người thiểu số và những người phi-phương Tây. Vào năm 1918, khi Anh và Pháp thắng trận hào hứng nói về tự do, họ không hề nghĩ về các thần dân trong các đế chế toàn cầu của họ. Chẳng hạn, những đòi hỏi về quyền tự quyết của người Ấn Độ đã được đáp trả bằng cuộc thảm sát Amritsar năm 1919, trong đó quân đội Anh giết hại hàng trăm người biểu tình tay không tấc sắt.
Ngay cả lúc mở màn Thế chiến thứ hai, những nhà tự do chủ nghĩa phương Tây vẫn rất vất vả khi áp dụng các giá trị được cho là có tính phổ quát của họ lên những người phi-phương Tây. Do đó, khi Hà Lan trỗi dậy vào năm 1945 sau 5 năm bị quân Nazi cai trị tàn bạo, gần như việc đầu tiên họ làm là thành lập quân đội và điều quân đi nửa vòng Trái đất để tái chiếm thuộc địa cũ của họ là Indonesia. Trong khi vào năm 1940, người Hà Lan tự từ bỏ độc lập chỉ sau chưa tới bốn ngày giao chiến, nhưng lại chiến đấu hơn bốn năm ròng rã và cay đắng để đàn áp quyền độc lập của người Indonesia. Chẳng trách mà nhiều phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đặt hy vọng vào Moscow và Bắc Kinh hơn là những người hùng tự do tự xưng ở phương Tây.
Tuy nhiên, dần dà, câu chuyện tự do mở rộng tầm nhìn, và cuối cùng, ít nhất là về lý thuyết, đã đi đến chỗ tôn vinh cả tự do và quyền lợi của tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Khi vòng tròn tự do mở rộng, câu chuyện tự do cũng dần nhận ra tầm quan trọng của các chương trình phúc lợi kiểu của các nhà nước phi tự do. Tự do chẳng đáng giá là bao trừ phi đi kèm với một kiểu mạng lưới bảo
hộ an sinh xã hội nhất định. Các nhà nước phúc lợi dân chủ-xã hội kết hợp dân chủ và nhân quyền với giáo dục và y tế được nhà nước đài thọ. Ngay cả nước Mỹ siêu-tư bản cũng nhận ra việc bảo vệ tự do cần ít nhất một số dịch vụ phúc lợi công. Để trẻ con bị đói thì chẳng phải tự do gì sất.
Đến đầu thập niên 1990, các nhà tư tưởng và chính trị gia đồng lòng tung hô điểm “Kết thúc của lịch sử”, tự tin khẳng định rằng tất cả các câu hỏi lớn về chính trị cũng như kinh tế của quá khứ đã được giải quyết và gói tự do được “tân trang” lại gồm dân chủ, nhân quyền, thị trường tự do và các dịch vụ phúc lợi công vẫn là lựa chọn tối ưu. Gói này có vẻ như chắc chắn sẽ lan rộng ra khắp thế giới, vượt mọi rào cản, xóa mọi ranh giới quốc gia và biến loài người thành một cộng đồng toàn cầu tự do duy nhất.9
Nhưng lịch sử lại không kết thúc; theo sau thời khắc của Franz Ferdinand hay của Hitler; giờ đây chúng ta thấy mình đang đứng giữa thời khắc của Trump. Tuy nhiên, lần này, câu chuyện tự do không phải đối mặt với một đối thủ ý thức hệ nhất quán như chủ nghĩa đế quốc hay chủ nghĩa phát xít. Thời khắc của Trump mang tính hư vô chủ nghĩa hơn rất nhiều.
Trong khi các phong trào chính của thế kỷ 20 đều mang tầm nhìn nhân loại, như thống trị thế giới, cách mạng hay tự do, thì Donald Trump chẳng đề xuất cái gì như vậy cả. Ngược lại thì đúng hơn. Thông điệp chính của ông ta là việc nhào nặn và tung hô một tầm nhìn toàn cầu không phải là việc của nước Mỹ. Tương tự, những người ủng hộ Brexit ở Anh chỉ có một kế hoạch cho tương lai của Vương quốc Anh Không Liên hiệp; tương lai của châu Âu và của thế
giới vượt xa tầm nhìn của họ. Hầu hết những người bầu cho Trump và Brexit không hoàn toàn bác bỏ gói tự do, họ chỉ mất lòng tin chủ yếu vào phần toàn cầu hóa. Họ vẫn tin vào dân chủ, thị trường tự do, quyền con người và trách nhiệm xã hội, nhưng họ nghĩ những ý tưởng cao đẹp đó nên dừng ở đường biên giới. Thực ra, họ tin rằng để bảo toàn tự do và thịnh vượng ở Yorkshire hay Kentucky, cách tốt nhất là xây một bức tường ở biên giới và áp dụng các chính sách phi tự do đối với người nước ngoài.
Siêu cường Trung Quốc đang trỗi dậy lại cho thấy một hình ảnh gần như phản chiếu kịch bản này. Thận trọng tự do hóa phần nội địa, nhưng lại áp dụng một cách tiếp cận tự do hơn nhiều với phần còn lại của thế giới. Trên thực tế, đứng trước vấn đề tự do thương mại và hợp tác quốc tế, Tập Cận Bình như người kế tục đích thực của Obama. Trung Quốc có vẻ khá hài lòng với trật tự quốc tế tự do.
Nước Nga tái sinh tự thấy mình là một đối thủ cực kỳ đáng gờm của trật tự tự do toàn cầu, nhưng mặc dù đã tái lập sức mạnh quân sự của mình, về mặt ý thức hệ, nó hoàn toàn “phá sản”. Vladimir Putin hẳn nhiên rất được lòng người ở Nga và các trào lưu cánh hữu khắp nơi trên thế giới, nhưng ông ta không có thế giới quan toàn cầu nào có thể hấp dẫn những người Tây Ban Nha thất nghiệp, những người Brazil bất mãn hay các sinh viên mơ mộng viển vông ở Cambridge.
Nước Nga quả có đưa ra một mô hình phát triển thay thế, nhưng đó không phải là một ý thức hệ nhất quán. Đúng hơn, nó là một đường lối chính trị tạo điều kiện cho một số người độc quyền kiểm soát của cải và quyền lực quốc gia rồi sử dụng truyền thông để làm bình phong cho các hoạt động đó. Mô hình dân chủ vốn dựa trên
nguyên tắc của Abraham Lincoln, rằng “anh có thể lừa tất cả mọi người vào một lúc nào đó và một số người vào mọi lúc, nhưng anh không thể lừa tất cả mọi người vào mọi lúc được”. Nếu một chính quyền lỏng lẻo và không thể cải thiện đời sống của người dân, đến một lúc nào đó sẽ có đủ công dân nhận ra điều này và phản đối. Nhưng quyền kiểm soát truyền thông lại làm suy yếu logic của Lincoln. Thông qua truyền thông, người ta có thể hết lần này đến lần khác đổ lỗi mọi thất bại của mình lên người khác và đánh lạc hướng chú ý sang các mối xung đột từ bên ngoài, dù thực tế hay tưởng tượng.
Khi bạn sống trong một hoàn cảnh như vậy, luôn có một cuộc khủng hoảng nào đó được ưu tiên hơn những thứ bình đẳng như y tế hay ô nhiễm. Nếu một chính quyền đang phải đối mặt với ngoại xâm hay âm mưu lật đổ thâm độc thì liệu còn có đủ thời gian lo lắng về các bệnh viện quá tải và những dòng sông ô nhiễm? Bằng cách tạo ra một loạt những, cuộc khủng hoảng không hồi kết, một chính quyền có thể kéo dài sự tồn tại của nó lâu dài.10
Thế nhưng, dù tồn tại lâu dài trên thực tế, mô hình này không hấp dẫn ai hết. Không như các ý thức hệ khác tự hào thuyết giáo về tầm nhìn của mình, các chính thể chuyên chế không tự hào về những đường lối của mình và chúng thường sử dụng các ý thức hệ khác như một tấm bình phong. Những người cực đoan cánh hữu ở Pháp và Anh hoàn toàn có thể dựa vào sự trợ giúp của Nga và thể hiện sự ngưỡng mộ dành cho Putin; nhưng các cử tri của họ thực ra sẽ không thích sống trong một đất nước sao y mô hình nước Nga; một đất nước còn hiện trạng tham nhũng, dịch vụ trời ơi, luật pháp
không nghiêm và còn nhiều bất bình đẳng. Theo một số chỉ số, Nga là một trong những nước bất bình đẳng trên thế giới với 87% của cải tập trung trong tay 10% những người giàu có nhất11. Liệu có bao nhiêu người lao động ủng hộ Mặt trận Dân tộc ở Pháp sao chép mô hình phân phối của cải này?
Con người “bỏ phiếu bằng chân”12. Trong những lần chu du thế giới, tôi đã gặp vô số người ở rất nhiều quốc gia muốn di cư sang Mỹ, Đức, Canada hay Úc. Tôi đã gặp vài người muốn chuyển tới Trung Quốc hay Nhật Bản. Nhưng ít có người nào mơ được định cư ở Nga cả.
Như với “Hồi giáo toàn cầu”, nó hấp dẫn chủ yếu những người sinh ra trong lòng nó. Trong khi nó có thể hấp dẫn một số người ở Syria và Iraq, thậm chí thanh niên theo Hồi giáo thấy mình lạc lõng ở Đức và Anh, thật khó hình dung những người Hy Lạp hay Nam Phi, chưa kể Canada hay Hàn Quốc, tham gia một đế chế Hồi giáo toàn cầu như một liều thuốc chữa lành những vấn đề của họ. Ngay cả trong trường hợp này, con người cũng bỏ phiếu “bằng chân”. Cứ mỗi thanh niên theo đạo Hồi đi từ Đức đến Trung Đông để sống dưới một nền chính trị thần quyền Hồi giáo, lại có hàng trăm thanh niên Trung Đông muốn hành trình ngược lại và bắt đầu một cuộc sống mới cho chính họ ở nước Đức tự do.
Điều này có thể nói lên rằng, cuộc khủng hoảng đức tin hiện tại là ít nghiêm trọng hơn những lần khủng hoảng trước. Bất cứ một người theo chủ nghĩa tự do nào đang thấy tuyệt vọng vì các sự kiện diễn ra trong vài năm gần đây có thể nhớ là mọi thứ đã từng tồi tệ hơn đến mức nào trong các năm 1918,1938 hay 1968. Cuối cùng,
loài người sẽ không từ bỏ câu chuyện tự do. Con người có thể thất vọng về hệ thống, nhưng vì chẳng có chỗ nào khác để đi, cuối cùng họ vẫn quay về với nó.
Mặt khác, con người có thể hoàn toàn từ bỏ việc có một thể loại câu chuyện toàn cầu mà thay vào đó tìm sự an toàn trong những câu chuyện mang tính dân tộc và tôn giáo địa phương. Trong thế kỷ 20, các phong trào dân tộc đóng vai trò chính trị cực kỳ quan trọng, nhưng chúng thiếu một tầm nhìn nhất quán cho tương lai của thế giới bên cạnh việc ủng hộ sự phân chia địa cầu ra thành các quốc gia-dân tộc độc lập. Các nhà dân tộc chủ nghĩa Indonesia đấu tranh chống lại sự thống trị của người Hà Lan và các nhà dân tộc chủ nghĩa của các quốc gia khác có bối cảnh tương tự muốn có một nền độc lập, nhưng không có câu chuyện nào của Indonesia hay các quốc gia kia dành cho toàn thể nhân loại cả. Khi cần phải giải thích xem Indonesia và tất cả các quốc gia tự do khác nên liên hệ với nhau như thế nào và con người nên đối phó với các vấn đề toàn cầu như mối đe dọa chiến tranh hạt nhân ra sao, thì những nhà dân tộc chủ nghĩa vẫn mong quay trở về với các ý tưởng tự do hoặc toàn trị.
Nhưng nếu hiện giờ cả chủ nghĩa tự do lẫn chủ nghĩa toàn trị đều đã lỗi thời, có lẽ con người nên từ bỏ luôn ý tưởng về một câu chuyện toàn cầu duy nhất. Xét cho cùng, chẳng phải tất cả các câu chuyện toàn cầu này, ngay cả chủ nghĩa toàn trị, cũng là sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc phương Tây hay sao? Tại sao những người nông dân nên đặt niềm tin vào đứa con tinh thần của một người đàn ông Đức đến từ Trier và một nhà tư bản công nghiệp người Manchester? Có lẽ mỗi đất nước nên có đường lối đặc thù riêng, được định hình bởi chính các truyền thống của nó. Có lẽ ngay cả
những người phương Tây cũng nên tạm ngừng việc cố vận hành thế giới và tập trung vào chính các vấn đề của mình để thay đổi. Đây có vẻ là điều đang xảy ra khắp toàn cầu, khi khoảng trống bị để lại sau sự sụp đổ của chủ nghĩa tự do đang nhất thời được những ảo tưởng hoài cổ về quá khứ hoàng kim bản địa nào đó lấp đầy. Donald Trump ghép những lời kêu gọi về chủ nghĩa biệt lập kiểu Mỹ với lời hứa “khiến nước Mỹ vĩ đại trở lại”, như thể nước Mỹ của những năm 1980 hay 1950 là một xã hội hoàn hảo mà người Mỹ bằng cách nào đó nên tái tạo vào thế kỷ 21. Những người theo Brexit mơ ước biến Anh quốc thành một thế lực độc lập, như thể họ vẫn còn sống trong thời kỳ của Nữ hoàng Victoria và “sự cô lập huy hoàng” là một chính sách khả thi trong thời đại Internet và nóng lên toàn cầu. Giới tinh hoa Trung Quốc đã khám phá lại các di sản của các vương triều, và Khổng giáo như một sự bổ sung hay thậm chí thay thế cho ý thức hệ có phần lung lay đến từ phương Tây. Ở Nga, tầm nhìn chính thức không phải là xây dựng một “đế chế đầu sỏ” mà là khôi phục đế chế kiểu Sa hoàng xưa. Một thế kỷ sau cách mạng Bolshevik, Putin hứa hẹn một sự quay trở lại những vinh quang thời Sa hoàng với một chính phủ được chủ nghĩa dân tộc Nga và lòng mộ đạo Chính thống giáo nâng đỡ, trải dài quyền lực từ biển Baltic đến vùng Kavkaz.
Những giấc mơ hoài cổ tương tự, pha trộn giữa sự gắn bó mang tính dân tộc chủ nghĩa với các truyền thống tôn giáo, là trụ cột của các thể chế ở Ấn Độ, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác. Không đâu có những ảo tưởng này cực đoan hơn ở Trung Đông: những người theo chủ nghĩa Hồi giáo muốn sao chép hệ thống do nhà tiên tri Muhammad xác lập ở thành phố Medina 1.400 năm
trước; vượt mặt họ là những người Do Thái chính thống ở Israel mơ đi ngược 2.500 năm về thời Kinh Thánh. Các thành viên của chính phủ liên hiệp cầm quyền tại Israel công khai nói về hy vọng mở rộng đường biên giới của Israel ngày nay để sánh ngang với Israel thời Kinh Thánh, về việc tái lập luật. Thánh kinh và thậm chí xây lại đền cổ Yahweh ở Jerusalem thay cho nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa.13
Giới tinh hoa tự do nhìn những diễn tiến này với sự kinh hoàng và hy vọng rằng loài người sẽ trở về con đường tự do đúng lúc để tránh thảm họa. Trong bài diễn văn cuối cùng trước Liên Hiệp Quốc vào tháng Chín năm 2016, Tổng thống Obama đã cảnh báo các cử tọa tránh lùi vào “một thế giới phân rẽ sâu sắc và cuối cùng là đối đầu nhau dọc theo những đường biên cổ xưa của quốc gia và bộ lạc và chủng tộc và tôn giáo”. Thay cho những điều đó, ông nói, “những nguyên tắc của thị trường mở và chính quyền có trách nhiệm, của dân chủ và nhân quyền và luật quốc tế… vẫn là nền tảng vững chắc nhất cho tiến bộ của loài người trong thế kỷ này”.14
Obama đã chỉ ra đúng vấn đề là, dù gói tự do có vô số khiếm khuyết, nó vẫn có một “hồ sơ” khá khẩm hơn bất cứ lựa chọn nào khác rất nhiều. Hầu hết mọi người chưa bao giờ được hưởng nền hòa bình hay sự thịnh vượng nào vĩ đại hơn dưới thời của trật tự tự do đầu thế kỷ 21. Lần đầu tiên trong lịch sử, tỷ lệ tử vong do bệnh truyền nhiễm ít hơn do tuổi già, nạn đói ít hơn bệnh béo phì, và bạo lực ít hơn tai nạn.
Nhưng chủ nghĩa tự do không có những câu trả lời rõ ràng cho những vấn đề lớn nhất mà chúng ta đang đối mặt: sụp đổ hệ sinh thái và sự đứt gãy do công nghệ. Chủ nghĩa tự do theo truyền thống
vẫn dựa vào tăng trưởng kinh tế để giải quyết các mâu thuẫn xã hội và chính trị một cách thần kỳ. Chủ nghĩa tự do đã hòa giải giai cấp, những người có đạo và những người vô thần, người bản địa và người nhập cư, người châu Âu với người châu Á bằng cách hứa hẹn ai cũng có một miếng bánh lớn hơn. Với một miếng bánh liên tục phình to15 thì điều đó là khả thi. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế sẽ không cứu được hệ sinh thái toàn cầu; hoàn toàn ngược lại, phát triển kinh tế thực ra là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng sinh thái. Và tăng trưởng kinh tế cũng không giải quyết được sự đứt gãy do công nghệ gây ra bởi nó dựa vào sự phát minh ra những công nghệ ngày càng gây đứt gãy.
Câu chuyện tự do và logic của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do khuyến khích con người ta có những kỳ vọng lớn lao. Trong nửa sau của thế kỷ 20, mỗi thế hệ, dù ở Houston, Thượng Hải, Istanbul hay São Paulo, đều đã hưởng một nền giáo dục tốt hơn, y tế ưu việt và thu nhập cao hơn thế hệ trước đó. Tuy nhiên, trong các thập kỷ sắp tới, khi sự đứt gãy do công nghệ và sụp đổ sinh thái kết hợp với nhau, đối với thế hệ trẻ hơn, việc đơn giản là ở nguyên một chỗ đã là may mắn.
Do vậy, chúng ta được lãnh nhiệm vụ tạo một câu chuyện cập nhật cho thế giới. Cũng như những xáo trộn của Cách mạng Công nghiệp đã cho ra đời các ý thức hệ mới lạ của thế kỷ 20, những cuộc cách mạng sắp tới trong công nghệ sinh học và công nghệ thông tin hẳn sẽ cần những tầm nhìn tươi mới. Do đó, các thập kỷ tiếp theo có thể sẽ được định hình bởi những cuộc tự vấn sâu sắc và việc hình thành các mô hình xã hội và chính trị mới. Liệu chủ nghĩa tự do có
thể một lần nữa tự đổi mới, như nó đã từng làm khi bùng phát các cuộc khủng hoảng của thập niên 1930 và 1960, và trỗi dậy hấp dẫn hơn bao giờ hết? Liệu tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc truyền thống có thể đưa đến những câu trả lời đã vuột khỏi tay các nhà tự do chủ nghĩa, và liệu họ có thể sử dụng trí tuệ cổ xưa để xây dựng lên một thế giới quan bắt kịp thời đại? Hay có lẽ đã đến lúc đoạn tuyệt hẳn với quá khứ và nhào nặn một câu chuyện hoàn toàn mới, không chỉ vượt ra khỏi những vị thần và các quốc gia cũ mà cả các giá trị hiện đại cốt lõi của tự do và bình đẳng nữa.
Hiện tại, loài người còn xa mới đạt được bất cứ đồng thuận nào cho những câu hỏi này. Chúng ta vẫn đang trong thời khắc hư vô của vỡ mộng và tức giận, sau khi con người đã mất lòng tin vào những câu chuyện cũ nhưng trước khi đón nhận một câu chuyện mới. Vậy thì tiếp theo sẽ là gì? Bước đầu tiên là phải làm dịu đi những tiên đoán tận thế và chuyển từ trạng thái hoảng sợ sang trạng thái hoang mang. Hoảng sợ là một dạng ngạo mạn. Nó đến từ cảm giác cao ngạo rằng ta biết chính xác thế giới đang tiến đến đâu: xuống hố. Hoang mang khiến người ta khiêm nhường hơn, và do đó sáng tỏ hơn. Bạn có muốn chạy xuống phố và gào lên: “Tận thế đến rồi” không? Hãy cố tự nhủ rằng: “Không, không phải thế. Sự thật là, tôi chỉ không hiểu điều gì đang xảy ra trên thế giới.”
Những chương tiếp theo sẽ cố làm sáng tỏ một vài viễn cảnh mới gây hoang mang mà chúng ta đang phải đối diện và cách ta bước tiếp từ đây. Nhưng trước khi khám phá các giải pháp tiềm năng cho thực trạng của loài người, chúng ta cần hiểu rõ hơn thách thức mà công nghệ mang lại. Những cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin và công nghệ sinh học vẫn đang trong giai đoạn
trứng nước; và người ta vẫn còn đang tranh cãi rằng thật ra chúng phải chịu trách nhiệm đến đâu cho cuộc khủng hoảng hiện tại của chủ nghĩa tự do. Hầu hết mọi người ở Birmingham, Istanbul, St. Petersburg và Mumbai chỉ lờ mờ nhận thức được, nếu có, về cuộc trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo và ảnh hưởng tiềm tàng của nó lên cuộc sống của họ. Tuy nhiên, một điều không thể nghi ngờ là các cuộc cách mạng công nghệ sẽ tăng tốc trong vài thập kỷ tới và sẽ bắt loài người đối diện với những thử thách khó khăn nhất mà chúng ta từng gặp phải. Bất cứ câu chuyện nào muốn chiếm được lòng tin của con người trước hết sẽ bị kiểm tra khả năng đối phó với cuộc cách mạng kép trong thông tin và sinh học. Nếu chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa dân tộc, Hồi giáo hay bất cứ tín điều mới mẻ nào đó muốn định hình thế giới của năm 2050, nó sẽ không chỉ cần hiểu được trí tuệ nhân tạo, các thuật toán Big Data và công nghệ sinh học mà còn phải đưa chúng vào một câu chuyện mới mẻ và ý nghĩa.
Để hiểu được bản chất của thử thách công nghệ này, có lẽ tốt nhất ta nên bắt đầu với thị trường lao động. Từ năm 2015, tôi đã đi khắp thế giới để nói chuyện với các nhân viên chính phủ, các doanh nhân, các nhà hoạt động xã hội và cả học sinh về trạng huống của loài người. Mỗi khi họ trở nên mất kiên nhẫn hay uể oải trước những câu chuyện về trí tuệ nhân tạo, thuật toán Big Data và công nghệ sinh học, thường thì tôi chỉ cần nhắc đến một từ thần kỳ để kéo sự chú ý của họ quay lại ngay lập tức: việc làm. Cuộc cách mạng công nghệ có thể sớm đẩy hàng tỷ người ra khỏi thị trường lao động và tạo ra một “tầng lớp vô dụng” khổng lồ mới, dẫn đến những biến động xã hội và chính trị mà không một chủ thuyết hiện hữu nào biết cách giải quyết. Tất cả những cuộc chuyện trò về công nghệ và ý
thức hệ có thể nghe rất trừu tượng và xa xôi, nhưng viễn tưởng rất thật về tình trạng thất nghiệp hàng loạt, hoặc thất nghiệp đơn lẻ, khiến bất cứ ai cũng phải quan tâm.
2
Công việc
Khi con lớn lên, có thể con sẽ không có việc làm C
húng ta không có bất kỳ ý niệm gì về việc thị trường lao động sẽ ra sao vào năm 2050. Nhìn chung mọi người đồng thuận cho rằng học máy và công nghệ robot sẽ thay đổi gần như mọi ngành nghề, từ sản xuất sữa chua đến dạy yoga. Tuy nhiên, có những quan điểm trái ngược nhau về bản chất của sự thay đổi này và thời điểm nó xảy ra. Một số tin rằng chỉ trong một hay hai thập kỷ, hàng tỷ người sẽ trở nên vô dụng về mặt kinh tế. Một số khác kiên định rằng thậm chí về lâu dài thì tự động hóa vẫn sẽ tiếp tục tạo ra những công ăn việc làm mới và sự thịnh vượng lớn hơn cho tất cả.
Vậy chúng ta đang mấp mé bên bờ một biến động khủng khiếp hay những dự báo như vậy chỉ là một ví dụ nữa của cơn quá khích thiếu cơ sở kiểu Luddite16? Cũng khó nói. Nỗi sợ rằng tự động hóa sẽ tạo ra tình trạng thất nghiệp hàng hóa có từ thế kỷ 19, và cho đến nay, nó chưa bao giờ thành hiện thực. Từ lúc bắt đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp, cứ mỗi việc làm “rơi vào tay” máy móc lại có ít nhất một việc làm mới được tạo ra; và mức sống trung bình đã tăng lên đáng kể17. Thế nhưng vẫn có lý do xác đáng, để nghĩ rằng lần này sẽ khác và học máy sẽ thực sự thay đổi cuộc chơi.
Con người có hai loại năng lực: thể chất và nhận thức. Trong quá khứ, máy móc cạnh tranh với con người chủ yếu ở năng lực thể chất
thuần túy, trong khi con người vẫn giữ được lợi thế cực kỳ lớn về nhận thức đối với máy móc. Do đó, khi các công việc tay chân trong nông nghiệp và công nghiệp được tự động hóa, các công việc dịch vụ mới, đòi hỏi các loại kỹ năng nhận thức chỉ con người mới có, xuất hiện: học tập, phân tích, giao tiếp và trên hết là hiểu được cảm xúc của con người. Tuy nhiên, AI giờ đây đang bắt đầu vượt qua con người trong ngày càng nhiều các kỹ năng này, bao gồm cả việc hiểu cảm xúc con người. Chúng ta không biết tới lĩnh vực hoạt động thứ ba nào, ngoài việc tay chân và việc trí óc, nơi con người sẽ luôn giữ một lợi thế an toàn.
Điều quan trọng là phải nhận ra cuộc cách mạng AI không chỉ là chuyện máy tính trở nên nhanh hơn và thông minh hơn. Nó được tiếp thêm năng lượng bằng những đột phá trong khoa học sự sống và cả khoa học xã hội nữa. Chúng ta càng hiểu rõ về các cơ chế sinh hóa cơ sở cho cảm xúc, đam mê và lựa chọn của con người, thì máy móc càng có thể giỏi phân tích hành vi, dự báo quyết định và thay thế tài xế/nhân viên ngân hàng/luật sư-người hơn.
Trong vài thập kỷ vừa qua, nghiên cứu trong các lĩnh vực như khoa học thần kinh và kinh tế học hành vi đã cho phép các nhà khoa học “bẻ khóa” con người và đặc biệt là hiểu cách con người đưa ra các quyết định hơn rất nhiều. Hóa ra các lựa chọn của chúng ta về tất cả mọi thứ, từ đồ ăn cho đến bạn tình, không phải là kết quả của một ý chí tự do kỳ bí nào đó mà từ hàng tỷ nơron thần kinh tính toán các khả năng có thể xảy ra chỉ trong một phần nhỏ của giây. “Trực giác con người” từng được ngợi ca trong thực tế lại là việc “nhận dạng mẫu”. Các tài xế, nhân viên ngân hàng và luật sư giỏi không có các trực giác thần kỳ về giao thông, đầu tư hay đàm phán nào cả;
thay vào đó, bằng cách nhận ra các mẫu lặp đi lặp lại, họ phát hiện và cố tránh những người đi đường bất cẩn; những người vay tiền hay trốn nợ và những tay lừa đảo quỷ quyệt. Đồng thời, hóa ra các thuật toán sinh hóa18 của não người còn xa mới gọi là hoàn hảo. Chúng dựa vào khả năng tự mày mò, các phím tắt và những mạch điện lạc hậu vốn thích nghi với đồng cỏ châu Phi hơn là rừng rậm thành thị19. Chẳng trách mà ngay cả những tài xế cừ, nhân viên ngân hàng giỏi và luật sư xịn thỉnh thoảng cũng phạm những sai lầm ngu ngốc.
Điều này có nghĩa AI có thể vượt qua con người ngay cả trong những việc vốn được cho là đòi hỏi “trực giác”. Nếu AI cần phải cạnh tranh với con người về mặt linh cảm huyền bí, thì nhiệm vụ đó quả là nghe có vẻ bất khả. Nhưng nếu AI thật sự cần cạnh tranh với các mạng lưới thần kinh trong việc tính toán các khả năng và nhận dạng mẫu, thì chuyện đó nghe có vẻ dễ hơn nhiều.
Đặc biệt, AI có thể giỏi hơn trong những công việc đòi hỏi trực giác về người khác. Nhiều công việc, như điều khiển một phương tiện trên phố đông người đi bộ, cho người lạ mượn tiền và thương thảo một thương vụ, đòi hỏi khả năng đánh giá chính xác các xúc cảm và mong muốn của người khác. Đứa bé kia có sắp chạy ào ra đường không? Liệu người đàn ông mặc vest kia có định cầm tiền của mình rồi biến không? Liệu gã luật sư kia có thực sự ra tay như đã dọa hay chỉ đang khoác lác? Khi người ta vẫn nghĩ những cảm xúc và mong muốn như thế được một linh hồn phi-vật chất tạo ra thì có vẻ rõ ràng là máy tính sẽ không bao giờ có thể thay thế những tài xế, nhân viên ngân hàng và luật sư. Vì làm sao một cái máy tính có thể hiểu được linh hồn con người, vốn được tạo ra một cách linh thiêng? Thế nhưng nếu những cảm xúc và mong muốn kia thực chất không gì khác
ngoài các thuật toán sinh hóa thì không có lý do gì mà máy tính không thể giải mã những thuật toán đó, và làm thế tốt hơn bất cứ Homo sapiens nào.
Việc người tài xế dự đoán ý đồ của một khách bộ hành, chủ nhà băng đánh giá độ khả tín của một người vay vốn tiềm năng và luật sư phán đoán tình hình tại bàn thương lượng không dựa vào ma thuật. Thay vào đó, dù chính họ không ý thức được, não của họ đang nhận dạng các mẫu sinh hóa bằng cách phân tích vẻ mặt, ngữ điệu, cử động tay và cả mùi cơ thể nữa. Một AI được lắp các máy đo phù hợp có thể làm tất cả những việc trên chính xác và đáng tin cậy hơn một con người rất nhiều.
Vì lý do này mà mối đe dọa mất việc làm không chỉ đơn thuần xuất hiện từ sự nổi lên của công nghệ thông tin. Nó còn bắt nguồn từ sự kết hợp của công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Việc đưa một máy quét fMRI vào thị trường lao động đòi hỏi nhiều thời gian và chông gai, nhưng vẫn có thể hoàn thành trong một vài thập kỷ. Những gì các nhà khoa học não bộ ngày nay đang nghiên cứu về hạch amygdala và tiểu não có thể khiến các máy tính có khả năng vượt mặt các nhà tâm thần học và vệ sĩ con người vào năm 2050.
AI không chỉ sẵn sàng bẻ khóa con người và vượt mặt họ trong các kỹ năng vốn trước nay là độc đáo chỉ có ở loài người; nó còn được hưởng những kỹ năng phi-nhân độc nhất vô nhị, điều làm nên sự khác biệt cốt lõi giữa AI và một người lao động. Hai khả năng phi
nhân đặc biệt quan trọng mà AI sở hữu là kết nối và nâng cấp. Con người là các cá thể nên khó kết nối họ với nhau và đảm bảo rằng tất cả đều được cập nhật. Trái lại, các máy tính không phải là các cá thể và việc kết hợp chúng thành một mạng lưới linh hoạt đơn
nhất là rất dễ dàng. Điều chúng ta đang đối mặt không phải là sự thay thế hàng triệu công nhân bằng hàng triệu robot và máy tính; mà mỗi con người rất có thể sẽ bị thay thế bởi một mạng lưới hợp nhất. Do đó, khi cân nhắc về tự động hóa, sẽ là sai lầm nếu so sánh khả năng của một tài xế với một chiếc xe tự hành, hay một bác sĩ người với một bác sĩ AI. Thay vào đó, ta nên so sánh khả năng của một tập hợp người với khả năng của một mạng lưới tích hợp.
Chẳng hạn, nhiều tài xế không nắm vững tất cả những quy định giao thông thay đổi liên tục và họ thường xuyên vi phạm. Thêm vào đó, mỗi phương tiện là một thực thể riêng biệt nên khi hai phương tiện cùng tiến về giao lộ vào cùng một thời điểm, tài xế có thể báo hiệu nhầm ý định của mình dẫn đến va chạm. Trái lại, các phương tiện tự hành có thể kết nối với nhau. Khi hai phương tiện như vậy cùng tiến về một giao lộ, chúng thực chất không phải là hai thực thể riêng biệt mà là một phần của một thuật toán duy nhất. Do đó, khả năng chúng có thể phát tín hiệu nhầm và va vào nhau là ít hơn. Và nếu ủy ban giao thông thay đổi một số luật giao thông, mọi phương tiện tự hành có thể dễ dàng cập nhật thông tin vào cùng thời điểm; và ngoại trừ một vài lỗi chương trình, chúng sẽ tuân theo luật mới chính xác đến từng con chữ.
Tương tự, nếu Tổ chức Y tế Thế giới phát hiện một loại bệnh mới, hay một phòng thí nghiệm điều chế được một loại thuốc mới, việc cập nhật thông tin về các tiến triển này đến mọi bác sĩ trên thế giới là gần như bất khả. Trái lại, ngay cả nếu có 10 tỷ bác sĩ AI trên thế giới, mỗi AI theo dõi sức khỏe của một người duy nhất, có thể cập nhật cho tất cả AI các thông tin trên trong vài phần giây và chúng có thể trao đổi với nhau các phản hồi của mình về căn bệnh mới hay loại
thuốc mới. Các lợi thế tiềm năng này của khả năng kết nối và cập nhật lớn đến nỗi ít nhất trong một số ngành nghề, việc thay thế tất cả con người bằng máy tính có lẽ là hợp lý, ngay cả khi nếu xét về mặt cá nhân thì một số người vẫn làm tốt hơn máy.
Bạn có thể phản đối rằng khi chuyển công việc từ những con người đơn lẻ sang cho một mạng lưới máy tính, chúng ta sẽ mất đi lợi thế của tính cá nhân. Chẳng hạn, nếu một bác sĩ-người chẩn đoán sai, anh ta không giết tất cả bệnh nhân trên thế giới; anh ta cũng không ngăn được sự phát triển của tất cả các loại thuốc mới. Trái lại, nếu tất cả bác sĩ thực ra chỉ là một hệ thống duy nhất và hệ thống đó phạm phải một sai lầm, hậu quả có thể cực kỳ thảm khốc. Tuy nhiên, trên thực tế, một hệ thống máy tính tích hợp có thể tối đa hóa những lợi thế của kết nối mà không mất đi lợi ích của tính cá nhân. Anh có thể chạy nhiều thuật toán khác nhau trên cùng một mạng lưới, thế là một bệnh nhân trong một ngôi làng xa xôi giữa rừng cũng có thể tiếp cận với không chỉ một bác sĩ có quyền hạn duy nhất mà thực ra là hàng trăm bác sĩ AI khác nhau, những người mà năng lực tương quan liên tục được so sánh với nhau, qua điện thoại thông minh của người đó. Bạn không thích những gì bác sĩ IBM vừa nói với bạn? Không vấn đề. Ngay cả khi mắc kẹt đâu đó trên sườn núi Kilimanjaro, bạn vẫn có thể dễ dàng liên lạc với bác sĩ Baidu để xin ý kiến khác.
Những lợi ích đối với xã hội loài người nhiều khả năng là cực kỳ lớn. Các bác sĩ AI có thể cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn và rẻ hơn rất nhiều cho hàng tỷ người, đặc biệt là những ai đang không hề nhận được dịch vụ y tế nào. Nhờ các thuật toán tự học và các thiết bị cảm biến sinh trắc học mà một người dân làng nghèo tại một nước kém phát triển có thể tận hưởng chăm sóc y tế qua điện
thoại thông minh tốt hơn nhiều những gì người giàu nhất thế giới ngày nay nhận được từ một bệnh viện thành phố tân tiến nhất. Tương tự, các phương tiện tự hành có thể cung cấp cho con người các dịch vụ giao thông tốt hơn nhiều, đặc biệt là giảm tỷ lệ chết do tai nạn giao thông. Ngày nay, mỗi năm có gần 1,25 triệu người chết trong các tai nạn giao thông (gấp đôi số người chết vì chiến tranh, tội phạm và khủng bố cộng lại). Hơn 90% các tai nạn này xảy ra do các sai lầm của con người: ai đó uống rượu và lái xe, ai đó nhắn tin trong khi lái xe, ai đó ngủ gục trên tay lái, ai đó mơ mộng giữa ban ngày thay vì để ý đường đi. Ủy ban An toan Giao thông Cao tốc Quốc gia ước tính năm 2012 có 31% các tai nạn gây chết người ở Mỹ liên quan đến các tài xế sử dụng đồ uống có cồn, 30% do tốc độ và 21% do lái xe mất tập trung. Các phương tiện tự hành sẽ không bao giờ phạm phải những điều này. Mặc dù chúng có những vấn đề và hạn chế riêng, và dù một số tai nạn là không thể tránh khỏi, việc thay thế toàn bộ tài xế bằng máy tính được kỳ vọng là giảm khoảng 90% số người thương vong khi tham gia giao thông đường bộ. Nói cách khác, chuyển sang các phương tiện tự hành có thể ngăn được cái chết cho khoảng một triệu người mỗi năm. Do đó, sẽ thật điên rồ nếu ngăn cản sự tự động hóa trong những lĩnh vực như giao thông và y tế chỉ để giữ việc làm cho con người. Xét cho cùng, cái chúng ta cần bảo vệ cuối cùng là con người, không phải việc làm. Các tài xế và bác sĩ mất việc sẽ phải đi tìm việc làm khác thôi.
MOZART TRONG CỖ MÁY
Ít nhất về ngắn hạn, AI và khoa học robot khó có khả năng loại bỏ hoàn toàn một số ngành nghề. Những công việc đòi hỏi chuyên môn hóa trong một phạm vi hẹp gồm các hoạt động lặp lại sẽ được tự động hóa. Nhưng để thay thế con người bằng máy móc trong các công việc ít lặp lại hơn, đòi hỏi sử dụng đồng thời một loạt các kỹ năng rộng và bao gồm việc đối phó với các tình huống chưa lường trước, sẽ khó hơn rất nhiều. Chẳng hạn như y tế. Nhiều bác sĩ tập trung gần như hoàn toàn vào xử lý thông tin: họ tiếp nhận các dữ liệu y tế, phân tích và đưa ra chẩn đoán. Trái lại, các y tá cần những kỹ năng vận động và cảm xúc tốt để tiêm thuốc, thay băng gạc hay kiềm chế một bệnh nhân manh động. Do đó, có lẽ chúng ta sẽ có một bác sĩ gia đình AI trên điện thoại thông minh trước khi có một robot y tá đáng tin cậy nhiều thập kỷ sau đó. Ngành chăm sóc con người, tức chăm lo cho người ốm, người trẻ cũng như người già, có
nhiều khả năng sẽ vẫn là địa hạt của con người trong một thời gian dài. Quả thực, khi con người sống thọ hơn và có ít con cái hơn, việc chăm sóc người cao tuổi có lẽ sẽ là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất trong thị trường lao động con người.
Bên cạnh chăm sóc, công việc sáng tạo cũng có những rào cản đặc biệt khó khăn cho tự động hóa. Chúng ta không cần những người bán nhạc nữa: chúng ta có thể tải xuống trực tiếp từ iTunes; nhưng các nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ và DJ vẫn là người bằng xương bằng thịt. Chúng ta dựa vào sức sáng tạo của họ không chỉ để sản xuất một thứ âm nhạc hoàn toàn mới mà còn để lựa chọn trong loạt khả năng hiện hữu nhiều vô kể.
Tuy nhiên, về lâu dài, không có công việc nào hoàn toàn không thể thay thế bởi tự động hóa cả. Ngay cả Các nghệ sĩ cũng nên lưu ý. Trong thế giới hiện đại, nghệ thuật thường được gắn với cảm xúc con người. Chúng ta có xu hướng nghĩ rằng các nghệ sĩ đang truyền tải những nội lực tâm lý nào đó, rằng toàn bộ mục đích của nghệ thuật là kết nối chúng ta với cảm xúc hay khơi dậy trong ta một xúc cảm mới nào đó. Do vậy, khi đánh giá nghệ thuật, chúng ta thường phán xét dựa trên tác động về mặt cảm xúc của nó lên khán giả. Tuy nhiên, nếu nghệ thuật được định nghĩa bằng cảm xúc con người thì điều gì sẽ xảy ra một khi các thuật toán ngoại thân20 có thể hiểu và điều khiển được cảm xúc con người tốt hơn cả Shakespeare, Frida Kahlo hay Beyoncé?
Xét chó cùng, các cảm xúc không phải là hiện tượng kỳ bí gì; chúng là kết quả của một quá trình sinh hóa. Do đó, trong một tương lai không quá xa, một thuật toán học-máy cũng có thể phân tích được các dữ liệu sinh trắc từ các máy cảm ứng lắp trên và trong cơ
thể bạn, phát hiện kiểu tính cách và những trạng thái tâm lý thay đổi của bạn, từ đó tính toán được tác động về mặt xúc cảm mà một bài hát cụ thể, thậm chí là một điệu nhạc nhất định, có thể gây ra cho bạn.
Trong tất cả các loại hình nghệ thuật, âm nhạc có lẽ dễ bị ảnh hưởng bởi phân tích Big Data chinh phục nhất vì cả đầu vào và đầu ra của nó đều thích hợp với việc mô tả chính xác bằng toán học. Đầu vào là các mô hình toán học của sóng âm, đầu ra là các mô hình điện hóa của xung thần kinh. Chỉ trong vài thập kỷ, một thuật toán chạy trên hàng triệu trải nghiệm âm nhạc có thể học để dự đoán cách khiến những đầu vào nhất định đưa ra những đầu ra nhất định.
Giả sử bạn vừa trải qua một cuộc cãi vã kinh khủng với bạn trai. Thuật toán phụ trách hệ thống âm thanh của bạn sẽ ngay lập tức nhận ra những xáo trộn cảm xúc trong bạn; và dựa vào những gì nó biết về cá nhân bạn cũng như tâm lý con người nói chung, nó sẽ chơi những bài hát phù hợp với trạng thái tâm lý, đồng cảm với nỗi buồn bực và nói hộ niềm đau của bạn. Những bài hát cụ thể này có thể không phù hợp với người khác, nhưng chúng hoàn hảo với tính cách của bạn. Sau khi cùng bạn đi đến tận cùng nỗi buồn, thuật toán sẽ phát bài hát duy nhất trên thế giới có khả năng làm bạn vui lên, có thể vì tiềm thức của bạn kết nối nó với một ký ức tuổi thơ hạnh phúc mà chính bạn cũng không ý thức được. Không một người DJ nào dám mơ chạm tới những kỹ năng của một AI như vậy.
Bạn có thể phản đối rằng AI sẽ giết chết những sự thú vị ngẫu nhiên và nhốt chúng ta trong một cái kén âm nhạc chật hẹp dệt bằng những cảm xúc yêu hay ghét trước đó của chúng ta. Thế còn khám phá các thị hiếu và phong cách âm nhạc mới thì sao? Không vấn đề.
Bạn có thể dễ dàng điều chỉnh thuật toán để 5% lựa chọn của nó là hoàn toàn ngẫu hứng, bất chợt phát một bản thu từ dàn nhạc gamelan21 của Indonesia, một bản opera của Rossini hay một bài K pop đình đám mới nhất. Dần dà, bằng cách theo dõi phản ứng của bạn, AI thậm chí có thể xác định được cả mức độ ngẫu nhiên lý tưởng, tối ưu hóa được khía cạnh khám phá mà vẫn tránh được sự khó chịu, có lẽ giảm mức ngẫu nhiên xuống 3% hay tăng lên 8%.
Một phản đối khả dĩ nữa là thuật toán có thể thiết lập mục tiêu cảm xúc của nó như thế nào. Nếu bạn vừa cãi nhau với bạn trai, thuật toán nên hướng đến việc làm bạn vui hay buồn đây? Liệu nó có mù quáng khư khư với một bộ cảm xúc “tốt” hay “xấu” cứng nhắc không? Có lẽ có những lúc trong đời mà cảm thấy buồn cũng tốt. Dĩ nhiên, vẫn câu hỏi đó có thể dành cho các nhạc công và các DJ con người. Thế nhưng với một thuật toán, có rất nhiều giải pháp thú vị cho vấn đề này.
Một phương án là cứ kệ theo khách hàng. Bạn có thể đánh giá cảm xúc của mình theo cách nào tùy thích và thuật toán sẽ đi theo mệnh lệnh của bạn. Bất kể bạn muốn gặm nhấm sự thương thân trách phận hay nhảy nhót vì vui mừng, thuật toán sẽ răm rắp theo chỉ dẫn đó. Sự thật là thuật toán có thể học được cách nhận ra các nhu cầu của bạn dù chính bạn cũng không ý thức một cách rõ ràng về chúng.
Hoặc giả bạn không tin tưởng bản thân, bạn có thể bảo thuật toán đi theo gợi ý của bất cứ nhà tâm lý học nổi tiếng nào bạn tin tưởng. Nếu cuối cùng bạn trai bạn vẫn đá bạn, thuật toán có thể đưa bạn qua năm giai đoạn đau buồn chính thức, đầu tiên là giúp bạn phủ nhận chuyện đã xảy ra bằng cách chơi bài “Don’t Worry, Be
Happy” (tạm dịch: Đừng lo lắng, hãy vui lên) của Bobby McFerrin, rồi thổi bùng cơn giận dữ của bạn bằng bài “You Oughta Know” (tạm dịch: Hẳn là anh biết chứ) của Alanis Morissette, động viên bạn níu kéo bằng bài “Ne Me Quitte Pas” (tạm dịch: Đừng rời xa em) của Jacques Brel và bài “Come Back and Stay” (tạm dịch: Hãy quay về và ở lại) của Paul Young, đẩy bạn xuống hố sâu trầm cảm bằng “Someone Like You” (tạm dịch: Ai đó giống anh) và “Hello” (tạm dịch: Xin chào) của Adele, và cuối cùng giúp bạn chấp nhận tình thế bằng “I Will Survive” (tạm dịch: Tôi sẽ sống sót) của Gloria Gaynor.
Bước tiếp theo có thể là cho thuật toán bắt đầu tự vá víu, sửa các bài hát và giai điệu, thay đổi chúng một chút thôi cho vừa với thị hiếu của bạn. Có lẽ bạn ghét một đoạn nào đó trong một bài hát nói chung là rất hay. Thuật toán biết điều đó vì tim bạn lỡ một nhịp và nồng độ oxytocin tụt một chút mỗi khi bạn nghe cái đoạn khó chịu đó. Thuật toán có thể viết lại hay bỏ hẳn đi những nốt chướng tai đó.
Về lâu dài, các thuật toán có thể học cách sáng tác toàn bộ giai điệu, chơi với các cảm xúc của con người như thể đó là những phím đàn. Sử dụng các dữ liệu sinh trắc của bạn, các thuật toán thậm chí có thể sản xuất những giai điệu được cá nhân hóa mà chỉ mình bạn trong cả vũ trụ này mới yêu thích.
Người ta thường nói con người kết nối với nghệ thuật vì họ tìm thấy mình trong đó. Điều này có thể dẫn đến những kết quả bất ngờ, có phần ghê rợn, nếu có khi nào Facebook bắt đầu sáng tác nghệ thuật được cá nhân hóa dựa trên tất cả những gì nó biết về bạn. Nếu bạn trai đá bạn, Facebook sẽ cho bạn nghe một bài hát viết riêng về thằng cha mắc dịch đó chứ không phải về gã cha căng chú kiết đã
làm tan vỡ trái tim Adele hay Alanis Morissette. Bài hát thậm chí còn nhắc bạn nhớ lại những sự kiện có thực trong mối quan hệ của bạn mà chẳng ai khác trên thế giới biết tới.
Dĩ nhiên, nghệ thuật được cá nhân hóa có thể không bao giờ thành mốt vì người ta sẽ tiếp tục thích các bài hát đình đám thông thường mà ai cũng thích hơn. Làm sao bạn nhảy hay hát chung theo một bài mà không ai khác ngoài bạn biết? Nhưng các thuật toán thậm chí có thể chứng minh rằng nó lão luyện với việc sản xuất các bản hit toàn cầu hơn là các bài hát hiếm hoi được cá nhân hóa kia. Bằng cách sử dụng các cơ sở dữ liệu sinh trắc đồ sộ thu thập từ hàng triệu người, thuật toán có thể biết nó nên bấm những nút sinh hóa nào để sản xuất ra một bản nhạc đình đám toàn cầu sẽ khiến mọi người “quẩy” theo như điên trên sàn nhảy. Nếu nghệ thuật thực sự là nhằm khơi gợi (hay điều khiển) cảm xúc con người thì sẽ hiếm, nếu có, nhạc sĩ nào có thể cạnh tranh nổi với một thuật toán như vậy, vì họ không thể sánh được với nó về việc hiểu thứ nhạc cụ chủ chốt mà họ đang chơi: hệ thống sinh hóa của con người.
Liệu tất cả những điều này có đem đến nghệ thuật xuất sắc? Điều đó dựa vào định nghĩa của nghệ thuật. Nếu cái hay thực sự nằm ở tai người nghe, và nếu khách hàng luôn đúng, thì các thuật toán sinh trắc có cơ hội sản sinh ra loại nghệ thuật hay nhất trong lịch sử. Nếu nghệ thuật là một cái gì đó sâu sắc hơn cảm xúc con người và nên thể hiện một chân lý nào đó vượt ra ngoài những rung động hóa học của chúng ta, thì các thuật toán sinh trắc có lẽ sẽ không thể trở thành những nghệ sĩ giỏi. Nhưng hầu hết con người cũng vậy thôi. Để bước vào thị trường nghệ thuật và chiếm chỗ nhiều nhạc sĩ/nghệ
sĩ người khác, các thuật toán đâu phải bắt đầu bằng cách vượt qua Tchaikovsky. Chỉ cần hay hơn Britney Spears là đủ rồi.
VIỆC LÀM MỚI?
Việc mất đi nhiều công việc truyền thống trong mọi lĩnh vực, từ nghệ thuật đến y tế, sẽ phần nào được bổ khuyết bằng việc tạo ra các việc làm mới cho con người. Các bác sĩ người sơ cấp với công việc chẩn đoán các bệnh đã biết và tiến hành các phương pháp điều trị quen thuộc có lẽ sẽ bị các bác sĩ AI thay thế. Nhưng chính vì thế, các bác sĩ và trợ lý phòng thí nghiệm sẽ được trả nhiều tiền hơn để
thực hiện các nghiên cứu đột phá và phát triển các loại thuốc hay các thủ thuật phẫu thuật mới.
AI có thể giúp tạo ra các công việc mới theo một cách khác nữa. Thay vì cạnh tranh với AI, con người có thể tập trung vào phục vụ và nâng cấp AI. Chẳng hạn, máy bay không người lái đã loại bỏ một số công việc (như phi công) nhưng tạo ra nhiều cơ hội mới trong bảo trì, điều khiển từ xa, phân tích dữ liệu và an ninh mạng. Không lực Hoa Kỳ cần 30 người để vận hành mỗi máy bay không người lái Predator hay Reaper bay qua Syria, trong khi việc phân tích lượng thông tin thu thập được cần thêm ít nhất 80 người nữa. Vào năm 2015, Không lực Hoa Kỳ thiếu người được tập huấn đủ năng lực để đảm nhiệm các vị trí này, do đó đối mặt với một cuộc khủng hoảng rất trớ trêu trong việc đảm bảo nhân sự cho các máy bay không người lái.
Nếu vậy, thị trường lao động năm 2050 có thể sẽ được định hình bởi việc hợp tác giữa người-AI hơn là cạnh tranh. Trong các lĩnh vực từ cảnh sát đến ngân hàng, các nhóm người-AI có thể vượt qua cả người và máy tính. Sau khi chương trình cờ vua Deep Blue của IBM đánh bại Garry Kasparov vào năm 1997, con người đâu có ngừng chơi cờ. Thay vào đó, nhờ các huấn luyện viên AI, các kiện tướng cờ vua trở nên giỏi hơn bao giờ hết và ít nhất là có một thời gian, các nhóm người-AI được gọi là “nhân mã” đã thắng cả người và máy tính trong bộ môn này. Tương tự, AI có thể giúp rèn giũa nên những thám tử, nhân viên ngân hàng và binh sĩ tốt nhất trong lịch sử.
Tuy nhiên, tất cả những công việc mới đó có lẽ sẽ yêu cầu trình độ chuyên môn rất cao, do đó sẽ nảy sinh vấn đề lao động không có chuyên môn bị thất nghiệp. Tạo ra các việc làm mới có thể sẽ dễ dàng hơn việc tái đào tạo những người có thể thật sự đảm nhận
những công việc ấy. Trong các làn sóng tự động hóa trước đó, con người thường có thể chuyển từ một công việc kỹ năng thấp, lặp đi lặp lại này sang một việc tương tự khác. Vào năm 1920, một người lao động tại trang trại bị sa thải vì cơ khí hóa nông nghiệp có thể tìm một việc mới trong nhà máy sản xuất đầu máy kéo. Vào năm 1980, một công nhân nhà máy thất nghiệp có thể bắt đầu công việc thu ngân trong siêu thị. Những thay đổi nghề nghiệp như vậy là khả dĩ bởi sự chuyển từ nông trại sang nhà máy rồi từ nhà máy sang siêu thị chỉ đòi hỏi việc đào tạo lại rất hạn chế.
Nhưng đến năm 2050, một nhân viên thu ngân hay công nhân nhà máy dệt mất việc vì một con robot sẽ không thể bắt đầu làm việc với tư cách một nhà nghiên cứu ung thư, một người điều khiển máy bay không người lái hay là một thành viên của nhóm người-AI ngành ngân hàng. Cô ta sẽ không có các kỹ năng cần thiết. Trong Thế chiến thứ nhất, việc điều hàng triệu tân binh chưa qua huấn luyện đi nạp đạn súng máy rồi hy sinh hàng ngàn người có thể là có lý. Kỹ năng cá nhân của họ không mấy quan trọng. Ngày nay, dù thiếu người vận hành máy bay không người lái và chuyên viên phân tích dữ liệu, Không lực Hoa Kỳ vẫn không muốn lấp chỗ trống bằng các nhân viên Walmart mất việc. Bạn sẽ không muốn một tay lính mới thiếu kinh nghiệm nhầm một lễ cưới của người Afghanistan với một hội nghị cấp cao của Taliban đâu.
Do vậy, mặc dù xuất hiện nhiều việc làm mới, chúng ta vẫn sẽ chứng kiến sự xuất hiện của một tầng lớp vô dụng đông đảo mới. Chúng ta có thể thật sự gánh chịu hậu quả tồi tệ nhất của cả hai vấn đề, tỷ lệ thất nghiệp cao và thiếu lao động có tay nghề. Nhiều người sẽ chịu chung số phận không phải với những người đánh xe ngựa thế
kỷ 19 đã chuyển sang lái taxi, mà của những con ngựa thế kỷ 19: ngày càng bị đẩy khỏi thị trường lao động.
Thêm nữa, không một công việc còn lại nào cho con người còn có thể giữ được trước mối đe dọa của tự động hóa trong tương lai, bởi học máy và công nghệ robot sẽ tiếp tục phát triển. Một nhân viên Walmart 40 tuổi thất nghiệp, nhờ nỗ lực siêu phàm, đã trở thành một “phi công” điều khiển máy bay không người lái; nhưng có lẽ anh ta sẽ phải tự đổi mới một lần nữa vào mười năm sau đó, vì đến lúc ấy, việc điều khiển máy bay không người lái có thể cũng đã được tự động hóa nốt. Sự bất ổn khôn lường này cũng sẽ khiến việc tổ chức các công đoàn hay đảm bảo quyền lợi của người lao động trở nên khó khăn hơn. Ngay lúc này, nhiều công việc mới trong các nền kinh tế phát triển chỉ là các công việc tạm thời không được bảo đảm, lao động tự do và việc làm một lần. Làm thế nào tổ chức công đoàn cho một ngành nghề mọc lên như nấm sau mưa rồi biến mất trong vòng một thập kỷ?
Tương tự, trong các nhóm nhân mã người-máy hẳn sẽ diễn ra một cuộc chiến giằng co liên tục giữa người và máy tính, thay vì một mối hợp tác dài lâu. Các nhóm chỉ có con người, như Sherlock Holmes và bác sĩ Watson, thường phát triển các thứ bậc và quy trình bền vững kéo dài nhiều thập kỷ. Nhưng một thám tử lập nhóm với hệ thống máy tính Watson của IBM (trở nên nổi tiếng sau khi thắng chương trình đố vui truyền hình Jeopardy! vào năm 2011) sẽ thấy mọi quy trình chỉ là lời kêu gọi chia rẽ, mọi thứ bậc chỉ khơi lên cách mạng mà thôi. Phụ tá hôm qua có thể hóa thành giám sát ngày mai, và mọi giao thức, chỉ dẫn sẽ phải viết lại sau mỗi năm.
Một cái nhìn kỹ lưỡng hơn thế giới cờ vua có thể cho thấy mọi thứ đang đi về đâu trong dài hạn. Đúng là vài năm sau khi Deep Blue đánh bại Kasparov, hợp tác người-máy đã nở rộ trong bộ môn này. Nhưng trong những năm gần đây, máy tính đã đánh cờ giỏi đến nỗi các cộng sự người của chúng đã không còn giá trị và có thể sớm trở nên hoàn toàn vô dụng.
Ngày 7 tháng Mười hai năm 2017 đánh dấu một cột,mốc quan trọng, không phải một máy tính đánh bại một con người trong môn cờ vua, tin đấy cũ rồi; đó là khi chương trình AlphaZero của Google đánh bại chương trình Stockfish 8. Stockfish 8 là nhà vô địch cờ vua máy tính thế giới năm 2016. Nó tiếp cận được hàng trăm năm kinh nghiệm của con người tích lũy trong môn cờ vua, cũng như hàng thập kỷ kinh nghiệm máy tính. Nó có khả năng tính toán 70 triệu nước cờ mỗi giây. Trái lại, AlphaZero chỉ tính được 80.000 nước mỗi giây và những nhà chế tạo ra nó chưa hề dạy nó bất cứ chiến thuật cờ vua nào, thậm chí các thế khai cuộc cơ bản cũng không. Thay vào đó, AlphaZero sử dụng các nguyên tắc học máy mới nhất để tự học chơi cờ bằng cách chơi với chính nó. Tuy nhiên, trong 100 ván cờ giữa tay mơ AlphaZero và Stockfish, AlphaZero thắng 28 và hòa 72. Nó không thua một ván nào. AlphaZero không học gì từ con người nên rất nhiều nước đi và chiến thuật đánh thắng của nó dưới mắt con người có thể nói là rất xa lạ. Có thể xem chúng là sáng tạo, nếu không muốn nói thẳng ra là thiên tài.
Bạn có đoán được AlphaZero học chơi cờ từ con số không, chuẩn bị cho trận đấu với Stockfish và phát triển các “bản năng” thiên tài của nó trong bao lâu không? Bốn giờ. Không phải lỗi đánh máy đâu. Suốt nhiều thế kỷ, cờ vua được xem là một trong những vinh quang
của trí tuệ con người. AlphaZero đã đi từ hoàn toàn không biết gì đến bậc thầy sáng tạo trong bốn giờ đồng hồ, không cần sự chỉ dẫn nào từ con người.
AlphaZero không phải là phần mềm sáng tạo duy nhất. Giờ đây, nhiều chương trình thường xuyên vượt mặt các kỳ thủ người không chỉ trong tính toán sơ đẳng mà trong cả “sáng tạo”. Trong các giải cờ vua chỉ có con người, các giám khảo liên tục phải trông chừng các kỳ thủ cố ăn gian bằng cách bí mật nhận trợ giúp từ máy tính. Một trong các cách để bắt được những kẻ gian lận này là giám sát mức sáng tạo mà các kỳ thủ thể hiện. Nếu họ đi một nước cờ đặc biệt sáng tạo, các giám khảo thường sẽ nghi ngờ đấy không thể là nước đi của con người, phải là nước đi của máy tính! ít nhất là trong cờ vua, sáng tạo đang được xem là thương hiệu của máy tính chứ không phải của con người! Thế nên nếu cờ vua là con chim hoàng yến trong mỏ than, thì chúng ta bị cảnh báo rằng con chim ấy đang hấp hối22. Điều đang diễn ra ngày nay với các đội cờ người-AI có thể sẽ diễn ra sau này với các đội người-AI trong lĩnh vực cảnh sát, y tế và cả ngân hàng nữa.
Do đó, tạo các việc làm mới và đào tạo lại con người để thực hiện những việc đó sẽ không phải là một nỗ lực “một lần là xong”. Cuộc cách mạng AI sẽ không phải là một sự kiện bước ngoặt duy nhất để sau đó thị trường lao động sẽ ổn định trong một trạng thái cân bằng mới. Thay vào đó, nó sẽ là một dòng thác của các đứt gãy, cái sau còn lớn hơn cái trước. Ngay ngày nay đã có rất ít người xác định làm một việc cả đời. Đến năm 2050, không chỉ ý tưởng về một việc làm trọn đời mà ý tưởng về một ngành nghề trọn đời cũng có vẻ cổ lỗ.
Ngay cả khi có thể liên tục tạo ra các việc làm mới và đào tạo lại lực lượng lao động, chúng ta hẳn vẫn băn khoăn liệu một người trung bình có đủ bền bỉ về mặt cảm xúc cho một cuộc đời đầy những xáo trộn liên tục như thế không. Thay đổi lúc nào cũng gây căng thẳng và thế giới đầy biến động đầu thế kỷ 21 đã tạo ra một đại dịch căng thẳng toàn cầu. Khi tính bấp bênh của thị trường lao động và của sự nghiệp cá nhân gia tăng, liệu con người có đương đầu nổi? Chúng ta có lẽ sẽ cần các kỹ thuật giảm căng thẳng hiệu quả hơn nữa, từ thuốc thang đến liệu pháp phản hồi thần kinh đến thiền, để ngăn đầu óc con người không bị suy sụp. Đến năm 2050, một tầng lớp vô dụng có thể sẽ xuất hiện không chỉ vì hoàn toàn thiếu việc làm hay thiếu sự giáo dục hiệu quả mà còn vì không đủ sức bền thần kinh.
Đương nhiên, phần lớn những điều này chỉ là suy đoán. Đến thời điểm tôi viết cuốn sách này, tức đầu năm 2018, tự động hóa đã phá vỡ nhiều ngành công nghiệp nhưng chưa dẫn đến thất nghiệp hàng loạt. Trên thực tế, tại nhiều nước, ví dụ như Hoa Kỳ, thất nghiệp đang ở mức thấp lịch sử. Chẳng ai biết chắc chắn học máy và tự động hóa sẽ ảnh hưởng thế nào đến các ngành nghề khác nhau trong tương lai, và cực kỳ khó đoán lộ trình của các tiến bộ có liên quan, đặc biệt khi chúng phụ thuộc vào các quyết định chính trị và truyền thống văn hóa cũng nhiều như các đột phá thuần túy kỹ thuật. Do đó, ngay cả khi các phương tiện tự hành chứng tỏ chúng an toàn và rẻ tiền hơn tài xế-người thì các chính trị gia và người tiêu dùng vẫn có thể ngăn chặn sự thay đổi trong nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ.
Tuy nhiên, chúng ta không thể cho phép mình trở nên tự mãn. Cứ thế tin rằng sẽ xuất hiện đủ công ăn việc làm mới để bổ khuyết cho bất kỳ việc nào bị mất đi là hết sức nguy hiểm. Việc nó từng xảy ra trong các làn sóng tự động hóa trước kia không hề đảm bảo nó sẽ xảy ra một lần nữa dưới các điều kiện rất khác của thế kỷ 21. Biến động xã hội và chính trị tiềm ẩn đáng báo động đến mức ngay cả khi khả năng thất nghiệp hàng loạt mang tính hệ thống là thấp, chúng ta vẫn phải xem xét nó cực kỳ nghiêm túc.
Trong thế kỷ 19, Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra các điều kiện và vấn đề mới mà không một mô hình xã hội, kinh tế và chính trị nào có sẵn có thể đương đầu nổi. Chế độ phong kiến, quân chủ và các tôn giáo truyền thống không thích ứng được để quản lý các đại đô thị công nghiệp, hàng triệu công nhân tha hương hay bản chất liên tục thay đổi của nền kinh tế hiện đại. Từ đó, loài người phải phát triển các mô hình hoàn toàn mới: các nền dân chủ tự do, các nền độc tài và các thể chế phát xít, v.v. và chúng ta đã mất hơn một thế kỷ chiến tranh và cách mạng kinh hoàng để thử nghiệm các mô hình này, gạn đục khơi trong và thực thi các giải pháp tốt nhất. Lao động trẻ em trong các hầm mỏ thời Dickens, Thế chiến thứ nhất và nạn đói khủng khiếp năm 1932-1933 tại Ukraine chỉ là một phần học phí nho nhỏ mà loài người đã phải trả.
Thử thách chờ chực con người trong thế kỷ 21 đến từ công nghệ thông tin và công nghệ sinh học phải nói là lớn hơn nhiều thử thách do đầu máy hơi nước, đường ray hỏa xa và điện đặt ra trong thời đại trước. Và với sức hủy diệt khủng khiếp của nền văn minh hiện nay, chúng ta đơn giản là không thể trả giá cho bất kỳ mô hình thất bại, các cuộc thế chiến và các cuộc cách mạng đẫm máu nào nữa. Lần
này, các mô hình thất bại có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân, các thảm họa biến đổi gien và sự sụp đổ hoàn toàn của sinh quyển. Chúng ta phải làm tốt hơn những gì con người đã làm khi đối mặt với cuộc Cách mạng Công nghiệp.
TỪ BÓC LỘT ĐẾN VÔ DỤNG
Các giải pháp tiềm năng rơi vào ba nhóm chính: làm gì để ngăn tình trạng mất việc làm; làm gì để tạo ra đủ việc làm mới; và làm gì nếu, dù đã cố hết sức, việc làm bị mất đi vẫn vượt quá số việc làm được tạo ra.
Ngăn chặn hoàn toàn chuyện mất việc làm là một chiến thuật kém hấp dẫn và có lẽ không khả thi, bởi như vậy có nghĩa là từ bỏ các tiềm năng khả quan vô bờ bến của AI và robot. Tuy nhiên, các chính phủ có thể quyết định thận trọng làm chậm lại tốc độ tự động hóa để làm giảm các cơn sốc mà nó gây và có thêm thời gian điều chỉnh. Công nghệ không bao giờ là tất định và việc có thể làm một cái gì đó không có nghĩa là phải làm cái đó. Quy định của chính phủ có thể ngăn chặn thành công các công nghệ mới, ngay cả khi chúng khả thi về mặt thương mại và có lợi về mặt kinh tế. Chẳng hạn, trong nhiều thập kỷ, chúng ta đã có đủ công nghệ để tạo một thị trường nội tạng người hoàn chỉnh với các “nguồn cung cấp” ở các nước kém phát triển và nhu cầu gần như không bao giờ cạn từ những người mua giàu có, tuyệt vọng. Các “kho người” như thế có thể có giá trị vài trăm tỷ đô la. Thế nhưng các quy định đều cấm mua bán tự do
các bộ phận cơ thể người và dù có thị trường nội tạng chợ đen, nó vẫn nhỏ hẹp hơn rất nhiều những gì người ta có thể tưởng tượng. Làm chậm tốc độ thay đổi có thể cho ta thời gian tạo ra đủ việc làm mới thay thế gần hết các việc làm đã mất. Thế nhưng, như đã nói ở trên, tinh thần khởi nghiệp sẽ phải đi kèm với một cuộc cách mạng trong giáo dục và tâm lý. Cứ cho rằng những công việc mới sẽ không chỉ là những việc “nhàn rỗi” của chính phủ thì có lẽ chúng sẽ đòi hỏi những trình độ chuyên môn cao, và khi AI tiếp tục cải tiến, lao động-người sẽ cần liên tục học các kỹ năng mới và thay đổi nghề nghiệp. Các chính phủ sẽ phải ra tay bằng cách bao cấp cho lĩnh vực giáo dục suốt đời lẫn cung cấp một tấm lưới an toàn cho các giai đoạn chuyển tiếp không thể tránh khỏi. Nếu một cựu nhân viên điều khiển máy bay không người lái đã 40 tuổi cần 3 năm để đổi mới bản thân, trở thành một nhà thiết kế các thế giới ảo thì có lẽ cô ấy sẽ cần rất nhiều trợ giúp từ chính phủ để trang trải cho bản thân cũng như gia đình trong thời gian đó (Hệ thống kiểu này hiện đang được tiên phong thực hiện tại Scandinavia; nơi các chính phủ đi theo phương châm “Bảo vệ người lao động chứ không phải việc làm”). Ngay cả khi có đủ sự trợ giúp từ chính phủ, ta vẫn không rõ liệu hàng tỷ người có khả năng liên tục đổi mới bản thân mà không mất cân bằng hay không. Vì lý do này, nếu sau tất cả những nỗ lực của chúng ta, một tỷ lệ đáng kể dân số thế giới bị đẩy khỏi thị trường lao động, chúng ta sẽ phải khám phá các mô hình mới cho những xã hội, các nền kinh tế và chính trị hậu-việc làm. Bước đầu tiên là thành thật thừa nhận rằng các mô hình xã hội, kinh tế và chính trị mà ta đã thừa hưởng từ quá khứ không đủ sức giải quyết một thử thách như vậy.
Một số có thể tranh luận rằng con người không bao giờ có thể trở nên vô dụng về mặt kinh tế vì ngay cả khi không thể cạnh tranh được với AI tại nơi làm việc, họ vẫn luôn được cần đến với tư cách người tiêu dùng. Tuy nhiên, không có gì chắc chắn là nền kinh tế tương lai sẽ cần chúng ta với tư cách là người tiêu dùng. Máy móc và máy tính cũng có thể làm được điều đó. Về lý thuyết, ta có thể có một nền kinh tế trong đó một công ty khai khoáng sản xuất và bán sắt cho một công ty robot, công ty robot sản xuất và bán robot cho công ty khai khoáng, công ty này đào được nhiều sắt hơn, sắt lại được dùng để sản xuất thêm nhiều robot, và cứ thế. Các công ty này có thể phát triển và mở rộng đến tận cuối dải Ngân hà và chúng chỉ cần robot và máy tính mà thôi; chúng thậm chí không cần con người để mua các sản phẩm của chúng.
Trên thực tế, ngày nay, các máy tính và thuật toán đã bắt đầu hoạt động với tư cách khách hàng bên cạnh việc làm nhà sản xuất. Trên thị trường chứng khoán chẳng hạn, các thuật toán đang trở thành những người mua trái phiếu, cổ phần và hàng hóa quan trọng nhất. Tương tự, trong ngành công nghiệp quảng cáo, khách hàng quan trọng hơn cả là một thuật toán: thuật toán tìm kiếm Google. Khi thiết kế các trang web, người ta thường đi theo thị hiếu của thuật toán tìm kiếm Google hơn là “gu” của bất kỳ con người nào.
Thuật toán đương nhiên không có ý thức, thế nên không như khách hàng-con người, chúng không thể tận hưởng những gì chúng mua và các quyết định của chúng không do các rung động và xúc cảm nhào nặn mà thành. Thuật toán tìm kiếm Google không thể nếm kem. Tuy nhiên, các thuật toán lựa chọn mọi thứ dựa trên các tính toán bên trong và các ưu tiên gắn liền với chúng; các ưu tiên đó
đang ngày càng định hình thế giới của chúng ta. Thuật toán tìm kiếm Google có một thị hiếu rất phức tạp khi xếp hạng trang web của những đơn vị bán kem, và những đơn vị bán kem thành công nhất thế giới là những đối tượng được thuật toán Google xếp hạng nhất, không phải là những đơn vị sản xuất ra loại kem ngon nhất.
Tôi biết được chuyện này nhờ kinh nghiệm cá nhân. Khi tôi xuất bản một cuốn sách, các nhà xuất bản yêu cầu tôi viết một mô tả ngắn để họ dùng quảng bá trực tuyến. Nhưng họ có một chuyên gia đặc biệt sẽ điều chỉnh những gì tôi viết theo thị hiếu của thuật toán Google. Chuyên gia đó đọc qua phần viết của tôi và nói: “Đừng dùng từ này, dùng từ kia kìa. Thế thì chúng ta mới thu hút thêm sự chú ý từ thuật toán Google”. Chúng tôi biết chỉ cần mình lọt vào mắt xanh của thuật toán thì coi như mình đã nắm chắc người dùng trong tay.
Vậy nếu con người không còn cần thiết, dù với tư cách người sản xuất hay người tiêu dùng, thì điều gì sẽ bảo vệ sự tồn tại về thể xác cũng như sự lành mạnh về tinh thần của họ? Chúng ta không thể ngồi chờ cuộc khủng hoảng bùng nổ hết mức trước khi bắt đầu tìm kiếm câu trả lời. Đến lúc đó sẽ là quá muộn. Để đương đầu với những đứt gãy công nghệ và kinh tế chưa hề có tiền lệ của thế kỷ 21, chúng ta cần phát triển các mô hình xã hội và kinh tế mới càng sớm càng tốt. Các mô hình này nên được dẫn dắt bởi nguyên tắc bảo vệ con người chứ không bảo vệ việc làm. Nhiều công việc đơn điệu nhàm chán và cũng không đáng để bảo vệ. Chẳng ai có mơ ước cả đời là đi làm thu ngân cả. Thay vào đó, chúng ta nên tập trung vào việc chuẩn bị cho các nhu cầu cơ bản của con người và bảo vệ địa vị xã hội cũng như giá trị bản thân của họ.
Một mô hình mới đang ngày càng được chú ý là thu nhập cơ bản phổ quát (UBI, viết tắt của Universal Basic Income). UBI đề xuất các chính phủ đánh thuế các tỷ phú và các tập đoàn kiểm soát các thuật toán và robot, rồi sử dụng số tiền đó để cho mỗi người một khoản lương hào phóng để chi trả cho những nhu cầu cơ bản của họ. Điều này sẽ giảm bớt tác động của việc thất nghiệp và mất địa vị kinh tế của người nghèo, trong khi bảo vệ người giàu trước cơn tức giận của những người theo chủ nghĩa dân túy. Một ý tưởng có liên quan đề xuất việc mở rộng phạm vi những hoạt động của con người được xem là “công việc”. Hiện tại, hàng tỷ ông bố, bà mẹ đang chăm sóc con cái, hàng xóm láng giềng trông nom nhau và các công dân tổ chức ra các cộng đồng, không hoạt động giá trị nào trong số này được xem là công việc cả. Có lẽ chúng ta cần thay đổi tư tưởng và nhận ra rằng chăm sóc một đứa trẻ có thể xem là công việc quan trọng và thử thách nhất trên thế giới. Nếu thế, sẽ không bao giờ thiếu việc làm ngay cả khi máy tính và robot thay thế hết tài xế, nhân viên ngân hàng và luật sư. Câu hỏi dĩ nhiên là ai sẽ định giá và trả tiền cho những công việc mới được thừa nhận này? Mặc nhiên, những em bé sáu tháng tuổi sẽ không trả lương cho mẹ chúng, chính phủ có lẽ sẽ phải tự chi trả khoản này. Giả sử chúng ta muốn các khoản lương đó sẽ trang trải được toàn bộ nhu cầu cơ bản của một gia đình, vậy thì cuối cùng chúng sẽ không khác thu nhập cơ bản phổ quát là bao.
Một cách khác là các chính phủ có thể trợ cấp các dịch vụ cơ bản phổ quát thay vì thu nhập. Thay vì cho mọi người tiền, để rồi họ dùng tiền đó mua sắm bất cứ thứ gì họ thích, chính phủ có thể miễn phí giáo dục, y tế, giao thông, v.v. Đây thực chất là tầm nhìn lý tưởng
của chủ nghĩa xã hội. Mặc dù giờ không cần tiến hành một cuộc cách mạng của tầng lớp lao động của chủ nghĩa xã hội nữa, chúng ta có lẽ vẫn nên hướng tới việc hiện thực hóa mục tiêu “cộng sản” bằng các phương cách khác.
Cho người dân thu nhập cơ bản phổ quát (theo tư bản chủ nghĩa) hay dịch vụ cơ bản phổ quát (theo xã hội chủ nghĩa) là tốt hơn thì còn phải bàn. Cả hai phương án có những mặt ưu điểm và mặt hạn chế riêng. Nhưng dù bạn chọn trào lưu nào, vấn đề chính nằm ở định nghĩa “phổ quát” và “cơ bản” thực sự nghĩa là gì.
PHỔ QUÁT LÀ Gì?
Khi nói về hỗ trợ cơ bản phổ quát, dù là dưới hình thức thu nhập hay dịch vụ, người ta thường có ý nói hỗ trợ cơ bản quốc gia. Đến bây giờ, mọi đề xuất UBI đều hạn chế trong phạm vi quốc gia hoặc khu vực. Vào tháng Một năm 2017, Phần Lan bắt đầu thử nghiệm kéo dài hai năm, trợ cấp cho 2.000 người Phần Lan thất nghiệp 560 euro một tháng, bất kể họ đã tìm được việc làm hay chưa. Các thử nghiệm tương tự đang diễn ra ở Ontario của Canada, ở thành phố Livomo của Ý và một vài thành phố ở Hà Lan. (Vào năm 2016, Thụy Sĩ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc thiết lập một chương trình thu nhập cơ bản quốc gia, nhưng cử tri đã bác bỏ ý tưởng trên.)
Tuy nhiên, vấn đề với những chương trình mang tầm quốc gia và thành phố như vậy là các nạn nhân chính của tự động hóa có thể không sống ở Phần Lan, Ontario, Livorno hay Amsterdam. Toàn cầu hóa đã khiến người ở một nước này hoàn toàn lệ thuộc vào các thị
trường ở nước khác, nhưng tự động hóa có thể tháo rời những mảng lớn của mạng lưới thương mại toàn cầu này và kéo theo những hậu quả thảm khốc cho những mắt xích yếu nhất. Trong thế kỷ 20, các nước đang phát triển thiếu tài nguyên thiên nhiên đạt tiến bộ kinh tế chủ yếu bằng cách bán sức lao động rẻ mạt của những người lao động không có tay nghề. Ngày nay, hàng triệu người Bangladesh đang kiếm sống bằng cách sản xuất áo sơ-mi và bán chúng cho các khách hàng ở Mỹ, trong khi người ở Bangalore kiếm sống bằng cách xử lý các phàn nàn của khách hàng Mỹ ở các tổng đài chăm sóc khách hàng.
Thế nhưng với sự phát triển của AI, robot và máy in 3-D, lao động không có tay nghề giá rẻ sẽ trở nên ngày càng ít quan trọng. Thay vì sản xuất một cái áo sơ-mi ở Dhaka và vận chuyển nó từ đó đến tận Mỹ, bạn có thể mua mã của chiếc áo trên mạng từ Amazon rồi in nó ở New York. Các cửa hàng Zara và Prada ở Đại lộ Năm có thể được thay thế bởi các trung tâm in 3-D ở Brooklyn; một số người thậm chí có thể có máy in tại nhà. Cùng lúc đó, thay vì gọi điện đến tổng đài chăm sóc khách hàng ở Bangalore để phàn nàn về máy in của mình, bạn có thể nói chuyện với một đại diện AI trong đám mây Google (âm sắc và ngữ điệu của nó sẽ được điều chỉnh theo sở thích của bạn). Các công nhân và nhân viên trực tổng đài vừa thất nghiệp ở Dhaka và Bangalore không có nền tảng giáo dục cần thiết để chuyển sang thiết kế áo sơ-mi thời trang hay viết mã máy tính, thế họ sẽ sống sót ra sao?
Nếu AI và máy in 3-D thực sự thay thế những người ở Bangladesh và Bangalore, phần doanh thu trước vốn chảy về Nam Á giờ sẽ đổ đầy két của một vài nhà tài phiệt công nghệ ở California.
Thay vì phát triển kinh tế cải thiện điều kiện sống trên khắp thế giới, chúng ta có thể thấy lượng của cải mới khổng lồ được tạo ra trong các trung tâm công nghệ cao như Thung lũng Silicon, trong khi nhiều nước đang phát triển sẽ sụp đổ.
Dĩ nhiên, một số nền kinh tế đang nổi, bao gồm cả Ấn Độ và Bangladesh, có thể sẽ tiến bộ đủ nhanh để tham gia vào nhóm thắng cuộc. Con hoặc cháu của các công nhân nhà máy dệt và nhân viên trực tổng đài rất có thể sẽ trở thành các kỹ sư và doanh nhân sẽ tạo ra và sở hữu các máy tính và máy in 3-D. Nhưng thời gian để tạo ra một biến chuyển như vậy đang cạn dần. Trong quá khứ, lao động thiếu tay nghề giá rẻ đóng vai trò như một cây cầu an toàn bắc qua hố sâu chia cắt kinh tế toàn cầu; ngay cả khi một nước nào đó tiến bộ chậm đi chăng nữa, nó vẫn có thể hy vọng rằng cuối cùng mình sẽ đến được nơi an toàn. Đi những bước đúng thì quan trọng hơn là tiến bộ nhanh. Nhưng giờ đây, cây cầu đang rung chuyển và chẳng mấy chốc có thể sẽ sập. Những người vốn đã vượt qua bên kia, tiến từ lao động giá rẻ lên lao động trong các ngành đòi hỏi tay nghề cao, có lẽ sẽ ổn. Nhưng những người đang tụt lại phía sau có thể thấy mình bị mắc kẹt ở bên này hố sâu ngăn cách mà không có phương tiện nào để đi qua bên kia. Bạn phải làm gì khi không ai cần các lao động giá rẻ không có tay nghề của bạn và bạn cũng không có nguồn lực để xây dựng một hệ thống giáo dục tốt và dạy họ các kỹ năng mới?
Thế thì số phận của những người tụt hậu sẽ ra sao? Các cử tri Mỹ hoàn toàn có thể đồng ý với việc dùng tiền thuế mà Amazon và Google phải nộp cho việc kinh doanh ở Mỹ chi trả lương hay dịch vụ miễn phí cho các thợ mỏ thất nghiệp ở Pennsylvania và các tài xế taxi
mất việc ở New York. Nhưng liệu các cử tri Mỹ cũng đồng ý là số thuế này nên được gửi đi để hỗ trợ những người thất nghiệp ở những nơi mà Tổng thống Trump đã định nghĩa là “các nước bẩn thỉu”? Nếu bạn tin điều đó, hẳn bạn cũng tin ông già Noel và thỏ Phục sinh sẽ giải quyết được vấn đề.
CƠ BẢN LÀ GÌ?
Hỗ trợ cơ bản phổ quát là để chăm sóc các nhu cầu cơ bản của con người, nhưng lại không có định nghĩa nào về nó được chấp nhận rộng rãi. Từ góc độ sinh học thuần túy, một người cần chỉ 1.500 đến 2.500 calo mỗi ngày để tồn tại. Bất cứ thứ gì nhiều hơn thế là xa xỉ. Thế nhưng mọi nền văn hóa trong lịch sử đều đã từng định nghĩa các nhu cầu trên mức nghèo đói sinh học này là “cơ bản”. Ở châu Âu trung cổ, việc tiếp cận với các dịch vụ của nhà thờ được xem trọng hơn cả thức ăn vì tôn giáo chăm sóc linh hồn vĩnh hằng của bạn hơn là thể xác phù du. Ở châu Âu ngày nay, giáo dục và dịch vụ y tế tử tế được coi là nhu cầu cơ bản của con người; một số còn cho rằng cả việc tiếp cận Internet giờ cũng là thiết yếu cho nam phụ lão ấu. Nếu vào năm 2050, Chính phủ Thế giới hợp nhất đồng ý đánh thuế Google, Amazon, Baidu và Tencent để cung cấp hỗ trợ cơ bản cho mọi con người trên Trái đất, ở Dhaka cũng như ở Detroit, người ta sẽ định nghĩa “cơ bản” như thế nào?
Chẳng hạn, giáo dục cơ bản bao gồm những gì: chỉ đọc và viết thôi, hay cả viết code máy tính và chơi đàn violin? Chỉ sáu năm tiểu học thôi hay đến tận tiến sĩ? Và y tế thì sao? Nếu đến năm 2050, các
tiến bộ y tế có thể làm chậm quá trình lão hóa và tăng tuổi thọ con người lên đáng kể thì các liệu trình mới có phổ cập đến tất cả mười tỷ con người trên khắp hành tinh hay chỉ cho vài tỷ phú? Nếu công nghệ sinh học cho phép bố mẹ “nâng cấp” con cái mình, liệu điều này được xem là một nhu cầu cơ bản của con người hay ta sẽ thấy loài người chia làm các giai cấp sinh học khác nhau, với những siêu nhân giàu có tận hưởng các khả năng vượt xa các Homo sapiens nghèo khó?
Dù bạn chọn định nghĩa “các nhu cầu cơ bản của con người” như thế nào, một khi bạn cung cấp chúng cho tất cả mọi người hoàn toàn miễn phí, chúng sẽ ngay lập tức bị coi là đương nhiên, và rồi các cuộc cạnh tranh xã hội và đấu tranh chính trị khốc liệt sẽ tập trung vào những thứ “xa xỉ”, dù đó là xe tự hành, khả năng tiếp cận các công viên thực tế-ảo hay cơ thể được điều chỉnh, tăng cường về mặt sinh học. Nhưng nếu quần chúng thất nghiệp không nắm của cải kinh tế, thật khó hình dung làm sao họ có được những điều xa xỉ nói trên. Do đó, khoảng cách giữa giàu (các nhà quản lý của Tencent và các cổ đông của Google) và nghèo (những người sống phụ thuộc vào thu nhập cơ bản phổ quát) sẽ trở nên không chỉ quá lớn mà còn thật sự không thể vượt qua được.
Vì lý do này, ngay cả nếu chương trình hỗ trợ phổ quát toàn cầu nào đó cung cấp cho người nghèo năm 2050 dịch vụ y tế và giáo dục tốt hơn nhiều so với những gì họ đang nhận được ngày nay, họ rất có thể vẫn cực kỳ tức giận về bất bình đẳng toàn cầu và sự thiếu tính dịch chuyển xã hội. Người ta sẽ cảm thấy hệ thống đã bị thao túng để chống lại họ, chính phủ chỉ phục vụ giới siêu giàu và tương lai sẽ còn tối tăm hơn với họ và con cháu họ.
Homo sapiens đơn giản là không được “tạo ra” để thỏa mãn. Hạnh phúc của con người phụ thuộc vào các điều kiện khách quan ít hơn và vào kỳ vọng của chính chúng ta nhiều hơn. Tuy nhiên, kỳ vọng thì lại có xu hướng thích ứng với các điều kiện, bao gồm những điều kiện của những người khác. Khi mọi thứ tốt lên, kỳ vọng lại phình thêm và thế là ngay cả những tiến bộ vượt bậc của các điều kiện cũng có thể khiến chúng ta bất mãn y như trước. Nếu hỗ trợ cơ bản phổ quát nhắm đến cải thiện các điều kiện khách quan của một người-trung bình vào năm 2050, nó có cơ hội thành công. Nhưng nếu nó nhắm đến làm con người ta thỏa mãn hơn với số phận của mình một cách chủ quan và ngăn bất bình đẳng xã hội, có khả năng là nó sẽ thất bại.
Để thực sự đạt được những mục đích của mình, hỗ trợ cơ bản phổ quát cần được bổ sung thêm một số nhu cầu có ý nghĩa, từ thể thao cho đến tôn giáo. Có lẽ cho đến nay, thử nghiệm thành công nhất về cách sống một cuộc sống mãn nguyện trong thế giới hậu
việc làm đã diễn ra ở Israel. Ở đó, khoảng 50% đàn ông Do Thái siêu-Chính thống không bao giờ làm việc. Họ dành trọn cuộc đời nghiên cứu các thánh kinh thiêng liêng và thực hành các nghi thức tôn giáo. Họ và gia đình họ không bị đói một phần vì những bà vợ thường làm việc và một phần vì chính phủ dành cho họ những khoản trợ cấp hào phóng và các dịch vụ miễn phí, đảm bảo họ không thiếu các nhu yếu phẩm. Đấy là hỗ trợ cơ bản phổ quát avant la lettre, tức đi trước thời đại.
Dù nghèo và thất nghiệp, trong hết cuộc khảo sát này đến cuộc khảo sát khác, những người đàn ông Do Thái siêu-Chính thống này cho thấy mức độ hài lòng với cuộc sống cao hơn bất cứ nhóm dân cư
nào khác của xã hội Israel. Điều này là do sức mạnh của sự gắn kết cộng đồng cũng như ý nghĩa sâu sắc mà họ tìm thấy khi nghiên cứu thánh kinh và thực hiện các nghi thức. Một căn phòng nhỏ chật ních những người đàn ông Do Thái ngồi bàn luận kinh Talmud có thể tạo ra nhiều niềm vui, sự gắn kết và thấu suốt hơn cả một nhà máy dệt khổng lồ toàn những công nhân lao động cật lực. Trong các cuộc khảo sát toàn cầu về mức độ hài lòng với cuộc sống, Israel thường đứng đâu đó gần đầu bảng, một phần nhờ những người nghèo thất nghiệp này.
Người Israel thế tục thường phàn nàn một cách cay đắng rằng những người siêu-Chính thống không đóng góp đủ cho xã hội và sống nhờ vào lao động vất vả của người khác. Người Israel thế tục cũng thường cho rằng lối sống của người siêu-Chính thống là không bền vững, đặc biệt khi gia đình của họ có trung bình bảy người con. Sớm muộn gì chính phủ cũng sẽ không thể hỗ trợ nhiều người thất nghiệp đến vậy và những người siêu-Chính thống sẽ phải đi làm. Thế nhưng, có khi điều ngược lại mới xảy ra. Khi robot và AI đẩy con người ra khỏi thị trường lao động, những người Do Thái siêu-Chính thống có thể sẽ được xem là hình mẫu của tương lai hơn là người cổ lỗ sĩ. Không phải tất cả mọi người đều sẽ trở thành người Do Thái siêu-Chính thống và đến các chủng viện (Yeshiva) để học kinh Talmud. Nhưng trong cuộc đời của mọi người, cuộc tìm kiếm ý nghĩa và cộng đồng có thể sẽ làm lu mờ cuộc kiếm tìm công ăn việc làm.
Nếu chúng ta tìm được cách kết hợp một tấm lưới an toàn kinh tế phổ quát với các cộng đồng mạnh và các nhu cầu ý nghĩa, chuyện mất việc vì các thuật toán có thể sẽ biến thành một diễm phúc. Tuy nhiên, chuyện mất kiểm soát cuộc đời của chính mình, là một viễn
cảnh đáng sợ hơn rất nhiều. Mặc cho mối hiểm họa của thất nghiệp hàng loạt, cái chúng ta nên lo lắng nhiều hơn nữa là sự dịch chuyển quyền lực từ con người sang thuật toán, điều có thể phá hủy những niềm tin còn sót lại trong câu chuyện tự do và mở đường cho sự trỗi dậy của các nền độc tài số.
3
Tự do
Big Data đang theo dõi ngươi đấy
C
âu chuyện tự do tôn vinh quyền tự do của con người là giá trị số một của nó. Nó lý luận rằng xét cho cùng, mọi quyền lực đều bắt nguồn từ ý chí tự do của các cá nhân, được thể hiện bằng cảm xúc, ham muốn và lựa chọn của họ. Trong chính trị, chủ nghĩa tự do tin rằng cử tri biết rõ nhất. Do đó, nó đề cao các cuộc bầu cử dân chủ. Trong kinh tế, chủ nghĩa tự do cho rằng khách hàng luôn đúng. Do đó, nó tung hô các nguyên tắc thị trường tự do. Trong các vấn đề cá nhân, chủ nghĩa tự do khuyến khích con người lắng nghe chính mình, chân thực với bản thân và đi theo trái tim, miễn là đừng làm ảnh hưởng đến quyền tự do của người khác. Tự do cá nhân được tôn thờ trong quyền con người.
Trong các diễn ngôn chính trị phương Tây, thuật ngữ “tự do” ngày nay đôi khi được dùng trong một nghĩa đảng phái hẹp hơn rất nhiều, để chỉ những người ủng hộ các vấn đề nhất định như hôn nhân đồng giới, kiểm soát súng đạn và quyền phá thai. Thế nhưng hầu hết những người được gọi là bảo thủ cũng ủng hộ thế giới quan tự do theo nghĩa rộng. Ở Mỹ chẳng hạn, cả đảng viên Cộng hòa lẫn Dân chủ thỉnh thoảng cũng nên tạm hoãn những cuộc tranh luận nảy lửa để tự nhắc rằng cả hai bên đều đồng thuận về các vấn đề cơ bản, như bầu cử tự do, tư pháp độc lập và nhân quyền.
Đặc biệt, nhất thiết phải nhớ rằng những người hùng cánh hữu như Ronald Reagan và Margaret Thatcher là những người bảo vệ vĩ đại không chỉ cho tự do kinh tế mà còn cho tự do cá nhân nữa. Trong một cuộc phỏng vấn nổi tiếng năm 1987, Thatcher nói: “Chẳng có cái gì gọi là xã hội cả. Chỉ có một thảm sống gồm đàn ông và đàn bà… và chất lượng cuộc sống của chúng ta phụ thuộc vào việc mỗi người trong chúng ta sẵn sàng chịu trách nhiệm cho bản thân đến mức độ nào.”
Những người kế thừa Thatcher trong Đảng Bảo thủ hoàn toàn đồng ý với Công Đảng về việc quyền hành chính trị đến từ cảm xúc, lựa chọn và ý chí tự do của các cử tri đơn lẻ. Khi nước Anh cần quyết định xem có nên rời Liên minh châu Âu không, Thủ tướng David Cameron đã không đề nghị Nữ hoàng Elizabeth II, Tổng giám mục Canterbury hay các nhà quý tộc Oxford và Cambridge giải quyết vấn đề. Ông ta thậm chí không yêu cầu các thành viên Nghị viện. Thay vào đó, ông ta tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý, trong đó từng người dân Anh được hỏi: “Bạn cảm thấy thế nào về việc đó?”
Bạn có thể phản biện rằng người ta được hỏi “Bạn nghĩ gì?” chứ không phải “Bạn cảm thấy gì?”, nhưng đây là một hiểu lầm phổ biến. Các cuộc trưng cầu và bầu cử luôn luôn nhắm đến cảm giác của con người, không phải lý trí của họ. Nếu dân chủ là vấn đề ra quyết định theo lý trí thì chẳng có lý do gì phải cho mọi người quyền bầu cử như nhau, thậm chí là bất cứ quyền bỏ phiếu nào. Nhiều bằng chứng cho thấy một số người hiểu biết và lý trí hơn rất nhiều so với những người khác, nhất là khi đụng đến các câu hỏi về kinh tế và chính trị nhất định. Sau cuộc trưng cầu dân ý Brexit, nhà sinh vật học nổi tiếng Richard Dawkins bày tỏ quan điểm cho rằng đáng lẽ
người ta không nên yêu cầu đại đa số công chúng Anh, bao gồm chính ông, bỏ phiếu vì họ thiếu nền tảng cần thiết về kinh tế học và khoa học chính trị. “Anh cũng có thể kêu gọi một cuộc trưng cầu toàn quốc để quyết định xem liệu Einstein tính đại số có đúng không, hay để hành khách bỏ phiếu cho đường băng mà phi công nên hạ cánh.”
Tuy nhiên, dù hay hay dở, các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý không nhắm đến điều chúng ta nghĩ. Chúng nhắm đến chuyện chúng ta cảm thấy gì. Và khi nói đến cảm giác, cả Einstein và Dawkins cũng chẳng khá hơn bất cứ ai. Dân chủ mặc định là cảm giác của con người phản ánh một “ý chí tự do” kỳ bí và sâu xa, cái “ý chí tự do” này là nguồn cơn tối thượng của mọi quyền lực, và mặc dù một số người thông minh hơn người khác, mọi người đều tự do như nhau. Cũng như Einstein và Dawkins, một cô hầu gái mù chữ cũng có ý chí tự do, do đó đến ngày bầu cử thì cảm giác của cô ta, đại diện bằng lá phiếu của cô, cũng có giá trị như của mọi người khác.
Cảm giác không chỉ dẫn lối các cử tri mà cả các nhà lãnh đạo. Trong cuộc trưng cầu dân ý Brexit năm 2016, chiến dịch Rời Bỏ được Boris Johnson và Michael Gove dẫn đầu. Sau khi David Cameron từ chức, ban đầu Gove ủng hộ Johnson lên làm thủ tướng; nhưng đúng phút cuối, Gove tuyên bố Johnson không phù hợp với vị trí đó và công khai ý định chạy đua giành ghế của mình. Hành động của Gove, xem như hủy hoại cơ hội của Johnson, được mô tả như một vụ ám sát chính trị kiểu Machiavellia. Nhưng Gove biện hộ cho hành vi của mình bằng cách viện dẫn cảm giác của bản thân, giải thích rằng: “Trong mọi bước đi của cuộc đời chính trị của mình, tôi luôn
đặt cho mình một câu hỏi: ‘Việc đúng đắn cần phải làm là gì? Trái tim này nói với mình điều gì?’” Theo Gove, đấy là lý do ông ta chiến đấu hết mình cho Brexit, cũng là lý do ông cảm thấy mình phải đâm sau lưng “đồng chí” cũ Boris Johnson của mình và đích thân chạy đua giành vị trí dẫn đầu, bởi trái tim mách bảo ông ta làm như vậy.
Sự lệ thuộc vào trái tim này có thể trở thành gót chân Achilles của nền dân chủ tự do. Vì một khi ai đó (dù là ở Bắc Kinh hay San Francisco) đạt được tầm công nghệ để bẻ khóa và điều khiển trái tim con người thì nền chính trị dân chủ sẽ biến dạng.
LẮNG NGHE THUẬT TOÁN
Niềm tin của chủ nghĩa tự do vào cảm giác và lựa chọn tự do của cá nhân là không tự nhiên cũng như không cổ xưa cho lắm. Trong suốt nhiều ngàn năm, con người tin rằng quyền hành đến từ các luật lệ thiêng hơn là từ trái tim con người, rằng chúng ta nên làm sáng lời Chúa hơn là vinh danh tự do của con người. Chỉ trong vài thế kỷ trở lại đây, nguồn gốc của quyền hành mới chuyển từ thần thánh ở trên trời xuống với con người bằng xương bằng thịt.
Chẳng bao lâu nữa, quyền lực có thể sẽ chuyển một lần nữa, từ con người sang các thuật toán. Cũng như quyền lực thiêng được các thần thoại tôn giáo hợp thức hóa và quyền lực con người được biện minh bằng câu chuyện tự do, cuộc cách mạng công nghệ sắp tới cũng có thể thiết lập quyền lực của các thuật toán Big Data trong khi làm suy yếu chính ý tưởng về tự do cá nhân.
Như đã nói ở chương trước, những tìm tòi khoa học chuyên sâu về cách bộ não và cơ thể chúng ta hoạt động cho thấy cảm giác của chúng ta không phải là một đặc tính tính thần độc nhất ở con người, chúng cũng không phản ánh bất cứ dạng “ý chí tự do” nào. Thay vào đó, cảm giác là các cơ chế sinh hóa mà mọi loài thú và chim sử dụng để nhanh chóng tính toán các khả năng sinh tồn và sinh sản. Cảm giác không dựa trên bản năng, cảm hứng hay tự do; chúng dựa vào tính toán.
Khi một con khỉ, chuột hay người nhìn thấy một con rắn, nỗi sợ trỗi dậy bởi hàng triệu nơron trong não chớp nhoáng tính toán các dữ liệu có liên quan và kết luận rằng xác suất tử vong là cao. Cảm giác hấp dẫn tình dục nổi lên khi các thuật toán sinh hóa khác tính ra rằng một cá thể ở gần đó cho thấy khả năng thành công cao trong việc kết đôi, gắn kết xã hội hay đạt các mục tiêu được trông đợi khác. Các cảm giác mang tính đạo đức như bức xúc, tội lỗi và tha thứ xuất phát từ các cơ thế thần kinh đã được tiến hóa để mở ra triển vọng hợp tác nhóm. Tất cả các thuật toán sinh hóa này được mài giũa qua hàng triệu năm tiến hóa. Nếu cảm giác của một tổ tiên xa xưa nào đó là sai và kết quả là người đó mắc phải một sai lầm chết người, những gien định hình các cảm giác đó đã không truyền sang thế hệ tiếp theo. Các cảm giác do đó không phải là trái ngược với lý trí; chúng chính là hiện thân của lý trí tiến hóa.
Chúng ta thường không nhận ra cảm giác thực ra là các tính toán vì quá trình tính toán cực nhanh xuất hiện ở tầng sâu dưới ngưỡng ý thức của chúng ta. Chúng ta không cảm thấy hàng triệu nơron trong não tính toán các khả năng sinh tồn và sinh sản, thế nên ta lầm tin rằng nỗi sợ rắn, lựa chọn bạn tình hay ý kiến của
chúng ta về Liên minh châu Âu là kết quả của một “ý chí tự do” bí hiểm nào đó.
Chủ nghĩa tự do đã sai khi nghĩ rằng cảm giác của chúng ta phản ánh ý chí tự do; nhưng cho đến ngày nay, việc dựa vào cảm giác vẫn hợp lý trong thực tế. Bởi mặc dù cảm giác chẳng có gì thần thông hay tự do cả thì nó vẫn là phương pháp tốt nhất trong vũ trụ để quyết định phải học cái gì, cưới ai và bầu cho đảng nào. Và không một hệ thống bên ngoài nào có thể hy vọng hiểu được cảm giác của tôi rõ hơn tôi cả. Ngay cả nếu Tòa Hình án Tây Ban Nha có rình mò tôi từng phút từng ngày, họ vẫn thiếu kiến thức sinh học và khả năng tính toán cần thiết để “bẻ khóa” những quá trình sinh hóa định hình những nguyện vọng và lựa chọn của tôi. Về cơ bản, vẫn hợp lý khi biện luận rằng tôi có ý chí tự do vì ý chí của tôi được định hình chủ yếu bởi sự tương tác của các lực bên trong, không ai bên ngoài tôi có thể thấy được. Tôi có thể tận hưởng ảo tưởng rằng mình kiểm soát đấu trường bí mật nội tại, trong khi người ngoài không bao giờ có thể thực sự hiểu điều gì đang xảy ra trong tôi và cách tôi ra quyết định.
Do đó, chủ nghĩa tự do đã đúng khi khuyên con người là hãy đi theo trái tim của mình hơn là mệnh lệnh của một thầy tu hay một thành viên của đảng phái nào đó. Tuy nhiên, sớm muộn gì các thuật toán máy tính cũng có thể đưa ra những lời khuyên tốt hơn cảm giác con người. Khi Tòa Hình án Tây Ban Nha và KGB nhường chỗ cho Google và Baidu, “ý chí tự do” rất dễ bị lật tẩy là một thứ hoang đường và chủ nghĩa tự do sẽ mất đi các lợi thế thực tế của mình.
Bởi chúng ta đang ở điểm “hợp lưu” của hai cuộc cách mạng lớn. Các nhà sinh học đang giải mã những bí mật của cơ thể người và cụ
thể là não bộ và cảm giác của con người. Cùng lúc đó, các nhà khoa học máy tính đang mang lại cho chúng ta khả năng xử lý dữ liệu chưa từng có. Khi cuộc cách mạng công nghệ sinh học kết hợp với cuộc cách mạng công nghệ thông tin, chúng sẽ sinh ra các thuật toán Big Data có thể theo dõi và hiểu được cảm giác của tôi rõ hơn bản thân tôi rất nhiều, rồi quyền lực có lẽ sẽ dịch chuyển từ con người sang máy tính. Ảo tưởng về ý chí tự do của tôi rất có thể sẽ tan vỡ khi tôi ngày ngày tiếp xúc với các tổ chức, tập đoàn và cơ quan chính phủ hiểu và điều khiển được những gì mà cho tới nay vẫn là thế giới bên trong bất khả xâm phạm của tôi.
Điều này đã xảy ra trong lĩnh vực y học. Những quyết định y tế quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta không phụ thuộc vào cảm giác khỏe hay yếu, hay thậm chí vào những chẩn đoán của bác sĩ, mà dựa trên các tính toán của những máy tính hiểu cơ thể ta hơn bản thân ta rất nhiều. Chỉ trong vài thập kỷ, các thuật toán Big Data được cung cấp một nguồn dữ liệu sinh hóa liên tục có thể giám sát sức khỏe của chúng ta 24/7. Chúng có thể phát hiện sự khởi phát của cúm, ung thư hay bệnh Alzheimer từ rất lâu trước khi chúng ta cảm thấy có gì không ổn trong người. Sau đó, chúng có thể gợi ý các phương pháp điều trị, các chế độ ăn uống và luyện tập hằng ngày hợp lý, được xây dựng riêng dựa trên thể trạng, ADN và tính cách độc đáo của mỗi chúng ta.
Con người sẽ tận hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất trong lịch sử, nhưng chính vì lý do này mà có lẽ chúng ta sẽ luôn bị bệnh. Ở đâu đó trong người chúng ta, lúc nào cũng sẽ có cái gì đó không ổn. Lúc nào cũng có cái gì đó để cải thiện. Trong quá khứ, bạn thấy hoàn toàn khỏe mạnh miễn là không cảm thấy đau đớn và
không xuất hiện một thương tật gì đó, ví dụ như đi khập khiễng. Nhưng đến năm 2050, nhờ các cảm biến sinh trắc và các thuật toán Big Data mà các chứng bệnh có thể được chẩn đoán và điều trị từ rất lâu trước khi chúng dẫn đến đau đớn hay thương tật. Kết quả là bạn sẽ luôn thấy mình đang gánh chịu một “tình trạng y khoa” nào đó và phải nghe theo gợi ý này, gợi ý kia của thuật toán. Nếu bạn từ chối, có thể bảo hiểm y tế của bạn sẽ mất hiệu lực hay sếp sẽ sa thải bạn; tại sao họ phải trả giá cho sự cứng đầu của bạn cơ chứ?
Tiếp tục hút thuốc mặc dù các thống kê nói chung cho thấy mối liên hệ thuốc lá với ung thư phổi là một chuyện. Tiếp tục hút thuốc dù đã có cảnh báo rõ ràng từ một cảm biến sinh trắc vừa phát hiện ra mười bảy tế bào ung thư ở vùng trên của phổi trái là một chuyện hoàn toàn khác. Và nếu bạn sẵn sàng mặc kệ cảm biến, bạn sẽ làm gì khi nó gửi cảnh báo đến công ty bảo hiểm, quản lý và mẹ bạn?
Ai sẽ có thời gian và sức lực để xử lý tất cả những bệnh tật này? Rất có khả năng chúng ta sẽ chỉ hướng dẫn để thuật toán sức khỏe của mình tự xử lý hầu hết những vấn đề trên theo cách nó thấy phù hợp. Cùng lắm, nó sẽ gửi cập nhật định kỳ đến điện thoại thông minh của chúng ta, nói với ta rằng “mười bảy tế bào ung thư đã được phát hiện và tiêu diệt”. Những người mắc chứng bệnh tưởng có thể sẽ nghiêm túc đọc những cập nhật này, nhưng phần lớn chúng ta sẽ mặc kệ như cách chúng ta vẫn làm với những thông báo chống vi-rút khó chịu trên máy tính của mình vậy.
KỊCH TÍNH CỦA VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH
Chuyện vốn đang xảy ra trong y tế chắc chắn có khả năng sẽ xuất hiện trong ngày càng nhiều lĩnh vực. Phát minh chủ chốt là cảm biến sinh trắc mà người ta có thể đeo trên hoặc trong người và chuyển các quá trình sinh học thành các thông tin điện tử mà máy tính có thể lưu trữ và phân tích. Khi có đủ dữ liệu sinh trắc và khả năng tính toán, các hệ thống xử lý dữ liệu bên ngoài có thể giải mã mọi ham muốn, quyết định và ý kiến của bạn. Chúng có thể biết chính xác bạn là ai.
Hầu hết mọi người không biết rõ về bản thân cho lắm. Tới năm 21 tuổi, cuối cùng tôi đã nhận thức rõ mình là người đồng tính, sau nhiều năm sống phủ nhận hiện thực ấy. Điều này không lấy gì là khác thường. Nhiều đàn ông đồng tính mất trọn những năm thiếu niên phân vân về xu hướng tình dục của mình. Giờ thử hình dung tình huống năm 2050, khi một thuật toán có thể nói cho bất cứ thiếu niên nào vị trí chính xác của mình trên phổ cong/thẳng (và thậm chí là mức độ “linh động” của vị trí đó nữa). Có lẽ thuật toán sẽ cho bạn xem ảnh hay video của những nam giới và nữ giới hấp dẫn, theo dõi chuyển động của mắt, huyết áp và hoạt động não bộ của bạn; trong vòng năm phút, nó sẽ hiện một con số trên thang Kinsey. Một phát minh như vậy hẳn đã cứu tôi khỏi nhiều năm vật vã. Có lẽ cá nhân bạn sẽ không muốn thực hiện một bài kiểm tra kiểu đó; nhưng rồi có thể lúc nào đó bạn sẽ thấy mình đang ở cùng một nhóm bạn trong buổi tiệc sinh nhật chán ngắt của Michelle và ai đó gợi ý là cả nhóm lần lượt tự kiểm tra trên thuật toán mới rất ngầu này (mọi người thì đứng quanh xem kết quả và bình luận). Bạn cứ thế bỏ đi mà được ư?
"""