" 1984 Một Chín Tám Tư - George Orwell PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 1984 Một Chín Tám Tư - George Orwell PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Phần I I. Đấy là một ngày tháng tư, trời quang mây tạnh, khá lạnh, đồng hồ điểm mười ba tiếng. Cằm thu vào tận ngực để tránh cơn gió rét cắt da, Winston Smith vội vã chui tọt qua cánh cửa kính khu chung cư Chiến Thắng, thế mà vẫn không ngăn được đám bụi cát cuộn vào theo. Tiền sảnh sặc mùi bắp cải luộc và mùi thảm cũ, mốc meo. Trên tường, đối diện ngay lối vào là một bức tranh to, nhiều màu; phải nói là quá to so với căn phòng. Đấy là bức vẽ một khuôn mặt rộng hơn một mét, khuôn mặt một người đàn ông tuổi chừng bốn lăm, râu rậm, thô, có sức lôi cuốn. Winston bước về phía cầu thang. Thử thang máy làm gì cho phí công. Ngay cả những lúc thuận lợi nhất nó cũng ít khi làm việc, còn lúc này lại giữa ban ngày, tất nhiên điện đã bị cúp rồi. Đây là một phần của phong trào tiết kiệm vì người ta đang chuẩn bị cho tuần lễ Hận Thù. Winston phải leo lên bảy tầng lầu, anh ta đã sang tuổi bốn mươi lại bị loét do giãn tĩnh mạch bên trên mắt cá chân nên đi rất chậm, phải dừng lại nghỉ mấy lần. Trên tường đối diện với mỗi chiếu nghỉ lại có một bức vẽ khuôn mặt người đàn ông nọ. Các bức tranh đều được vẽ rất khéo, đứng ở đâu ta cũng thấy đôi mắt người trong tranh đang nhìn chằm chằm vào mình. ANH CẢ ĐANG QUAN SÁT BẠN - dưới mỗi bức tranh đều có hàng chữ như thế. Trong phòng một giọng du dương đang nói về việc sản xuất gang, có dẫn cả các số liệu. Tiếng nói phát ra từ một tấm kim loại gắn chặt vào bức tường bên phải, trông như một chiếc gương mờ. Winston vặn núm loa, tiếng nói có nhỏ đi, nhưng vẫn rõ. Cái máy này (gọi là màn vô tuyến) có ẳ thể điều chỉnh cho nhỏ đi nhưng không thể nào tắt hẳn được. Winston đi về phía cửa sổ; vốn đã gầy lại mặc đảng phục nên trông anh càng có vẻ ốm o hơn. Tóc anh màu sáng, khuôn mặt ửng đỏ đẩy vảy tróc do xà phòng kém chất lượng, do dao cạo cùn và vì mùa đông hanh khô vừa kết thúc. Bên ngoài trời còn lạnh lắm. Khắp nơi, bụi và giấy vụn bị gió cuốn thành những vòng xoáy bay tứ tung trên mặt đất và mặc dù có nắng, bầu trời rất xanh nhưng bao trùm lên tất cả, nếu không kể những tấm biểu ngữ, vẫn là một màu xám chán ngắt. Góc phố nào cũng có tranh vẽ khuôn mặt người đàn ông rậm râu nọ. Bức tường căn nhà đối diện cũng có. ANH CẢ ĐANG QUAN SÁT BẠN - hàng chữ bên dưới ghi như thế và đôi mắt đen của ông ta đang nhìm chằm chằm vào Winston. Phía dưới bức tranh, vắt ngang qua phố là một biểu ngữ đã bị đứt một góc, bay phất phơ trước gió, chữ CHUANH ghi trên đó đôi lúc bị cái góc rách che không thể nhìn rõ được. Phía xa, một chiếc trực thăng đang luồn lách giữa các mái nhà, có lúc trông nó như treo nguyên một chỗ hệt như một con nhặng xanh, sau đó nó bỗng bay vút theo một đường cong và biến mất. Đấy là máy bay cảnh sát, họ tuần tra bằng cách nhìn qua cửa sổ nhà dân. Nhưng tuần tra thì không đáng ngại. Đáng ngại là Cảnh Sát Tư Tưởng cơ. Sau lưng Winston màn vô tuyến vẫn tiếp tục câu chuyện về luyện gang và việc hoàn thành kế hoạch ba năm lần thứ chín. Màn vô tuyến còn làm việc thu và phát nữa. Chỉ cần Winston nói, nếu không quá nhỏ như kiểu thì thầm, thì màn vô tuyến sẽ thu và truyền đi ngay lập tức, hơn nữa nếu đứng trong vùng quan sát của màn vô tuyến thì anh không chỉ bị nghe lén mà còn bị nhìn trộm nữa. Tất nhiên không ai biết là có thật sự bị theo dõi hay không. Cảnh Sát Tư Tưởng theo dõi thường xuyên hay theo thời gian biểu nào thì không ai rõ, chỉ có thể đoán mò mà thôi. Không loại trừ khả năng là họ theo dõi tất cả mọi người suốt ngày đêm. Không ai dám chắc, nhưng chắc chắn là họ có thể theo dõi bất kì ai vào bất kì lúc nào họ muốn. Người ta buộc phải sống, mà quả thật họ đã sống, theo thói quen đã trở thành bản năng rằng lời nói nào cũng có thể bị nghe lén và khi còn ánh sáng thì hành động nào cũng có thể bị theo dõi. Winston quay lưng lại phía màn vô tuyến. Thế an toàn hơn, dù anh biết rằng chỉ cần nhìn lưng người ta cũng có thể phát hiện được khối thứ. Bên ngoài cửa sổ, cách đây khoảng một cây số lừng lững một toà nhà màu trắng nổi lên giữa khung cảnh xám ngoét của thành phố, đấy là toà nhà Bộ Sự Thật, nơi anh làm việc. London, thành phố quan trọng nhất của Đường Bay I, thành phố đông dân thứ ba của Oceania trông như thế đấy, ý nghĩ pha chút khinh bỉ mơ hồ vụt lướt qua đầu Winston. Anh cố nhớ lại thời niên thiếu, lúc đó London cũng như thế này ư? Lúc nào cũng là những ngôi nhà có từ thế kỉ XIX cũ nát, phải chống bằng cột gỗ, cửa sổ táp giấy các tông, mái lợp tôn sóng và tường những khu vườn thì nghiêng ngả như say rượu như thế này ư? Lúc nào cũng có những hố bom đầy bụi vữa với những cây liễu đang cố vươn mình lên khỏi đám xà bần và những khoảng trống do bom phát quang, trên đó là những dãy nhà gỗ trông như chuồng gà thế kia ư? Nhưng hoá ra vô ích, anh chẳng thể nhớ được gì, ngoài những tấm áp phích sáng nhấp nháy trên nền không màu và thường là rất khó hiểu. Bộ Sự Thật, nói theo Ngômo [1] là Bôta trông khác hẳn những ngôi nhà xung quanh. Đấy là một cấu trúc hình kim tự tháp bằng bê tông trắng toát, tầng tầng lớp lớp, cao đến trên ba trăm mét. Từ đây có thể trông thấy ba khẩu hiệu của Đảng được kẻ rất rõ và đẹp ngay trên mặt tiền tòa nhà: CHIẾN TRANH LÀ HÒA BÌNH TỰ DO LÀ NÔ LỆ NGU DỐT LÀ SỨC MẠNH Người ta đồn rằng Bộ Sự Thật có ba ngàn phòng ở bên trên và những chi nhánh tương ứng ở dưới mặt đất nữa. Ở London còn có ba toà nhà tương tự về hình dáng và kích thước như thế. Chúng cao hơn hẳn các toà nhà xung quanh nên từ nóc chung cư Chiến Thắng có thể trông thấy cả bốn cái. Đấy là tổng hành dinh của bốn Bộ, bộ máy của chính phủ nằm trong bốn toà nhà này. Bộ Sự Thật theo dõi lĩnh vực tin tức, giải trí, giáo dục và nghệ thuật. Bộ Hòa Bình theo dõi lĩnh vực chiến tranh. Bộ Tình Yêu theo dõi lĩnh vực trật tự và luật pháp. Bộ Ấm No theo dõi lĩnh vực kinh tế. Theo Ngômo thì đấy là các Bộ: Bôta, Bôbi, Bôti và Bôno. Ngôi nhà Bộ Tình Yêu trông rất khiếp, không hề có một cửa sổ nào. Nói cho ngay thì Winston chưa vào bên trong bao giờ, thậm chí anh chưa từng đến gần quá nửa cây số. Chỉ được vào đấy khi có việc, mà phải đi theo những lối ngoằn ngoèo, xung quanh rào kẽm gai, phải vượt qua nhiều cánh cửa thép và những ụ súng máy bí mật nữa. Ngay trên những con phố dẫn đến hàng rào bên ngoài đã có những người bảo vệ đồng phục đen, mặt đằng đằng sát khí tay lăm lăm dùi cui đứng gác rồi. Winston quay người lại. Nét mặt anh vụt trở nên tươi tỉnh, ai cũng phải giả vờ thế khi đứng trước màn vô tuyến, anh đi về phía gian bếp nhỏ ở đầu kia của căn hộ. Ra khỏi Bộ vào giờ này là mất bữa ăn trưa, ở nhà chỉ còn một lát bánh mì đen khô, nhưng phải để dành đến sáng mai. Anh lấy từ trên chạn bát xuống một chai nước không màu có dán nhãn trắng: RƯỢU GIN CHIẾN THẮNG. Lọai rượu này có mùi hôi hôi khó chịu y như mùi rượu gạo của Tàu. Winston rót đầy một li và lấy hết can đảm dốc vào miệng như uống thuốc. Mặt anh lập tức ửng đỏ, mấy giọt nước mắt trào ra. Chua không khác gì axit nitric, hơn nữa khi nuốt còn có cảm giác như bị nện dùi cui vào lưng. Nhưng cơn xót trong dạ dày cũng mau qua và mọi vật bỗng như sống động hơn, vui hơn. Anh cầm bao thuốc lá Chiến Thắng nhàu nát để rút lấy một điếu, nhưng do không chú ý nên đã dốc điếu thuốc xuống và thế là tất cả thuốc đều rơi ra ngoài. Điếu thứ hai anh giữ cẩn thận hơn. Anh quay lại phòng khách và ngồi xuống bên cạnh cái bàn phía trái màn vô tuyến. Anh lấy từ ngăn kéo ra cái quản bút, lọ mực, cuốn sổ dày gáy đỏ, bìa màu cẩm thạch. Không hiểu vì sao cái màn vô tuyến lại được lắp ở một chỗ ấy. Thường thì nó được lắp ở phía cuối để có thể quan sát khắp phòng, nhưng cái này lại lắp trên bức tường dài, đối diện với cửa sổ. Winston ngồi vào cái chỗ xây thụt ở gần góc phòng, chắc người ta định đặt kệ sách ở đó, chỗ này nằm phía bên màn vô tuyến. Ngồi ở đó, lại ngả hẳn về phía sau thì màn vô tuyến chịu. Nghe trộm thì có thể, nhưng nếu anh cứ ngồi ở đó thì họ không thể nào trông thấy được. Có lẽ một phần do cách bố trí căn phòng hơi bất bình thường như thế mà anh nảy ra ý định làm cái công việc anh sắp làm đây. Nhưng còn do cuốn sổ nữa. Cuốn sổ đẹp quá. Giấy mịn, đã ngả vàng vì năm tháng, loại giấy này phải được sản xuất ít nhất là bốn chục năm về trước. Nhưng anh cho rằng có thể trước nữa. Anh nhìn thấy nó trên quầy một cửa hàng đồng nát trong một khu ổ chuột (cụ thể khu nào thì anh không nhớ) và lập tức nảy ra ý định phải mua bằng được. Đảng viên không được vào các cửa hàng bình thường (buôn bán trên thị trường tự do, người ta vẫn gọi thế), nhưng nguyên tắc này không được tuân thủ tuyệt đối vì nhiều thứ như dây giày hay dao cạo râu chỉ có thể mua bằng cách này mà thôi. Anh vội đảo mắt nhìn quanh rồi chui ngay vào cửa hàng và mua cuốn sổ giá hai đô la rưỡi. Lúc đó anh cũng không biết sẽ dùng cuốn sổ vào việc gì. Anh đút nó vào cặp và vội lủi về nhà. Dù không có chữ nào, cuốn sổ cũng là bằng chứng tố cáo chính chủ nhân của nó. Việc đầu tiên anh sẽ làm là bắt đầu ghi nhật kí. Đấy không phải là một hành động phạm pháp (không có việc gì phạm pháp vì đã không còn luật pháp nữa), nhưng nều bị phát hiện thì có thể bị tử hình hoặc ít nhất cũng hai mươi lăm năm khổ sai. Winston lắp ngòi bút và liếm lớp mỡ chống gỉ đi. Bút là một công cụ cổ xưa, ít được sử dụng ngay cả để kí, mua nó không phải dễ, lại phải lén lút nữa, nhưng anh vẫn cố mua bằng được, đơn giản chỉ vì anh nghĩ rằng đối với những tờ giấy mịn như thế thì phải dùng bút mực chứ không thể là bút chì hoá học được. Nói cho ngay, anh không quen viết bằng tay. Anh chỉ viết những mẩu ghi chú ngắn, ngoài ra anh thường đọc cho máy ghi, nhưng cách đó dĩ nhiên là không thể dùng được cho mục đích này. Anh ấn ngòi bút vào lọ mực nhưng lại lưỡng lự trong giây lát. Một cơn rùng mình nhẹ chạy khắp khoang bụng. Chỉ cần chạm ngòi bút vào giấy là xong, không thể nào quay lại được nữa. Anh bắt đầu viết bằng những chữ nhỏ tí, ngả nghiêng: Ngày 4 tháng tư năm 1984. Anh khẽ ngả người ra sau. Cảm giác bất lực bao trùm khắp cơ thể. Trước hết anh không biết năm nay có đúng là năm 1984 hay không. Không nghi ngờ gì rằng con số gần đúng như thế vì anh biết chắc tuổi của mình là ba chín, mà anh sinh khoảng năm 1944 hay 1945, nhưng bây giờ thì chẳng có cách nào xác định được chính xác, sai số phải khoảng một hai năm. Anh bỗng tự hỏi: ta đang viết nhật kí cho ai đây? Cho tương lai, cho người chưa ra đời. Tâm trí anh treo bên trên cái ngày tháng đáng ngờ được ghi trên tờ giấy và bất ngờ đụng phải từ nướcđôi của Ngômo. Đây cũng là lần đầu tiên anh nhận thức được mức độ nghiêm trọng của công việc mà anh đã khởi sự. Làm sao có thể giao thiệp với tương lai? Thực chất là không thể được. Tương lai hoặc là sẽ giống như hiện tại, sẽ chẳng ai thèm nghe; hoặc là tương lai sẽ khác hiện tại và nếu thế hoàn cảnh của anh sẽ chẳng còn ý nghĩa gì với họ. Anh ngồi yên lặng ngắm tờ giấy một lúc. Vô tuyến chuyển sang phát nhạc hành khúc. Có điều lạ là anh cảm thấy không những không có khả năng viết ra ý nghĩ của mình mà còn quên không biết mình đang định nói gì nữa. Anh đã chuẩn bị cho ngày hôm nay suốt mấy tuần lễ liền và anh không ngờ rằng chỉ lòng dũng cảm không chưa đủ. Viết thì có gì khó. Chỉ cần ghi ra giấy những cuộc độc thoại không ngừng diễn ra trong đầu anh hết năm này qua tháng khác. Nhưng lúc này những cuộc độc thoại bỗng ngừng bặt. Còn chỗ loét do giãn tĩnh mạch thì ngứa không chịu được. Anh không dám gãi vì nếu gãi thì sẽ bị viêm ngay. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ vẫn điểm đều đều. Trong tâm trí anh chỉ còn một tờ giấy trắng nằm trước mặt, cơn ngứa phía bên trên mắt cá chân, tiếng nhạc ồn ào và cảm giác lâng lâng do li rượu vừa mới uống gây ra mà thôi. Rồi bất ngờ anh viết - đơn giản là do sợ, anh cũng không biết mình viết gì nữa. Anh viết những hàng chữ khi lên khi xuống như trẻ con, lúc đầu quên viết hoa rồi sau quên luôn cả đánh dấu chấm câu. Ngày 4 tháng tư năm 1984. Hôm qua đi xem phim. Toàn phim chiến đấu. Một phim hay, một chiếc tàu thuỷ đầy người tị nạn ở Địa Trung Hải bị ném bom. Cả khán phòng thích chí khi xem cảnh một gã đàn ông to lớn đang bơi, trong khi một chiếc trực thăng đuổi theo sau, đầu tiên thấy gã lặn hụp như cá heo, sau đó thấy gã qua ống ngắm từ trên máy bay, sau đó gã bị bắn thủng lỗ chỗ như mặt sàng, mặt biển bỗng biến thành màu hồng, gã chìm nhanh y như nước bị hút qua các lỗ thủng trên người vậy. khi gã chìm đến đáy thì cả khán phòng phá lên cười. Sau đó là một cái xuồng đầy trẻ con, bên trên lại một chiếc trực thăng nữa. trên mũi xuồng là một người phụ nữ trung niên, có lẽ là Do Thái, tay bế một đứa nhỏ chừng ba tuổi. Đứa nhỏ gào lên vì sợ, đầu cứ dúi vào ngực mẹ còn bà ta thì vừa vỗ về vừa lấy tay che cho con mặc dù chính bà ta cũng sợ, mặt xanh như tầu lá. bà ta lấy tay che cho con, làm như có thể ngăn được đạn không bằng. sau đó cái trực thăng ném xuống một quả bom loại hai mươi cân tiếng nổ kinh hoàng và cái thuyền tan ra thành từng mảnh vụn. sau đó là một cảnh tuyệt vời một cánh tay trẻ con bay lên, vọt thẳng lên trời chắc là người ta quay từ mũi chiếc trực thăng và những tiếng vỗ tay ồn ào vang lên từ những hàng ghế dành riêng cho đảng viên nhưng từ chỗ dành cho bọn cu li thì có một phụ bỗng gào lên, bà ta bảo không được chiếu những cảnh đó cho trẻ con xem ẳ và cứ thế cho đến khi cảnh sát phải lôi phải lôi bà ta ra chắc là họ chẳng làm gì đâu bọn cu li thì chấp làm gì phản ứng của chúng vẫn thế ai thèm quan tâm… Winston ngừng viết, môt phần vì tay bị tê. Anh cũng không hiểu vì sao lại viết ra chuyện nhảm nhí này. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là trong khi anh viết thì một chuyện hoàn toàn khác bỗng hiện lên một cách rõ ràng trong trí nhớ đến nỗi có thể viết ngay ra được. Bây giờ thì anh hiểu rằng chính vì sự kiện đó mà anh quyết định đi về nhà để ghi nhật kí trong ngày hôm nay. Chuyện đó xảy ra trong Bộ sáng nay, nếu như có thể dùng chữ "xảy ra" với những chuyện mơ hồ kiểu đó. Lúc ấy gần mười một giờ đúng, trong Ban Tài Liệu, nơi Winston công tác, người ta đã mang ghế từ các ngăn ra, để tập trung vào giữa phòng, đối diện với màn vô tuyến lớn, chuẩn bị cho Hai Phút Hận Thù. Winston vừa chuẩn bị ngồi vào chỗ, đấy là một trong các dãy ghế giữa nhà, thì có hai người mà anh chỉ nhìn thấy chứ chưa nói chuyện bao giờ bất ngờ bước vào phòng. Một người là con gái, anh thường gặp cô ta trong hành lang. Anh không biết tên cô, chỉ biết rằng cô làm ở Ban Sáng Tác. Anh nghĩ thế vì có lần thấy cô cầm cờ lê, tay đầy dầu mỡ, chắc là cô ta đang sửa máy viết văn. Cô ta khoảng hai mươi bảy tuổi, mặt đầy tàn nhang, tóc đen dày, dáng tự tin, nhanh nhẹn, động tác dứt khoát. Một chiếc thắt lưng hẹp màu đỏ tươi, biểu tượng của Hội Thanh Niên Chống Tình Dục, quấn mấy vòng xung quanh eo bộ đồng phục càng làm nổi rõ cái bụng thon nhỏ của cô. Winston thấy khó ưa cô ta ngay từ lần gặp đầu tiên. Anh biết vì sao. Cô ta sặc mùi sân khúc quân cầu và buồng tắm nước lạnh, mùi của những chuyến dã ngoại và thái độ cuồng tín ra mặt. Anh không thích đàn bà, đặc biệt là những cô gái trẻ, xinh đẹp. Đàn bà, nhất là các cô gái trẻ, thường là những kẻ cuồng tín, những người sẵn sàng nuốt sống ngay mọi khẩu hiệu của Đảng, những tên chỉ điểm tự nguyện, những kẻ đánh hơi bất kì biểu hiện phi chính thống nào. Nhưng cô này có vẻ nguy hiểm hơn cả. Một lần hai người gặp nhau ở hành lang, cô ta liếc xéo như xoáy vào người anh, lúc đó một nỗi sợ vô hình như choán hết tâm can anh. Anh ngờ rằng cô ta chính là mật vụ của Cảnh Sát Tư Tưởng. Chắc là không phải. Dù sao anh cũng cảm thấy lúng túng, cảm thấy vừa sợ vừa ghét mỗi lần gặp cô ta. Người thứ hai tên là O’Brien, đảng viên Đảng Nội Bộ, nghe nói làm to và ở xa nên Winston hiểu rất mù mờ. Vừa nhìn thấy người mặc đồng phục áo đen của Đảng Nội Bộ đến gần là những người ngồi trước màn vô tuyến lập tức im bặt. O’Brien là một người cao, to, cổ bự, khuôn mặt thô đầy vẻ hài hước. Hình thức tuy dữ dằn nhưng trông anh ta cũng khá hấp dẫn. Anh ta có thói quen lấy tay sửa lại gọng kính ở trên mũi, thói quen này lạ kì thay lại có vẻ như tố cáo rằng anh ta là một người quân tử. Một nhà quí tộc thế kỉ mười tám đang mời thuốc lá, người nào còn có khả năng so sánh theo cách ấy, sẽ nghĩ như thế khi nhìn thấy thói quen đó của anh ta. Trong mười năm lại đây Winston chỉ gặp anh ta khoảng chục lần. Anh cảm thấy mến O’Brien không chỉ bởi sự tương phản giữa thái độ tao nhã và vẻ bề ngòai lực lưỡng như võ sĩ của anh ta. Trong đáy sâu tâm hồn Winston vẫn ngờ rằng, có thể không phải là ngờ mà chỉ là hi vọng rằng O’Brien không phải là kẻ cuồng tín. Nét mặt anh ta gợi cho người khác nghĩ như vậy. Nhưng cũng có thể đấy không phải là sự nghi ngờ giáo lí, mà đơn giản có thể đấy chỉ là trí thông minh cũng nên. Nhưng dù sao hình thức bên ngoài cho thấy anh ta là một người có thể nói chuyện, nếu có điều kiện gặp riêng và tránh được màn vô tuyến. Winston chưa thử kiểm tra ước đoán này lần nào: thực ra là không thể làm được. O’Brien nhìn đồng hồ đeo tay, thấy là đã gần đúng mười một giờ, anh ta quyết định ở lại Ban Tài Liệu cho đến hết Hai Phút Hận Thù. Anh ngồi cùng hàng với Winston, chỉ cách hai dãy ghế. Một người đàn bà nhỏ nhắn, tóc hung vẫn làm việc trong ngăn bên cạnh Winston ngồi trên cái ghế ngăn giữa hai người. Cô gái tóc đen ngồi ngay phía sau Winston. Một giọng nói nghe rùng rợn, ghớm ghiếc như tiếng ma sát của một cái máy cực to không dầu bôi trơn bỗng bật ra từ màn vô tuyến gắn ở phía cuối căn phòng. Âm thanh đó khiến người ta có cảm giác ghê ghê trong từng kẽ răng và tóc gáy thì dựng lên. Hận Thù bắt đầu. Cũng như mọi khi, khuôn mặt Emmanuel Goldstein, kẻ thù của nhân dân, hiện lên trên màn ảnh. Tiếng húyt gió chế giễu nổi lên đây đó. Người đàn bà nhỏ bé tóc hung rít lên tỏ vẻ vừa khinh vừa sợ. Goldstein là một tên phản bội, một người ngày xưa (từ bao giờ thì không ai nhớ nổi) vốn nằm trong ban lãnh đạo Đảng, gần như cùng cấp với Anh Cả, nhưng sau đó lại tham gia hoạt động phản cách mạng, bị kết án tử hình rồi bí mật vượt ngục và biến mất. Chương trình Hai Phút Hận Thù thay đổi mỗi ngày, nhưng nhân vật chính bao giờ cũng là Goldstein. Hắn là tên phản bội đầu sỏ, là kẻ hủy hoại thanh danh của Đảng. Chính lí thuyết của hắn là nguồn gốc mọi tội ác chống Đảng, mọi hành vi phá hoại, phản bội, lệch lạc. Hắn vẫn sống ở đâu đó và tiếp tục họat động phá hoại ngầm: có thể là ở nước ngoài, dưới sự bảo trợ của những ông chủ ngoại quốc, mà cũng có thể, như thỉnh thoảng có người nói, là ở ngay tại Oceania này. Winston cảm thấy khó thở. Cứ mỗi lần nhìn thấy mặt Goldstein là trong anh lại xuất hiện một mớ những tình cảm lộn xộn. Đấy là một khuôn mặt Do Thái điển hình, được những lọn tóc mềm điểm bạc bao quanh, bộ râu thưa, một khuôn mặt thông minh nhưng khó ưa, nhưng cái mũi nhỏ và dài, cặp kính trễ xuống tận cánh mũi, lại chứng tỏ rằng đấy là một con người ngờ ngệch, bạc nhược. Khuôn mặt giống như mặt cừu, giọng nói cũng be be y hệt như vậy. Cũng như mọi khi, Goldstein tấn công vào đường lối của Đảng, lí lẽ của hắn đầy ác ý và cường điệu không lừa được cả trẻ con, nhưng có sức thuyết phục, thính giả có thể vô tình nghĩ rằng những người khác, không tỉnh táo bằng mình có thể bị hắn lôi kéo cũng nên. Hắn lăng mạ Anh Cả, hắn tố cáo chế độ Đảng trị, hắn yêu cầu kí ngay hoà ước với Eurasia, hắn đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tư do tư tưởng, hắn điên cuồng gào lên rằng cách mạng đã bị phản bội - tất cả những bài phát biểu liến thoắng, dài dòng của hắn giống như nhại theo cách nói của các diễn giả của Đảng, hơn nữa còn chứa nhiều từ ngữ của Ngômo, thậm chí nhiều hơn số từ các đảng viên thường có thể sử dụng hàng ngày. Để không ai nghi ngờ ý định thực sự đằng sau những lời dối trá tràng giang đại hải của Goldstein, bao giờ trên màn ảnh phía sau đầu hắn cũng là những đoàn quân Eurasia đang nhịp bước, những hàng quân Á châu đằng đằng sát khí, nét mặt không một chút biểu cảm nào liên tục diễu hành từ trong ra rồi biến mất và được thay thế bằng những đoàn khác trông cũng hệt như thế. Tiếng giầy đinh lính tráng nện lộp cộp, đều đều làm nền cho giọng nói be be thé thé của Goldstein. Hận Thù kéo dài chưa được ba mươi giây thì một nửa gian phòng đã không kìm được những tiếng thét căm hờn. Chỉ nhìn thấy hay nghĩ đến Golstein là người ta đã căm ghét và hoảng sợ rồi, đằng này lại phải nhìn mãi cái khuôn mặt tự mãn, dài như mặt cừu và đoàn quân Eurasia hùng mạnh phía sau nữa, ai mà chịu đựng nổi. Hắn là đối tượng căm thù thường trực, hơn cả Eurasia và Eastasia vì khi Oceania gây chiến với một trong hai siêu cường thì bao giờ cũng hòa hoãn với siêu cường kia. Nhưng điều kì lạ là mặc dù mọi người đều căm thù, đều khinh bỉ Goldstein, lí thuyết của hắn bị đem ra phê phán, chế giễu ở ga tàu, trên màn ảnh, trong sách báo hàng ngàn lần mỗi ngày, có vẻ như ảnh hưởng của hắn không hề giảm tí nào. Lúc nào cũng có những kẻ ngốc nghếch sẵn sàng để cho hắn dụ dỗ. Ngày nào cũng có những tên gián điệp, phá hoại hoạt động dưới trướng của hắn bị Cảnh Sát Tư Tưởng tóm được. Hắn chỉ huy một đội quân bí mật đông đảo và một mạng lưới gián điệp ngầm có mục đích lật đổ chế độ. Người ta cho rằng tổ chức của hắn có tên là Huynh Đệ. Người ta còn đồn thổi về một cuốn sách, tuyển tập các quan điểm phản động mà tác giả chính là Goldstein đang được lưu hành bí mật nữa. Cuốn sách này không có tựa đề. Trong những câu chuyện phiếm, người ta gọi nó đơn giản là cuốn sách. Nhưng những chuyện như vậy người ta chỉ được nghe qua những lời đồn rất mù mờ. Đảng viên thường tránh nhắc đến Huynh Đệ cũng như cuốn sách nếu hoàn cảnh cho phép họ làm thế. Đến phút thứ hai thì lòng căm thù đã trở thành điên loạn. Người ta nhảy chồm chồm và hò hét đến lạc giọng hòng át được tiếng the thé như xoáy vào não của Goldstein. Người đàn bà nhỏ bé tóc hung ửng lên như tôm luộc, miệng há hốc như cá mắc cạn. Ngay cả mặt O'Brien cũng ửng lên. Anh ta ngồi thật thẳng, ngực nhồi lên, nhịp xuống như sóng đánh. Cô gái tóc đen phía sau Winston gào lên: "Đồ khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn!", rồi bất thình lình cầm lấy cuốn tự điển Ngômo khá dày và ném thằng vào màn vô tuyến. Cuốn sách đập vào mũi Goldstein và bay ra xa; nhưng giọng nói thì vẫn tiếp tục. Trong một phút tỉnh táo Winston bỗng phát hiện ra rằng mình cũng đang gào lên như mọi người, còn gót chân thì đang dậm kịch liệt lên thanh ngang của chân ghế. Điều kinh khủng nhất trong Hai Phút Hận Thù không phải là việc hành động như mọi người mà chính là việc không thể không hành động. Chỉ cần khoảng ba mươi giây là việc giả đò đã không còn cần thiết nữa. Cơn phấn khích của nỗi sợ hãi và lòng thù hận, ước muốn sát sinh và tra khảo, ước muốn được đập vỡ mặt bằng một cái búa tạ giống như luồng điện truyền khắp phòng, không ai còn kiểm soát được hành vi của mình, tất cả cùng nhăn nhó, kêu gào như một lũ điên. Cơn bộc phát này thực ra là không có chủ đích, có thể được chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác giống như ánh lửa của cái đèn xì. Có lúc Winston hoàn toàn không thù ghét Goldstein, mà ngược lại, anh căm ghét Anh Cả, căm ghét Đảng, căm ghét Cảnh Sát Tư Tưởng; những lúc như thế anh bỗng cảm thấy thương hại con người dị giáo cô đơn, bị lăng nhục trên màn ảnh, người bảo vệ sự thật và sự tỉnh táo duy nhất trong cái thế giới giả dối này. Thế mà ngay giây phút sau anh đã trở lại với mọi người và lại thấy những điều người ta nói về Goldstein là đúng. Khi đó lòng khinh bỉ bí mật Anh Cả lại biến thành sùng kính và Anh Cả bỗng hiện lên cao hơn tất cả, thành một người bất khả chiến bại, người bảo vệ kiên cường, hiên ngang như ngọn núi đá ngăn chặn đà tiến của bọn mọi Á châu, còn tên Goldstein, dù cô đơn, bất lực, chưa biết còn sống hay không, lại giống như một tên phù thủy ác độc, chỉ dùng giọng nói cũng đủ tiêu diệt cả nền văn minh. Đôi khi chỉ cần cố gắng là có thể hướng lòng căm thù vào bất kì đối tượng nào cũng được. Bất thình lình, Winston vận hết sức lực, giống như người ta cố nhấc đầu ra khỏi gối giữa một cơn ác mộng và hướng lòng thù hận từ khuôn mặt trên màn ảnh vào cô gái tóc đen ngồi phía sau. Những hình ảnh sống động tuyệt vời lướt qua tâm trí anh. Đấy là cảnh anh đang đánh cô ta đến chết bằng dùi cui. Đấy là cảnh anh trói cô ta, trần truồng, vào cột gỗ rồi lấy tên bắn đầy người, như trước đây người ta từng bắn vào thánh Sebastian vậy. Đấy là cảnh anh đang cưỡng hiếp và khi đạt đến tột đỉnh khoái cảm thì cắt cổ cô ta. Nhưng lúc này anh nhận thức rõ hơn trước vì sao anh lại căm thù cô ta. Anh căm thù cô vì cô trẻ, đẹp nhưng thiếu dục tình; anh căm thù cô vì muốn ngủ với cô nhưng không thể được; anh căm thù cô vì xung quanh vòng eo mềm mại ngọt ngào của cô, cái vòng eo như mời gọi người ta ôm ấp, lại là chiếc thắt lưng màu đỏ đáng ghét, dấu hiệu của sự trinh trắng đầy khiêu khích. Lòng Thù Hận đạt đến đỉnh điểm. Giọng Goldstein trở nên giống hệt tiếng cừu và khuôn mặt cũng biến thành mặt cừu. Rồi khuôn mặt cừu đó tan thành hình một tên lính Eurasia đang tiến bước, to lớn và dữ dằn, khẩu súng máy trong tay nổ liên hồi kì trận; có vẻ như hắn sắp nhảy ra khỏi màn ảnh, một số người ngồi ở những hàng ghế trên vội ngả người ra sau. Nhưng ngay lúc đó mọi người cùng thở phào nhẹ nhõm vì hình tên lính đáng ghét đã tan biến và thay vào đó là khuôn mặt Anh Cả, tóc đen, chòm râu đen, đầy sức sống và bình thản một cách bí hiểm, khuôn mặt to choán hết cả màn hình. Không ai nghe rõ Anh Cả nói gì. Đấy chỉ đơn thuần là mấy lời động viên, giống như những lời mà các lãnh tụ thốt lên giữa trận tiền, dù không nghe rõ, nhưng vẫn tạo được lòng tin vì đã có tiếng nói. Khuôn mặt Anh Cả mờ đi và thay vào đó là ba khẩu hiệu của Đảng được viết bằng chữ in hoa: CHIẾN TRANH LÀ HÒA BÌNH TỰ DO LÀ NÔ LỆ NGU DỐT LÀ SỨC MẠNH Nhưng hình ảnh Anh Cả dường như còn đọng lại trên màn hình thêm vài giây nữa nên hình ảnh mà nó để lại trên tròng mắt người ta sống động đến nỗi không thể nhòe ngay lập tức được. Người đàn bà bé nhỏ tóc hung ngả hẳn vào lưng ghế phía trước. Bằng một giọng thì thầm, run run, nghe như: “Lạy chúa tôi!”, bà ta vừa nói vừa vươn tay về phía màn ảnh. Sau đó bà ta lấy tay hai che mặt. Chắc là bà ta cầu kinh. Lúc đó cả phòng họp cùng đồng thanh tụng một cách chậm rãi, nhịp nhàng, bằng giọng trầm: “B-B!...B-B...” - nhiều lần liên tục, thật chậm, với khoảng lặng dài giữa chữ B thứ nhất và chữ B thứ hai, giọng tụng nặng nề, rì rầm, có vẻ hoang dại, người nghe cảm thấy như âm thanh được truyền tới trên nền tiếng dậm của những gót chân trần và tiếng trống cái giục giã. Chuyện này kéo dài chừng nửa phút. Cảnh này thường xảy ra mỗi khi tình cảm đạt đến cực điểm. Đấy một phần là bài ca sự anh minh và tôn kính của Anh Cả, nhưng chủ yếu là tự thôi miên, người ta dìm lí trí vào trong tiếng tụng nhịp nhàng. Winston cảm thấy bụng bị lạnh. Anh không thể không hòa nhập vào cơn mê sảng chung với mọi người khi tham gia Hai Phút Hận Thù, nhưng giọng tụng “B-B...B-B..” man rợ lúc nào cũng làm anh hoảng sợ. Tất nhiên anh cũng tụng như mọi người, không thể nào khác được. Che giấu tình cảm, làm chủ nét mặt, hành động giống như những người khác - tất cả đã thành bản năng. Nhưng có một lúc, kéo dài chừng hai giây, ánh mắt đã phản bội lại chính anh. Đúng lúc đó đã xảy ra một sự kiện quan trọng - nếu qủa thật nó đã xảy ra. Bất thình lình anh bắt gặp ánh mắt của O’Brien. O’Brien đang đứng. Anh ta đã tháo kính ra và đang đặt lại nó lên mũi theo thói quen. Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ một tích tắc khi ánh mắt hai người gặp nhau, Winston bỗng hiểu, vâng, đúng là hiểu rằng O’Brien cũng đang nghĩ giống hệt như anh! Tín hiệu không thể nào nhầm lẫn được. Giống như trí não họ đã mở và ý nghĩ đang truyền từ người nọ sang người kia thông qua cặp mắt vậy. “Tôi đồng ý với anh”- dường như O’Brien nói như thế - “Tôi hiểu rõ tình cảm của anh. Tôi biết rõ sự khinh bỉ, lòng căm thù, sự phẫn nộ của anh. Nhưng đừng lo, tôi ủng hộ anh”. Nhưng tia sáng trí tuệ đã vụt tắt và nét mặt O’Brien lại trở nên vô cảm như tất cả mọi người. Thế là hết và anh không chắc là chuyện đó đã từng xảy ra. Những chuyện đại loại như vậy không bao giờ có đoạn tiếp theo. Chỉ còn lại một điều: chúng nâng đỡ niềm tin, hay là niềm hi vọng rằng anh không phải là kẻ thù duy nhất của Đảng. Có thể tin đồn về rất nhiều vụ âm mưu ngầm là đúng – có thể là tổ chức Huynh Đệ quả thật đang tồn tại! Không thể có chuyện nhiều vụ bắt bớ, nhiều vụ thú nhận, nhiều vụ hành quyết như thế mà Huynh Đệ lại chỉ là huyền thọai được. Có ngày anh tin thế, có ngày lại không. Không có bằng chứng; chỉ là những ánh mắt thoáng qua, những ánh mắt có thể nói tất cả hoặc chẳng nói điều gì; chỉ là những câu chuyện ngắt quãng nghe lỏm được; chỉ là những chữ đã bị xoá một phần trên tường phòng vệ sinh; và một lần anh thấy hai người gặp nhau, tay họ có những động tác giống như tín hiệu nhận dạng. Dĩ nhiên chỉ là phỏng đoán, có thể đấy chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Anh bước vào ngăn của mình, không hề nhìn lại O’Brien lần nào. Anh hoàn toàn không nghĩ đến chuyện tiếp tục mối liên hệ thoáng qua vừa rồi. Ngay cả nếu anh biết cách tiếp xúc thì việc đó cũng cực kì nguy hiểm. Trong một giây, mà cũng có thể là hai giây, họ đã kịp trao đổi những ánh mắt khả nghi, tất cả chỉ có thế mà thôi. Ngay cả đấy là một sự kiện đáng nhớ đối với một người phải sống trong cô đơn Winston ngẩng đầu và ngồi thẳng lại. Anh ợ. Rượu Gin đang sôi lên trong dạ dày. Anh lại nhìn chằm chằm vào tờ giấy. Anh phát hiện ra rằng trong khi suy nghĩ một cách bất lực như thế thì tay vẫn viết, hoàn toàn tự động. Nhưng đây không phải là những chữ xấu xí, run rẩy như lúc đầu. Ngòi bút khoan khoái trượt trên mặt giấy nhẵn bóng, tạo nên những chữ in to, rõ ràng: ĐẢ ĐẢO ANH CẢ Ả Ả Ả ĐẢ ĐẢO ANH CẢ ĐẢ ĐẢO ANH CẢ ĐẢ ĐẢO ANH CẢ ĐẢ ĐẢO ANH CẢ và cứ thế suốt nửa trang giấy. Anh cảm thấy hoảng sợ vô cùng. Thật vô nghĩa, bởi vì viết những chữ cụ thể đó cũng không nguy hiểm hơn việc ghi nhật kí, thế mà anh bỗng nảy ra ý định xé trang giấy và chấm dứt luôn toàn bộ công việc. Nhưng anh không làm bởi vì anh biết đằng nào thì cũng vậy. Anh có viết ĐẢ ĐẢO ANH CẢ hay không viết thì cũng thế. Anh có ghi nhật kí hay không ghi thì cũng thế. Trước sau gì thì Cảnh Sát Tư Tưởng cũng tóm được anh thôi. Anh đã phạm, chắc chắn đã phạm, dù không động bút vào giấy, một tội chính, tội chủ yếu, một tội bao gồm tất cả các tội lỗi khác. Tội tư tưởng, tên của nó là như thế. Không thể che giấu mãi được tội tư tưởng. Có thế giấu được một thời gian, trong nhiều năm, nhưng trước sau gì họ cũng phát hiện ra mà thôi. Việc bắt người luôn xảy ra vào ban đêm. Bất ngờ bị đánh thức, một bàn tay thô bạo nắm lấy vai, ánh sáng chiếu thẳng vào mắt, những bộ mặt nghiêm khắc vây quanh giường. Thường thì không có toà án, vụ bắt giữ cũng không được thông báo. Người ta bỗng nhiên biến mất, thế thôi, mà bao giờ cũng vào ban đêm. Tên bị rút khỏi sổ hộ tịch, những việc đã làm bị xoá sạch, sự kiện là có một người từng sống bị phủ nhận và sau đó thì bị vùi lấp. Con người bị xoá bỏ, bị tiêu diệt, hay như người ta thường nói: bị bốc hơi Có một lúc anh như phát cuồng. Anh viết vội vàng, nghiêng ngả: họ sẽ bắn tôi tôi cóc cần họ sẽ bắn vào gáy tôi tôi cóc cần đả đảo anh cả họ bao giờ cũng bắn vào gáy tôi tôi cóc cần đả đảo anh cả Anh ngả lưng ra thành ghế, thâm tâm cảm thấy xấu hổ, tay buông bút. Anh bỗng giật nảy mình. Có người gõ cửa. Đến rồi! Anh ngồi im lặng như một con chuột nhắt, hi vọng rằng người ta sẽ bỏ đi. Nhưng không, tiếng gõ lại vang lên. Chậm là chết. Tim anh đập như trống trận, nhưng nét mặt, có thể vì đã quen từ lâu, vẫn giữ được vẻ lạnh lùng vô cảm. Anh đứng dậy và nặng nề lê bước về phía cửa chính. II. Khi đã nắm chốt cửa trong tay Wiston mới nhận ra rằng cuốn nhật kí vẫn để mở trên bàn. Cả trang đầy những chữ ĐẢ ĐẢO ANH CẢ, chữ to đến mức đứng ở đầu kia căn phòng vẫn đọc được. Ngu không tưởng tượng nổi. Không, anh nghĩ, ngay cả trong lúc hoảng loạn anh cũng không muốn gấp cuốn sổ khi mực chưa khô, trang giấy trắng bóng ấy sẽ bẩn hết. Anh hít vào một hơi dài và mở cửa. Một luồng sóng ấm áp do tâm trí được giải toả chạy khắp cơ thể. Một người đàn bà nhợt nhạt, ủ rũ, mái tóc lòa xòa, mặt đầy nếp nhăn đứng ngay bên ngoài. “A, đồng chí”, bà ta nói, giọng the thé, khó chịu. “Đúng là tôi đã nghe thấy anh về. Anh có thể xem hộ tôi cái bồn rửa bát trong bếp được không? Nó bị tắc” Đấy là bà Parsons, vợ một người hàng xóm cùng tầng. (Đảng không thích gọi phụ nữ là "bà", phải gọi tất cả là đồng chí, nhưng không hiểu sao đối với một số phụ nữ từ này cứ bật ra như một thứ bản năng). Bà ta mới khoảng ba mươi nhưng trông già hơn nhiều. Có cảm giác như bụi bám đầy trong các nếp nhăn trên mặt bà ta. Winston đi theo bà ta. Gần như ngày nào anh cũng phải làm công việc sửa chữa lặt vặt như thế này. Chung cư Chiến Thắng được xây dựng từ năm 1930 hay gần năm đó, đã cũ lắm rồi. Vôi trên trần và tường rớt từng mảng, cứ hễ lạnh là đường ống dẫn nước vỡ, mái thì dột mỗi khi có tuyết, hệ thống sưởi chỉ chạy một nửa công suất, đấy là nói khi người ta không tắt hẳn để tiết kiệm điện. Nếu không tự chữa được thì phải xin các uỷ ban cấp trên, chỉ thay một tấm kính vỡ cũng phải mất hai năm. “Tại anh Tom nhà tôi đi vắng”, bà Parsons rụt rè nói. Căn hộ nhà Parsons rộng hơn căn của Winston, cũng tồi tàn nhưng theo một cách khác. Tất cả đồ đạc đều nhàu nát, bẹp dúm y như có một con vật dữ dằn, to lớn vừa đi ra khỏi đây. Dụng cụ thể thao, que chơi khúc quân cầu, găng tay đấu box, bóng da vỡ, quần đùi ướt lộn trái vất đầy trên sàn, còn trên bàn thì bát đĩa bẩn nằm ngổn ngang cạnh những cuốn vở nhàu nát. Trên tường có treo cờ đỏ của Hiệp Hội Thanh Niên, đội Tình Báo và bức ảnh to, loại treo ngoài phố hình Anh Cả. Ở đây cũng có mùi bắp cải luộc, cái mùi chung trong toàn bộ khu nhà, nhưng mùi mồ hôi, có thể thấy ngay khi vừa hít vào hơi đầu tiên, tuy không thể rõ tại sao, của một người hiện đi vắng còn mạnh hơn, lấn át cả mùi bắp cải. Ở phòng bên cạnh có người đang dùng lược và giấy vệ sinh bắt chước nhạc điệu một khúc quân hành phát trên màn vô tuyến. “Các cháu nhà tôi”, bà Parsons vừa nói vừa lo lắng nhìn vào cửa. “Hôm nay chúng ở nhà. Thế nên…” Bà ta có thói quen ngừng ở giữa câu. Cái chậu rửa trong bếp chứa đầy nước bẩn màu xanh rêu, bốc mùi khó chịu hơn bắp cải nhiều. Winston quì xuống xem khớp nối bên dưới. Anh không thích công việc chân tay, anh cũng không thích cúi vì sẽ bị ho. Bà Parsons bất lực đứng nhìn. “Nếu anh Tom nhà tôi ở nhà thì anh ấy làm xong ngay”, bà ta nói. “Anh ấy thích những việc thế này lắm. Anh ấy là người khéo tay.” Parsons cùng công tác trong Bộ Sự Thật với Winston. Đấy là một người to béo, khá năng động nhưng dốt nát, biểu hiện của lòng nhiệt tình tăm tối, một trong những kẻ trung thành, không bao giờ nghi ngờ, sẵn sàng bảo vệ Đảng còn hơn cà cảnh Sát Tư Tưởng. Ở tuổi ba lăm anh ta vẫn không muốn rời bỏ hàng ngũ Hiệp Hội Thanh Niên, trước khi gia nhập Hiệp Hội anh ta cũng tìm cách ở lại đội Tình Báo thêm một thời gian. Trong Bộ anh ta chỉ giữ chức vụ phụ trợ, không cần kiến thức, nhưng mặt khác, anh ta là nhân vật chủ chốt trong Ủy Hội Thể Thao và những ủy hội khác liên quan đến tổ chức các chuyến dã ngoại, diễu hành tự phát, phong trào tiết kiệm và nói chung là các hoạt động tình nguyện. Vừa hút tẩu anh ta vừa có thể nói một cách tự hào thầm kín rằng trong suốt bốn năm qua anh ta chưa từng bỏ một buổi sinh hoạt tối nào tại Trung Tâm Xã Hội. Mùi mồ hôi nồng nặc là bằng chứng của một đời sống vất vả, theo anh khắp nơi, thậm chí còn ở lại sau khi anh đã đi khỏi rồi. “Nhà có mỏ lết không?”, vừa nói Winston vừa lấy tay thử xoay con ốc. “Mỏ lết”, bà Parsons nói, người như lả đi. “Thực tình là tôi không biết. Có thể các cháu…” Có tiếng dậm chân, rồi nghe có mấy đứa trẻ chạy vào phòng. Bà Parsons mang mỏ lết vào. Winston tháo nước và rút mớ tóc thút nút đường ống ra, tanh quá, suýt nữa thì anh nôn. Anh cố gắng kì cọ tay cho thật sạch rồi đi vào phòng khách. “Giơ tay lên”, có tiếng quát. Một đứa bé xinh xắn chừng chín tuổi, nét mặt cau có, nhảy ra từ dưới gầm bàn, đang chĩa khẩu súng giả về phía anh, trong khi cô em, nhỏ hơn thằng anh chừng hai tuổi thì giơ lên một mẩu gỗ. Cả hai đứa đều mặc đồng phục đội viên Tình Báo, quần đùi xanh, áo sơ mi xám, cổ đeo khăn quàng đỏ. Winston giơ tay lên, trong bụng cảm thấy bất an: đứa nhỏ trông hung dữ quá, không có vẻ gì là trò chơi cả. “Tên phản bội!”, đứa bé thét lạc cả giọng. “Tội phạm tư tưởng! Gián điệp Eurasia! Ta sẽ bắn, ta sẽ cho ngươi bốc hơi, ta sẽ đày ngươi đi mỏ muối!” Rồi hai đứa nhảy lò cò xung quanh, miệng thét: "Phản bội!", "Tội phạm tư tưởng!", đứa con gái bắt chước mọi động tác của thằng anh. Cảnh tượng hơi ghê ghê, giống như bày hổ con sắp sửa thành lũ hổ lớn ăn thịt người. Mắt thằng con trai ánh lên vẻ dữ dằn đầy tính toán, rõ ràng là nó muốn nhảy vào đấm hay đá Winston, thâm tâm biết rằng nó sắp làm được việc đó rồi, chỉ cần lớn thêm chút nữa là xong. May là nó chỉ cầm khẩu súng giả thôi đấy, Winston nghĩ. Bà Parsons lo lắng hết nhìn bọn trẻ lại nhìn Winston. Phòng này sáng hơn và Winston lấy làm thích thú khi nhìn rõ bụi trong những nếp nhăn trên trán bà ta. “Nghịch lắm”, bà ta nói. “Chúng đang bực vì không được đi xem treo cổ đấy anh ạ. Tôi thì bận có đi được đâu, anh Tom còn chưa thấy về nữa.” “Tại sao không được đi xem treo cổ?”, thằng con trai gào lên. “Muốn xem treo cổ! Muốn xem treo cổ!”, đứa con gái vừa đế theo vừa nhảy lò cò như cũ. Có mấy tên gián điệp, tội phạm chiến tranh người Eurasia sẽ bị treo cổ trong công viên, tối nay, Winston sực nhớ. Tháng nào cũng có cảnh đó, đông người xem lắm. Trẻ con bao giờ cũng hò hét đòi dẫn đi xem. Anh bước lại phía cửa, đi về. Nhưng mới đi được chừng sáu bước ngoài hành lang thì bỗng thấy có một vật gì đó đập mạnh vào gáy, đau nhói. Giống như bị một sợi dây nóng đỏ quất vào cổ vậy. Anh quay lại và trông thấy bà Parsons đang kéo thằng bé, còn nó thì cố nhét cái súng cao su vào túi. “Goldstein!”, thằng bé gào lên, trước khi cánh cửa đóng hẳn. Nhưng điều làm Winston choáng váng hơn cả chính là ánh mắt thảng thốt, bất lực trên khuôn mặt xám ngoét của bà mẹ. Winston bước vào phòng, anh đi nhanh qua màn vô tuyến và lại ngồi cạnh cái bàn, tay vẫn xoa gáy như cũ. Màn vô tuyến không phát nhạc nữa. Thay vào đó là một giọng lính tráng đang đọc một cách ngắc ngứ, nhưng đầy vẻ tự mãn một cách hằn học về trang bị của một pháo đài nổi mới thả neo giữa Iceland và quần đảo Fareo. Tội nghiệp bà ta, anh nghĩ, con như thế thì phải sợ cả đời thôi. Chỉ một hai năm nữa là chúng sẽ theo dõi mẹ suốt ngày đêm, chỉ lỡ lời một tí là nguy to ngay.Trẻ con bây giờ đứa nào cũng thế cả, kinh khủng lắm. Điều tệ hại nhất chính là ở chỗ các tổ chức như kiểu Tình Báo đang biến trẻ con thành những đứa hung dữ không còn biết sợ là gì, hơn nữa, chúng sẽ không bao giờ có ý định chống lại kỉ luật Đảng. Ngược lại, chúng còn sùng kính Đảng và tất cả những gì liên quan đến Đảng nữa. Những bài hát, những cuộc tuần hành, những lá cờ, những buổi dã ngoại, những buổi tập quân sự có súng giả, việc hô khẩu hiệu, việc sùng bái Anh Cả, tất cả đều là trò chơi thú vị đối với chúng. Tính ác của chúng bị hướng ra bên ngoài, nhắm vào kẻ thù của Chế Độ, nhắm vào người ngoại quốc, vào những kẻ phản bội, phá hoại, tội phạm tư tưởng. Những ông bố, bà mẹ ngoài ba mươi tuổi sợ con đã là chuyện bình thường. Mà cũng phải thôi, ít có tuần nào mà tờ Times không có mục kể chuyện một đứa bé mách lẻo - "các tiểu anh hùng", người ta gọi chúng như vậy - đã nghe trộm được bố mẹ nói một câu không hay nào đó và báo cáo với Cảnh Sát Tư Tưởng. Cơn đau ở gáy đã giảm hẳn. Anh cầm bút lên, lưỡng lự, tự nhủ không biết còn có thể viết được gì nữa. Bất chợt anh lại nghĩ đến O'Brien. Mấy năm trước - không biết mấy năm rồi nhỉ? Phải đến bảy năm rồi, anh mơ thấy mình đang đi trong một gian phòng tối đen như mực. Có tiếng người nói khi anh đi ngang: "Chúng ta sẽ gặp nhau ở nơi không còn bóng tối nữa". Câu nói rất khẽ, như vô tình, không phải là mệnh lệnh, chỉ là một câu nói thôi. Anh vẫn bước tiếp. Có điều lạ là lúc đó, trong giấc mơ, câu đó không gây được ấn tượng nào. Chỉ sau này, câu nói càng ngày càng có ý nghĩa với anh hơn. Bây giờ anh không thể nhớ là anh mơ trước hay sau lần gặp đầu tiên với O'Brien và khi nào thì anh nhận ra giọng nói ấy là của anh ta. Nhưng anh đã nhận ra giọng nói. Chính O'Brien đã nói với anh trong đêm tối đó. Winston không biết, ngay cả sau khi đã trao nhau ánh mắt sáng nay, anh cũng không thể nào biết chắc được O'Brien là bạn hay là thù. Nhưng thực ra chuyện đó cũng không quan trọng lắm. Giữa họ đã có sự thông cảm, điều đó còn quan trọng hơn cả tình thương hay sự ủng hộ. "Chúng ta sẽ gặp nhau ở nơi không còn bóng tối nữa" - O'Brien nói. Winston không hiểu anh ta ám chỉ gì, nhưng cảm thấy rằng chuyện đó nhất định rồi sẽ tới. Màn vô tuyến bỗng ngưng nói trong vài giây. Tiếng kèn đồng rộn rã, vui tươi, thúc giục bỗng vang lên trong căn phòng ngột ngạt. Giọng khàn khàn lại tiếp tục: "Chú ý! Chú ý! Chúng tôi vừa nhận được bản tin nhanh từ mặt trận Malabar. Quân đội ta trên mặt trận Nam Ấn vừa giành được một chiến thắng hết sức quan trọng. Tôi được phép tuyên bố rằng kết quả chiến dịch này là điềm báo ngày kết thúc chiến tranh không còn bao xa nữa. Xin mời nghe bản tin nhanh". Hãy đợi đấy, Winston nghĩ. Quả nhiên thế, sau khi mô tả chiến dịch xoá sổ đội quân của Eurasia với số lượng người bị giết và bị bắt rất lớn là đến thông báo từ tuần sau sẽ giảm khẩu phần chocolate từ ba mươi gram xuống còn hai mươi. Winston lại ợ một lần nữa. Cảm giác phấn chấn do li rượu Gin tạo ra đã hết, chỉ còn nỗi chán chường. Màn vô tuyến, có thể là để mừng chiến thắng mà cũng có thể để người ta không còn chú ý đến chuyện giảm khẩu phần chocolate, phát bài: "Hát mừng Oceania". Phải đứng nghiêm, mắt nhìn thẳng. Nhưng anh ngồi ở đây thì không lo, màn vô tuyến không nhìn thấy đâu. Ngoài phố gió vẫn giật tấm biểu ngữ rách lúc qua lúc lại, chữ CHUANH khi đọc được khi không. Chuanh. Những nguyên tắc thiêng liêng của Chuanh. Ngômo, nước đôi, quá khứ khả biến. Anh cảm thấy như đang đi trong một khu rừng dưới đáy đại dương, lạc giữa một thế giới quái dị và chính anh cũng là quái vật. Anh hoàn toàn đơn độc. Quá khứ đã chết, tương lai mờ mịt. Liệu có thể tin được rằng có một người đang sống thông cảm với anh không? Làm sao có thể biết được rằng sự thống trị của Đảng sẽ không kéo dài vĩnh viễn? Đáp lại là ba khẩu hiệu trên nền trắng của toà nhà Bộ Sự Thật đập thẳng vào mắt anh: CHIẾN TRANH LÀ HOÀ BÌNH TỰ DO LÀ NÔ LỆ NGU DỐT LÀ SỨC MẠNH Anh rút từ trong tuí ra đồng hai mươi lăm xu. Trên mặt đồng xu cũng có ba khẩu hiệu đó, nét chữ rõ và rất nhỏ; mặt bên kia là đầu Anh Cả. Từ mặt đồng xu đôi mắt ấy vẫn đang theo dõi. Nó theo dõi từ mặt đồng xu, từ con tem, từ bìa sách, từ các biểu ngữ, từ vỏ bao thuốc là - từ khắp mọi nơi. Đôi mắt dõi theo khắp nơi và giọng nói cũng bao trùm khắp chốn. Cả khi ngủ lẫn khi thức, cả lúc ăn lẫn lúc làm, cả trong nhà lẫn ngoài đường, cả trong phòng tắm lẫn trên giường ngủ - không chỗ nào thoát. Ngoài mấy phân khối bên trong hộp sọ ra thì không có gì là riêng tư hết. Mặt trời đã ngả, hàng ngàn cửa sổ Bộ Sự Thật không còn ánh sáng, trông đen ngòm như những lỗ châu mai. Tim anh thắt lại khi mỗi khi nhìn thấy cái kim tự tháp đồ sộ ấy. Vững chãi lắm, không thể tấn công vào được. Hàng ngàn quả rốc két bắn vào cũng không phá huỷ nổi. Anh lại tự hỏi đang ghi nhật kí cho ai. Cho tương lai, cho quá khứ, cho thời đại tưởng tượng. Không phải là cái chết mà sự huỷ diệt đang chờ anh ở phía trước. Cuốn nhật kí sẽ hoá ra tro, còn anh thì thành bụi. Cảnh Sát Tư Tưởng sẽ đọc những điều anh viết trước khi xoá sạch dấu vết của nó trên mặt đất và trong trí nhớ. Khi dấu vết không còn, khi ngay cả một từ nặc danh trên giấy cũng không còn thì làm sao có thể liên lạc được với tương lai? Màn vô tuyến báo mười bốn giờ. Mười phút nữa anh phải ra khỏi nhà. Anh phải có mặt ở cơ quan vào lúc mười bốn giờ rưỡi. Có điều lạ là dường như tiếng chuông đồng hồ đã tiếp thêm cho anh sức mạnh. Anh là một con ma cô đơn đang nói sự thật, sự thật không bao giờ có người nghe. Nhưng anh nói nghĩa là sự liên tục vẫn còn, dù rất mù mờ. Không phải bằng cách làm cho người ta nghe được mình mà là bằng cách không hoá điên, tiếp tục giữ vững di sản của loài người. Anh trở lại bên bàn viết, chấm mực và ghi: Người nhận: Tương lai hay là quá khứ, thời đại của tự do tư tưởng, khi không ai giống ai, khi ai sống ở nhà nấy - thời đại khi sự thật vẫn còn và cái đã tồn tại không bị biến thành tro bụi: Người gửi: Thời của đồng phục, thời của cô đơn, thời của Anh Cả, thời của nước đôi - xin gửi lời chào! Mình đã chết rồi, anh nghĩ. Anh có cảm tưởng rằng khi giành lại được khả năng suy nghĩ chính là lúc anh đã có quyết định không thể đảo ngược được. Hậu quả của bất kì hành động nào cũng nằm ngay chính trong hành động đó. Anh viết: Tội tư tưởng không kéo theo án tử hình; tội tư tưởng CHÍNH LÀ án tử hình. Giờ đây, khi anh hiểu rằng mình đã chết thì điều quan trọng là phải sống càng lâu càng tốt. Hai ngón tay phải bị dây mực. Chỉ chút xíu đó cũng đủ hỏng việc rồi. Một kẻ cuồng tín nào đó trong Bộ (một người phụ nữ, có thể là người đàn bà tóc hung bé nhỏ, cũng có thể là cô gái tóc đen thuộc Ban Sáng Tác) có thể tự hỏi tại sao anh lại viết trong lúc nghỉ trưa, tại sao anh lại dùng loại bút cũ, anh đã viết cái gì - và sau đó thông báo đến địa chỉ cần thiết là xong. Anh vào phòng tắm và chà thật kĩ bằng cục xà phòng màu nâu, loại này ăn tay, xót như chà bằng giấy nhám, thế mà hết. Anh đặt cuốn nhật kí vào ngăn kéo. Dấu cũng vô ích thôi, nhưng ít ra anh cũng biết chắc rằng họ đã phát hiện được nó hay chưa. Sợi tóc đặt vào cuối trang thì lộ ngay. Anh lấy móng tay chấm một tí bụi và dính lên một góc bìa: hễ có người mở là bụi rơi xuống ngay. III. Winston mơ thấy mẹ. Theo như anh nhớ thì mẹ đã biến mất khi anh chừng mười hay mười một tuổi. Mẹ là một người cao, đẹp và trang nghiêm, ít nói, làm gì cũng chậm rãi, mái tóc sáng và dày. Anh không nhớ rõ bố lắm, chỉ nhớ ông có mái tóc đen, người gầy, luôn mặc bộ complet sang trọng màu đen (không hiểu sao anh nhớ rất rõ đế giày bố rất mỏng), đeo kính. Cả hai chắc đã bị làn sóng thanh trừng đầu tiên hồi những năm 50 nuốt chửng. Trong mơ mẹ ngồi bên dưới, sâu lắm, tay đang bế cô em gái. Anh hoàn toàn không nhớ gì về cô em cả, ngoại trừ hình ảnh đấy là một đứa nhỏ ốm yếu, đôi mắt to, lặng lẽ quan sát, không bao giờ khóc. Cả hai đang nhìn vào anh. Họ ngồi ở dưới lòng đất - trong lòng một cái giếng, mà cũng có thể dưới mồ sâu - và đang hạ xuống ngày một sâu hơn. Họ ngồi trong buồng một con tàu đang chìm và nhìn lên Winston qua làn nước màu đen. Trong buồng vẫn còn không khí, họ còn nhìn thấy anh và anh thấy họ, nhưng họ đang chìm dần vào làn nước xanh và chỉ chút nữa nữa là sẽ biến mất hoàn toàn. Anh ở ngoài không khí, ngoài ánh sáng còn họ thì đang bị hút vào chỗ chết, họ bị hút xuống vì anh đang ở trên này. Anh biết thế, họ cũng biết thế, nhìn mặt họ là thấy. Trên nét mặt hay trong tim họ không hề có lời oán trách nào, chỉ có nhận thức rằng họ phải chết để anh được sống vì qui luật là như thế. Winston không nhớ chuyện đó xảy ra như thế nào, nhưng trong mơ anh biết rằng mẹ và em đã hi sinh vì anh. Đấy là một trong những giấc mơ có thể nhớ được những cảnh huống chính và là sự tiếp nối những suy nghĩ lúc ban ngày; những sự kiện và ý tưởng ta thấy trong đó càng trở nên mới mẻ và có ý nghĩa hơn sau khi đã tỉnh. Winston bỗng nhận ra rằng cái chết của mẹ gần ba mươi năm trước là một bi kịch và sự đau khổ mà người thời nay không thể nào hiểu được nữa. Bi kịch, như anh thấy, là tài sản của thời xa xưa, thời còn sự riêng tư, thời còn tình yêu, tình bạn, thời mà các thành viên trong một gia đình còn bảo vệ nhau mà không cần lí lẽ. Hình ảnh mẹ vò xé trái tim anh vì bà yêu anh mà anh thì quá nhỏ và ích kỉ chưa biết đáp lại tình yêu ấy, và cũng vì, anh không biết tại sao, bà đã hi sinh thân mình cho quan điểm trung thành không lay chuyển, của riêng bà. Hiện tại, theo anh những thứ tình cảm như thế không còn nữa. Hiện tại chỉ còn nỗi sợ hãi, lòng thù hận và khổ đau, nhưng không còn tình cảm cao thượng, không còn nỗi buồn sâu sắc hay phức tạp nữa. Dường như anh đã đọc được tất cả những điều đó trong ánh mắt mẹ và em, những ánh mắt đang nhìn anh qua làn nước trong xanh, từ độ sâu hàng trăm mét, lại đang chìm dần. Bất ngờ anh thấy mình đang đứng trên một thảm cỏ cắt ngắn, trong một buổi chiều mùa hè, ánh mặt trời chiếu xiên khoai. Anh thường mơ thấy chỗ này nên không thể biết chắc đã thật sự nhìn thấy nó bao giờ hay chưa. Khi thức anh gọi chỗ đó là Địa Hoàng. Đấy là một bãi cỏ cằn cỗi, bị thỏ gặm nham nhở, có một con đường mòn nhỏ chạy vắt ngang, hang chuột đùn lên khắp nơi. Phía cuối bãi cỏ là hàng du đung đưa, tán lá dầy phấp phới như tóc đàn bà bay trước gió. Ở đâu đó rất gần, tuy không trông thấy, là tiếng nước róc rách, nơi những con cá nhỏ đang bơi dưới bóng liễu thướt tha. Cô gái tóc đen đang đi ngang qua cánh đồng. Có vẻ như chỉ bằng một động tác cô ta đã giật hết quần áo ra khỏi người và ném xuống đất một cách khinh bỉ. Da cô ta trắng và nhẵn, nhưng không khêu gợi được bất kì ham muốn nhục dục nào, thậm chí anh không nhìn cô ta nữa. Cái làm anh thán phục chính là động tác vất bỏ quần áo của cô ta. Hành động đầy duyên dáng và bất cần đời đó có vẻ như đã giết chết toàn bộ nền văn hoá này, toàn bộ hệ tư tưởng này, cứ như thể Anh Cả, Đảng và Cảnh Sát Tư Tưởng, tất cả đều có thể bị quét sạch bằng một cú vung tay điệu nghệ. Đấy là cử chỉ của thời quá khứ xa xôi. Winston thức giấc, môi vẫn mấp máy từ "Shakespeare". Màn vô tuyến phát một tiếng huýt gió chói tai, kéo dài đúng ba mươi giây. Đấy là tiếng cói báo thức vào lúc 7 giờ 15 phút, giành cho viên chức nhà nước. Winston chui ra khỏi giường, trên người không mảnh vải vì thành viên Đảng Ngoại Vi chỉ được phát tem phiếu giá ba ngàn để mua quần áo, trong khi giá một bộ pijama đã là sáu trăm rồi, anh rút vội chiếc áo trấn thủ và cái quần đùi treo trên lưng ghế. Ba phút nữa sẽ đến giờ thể dục buổi sáng. Ngay lập tức anh phải gập đôi người lại vì ho, sau khi thức dậy bao giờ anh cũng bị ho như thế. Cơn ho làm anh mệt đến nỗi anh phải nằm ngửa ra và thở sâu mấy lần mới hồi phục được. Các mạch máu căng lên vì ho, còn vết loét do giãn tĩnh mạch thì bắt đầu ngứa. “Nhóm từ ba mươi đến bốn mươi!”, một giọng đàn bà the thé cất lên. “Nhóm từ ba mươi đến bốn mươi! Đứng vào chỗ! Ba mươi đến bốn mươi!” Winston đứng nghiêm trước màn vô tuyến: một người phụ nữ còn khá trẻ, gày nhưng rắn chắc, váy ngắn, giày thể thao đã hiện rõ trên màn hình. “Cong hai tay lại và đưa ra!”, cô ta hô. “Chúng ta cùng đếm nào. Một, hai, ba, bốn! Một, hai, ba, bốn! Tiếp tục, các đồng chí, mạnh mẽ lên! Một, hai, ba, bốn! Một, hai, ba, bốn!” Cơn đau do trận ho vừa rồi gây ra chưa xoá hết ấn tượng của giấc mơ, nhịp điệu thể dục dường như lại làm nó hồi sinh. Vừa đưa tay ra đưa tay vô một cách tự động với bộ mặt thoả mãn cau có, theo đúng yêu cầu của một buổi tập, Winston vừa cố gắng quay lại với kí ức mù mờ của ngày thơ ấu. Khó quá. Anh đã quên hết những chuyện xảy ra hồi những năm năm mươi rồi. Khi không còn một bằng chứng bên ngoài nào để ta có thể dựa vào thì ngay những nét chính của cuộc đời mình cũng thành ra mờ nhạt hết. Ta có thể nhớ được các sự kiện lớn, nhưng có thể sự kiện đó chưa từng xảy ra; ta có thể nhớ rõ chi tiết một biến cố, nhưng không thể cảm nhận được không khí của nó; và có những khoảng trống dài, không được đánh dấu bằng bất kì sự kiện nào. Lúc đó mọi thứ đều khác bây giờ. Ngay tên các nước cũng như đường biên giới trên bản đồ cũng khác bây giờ. Thí dụ, Đường Bay I lúc đó gọi là England hay Britain, nhưng London – Winston nhớ rõ – thì vẫn gọi là London. Winston không nhớ rõ những giai đọan ngừng chiến, nhưng chắc chắn là khi còn nhỏ anh đã được sống trong một thời hòa bình khá dài, bằng chứng là vụ oanh kích đầu tiên đã làm mọi người rất ngạc nhiên. Có thể đấy là lần Colchester bị bỏ bom nguyên tử. Anh không nhớ rõ vụ oanh kích, chỉ nhớ là cha nắm chặt tay anh khi họ chạy xuống, xuống, xuống mãi dưới lòng đất, hết vòng nọ đến vòng kia theo một cái thang hình xoắn ốc, rung rinh dưới chân, cuối cùng mỏi quá, anh thút thít khóc và hai bố con phải ngồi xuống nghỉ. Mẹ, vẫn như mọi khi, mơ mộng và chậm rãi, đi sau khá xa hai bố con. Mẹ bế cô em gái, mà cũng có thể mẹ chỉ ôm đống chăn thôi: Winston không nhớ lúc đó đã có em hay chưa. Cuối cùng họ đến một chỗ đông người, ồn ào – anh nghĩ là ga tầu điện ngầm. Một số người ngồi trên nền lát đá, số khác chen chúc trên những cái giường sắt xếp thành tầng. Winston ngồi cùng với bố mẹ trên nền, cạnh đấy là hai ông bà già ngồi sát nhau trên một cái giường sắt. Ông cụ mặc bộ complet đen trang nhã, cái mũ cũng màu đen lệch hẳn ra phía sau, tóc bạc trắng, khuôn mặt ửng hồng, đôi mắt màu xanh đầy nước. Người ông sặc mùi rượu Gin. Có vẻ như cơ thể ông đang bốc ra mùi rượu chứ không phải mùi mồ hôi, người ta có thể nghĩ rằng những giọt nước mắt kia cũng là những giọt Gin chính hiệu nữa. Ông già say, nhưng toàn bộ con người ông toát ra một nỗi buồn chân thành và quá sức chịu đựng. Bằng trí óc non nớt của mình anh đã đoán được là đã xảy ra một sự kiện khủng khiếp, không thể tha thứ, không thể sửa chữa được. Anh còn biết sự kiện đó nữa. Một người thân của ông già, có thể là một cô cháu gái, đã bị giết. Ông cứ nhắc đi nhắc lại: “Không được tin bọn chúng. Tôi đã nói thế, đúng không bà? Tin chúng thì được thế đấy. Tôi vẫn nói vậy mà. Không được tin bọn khốn kiếp đó.” Nhưng bọn khốn kiếp không nên tin là ai thì Winston không nhớ. Chiến sự diễn ra liên tiếp từ đó, nhưng nói cho ngay thì đấy không phải là một cuộc chiến kéo dài liên tục từ bấy đến nay. Những cuộc hỗn chiến ngay trên đường phố London kéo dài mấy tháng liền, đấy là khi anh còn nhỏ, có những cảnh anh còn nhớ rất rõ. Nhưng theo dõi tiến trình lịch sử những năm đó, xác định xem ai đánh nhau với ai và vào lúc nào thì hoàn toàn không thể được vì không thể tìm được một tài liệu nào, một lời nào về việc phân bố lực lượng khác với phân bố hiện nay. Thí dụ hiện nay, năm 1984 (nếu đúng là năm 1984), Oceania đang giao tranh với Eurasia và liên minh với Eastasia. Không ai bày tỏ một cách công khai hay kín đáo rằng trước đây ba nước này đã từng có quan hệ với nhau khác hẳn bây giờ. Nhưng Winston biết rõ rằng Oceania mới đánh nhau với Eurasia và liên minh với Eastasia được bốn năm. Anh có được một chút kiến thức vụng trộm đó là vì người ta chưa quản lí được hoàn toàn trí não của anh đấy thôi. Chính thức thì bạn và thù chưa bao giờ thay đổi. Oceania đang giao tranh với Eurasia có nghĩa là Oceania luôn luôn giao tranh với Eurasia. Kẻ thù hiện nay là hiện thân của quỉ sứ, chưa từng có chuyện thỏa hiệp với chúng trong quá khứ càng không thể có chuyện thoả hiệp trong tương lai. Kinh khủng nhất, anh nghĩ trong khi vặn người (tay chống nạnh, người vặn sang một bên – như thế rất tốt cho cơ lưng), ý nghĩ này đã lặp lại không biết đến lần thứ mấy ngàn, mấy vạn rồi, kinh khủng nhất chính là điều đó có thể là sự thật. Nếu Đảng có thể thò tay vào quá khứ và bảo rằng sự kiện này hay sự kiện kia chưa hề xảy ra, thì điều đó còn khủng khiếp hơn cả tra tấn, hơn cả cái chết. Đảng nói rằng Oceania chưa bao giờ liên minh với Eurasia. Nhưng anh, Winston Smith, biết rõ rằng mới bốn năm trước đây Oceania từng là đồng minh của Eurasia. Kiến thức ấy được lưu trữ ở đâu? Không ở đâu hết, chỉ có trong đầu anh mà thôi, nhưng anh thì sắp bị tiêu diệt rồi. Nếu tất cả mọi người đều chấp nhận sự giả dối do Đảng áp đặt, nếu tất cả tài liệu đều chép giống nhau như thế thì sự giả dối này sẽ đi vào lịch sử, sẽ trở thành sự thật. “Ai làm chủ quá khứ, người đó sẽ làm chủ tương lai; ai làm chủ hiện tại, người đó sẽ làm chủ quá khứ” - khẩu hiệu của Đảng viết như thế. Quá khứ có thể biến cải, nhưng không ai biến cải được. Điều gì đúng cho hôm nay cũng đúng đối với quá khứ vô cùng và sẽ đúng cho tương lai vô tận. Đơn giản là như thế. Bắt buộc phải thường xuyên khuất phục trí tuệ của chính mình. Đấy là “làm chủ hiện thực” hay gọi bằng Ngômo là “nướcđôi”. “Nghỉ!”, hướng dẫn viên hô, giọng đã hơi dịu lại. Winston vừa hạ tay xuống vừa hít vào một hơi thật dài. Tâm trí anh đã lạc vào mê cung của sự bất nhất. Biết mà làm như không biết; hiểu rõ sự thật nhưng lại nói những điều dối trá tinh vi; giữ cùng một lúc hai quan điểm đối lập, dù biết rõ rằng cái nọ phủ nhận cái kia mà vẫn tin tưởng cả hai; dùng logic giết logic; vi phạm đạo đức trong khi hô hào đề cao đức dục; cho rằng không thể có dân chủ nhưng Đảng lại là người bảo vệ dân chủ; quên những việc phải quên nhưng sẽ nhớ khi cần, rồi lại có thể quên ngay và quan trọng nhất là phải áp dụng quá trình này vào chính tiến trình tư duy. Đấy chính là sự tinh tế tối hậu: cố tình quên và sau đó quên ngay hành động thôi miên vừa mới làm. Ngay cả muốn hiểu từ “nước đôi” cũng phải sử dụng nước đôi. “Bây giờ xem ai có thể với tay tới mũi ngón chân!”, hướng dẫn viên khích lệ. “Các đồng chí, gập người ngang thắt lưng. Một-hai! Một-hai!...” Winston ghét động tác này nhất: đau từ gót chân lên tận mông và thường kết thúc bằng một cơn ho. Mấy ý nghĩ vui vui đã biến sạch khỏi đầu. Quá khứ không chỉ bị cải biến, nó đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Làm sao có thể xác định ngay cả một sự kiện hiển nhiên nếu ngoài trí nhớ cá nhân ra, nó không được ghi chép ở đâu cả? Mình được nghe nói đến Anh Cả lần đầu tiên khi nào nhỉ? –anh tự hỏi thế. Hình như từ những năm 60, nhưng bây giờ làm sao nhớ nổi. Lịch sử Đảng, dĩ nhiên, viết rằng Anh Cả đã là lãnh tụ ngay từ những ngày cách mạng còn trong trứng nước. Chiến công của đồng chí ấy được đẩy lùi dần mãi về thế giới huyền thọai của những năm ba mươi và bốn mươi, khi những tên tư sản đội những chiếc mũ phớt trông rất kì dị vẫn còn nghênh ngang trên những chiếc ô tô láng coóng hay những chiếc xe ngựa bọc kính tứ phía. Không thể nào biết được đâu là thật đâu là bịa nữa. Winston không nhớ Đảng ra đời vào lúc nào. Anh cũng không tin là anh đã từng nghe từ Chuanh trước năm 1960, nhưng cũng có thể theo Ngôn ngữ cũ thì từ "chủ nghĩa xã hội Anh" đã được sử dụng từ trước rồi. Mọi chuyện quả là rất mù mờ. Nhưng đôi khi có thể phát hiện được những sự dối trá trắng trợn. Thí dụ lời khẳng định trong cuốn Lịch sử Đảng rằng Đảng phát minh ra máy bay là hoàn toàn sai. Anh nhớ rằng máy bay đã có từ thời anh còn bé tí. Nhưng chứng minh thì chịu. Không thể tìm được bất kì chứng cớ nào. Chỉ một lần duy nhất anh nắm được một tài liệu chứng minh tính chất giả dối của một sự kiện lịch sử. Nhưng lần đó… “Smith”, có tiếng thét. “Số 6079, Smith W. Đúng, anh đấy! Cúi thấp nữa xuống! Anh có thể làm được mà. Anh chưa cố hết sức. Thấp nữa! Thế tốt, đồng chí! Bây giờ, tất cả nghỉ, nhìn tôi đây.” Mồ hôi đổ ướt đẫm khắp người Winston. Nhưng nét mặt thì vẫn thế, không một chút xúc động nào. Không được tỏ ra sợ hãi! Không được tỏ ra bực bội! Chỉ cần một cái chớp mắt là họ phát hiện ra ngay. Anh đứng lặng, quan sát hướng dẫn viên đưa tay lên quá đầu - không thể nói là duyên dáng, nhưng khéo léo và dứt khoát - và gập người, đưa tay chạm đất. “Làm thế đấy! Tôi muốn các đồng chí cũng làm được đúng như thế. Xem lại lần nữa này. Tôi đã ba mươi chín tuổi, bốn lần sinh nở rồi đấy. Nhìn này.”, cô ta gập người lần nữa. “Các vị xem đầu gối tôi có chùng đâu.” Vừa nói cô ta vừa đứng thẳng lên. “Tất cả những người dưới bốn lăm đều có thể đưa ngón tay chạm đất được. Không phải tất cả chúng ta đều được vinh dự chiến đấu ngoài mặt trận nhưng ít nhất chúng ta cũng phải giữ cho thân hình cân đối. Hãy nghĩ đến các chiến sĩ của chúng ta trên mặt trận Malabar! Và các thuỷ thủ trên các Pháo Đài Nổi nữa! Biết bao nhiêu khó khăn gian khổ ấy chứ. Bây giờ hãy thử lần nữa. Tốt, đồng chí, tốt lắm!” Cô ta động viên Winston trong khi anh cố gập về phía trước, gối giữ thẳng và lần đầu tiên chạm được ngón tay xuống đất. IV. Winston thường có thói quen thở dài một cách vô ý thức, dù đang đứng ngay gần màn vô tuyến, mỗi khi bắt đầu một ngày làm việc mới, rồi anh kéo cái máy ghi lại gần, thổi đám bụi bám trên micro và lấy kính ra đeo. Sau đó anh giở bốn cuộn giấy nhỏ vừa lăn từ một cái ống điều kiển bằng khí nén, nằm ở bên phải bàn làm việc, ra và ghim lại với nhau. Trên tường trong ngăn có ba cái lỗ. Ở bên phải máy ghi là ống khí nén nhỏ dùng để chuyển những tờ giấy giao nhiệm vụ và một lỗ to hơn để chuyển báo chí, còn trên bức tường bên cạnh, có thể với tay tới là một cái khe hình chữ nhật, dài, chắn lưới thép. Cái này dùng để hủy giấy. Trong tòa nhà của Bộ có hàng ngàn, có thể là hàng chục ngàn cái khe như vậy; ngăn nào cũng có đã đành, mà ngoài hành lang cứ vài bước lại có một cái. Không hiểu tại sao người ta lại gọi đấy là hang nhớ. Khi thấy một tài liệu nào đó cần phải hủy, hay khi trông thấy một mảnh giấy rơi bên cạnh thì người ta phải tự động nhặt lên, rồi thả vào cái khe gần nhất, nó sẽ bị dòng khí nóng cuộn đến những chiếc lò đốt khổng lồ nằm bí mật trong tòa nhà. Winston đọc bốn mảnh giấy mà anh vừa giở ra. Mỗi mảnh ghi một nhiệm vụ chỉ một đến hai dòng bằng tiếng lóng viết tắt – không phải Ngômo nhưng đa phần là Ngômo - thứ tiếng lóng dùng trong nội bộ. Nhiệm vụ như sau: times 17.3.84 A.C. nói tường thuật sai châu Phi chính xác hóa. times 19.12.83 kế họach quí IV 83 in sai kiểm tra hiện nay times 14.2.84 bôno trích sai chính xác hóa times 3.12.83 tường thuật nhật lệnh A.C. sai đôi nói đến không ai viết lại Winston để tờ nhiệm vụ thứ tư sang một bên. Đây là nhiệm vụ phức tạp và quan trọng, tốt nhất là làm sau cùng. Ba cái còn lại là những nhiệm vụ thường nhật, tuy cái thứ hai có thể tốn nhiều thì giờ tìm kiếm số liệu. Winston bấm trên màn vô tuyến các “số cũ” để tìm các số báo Times cần thiết và chỉ mấy phút sau ống khí nén đã chuyển đến các số báo anh cần. Nhiệm vụ của anh liên quan đến các bài báo hoặc tin tức đã đăng mà vì lí do nào đó phải sửa lại, hay nói theo ngôn ngữ chính thức là chính xác hóa. Thí dụ tờ Times ngày 17 tháng 3 tường thuật bài nói chuyện của Anh Cả ngày hôm trước, trong đó Anh tiên đoán rằng mặt trận Nam Ấn sẽ yên tĩnh, quân Eurasia sẽ tấn công trên lục địa Bắc Phi. Nhưng hóa ra Bộ Chỉ Huy Tối Cao Eurasia đã mở mặt trận ở Nam Ấn, trong khi ở Bắc Phi không hề có động tĩnh gì. Như vậy là phải viết lại một đoạn trong bài nói chuyện của Anh Cả sao cho tiên đoán của Anh phù hợp với thực tế chiến trường. Hay số ra ngày 19 tháng 12 năm 83 công bố dự báo kế hoạch sản xuất các mặt hàng tiêu dùng trong quí tư năm 83 hay quí thứ sáu của Kế Họach Ba Năm Lần Thứ Chín. Số báo ra ngày hôm nay đăng các số liệu sản xuất thực tế cho thấy dự báo là hoàn toàn sai. Winston có trách nhiệm sửa lại các số liệu ban đầu sao cho trùng khớp với số đăng hôm nay. Nhiệm vụ thứ ba cực kì đơn giản, có thể hoàn thành ngay trong một phút. Số là tháng hai vừa qua Bôno hứa (theo ngôn ngữ chính thức là long trọng cam kết) sẽ không giảm khẩu phần chocolate trong năm 1984. Nhưng thực ra, như anh đã biết, khẩu phần sẽ giảm từ ba mươi gram xuống còn hai mươi ngay cuối tuần này. Anh chỉ việc thay lời hứa ban đầu bằng thông báo rằng khẩu phần chocolate có thể bị giảm vào tháng tư là xong. Sau khi làm xong, Winston sẽ đính những tờ sửa chữa do máy ghi lại vào số báo Times phù hợp rồi đưa vào ống khí nén. Sau đó, bằng một động tác vô thức, anh vò tờ ghi nhiệm vụ cũng như tất cả những ghi chép có liên quan và vất vào hang nhớ, ngọn lửa sẽ làm phần việc còn lại. Anh không biết cụ thể công việc trong cái mê cung đằng sau những đường ống khí nén này, anh chỉ biết một cách đại khái thôi. Sau khi những hiệu chỉnh, sửa chữa cho một số báo Times nào đó đã được thu thập đủ và kiểm tra kĩ thì số báo đó sẽ được in lại, số cũ bị hủy, tờ mới in được đưa vào lưu trữ thay cho tờ cũ. Không chỉ báo mà cả sách, tạp chí, khẩu hiệu, truyền đơn, phim ảnh, đĩa ghi âm, tranh vui; tất cả các lọai hình văn học nghệ thuật và tài liệu có giá trị về chính trị hay tư tưởng đều phải cải biến như thế cả. Từng ngày, gần như từng phút, quá khứ được điều chỉnh cho phú hợp với hiện tại. Như vậy có thể chứng minh tất cả các dự đoán của Đảng đều đúng bằng giấy trắng mực đen hẳn họi; không được để lại bất kì mẩu tin hay ý kiến nào mâu thuẫn với nhu cầu của hiện tại. Lịch sử giống như được viết trên một tấm da, có thể cạo đi và viết lại bao nhiêu lần cũng được. Sau đó có tài thánh cũng không chứng minh được đấy là tài liệu giả. Trong phòng đông nhất của Ban Tài Liệu, lớn hơn phòng của Winston nhiều, có vô số người làm việc, họ chỉ có mỗi nhiệm vụ là tìm và thu thập tất cả các cuốn sách, các tờ báo và các tài liệu đã được thay thế, cần phải hủy. Nhiều số Times, do thay đổi liên kết về chính trị hay do đã đăng những tiên đoán sai lầm của Anh Cả mà phải in đi in lại, có thể cả chục lần, vẫn ghi ngày tháng cũ, được xếp trong kho lưu trữ, không có một bản phủ nhận nào tồn tại trên đời. Sách cũng được viết đi viết lại như thế mà không hề có dòng ghi chú nào về việc sửa chữa cả. Ngay cả trên những tờ hướng dẫn nhiệm vụ mà Winston nhận được mỗi ngày, anh phải hủy ngay sau khi hoàn thành công việc, cũng không có câu nào nói đến hay ngụ ý việc giả mạo: chỉ là trích dẫn sai, nhầm lẫn, in nhầm, nói nhầm cần phải sửa lại cho chính xác mà thôi. Nhưng thực ra, anh vừa sửa các số liệu của Bộ Ấm No vừa nghĩ, đây cũng không phải là giả mạo. Đơn giản chỉ là thay một tài liệu nhảm nhí này bằng một tài liệu nhảm nhí khác mà thôi. Đa số tài liệu mà người ta phải xử lí chẳng có một tí quan hệ nào với thế giới hiện thực, ngay cả quan hệ với cái thế giới giả dối này cũng không nốt. Số liệu lúc đầu cũng như số liệu đã hiệu chỉnh đều là sản phẩm của trí tưởng tượng. Thường là phải tự nghĩ ra. Thí dụ Bộ Ấm No dự kiến trong quí tư sẽ sản xuất 145 triệu đôi giày. Bây giờ người ta thông báo là đã sản xuất được 62 triệu đôi. Nhưng Winston, khi hiệu chỉnh kế hoạch, lại viết 57 triệu để có thể tuyên bố, như mọi khi, là đã hoàn thành vượt mức kế hoạch. Nhưng thực ra 62 triệu hay 57 triệu hay 145 triệu thì cũng thế mà thôi, số nào cũng gần sự thật và có thể cũng cách xa sự thật như nhau. Rất có thể là chẳng sản xuất được một đôi nào. Cũng có khả năng là chẳng ai biết đã sản xuất được bao nhiêu đôi và chủ yếu là chẳng ai cần biết làm gì. Tất cả những điều người ta biết là: quí nào cũng sản xuất được hằng hà sa số giày, nhưng có thể một nửa dân số Oceania vẫn phải đi chân đất. Mọi tài liệu, từ lớn chí bé, đều như thế hết. Trong cái thế giới huyễn hoặc này tất cả mọi thứ đều trở nên mờ ảo và cuối cùng đến ngay ngày tháng cũng không làm sao xác định được nữa. Winston nhìn sang ngăn bên kia hành lang. Một người đàn ông dáng nhỏ bé, nghiêm cẩn, cằm lún phún râu tên là Tillotson đang chăm chú vào công việc, tờ báo mở rộng đặt trên đầu gối, miệng gí sát vào máy ghi. Anh ta làm ra vẻ bí mật, những lời anh ta nói không thể lọt ra ngoài, chỉ một mình cái máy ghi nghe được mà thôi. Anh ta bỗng ngẩng đầu lên, đôi kính loé lên môt luồng ánh sáng thù địch hướng thẳng vào Winston. Winston gần như không quen Tilloton và cũng không biết anh ta làm gì. Người của Phòng Tài Liệu thường không thích nói về công việc của mình. Đấy là một phòng dài, không cửa sổ, trong đó có hai dãy buồng ngăn nhỏ luôn luôn có tiếng lật giấy sột soạt, tiếng thì thầm đọc vào máy ghi là khoảng một tá nhân viên mà Winston vẫn trông thấy đi qua đi lại trong hành lang và vung tay múa chân trong Hai Phút Hận Thù nhưng không biết tên. Anh biết trong ngăn bên cạnh có người phụ nữ nhỏ nhắn, tóc hung, suốt ngày này sang ngày khác bà ta chỉ có một nhiệm vụ là tìm và xóa tên những người đã bị bốc hơi nghĩa là những người được coi là chưa từng có mặt trên cõi đời này. Về một khía cạnh nào đó thì công việc này phù hợp với bà ta vì chính chồng bà cũng bị bốc hơi khoảng hai năm về trước. Cách chỗ anh mấy ngăn là một người hoà nhã, bất lực, mơ mộng, tên là Ampleforth có tài là viết những bài ngắn, có vần điệu chuyên làm những bài vè xuyên tạc, được gọi là thơ, những bài hơi có vấn đề về mặt tư tưởng nhưng không thể loại khỏi các tuyển tập văn học. Nhưng cái phòng này với khoảng năm mươi hay gần năm mươi nhân viên cũng mới chỉ là một tiểu ban, một tế bào trong cái cơ thể phức tạp là Phòng tài Liệu mà thôi. Đằng kia, bên trên, bên dưới là rất nhiều người đang tham gia giải quyết hàng núi công việc. Có những xưởng in lớn với các biên tập viên riêng, chuyên gia in ấn riêng và cả những phòng trang bị tối tân để làm tranh ảnh giả. Có cả phòng chương trình vô tuyến với các kĩ sư, đạo diễn và các nhóm diễn viên chuyên giả giọng người khác nữa. Có một đội quân đông đảo các thư kí có nhiệm vụ liệt kê các cuốn sách và các ấn phẩm định kì cần kiểm tra. Ngoài ra còn có những kho cực kì lớn lưu trữ các tài liệu đã được sửa chữa và những lò đốt bí mật chuyên thiêu hủy các văn bản gốc nữa. Và ở đâu đó, không ai biết ở đâu, là bộ óc, là cơ quan lãnh đạo chuyên soạn thảo đường lối nói rằng phần này của quá khứ phải được giữ, phần này phải làm giả, phần này thì xoá sổ hoàn toàn. Thế mà Ban Tài Liệu cũng chỉ là một nhánh của Bộ Sự Thật thôi, nhiệm vụ chủ yếu của Bộ không phải là tái tạo quá khứ mà là cung cấp cho các công dân Oceania sách báo, phim ảnh, sách giáo khoa, chương trình truyền hình, kịch nghệ, tiểu thuyết nghĩa là tất cả các loại thông tin, hướng dẫn hoặc giải trí, từ một bức tượng cho đến khẩu hiệu chính trị, từ một bài thơ cho đến luận thuyết sinh học, từ cuốn sách dạy đánh vần cho đến cuốn từ điển Ngômo. Bộ không chỉ có nhiệm vụ thoả mãn các nhu cầu rất đa dạng của Đảng mà còn làm ra các sản phẩm tương tự, tất nhiên là loại hai, cho nhu cầu của bọn cu li nữa. Có một loạt phòng ban chuyên về văn chương, nhạc, kịch và các trò giải trí khác cho bọn cu li. Các phòng ban này in những tờ báo nhảm nhí chuyên về thể thao, tội phạm, thuật chiêm tinh, tiểu thuyết tình cảm lãng mãn giá năm xu, sản xuất các phim đầy cảnh làm tình, những bài hát uỷ mị được những máy gọi là máy chế thơ viết. Có cả một tiểu ban gọi theo Ngômo là Phimheo chuyên sản xuất các loại phim ảnh khiêu dâm hạ đẳng, các phim này được đóng gói kĩ rồi mới chuyển ra ngoài, các đảng viên bên ngoài các phòng chuyên trách bị cấm tuyệt đối không được xem những phim kiểu đó. Trong khi Winston làm thì lại có thêm ba tờ giấy ghi nhiệm vụ nữa được ống khí nén mang tới, nhưng đây là những việc dễ nên anh đã hoàn thành xong trước khi tham gia Hai Phút Hận Thù. Sau đó anh quay lại ngăn và lấy cuốn từ điển Ngômo từ trên giá sách xuống, anh đặt cái máy ghi sang một bên, đem kính ra lau và bắt đầu giải quyết nhiệm vụ chính của ngày hôm đó. Thú vui lớn nhất trong đời Winston chính là công việc. Đa phần công việc dĩ nhiên là những chuyện thường nhật chán ngắt, nhưng đôi khi cũng có những việc khó và phức tạp phải dành toàn tâm toàn ý thì mới làm được, giống như giải một bài toán khó vậy, đấy là những vụ giả mạo mà muốn thực hiện thì phải nắm vững các nguyên tắc của Chuanh cũng như phải đánh giá đúng thái độ của Đảng về vấn đề đó nữa, nói nôm na là Đảng thích nghe gì. Ba cái vụ này thì Winston khá rành. Đôi khi anh còn được giao nhiệm vụ chữa cả những bai xã luận viết hoàn toàn bằng Ngômo trên tờ Times nữa cơ. Anh mở tờ giấy giao nhiệm vụ mà lúc sáng anh đã xếp sang bên cạnh: times 3.12.83 tường thuật nhật lệnh A.C. sai đôi nói đến không ai viết lại Theo ngôn ngữ cũ (tiếng Anh chuẩn) thì nội dung đại khái như sau: Times, Số ra ngày 3 tháng 12 năm 1983 đã tường thuật sai nghiêm trọng nhật lệnh của Anh Cả, trong đó có nhắc tới những người không hề tồn tại. Viết lại toàn bộ rồi trình cho cấp trên trước khi đưa vào lưu trữ. Winston đọc lại bài báo sai lầm. Toàn bộ nhật lệnh của Anh Cả ngày hôm đó là để ca ngợi một tổ chức gọi là FFCC chuyên cung cấp thuốc lá và các vật dụng khác cho thuỷ thủ trên các Pháo Đài Nổi. Bản nhật lệnh đặc biệt khen ngợi một đồng chí tên là Wither, nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Nội Bộ, dịp này đồng chí được tặng Huân Chương Chiến Công hạng II. Ba tháng sau FFCC bị giải tán một cách bất thình lình, không thấy một lí do nào được đưa ra cả. Wither và các cộng sự bị thất sủng mặc dù báo chí hay màn vô tuyến không đả động gì đến chuyện này. Cũng là việc bình thường vì những nhà hoạt động chính trị thất sủng thường ít khi bị đưa ra toà hay lên án công khai. Các cuộc thanh trừng hàng loạt, đụng chạm đến hàng ngàn người, các phiên toà xét xử công khai những tên phản bội và tội phạm tư tưởng với những lời thú tội đáng khinh và sau đó bị đem đi hành quyết là những vụ mẫu, vài năm mới có một lần. Những người không được lòng Đảng thường là biến mất một cách bí hiểm, không còn có ai nghe nói đến họ nữa. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với họ. Có thể một số người vẫn còn sống. Chừng ba mươi người quen của Winston, chưa kể bố mẹ anh, đã biến mất như thế trong những khoảng thời gian khác nhau. Winston lấy cái kẹp giấy gãi mũi. Phía bên kia, đồng chí Tillotson vẫn tiếp tục bí mật đọc vào micro của cái máy ghi. Anh ta ngẩng đầu lên: đôi mắt kính lại phát ra một luồng ánh sáng thù địch. Winston tự hỏi không biết đồng chí Tillotson có làm cùng công việc như mình không. Hoàn toàn có thể như thế. Không bao giờ người ta giao công việc tế nhị cỡ này cho một người duy nhất, nhưng mặt khác, nếu giao cho một ủy ban thì lại có nghĩa là công nhận có sự giả mạo. Rất có khả năng là có đến cả chục người đang đua nhau chấp bút cho bài diễn văn giả định của Anh Cả. Sau đó một cán bộ lãnh đạo trong Đảng Nội Bộ sẽ chọn phương án thích hợp, sẽ hiệu đính lại rồi đưa cho rất nhiều người khác tham khảo, cuối cùng điều bịa đặt đó sẽ được chuyển vào kho lư trữ và trở thành sự thật. Winston không biết vì sao Wither bị thất sủng. Có thể là do tham nhũng, cũng có thể là do thiếu hiệu năng. Cũng có thể là Anh Cả thấy cần phải loại bỏ một cộng sự đã trở nên quá nổi tiếng. Cũng có thể là Wither hay một người gần gũi nào đó của ông bị nghi là đã đi chệch đường lối chung. Mà có nhiều khả năng là thanh trừng và bốc hơi là một phần không thể thiếu của bộ máy cai trị. Đầu mối duy nhất nằm trong cụm từ "nói đến không ai", chứng tỏ Wither đã chết. Bị bắt không phải lúc nào cũng có nghĩa là sẽ bị giết ngay. Đôi khi những người bị bắt cũng được thả cho tự do khoảng một hai năm rồi mới bị đem đi hành quyết. Đôi khi có người tưởng là đã chết từ lâu lại hiện lên như một con ma trong một phiên tòa công khai, hắn thú nhận tội lỗi liên quan đến hàng trăm người, sau đó mới biến mất, lần này thì vĩnh viễn. Nhưng Wither đã là "không ai". Ông ta không tồn tại nữa, ông ta chưa bao giờ tồn tại cả. Winston cho rằng sửa lại bài diễn văn của Anh Cả thôi chưa đủ. Tốt nhất là viết một bài hoàn toàn khác với đề tài ban đầu. Anh có thể viết một bài diễn văn vạch trần những tên phản bội và những tên tội phạm tư tưởng, chuyện đó không có gì mới; còn việc sáng tác ra một chiến thắng trên mặt trận hay hoàn thành vượt mức Kế Hoạch Ba Năm Lần Thứ Chín lại làm cho tài liệu thành phức tạp hơn rất nhiều. Tốt nhất là một câu chuyện bịa đặt hoàn toàn. Bất ngờ trong đầu anh hiện lên, một cách sống động, y như thật, hình ảnh đồng chí Ogilvy, người chiến sĩ vừa hi sinh anh dũng trên mặt trận. Đôi khi Anh Cả cũng công bố nhật lệnh ca ngợi một đảng viên bình thường và nhấn mạnh rằng cuộc đời và sự hi sinh của người đó là một tấm gương cho toàn dân noi theo. Hôm nay anh sẽ nói về đồng chí Ogilvy. Thực ra chưa từng có người nào tên là Ogilvy cả, nhưng chỉ cần bịa ra vài dòng kèm mấy tấm ảnh giả là xong. Winston suy nghĩ một lúc rồi kéo cái máy ghi lại gần và đọc, theo đúng kiểu của Anh Cả: dứt khoát và phô trương, bằng cách đặt những câu hỏi và lập tức trả lời ("Chúng ta rút ra được bài học gì từ sự kiện vừa nêu, thưa các đồng chí? Bài học, đồng thời cũng là nguyên lí cơ bản của Chuanh, là…v…v..) dễ bắt chước lắm. Ngay từ năm lên ba đồng chí Ogilvy đã chỉ thích chơi với súng, trống và máy bay lên thẳng. Năm lên sáu, nghĩa là sớm hơn qui định một năm, đây là trường hợp đặc biệt, đồng chí được kết nạp vào đội Tình Báo và lên chín tuổi thì trở thành trung đội trưởng. Năm mười một tuổi đồng chí đã báo cáo với Cảnh Sát Tư Tưởng về những lời phát biểu mà đồng chí cho là sai trái của bác mình. Năm mười bảy tuổi đồng chí trở thành chủ tịch Hội Thanh Niên Chống Tình Dục huyện. Năm mười chín tuổi đồng chí đã thiết kế được một loại lựu đạn được Bộ Hoà Bình chấp nhận và ngay lần thử đầu tiên đã giết chết ba mươi mốt tên tù binh Eurasia. Đồng chí đã hi sinh khi vừa tròn hai mươi ba tuổi. Khi đó đồng chí đang bay trên Ấn Độ Dương, mang theo những tin tức cực kì quan trọng, thì bị máy bay địch tấn công, đồng chí đã buộc một khẩu súng máy vào mình và nhảy ra khỏi máy bay và chìm xuống đáy biển cũng với tin mật, không để lọt vào tay địch, chúng ta, Anh Cả nói, cảm phục tinh thần hi sinh của đồng chí. Anh Cả nói cuộc đời của đồng chí Ogilvy rất trong sáng và được dành trọn cho lí tưởng. Đồng chí Ogilvy không uống rượu, không hút thuốc, không biết một thú vui nào khác ngoài việc luyện tập trong khu thể thao, đồng chí cho rằng gia đình sẽ là trở ngại đối với công tác mà đồng chí sẵn sàng phục vụ hai mươi bốn giờ mỗi ngày cho nên đồng chí đã thề sẽ không lấy vợ. Đồng chí không biết đến đề tài nói chuyện nào khác ngoài các nguyên lí của Chuanh, không có mục đích nào khác ngoài mục đích tiêu diệt quân Eurasia, săn lùng những tên gián điệp, những tên phá hoại, những tên tội phạm tư tưởng và nói chung là những tên phản bội. Winston cứ suy nghĩ mãi về việc có nên thưởng cho đồng chí Ogilvy Huân Chương Chiến Công hay không, nhưng cuối cùng quyết định không thưởng bởi vì thưởng sẽ kéo theo nhiều rắc rối, phải đối chiếu với nhiều tài liệu khác nữa. Anh lại nhìn sang phía đối thủ. Không hiểu sao anh tin rằng Tillotson cũng đang làm công việc giống hệt như mình. Không thể nào biết được cuối cùng bài nào sẽ được chấp nhận, nhưng anh tin tưởng tuyệt đối rằng đấy là bài của anh. Trước đây một giờ chưa có đồng chí Ogilvy, nhưng nay đồng chí đã là một thực thể. Điều làm Winston ấn tượng nhất là có thể tạo ra người chết chứ không thể tạo ra được người sống. Đồng chí Ogilvy chưa từng sống trong thời hiện tại, nhưng nay đã sống trong thời quá khứ và khi hành động giả mạo này bị lãng quên thì anh ta sẽ sống một các chân xác và không thể nào phủ nhận được, giống như Charlemagne [1] hay Julius Ceasar [2] vậy. V. Trong cái căng-tin thấp tè nằm sâu dưới lòng đất, dòng người xếp hàng ăn trưa chầm chậm nhích dần từng bước. Phòng ăn đầy người và ồn ào kinh khủng. Mùi thịt hầm bốc ra từ cái bếp phía sau quầy cộng với mùi han đồng chua chua cũng không át nổi mùi rượu Gin Chiến Thắng. Ở phía cuối căn phòng có một quầy bán rượu, trông gần như một cái hốc xây lọt vào tường, có bán loại rượu này, mười xu một li. “Đúng là người tôi đang cần”, có tiếng nói ngay phía sau Winston. Anh quay lại. Đấy là Syme, bạn anh, đang làm trong Ban Nghiên Cứu. Có thể từ "bạn” không được chính xác lắm. Bây giờ không ai có bạn, bây giờ chỉ có đồng chí: nhưng tiếp xúc với một số đồng chí thấy dễ chịu hơn một số đồng chí khác. Syme là một nhà ngôn ngữ học, chuyên gia về Ngômo. Anh tham gia trong một nhóm rất đông chuyên gia biên tập Lần In Thứ Mười Một cuốn Từ Điển Ngômo. Anh là một người nhỏ bé, nhỏ hơn cả Winston, tóc đen, mắt vừa to vừa lồi, đượm buồn và đầy vẻ nhạo báng nên khi nói chuyện cứ như đang nhìn xoáy vào người ta vậy. “Tớ muốn hỏi cậu có lưỡi dao cạo râu nào không?”, anh ta nói. “Không!”, Winston vội đáp như người mắc lỗi. “Tớ đã tìm khắp. Không đâu có cả.” Ai cũng hỏi dao cạo râu. Thực ra anh vẫn còn hai cái dự trữ. Đã mấy tháng nay không có dao cạo râu rồi. Trong các cửa hàng của Đảng lúc nào cũng thiếu hụt, không thứ này thì thứ kia. Khi thì cúc, khi thì chỉ, khi thì dây giày còn bây giờ là dao cạo. Chỉ có thể mua một cách lén lút, đấy là nếu may mà gặp, ở thị trường "tự do". “Tớ dùng có một cái đã sáu tuần nay rồi”, anh nói dối. Hàng người chuyển dần lên phía trước. Mỗi người nhặt một chiếc mâm sắt dính đầy mỡ xếp chồng lên nhau ở phía cuối quầy hàng. “Hôm qua cậu có đi xem treo cổ bọn tù binh không?”, Syme hỏi. “Tớ phải làm”, Winston đáp. “Chắc là tớ sẽ xem trong rạp.” “Phí của giời”, Syme nói. Đôi mắt đầy vẻ nhạo báng của anh ta lướt qua mặt Winston. "Tôi biết" - ánh mắt dường như muốn nói - "Tôi đã đi guốc trong bụng anh rồi. Tôi biết rõ vì sao anh không đi xem treo cổ bọn tù binh rồi". Syme là một người chính thống cực đoan nhất, theo kiểu tri thức. Anh có thể kể lại với giọng hể hả đầy phản cảm về những vụ oanh kích bằng máy bay trực thăng vào làng mạc của kẻ thù, những phiên toà xét xử và những lời thú tội của bọn tội phạm tư tưởng, những vụ hành quyết dưới tầng hầm Bộ Tình Yêu. Khi đàm đạo phải cố gắng tránh những đề tài này và nếu có thể được thì lái về chuyện Ngômo, lĩnh vực anh ta thông thạo và tỏ ra rât hấp dẫn. Winston khẽ quay đầu sang bên để tránh cặp mắt đen to đang chăm chú nhìn mình. “Vụ hành quyết phải nói là đẹp”, Syme nói đầy vẻ mộng mơ. “Khi thấy họ trói chân chúng lại tớ đã nghĩ thế thì mất thú. Tớ thích xem chúng giẫy giụa cơ. Nhưng khoái nhất là đoạn cuối, lưỡi thè ra, màu xanh, xanh lè. Tớ thích cảnh đó nhất.” “Tiếp theo, xin mời”, một mụ cu li mặc áo choàng trắng, tay cầm một cái thìa hét toáng lên. Winston và Syme cùng đưa mâm ra. Cả hai được nhận ngay suất ăn trưa: một bát thịt hầm, một lát bánh mì, một miếng phó mát, một tách cà phê Chiến Thắng và một viên đường hoá học. “Có cái bàn trống ở gần màn vô tuyến kìa.”, Syme nói. “Tiện thể lấy luôn li Gin.” Gin được rót vào cốc sứ không có tay cầm. Hai người lách qua căn phòng chật cứng, họ xếp đồ ăn lên cái bàn sắt, ở một góc bàn có ít nước sốt đổ, trông bẩn như có người vừa nôn ra vậy. Winston cầm cốc rượu Gin lên, nhưng anh dừng lại vài giây để lấy đà và uống một hơi cạn hết cốc rượu ngầy ngậy mùi dầu thực vật. Anh lấy tay chùi nước mắt và bỗng nhận thấy là rất đói. Anh nuốt từng thìa đầy nước sốt trong đó thỉnh thoảng cũng thấy những cục vuông vuông mềm nhũn, màu hồng, có thể là thịt. Không ai nói câu nào trước khi ăn hết bát thịt hầm. Phía sau, bên trái Winston một người nào đó đang xổ từng tràng, không ngưng nghỉ, giọng như vịt kêu, át cả tiếng ồn xung quanh. “Cuốn từ điển đến đâu rồi”, Winston phải nói to để át tiếng ồn. Hơi chậm”, Syme nói. “Tớ đang làm phần tính từ. Hấp dẫn lắm.” Vừa nói đến Ngômo là anh sôi nổi lên ngay. Đẩy cái bát sang một bên, một tay cầm bánh mì một tay cầm miếng pho mát, anh nhoài người qua bàn để có thể nói mà không cần lên giọng. “Lần in thứ mười một là lần cuối cùng đấy”, anh nói. “Chúng tớ sẽ tạo cho ngôn ngữ một hình thức hoàn hảo nhất, một hình thức mà sau đó không còn ai có thể nói gì được nữa. Khi chúng tớ hoàn thành thì những người như cậu sẽ phải học lại toàn bộ từ đầu. Các vị nghĩ rằng nhiệm vụ của chúng tớ là nghĩ ra từ mới chứ gì. Sai bét! Chúng tớ đang phá hủy từ ngữ, phá hủy rất nhiều, hàng trăm từ mỗi ngày. Chỉ để lại bộ khung thôi. Không có một từ nào trong lần xuất bản thứ mười một là bị lỗi thời trước năm 2050.” Anh ta nhai nhồm nhoàm mẩu bánh mì rồi nuốt và lại tiếp tục câu chuyện một cách phô trương. Khuôn mặt xương xương của anh trở nên sống động, cặp mắt hết vẻ nhạo báng mà trở thành mơ màng. “Phá hủy từ ngữ là một công việc tuyệt vời. Tất nhiên rác rưởi chủ yếu là ở động từ và tính từ, nhưng danh từ cũng thừa nhiều lắm, phải nói là hàng trăm thậm chí hàng ngàn. Không chỉ danh từ đồng nghĩa mà cả phản nghĩa cũng thừa. Đã có một từ rồi thì thử hỏi từ ngược nghĩa với nó còn dùng để làm gì? Một từ bản thân nó đã có nghĩa ngược lại rồi. Thí dụ từ "tốt". Nếu ta đã có từ "tốt" thì từ "xấu" dùng để làm gì? "Không tốt" cũng vậy thôi, mà lại còn hơn vì nó ngược nghĩa hoàn toàn trong khi các từ khác đâu có được như thế. Nếu anh muốn nhấn mạnh "tốt" thì cần gì đến một dãy những từ mù mờ, vô ích như kiểu "tuyệt vời", "tuyệt hảo"? Từ "tốt cộng" bao hàm tất cả các nghĩa đó hoặc dùng từ "cặp tốt cộng" để nhấn thêm nữa. Tất nhiên hiện nay chúng ta cũng đã sử dụng những hình thức này rồi, nhưng trong phương án mới của Ngômo thì các hình thức khác sẽ bị loại bỏ hoàn toàn. Cuối cùng toàn bộ khái niệm tốt và xấu sẽ được thể hiện bằng sáu từ, nhưng thực chất là chỉ có một từ thôi. Winston, cậu có thấy như vậy là hoàn hảo không? Ý tưởng này là của Anh Cả đấy. "Anh ta vội vã nói thêm. Vừa nghe nhắc đến tên anh cả là mặt Winston vội tỏ vẻ hào hứng một cách uể oải. Nhưng Syme đã nhận ra ngay sự thiếu nhiệt tình của anh. “Winston, cậu đánh giá chưa đúng Ngômo đâu”, Syme nói vẻ hơi buồn. “Ngay lúc viết bằng Ngômo, cậu vẫn suy nghĩ bằng Ngôn ngữ cũ. Đôi khi tớ có đọc những bài cậu viết trên tờ Times. Hay thì có hay đấy, nhưng vẫn là những bản dịch. Trong thâm tâm cậu vẫn bám vào Ngôn ngữ cũ với tất cả những sắc thái mù mờ và vô ích của nó. Cậu chưa nhận thấy cái đẹp trong việc phá huỷ ngôn từ đâu. Cậu có biết rằng Ngômo là ngôn ngữ duy nhất trên thế giới có số từ vựng giảm hàng năm không? Dĩ nhiên là Winston không biết. Anh mỉm cười, cố tỏ vẻ đồng tình nhưng không dám mở miệng. Syme lại cắn một miếng bánh mì đen nữa, anh trệu trạo nhai rồi nói tiếp: “Chả lẽ cậu không biết rằng nhiệm vụ của Ngômo là thu hẹp không gian tư duy lại hay sao? Cuối cùng chúng ta sẽ tiêu diệt luôn tội tư tưởng vì không còn từ nào để thể hiện tội đó nữa. Mỗi một khái niệm cần thiết sẽ được thể hiện bởi một từ duy nhất, ý nghĩa của mỗi từ sẽ được qui định chặt chẽ, các nghĩa phụ, đi kèm sẽ bị huỷ bỏ và người ta sẽ quên. Chúng ta đã tiến gần đến mục đích này trong lần xuất bản thứ mười một tới đây. Nhưng tiến trình sẽ còn được tiếp tục sau khi tôi và anh đã chết lâu rồi. Mỗi năm lại giảm đi một ít từ và không gian tư duy vì thế cũng thu hẹp dần. Dĩ nhiên lúc này thì không có lí do hay sự bào chữa nào cho tội tư tưởng cả. Đấy chỉ là vấn đề tự mình chấp hành kỉ luật và làm chủ hiện thực mà thôi. Nhưng cuối cùng thì ngay cả điều đó cũng không cần thiết nữa. Cách mạng sẽ hoàn thành khi ngôn ngữ đã hoàn thiện. Ngômo là Chuanh và Chuanh là Ngômo”, anh nói thêm với một vẻ thoả mãn thần bí. “Winston, bạn có bao giờ nghĩ rằng muộn nhất là đến năm 2050 trên trái đất này sẽ không còn ai hiểu được câu chuyện chúng ta đang nói hôm nay không?” “Trừ”, Winston nói đầy ngờ vực nhưng rồi lại thôi. Chút nữa thì anh đã thốt ra: "Trừ bọn cu li" nhưng kịp dừng lại đúng lúc vì anh không biết nói như thế có phải là phi chính thống không. Nhưng Syme đã đoán được ý anh. “Bọn cu li không phải là người”, anh nói vẻ ngạo mạn. “Trước năm 2050, có thể sớm hơn nữa, mọi kiến thức về Ngôn ngữ cũ sẽ bị xoá sạch. Toàn bộ nền văn chương cũ sẽ bị hủy bỏ. Tác phẩm của Chaucer [3] , của Shakespeare [4] , của Milton [5] , của Byron [6] sẽ chỉ còn trong phiên bản của Ngômo mà thôi, không phải chúng được cải biến thành những phiên bản khác mà là thành những tác phẩm hoàn toàn ngược lại với những cái đã từng là. Ngay văn chương của Đảng cũng sẽ biến đổi. Khẩu hiệu cũng đổi. Làm gì còn khẩu hiệu "Tự do là nô lệ" khi khái niệm tự do đã bị bãi bỏ? Môi trường tư duy sẽ hoàn toàn khác. Tư duy, như chúng ta vẫn hiểu hiện nay sẽ không còn. Chính thống là không suy nghĩ, không cần suy nghĩ. Chính thống là vô thức.” Một ngày nào đó, Winston bất chợt nghĩ, Syme sẽ bị bốc hơi. Anh ta thông minh quá. Anh ta hiểu rõ mọi việc và lại thẳng ruột ngựa nữa. Đảng không ưa mẫu người như vậy. Anh ta nhất định sẽ bị bốc hơi. Câu đó như được viết trên mặt anh ta. Winston đã ăn xong bánh mì và pho mát. Anh khẽ nghiêng người để lấy li cà phê. Ở bàn bên trái người đàn ông nọ vẫn tiếp tục tuôn ra hàng tràng liên thanh bằng giọng chói tai như cũ. Một phụ nữ trẻ, có thể là thư kí của người đàn ông nọ, ngồi ngay sau Winston, chăm chú lắng nghe ông ta và có vẻ như sẵn sàng đồng ý với tất cả những gì ông ta nói. Chốc chốc Winston lại loáng thoáng nghe thấy một giọng phụ nữ trẻ, có vẻ đần nói những câu đại loại như: "Đúng quá, tôi cũng nghĩ vậy". Nhưng người đàn ông vẫn nói, không ngừng nghỉ, ngay cả khi cô gái kia ngắt lời. Winston đã từng gặp ông ta, nhưng anh chỉ biết đại khái là ông ta giữ một chức vụ quan trọng trong Ban Sáng Tác. Ông ta khoảng ba mươi tuổi, cổ đầy bắp thịt, miệng rộng và không bao giờ yên. Đầu ông ta hơi ngả ra sau, cặp kính phản chiếu ánh sáng vế phía Winston nên anh chỉ nhìn thấy hai vòng tròn trắng chứ không nhìn thấy mắt. Cái gây cho người ta cảm giác rờn rợn chính là không thể nghe rõ được một từ nào trong mớ âm thanh đang tuôn ra liên hồi kì trận từ cái miệng rộng của người đàn ông nọ. Chỉ có một lần Winston nghe thấy câu: "Tiêu diệt hết và hoàn toàn phái Goldstein", câu nói bắn ra nhanh gọn, như một hàng chữ bật ra từ máy in. Còn nói chung thì giống như một tiếng ồn liên tục, như tiếng đàn vịt kêu: cạc-cạc-cạc bất tận. Và tuy không nghe rõ người ta vẫn có thể đoán được nội dung câu chuyện của người đàn ông. Dù là ông ta có lên án Goldstein, dù là ông ta có đòi phải áp dụng các biện pháp cứng rắn chống lại bọn tội phạm tư tưởng và bọn phá hoại, dù ông ta có tỏ ý bất bình với những hành động dã man của quân Eurasia; dù ông ta có ca ngợi Anh Cả hay các chiến sĩ trên mặt trận Malabar, thì cũng thế mà thôi. Dù nói gì thì đấy vẫn chỉ là tuyệt đối chính thống, tuyệt đối Chuanh. Nhìn cái miệng liên tục há ra ngậm vào trên khuôn mặt không có mắt của ông ta, Winston bỗng nghĩ hay đây không phải là người thật mà chỉ là một manơcanh thôi. Những câu nói không xuất phát từ óc não mà xuất phát từ thanh quản. Đúng là từ ngữ chui ra khỏi miệng, nhưng đấy không phải là nói, theo đúng nghĩa của từ này: đấy chỉ là âm thanh sinh ra trong vô thức, chả khác gì tiếng quạc quạc của bầy vịt. Syme ngồi yên lặng, anh lấy cán thìa vẽ lên chỗ nước sốt đổ trên mặt bàn. Tiếng quạc-quạc ở bàn bên vẫn phun ra liên tục và nhanh như cũ, người ta dễ dàng phân biệt được nó với tiếng ồn ào xung quanh. “Có một từ trong Ngômo”, Syme nói. “Không hiểu cậu đã biết chưa: vịtngữ, nghĩa là kêu quạc quạc như vịt. Đấy là một trong những từ thú vị, có hai nghĩa trái ngược nhau. Với địch thủ thì đấy là lời chửi rủa, nhưng với đồng chí thì lại là ngợi ca.” Chắc chắn là Syme sẽ bốc hơi thôi, Winston lại nghĩ. Anh cảm thấy hơi buồn mặc dù biết rằng Syme coi thường mình, chẳng ưa gì mình và nếu phát giác ra thì sẽ tố cáo anh là tội phạm tư tưởng ngay. Syme có phần chưa thật hoàn toàn. Anh bị thiếu một cái gì đó: có thể là sự thận trọng hay sự lãnh đạm mà cũng có thể là sự khù khờ để được thánh nhân đãi chăng. Không thể bảo là anh ta phi chính thống. Anh tin tưởng vào các nguyên lí của Chuanh, kính yêu Anh Cả, vui mừng với mỗi chiến thắng, anh căm thù bọn tội phạm tư tưởng, không những căm thù một cách chân thành mà còn với lòng nhiệt tình vô bờ bến nữa, lại còn nắm được những tin tức mới nhất mà không phải đảng viên nào cũng có quyền biết. Nhưng nhìn anh người ta sẽ nghĩ ngay đây là một kẻ bất hảo. Anh nói những chuyện đáng lẽ không nên nói, anh đọc rất nhiều sách, lại hay ghé quán cà phê Cây Dẻ là chỗ tụ bạ của bọn nhạc sĩ và họa sĩ nữa. Không có điều luật thành văn hay bất thành văn nào cấm vào quán Cây Dẻ nhưng chỗ đó như có điềm gở thế nào ấy. Trước đây các đảng viên già, thất sủng thường tụ tập ở đó, cuối cùng họ đã bị thanh trừng. Nghe nói Goldstein cũng thường đến đây, lâu rồi, có thể cả chục năm rồi, dĩ nhiên. Số phận của Syme không phải là việc khó đoán. Nhưng có một điều chắc chắn là nếu Syme phát hiện được quan điểm của Winston thì anh ta sẽ báo cáo với Cảnh Sát Tư Tưởng ngay. Ai cũng sẽ làm thế: nhưng Syme làm nhanh hơn nhiều người khác. Lòng nhiệt tình không chưa đủ. Chính thống là trạng thái vô thức. Syme bỗng ngẩng đầu lên. “Parsons đang tới kìa”, anh nói. Giọng của anh như muốn thêm: "một thằng ngốc chán ngắt". Parsons, một người thấp và béo phệ, mặt như mặt ếch, hàng xóm cùng chung cư Chiến Thắng với Winston, đang lách qua căn phòng. Anh ta mới có ba mươi lăm tuổi nhưng cổ đã bự và bụng thì núc ních những mỡ, tuy thế dáng đi dứt khoát và nhanh nhẹn không khác gì thanh niên. Anh ta có dáng của một đứa trẻ, cho nên mặc dù anh ta mặc đồng phục nhưng vẫn có thể tưởng tượng như anh ta đang mặc quần sọc xanh, áo sơ mi xám, cổ đeo khăn quàng đỏ của đội viện đội Tình Báo. Nhắm mắt lại ta có thể tưởng tượng ra hai đầu gối xù xì và hai ống tay áo sắn đến tận khuỷu của anh ta. Thực ra Parsons luôn luôn vận quần sóoc khi đi dã ngoại hay tham gia các hoạt động thể thao nghĩa là mặc ngay khi hoàn cảnh cho phép. Anh ta nói : "Xin chào, xin chào" với cả hai người rồi ngồi xuống cạnh bàn, mùi mồ hôi nồng nặc lập tức bao trùm khắp nơi. Khuôn mặt anh bám đầy những giọt mồ hôi to bự. Khả năng ra mồ hôi của Parsons quả là vô địch. Ở câu lạc bộ, chỉ cần cầm vào vợt, thấy còn ướt, là có thể đoán Parsons đã chơi bóng bàn trước đó bao lâu. Syme lôi ra một mảnh giấy đầy chữ và đọc, tay cầm sẵn một chiếc bút chì hoá học. “Xem này, ăn cũng không nghỉ”, vừa nói Parsons vừa thúc vào sườn Winston. “Say mê quá? Việc gì đấy, anh bạn? Tớ thì hiểu sao nổi, đúng không? Smith, có biết tại sao tớ phải tìm cậu không? Cậu quên đóng cho tôi.” “Đóng gì?”, Winston vừa nói vừa đưa tay vào túi lấy tiền. Khoảng một phần tư tiền lương được dùng vào việc tự nguyện mua đủ thứ, nhiều thứ đến nỗi chẳng thể nhớ xuể. “Tuần lễ Hận Thù. Cậu biết đấy, đóng theo khu dân cư mà. Tớ là thủ quỹ khu nhà mình. Chúng tớ đang cố hết sức để làm một buổi lễ cho ra trò. Nếu chung cư Chiến Thắng không treo được lá cờ to nhất khu phố thì cũng không phải lỗi của tớ đâu đấy. Cậu hứa nộp hai dollar mà.” Winston lấy hai tờ tiền nhàu nát, nhớp mỡ đưa cho Parson. Anh ta liền ghi bằng những nét chữ nắn nót của một người ít học tên Winston vào cuốn sổ tay. “Tiện đây”, Parsons lại nói. “Tớ nghe nói thằng nhóc nhà này hôm qua đã bắn vào cậu. Tớ đã mắng cho một trận ra trò. Tờ còn dọa là nếu còn thế sẽ bị tịch thu súng cao su đấy. “Mình nghĩ cu cậu bực vì không được đưa đi xem hành quyết thôi”, Winston đáp. “Vâng, tớ muốn nói thằng bé được lắm. Cả hai đứa đều nghịch khủng khiếp, nhưng say mê thì không chê vào đâu được! Chúng chỉ quan tâm tới đội Tình Báo và chiến tranh thôi. Các anh có biết con nhỏ nhà tôi đã làm được chuyện gì thứ bảy tuần rồi không? Chúng đi dã ngoại ở Berkhamsted, thế mà con bé kéo hai đứa con gái nữa theo dõi một người lạ mặt suốt một buổi chiều. Chúng theo dõi người này qua hết khu rừng, hai tiếng đồng hồ liền và khi đến Amersham thì giao cho đội tuần tra. “Vì sao chúng lại làm thế?”, Winston vội vã hỏi. “Con bé ngờ rằng hắn ta là gián điệp, mới xâm nhập bằng cách nhảy dù chẳng hạn. Nhưng cái chính là thế này. Các anh thử nghĩ xem vì sao con bé lại nghi ngờ người đó? Hoá ra là tại đôi giày, con bé nói chưa thấy đôi giày như vậy bao giờ. Có nhiều khả năng hắn là người ngoại quốc. Mới bảy tuổi thôi đấy, nhanh trí không?” “Thế rồi sao?”, Winston lại hỏi. “Tớ không biết. Nhưng tớ sẽ không ngạc nhiên nếu…”, vừa nói Parsons vừa làm điệu bộ ngắm súng và bật lưỡi, giả làm tiếng bóp cò. “Tuyệt vời”, Syme nói một cách lơ đễnh, mắt vẫn không rời tờ giấy. “Tất nhiên không được mất cảnh giác rồi”, Winston đế thêm. “Thời chiến mà”, Parsons nói. Dường như để phụ hoạ với điều Parsons vừa nói, chiếc màn vô tuyến treo ngay trên đầu ba người bỗng gióng lên hồi kèn xung trận. Nhưng đây không phải là tin chiến thắng mà chỉ là thông báo của Bộ Ấm No thôi. “Thưa các đồng chí”, một giọng trẻ trung và mạnh mẽ vang lên. “Các đồng chí chú ý! Chúng tôi xin thông báo một tin vui. Chúng ta vừa thu được một chiến công to lớn trên mặt trận sản xuất! Số liệu về tổng sản phẩm các mặt hàng tiêu dùng chứng tỏ rằng mức sống đã được nâng lên ít nhất là 20 phần trăm so với năm ngoái. Sáng nay trên khắp cả nước Oceania đều có những cuộc diễu hành quần chúng tự phát, công nhân các nhà máy và công sở đã đổ ra đường với cờ, hoa, khẩu hiệu, biểu ngữ để tỏ lòng tri ân Anh Cả, tri ân sự lãnh đạo sáng suốt của Anh mới có cuộc sống mới ấm no hạnh phúc như ngày hôm nay. Đây là một vài con số tổng kết. Về mặt thực phẩm…” Câu "cuộc sống mới, ấm no, hạnh phúc" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Thời gian gần đây Bộ Ấm No rất hay nói câu này. Parsons, lúc nãy đã giật mình vì tiếng kèn, chăm chú lắng nghe, miệng há hốc vừa như long trọng vừa như chán nản. Anh ta không thể nhớ hết các con số, nhưng anh biết rằng đấy là lí do để vui. Anh lấy từ trong túi ra một cái tẩu to, sặc mùi, thuốc đã cháy đen lèn chặt một nửa phễu. Với khẩu phần là 100 gram thuốc lá một tuần thì hiếm ai dám lèn đầy. Winston hút Chiến Thắng, anh phải chú ý giữ cho điếu thuốc luôn nằm ngang. Ngày mai mới được lĩnh tiêu chuẩn cho tuần sau mà anh chỉ còn có bốn điếu nữa thôi. Lúc này anh đang lắng nghe màn vô tuyến, cố không để ý tiếng ồn xung quanh. Hóa ra còn có cả các cuộc tuần hành để tỏ lòng biết ơn Anh Cả vì đã nâng khẩu phần chocolate lên hai mươi gram một tuần nữa. Thế mà hôm qua, anh tự nhủ, người ta vừa tuyên bố giảm khẩu phần xuống còn hai mươi gram đấy. Chả lẽ mới có hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà họ đã tin sao? Đúng thế, họ tin. Parsons tin liền, tin như một con vật ngu si. Cái thằng không mắt ngồi bên cạnh cũng tin, tin một cách cuồng tín, một cách nồng nhiệt, sẵn sàng phát hiện, tố cáo và làm cho bốc hơi bất kì người nào nói rằng tuần trước khẩu phần là ba mươi gram. Syme cũng tin, tuy rắc rối hơn, phải nhờ nước đôi. Hoá ra chỉ mỗi một mình anh còn trí nhớ thôi ư? Các số liệu tưởng tượng vẫn tiếp tục tuôn ra từ màn vô tuyến. So với năm ngoái thì năm nay có nhiều lương thực hơn, nhiều quần áo hơn, nhiều nhà mới hơn, nhiều đồ gỗ hơn, nhiều chảo hơn, nhiều nhiên liệu hơn, nhiều tàu thủy hơn, nhiều máy bay hơn, nhiều sách vở hơn, nhiều trẻ em hơn, mọi thứ đều nhiều hơn; chỉ có bệnh tật, tội ác và người điên là ít hơn mà thôi. Từng năm, thậm chí từng phút, mọi người, mọi vật, mọi hiện tượng đều phát triển, đều vươn lên tầm cao mới. Bắt chước Syme, Winston cũng lấy cán thìa nhúng vào chỗ nước sốt đổ trên mặt bàn và kéo dần, kéo dần nó từ một vệt dài ngoằng thành ra có hình thù cân đối. Vừa làm thế, anh vừa nghĩ về cuộc sống của mình, về điều kiện sống nói chung, tâm trạng vô cùng bức xúc. Chả lẽ ngày xưa cũng như thế này ư? Lúc nào thức ăn cũng có mùi, có vị như thế này ư? Anh đảo mắt nhìn quanh căng tin. Trần thì thấp, người thì đông, tường thì bẩn, bàn ghế mòn vẹt lại để gần nhau, khuỷu tay người nọ chạm người kia, thìa dĩa thì cong vênh, mâm thì thủng, bát đĩa thô kệch, chỗ nào cũng nhớp mỡ, bụi bám đầy các khe hở, rồi mùi chua chua, cái mùi hỗn hợp của rượu rởm, cà phê rởm, nước sốt han đồng và quần áo bẩn nồng nặc khắp nơi. Lúc nào ruột gan, da thịt cũng có cảm giác khó chịu, cảm giác bị lừa bịp. Quả tình suốt đời anh chưa từng biết cảm giác nào khác. Chưa bao giờ có thức ăn dư dả, chưa bao giờ tất và quần áo lót không đầy lỗ thủng, bàn ghế thì bao giờ cũng mòn vẹt và ọp ẹp như sắp đổ đến nơi, phòng thì lạnh, tầu điện ngầm chật ních người, tường nhà lở loét, chỉ độc một loại bánh mì đen, chè là của hiếm, cà phê đắng nghét, thuốc lá không đủ hút – ngoài rượu Gin tổng hợp ra thì cái gì cũng thiếu, cũng đắt. Tất nhiên là cơ thể ngày một già đi, nặng nề, chậm chạp thêm; nhưng nếu ta luôn cảm thấy khó chịu vì thiếu thốn, vì bẩn thỉu và lộn xộn, vì mùa đông kéo dài vô tận, vì những chiếc tất nhớp nhúa, vì thang máy chẳng bao giờ chạy, vì nước lạnh, vì xà phòng cứng, vì thuốc lá không chặt, vì mùi vị thức ăn khủng khiếp thì đấy có phải dấu hiệu là nếp sống đang có vấn đề không? Nếu ta thấy cuộc sống này là không chấp nhận được thì có phải trí nhớ được truyền lại từ bao đời trước đã mách bảo ta rằng trước đây mọi sự đã khác hay không? Anh lại nhìn quanh căng tin một lần nữa. Người nào trông cũng xấu, dù họ có thay bộ đồng phục màu xanh đang mặc bằng những bộ khác thì cũng thế mà thôi. Ở phía cuối căn phòng có một người đàn ông thấp bé đang uống cà phê, trông ông ta không khác gì một con cánh cam, mắt láo liêng, không ngừng ngó ngược ngó xuôi. Nếu không quan sát, Winston nghĩ, thì người ta dễ tin rằng dường như mẫu người lí tưởng do Đảng vẽ ra: thanh niên thì to khoẻ, phụ nữ thì ngực đầy, tóc sáng, vô tư, năng động, da sạm nắng đã và đang tồn tại, thậm trí chiếm ưu thế. Nhưng theo anh thì đa số cư dân Đường bay I là những người nhỏ bé, đen đủi và thiếu hấp dẫn. Không hiểu sao trong các Bộ lại có lắm loại người-cánh cam: thấp tè, chân ngắn, bụng phệ sớm, dáng điệu vội vàng hấp tấp, mặt dày vô cảm, thế nhỉ? Dưới sự lãnh đạo của Đảng loại người này đặc biệt đông. Bản thông báo của Bộ Ấm No kết thúc trong tiếng kèn đồng rộn rã và sau đó là bản nhạc vui. Parsons, cảm thấy phấn chấn vì các số liệu, đưa tay lên rút tẩu ra. “Năm nay Bộ Ấm No làm khá lắm”, vừa nói anh ta vừa gật đầu tỏ vẻ thành thạo. “Này, Smith, cậu có cái dao cạo dự trữ nào không?” “Không”, Winston đáp. “Tháng rưỡi nay tớ vẫn dùng có một cái.” “Ừ, thì...mình cũng hỏi thế.” “Xin lỗi”, Winston lại nói. Tiếng quạc quạc ở bàn bên đã tạm ngưng khi nghe thông báo của Bộ, nay lại tiếp tục vang lên, to như cũ. Không hiểu sao tự nhiên Winston lại nghĩ đến bà Parsons, nghĩ đến mớ tóc ướt lòa xòa và những nếp nhăn dính bụi của bà ta. Chỉ hai năm nữa thôi, con bà ta sẽ tố cáo bà với Cảnh Sát Tư Tưởng. Bà Parsons sẽ bốc hơi. Syme sẽ bốc hơi. O’Brien sẽ bốc hơi. Nhưng ông Parsons sẽ không bao giờ bốc hơi. Thằng không mắt đang kêu quạc quạc kia sẽ không bao giờ bốc hơi. Những thằng lùn, những thằng người-cánh cam, suốt ngày chạy trong những hành lang rắc rối như mê cung của các Bộ cũng không bao giờ bốc hơi. Và cái cô gái tóc đen ở Ban Sáng tác cũng không bao giờ bốc hơi. Anh có thể đoán được ai sẽ sống và ai sẽ diệt vong, mặc dù không thể nói tại sao. Winston bỗng giật nảy mình. Người con gái ở bàn bên cạnh vừa xoay lại và nhìn thẳng vào anh. Đấy chính là cô gái tóc đen. Cô ta nhìn nghiêng, nhưng rất chăm chú. Nhưng khi mắt họ vừa gặp nhau thì cô vội quay đi. Mồ hôi túa ra dọc sống lưng Winston. Anh phát run lên vì sợ. Nỗi kinh hoàng ập đến rất nhanh và qua cũng nhanh, chỉ còn lại cảm giác bứt rứt không yên. Tại sao cô ta lại theo dõi mình? Đáng tiếc là anh không thể nhớ khi mình vào thì cô ta đã ngồi ở đấy hay sau này mới tới. Nhưng hôm qua, lúc Hai Phút Hận Thù, thì rõ ràng là cô ta ngồi ngay đằng sau anh, mặc dù chẳng có lí do gì để làm như thế cả. Có nhiều khả năng là cô ta định nghe và kiểm tra xem anh có nói đủ to không. Anh lại nghĩ như trước: có thể cô ta không phải là nhân viên của Cảnh Sát Tư Tưởng, nhưng chính bọn nghiệp dư còn đáng sợ hơn. Anh không biết cô ta đã theo dõi bao lâu, có thể khoảng năm phút, anh cũng không biết vừa rồi mình có giữ đúng tư thế hay không. Ở nơi công cộng hay trong vùng quan sát của màn vô tuyến mà tỏ ra đăm chiêu là nguy to. Chỉ một chút vô tình là coi như xong. Chỉ cần một cái máy mắt, một biểu hiện lo lắng, thói quen lẩm bẩm một mình, hay bất kì biểu hiện bất bình thường hay ý định che giấu một cái gì đó là xong. Chỉ cần nét mặt không phù hợp (thí dụ tỏ không tin khi nghe thông báo thành tích) cũng bị trừng trị rồi. Ngômo gọi đấy là: mặtội, tội lỗi thể hiện trên nét mặt. Cô gái đã quay lưng lại. Có thể là cô ta không theo dõi anh, có thể vô tình cô đã ngồi gần anh hai ngày liền mà thôi. Điếu thuốc đã tắt hẳn, anh cẩn thận đặt nó bên mép bàn. Anh sẽ hút sau khi xong việc, đấy là nói nếu anh còn giữ được. Có thể người ở bàn bên cạnh chính là chỉ điểm của Cảnh Sát Tư Tưởng, có thể chỉ ba ngày nữa anh sẽ bị đưa vào tầng hầm của Bộ Tình Yêu, nhưng không được để rơi chỗ thuốc lá hút dở. Syme gập tờ giấy và nhét vào túi. Parsons lại lên tiếng. “Mình đã kể cho cậu nghe”, anh ta nói trong khi vẫn ngậm tẩu, “chuyện hai đưa nhóc nhà mình đốt váy một con mẹ bán hàng ngoài chợ khi chúng trông thấy mụ ta lấy tờ biểu ngữ có ảnh Anh Cả để gói lạp xường chưa nhỉ? Chúng lẻn từ phía sau tới và dùng cả một bao diêm đang cháy để đốt. Chắc là bỏng phải biết. Bọn nhóc quậy ha? Nhưng nhạy bén đấy chứ! Đấy là những bài học đầu tiên của đội Tình Báo, phải nói là tốt hơn thời của tôi. Các vị có biết gần đây chúng được trang bị gì không? Trang bị cả ống nghe, có thể nghe lén qua lỗ khoá nhé! Hôm qua con nhóc mang về nghe thử, nó bảo rõ gấp hai tai không. Dĩ nhiên đấy chỉ là đồ chơi thôi. Nhưng ý tưởng thì không chê vào đâu được, đúng không?” Màn hình bỗng phát ra tiếng huýt chói tai. Đấy là tín hiệu báo giờ làm việc bắt đầu. Cả ba cùng đứng dậy, trước thang máy là một đám đông chen chúc, Winston không thể giữ được chỗ thuốc lá hút dở. VI. Winston ghi trong nhật kí: Chuyện này xảy ra cách đây đã ba năm. Trời tối, trên một con hẻm gần ga tầu hoả. Bà ta đứng bên cạnh cửa ra vào, dưới bóng đèn điện tối mù. Nét mặt còn trẻ, trát đầy son phấn. Má phấn, môi son đã quyến rũ mình. Đảng viên nữ không đánh phấn. Đường phố vắng tanh, không có màn vô tuyến. Bà ta bảo hai dollar. Mình... Anh cảm thấy khó viết tiếp. Anh nhắm mắt lại và lấy những ngón tay đè lên mí mắt, như cố đẩy những hình ảnh cứ lặp đi lặp lại ra khỏi đầu. Anh chỉ muốn văng tục, thật to, thật dài mới đã. Hoặc là đập đầu vào tường, hay đá đổ cái bàn, ném lọ mực ra khỏi cửa sổ, tức là làm bất cứ thứ gì một cách ồn ào, một cách mãnh liệt hay đau đớn để có thể tống khứ ra khỏi tâm trí những hình ảnh luôn luôn hành hạ anh. Kẻ thù tệ hại nhất của một người, anh nghĩ, là hệ thần kinh của chính anh ta. Bất cứ lúc nào những căng thẳng nội tâm cũng có thể phát tác ra thành biểu hiện nhìn thấy được. Anh chợt nhớ đến một người đàn ông đã gặp cách đây vài tuần trên phố, một người rất bình thường, đảng viên, tuổi khoảng ba lăm hay bốn mươi, cao, gầy, tay xách cặp. Hai người cách nhau mấy bước, đột nhiên má bên trái ông ta giật lên vì co cơ. Chuyện ấy lặp lại khi họ bước ngang qua mặt nhau: đấy chỉ là một cơn co giật nhẹ, chỉ là một cơn rung nhẹ như cú đóng của cái màn máy ảnh vậy thôi, nhưng rõ là một thói quen! Lúc đó anh đã nghĩ: thằng này xong rồi. Kinh khủng nhất là hắn ta có thể không biết mình có thói quen đó. Nhưng nguy hiểm hơn cả là nói mê. Chuyện này thì vô phương, anh nghĩ. Anh hít vào một hơi và tiếp tục viết: Mình đi theo bà ta qua một cái sân và vào căn bếp bên dưới tầng hầm. Có một cái giường kê sát tường và một cái đèn vặn nhỏ như hạt đỗ. Bà ta... Hai hàm răng anh nghiến chặt. Chỉ muốn nhổ nước miếng. Bên cạnh hình ảnh người đàn bà trong căn bếp dưới tầng ngầm, trong tâm trí anh lại hiện về bóng dáng Katherine, người vợ cũ của anh. Winston đã cưới vợ, đã có vợ và có thể hiện nay vẫn có vợ vì theo anh biết thì cô còn sống. Anh như đang hít thở cái không khí ngột ngạt, nặng mùi của căn bếp dưới tầng ngầm, một cái mùi hỗn hợp giữa quần áo bẩn, chấy rận và nước hoa rẻ tiền, nhưng quyến rũ vì không có nữ đảng viên nào xức nước hoa hay có thể tưởng tượng mình lại xức nước hoa. Chỉ có bọn cu li mới xức nước hoa. Theo anh mùi nước hoa là mùi đĩ thõa. Đây là lần sa ngã đầu tiên trong suốt hai năm qua. Dĩ nhiên là không được quan hệ với gái điếm, nhưng đôi khi cũng có thể liều. Việc này nguy hiểm đấy, nhưng không phải là vấn đề sống còn. Bị tóm tại trận thì cũng chỉ năm năm khổ sai là cùng, đấy là nói nếu không có tình tiết tăng nặng. Miễn đừng bị trai trên gái dưới là được. Các khu phố nghèo đầy bọn đàn bà sẵn sàng bán mình. Có thể chỉ một chai Gin cũng xong, bọn cu li không được uống loại rượu này. Đảng ngấm ngầm khuyến khích nạn mãi dâm vì đây là một lối thoát cho các thứ bản năng mà đằng nào cũng không đè nén được. Bản thân việc mua dâm không phải là vấn đề lớn, nhưng chỉ được quan hệ với bọn phụ nữ thuộc tầng lớp nghèo hèn, bị khinh bỉ và tất nhiên là phải lén lút. Quan hệ giữa các đảng viên là điều không thể tha thứ được. Mặc dù những người bị đàn áp trong các vụ thanh trừng lớn thường vẫn thú nhận đã phạm tội này, thật khó tưởng tượng điều đó lại có thể xảy ra trên thực tế. Mục đích của Đảng không chỉ là ngăn chặn các quan hệ gắn bó lâu dài giữa đàn ông và đàn bà vì nó có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Tuy không nói ra, như mục đích thực sự chính là tước bỏ mọi vui thú khỏi hành động làm tình. Kẻ thù chính không phải là tình yêu mà là thú vui nhục dục, kể cả trong hôn nhân cũng như ngoài hôn nhân. Các đảng viên phải được một ủy ban chuyên trách về lĩnh vực này cho phép thì mới được kết hôn và mặc dù không công bố công khai, nhưng thường thì đơn sẽ bị bác nếu người ta thấy hai người có vẻ mê nhau về thể xác. Mục đích duy nhất của hôn nhân là sinh con đẻ cái để phục vụ sự nghiệp của Đảng. Như vậy làm tình phải được coi là một động tác chẳng có gì hay ho, giống như phải rửa ruột trước khi mổ vậy. Chuyện này cũng không bao giờ được nói công khai, nhưng được nhồi nhét một cách gián tiếp vào đầu các đảng viên ngay từ tuổi ấu thơ. Có cả những tổ chức như Hội Thanh Niên Chống Tình Dục tuyên truyền kiểu sống đơn thân của cả hai phái. Việc thụ thai đáng lẽ ra phải được thực hiện bằng nhân tạo (Ngômo gọi là Thụtạo) và trẻ con được nuôi dạy tập trung trong các cơ sở của nhà nước. Winston biết rằng đây không phải là chuyện nghiêm túc, nhưng nó phù hợp với đường lối chung của Đảng. Đảng tìm mọi cách tiêu diệt bản năng nhục dục, nhưng nếu không diệt được thì cũng phải bôi nhọ nó, làm cho nó méo mó đi. Anh không biết tại sao lại như vây, nhưng có cảm giác phải vậy mới đúng. Nếu chỉ nói riêng về phụ nữ thì Đảng đã thành công. Anh lại nghĩ đến Katherine. Họ đã xa nhau chín, không...mười...gần mười một năm rồi. Có điều lạ là anh ít khi nghĩ đến cô. Có khi mấy ngày liền anh không nghĩ là mình có vợ. Họ ở bên nhau tổng cộng có mười lăm tháng. Đảng không cho li hôn, nhưng thường động viên li thân nếu không có con. Katherine là một cô gái cao, tóc sáng, lưng thẳng, điệu bộ sang trọng. Cô có khuôn mặt trái xoan, tự tin, có thể nói là quí phái nữa; đấy là nói khi ta chưa phát hiện ra rằng đằng sau đó là một tâm hồn rỗng tuếch. Ngay từ những ngày sống chung đầu tiên Winston đã nhận ra rằng; cũng có thể đấy là do anh gần gũi với cô hơn là với những người khác, anh chưa từng gặp một người nào ngu ngốc, thô lậu và trống rỗng như cô. Trong đầu cô toàn là khẩu hiệu; Đảng đưa ra bất cứ cái gì, dù ngu ngốc đến đâu, cô cũng ăn tươi nuốt sống ngay lập tức. Anh vẫn gọi cô là “máy hát biết đi” - tất nhiên là chỉ gọi thầm trong đầu thôi. Nhưng anh vẫn sẵn sàng chịu đựng cuộc sống với cô nếu không có vấn đề tình dục. Chỉ cần chạm vào người là cô đã nhăn nhó và cứng đơ ra rồi. Ôm cô chẳng khác gì ôm một hình nhân bằng gỗ. Có điều lạ là khi cô ghì lấy anh thì anh cũng có cảm giác là cô đang cố sức hất anh ra. Chính những cánh tay rắn chắc của cô tạo cảm giác như thế. Cô thường nằm yên, mắt nhắm, không kháng cự cũng chẳng hợp tác, đơn giản là chịu đựng. Ban đầu anh thấy lúng túng, nhưng sau này thì đâm ra hãi. Lúc đó anh vẫn sẵn sàng chấp nhận miễn là hai người đồng ý không ngủ với nhau nữa. Nhưng có điều lạ là chính Katherine không chịu. Chúng ta có trách nhiệm sinh con, cô bảo thế. Chuyện chăn gối được thực hiện đều đặn, nếu không có trở ngại thì tuần một lần. Cô còn thường nhắc anh vào buổi sáng, giống như nhắc một việc phải làm vào buổi tối cho khỏi quên. Cô gọi chuyện đó bằng hai cái tên. Một là “nghĩ đến em bé” và thứ hai là “trách nhiệm trước Đảng” (vâng, cô dùng chính câu đó). Chẳng bao lâu sau, cứ gần đến ngày qui định anh đã thấy sợ rồi. May là họ không có con, cuối cùng cô không cố nữa và họ chia tay ngay sau đó. Winston hít một hơi dài. Anh cầm bút và viết: Bà ta nằm vật ra giường và ngay lập tức, không mầu mè gì, bà ta tốc váy lên bằng một động tác thô lỗ, tục tằn nhất mà ta có thể tưởng tượng được. Mình... Anh như thấy mình đang đứng dưới ánh đèn leo lét, giữa một không gian sặc mùi chấy rận, mùi nước hoa rẻ tiền, thâm tâm cảm thấy thất bại, uất hận và cũng như lúc đó anh chợt nhớ đến thân hình trắng trẻo nhưng đã bị Đảng thôi miên làm cho tê liệt, đông cứng lại của Katherine. Tại sao lúc nào cũng như thế này? Tại sao anh lại không có một người đàn bà của riêng mình mà cứ phải chịu đựng những vụ chung đụng dơ dáy, vội vàng, mấy năm mới có một lần thế này? Nhưng tình yêu là việc không tưởng. Tất cả các nữ đảng viên đều giống nhau. Sự trong trắng cũng như lòng trung thành với Đảng đã ăn sâu bén rễ vào lòng họ từ lâu rồi. Tình cảm chân thật của họ đã bị hoàn cảnh sống với những trò chơi, những buổi tắm nước lạnh, những điều nhảm nhí được nhồi nhét vào đầu họ từ trong nhà trường, trong đội Tình Báo, trong Đoàn Thanh Niên; các bản báo cáo, các cuộc tuần hành, các bài hát, các khẩu hiệu, các khúc quân hành giết chết từ lâu. Lí trí nói với anh rằng nhất định phải có ngoại lệ, nhưng tình cảm thì lại nói không. Tất cả đều là những người không thể lay chuyển, Đảng đã đạt được mục đích. Điều anh muốn không chỉ là được yêu mà là đập tan bức tường đạo đức đó, dù chỉ một lần trong đời cũng cam. Một cú làm tình thành công đã là một cuộc khởi nghĩa. Ham muốn cũng là tội tư tưởng. Ngủ với Katherine đã tỉnh thức, nếu anh làm được như thế, thì đấy chính là hành động cám dỗ, cho dù cô là vợ anh. Nhưng phải viết nốt câu chuyện. Anh lại cầm bút và viết: Mình vặn to đèn lên. Dưới ánh đèn mình thấy bà ta... Từ ngoài tối mới vào nên ngọn đèn dầu hoả tù mù cũng có vẻ rất sáng. Đây là lần đầu tiên anh trông rõ người phụ nữ. Anh bước một bước về phía bà ta nhưng vội đứng dừng lại, vừa khao khát vừa sợ. Anh biết rõ những hiểm nguy một khi dấn bước vào đây. Có thể là cảnh vệ sẽ tóm anh khi vừa bước ra, mà có thể họ đang đứng đợi anh ngay ngoài cổng rồi cũng nên. Nhưng nếu đi ra mà không làm cho xong thì đến đây làm gì...! Phải viết hết, phải thú nhật hết. Điều làm anh bất ngờ chính là việc bà ta quá già. Phấn trát trên mặt dày đến nỗi tưởng như có thể rời ra từng mảng đến nơi. Tóc bà ta đã bạc, nhưng kinh khủng nhất là miệng bà ta hơi mở, để lộ ra một khoảng trống đen ngòm như một cái hang. Không còn cái răng nào. Anh viết vội vàng, bằng những chữ ngụêch ngoạc: Dưới ánh đèn mình thấy bà ta quá già, ít nhất cũng phải năm mươi. Nhưng mình vẫn làm như không có chuyện gì xảy ra. Winston lại lấy ngón tay đè lên mí mắt. Anh đã viết xong, nhưng thâm tâm chẳng cảm thấy một sự thay đổi nào hết. Liệu pháp không đem lại kết qủa như ý. Ước muốn văng tục thật to, to hết cỡ vẫn còn y nguyên, như cũ. VII. Nếu có hi vọng, Winston viết, thì đấy chính là bọn cu li. Nếu có hi vọng thì nhất định chỉ là bọn cu li mà thôi, một lúc nào đó từ trong cái đám quần chúng đông đảo, chiếm đến 85 phần trăm dân số Oceania này, sẽ xuất hiện lực lượng đủ sức lật đổ Đảng. Đảng không thể bị lật từ bên trong. Kẻ thù của nó, nếu quả thật nó có kẻ thù, không thể nào tập hợp lại được, nhận diện nhau cũng còn không được nữa là. Ngay cả nếu tổ chức Huynh Đệ huyền thoại thực sự tồn tại đi nữa, nhiều khả năng là có một tổ chức như thế, thì cũng không thể tưởng tượng được là các thành viên của nó có thể tổ chức được một cuộc họp đông quá hai, ba người. Nổi loạn đối với họ là một ánh mắt, một giọng nói hoặc nhiều nhất là một từ nói lén. Nhưng bọn cu li, nếu chúng nhận thức được sức mạnh của mình thì sẽ không cần phải hoạt động bí mật. Chỉ cần chúng cùng đứng dậy và rũ bỏ như ngựa rũ ruồi là xong. Chỉ cần muốn là chúng có thể thổi bay Đảng ngay trong sáng mai. Sớm muộn gì chúng cũng sẽ nhận ra điều đó. Nhưng!... Anh chợt nhớ có lần đang đi trên một con phố đông người thì bỗng nghe thấy tiếng thét, đấy là tiếng kêu gào của hàng trăm người đàn bà trong một con hẻm nhỏ. Tiếng thét đầy thất vọng và phẫn nộ, to, sâu và kéo dai như tiếng chuông: “A-a-a-a!”. Tim anh đập rộn lên. Bắt đầu rồi! – anh nghĩ. Loạn! Bọn cu li làm loạn rồi! Nhưng khi anh đến gần thì hoá ra là một đám đông khoảng hai trăm đến ba trăm người phụ nữ đang vây quanh mấy cái quầy bán hàng trên phố, mặt người nào trông cũng hoảng loạn như đang đứng trên một con tàu sắp chìm. Ngay lúc đó đám đông tuyệt vọng bỗng tản ra thành những nhóm nhỏ tiếp tục hò hét, tranh cãi. Cỏ vẻ như một quầy ở đấy có bán chảo. Đấy toàn là những thứ xấu xí, mỏng dính, thế nhưng đồ gia dụng thường rất khó kiếm. Người đông thế mà hàng lại đột ngột hết. Những người gặp may, dù có bị chen lấn xô đẩy, bị thúc cùi chỏ vào sườn cũng cố gắng giữ chặt cái chảo vừa mua được và lách ra; trong khi những người khác kém may mắn hơn thì bao vây quầy hàng, trách móc người bán hàng vì không công bằng và hỏi xem có giấu bớt đi không. Lại có tiếng thét. Hai bà béo, một bà tóc đã xổ tung ra, đang giằng nhau một cái chảo. Họ cùng giật mạnh, cái cán chảo gãy rời ra. Winston đứng nhìn bằng cặp mắt đầy khinh khi. Nhưng tiếng hò hét của chỉ mấy trăm cái miệng đã đáng sợ làm sao! Thế tại sao chúng lại không bao giờ hét lên vì những cái đáng giá hơn nhỉ? Anh viết trong nhật kí: Chúng sẽ không khởi nghĩa khi chưa nhận thức được; nhưng chúng sẽ không nhận thức được khi chưa khởi nghĩa. Câu này giống như được chép thẳng từ sách giáo khoa của Đảng ra vậy, anh nghĩ. Dĩ nhiên là đảng vẫn thường tuyên bố rằng đã giải phóng bọn cu li khỏi gông xiềng. Trước Cách mạng chúng bị bọn tư bản bóc lột thậm tệ, bị bỏ đói và trừng phạt bằng roi vọt, phụ nữ cũng phải làm việc dưới hầm mỏ (thực ra bây giờ phụ nữ vẫn phải làm việc dưới mỏ), trẻ con bị bán vào nhà máy từ năm lên sáu tuổi. Đồng thời, theo đúng quan điểm bất nhất, Đảng lại dạy rằng cu li là lũ tiểu nhân, chỉ có thể bắt làm theo chứ không giảng lí sự được, giống như súc vật, đối với chúng chỉ cần áp dụng mấy qui tắc đơn giản là đủ. Nói cho ngay người ta chẳng hiểu gì về cu li cả. Cũng chẳng cần phải tìm hiểu làm gì. Chỉ cần chúng tiếp tục làm việc và sinh con đẻ cái, các việc khác cứ để mặc chúng. Nếu được để yên, giống như lũ súc vật trên các bình nguyên của Argentina, chúng sẽ quay về với lối sống tự nhiên, như tổ tiên chúng đã từng sống. Chúng sinh ra, lớn lên trong đói nghèo, bẩn thỉu; mười hai tuổi đã phải đi làm; trải qua giai đoạn dậy thì ngắn ngủi; chúng sẽ kết hôn năm vừa tròn hai mươi tuổi; ba mươi tuổi đã là trung niên; ít người sống quá sáu mươi. Công việc nặng nhọc, lo lắng cho gia đình và con cái, những cuộc cãi vã với láng giềng, phim ảnh, bóng đá, bia bọt và chủ yếu là trò đỏ đen đã chiếm hết tâm trí chúng. Quản lí chúng không khó. Cảnh Sát Tư Tưởng luôn luôn bám địa bàn, họ vừa tung các tin đồn thất thiệt vừa ghi nhận và loại bỏ những tên bị nghi là phần tử nguy hiểm; nhưng vấn đề truyền bá tư tưởng của Đảng cho chúng thì chưa bao giờ được đặt ra. Cu li quan tâm nhiều đến chính trị không phải là việc hay. Chỉ cần có lòng yêu nước là được, phải kéo dài thời gian lao động hay cắt bớt khẩu phần là bao giờ người ta cũng kêu gọi yêu nước. Ngay cả khi chúng bất mãn, đôi khi có chuyện đó thật, thì sự bất mãn cũng không đi đến đâu; do không có đường lối chung chúng chỉ biết hướng sự bất bình vào những vấn đề cụ thể, lặt vặt mà thôi. Chúng không để ý đến những vấn đề lớn. Nhà đa số cu li không có cả màn vô tuyến. Cảnh sát thường không can thiệp vào việc riêng của chúng. London là thành phố đầy tội phạm; phải nói cả một thế giới trong một thế giới: trộm cắp, cướp giật, mại dâm, ma tuý, bảo kê đủ loại, nhưng đây là chuyện nội bộ của bọn cu li nên được coi là không quan trọng. Về đạo đức, chúng được phép theo các phong tục của mình. Bọn cu li không phải tuân theo nguyên tắc chay tịnh trong quan hệ nam nữ của Đảng. Chúng được phép li hôn, còn lang chạ thì không bị trừng phạt. Nói cho ngay, nếu muốn, chúng có thể thành lập cả tôn giáo nữa. Không ai thèm nghi ngờ chúng làm gì. Khẩu hiệu của Đảng vẫn nói: “Cu li và súc vật được tự do”. Winston cúi xuống và khẽ gãi chỗ loét do giãn tĩnh mạch. Lại ngứa nữa rồi. Dù muốn dù không tâm trí anh luôn trở về với câu hỏi: trước Cách mạng người ta đã sống ra sao? Anh lấy từ trong ngăn kéo bàn ra một cuốn sách giáo khoa lịch sử dành cho trẻ con vừa mượn của bà Parsons và chép một đoạn vào cuốn nhật kí: Ngày xưa, trước cuộc Cách Mạng vĩ đại, London không được đẹp như ngày hôm nay. Đấy là một thành phố vừa tối vừa bẩn, nghèo nàn đến độ chẳng ai được ăn no, hàng trăm, hàng ngàn người nghèo khổ phải đi chân không, màn trời chiếu đất. Trẻ em còn nhỏ tuổi hơn các cháu đã phải làm việc mười hai tiếng mỗi ngày mà chỉ được ăn vỏ bánh mì với nước lã, làm chậm còn bị chủ đánh bằng roi. Nhưng giữa cảnh nghèo khổ hoang tàn đó lại có những toà nhà to đẹp dành cho những kẻ giàu có, trong đó mỗi tên có đến ba chục đầy tớ. Những kẻ giầu có này được gọi là nhà tư sản. Chúng là những tên béo phị, xấu xí, hung dữ như tranh minh hoạ ở trang sau. Các cháu có thể thấy hắn mặc một cái áo khoác có đuôi gọi là áo đuôi tôm và đội một cái mũ kì quặc, bóng loáng, có hình thù như ống khói, gọi là mũ phớt. Đấy là đồng phục của bọn tư sản, người khác không được mặc như thế. Bọn tư sản nắm giữ tất cả tài sản trên thế gian này, ai cũng là nô lệ của chúng hết. Chúng chiếm hết đất đai, nhà cửa, công xưởng và tiền bạc. Ai phản đối liền bị chúng vất vào tù, hoặc sẽ bị đuổi việc và chết đói. Một người bình thường khi nói chuyện với tư sản phải khép nép, phải cúi rạp mình xuống chào, phải bỏ mũ ra và gọi hắn là “ngài”. Tên tư sản đầu sỏ tự gọi là Vua và... Anh vẫn thuộc lòng danh sách này. Sau đó sẽ là các thày tu áo thụng, các quan tòa áo viền lông chồn, rồi gông cùm, rồi việc đạp cối xay, rồi roi thắt chín nút, rồi những bữa chiêu đãi của ngài tỉnh trưởng, rồi truyền thống hôn giày của Giáo hoàng. Cả cái gọi là jus primae noctis (quyền qua đêm đầu tiên) mà sách dành cho trẻ em chắc sẽ không nói. Theo qui định này thì các tên tư sản có quyền ngủ với bất kì người phụ nữ làm thuê nào mà hắn thích. Làm sao biết có bao nhiêu phần trăm giả dối? Rất có thể là một người trung bình hiện nay sống tốt hơn trước Cách Mạng. Chỉ có một bằng chứng chống lại, đấy là sự phản kháng không nói nên lời của chính da thịt ta, một cảm giác mang tính bản năng rằng điều kiện sống hiện nay là không thể chấp nhận được, rằng ngày xưa chắc chắn người ta sống khác bây giờ. Anh chợt nghĩ đặc điểm của đời sống hiện nay không phải là sự tàn bạo, không phải là sự bấp bênh mà chính là sự nghèo nàn, trống rỗng, nhếch nhác và thờ ơ. Hãy nhìn quanh xem, có gì tương tự với những điều dối trá vẫn được màn vô tuyến tuôn ra hàng ngày hay ngay cả với những lí tưởng mà Đảng theo đuổi. Phần lớn đời sống của ngay một đảng viên cũng diễn ra bên ngoài chính trị: đấy là thực hiện cho xong những công việc vất vả, chán ngấy; đấy là chen nhau để giành một chỗ đứng trong tầu điện ngầm; đấy là mạng những chiếc tất thủng; đấy là xin xỏ những viên đường hoá học; đấy là cố giữ cho thuốc lá khỏi rơi. Còn lí tưởng của Đảng lại là một cái gì đó to lớn, khủng khiếp, lấp lánh - một thế giới của sắt thép và bê tông, của những chiếc máy khổng lồ, của những vũ khí reo rắc kinh hoàng; của một dân tộc với các chiến binh và những kẻ cuồng tín, cùng nhịp bước trong một đội ngũ thống nhất, tất cả cùng nghĩ một ý, cùng hô một khẩu hiệu, luôn luôn làm việc, luôn luôn chiến đấu, luôn luôn diễu hành và sẵn sàng trấn áp; một đất nước ba trăm triệu người với cùng một khuôn mặt. Nhưng thực tế lại là sự thối rữa, những thành phố dơ dáy với những con người đói ăn đi đi lại lại trong những đôi tất rách, sống trong những ngôi nhà xây từ thế kỉ mười chín sặc mùi bắp cải và mùi nhà xí cũ. Anh như nhìn thấy toàn cảnh thành phố London, to lớn và bị tàn phá, một thành phố với hàng triệu thùng rác và trên bức tranh chung ấy là hình ảnh bà Parsons mặt đấy nếp nhăn, tóc ướt bê bết, bất lực, đang cố móc cái ống nước bị tắc. Anh lại cúi xuống để gãi mắt cá chân. Cái màn vô tuyến cứ ra rả phun vào tai suốt đêm ngày những con số chứng minh rằng hiện nay nhân dân được ăn nhiều hơn, mặc ấm hơn, có nhà đẹp hơn, nghỉ ngơi thú vị hơn, sống lâu hơn, làm ít hơn, to hơn, khoẻ hơn, mạnh mẽ hơn, hạnh phúc hơn, thông minh hơn, được giáo dục tốt hơn cách đây năm mươi năm. Không thể chứng minh hay phủ nhận bất kì từ nào. Thí dụ Đảng tuyên bố rằng hiện nay 40 phần trăm cu li trưởng thành biết đọc biết viết, trước Cách mạng chỉ có 15 phần trăm thôi. Đảng cũng tuyên bố rằng hiện nay tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh là 160 trên một ngàn, trong khi trước Cách mạng con số đó là 300 vân vân và vân vân. Giống như một phương trình có hai ẩn số. Hoàn toàn có khả năng là tất cả các từ trong sách lịch sử, kể cả những điều ta coi là hiển nhiên, đều là bịa cả. Ai mà biết, có thể chưa bao giờ có luật gọi là quyền qua đêm đầu tiên, cũng có thể chưa từng có một sinh vật nào có tên là tư sản, hoặc có thể chưa từng có một thứ trang sức gọi là mũ phớt cũng nên. Mọi thứ đều mờ mịt. Quá khứ bị xoá bỏ, khi việc xoá bỏ đã bị quên đi thì dối trá trở thành sự thật. Đã có một lần anh nắm được, sau khi sự kiện đã xảy ra: đấy gọi là chứng cớ rõ ràng, cụ thể của sự giả mạo. Anh đã giữ nó trong tay khoảng ba mươi giây. Đấy là vào khoảng năm 1973, tóm lại, vào khoảng thời gian anh và Katherine chia tay. Nhưng sự kiện thì xảy ra khoảng bảy, tám năm trước. Câu chuyện bắt đầu vào giữa những năm sáu mươi, trong thời gian có những cuộc thanh trừng lớn, khi các nhà lãnh đạo thật sự của Cách mạng bị tiêu diệt hết. Đến 1970, trừ Anh Cả ra thì không một người nào còn sống sót. Những người khác đều bị tố cáo là phản bội hay phản cách mạng. Goldstein chạy thoát và trốn tránh ở đâu không ai biết, một số biến mất, còn đa số thì đã thú tội trong các phiên toà dàn cảnh rồi bị mang đi hành quyết hết. Trong số đó có ba người tên là Jones, Aaroson và Rutherford. Họ bị bắt vào khoảng năm 1965. Giống như những người khác, họ biệt tích khoảng một năm hay hơn một năm, không ai biết họ còn sống hay đã chết, rồi họ bất ngờ xuất hiện trong các phiên toà để tự tố cáo chính minh. Họ thú nhận đã làm gián điệp cho kẻ thù (lúc đó kẻ thù là Eurasia), biển thủ công quỹ, giết hại các đảng viên trung kiên, chống lại sự lãnh đạo của Anh Cả; các việc này xảy ra từ trước Cách mạng, và nhiều hành động phá hoại khác làm hàng ngàn người thiệt mạng. Sau khi thú nhận, họ được tha thứ, phục hồi Đảng tịch, được đề bạt vào các chức vụ hữu danh vô thực. Cả ba đều viết những bài thú tội dài đăng trên tờ Times, trong đó họ phân tích rõ nguyên nhân của sự phản bội và hứa sửa chữa khuyết điểm. Sau đó có lần Winston đã nhìn thấy cả ba người ngồi trong quán cà phê "Cây dẻ". Anh nhớ đã nhìn trộm họ, vừa ngạc nhiên vừa sợ, mắt không rời một cử động nào. Họ già hơn anh nhiều, họ là những chứng nhân của một thời quá khứ xa xôi, có thể họ chính là những nhân vật vĩ đại cuối cùng còn lại từ những ngày tháng anh hùng của Đảng. Họ vẫn được bao bọc trong ánh hào quang của những ngày tháng hoạt động bí mật và nội chiến. Anh có cảm giác, dù rằng các sự kiện và ngày tháng đã bị xáo trộn, rằng anh đã nghe tên của họ trước khi biết tên Anh Cả. Nhưng lúc đó họ đã ở ngoài vòng pháp luật, là kẻ thù, là tiện dân, là những người sẽ bị hành quyết trong vòng một đến hai năm tới. Chưa có ai từng rơi vào tay Cảnh Sát Tư Tưởng mà thoát được cả. Họ đã là những thây ma chờ ngày ra huyệt mộ. Dãy bàn gần chỗ họ ngồi tuyệt nhiên không có một ai. Chẳng ai dại gì mà đến gần họ. Họ ngồi yên lặng, trước mặt là mấy li Gin pha mùi đinh hương, đồ uống đặc biệt của quán này. Winston có cảm tình nhất với Rutherford. Trước đây Rutherford từng là một hoạ sĩ vẽ tranh châm biếm nổi tiếng, chính những bức tranh biếm hoạ hiểm ác của ông đã góp phần kích động dư luận trước và trong Cách mạng. Hiện nay, thỉnh thoảng tranh biếm hoạ của ông vẫn xuất hiện trên tờ Times. Nhưng đấy chỉ là bắt chước phong cách sáng tác cũ của ông mà thôi, chúng hoàn toàn không có sức sống và thiếu sức thuyết phục. Vẫn là những đề tài cũ: nhà ổ chuột, trẻ đói ăn, cuộc chiến đấu trên đường phố, những tên tư sản đội mũ phớt, ngay cả trên chiến luỹ chúng cũng không chịu bỏ mũ; ông cố tìm lại quá khứ bằng những cố gắng bất tận và vô vọng. Ông có một thân hình to lớn, mái tóc bồng đã bạc, mặt đầy vết nhăn, chảy xệ; cặp môi dày trề ra như người da đen. Ngày xưa chắc ông khoẻ lắm, nhưng nay thân hình một thời vạm vỡ của ông đang nhão ra, bùng nhùng, phồng lên. Có vẻ như ông đang sụp xuống ngay trước mắt, giống như một quả núi đang lở vậy. Lúc đó khoảng ba giờ chiều, giờ này thường vắng. Bây giờ Winston không thể nhớ làm sao anh lại đến quán vào giờ đó. Gần như không có khách. Màn vô tuyến phát một bản nhạc vui. Ba người đàn ông ngồi yên lặng, bất động trong một góc. Người hầu bàn tự động mang rượu Gin đến cho họ. Trên bàn có một bàn cờ đã bày sẵn nhưng không thấy họ chơi. Bất thình lình màn vô tuyến có trục trặc, khoảng ba mươi giây. Sau đó người ta phát một bản nhạc khác hẳn. Có một điều gì đó bất ngờ vừa xảy ra, nhưng cụ thể là điều gì thì thật khó nói. Một giọng hát kì quặc, rè rè, the thé, giễu cợt: Winston thầm gọi là giọng ca vàng. Bài hát như sau: Dưới tán cây dẻ này Tôi bán anh và anh bán tôi Họ nằm kia và ta nằm đây Dưới tán cây dẻ này. Ba người đàn ông không hề động đậy. Nhưng khi Winston nhìn vào khuôn mặt tàn tạ của Rutherford thì thấy ông đang khóc. Và chính lúc đó anh chợt rùng mình, anh cũng không hiểu vì sao lại rùng mình nữa, khi trông thấy mũi của Aaronson và Rutherford bị đấm bầm tím. Ba người bị bắt lại sau đó không lâu. Người ta đã phát hiện được họ tham gia vào những âm mưu mới ngay sau khi được thả. Trong phiên tòa thứ hai họ thú nhận hết các tội lỗi cũ và hàng loạt tội mới nữa. Họ đã bị hành quyết, vụ án này được ghi vào lịch sử Đảng như một lời cảnh báo cho hậu thế. Khoảng năm năm sau, vào năm 1973 khi Winston đang giở những cuộn giấy vừa được ống khi nén đẩy ra thì phát hiện được một mảnh giấy. Vừa đặt tờ giấy lên mặt bàn là anh hiểu ngay giá trị của nó. Đấy là nửa trang báo Times, ra trước đó chừng mười năm, lại là nửa trên nên còn nguyên ngày tháng, trên đó là tấm ảnh chụp đoàn đại biểu Đảng tham dự một sự kiện gì đó ở New York. Đứng ngay giữa bức ảnh là ba người: Jones, Aaronson và Rutherford. Không thể nào lầm được, vả lại tên các đại biểu có ghi ngay bên dưới bức ảnh. Trong cả hai phiên toà ba người đều thú nhận rằng ngày đó tháng đó họ đang ở Eurasia. Họ được máy bay đón từ một sân bay bí mật ở Canada và bay đến Siberia, tại đây họ đã gặp các quan chức trong Bộ Tổng Tham Mưu quân Eurasia và đã chuyển các bí mật quân sự quan trọng cho chúng. Ngày tháng đã hằn sâu trong tâm trí Winston vì hôm ấy là ngày hạ chí; toàn bộ câu chuyện này chắc chắn phải được ghi trong hàng loạt tài liệu khác nữa. Chỉ có thể rút ra kết luận: các lời thú tội của họ là giả. Dĩ nhiên đây chẳng phải là điều mới. Ngay từ thời đó Winston đã không tin là những người bị thanh trừng quả thực đã phạm những tội lỗi mà họ bị qui kết. Nhưng đây là bằng chứng cụ thể, đây là một mảnh của quá khứ đã bị xoá bỏ, một khúc xương hoá thạch tìm được trong một địa tầng khác, nó đã bác bỏ cả một hệ thống lí thuyết địa chất từng tồn tại từ lâu. Nếu có thể công bố sự kiện này và giải thích ý nghĩa của nó cho dân chúng biết thì Đảng toi. Anh bắt đầu làm việc ngay. Anh vội lấy một tờ giấy khác đè lên bức ảnh khi vừa nhìn thấy và nhận ra ý nghĩa của nó. May là khi anh giở thì bức ảnh lại nằm ngược với hướng của màn vô tuyến. Anh đặt cuốn sổ lên đầu gối và lấy chân đẩy ghế đi cách càng xa màn vô tuyến càng tốt. Giữ cho nét mặt vô cảm là việc không khó, nhịp thở cũng có thể kiểm soát được, nhưng kiểm soát nhịp tim thì không được, màn vô tuyến nhậy lắm, có thể phát hiện được đấy. Anh chờ khoảng mười phút, đầy đau khổ vì lo lắng, thí dụ chỉ cần một cơn gió lùa ngang qua mặt bàn là coi như lộ hết. Sau đó, anh cứ để nguyên như thế và ném mảnh giấy vào hang nhớ cùng với mấy tờ giấy cũa khác. Chỉ một phút sau, chắc thế, là nó sẽ biến thành tro. Chuyện đó xảy ra cách đây khoảng mười hay mười một năm trước. Bây giờ thì có khả năng là anh đã giữ lại rồi. Điều ngạc nhiên là dù bức ảnh cũng như sự kiện được ghi trên đó chỉ còn trong trí nhớ, việc anh đã từng cầm trong tay một chứng cớ như thế tiếp tục ảnh hưởng đến anh cho đến tận hôm nay. Có phải là quyền lực của Đảng đối với quá khứ đã giảm, anh tự hỏi, vì tuy nay chút chứng chứng cứ ấy không còn, nhưng ngày xưa đã từng có một bằng chứng như thế. Nhưng giả sử như có thể phục hồi được bức ảnh thì có thể nó cũng không còn là bằng chứng nữa. Ngay khi anh phát hiện được bức ảnh thì Oceania đã không còn đánh nhau với Eurasia nữa và ba người kia đã phải bán nước cho điệp viên của Eastasia rồi. Từ đó đến nay còn mấy lần thay đổi nữa, hai hoặc ba lần, anh không nhớ rõ. Rất có thể là những lời thú nhận đã được viết đi viết lại nhiều lần, nhiều đến nỗi sự kiện và ngày tháng ban đầu chẳng còn một tí ý nghĩa nào nữa. Qúa khứ không chỉ bị sửa đổi mà còn bị sửa đổi thường xuyên, sửa đổi liên tục. Điều kinh khủng nhất đối với anh chính là anh không làm sao hiểu nổi tại sao lại phải làm cái công việc giả mạo hao tiền tốn của ghê gớm này. Lợi ích trước mắt thì rõ nhưng mục đích cuối cùng thì còn là bí mật. Anh cầm bút và viết: Tôi hiểu làm THẾ NÀO; nhưng không hiểu TẠI SAO. Anh tự hỏi, cũng như anh đã từng tự hỏi nhiều lần, rằng minh có bị khùng không. Có thể người khùng là người thuộc về thiểu số, cái thiểu số rút lại đến mức chỉ còn có một người duy nhất. Ngày xưa tin rằng trái đất quay xung quanh mặt trời bị coi là khùng, còn nay, khùng là tin rằng quá khứ là không thể sửa đổi được. Có thể anh là người duy nhất tin như thế, mà duy nhất nghĩa là khùng rồi. Nhưng ý nghĩ rằng mình đã bị điên không làm anh lo: sợ nhất là anh vừa điên vừa sai nữa cơ. Anh cầm cuốn sách lịch sử dành cho thiếu nhi và ngắm bức ảnh của Anh Cả minh hoạ trên trang nhất. Cặp mắt thôi miên nhìn thẳng vào anh. Giống như có một sức mạnh vô hình đè nén người ta, xuyên thấu vỏ não, đập liên hồi kì trận vào óc, doạ dẫm buộc phải từ bỏ niềm tin của chính mình, thuyết phục người ta từ bỏ cả những giác quan của mình nữa. Cuối cùng thì Đảng có thể tuyên bố rằng hai cộng hai là năm và dân chúng sẽ buộc phải tin. Sớm muộn gì họ sẽ tuyên bố như thế, quyền lực của họ đòi hỏi như vậy. Triết lí của họ không chỉ ngấm ngầm phủ nhận giá trị của kinh nghiệm mà còn phủ nhận luôn cả hiện thực khách quan nữa. Điều nhảm nhí nhất trong những điều nhảm nhí đã trở thành hợp lí. Sợ nhất không phải là họ sẽ giết vì ta nghĩ khác mà là họ có thể đúng. Thực ra làm sao ta biết được rằng hai cộng với hai là bốn? Hoặc làm sao ta biết có lực hấp dẫn? Làm sao ta biết là quá khứ không thể thay đổI được? Hoặc giả nếu quá khứ và thế giới bên ngoài chỉ tồn tại trong tâm mà tâm có thể điều khiển được thì sao? Không! Anh chợt thấy mình mạnh mẽ lên rất nhiều. Khuôn mặt O'Brien đột ngột hiện về trong tâm trí anh. Bây giờ anh biết rõ rằng O'Brien ủng hộ anh. Anh đang viết nhật kí cho O'Brien, gửi O'Brien: giống như một bức thư dài bất tận, sẽ chẳng có ai đọc, nhưng đây là viết riêng cho một người và sẽ có ý nghĩa khác trước. Đảng bảo đừng tin vào tai mắt của chính mình. Đây chính là mệnh lệnh cuối cùng, mệnh lệnh quan trọng nhất của Đảng. Anh cảm thấy hoàn toàn chán nản khi nghĩ đến cái sức mạnh khủng khiếp đang bao vây mình, bất cứ một cán bộ chính trị nào của Đảng cũng có thể dễ dàng đánh bại anh trong các cuộc tranh luận, hắn sẽ dùng những lí lẽ mà anh không thể nào hiểu nổi chứ đừng nói có thể thể bác bỏ. Dù sao mặc lòng, chân lí ở phía anh! Chúng sai còn anh đúng. Một điều hiển nhiên, một điều giản dị, một điều đúng đắn cần phải được bảo vệ. Chân lí bao giờ cũng là chân lí, hãy giữ vững như thế! Thế giới đang tồn tại, các qui luật của nó không hề thay đổi. Đá thì cứng, nước thì ướt, vật không bị giữ sẽ rơi vào tâm trái đất. Cảm thấy như đang nói với O'Brien cũng như đang phát minh ra một sự thật hiển nhiên, Winston viết: Tự do là tự do phát biểu rằng hai cộng hai là bốn. Nếu điều này được đảm bảo thì mọi việc khác sẽ tự đến. VIII. Từ phía trong lối đi đưa tới mùi cà phê rang, mùi cà phê thật sự chứ không phải loại cà phê "Chiến thắng". Winston vô tình dừng bước. Anh như được quay về thời thơ ấu, chuyện đó kéo dài chừng hai giây. Rồi cách cửa bỗng đóng sập lại, chặn đứng mùi thơm của cà phê như chặn đứng tiếng động vậy. Anh đã đi mấy cây số, chổ loét do giãn tĩnh mạch tiếp tục hành hạ. Đây là lần thứ hai trong vòng ba tuần lễ anh bỏ sinh hoạt tại Trung Tâm: một hành động thiếu thận trọng vì người ta kiểm tra quân số kĩ lắm. Về nguyên tắc, đảng viên không có thời gian rỗi và không được ở một mình, trừ khi ngủ. Khi không làm, không ăn, không ngủ, đảng viên phải tham gia vào một hoạt động giải trí công cộng nào đó: làm bất cứ điều gì tỏ ra là thích được cô đơn, ví dụ đi bộ một mình, đều đáng ngờ cả. Có một từ trong Ngômo: sốngmột, để chỉ lối sống cá nhân, lập dị. Nhưng hôm nay, vừa bước ra khỏi Bộ anh đã bị không khí êm dịu của một buổi chiếu tháng tư lôi cuốn rồi. Năm ngoái trời không được xanh như thế này; cứ nghĩ đến một buổi tối kéo dài, ồn ào trong Trung Tâm; cứ nghĩ đến những trò chơi mệt mỏi, chán ngắt; cứ nghĩ đến những bài diễn văn, những cuộc tụ hội, dù có được bôi trơn bằng rượu Gin là anh đã cảm thấy không thể chịu được. Bất giác anh bước khỏi bến ô tô và bắt đầu lang thang khắp London, đầu tiên anh đi về hướng nam, rồi sang đông và lại lên bắc và bị lạc trong những con phố chưa từng đặt chân đến bao giờ, cuối cùng anh cứ đi mà chẳng thèm nghĩ xem mình đang đi đâu nữa. Nếu có hi vọng, anh đã viết trong nhật kí, thì đấy chính là bọn cu li. Câu đó, như một sự thật huyền nhiệm, cũng là một điều vô lí rành rành như vậy, cứ trở đi trở lại trong óc anh. Lúc này anh đang đi giữa một khu ổ chuột, phía đông bắc của khu vực trước đây gọi là Ga Saint Pancras. Anh đang đi """