"
15 Ngày luyện thi cấp tốc môn Ngữ Văn - Chuyên đề nghị luận văn học
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 15 Ngày luyện thi cấp tốc môn Ngữ Văn - Chuyên đề nghị luận văn học
Ebooks
Nhóm Zalo
Trang 1
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 2
Ngày 1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
+ Quê quán: Nam Đàn, Nghệ An > Giàu truyền thống yêu nước. + Xuất thân: gia đình nhà nho yêu nước.
+ Học vấn: thủa bé học chữ Hán sau đó học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp > Am hiểu văn hóa, văn học phương Đông (Trung Quốc) và văn hóa, văn học phương Tây (Pháp) > hai dòng phương Đông và Phương Tây quyện chảy trong huyết mạch văn chương.
- Vị lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn với di sản văn học quí giá. 2. Sự nghiệp sáng tác
a. Quan điểm sáng tác
+ Văn học là một thứ vũ khí lợi hại phụng sự cách mạng, nhà văn là người chiến sĩ xung phong trên mặt trận văn hoá tư tưởng (“Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong, “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.”…)
+ Coi trọng tính chân thật và tính dân tộc:
- Tính chân thật: cảm xúc chân thật, phản ánh hiện thực xác thực.
- Tính dân tộc: nội dung hướng vào đời sống cách mạng toàn dân tộc, hình thức ngôn ngữ trong sáng, phát huy “cốt cách dân tộc”, đồng thời đề cao sự sáng tạo.
+ Sáng tác xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức tác phẩm. Bác luôn đặt 4 câu hỏi: Viết cho ai (Đối tượng)? Viết đề làm gì (Mục đích)? Viết cái gì (Nộidung)? Viết như thế nào (Hình thức)?
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 3
+ Quan điểm sáng tác được thực thi, thể hiện nhuần nhuyễn, linh hoạt trong tất cả các tác phẩm của Người.
+ Hệ thống quan điểm nghệ thuật đúng đắn, có giá trị, thể hiện tầm vóc tủ tưởng của một nhà văn lớn.
b. Sự nghiệp văn học và phong cách nghệ thuật
+ Nhận định chung về phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh: - Độc đáo, đa dạng
- Bắt nguồn từ:
• Truyền thống gia đình, hoàn cảnh sống, quá trình hoạt động cách mạng, chịu ảnh hưởng và chủ động tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới.
• Quan điểm sáng tác.
+ Văn chính luận:
- Cơ sở: khát vọng giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ.
- Mục đích: đấu tranh chính trị, tiến công trực diện kẻ thù, giác ngộ quần chúng, thể hiện những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc qua những chặng đường lịch sử.
- Phong cách: ngắn gọn, tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp. B. TÁC PHẨM: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
1. Khái quát về tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời
+ Bối cảnh trong nước:
- Cách mạng tháng Tám thành công
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 4
- 8/1945: tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Bác soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập.
- 2- 9- 1945: đọc bản tuyên ngôn tại quảng trường Ba Đình. + Bối cảnh thế giới:
- Miền Bắc: quân Tưởng mà đứng sau là Mĩ đang lăm le.
- Miền Nam: quân Anh cũng sẵn sàng nhảy vào.
- Pháp: dã tâm xâm lược Việt Nam lần thứ 2.
b. Ý nghĩa lịch sử và giá trị văn học
+ Ý nghĩa lịch sử
- Mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc: đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của ách phong kiến, mở ra kỉ nguyên độc lập tự do cho đất nuớc và con người Việt Nam.
- Vạch trần luận điệu xảo trá bịp bợm của bọn thực dân, đế quốc, vạch trần dã tâm xâm lược và bản chất đê hèn của chúng trước nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới.
- Với nội dung khái quát sâu sắc cùng tầm vóc lớn lao của tư tưởng giải phóng dân tộc, nó khẳng định giá trị của lập trường tư tưởng chính nghĩa, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế.
+ Giá trị văn học
Áng văn chính luận mẫu mực
- Nội dung: Bản cáo trạng đanh thép kết tội quân xâm lược, nêu những luận điểm cơ bản về quyền con người và quyền độc lập dân tộc.
- Nghệ thuật: hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng hùng hồn, ngôn ngữ chính xác, tình cảm mãnh liệt > văn bản ngắn gọn, khúc chiết, trong
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 5
c. Bố cục: tuân thủ bố cục chặt chẽ của một tuyên ngôn
- Đoạn 1 (từ đầu – không ai có thể chối cãi được): nguyên lí chung của Tuyên ngôn độc lập.
- Đoạn 2 (tiếp – dân tộc đó phải được độc lập):Cơ sở thực tế của bản Tuyên ngôn (Tội ác của thực dân Pháp và thực tế đấu tranh giành độc lập của nhân dân)
- Đọan 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.
2. Phân tích văn bản
a. Đoạn 1
+ Mở đầu bằng cách trích dẫn 2 bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ + Ý nghĩa cách mở đầu:
- 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử tư tưởng nhân loại
- Vừa khôn khéo (tỏ ra tôn trọng tư tưởng đúng đắn của cha ông kẻ xâm lược), vừa kiên quyết (gậy ông đập lưng ông, lấy chính lí lẽ thiêng liêng của tổ tiên chúng để phê phán chúng)
- Ngầm gửi gắm lòng tự hào tự tôn dân tộc (sánh ngang bản tuyên ngôn khai sinh dân tộc Việt Nam với các bản tuyên ngôn bất hủ trên thế giới)
+ Trích dẫn sáng tạo
- Mĩ và Pháp: “con người”
- Hồ Chí Minh: nâng thành phạm vi “dân tộc”
phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 6
đến một bình luận khéo léo, kiên quyết “Đó là những lí lẽ không ai chối cãi được”
b. Đoạn 2
+ Tố cáo tội ác của thực dân Pháp
- Câu mở đầu: Câu chuyển tiếp tương phản với các lí lẽ đoạn 1 > Thực daâ Pháp đã phản bội tuyên ngôn thiêng liêng của tổ tiên chúng, pản bội tinh thần nhân đạocủa nhân loại
- Tố cáo trên 2 phương diện: gây ra tội ác trên mọi mặt dời sống (chính trị, kinh tế…), gây ra cho mọi đối tượng tầng lớp (dân cày, dân buôn, tư sản…)
- Nghệ thuật: thủ pháp liệt kê, điệp từ (chúng), động từ mạnh > Tội ác chồng chất, tiếp nối khó rửa hết.
hiện tội ác của thực dân Pháp. + Vạch trần bản chất hèn nhát để đập lại luận điệu bảo hộ xảo trá của Pháp - Chỉ ra: những việc Pháp làm ở Việt Nam không phải là công mà là tội.
- Dẫn chứng cụ thể, chi tiết (để 2 triệu người chết đói, lê gối đầu hàng, ta lấy nước từ Nhật chứ không phải từ Pháp…)
- Khẳng định: “thoát li hẳn”, “xóa bỏ hết” sợi dây ràng buộc Việt – Pháp + Phản ánh quá trình đấu tranh bền bỉ giành độc lập của dân tộc:
- Sự ra đời của nước Việt Nam như một tất yếu lịch sử (Pháp chạy, Nhật Hàng, vua Bảo đại thoái vị > 9 chữ ngắn gọn khái quát cả trăm năm lịch sử, mang âm vang sử thi hào hùng).
- Buộc các nước đồng minh phải công nhận độc lập (Chúng tôi tin rằng) c. Đoạn 3
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 7
+ Kết luận giản dị nhưng chắc chắn về quyền độc lập của Việt Nam > quyền bất khả xâm phạm, có tính chất chân lí.
+ Kêu gọi tha thiết toàn dân đoàn kết chống lại âm mưu kẻ thù. C. LUYỆN TẬP
Đề 1: Có người nói:”Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn là một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục”.
*Dàn bài
I.MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
- Đánh giá khái quát giá trị chủ yếu của tác phẩm, khẳng định sức chinh phục mạnh mẽ, lớn lao của bản Tuyên ngôn Độc lập là ở giá trị lịch sử to lớn và giá trị văn học xuất sắc.
II.THÂN BÀI
- Tuyên ngôn Độc lập – một văn kiện mang giá trị lịch sử to lớn. * Nêu thời gian và địa điểm ra đời của bản Tuyên ngôn.
* Sơ lược đôi nét về tình hình chính trị lúc bấy giờ. (Tình hình quốc tế và tình hình trong nước: âm mưu của thực dân Pháp và các cường quốc muốn tái chiếm Việt Nam, can thiệp sâu vào tình hình chính trị của Việt Nam). * Tầm vóc và sứ mạng lịch sử của bản tuyên ngôn (chặn đứng mọi âm mưu chống phá thành quả Cách mạng tháng Tám, chấm dứt một ngìn năm chế độ phong kiến, 80 năm nô lệ thực dân pháp, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc).
- Tuyên ngôn Độc lập – một tác phẩm chính luận xuất sắc.
* Bố cục: ngắn gọn, súc tích.
(Là một thông điệp chính trị, tác phẩm nhắc tới những mục đích tức thời, quan trọng, ưu tiên cho hàm lượng thông tin, triệt để tạo ra tác dụng chiến đấu, loại bỏ những âm mưu trực tiếp, nguy hiểm của kẻ thù).
* Lập luận chặt chẽ, đanh thép.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 8
(Viện dẫn hai bản tuyên ngôn của hai cường quốc Mĩ và Pháp đồng thời suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc bên cạnh quyền con người và quyền công dân).
Tố cáo sự chà đạp chân lý đó là thực dân Pháp ở Việt Nam, đặc biệt là sự lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái. Lên án sự phản bội trắng trợn, đê hèn, sự vong ơn bội nghĩa của chúng.
Khẳng định quyền tự chủ chính đáng của nhân dân Việt Nam. * Lý lẽ sắc bén hùng hồn.
(Sức mạnh của lí lẽ chính là sự thật. Tác giả đã dùng hàng loạt thực tế lịch sử để chứng minh: Thực dân Pháp đã không “bảo hộ” được Việt Nam. Thực dân Pháp đã phản bội Việt Nam, thực dân Pháp đã gieo rắc nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam).
Dùng thực tế để đánh tan những mơ hồ về chính trị.
Dùng thực tế để khẳng định công lao của Việt Minh – kẻ đại diện duy nhất của nhân dân Việt Nam.
Sự độc lập của Việt Nam phù hợp với lẽ phải, công lí và đạo lí. * Ngôn ngữ chính xác, giàu sắc thái biểu cảm. (Từ ngữ hết sức chọn lọc, súc tích). Dùng hàng loạt động từ, tính từ, quán từ … chính xác, giàu sắc thái biểu cảm. Cần chú ý thêm cách sử dụng hàng loạt điệp từ, điệp ngữ (có tính khẳng định và nhấn mạnh).
III.KẾT BÀI
- Khẳng định lại nội dung nhận định.
- Đánh giá tầm vóc lịch sử và giá trị văn học để có thể xem Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn bất hủ.
BÀI LÀM
Vào những thời điểm chuyển mình của lịch sử một dân tộc thường xuất hiện những ánh văn bất hủ, đánh dấu cho một thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến những tuyên ngôn nổi tiếng thế giới như Tuyên ngôn Độc lập của người Mĩ năm 1776, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân tộc ta cũng có những bản tuyên ngôn như vậy. Đó là Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 9
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh từ lâu vẫn được coi là “một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phục”. Có thể nói bản Tuyên ngôn là kết tinh trí tuệ của thời đại, là kết quả cao của “bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng” của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.
Ngày 26 tháng 8 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn và sau đó, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước 50 vạn đồng bào.
Sự kiện trọng đại ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc vào lịch sử như một mốc son chói lọi. Nhưng ta sẽ không hiểu hết tầm vóc và ý nghĩa của tác phẩm nếu không trở lại với không khí chính trị căng thẳng, nghiêm trọng cách đây hơn nửa thế kỉ.
Cho đến đầu mùa thu năm 1945, tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển thật mau lẹ. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đang đi vào những ngày cuối. Sự cáo chung của phe Phát xít và sự thắng trận của quân Đồng minh sẽ là kết cục không thể đảo ngược. Chớp lấy thời cơ đó, nhân dân ta, dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Việt Minh đã vùng lên cướp lấy chính quyền. Chỉ trong vòng một tuần lễ “Sao vàng năm cánh” không còn là “mộng” nữa mà đã tung bay trên khắp ba miền. Nhưng cũng chính lúc này, nhiều đế quốc bắt đầu nhòm ngó Đông Dương và không dấu giếm ý đồ thôn tính nước ta. Hội nghị Posdame tháng 7/1945 đã quyết định quân Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Chính phủ do tướng De Gaulle đại diện tuyên bố: sẽ tổ chức “Liên bang Đông Dương” thành năm nước! Không thể chần chừ, Việt Nam cần phải tuyên bố độc lập!
Bản Tuyên ngôn vì thế đã đóng vai trò hoàn tất một sứ mệnh lịch sử. Không còn nghi ngờ gi nữa, sự ra đời đúng lúc của bản Tuyên ngôn Độc lập đã chận đứng âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp, chống lại ý đồ can thiệp vào Việt Nam của đế quốc khác, mở đầu cho làn sóng giải phóng thuộc địa ở Châu Á, khẳng định chủ quyền và nâng cao giá trị của dân tộc ta trên trường quốc tế.
Bản Tuyên ngôn cũng đã chính thức chấm dứt 80 năm đô hộ của Thực dân Pháp, 5 năm cướp bóc, giày xéo của Phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong kiến. Với ý nghĩa như vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập đã thật sự khai sinh ra một
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 10
Bên cạnh những giá trị lịch sử to lớn đã nói trên, bản Tuyên ngôn còn là một bài văn chính luận tiêu biểu xuất sắc. Nó được viết trong cơn trở dạ của lịch sử để tạo ra bước ngoặc vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời nó cũng là kết quả của niềm khao khát tự do, độc lập cháy bỏng của dân tộc Việt nam đã tích tụ hàng ngàn năm. Bởi vậy, người đọc luôn luôn bị sự chinh phục lớn lao, mạnh mẽ của một áng hùng văn được kết tinh bởi trí tuệ và tâm huyết Hồ Chí Minh – Người con ưu tú của dân tộc – và bởi tự thân tác phẩm – tiếng nói chân lí của thời đại.
Mọi chân lí đều hết sức giản dị. Đây cũng là phẩm chất tiêu biểu tạo nên vẻ đẹp đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập. Ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học xưa nay lại có bố cục ngắn gọn, súc tích như vậy.
Trước hết, là một thông điệp chính trị, bản Tuyên ngôn hướng tới những mục đích nhất thời, quan trọng có tính cấp thiết, bức bách, nước sôi, lửa bỏng. Trong một tình thế như vậy, sự ngắn gọn, mạch lạc sẽ tạo nên hiệu quả thông tin nhanh chóng và triệt để. Tất nhiên, không phải sự ngắn gọn nào cũng tạo nên tính chất súc tích, cô đọng và không phải sự cô đọng nào cũng hàm chứa sức mạnh. Bản tuyên ngôn dường như chỉ xoáy sâu vào hai vấn đề lớn. Thứ nhất: phủ nhận hoàn toàn quyền dính líu tới Việt Nam của thực dân Pháp. Thứ hai: khẳng định quyền độc lập và quyết tâm sắt đá bảo vệ quyền độc lập đó.
Vì những mục tiêu này, các ý tưởng, các kiểu câu đều tuân theo nguyên tắc mạch lạc, ngắn gọn, sáng sủa.
Như đã nói ở trên, văn kiện lịch sử này không chỉ đọc trước quốc dân, đồng bào mà còn trước thế giới. Đây còn là thái độ của chúng ta trước kẻ thù. Cho nên, bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu bằng việc dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của hai cường quốc Pháp và Mĩ, từ đó suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc (bên cạnh quyền con người và quyền công dân) như một lẽ phải không ai chối cãi được. Vậy mà, hơn 80 năm, thực dân Pháp đã bất chấp lẽ phải ấy; chúng lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để nô dịch nhân dân ta. Hành động của chúng là sự chà đạp lên chân lý, trái với đạo lí và chính nghĩa, đi ngược lại những lời tuyên ngôn mà cách mạng Pháp đã đề ra. Không chỉ tố cáo những tội ác của thực dân Pháp, tác giả bản Tuyên ngôn còn vạch trần bộ mặt phản bội của chúng, khẳng định một cách dứt khoát quyền tựdo, độc lập chính đáng của dân tộc việt Nam.
Tất cả những lí lẽ và bằng chứng đưa ra đều được cấu trúc trong một hệ thống
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 11
những mưu đồ xâm lược của các lực lượng đế quốc nhằm giữ vững chính quyền – vấn đề quan trọng nhất đối với vận mệnh dân tộc ta lúc bấy giờ. Điều cần nói là, bản Tuyên ngôn đã không khởi đầu bằng việc nêu lên truyền thống chống ngoại xâm bảo vệ chủ quyền dân tộc từng chói ngời trong sử sách qua các triều đại Đinh, Lí, Trần, Lê … mà xuất phát từ các nguyên tắc do chính các nước tư bản đã nêu ra và thừa nhận, đặc biệt là các nước thuộc phe Đồng minh. Rõ ràng trong lập luận, tác giả bản Tuyên ngôn vừa chứng tỏ sự tôn trọng thành quả văn hoá của nhân loại, vừa là ngầm buộc các cường quốc phải tựngẫm lại mình mà thừa nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Để tố cáo thực dân Pháp, tác giả đã vạch năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế cùng hàng loạt sự phản bội đê hèn và trắng trợn vào những thời điểm cụ thể nên dù muốn chối cãi, chúng cũng không thể.
Để tránh những mơ hồ, những “mập mờ đánh lận con đen” mà thực dân Pháp đã cố dựa vào như một nguỵ thuyết để rắp tâm quay trở lại thống trị nước ta, một lần nữa, tác giả đã vạch rõ: “Mùa thu năm 1940, Phát xít nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật.”
(…)Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải của Pháp nữa.
(…)Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Với bút lực mạnh mẽ của một trí tuệ siêu việt, vì sự thấu hiểu tình hình chính trị một cách sâu sắc, bằng những chứng cứ đầy đủ và xác thực, bản Tuyên ngôn thực sự là bản cáo trạng đanh thép lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp. Tuy nhiên, sức mạnh chinh phục của bản Tuyên ngôn còn là ở sự chính xác và giàu sức biểu cảm của hệ thống ngôn từ. Chẳng hạn, sau khi viện dẫn hai bản tuyên ngôn, nhưng không dừng lại ở nội dung hai bản Tuyên ngôn đó mà suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc. Tác giả khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, tác giả viết: “Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.”, “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong những bể máu…”, “Chúng ràng buộc (…) chúng bóc lột (…) chúng cướp (…) chúng giữ độc quyền (…) chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị …”. Khi tuyên bố thoát li hẳn với thực dân Pháp, bản Tuyên ngôn có những từ vừa chính xác vừa chọn lọc: “Xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về (chứ không phải với) nước Việt Nam,
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 12
xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Ngoài ra, việc sử dụng hàng loạt điệp từ, điệp ngữ vừa tạo hiệu quả cao trong việc khẳng định các ý tưởng, vừa bảo đảm độ chính xác và sức mạnh cho lí lẽ vừa gợi xúc cảm nhằm tác động đến nhân tâm, thôi thúc người nghe nhận ra và thừa nhận chân lí.
Tất cả những điều đó đã khẳng định trình độ nghệ thuật xuất sắc của tác giả, đưa Tuyên ngôn Độc lập trở thành một mẫu mực của thể văn chính luận. Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng Tuyên ngôn Độc lập vẫn là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn đồng thời là một tác phẩm chính luận xuất sắc, mẫu mực. Tuyên ngôn Độc lập – mở đầu cho kỉ nguyên độc lập, tự do, tạo điều kiện cho mọi thay đổi căn bản của đời sống dân tộc, trong đó có văn học.
Đề 2: Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: “Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”. (Giảng văn Văn học Việt Nam, Tái bản lần thừ nhất – Nhà xuất bản giáo dục, 1997, trang 490). Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập để làm sáng tỏ ý trên.
* Yêu cầu
Đề bài nghiêng về nghệ thuật. Đây là đề tổng hợp các khía cạnh về nghệ thuật của Hồ Chí Minh được thể hiện trong tác phẩm Tuyên Ngôn Độc Lập. Các khía cạnh đó đã được nói rõ và cụ thể trong câu trích của đề bài. Vấn đề còn lại là qua văn bản của tác phẩm, tiến hành phân tích để làm sáng tỏ các khía cạnh nghệ thuật đó, làm nổi bật vẻ đẹp của tác phẩm. Bài làm cần phân tích lần lượt từng khía cạnh nghệ thuật của Tuyên ngôn Độc lập với những dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp; sau đó cần tiểu kết lại, nêu giá trị nghệ thuật chung đặc sắc của tác phẩm: đó là một bài văn chính luận hùng hồn, đanh thép, đầy sức thuyết phục được xem như là mẫu mực của loại văn nghị luận. Nghệ thuật ấy đã chấp cánh cho nội dung tiến bộ, sâu sắc, tạo nên áng văn mở nước bất hủ của thời đại mới.
BÀI LÀM
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 13
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một cây bút nghệ thuật đa phong cách. Từ “Truyện và ký Nguyễn Ái Quốc”, người đọc thích thú tiếp cận với những áng văn xuôi Châu Âu hiện đại vừa sắc sảo, sáng tạo, vừa dí dỏm thông minh với chất trào phúng đầy trí tuệ của một cây bút truyện ngắn hiện đại bậc thầy. “Nhật kí trong tù” lại đi vào lòng người với những vần thơ hàm súc, thâm thuý, kết hợp nhuần nhuỵ chất cổ điển và hiện đại, bút pháp hiện thực nghiêm ngặt và lãng mạn bay bổng – những tác phẩm nếu đặt cạnh thi phẩm đời Đường, đời Tống ta cũng khó có thể phân biệt được. Nếu như đến với thơ ca kháng chiến, ngòi bút thi ca Hồ Chí Minh tươi tắn trong cảm xúc hồn nhiên, thì đọc “Tuyên ngôn Độc lập”, ta lại bắt gặp áng văn chính luận mẫu mực của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Bản tuyên ngôn có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người nghe, người đọc bởi chính tài nghệ của Bác mà “Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được. Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết, kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và của nhân loại”, đúng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá. Tác phẩm không chỉ kết tinh tâm hồn Bác – điểm hội tụ những nét đẹp tinh tuý của dân tộc, những tình cảm thiết tha và sâu lắng của thời đại; mà hơn hết, còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh nói chung, rất độc đáo và đặc sắc. Ngược dòng thời gian, lật lại những trang sử vàng của dân tộc, ta như sống trong những âm vang náo nức của thời đại anh hùng. Soi mình vào tấm gương văn học trong sang và trung thực vô ngần, lịch sử đời sống, tâm hồn con người hiện lên trong ta thật sống động. Và mấy ai có thể quên những ngày tháng Tám năm 1945 sôi nổi, hào hùng, xua tan màn đêm u ám, nặng nề của chế độ thực dân phong kiến, thổi vào cuộc đời mỗi kiếp lầm than làn gió hồi sinh nồng ấm. Khi đó, cả dân tộc Việt Nam, từ bùn lầy tăm tối của gông xiềng nô lệ đã “Rũ bùn đứng lên sáng lòa”, vươn lên làm chủ đất nước. Khi đó lịch sử cuộn chảy sang kỉ nguyên mới: kỉ nguyên độc lập, tự do. Nhưng dân tộc ta không bị ngủ trong men say và hào quang chiến thắng mà hơn lúc nào cần phải tỉnh táo nhận thấy tính mệnh “ngàn cân treo sợi tóc”của đất nước, bởi núp sau danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, bọn đế quốc, thực dân với âm mưu xâm chiếm nước ta một lần nữa, bởi những thế lực phản động trong nước đang ngóc đầu dậy nhằm lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Chính trong giờ khắc trọng đại ấy của lịch sử, “Tuyên ngôn
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 14
tác giả mà quan trọng hơn, còn là tiếng nói của lịch sử, đáp ứng yêu cầu đặt nền móng pháp lí vững chắc đầu tiên xây dựng nước Việt Nam độc lập muôn đời.
Đối tượng bản tuyên ngôn hướng tới là ai? Trên quảng trường Ba Đình rực nắng, giữa lồng lộng trời thu xanh cao buổi ấy, giọng của Bác “ấm từng tiếng, thấm vào lòng mong ước” (Tố Hữu): “Hỡi đồng bào cả nước” – hai tiếng “đồng bào” giản dị mà rưng rưng một niềm cảm động, yêu thương. Nhân dân là những người viết lên trang sử, những chủ nhân đất nước, nên lẽ tự nhiên, đó là đối
tượng đầu tiên Bác hướng tới. Chưa hết! Thay mặt nhân dân Việt Nam, Bác còn viết cho nhân dân thế giới, cho công luận quốc tế: “Chúng tôi … trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng …” nhưng có lẽ sâu xa hơn và cũng là trước hết, đối tượng “thế giới” ở đây trùng với đế quốc mĩ, Anh, Pháp và bè lũ phản động Trung Hoa Quốc dân đảng – những kẻ đã tung ra dư luận thế giới những lí lẽ hùng hồn, những luận điệu xảo trá nhằm “ hợp thức hóa” cuộc xâm lược nước ta. Bản tuyên ngôn, một mặt lật tẩy bản chất xấu xa đê hèn của chúng, mặt khác đập tan những luận điệu, bác bỏ những lí lẽ của chúng bằng một hệ thống lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được: Vừa thuyết phục về khoa học, lí trí, vừa lay động sâu xa ý thức, tâm hồn người nghe, người đọc, thể văn chính luận trở thành vũ khí sắc bén và lợi hại vô cùng trong cuộc luận chiến với kẻ thù, kết tinh đỉnh cao tài năng của một ngòi bút sắc sảo, trí tuệ; và ẩn đằng sau đó, lung linh tỏa sáng “Một tầm tư tưởng, tầm văn hoá lớn” của con người đại diện mẫu mực cho tầm vóc lịch sử, cho sức mạnh trí tuệ của con người Việt Nam, của thời đại anh hùng.
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tao hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”… “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh mở ra bằng những câu văn trích trong hai văn kiện lập quốc: “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của Mĩ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của cách mạng Pháp 1791. Những lời bất hủ ấy về quyền sống bình đẳng, sống tự do, sống hạnh phúc, không ai không thể công nhận bởi nó đã được thực tế lịch sử chứng minh, đã trải nghiệm xương máu qua hai cuộc cách mạng dân tộc dân chủ điển hình của nhân loại. Bác không khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc “rành rành định phận tại sách trời” (Nam quốc sơn hà – Lý Thường Kiệt), mà chỉ với việc trích dẫn
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 15
những tuyên ngôn làm rạng danh truyền thống đấu tranh và văn hóa nước Mĩ, nước Pháp, những nguyên lí cách mạng có giá trị chân lí muôn đời, Bác đã “bắn một mũi tên trúng được nhiều đích”. Đế quốc Mĩ núp sau danh nghĩa Đồng minh vào nước ta để cướp nước ư? Thực dân Pháp muốn quay trở lại tiếp tục “bảo hộ” Đông Dương ư? Thì đây, ngay từ đầu âm mưu của chúng đã bị chặn đứng lại trước những lời răn dạy, cảnh tỉnh của chính tổ tiên, cha ông chúng. Với đôi mắt sáng suốt, nhìn xa trông rộng, Bác đã thấy kẻ thù cụ thể trước mắt sẽ xâm lược dân tộc ta là thực dân Pháp, đằng sau đó là đế quốc Mĩ nên mở đầu bản tuyên ngôn, Bác đã rung hồi chuông cảnh báo: nếu chúng xâm lược Việt Nam là đi ngược lại lời cha ông chúng, là đứa “thất hứa”. Ý nghĩa sâu sắc và đanh thép ấy ẩn dưới cách nói khéo léo, tỏ ra tôn cao, tôn trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ, nhưng thật chất thể hiện sự mềm dẻo của sách lược, thắt bụng chúng như “lạt mềm buộc chặt”. Thật thú vị và cũng thích đáng biết bao với cú đòn “lấy gậy ông đập lưng ông” của Bác. Với phương pháp suy lí diễn dịch, câu nói “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” chốt lại đinh ninh đanh thép, khẳng định lập trường chính nghĩa và đặt cơ sở pháp lí vững chắc cho nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Đúng là đọc tuyên ngôn phải đọc giữa hai dòng chữ thì mới thấm thía những ý vị sâu xa, mở ra bao nhiêu liên tưởng, phong phú nén chặt trong từng câu, từng chữ hàm súc, chắc chắn “như đinh đóng cột”. Cảm quan cách mạng nhạy bén, trí tuệ sắc sảo của tư tưởng lớn Hồ Chí Minh kết đọng, tỏa sáng với lời văn của bản tuyên ngôn.
Trích dẫn văn kiện lập quốc của Mĩ và Pháp – hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, bản tuyên ngôn của Bác đã nâng cao tầm vóc văn hóa của dân tộc Việt Nam, sánh ngang với ánh sáng văn minh thế giới, một dân tộc với bề dầy truyền thống “vốn xưng nền văn hóa đã lâu”. Ta như gặp lại âm hưởng ngân vang, tự hào của áng “thiên cổ hùng văn” “Bình Ngô đại cáo” khi đặt nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngang hàng với những nước lớn trên thế giới, cũng như cha ông ta xưa kia: “Từ Triệu, Đinh, Lê, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương”. Hơn nữa, cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 cũng nâng lên tầm vóc thế giới, kết hợp vừa “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, vừa “đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa” những nhiệm vụ cuộc cách mạng Mĩ 1776 và cách mạng Pháp 1791 đã giải quyết. Nối liền trong nguồn mạch dạt
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 16
nay với quá khứ ngàn xưa, niềm tự hào dân tộc từ ngàn xưa như kết tinh lại trong thời điểm hiện đại, cùng âm vang tha thiết hào hùng. Tư tưởng Hồ chí minh đã vượt phạm vi trong nước nhỏ hẹp vươn đến tầm cao nhân loại, vượt thời gian, không gian hiện tại, bắt gặp và lắng đọng “hồn thiêng sông núi”. Nét sáng tạo linh hoạt, mới mẻ của ngòi bút văn phong chính luận của Bác, không chỉ ở việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn trên mà Bác còn mở rộng, phát triển lên tư tưởng mới” “… lời bất hủ ấy ở trong bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng: dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Từ quyền con người Bác đã vận dụng thiết thực, sáng tạo vào quyền độc lập dân tộc. Câu nói không chỉ thức tỉnh trí tuệ Việt Nam mà trí tuệ nhân loại cũng như bừng tỉnh, hay nói như giáo sư nguyễn Đăng Mạnh, đó là “phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX”. Những lí lẽ sắc bén, chặt chẽ giàu sức thuyết phục thể hiện ngòi bút già dặn “ cao tay” của một nhà tư tưởng, nhà văn hóa lớn có tầm vóc nhân loại, kết tinh trí tuệ tình cảm tha thiết và sâu lắng của thời đại, của con người. Hệ thống lập luận của tuyên ngôn không chỉ chặt chẽ trong việc đặt cơ sở pháp lí của nền độc lập dân tộc mà còn rất toàn diện khi đưa ra cơ sở thực tế của Tuyên ngôn. Và có lẽ những “bằng chứng sống” của hiện thực lịch sử, những lí lẽ của sự thật có sức tác động trực tiếp và sức thuyết phục mạnh mẽ hơn cả đến tâm hồn người nghe, nguời đọc. Kẻ thù trước mắt đang lăm le quay trở lại xâm lược nước ta, đó là thực dân Pháp. Và đòn đánh trực diện đầu tiên của bản tuyên ngôn đó là đoạn văn tố cáo tội ác của chúng. Bắt đầu từ hai tiếng “ Thế mà … “, mạch văn chuyển rất tự nhiên, lay chuyển nhận thức con người từ những nguyên lí cao đẹp vừa nêu trong hai bản tuyên ngôn đến thực tế nước Việt Nam. Không nói gián tiếp kín đáo mà đến đây, ngòi bút sắc sảo của Bác như lưỡi dao sắc bén đi sâu vào bản chất thực dân Pháp, bóc trần danh nghĩa “khai hóa”, “Bảo hộ” mà chúng đã rêu rao, dưới lá cờ “Tự do, bình đẳng, bác ái”, chỉ thẳng “hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Một hệ thống luận cứ chặt chẽ, toàn diện, tiêu biểu và đầy ấn tượng tung ra dưới bút lực dồi dào, sắc sảo của Bác. Mọi phương diện đời sống xã hội Việt Nam đều in dấu tội ác của thực dân Pháp: về chính trị, chúng cướp nước ta, thủ tiêu quyền tự do dân chủ, chia cắt cơ thể thống nhất đất nước thành ba chế độ, ngăn cản khối đoàn kết dân tộc; về kinh tế, chúng “Bóc lột dân ta đến xương tuỷ”, kìm hãm nền kinh tế dân tộc
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 17
không những không “Bảo hộ” nước ta mà còn “bán nước ta hai lần cho Nhật”. Từng câu, từng chữ bên cạnh những thuật ngữ chính trị còn ám ảnh, nhức nhối đến sâu thẳm tâm can người đọc bởi sức mạnh nghệ thuật văn chương. Những câu ngắn như dồn nén bao căm hận, ẩn đằng sau đó là sôi trào máu và nước mắt thấm đầu ngòi bút. Mỗi câu vang lên đanh thép, chất chứa hờn căm như những lời tuyên án, mở đầu là hàng loạt từ “Chúng” với những hành động tàn bạo “Thẳng tay chém giết”, “tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta bằng những bể máu”, “ràng buộc dư luận”, “bóc lột dân ta đến xương tủy”… và từ đó dội xuống như búa tạ đến “nhân dân ta”, “nhà nước ta”, “nòi giống ta”, “dân tộc ta”… Nỗi đau đã lặn vào trong tù và từ trái tim yêu thương, nhân đạo thiết tha, từ tấm lòng đau đớn vì bị cứa những vết dao sắc của Bác bật lên những hình ảnh giàu sức gợi cảm, ngắn gọn, chính xác: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Ta nghe trong lời của Bác âm vang tiếng nói cha ông – tiếng nói hờn căm tội ác “trời không dung, đất không tha” của kẻ thù khi chúng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. (Cáo Bình Ngô – Nguyễn Trãi)
Với nét bút hiện thực sắc sảo, giàu giá trị thẩm mĩ, bản Tuyên ngôn rất hàm súc, đã vẽ lên bức tranh một thời kỳ lịch sử đau thương của dân tộc với những gam màu xám lạnh trên nền máu và nước mắt kéo dài “từ Quảng Trị đến Bắc kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Những trang văn ấy lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc, là bằng chứng xác thực “không thể chối cãi được” tạo lí lẽ lật tẩy bộ mặt tàn bạo của thực dân Pháp, đi ngược lại truyền thống văn hóa của nước Pháp, của nhân loại. Đằng sau những trang văn day dứt ấy là tâm hồn nhân đạo cao cả của Hồ Chí Minh – “Người đã đói mọi cơn đói ngày xưa – Người đã chết hai triệu lần năm đói bốn lăm khủng khiếp” (Nhà thơ Cuba A.Rôđờrighết). Cảm xúc quyện hòa với lí trí tạo nên sức mạnh chiến đấu sắc sảo của văn phong chính luận Hồ Chí Minh.
Để khẳng đinh trước công luận quốc tế nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. “Tuyên ngôn Độc lập” rất độc đáo và chặt chẽ khi tạo nên thế đối lập giữa thực dân Pháp và dân tộc ta. Nếu như khi Nhật đến, Pháp bộc lộ rõ bản chất đê hèn “Quì gối đầu hàng, mở cửa nước rước Nhật”. Khi Nhật đảo chính, thực dân Pháp bỏ chạy, hoặc đầu hàng, thì nhân dân ta anh dũng vùng lên quật khởi. Âm hưởng ngợi ca trào lên với điệp khúc “sự thật” láy đi láy lại như tô đậm, khắc tạo hình ảnh dân tộc bất khuất, anh hùng. Không những thế, nhân dân ta còn nhân đạo ngay cả đối với kẻ thù.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 18
Đập lại lập luận của thực dân Pháp, Đông Dương là thuộc địa của thực dân Pháp và chúng có quyền trở lại Đông Dương là những khẳng định đanh thép – khẳng định bằng chân lí của sự thật: “Sự thật là từ mùa Thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa… Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Rõ ràng luận điệu xảo trá của thực dân Pháp đã bị đập tan bằng lí lẽ, bằng chứng xác đáng, đầy thuyết phục.
Từ sự đấu tranh kiên cường của dân tộc tất yếu gặt hái được những kết quả chân chính: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bản tuyên ngôn thắt buộc các nước Đồng minh khi khẳng định Việt Nam đã “gan góc đứng về phe Đồng minh chống Phát xít mấy năm nay” (Trong khi thực dân Pháp đầu hàng Phát xít Nhật) một lần nữa lại chận được âm mưu của các nước đế quốc. Những câu văn khẳng định: “chúng tôi tin rằng…” hoặc phủ định của phủ định “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam”. Những câu văn với những kết cấu song song: “một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” tạo nên những điệp khúc âm vang, vừa hào hùng, vừa đanh thép. Bản tuyên ngôn kết thúc với câu móc xích trùng điệp: “nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập – toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”, câu nói như chạm khắc ý chí sắt đá giữ vững nền độc lập của dân tộc ta trên trang sử vàng của dân tộc. Tác phẩm kết lại cũng chính là mở đầu một thời kỳ mới đấu tranh giữ vững chủ quyền đất nước.
“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh xứng đáng là áng văn mẫu mực của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, đi từ ràng buộc này đến thắt buộc khác, với hệ thống luận cứ toàn diện, kết cấu trùng điệp, văn phong sắc sảo, bản tuyên ngôn hướng tới nhiều đối tượng với nhiều giọng điệu khác nhau: tha thiết, sâu lắng yêu thương với quốc dân, đồng bào; Đanh thép, rắn rỏi cảnh tỉnh, bác bỏ lý lẽ bọn đế quốc, thực dân phản động; Trang trọng tự tin tuyên bố độc lập trước công luận quốc tế… Tác phẩm thuyết phục người đọc bởi hệ thống lập luận khoa học, xác đáng, hơn nữa còn đi vào lòng người bằng vẻ đẹp văn chương gợi cảm, giàu tính thẩm mĩ. Bản tuyên ngôn thừa kế truyền thống các áng tuyên ngôn độc lập của cha ông chúng ta, đồng
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 19
Tạo nên áng văn chính luận mẫu mực ấy là tư tưởng, trí tuệ Hồ Chí Minh, một tầm văn hóa sánh ngang tinh hoa nhân loại. Với cái nhìn sáng suốt, tỉnh táo, thấu suốt bản chất của kẻ thù, Bác đã vận dụng linh hoạt, khéo léo thể văn chính luận để lật tẩy bộ mặt kẻ thù, đập tan luận điệu giả dối của chúng. Với cái nhìn yêu thương, chủ nghĩa nhân đạo trí tuệ của người cộng sản, những trang văn của Bác thấm nhuần tư tưởng yêu nước, nhân ái của dân tộc, ca ngợi, tự hào sức mạnh quật cường của dân tộc và sâu sắc hơn, khơi dậy ngọn lửa đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của nhân loại, của dân tộc trên thế giới. Tầm văn hóa lớn, những trải nghiệm bản thân đã giúp Bác đúc kết nên chân lý của dân tộc, lịch sử và thời đại “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi, như ngọn đuốc soi đường cho con người tiến lên xã hội văn minh, tiến bộ.
Với tầm tư tưởng, tầm văn hóa ấy, “Tuyên ngôn độc lập” không có dung lượng đồ sộ như những tác phẩm lớn trên thế giới mà ngược lại, tác phẩm rất “ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết”.Ngắn gọn trong số lượng câu, chữ của tác phẩm, có thể đếm được. Trong sáng giản dị với những từ thuần Việt vừa chính xác, vừa hình tượng, câu văn hàm súc, cô đọng mà gợi mở nhiều lớp nghĩa, nhiều mã số. Ví dụ mỗi câu trong bản Tuyên ngôn: “Pháp thua, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, câu văn chỉ có bảy tiếng mà đã đi gần 100 năm lịch sử, khái quát những sự kiện trọng yếu của dân tộc. Sự thật lịch sử gợi lên trước mắt người đọc với không khí sử thi hoành tráng, không khí vùng lên quật khởi của dân tộc và tư thế của kẻ thù, tay sai bán nước. Những câu văn ngắn gọn nhưng lại hàm chứa năng lượng thẩm mĩ lớn khi miêu tả tội ác đẫm máu của kẻ thù, rung động lòng người sâu sắc. Âm vang của những câu văn còn dư ba mãi. Và đúng như câu nói “Cái đẹp nằm ngay trong sự giản dị”, “Tuyên ngôn độc lập” súc tích, nhưng dồn nén bao giá trị tư tưởng, nghệ thuật cũng như ý nghĩa lịch sử to lớn của dân tộc ta trong mùa Thu lịch sử.
Trước “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh, ta đã có bài thơ: “Thần” của Lý Thường Kiệt, “Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi, những áng tuyên ngôn ấy khắc chữ vàng trên bia đá lịch sử muôn đời những mốc sơn rực rỡ của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế kỉ đấu tranh vì “Độc lập, tự do, vì nhân quyền và dân quyền của dân tộc và của nhân loại”. Có thể nói “Tuyên ngôn độc lập” là kết tinh truyền thống yêu nước của dân tộc và tinh thần của thời đại mà lắng lòng mình trong đó, ta có thể nghe thấy “Lời non nước – tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau” (Tố Hữu). Tác phẩm tiêu biểu cho văn phong chính luận sắc sảo, giàu
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 20
gọn, giản dị mà hàm súc, sâu sắc; kết hợp dân tộc và thời đại, thấu tình đạt lí… Người đọc không chỉ thấy được một cây bút nghệ thuật tài năng, trí tuệ mà còn bắt gặp, yêu thương tâm hồn nhân đạo cao cả của Hồ Chí Minh. Lịch sử đã lùi xa, nhưng mỗi lần đọc lại bản “Tuyên ngôn độc lập” của Bác, ta lại thấy thể hiện lên buổi sáng Ba Đình lịch sử với cờ hoa, nắng vàng rực rỡ, với bầu trời thu xanh lồng lộng và hình ảnh người cha già kính yêu. Bác đứng đó, với mái đầu bạc gần gũi, với giọng nói trầm ấm mà âm vang cả sông núi, đất trời, và chỉ một câu hỏi “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?” tâm hồn ta đã rung lên hòa điệu trong điệu hồn muôn người, điệu hồn dân tộc. “Tuyên ngôn Độc lập”là văn kiện lịch sử có giá trị muôn đời, không chỉ đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc mà còn đóng góp cho tinh hoa nhân loại trí tuệ, tâm hồn Hồ Chí Minh. Tác phẩm mãi mãi được gìn giữ trân trọng bởi giá trị nghệ thuật và tư tưởng sáng đẹp của Người.
Đề 3: Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo léo vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hãy phân tích để làm sáng tỏ điều đó.
* Dàn bài chi tiết
I. MỞ BÀI
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là mẫu mực của loại văn nghị luận. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn mở đầu được viết rất cao tay: vừa khéo léo vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. II. THÂN BÀI
1/ Nhiệm vụ của phần mở đầu một bản Tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài. Nguyên lí của Tuyên ngôn độc lập là khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc. Nhưng ở đây Bác không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà lại dựa vào hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây chính là nghệ thuật “Lấy gậy ông đập lưng ông”.
2/ Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hóa của những dân tộc ấy. Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết:
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 21
- Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khoá miệng” bọn đế quốc Pháp, Mĩ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào nước ta (sự thật lịch sử đã chứng tỏ điều này).
- Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm dấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
3/ Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1791).
- Sau khi nhắc đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “Suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX (lịch sử cũng đã chứng tỏ điều này).
III. KẾT BÀI
Đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là một đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ.
Đề 4: Phân tích phần tuyên ngôn trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (từ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” cho đến hết), nêu rõ:
1. Ý nghĩa sâu sắc của “phần tuyên ngôn”.
2. Lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện đầy sức thuyết phục. *Dàn bài chi tiết
1.Ý nghĩa sâu sắc của “Phần tuyên ngôn” trong bản “Tuyên ngôn Độc lập”: a/ Ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập rất sâu sắc và tiến bộ:
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 22
- Đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập.
- Đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà.
Như vậy là, cùng một lúc, Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết cả hai nhiệm vụ: độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân để đưa nước Việt Nam sang một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của độc lập tự do và Chủ nghĩa xã hội (Bình Ngô đại cáo xưa kia, do lịch sử, chỉ mới giải quyết được độc lập dân tộc).
b. Nội dung tuyên ngôn: đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, dứt khoát: - Tuyên bố thoát li và xóa bỏ mọi điều với Pháp (về quan hệ, hiệp ước, đặc quyền).
- Tuyên bố với thế giới về độc lập và tự do của nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam trên cả ba phương diện:
*Có quyền hưởng tự do và độc lập.
*Sự thật đã thành một nước tự do và độc lập.
*Quyết giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
2/ Lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện đầy sức thuyết phục: a. Lập luận chặt chẽ:
- Lời tổng kết tình hình trong một câu ngắn gọn, hàm súc: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”.
- Nêu ý nghĩa lịch sử của bản Tuyên ngôn Độc lập bằng hai câu gọn rõ: - Tuyên bố với Pháp: “thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam (về chứ không phải với), xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất Việt Nam (chữ dùng chính xác và dứt khoát)”. - Tranh thủ các nước đồng minh (“Tin rằng”… quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam).
- Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam một cách mạnh mẽ bằng những điệp ngữ được láy đi láy lại (“một dân tộc đã gan góc…! Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”).
Những điều trên đây là tiền đề về lý luận đồng thời cũng là để tạo không khí đưa bài văn đến cao trào, đến lời tuyên bố cuối cùng, lời tuyên bố trịnh trọng
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 23
b. Giọng văn hùng biện: ở phần lập luận trên cũng đã cho ta thấy rõ giọng văn hùng biện qua cách dùng từ, qua điệp ngữ, qua lời văn trang trọng và giọng văn đanh thép, dứt khoát, khẳng định.
Tất cả đã làm nên sức thuyết phục mạnh mẽ của “Phần tuyên ngôn” trong bảng tuyên ngôn Độc lập lịch sử này. Đó là do tài nghệ của tác giả.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 24
Ngày 2. TÂY TIẾN – QUANG DŨNG
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
“Quang Dũng viết khá sớm (trước Tây Tiến – 1948, anh đã làm thơ, mặc dù phải từ Tây Tiến, anh mới khẳng định được một phong cách thơ riêng) và sáng tác nhiều thể loại. Tác giả của bài hát Ba Vì mờ cao mà mỗi nốt nhạc, lời thơ từng lắng sâu vào đáy hồn những người thanh niên xa nhà đi kháng Pháp, cũng là tác giả của nhiều bài thơ tình nằm trong ký ức sâu thẳm và thành hành trang tinh thần của nhiều thế hệ, nhiều thời (Mắt người Sơn Tây, Tây Tiến, Những làng đã qua, Đường trăng…) mà phần nhiều được truyền bằng những bản chép tay chứ không cần đến bản in giấy trắng, mực đen. Quang Dũng là tác giả của những tập truyện ký, với phong thái riêng khó lẫn, lại cũng là tác giả của những bức tranh, đa phần là tranh lụa, vẽ phong cảnh. Viết sớm và nhiều như vậy, nhưng vốn là người thích “giang hồ”, lại vốn không chuyên tâm đến việc xuất bản, in ấn và lưu giữ, vì thế sáng tác của Quang Dũng bị thất lạc nhiều. Và, cho đến hết đời, Quang Dũng vẫn chỉ là chủ nhân của một gia tài không mấy lớn lao so với những bạn viết cùng lứa, cùng thời: hai tập thơ và ba tập văn xuôi (kể cả những tập in chung với bạn thơ, bạn văn). Quang Dũng sống đôn hậu và trong con người đôn hậu ấy ẩn chứa một tâm hồn nghệ sĩ hùng hậu, đầy vẻ dân dã. Dù sớm phải xa quê, giã nhà đi kháng chiến, nhưng trên suốt nẻo đường chinh chiến, đi đâu, đến đâu và làm gì, con người bình dị ấy vẫn luôn hướng về quê hương. Quang Dũng có khả năng hòa hợp tuyệt diệu và rung động tinh nhạy với những chòm xóm, cảnh quê, với tình cảm đồng quê chân mộc, lam lũ nhưng cũng rất thơ mộng. Chính cảm xúc hồn hậu ấy, cái hồn quê ấy là cái hồn của những bức tranh quê được phát vẽ tài tình trong thơ anh bằng ngòi bút của một nghệ sĩ có năng khiếu thẩm mĩ tổng hợp – “Cầm, kì, thi, hoạ”. Cảnh hiện lên trong thơ anh không bàng bạc mà có thần thái, sinh động trong sự hòa hợp nhuần nhuyễn của âm thanh với sắc màu, của tình với cảnh. Có một sức gì níu giữ, gợi cảm ở những cảnh quê chân mộc thế này:
Bến cuối thôn xuân hoa gạo rơi
Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 25
Ấm áp trong mưa tiếng nói cười…
Hoặc: Là những đường quân qua bến làng
Hoa nhài thơm ngõ đượm quân trang
Lớp này lớp khác người sang hết
Thuyền lại nằm phơi dưới nguyệt vàng
Hoặc nữa: Nắng nửa sông xa mờ khí núi
Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu…
Trong thơ Quang Dũng, hầu hết là những “bức tranh quê” như thế. Với ý tưởng chủ đạo “quê hương trường cửu cùng non nước; Ba chục năm trời vẹn ý thơ”,Quang Dũng đã cố gắng lột tả cho hết vẻ đẹp nồng hậu của quê hương Việt Nam với những nét đặc sắc riêng không lẫn, góp cho thơ Việt Nam những bức tranh quê đầm thấm, xúc động lòng người.Trong tình yêu quê hương, đất nước mênh mang ấy, vẫn có một góc niềm riêng sâu thẳm, trong lành nhất, Quang Dũng dành riêng cho xứ Đoài-quê hương anh, nơi anh từng sống gắn bó suốt tuổi thơ. Có người đã nói”Quang Dũng là nhà thơ của xứ Đoài”, quả cũng một phần có lí. Viết về xứ Đoài, thơ anh đằm sâu, da diết cả trong tâm tưởng và tình cảm. Những ngày phải xa quê, canh cánh trong anh là nỗi mong ngóng nhớ nhung khắc khoải về vùng quê xa ấy:
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Nhiều khi không kìm được, anh phải thốt thành lời cho nguôi ngoai nỗi nhớ” Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm…” Cháy bỏng nỗi khát khao, ngày được trở lại, được say sưa hít thở không khí thôn dã, được đắm mình trong hương mùa màng, được tận hưởng niềm vui thưởng ngoạn tận hưởng vẻ đẹp của quê hương:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 26
Có người làm thơ lấy cái “chân” làm gốc, lại cũng có người trọng sự tài hoa. Ở Quang Dũng là sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp chân chất, dân dã với tài hoa tinh tế. Nhiều bài thơ, do vậy đạt đến độ chân tài. Bên cạnh Tây Tiến, là những bài thơ từng sống và lắng sâu trong tâm tưởng người đọc: Mắt người Sơn Tây, Những làng đã qua, Đường trăng, Những cô hàng xóm… Quang Dũng viết hồn nhiên và rất thật. Dường như chưa bao giờ anh giấu mình và càng không bao giờ dối mình trong thơ. Từ sự dấn thân, mang đậm hào khí của cả một lớp người thời đại:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…
Đến những kỉ niệm, những tâm sự buồn vui của cuộc đời chinh chiến và sau này nữa, cả cảm giác chật chội thiếu chân trời trong Mây đầu ô đều là tâm sự thật, cảm giác thật của riêng anh được bộc bạch trên trang giấy. Những lời nhắc nhở trong Đường chiều thứ bảy, cũng mang nét riêng của Quang Dũng: không gân cốt mà thấm thía bởi đó là sự nhắn gửi thiết tha của một tấm lòng nhân hậu, trọng nghĩa tình.
Thơ Quang Dũng có nhiều bài lắng buồn: Mưa, Quán nước, Thu, Chiều núi mưa rào… Ngay cả cái buồn ấy cũng là tâm trạng thực của anh viết ra nhiều khi dễ gây hiểu lầm, song anh vẫn không ngại bộc bạch.
Quang Dũng không viết một cái gì chung chung. Với anh, thơ là sản phẩm, mang sắc thái riêng và cụ thể những gì anh đã sống trải, quan sát và ghi nhận được.Phần không nhỏ tạo nên sức hấp dẫn và giá trị lâu dài của thơ chính là ở tính cụ thể, chân sát ấy. Nhờ vậy, chúng ta mới có được những bài thơ có sức gợi dựng lại cả một thời hoặc lưu khắc lại chân dung sát thực của cả một thế hệ, dạng như Tây Tiến, Những làng đã qua, đường 12, những cô hàng xóm, đường trăng…
Dù Quang Dũng để lại cho chúng ta không nhiều thơ nhưng mặc nhiên bốn mươi năm nay, anh là nhà thơ được mến mộ. Với Rừng Biển quê hương (tập thơ in chung với Trần Lê Văn), Bài thơ Sông Hồng, Mây đầu ô Quang Dũng đã dành cho chúng ta phần quý đẹp riêng của tâm hồn và cá tính sáng tạo độc đáo của một nghệ sĩ chân tài, đầy nhiệt tâm với quê hương, đất nước và con người.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 27
(Quang Dũng, Tạp chí văn học số 3 – 1990, TR 39-41)
B. LUYỆN TẬP
Đề 1: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng: “Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
BÀI LÀM
I. MỞ BÀI
Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân thù và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng. Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng Chí” (Chính
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 28
Hữu), “Nhớ” (Hồng Nguyên)… và “Tây Tiến” của Quang Dũng. Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.
II. THÂN BÀI
“Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ
hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 29
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 30
miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”.
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 31
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
III. KẾT BÀI
Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công, là kết hợp hài hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá
Đề 2: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng: “…Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 32
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
BÀI LÀM
I. MỞ BÀI
“Tây Tiến” là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến “ áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (“ Nhớ” – Hồng Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy thương yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc – Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng” (Mắt người Sơn Tây – 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, hoạt động và chiến đấu ở thượng nguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang Sầm Nứa, trên dải biên cương Việt – Lào. Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người là những chàng trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ “Tây Tiến” nói lên nỗi nhớ
của tác giả sau một thời gian xa rời đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”
Bài thơ gồm có 4 phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian khổ… Đoạn thơ trên đây gồm có 16 câu thơ, là phần 2 và phần 3 của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh đầy tự hào về đồng đội thân yêu.
Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời”,người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 33
Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi rừng, của Mai Châu,… và hương của tình thương mến.
Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
“Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều – 3096). Quang Dũng đã có một sự nhào nặn lại: hội đuốc hoa – đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện của “em”, của “nắng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô phù xao Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là đại từ để trỏ, đứng đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách,… như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.
Xa Tây Tiến mới có bao ngày thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”, nhớ “chiều sương Châu Mộc ấy”. Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ mộng lại hiện lên và ùa về:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 34
Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”… rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những kỉ niệm trở về… Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền độc mộc “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.
Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Phần ba bài thơ nói về đoàn binh Tây Tiến. Quang Dũng sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên bức chân dung những đồng đội thân yêu của mình. Ở phần một nói về con đường hành quân vô cùng gian khổ để khắc hoạ chí khí anh hùng các chiến sĩ Tây Tiến; Phần hai, đi sâu miêu tả vẻ đẹp lãng mạn của những chiến binh hào hoa, yêu đời. Phần ba này, người đọc cảm thấy nhà thơ dang nhớ, đang ngắm nhìn, đang hồi tưởng, đang nghĩ về từng gương mặt thân yêu, đã cùng mình vào sinh ra tử, nếm trải nhiều gian khổ một thời trận mạc. Như một đoạn phim cận cảnh gợi tả cái dữ dội, cái khốc liệt một thời máu lửa oai hùng. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc hun đúc qua 4.000 năm lịch sử được nâng lên tầm vóc mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 35
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “ Đoàn binh không mọc tóc”, “ Quân xanh màu lá”, tương phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần; “ Tướng sĩ kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” là tầm vóc các nghĩa sĩ Lam Sơn. “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”; Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng “ xác thù chất đống xây thành chiến công”. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có những cơn mơ đẹp: “ đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “ đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của những anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ…” Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 36
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các từ Hán Việt xuất hiện bất ngờ trong đoạn thơ (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ kính, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh. Có xót xa thương tiếc. Không bi lụy yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động như thế:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước”
(“Đất nước” - Nguyễn Khoa Điềm)
Những tháng năm chiến tranh đã đi qua. Đoàn binh Tây Tiến những ai còn ai mất, những ai đã “lấy đá ven rừng chép chiến công”? “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?” – xưa nay, buổi chiến tranh, mấy ai đi chinh chiến còn trở về?
Đoạn thơ trên đây cho thấy cái tâm đẹp và cái tài hoa của Quang Dũng. Nếu Chính Hữu, qua bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nông dân mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ “Tây Tiến” đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến. Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng.
III. KẾT BÀI
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 37
Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì “Tây Tiến” đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 38
Ngày 3. VIỆT BẮC – TỐ HỮU
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Để diễn tả những tình cảm cách mạng cao quí của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tố Hữu đã dùng lối hát giao duyên đối đáp giữa nam và nữ trong các hội hè đình đám ở miền Bắc nước ta. Thay vào nội dung tình yêu đôi lứa của dân ca bằng tình nghĩa cách mạng, tấm lòng son sắt thủy chung với Đảng, với nhân dân, qua cách nói, cách xưng hô “mình - ta”, tình cảm cao quí đó trở nên gần gũi, thắm thiết hơn. Hai nhân vật trữ tình trong bài thơ là người cán bộ về xuôi, tượng trưng cho dân tộc Kinh và người dân Việt Bắc, tượng trưng cho dân tộc miền ngược. Do đó tình cảm cách mạng ở đây còn là tình đoàn kết gắn bó giữa hai vùng miền xuôi - miền ngược, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta.
2. Hai mươi câu thơ mơ đầu bài thơ là lời trao gởi ân tình thắm thiết của Việt Bắc đối vơi cán bộ cách mạng về xuôi. Một loại câu hỏi tu từ và điệp kiểu câu:
“Mình về mình có nhớ ta…
Mình về mình có nhớ không…
Tiếng ai…
Mình đi,có nhớ những ngày…”
Gợi cho người đọc cảm nhận được tình cảm lưu luyến không muốn rời trong buổi chia tay người đi - kẻ ở, qua ý thơ: Người về có nhớ ta không?
a. Nhớ Việt Bắc là nhớ quê hương cách mạng, nhớ ngọn nguồn cách mạng, nơi đã bảo bọc cán bộ, chiến sĩ cách mạng trong những ngày sóng gió, khi Đảng còn non trẻ.
Hình ảnh “mười lăm năm ấy” là một hình ảnh cụ thể nhắc nhở thời kỳ đầu thành lập lực lượng vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, cho đến ngày kháng chiến chống pháp thắng lợi. Cả một thời gian
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 39
cho nên: “NNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?”. Người ra đi làm sao tránh khỏi tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng? Hai tính từ lấp láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” cùng hiện diện trong câu thơ đối ý càng khắc họa đậm nét tâm trạng ấy.
b. Nhớ Việt Bắc còn là những kỷ niệm gian khổ, khó khăn trong thời kỳ kháng chiến.
Câu thơ liệt kê “Mưa nguồn suối lũ”, được nhấn mạnh thêm bằng từ “những”, từ “cùng” để tạo một loạt “những mây cùng mù” nhấn mạnh thêm ý gian khổ, vất vả của cuộc sống kháng chiến. Hình ảnh “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” có sức khái quát cao, nói lên tình đoàn kết chiến đấu, chia sẻ gian lao giữa hai vùng miền xuôi - miền ngược là thấm thía.
c. Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ tình nghĩa đồng bào. Bằng cách nói mộc mạc, diễn tả tình cảm kín đáo mà tha thiết, tác giả bộc lộ niềm thương nỗi nhớ của người ở lại.
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”. “Trám”, “măng” là đặc sản của Việt Bắc, từng làm thức ăn lót lòng thay ngô, sắn, cơm, khoai trong những ngày kháng chiến. Ngày nay, qua rồi thời kỳ đói khổ, khó khăn, nhắc nhở những sản vật này với tấm lòng thiết tha trìu mến đối với Việt Bắc; xem đó là kỷ niệm sâu sắc trong đời. Để làm nổi bật tấm lòng son sắc, thuỷ chung, thủ pháp đối lập đã được nhà thơ sử dụng thành công. “Hắt hiu lau xám Đậm đà lòng son” >>> Biện pháp đảo ngữ ở đây làm cho hình ảnh câu thơ càng thêm sinh động.
3. Đoạn sau là lời đáp thiết tha tình nghĩa của cán bộ cách mạng trước lúc chia tay. Đoạn thơ đã tái hiện cảnh và người Việt Bắc bằng những chi tiết tiêu biểu nhất, đẹp đẽ nhất.
a. Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa:
Hình ảnh tượng trưng: “Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa “chia, sẻ, cùng” diễn tả được mối tình cảm “chia ngọt sẻ bùi” giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong “củ sắn”, “bát cơm”, “chăn sui”… mà người cán bộ
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 40
Hình ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng… gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi.
Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc. Câu thơ đối ý mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn: “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”
Âm thanh “tiếng mõ rừng chiều” và “chày đêm nện cối đều đều suối xa” là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua.
Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Một loạt từ chỉ màu sắc, xanh, đỏ tươi, trắng, vàng… tạo một cảm giác tươi mát, vui mắt cho các bức tranh phong cảnh. Mùa xuân với hoa mai nở trắng rừng. Mùa hạ với âm thanh “ve kêu” tạo thành một bản hợp tấu của rừng xanh. Mùa thu với ánh trăng hòa bình êm đềm trong sáng. Giữa cây cỏ thiên nhiên, Con người Việt Bắc hiền hòa, nhân hậu lao động cần cù: đan nón chuốt tùng sơi giang, hái măng một mình. Bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động và có ý nghĩa hơn.
b. Việt Bắc còn nghi lại những chiến công của bộ đội, dân quân ta trong kháng chiến chống pháp. Đoạn thơ toát lên vẻ đẹp hào hùng của dân quân ta:
“ Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Bằng những điệp từ “điệp điệp, trùng trùng” và từ ngữ láy phụ âm đầu “rầm rập” diễn tả được hào khí ngút trời của bộ đội, dân công trên đường ra mặt trận.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 41
Với lối nói thậm xưng “bước chân nát đá” tác giả cũng muốn nhấn mạnh sự lớn dậy và kiên cường, bất khuất của bộ đội ta thời kỳ này.
c. Việt Bắc còn là đầu não của cuộc kháng chiến toàn quốc, là niềm tin vững chắc của nhân dân về Đảng,về lãnh tụ:
“Nhìn lên Việt Bắc…
Trông về Việt Bắc…”
Câu thơ nói lên vị trí quan trọng của Việt Bắc mà cũng là nhấn mạnh uy tín của Bác, của Đảng đối với toàn dân, toàn quân trong thời kỳ kháng chiến gian khổ.
B. LUYỆN TẬP
Đề 1. Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu: “Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
………………………………………
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
*Dàn bài chi tiết
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu khái quát tác giả và tác phẩm:
+ Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thi ca hiện đại. “Ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tưởng cộng sản”.
+ Tập thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu đồng thời cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Trong đó, bài thơ “Việt Bắc” được coi là kết tinh sở trường nghệ thuật của ngòi bút Tố Hữu.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 42
- Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
+ Sau chiến thắng Điện Biên, trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ đã rời “thủ đô gió ngàn” về với “thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình” để tiếp quản thủ đô và nhận nhiệm vụ mới của cách mạng.
+ Nhân sự kiện có thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ:
+ Bài thơ vừa là tiếng hát ngọt ngào thấm đẫm chất trữ tình và tấm lòng ân nghĩa thuỷ chung của miền ngược và miền xuôi, của tác giả, cán bộ kháng chiến đối với quê hương Việt Bắc; vừa là bản anh hùng ca về thế ra trận đầy sức mạnh, chiến công của cả một dân tộc quyết “chín năm làm một Điện Biên; nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
+ Việt Bắc xứng đáng là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và của thơ Cách mạng nói chung.
- Nêu vấn đề: Một trong những đoạn gây xúc động lòng người là phần đầu của bài thơ. Bằng lối đối đáp và cách sử dụng đại từ “mình – ta” quen thuộc của ca dao, đoạn thơ giống như một lời hát giao duyên đằm thắm, thiết tha, thể hiện tâm trạng luyến lưu giữa đồng bào Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến trong ngày chia tay ngậm ngùi.
II. THÂN BÀI
1. Vài nét về cấu tứ của bài thơ và sắc thái tâm trạng:
- Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay....
+ Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 43
- Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi. Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng.
+ Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương.
+ Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
2. Khung cảnh buổi chia ly.
a. Người ở lại lên tiếng trước: khúc dạo đầu.
- Mở đầu bài thơ là một khung cảnh chia tay của hai người với tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, xao xuyến, lưu luyến, vấn vương… khi hồi tưởng về những kỉ niệm gắn bó bền lâu, sâu nặng.
+ Người ở lại rất nhạy cảm, sợ bạn mình sẽ thay đổi tình cảm khi về thành nên luôn luôn gợi nhắc những kỉ niệm sâu nặng:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
+ Trong bốn câu thơ mở đầu, điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. Và cách xưng hô “mình – ta” mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng đến ca dao:
“Mình về ta chẳng cho về,
Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 44
Tố Hữu đã vận dụng yếu tố truyền thống của văn học dân tộc để thể hiện tình cảm gắn bó thuỷ chung của đồng bào đối với cách mạng.
+ Đoạn mở đầu gồm bốn câu tạo thành hai cặp lục bát và cũng là hai câu hát rất cân đối, hài hoà. Một câu hỏi hướng về thời gian: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” của nghĩa tình Cách mạng kháng chiến.
“Mười lăm năm ấy” là chi tiết hiện thực chỉ độ dài thời gian, từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh. Đồng thời, đó cũng là chi tiết gợi cảm – nói lên chiều gắn bó thương nhớ vô vàn.
Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều. Mười lăm năm cũng bằng thời gian Kim - Kiều xa cách trong thương nhớ mong đợi hướng về nhau:
“Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Âm điệu thơ thật ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy mà cũng dạt dào thiết tha.
+ Tiếp theo đó là một câu hỏi hướng về không gian của một vùng chiến khu thiêng liêng: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc vì Việt Bắc là quê hương, cội nguồn cách mạng. Việt Bắc là căn cứ địa của cách mạng, là cái nôi nuôi dưỡng, che chở cho Đảng, cho Chính phủ, bộ đội ta trước và trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Việt Bắc còn là cội nguồn của chiến thắng: Trước cách mạng tháng Tám, từ Việt Bắc ta tiến về giải phóng thủ đô Hà Nội thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; sau Cách mạng tháng Tám, từ Việt Bắc ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp và kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Ở đây, Tố Hữu đã mượn người ở lại hỏi người ra đi như để nhắc nhở mọi người cũng là nhắc nhở chính mình, hãy nhớ lấy đạo lý ân tình, chung thuỷ, “uống
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 45
Hai cặp lục bát nói trên có sự láy lại “mình về” và điệp từ “nhớ” ngân lên như một nỗi niềm lưu luyến đến day dứt khôn nguôi. Điều đó đã tạo được không khí cho khúc dạo đầu của cuộc chia ly có một không hai này.
b. Cảnh tiễn đưa đầy lưu luyến của kẻ ở người đi.
- Sau khúc dạo đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng, tha thiết đến bồn chồn của bước đi cả hai người, như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến, vấn vương:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
+ Đại từ “ai”, một đại từ rất quen thuộc trong ca dao, dân ca; một đại từ vừa phiếm chỉ, vừa cụ thể làm cho lời thơ trở nên trữ tình, tha thiết như khúc hát giao duyên quan họ. “Tiếng ai tha thiết bên cồn” là những lời hỏi han ân cần, tha thiết của đồng bào Việt Bắc, gợi biết bao kỉ niệm trong mười lăm năm gắn bó với người cán bộ kháng chiến.
+ Chỉ hai câu thơ lục bát đã diễn tả được ba trạng thái tình cảm sâu sắc thường chỉ có trong trái tim của những cặp tình nhân say đắm.
• “Tha thiết” như tiếng nói cất lên từ đáy lòng đầy yêu thương; • “bâng khuâng” như một sự tiếc nuối, hụt hẫng;
Rồi “bồn chồn” không yên như trạng thái nôn nao chờ đợi, phấp phỏng ngóng trông của tấc lòng.
Những từ láy và cũng là tính từ, cùng với phép đảo ngữ, cặp tiểu đối đã làm tăng lên biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy ắp kỉ niệm, giờ phải rời xa, biết lưu lại hình ảnh nào, do vậy không tránh khỏi nỗi niềm thương nhớ, bâng khuâng khó tả.
- Nó không chỉ thấm sâu vào trong lòng mà còn hằn lên từng bước đi:
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 46
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay?”
+ Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa gợi cảm, vừa cụ thể, vừa trượng trưng.
Màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người Việt Bắc, của vùng quê nghèo thượng du đồi núi. Nhưng màu áo đó mãi không phai, đậm đà như tấm lòng thuỷ chung, sắt son của họ vậy.
Trong tâm thức của người Việt Nam, màu áo chàm còn tượng trưng cho sự giản dị, chân thành, mộc mạc, đơn sơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Như vậy, “áo chàm” là hình ảnh có giá trị khắc hoạ trang phục truyền thống của đồng bào Việt Bắc, nhưng cũng để nói lên rằng toàn dân Việt Bắc đều ân cần tiễn đưa những người cán bộ về miền xuôi.
+ Đặc biệt hình ảnh “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” có giá trị biểu cảm rất lớn. Cái tình “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” thì có lời nào tả cho hết được. Tình cảm càng thắm đượm, nồng nàn thì ngôn từ càng bất lực. Cho nên, nói gì đó cho đủ thoả khi trái tim đầy ắp cảm xúc, thật khó nói nên lời chứ không phải là không có gì để giải bày. Người đi - kẻ ở chỉ biết “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
• Cái cử chỉ “cầm tay” cũng rất xúc động. Bàn tay ấm nóng trao cảm thương với trái tim run rẩy vì xúc động đã nói được nhiều hơn mọi lời bằng âm thanh ríu rít.
• Nhịp thơ 3/3/3/3/2 diễn tả rất tài tình một cái gì đó như một thoáng ngập ngừng, bối rối trong tâm trạng và cử chỉ. Và ba dấu chấm lửng đặt cuối câu như là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng.
Như thế, chỉ bằng mấy câu thơ giản dị, Tố Hữu đã dựng lên được cảnh chia tay rất giàu màu sắc trữ tình, đầy đủ thời gian, không gian và của kẻ ở người đi.
III. KẾT BÀI
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 47
- Đoạn thơ thể hiện được tấm lòng thuỷ chung son sắt giữa người ra đi và người ở lại. Những tình cảm trong sáng đó rất tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước, anh hùng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Thể thơ lục bát êm đềm, sâu lắng, cách dùng đại từ “mình – ta” thân mật, điệp từ “nhớ” lặp lại nhiều lần làm cho giọng điệu đoạn thơ ngọt ngào da diết diễn tả được chiều sâu tâm hồn và tình cảm con người Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Đề 2. Cảm nhận về đoạn thơ sau:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
…………………………..
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
*Dàn bài chi tiết
I. MỞ BÀI
- Việt Bắc là bản tổng kết về những thành tựu chính trị trên đất nước ta từ năm thành lập Mặt trận Việt Minh, thời kì chuẩn bị Tổng khởi nghĩa đến lúc cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi hoàn toàn. Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu của Tố Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng, là tác phẩm xuất sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp nói chung.
- Đoạn thơ là những lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc đối với người cán bộ kháng chiến về những ngày gian khổ, thiếu thốn ở vùng căn cứ địa cách mạng, gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng, với biết bao nghĩa trọng thân tình.
II. THÂN BÀI
- Đoạn thơ gồm mười hai dòng nhắc nhớ những ngày tháng gian khổ ở chiến khu Việt Bắc; mười hai dòng tạo thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỉ
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 48
+ Chỉ mười hai câu thơ nhưng đều xoáy sâu vào kỉ niệm của những ngày Cách mạng còn non yếu (còn trứng nước), tuy tươi vui, lạc quan nhưng cũng lắm gian nan, cơ cực. Chính vì thế, điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là ghi nhớ, là nhắc nhở…
+ Có những câu hỏi gợi về những sinh hoạt gian khổ nhưng sâu nặng nghĩa tình:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùa”
Nhà thơ sử dụng hàng loạt những hình ảnh lấy ra từ thực tế đời sống kháng chiến như “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”, đó là đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc trong những ngày khắc nghiệt, gợi ra những gian nan vất vả của những ngày kháng chiến. Ngoài ra, biện pháp liệt kê cùng hai từ “những, cùng” cho thấy những khó khăn diễn ra dồn dập, liên tục.
“Mình về có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”
“Miếng cơm chấm muối” là hình ảnh chân thực được rút ra từ kháng chiến đầy gian nan. Hình ảnh “mối thù nặng vai” đã cụ thể hoá, vật chất hoá mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược.
Biện pháp tiểu đối giữa hai vế trong câu thơ “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” làm nổi bật giữa một bên là đời sống thiếu thốn, gian khổ và một bên là là lòng căm thù giặc oằn nặng trên vai.
Cách nói của Tố Hữu rất giàu hình ảnh. Mối thù là một tình cảm trừu tượng không thể thấy được, sờ được nhưng nói “mối thù nặng vai” thì cái điều trừu tượng kia đã được trọng lượng hoá một cách cụ thể. Mối thù càng nặng bao nhiêu thì lòng căm thù giặc sâu sắc bấy nhiêu.
Hai hình ảnh “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” đối xứng và kết lại với nhau tạo nên một ý nghĩa mới mẻ, sâu xa: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 49
chung gian khổ, cùng mang một mối thù thực dân là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vang dội, chiến công chói lọi.
+ Có câu hỏi lại gợi về hình ảnh thiên nhiên gắn bó với đời sống sinh hoạt kháng chiến, giờ cách xa chúng cũng như mang hồn người và trở nên ngẩn ngơ, buồn vắng:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhó những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Cay đắng gian khổ không che lấp được nghĩa tình. Tác giả diễn đạt rất hay cái tình của đồng bào Việt Bắc theo kiểu diễn đạt kín đáo nhưng tha thiết của ca dao.
“Rừng núi” là cách nói hoán dụ để nói về đồng bào Việt Bắc. Nói “rừng núi nhớ ai” là muốn nói đồng bào Việt Bắc nhớ người cán bộ kháng chiến.
Tại sao “trám bùi để rụng, măng mai để già”? Vì đồng bào Việt Bắc muốn để giành những món ăn này cho người cán bộ kháng chiến với ước mong có ngày họ sẽ trở lại. Đó là tấm lòng, là ân tình của đồng bào Việt Bắc với cách mạng. Người ra đi rồi thì trám bùi, măng mai biết giành cho ai, chỉ để rụng, để già mà thôi.
Câu thơ “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” là câu thơ tuyệt hay. Cái hay trước hết là sự chân thực, giản dị. Những mái nhà lợp bằng tranh, bằng lá cọ nghèo nàn, những ngon lau xám hắt hiu trước gió, những bữa ăn chỉ toàn bằng sắn, khoai… nhưng tấm lòng của người dân đối với Cách mạng, với kháng chiến thật “đậm đà lòng son”, thuỷ chung ân nghĩa.
“Hắt hiu lau xám” đối với “đậm đà lòng son” cùng với thủ pháp đảo ngữ càng làm nổi rõ tấm lòng cao quý, đùm bọc, chở che của nhân dân với cán bộ. Hoàn cảnh càng gian nan, thiếu thốn, lòng dân với Cách mạng, kháng chiến càng sắt
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 50
- Nhớ Việt Bắc là nhớ đến vùng căn cứ địa cách mạng, mảnh đất chiến khu gắn liền với những sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
+ “Núi non” là hình ảnh hoán dụ để chỉ đồng bào Việt Bắc vì họ là những con người sống ở nơi này. Thiên nhiên, mảnh đất, con người biết bao ân tình, biết bao kỉ niệm, người đi làm sao có thể quên.
+ Đó là khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh. Tại Việt Bắc, Việt Nam độc lập đồng minh hội, tức Mặt trận Việt Minh được thành lập vào năm 1941 để lãnh đạo toàn dân kháng Nhật chống Pháp. Những địa danh nơi đây đã đi vào cách mạng Việt Nam, cây đa Tân Trào, mái đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân đại hội vào tháng 8 năm 1945 thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng và phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành thành công trên cả nước. Dưới gốc đa cổ thụ, cách đình Tân Trào 100m là nơi làm lễ xuất quân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay.
+ Trong câu “mình đi mình có nhớ mình” từ “mình” xuất hiện ba lần, có tính đa nghĩa, thật là đặc biệt. “Mình” vừa là người ra đi, vừa là phân thân chủ thể trữ tình. “Mình đi” là người cán bộ, “mình có nhớ mình” cũng là người cán bộ. Đồng bào Việt Bắc muốn nhắc nhở người cán bộ kháng chiến phải nhớ đến những phẩm chất tốt đẹp của chính mình trước đây, đừng tự đánh mất chính mình trong hoàn cảnh mới.
+ Câu thơ cuối cùng có sự đổi chỗ thú vị: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào được hoán vị thành “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” tạo nên tính chất mới mẻ, độc đáo cho câu thơ lục bát. Các địa danh Tân Trào, Hồng Thái có giá trị lịch sử to lớn. trong câu thơ này, chúng được đồng nghĩa với chính mình. Cho nên, người cán bộ về xuôi chỉ xa cách về không gian địa lý nhưng không có sự xa cách trong tâm hồn. Những “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 51
>>> Sáu cặp lục bát nói trên được tác giả sử dụng cách ngắt nhịp đều đặn, vận dụng nghệ thuật tiểu đối tài tình làm cho đoạn thơ có nhạc tính réo rắt ngân vang, dễ thấm vào tâm hồn người đọc. Lời thơ Tố Hữu vì thế vừa phảng phất màu sắc cổ điển như những câu Kiều, vừa bình dị gần gũi thân quen như những câu ca dao, dân ca rất hấp dẫn.
III. KẾT BÀI
- Đoạn thơ gồm mười hai câu thơ lục bát tạo thành sáu câu hỏi như khắc sâu vào kỉ niệm người đi. Mỗi câu đều gợi lại nét tiêu biểu trong chuỗi kỉ niệm về Việt Bắc: Việt Bắc gian khổ thiếu thốn, Việt Bắc nghĩa tình sâu đậm, Việt Bắc gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của cách mạng Việt Nam.
- Cái độc đáo trong đoạn thơ là chất nhạc. Chính nhạc điệu làm cho kỉ niệm trở nên ngân nga réo rắt, thấm sâu vào tâm trí người đọc. Đặc biệt, những câu bát tương xứng nhau về cấu trúc qua phép tiểu đối hài hoà trong nhịp thơ 4/4 ngân nga trầm bổng khiến câu thơ lục bát của Tố Hữu mang nét đẹp hiện đại mới lạ.
- Đoạn thơ mang đậm phong cách trữ tình – chính trị. Nhà thơ nói về vấn đề lớn lao của dân tộc nhưng được diễn tả qua ngôn ngữ mềm mại, giản dị, chí nghĩa, chí tình, nên thơ, nên nhạc gây ấn tượng ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Đề 3. Cảm nhận về đoạn thơ sau:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
…………………………………….
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
*Dàn ý chi tiết
I. MỞ BÀI
- Việt Bắc là tập thơ xuất sắc của Tố Hữu nằm trong tập thơ Việt Bắc, sáng tác
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 52
- Bằng lối đối đáp và cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” quen thuộc của ca dao, bài thơ như một bài hát giao duyên thể hiện ân tình sâu đậm giữa đồng bào Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến về xuôi.
- Đoạn thơ này là lời người cán bộ kháng chiến về xuôi đáp lại lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc. Trong đoạn thơ, ta thấy cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ người đi thật đẹp và cũng thật tình nghĩa. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha và sâu đậm, bao phủ cả không gian, thời gian và đầy ắp tâm trạng của người cán bộ kháng chiến.
II. THÂN BÀI
1. Mở đầu đoạn thơ là lời đáp của người ra đi khẳng định tình cảm thuỷ chung của mình:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
- Người ra đi đã khẳng định “mình đi, mình lại nhớ mình” là để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc ở trên (“Mình đi mình có nhớ mình”…). Đây là lời khẳng định: người cán bộ kháng chiến về thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Nói cách khác, đây là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến.
- “Ta – mình”, “mình – ta” quấn quýt, quyện hoà, ta với mình là một. Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đinh ninh là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi, gắn bó, thuỷ chung với Việt Bắc. Việt Bắc là cái nôi cội nguồn của cách mạng làm sao dễ dàng quên.
- Sự so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định sự chung thuỷ son sắt với Việt Bắc như tình yêu đôi lứa bền chặt, mãi mãi, không bao giờ cạn như nguồn nước kia.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 53
+ Trong tâm thức của người Việt Nam, nước nguồn được chảy ra vì công lao, tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha.
+ “Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đọc câu thơ, ta có cảm giác dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng nữa mà là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt.
2. Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng:
- Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc vừa đa dạng, vừa cụ thể. Trong cuộc đời, có mảnh đất nào đã đi qua, đã từng gắn bó mà khi ra đi lại không để thương nhớ cho lòng người. Trong hoài niệm của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những ngày mưa rừng sương núi mà còn là một vùng đất thơ mộng, thanh bình, yên ả gợi bao nỗi nhớ niềm thương:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Một nỗi nhớ cháy bỏng, tha thiết, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là phải xa nhau thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng với thiên nhiên, với đồng bào Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Vì vậy, cảnh và người phút chốc lại trở về vơi đầy trong tâm trí của người ra đi.
+ Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”,
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 54
“Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” vừa là cảnh thật vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trăng là ban đêm, nắng là ban ngày. Như vậy, nỗi nhớ ở đây bao trùm khắp cả không gian và thời gian.
Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng nương”, từ “rừng nứa”, “bờ tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh bình, những buổi chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương. Nhớ cảnh núi đèo, bản làng chìm trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông và hình ảnh con người thân thương, tảo tần đi về hôm sớm.
+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ ngày càng mênh mông, bất tận. Ở đoạn thơ này, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấp áp, vui tươi. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến như thế:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
(Chế Lan Viên)
Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa, khi ta sống ở đó rồi, lúc ra đi ta cảm thấy trái tim cứ dào lên biết bao nỗi vấn vương thương nhớ, nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà ta vô tình bắt gặp:
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
3. Nhớ nhất là nếp sống của con người Việt Bắc vô cùng gian khổ nhưng nghĩa tình sâu nặng:
“Ta đi ta nhớ những ngày
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 55
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
- Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng là những con người giàu tình nghĩa. Họ sẵn sàng chia sẻ cho người cán bộ kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, mảnh “chăn sui”. Hình ảnh thơ thật mộc mạc, giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay xương máu, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày. Quả chẳng là đáng bao nhiêu nhưng nghĩa tình thì rất nặng. Cuộc sống những ngày ấy tình quân dân như cá với nước, thân tình như trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
- Đặc biệt, Tố Hữu không thể nào quên hình ảnh những người mẹ: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
+ Hình ảnh những bà mẹ tần tảo, chịu thương chịu khó cõng con, cõng cả nắng trời cháy trên lưng trên rẫy bẻ từng bắp ngô, nuôi giấu cán bộ cứ trở đi trở lại trong thi phẩm của nhà thơ.
+ Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt Bắc. Mẹ là nhân vật lịch sử góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của dân tộc nên thơ ca Việt Nam nhiều lần thổn thức bởi cái “lưng” của người mẹ:
+ “Lưng còng đổ bóng xuống sân ga”
(Những bóng người trên sân ga – Nguyễn Bính)
+ “Bóng tròn che lưng mẹ
Nhớ về anh mẹ khóc”
(Bóng cây kơnia – Ngọc Anh)
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 56
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”
(Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm)
4. Cuộc sống của đồng bào và những cán bộ chiến sĩ ở Việt Bắc đầy khó khăn gian khổ nhưng tinh thần lại rất lạc quan, yêu đời, gắn bó bên nhau.
Ta bắt gặp những hình ảnh, âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt của người cán bộ và nhân dân Việt Bắc:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
- Đó là những lớp học “i tờ” nhằm xoá nạn mù chữ, mang ánh sáng văn hoá cho đồng bào Việt Bắc.
- Đó là những “đồng khuya đuốc sáng” để liên hoan mừng tin thắng trận.
- Người cán bộ các cơ quan ở chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp tuy sinh hoạt thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn “ca vang núi đèo”. Đó là tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào chiến thắng ở tương lai.
- Trong tiếng “ca vang núi rừng ấy”, có tiếng mõ trâu khua vang trên đường về bản làng trong các buổi chiều, tiếng cối giã gạo bằng sức nước cứ vang lên đều đặn trong rừng mỗi khuya tạo thành một bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc. Đó là những âm thanh tiêu biểu cho Việt Bắc, là loại nhạc cụ rừng mà người cán bộ kháng chiến không thể nào quên. Tất cả làm nên một bài ca trong trẻo, tươi vui mà không một cuộc sống gian nan khổ ải nào có thể dập tắt được.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 57
III. KẾT BÀI
- Đoạn thơ là tiếng lòng của người cán bộ kháng chiến về xuôi đối cảnh vật và con người Việt Bắc. Trong nỗi nhớ của người ra đi, cảnh vật Việt Bắc hịên lên thật gần gũi thân thương và thật đẹp; con người Việt Bắc tuy đời sống thiếu thốn, gian khổ nhưng đầy tình nghĩa.
- Thể thơ lục bát quen thuộc và những hình ảnh được lấy ra từ đời sống thực tế, điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần góp phần thể hiện thành công nỗi nhớ vừa chân thành tha thiết, vừa mênh mông bất tận của người cán bộ về xuôi đối với Việt Bắc, tạo nên sự rung động sâu sắc trong lòng người đọc.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 58
Ngày 4. ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỂM
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1/ Tìm hiểu về bài thơ:
- Tác giả tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ của những năm chống Mỹ. Trong thơ của họ nổi bật ý thức tuổi trẻ, vai trò và trách nhiệm của mình trong thời đại và đặc biệt là sự nhận thức của họ đối với đất nước với nhân dân và với cuộc kháng chiến của dân tộc.
- Chủ đề “ Đất nước”bao trùm trong thơ Việt Nam 1945-1975. Tuy nhiên, bài thơ này được viết trong thời kỳ chống Mỹ nên nó mang dấu ấn của một thời với cách nhận cảm của thế hệ trẻ qua chính những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cốt lõi của những bài thơ này là tư tưởng nhân dân đã chi phối toàn bộ những cảm hứng chủ đạo cũng như câu tứ và hình tượng thơ.
- Vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ hàng loạt các trường ca ra đời. Điểm khác biệt là các tác phẩm này không dựa vào cốt truyện tự sự mà nó viết theo sự vận động ý thức của tác giả. “Mặt đường khát vọng” là sự thức tỉnh của thanh niên trí thức thành thị Miền Nam trước hiện tình của đất nước. Họ nhận rõ kẻ thù, ý thức về đất nước về nhân dân đồng thời đề ra trách nhiệm cho thế hệ là phải đứng dậy tranh đấu.
Bài thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về đất nước trong cái nhìn tổng hợp và toàn vẹn, nó mang đậm tư tưởng nhân dân. Bài thơ đã sử dụng các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo và rất thích hợp với tư tưởng nhân dân của tác phẩm.
2/ Phần thứ nhất:
+ Bốn câu thơ đầu viết dài ra những câu văn xuôi êm ả, như lời kể chuyện cổ tích, trầm lắng, tha thiết, ngọt ngào.Mỗi câu thơ đều có từ “ Đất nước”và do đó, cả bốn câu bị chi phối, bị cuốn hút, bị bện chặt bởi cái chủ đề đất nước. Những câu thơ dài, mênh mông, không có sự hiệp vần. Nó là một câu chuyện kể.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 59
+ Đoạn thơ mở đầu bình dị tạo nên một sự gần gũi thân thiết chứ không trang trọng dõng dạc như Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô Đại Cáo”. Đất nước trong trừu tượng, nó ở ngay trong cuộc sống của chúng ta. Từ lời kể của Mẹ, miếng trầu của bà cho đến phong tục
tập quán rất riêng (“tóc bới sau đầu”). Đất nước là tình nghĩa thủy chung của cha mẹ, là hạt gạo ta ăn hàng ngày, là cái kèo, cái cột trong nhà v.v …
+ Hai câu thơ đóng và khép của đoạn đầu tạo dựng được không khí. “Khi ta lớn lên” là thời điểm hiện tại “Đất nước đã có rồi” là thời gian quá khứ.
“Đất nước có từ ngày đó”là đẩy đối tượng vào dòng thời gian hun hút xa xăm. Điều khẳng định về đất nước là “Có rồi” “Có từ ngày đó” “Có trong những cái ngày xửa ngày xưa”… Đất nước vừa cụ thể vừa huyền ảo.
+ Tiếp đó là sự nhận cảm Đất nước từ các phương diện địa lý – lịch sử. Tác giả định nghĩa Đất nước không giống các nhà chuyên môn về lịch sử – địa lý đã đành mà cũng không định nghĩa theo hướng khái quát trong “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi. Tác giả chia cắt thành tố “Đất”và “Nước”trong bản
thân từ “ Đất nước”.Cách chiết từ này có thể dẫn tới sự giải thích sai lầm hoặc giản đơn hoá khái niệm. Nhưng tư duy nghệ thuật lại làm cho định nghĩa đất nước trở nên vô cùng sinh động và độc đáo (đất nước đã được cụ thể hoá cao độ và đem đến một thông báo rất mới mẻ có tác động đến tình cảm thẩm mỹ cao).
- Đất nước được cảm nhận trên phương diện không gian và thời gian, địa lý và lịch sử:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Từ huyền thoại:
Lạc Long Quân và Âu Cơ
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 60
Cho đến truyền thuyết vua Hùng và ngày giỗ Tổ (10 -3 âm lịch). Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
(Truyền thuyết vua Hùng đã được nhắc lại ở phần hai của bài thơ: Chín mươi chin con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương). Kết hợp với sự khẳng định “Đã có rồi” ở trên kia, tác giả muốn nói lên bề dày, chiều sâu lịch sử của nước Việt nam chúng ta.
Về mặt không gian địa lý đất nước không chỉ là núi rừng: “Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”không chỉ là biển cả: “Con cá ngư ông móng nước biển khơi” mà còn là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống mỗi người.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đó là nơi nảy nở tình yêu lứa đôi.
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
(một không gian rất nhỏ, chỉ có hai người biết, hai người hay). Đó cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao nhiêu thời gian, bao nhiêu thế hệ:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 61
Tác giả đã sử dụng những câu ca dao, những nội dung của truyền thuyết dân gian với một ngôn ngữ rất tự nhiên nhuần nhị. Chính vì thế mà những câu thơ vừa có cá tính sáng tạo mới mẻ vừa mang nét gần gũi thân thương.
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
- Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm (Bài ca dao: “Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất”…)
+ Tìm giá trị của đất nước trên cái khoảng rộng của không gian và cái chiều dài chiều sâu của thời gian (một không gian có tính chất địa lý và một thời gian có tính chất lịch sử). Đất nước là sự thống nhất các phương diện văn hoá truyền thống, phong tục các đời thường hàng ngày và cái vĩnh hằng mãi mãi, giữa sự sống của cá thể và sự sống của cộng đồng…
Ý thơ tập trung vào tụ điểm cuối cùng của tư tưởng trong Phần một của bài thơ. Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần của Đất Nước
Thì ra đất nước có trong mỗi cá nhân, đất nước kết tinh trong mỗi con người. Bởi vì mỗi cá nhân không chỉ là riêng mình mà còn là của đất nước. Mỗi cuộc đời đều thừa hưởng được những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc. Cho nên tác giả nhắn nhủ chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước. Lời nhắn nhủ ấy là với “em”nên nó có tính chất tâm sự riêng tư không lên gân giả tạo theo kiểu “giáo huấn”.
Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…
3/ Phần thứ hai của bài thơ:
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 62
Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng đất nước của nhân dân. + Cách nhìn những thắng cảnh của địa lý có chiều sâu của sự phát hiện mới mẻ (Những người vợ … núi sông ta).
- Cảnh thiên nhiên kỳ thú đã gắn bó máu thịt với đời sống dân tộc. Nó được những thế hệ, những lớp ngưới đi trước tiếp nhận và cảm thụ qua tâm hồn, qua cảnh ngộ của những hoàn cảnh, của những cuộc đời, của lịch sử dân tộc. Nếu không có người vợ chờ chồng trong những cuộc chiến tranh li tán thì không có Đá Vọng Phu. Nếu không có truyền thuyết vua Hùng dựng nước thì không cảm nhận được sự linh thiêng và hùng vĩ của cảnh quan núi đồi trùng điệp….
Đoạn thơ đã khái quát:
“Và ở đâu trên khắp ruộng gò bãi… núi sông ta”
+ Tác giả “nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước” không điểm lại các thời đại hào hùng như Nguyễn Trãi (trải từ Triệu, Đinh…) như Chế Lan Viên (nước Việt Nam nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê, thành nước Việt nhân dân trong mát suối) mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh.
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình dân
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
+ Tư tưởng cốt lõi và tụ điểm là ở phần cuối.
“Đất nước này là Đất nước nhân dân”
- Vì là của nhân dân nên nó là “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Đây là một định nghĩa giản dị mà khá độc đáo.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 63
- Tác giả chọn ba dẫn chứng trong ca dao thần thoại để nói về truyền thống của nhân dân, của dân tộc.
+ “Yêu em từ thuở trong nôi” tức là tình yêu rất đắm say.
“Biết quí công cầm vàng…” là biết quí trọng tình nghĩa.“Biết trông trẻ”… nhắc tới tích Thánh Gióng để nói đến sự quyết liệt trong căm thù và trong chiến đấu. (Huy Cận đã từng phát hiện đức tính có vẻ như đối lập này của dân tộc Việt Nam:
“Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”
Mặc dầu bốn ngàn năm chưa hề ngơi tắt ngọn lửa chiến tranh, nhiệm vụ chiến đấu luôn luôn sẵn sàng trong mọi thế hệ người Việt. Cái gì đã tạo cho nước Việt Nam tồn tại mà không xóa nhòa bản sắc của mình? Cái gì đã tạo cho con người Việt Nam có một truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là Nhân dân Việt Nam đã sống rất đôn hậu, đời thường, sống giàu tình nghĩa ngay cả những khi hoàn cảnh lịch sử phá vỡ đời sống bình thường đó. Dân Việt Nam phản ứng quyết liệt khi có kẻ thù nhưng họ không phải là kẻ hiếu chiến: “Trồng tre” là để tự vệ chứ không phải ưa đổ máu!
+ Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã có từ rất lâu. Đến những vần thơ của Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm… đã hình thành rất rõ. Nhưng đến thời kỳ chống Mĩ tư tưởng này được Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc hơn, thắm thía hơn bởi vai trò cũng như sự đóng góp hi sinh vô bờ bến của nhân dân trong cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt này.
4/ Đất nước là bài thơ trữ tình – chính luận:
Nó có sự kết hợp hai yếu tố hữu cơ cho nên làm tập trung và nổi rõ tư tưởng của tác giả.
+ Tác giả thành công trong việc tạo ra không khí giọng điệu, không gian và
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 64
của truyền thuyết và đời sống văn hóa của dân tộc. Đồng thời cũng cảm nhận một tư duy mới mẻ và hiện đại trong những câu thơ phóng khoáng, tự do (điều đặc biệt là bài thơ rất ít vần, nó có “chất thơ” nhờ vào việc xây dựng hình ảnh, vào giọng điệu trầm bổng và chuyển đổi…).
+ Tuy nhiên nhiều chỗ chất trữ tình và chính luận không kéo dính với nhau khiến cho khi bài thơ khá nặng nề, khi thì cảm xúc tràn lan dường như không kiểm soát được. Nhiều chỗ còn trùng lặp, dàn trải, nhiều hình ảnh và cách lí giải chưa thật sự mới mẻ và sâu sắc.
B. LUYỆN TẬP
Đề 1: Phân tích đoạn trích “Đất nước” (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm).
* Dàn ý chi tiết
I. MỞ BÀI
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những bài thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ những năm chống Mĩ – thế hệ có những đóng góp nổi bật vào thơ ca Việt Nam những năm này, đã đem đến cho thơ tiếng nói trữ tình của tuổi trẻ (Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh v.v…). Trong thơ của lớp nhà thơ này nổi bật lên sự tự ý thức của tuổi trẻ về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu và sự tự ý thức sâu sắc về đất nước, về nhân dân qua những trải nghiệm của chính mình.
- Trong thơ thời chống Mĩ, chủ đề Đất nước vốn là chủ đề bao trùm. Những cảm nhận về Đất nước của các nhà thơ trẻ thời kỳ này có những nét riêng biệt mang dấu ấn của sự trải nghiệm bằng chính cuộc sống của mình. Đặc biệt ở thơ, những cây bút trực tiếp cầm súng (Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Lửa đèn của Phạm Tiến Duật, trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh…)
- Trong sự cảm nhận về Đất nước của các nhà thơ trẻ chống Mĩ cốt lõi là tư tưởng về nhân dân: Nhân dân là người tạo dựng nên Đất nước, là người gánh
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 65
“Đất nước” là chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng: sự thức tỉnh của thế hệ trẻ các thành thị miền Nam, và rộng ra, sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm chiến tranh này là đi đến sự lựa chọn quyết định: đứng về phía nhân dân, Tổ quốc, chia sẻ vận mệnh và trách nhiệm với dân tộc trong cuộc đấu tranh thiêng liêng để giải phóng và bảo vệ Đất nước.
Cái riêng biệt, độc đáo của đoạn thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về Đất nước trong một cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân dân, sử dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo và rất thích hợp với tư tưởng nhân dân của tác phẩm
II. PHÂN TÍCH:
1/ Cảm nhận về Đất nước:
a) Đoạn thơ về Đất nước bắt đầu một cách rất bình dị, tạo một sự gần gũi, thân thiết
mà không bắt đầu một cách trang trọng. Đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hang ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hằng ngày của con người:
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể. Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
b) Tiếp đó là sự cảm nhận Đất nước từ các phương diện địa lý – lịch sử. Tác giả khai thác các thành tố của Đất nước. Việc tìm về từ gốc của từ Đất nước là để khai thác cách quan niệm có nét riêng biệt của dân tộc ta về khái niệm này. Ở nhiều ngôn ngữ khác, Đất nước thường được cấu tạo từ những gốc là nơi
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 66
“Đất” và “Nước”. Cách truy tìm từ gốc, cách “chiết tự” có thể dẫn đến nguy cơ hiểu sai lạc ý nghĩa, hoặc máy móc giản đơn khi giải thích các khái niệm khoa học. Nhưng ở đây, tư duy nghệ thuật cho phép cách phân tích và cảm nhận theo các phương diện không gian và thời gian, địa lý và lịch sử (Thời gian đằng đẳng – Không gian mênh mông). Từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ đã nói lên chiều sâu lịch sử của Đất nước Việt Nam. Về mặt không gian địa lí, Đất nước không chỉ là núi sông, rừng bể (con chim Phượng Hoàng… con cá Ngư Ông,…) mà còn là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống mỗi người. “Đất là nơi anh đến trường, Nước là nơi em tắm. Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – Và cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau…).
Tác giả sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết dân gian. Có lúc lấy lại từng phần của câu ca dao, nhưng phần nhiều là sử dụng ý, hình ảnh tạo nên hình tượng thơ mới, vừa gần gũi vừa mới mẻ (cha mẹ thương nhau bằng rừng cay muối mặn… Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…)
Ở trên chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử. Đất nước được cảm nhận như sự thống nhất các phương diện văn hóa, truyền thống, phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng…
c) Đến đây, ý thơ dẫn đến điểm tập trung những suy nghĩ, cảm xúc về Đất nước, cũng là điểm mấu chốt của tư tưởng, phần một của bài:
“Trong anh và em hôm nay – Đều có một phần Đất nước”Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp
theo. Đoạn thơ kết thúc bằng một lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 67
những lời “giáo huấn” mà chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân thành, tha thiết…
“Em ơi em, Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…”
2/ Tư tưởng Đất nước của nhân dân
Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng Đất nước của nhân dân. Đây là điểm qui tụ mọi cách nhìn về Đất nước trong phần này, cũng là đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất nước của thơ chống Mĩ.
a) Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu và là một phát hiện mới mẻ (đoạn đầu của phần hai, từ “những người vợ nhớ chồng…” đến “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”). “Những cảnh quan thiên nhiên kì thú (đá Vọng Phu, núi Con Cóc, núi Con Gà hay hòn Trống Mái v.v…) gắn liền với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và lịch sử dân tộc. Nếu không có người vợ chờ chồng qua các cuộc chiến tranh và li tán thì cũng không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu, cũng như thế nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì cũng không thể có sự cảm nhận như vậy về vẻ hùng vĩ của vùng núi đồi xung quanh đền vua Hùng…) Đoại thơ bằng cách qui nạp hàng loạt hiện tượng để đưa đến một khái niệm sâu sắc: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, chẳng mang một hình dáng, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy, những cuộc đời đã hóa núi sông ta…)
b) Khi nghĩ về bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị:
Có biết bao nhiêu người con gái con trai
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 68
Họ đã sống và chết,
Giản di và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Tiếp đó bài thơ khai triển thêm ý này: Những con người vô danh và bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã tên làng… Họ cũng là những người khi “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng lên đánh bại”
“Họ đã giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua rơm con củi
Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi cuộc di dân”
Nói đến Đất nước và dân tộc là nói đến lãnh thổ chủ quyền và văn hóa. Nhưng tất cả các giá trị đó lại được tạo nên bởi người, bởi nhân dân. Trong từng tấc đất, từng di tích lịch sử, từng câu hò xứ sở, quan họ quê hương… đâu đâu cũng hiện lên bóng dáng nhân dân – giá trị cao nhất trong mỗi giá trị – “Nhân dân vô danh nhưng thật là vĩ đại – Họ đã làm ra mọi của cải giá trị vật chất tinh thần, làm ra đất nước”.
c) Mạch suy nghĩ của bài thơ dẫn đến tư tưởng cốt lõi. Điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn trích này. “Đất nước này là Đất nước của Nhân dân” Cũng từ điểm này chúng ta hiểu thêm những ý thơ trên. Và khi nói đến Đất nước của Nhân dân, một cách tự nhiên, tác giả trở về với nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. “Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”. Câu thơ ở hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 69
ca, ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc: thật say đắm trong tình yêu (yêu em từ thuở trong nôi) quý trọng tình nghĩa (quý công cầm vàng những ngày lặn lội) nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu…)
Chúng ta gặp lại cách vận dụng vốn ca dao dân ca một cách sáng tạo, không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh của câu ca dao, vẫn gợi nhớ đến câu ca dao nhưng lại trở thành một câu, một ý thơ gắn bó trong mạch thơ của bài.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân thật ra đã có manh nha từ trong lịch sử xa xưa. Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn dân tộc đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu) hoặc cảm thông sâu sắc với số phận của nhân dân, của mọi lớp người trong nhân dân (Nguyễn Du với văn Chiêu hồn, Truyện Kiều). Đến nền văn học hiện đại, được soi sáng bằng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bằng quan điểm Mác-xít về nhân dân và nảy nở từ trong thực tiễn vĩ đại của cuộc cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ sau Cách mạng Tháng Tám đã đạt đến một nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm hứng về đất nước mang tính dân chủ cao. (Thơ ca kháng chiến chống Pháp là một ví dụ tiêu biểu. Có thể nhớ đến các bài: Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm…). Đến giai đoạn chống Mỹ, tư tưởng Đất nước của Nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kỳ ác liệt này.
Tư tưởng ấy được các nhà thơ trẻ chống Mỹ phát biểu một cách thấm thía qua sự trải nghiệm của chính mình như những thành viên của nhân dân, cùng chia sẻ mọi gian lao, hi sinh và được che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân (Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy, các trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo và Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đều tập trung nói về những gương mặt của các con người bình thường, vô danh trong nhân dân và không phải ngẫu nhiên mà đều bắt đầu bằng hình ảnh người mẹ).
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ về
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 70
III. KẾT LUẬN
Thành công của bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm còn là việc tạo ra một không khí, một giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng. “Đất nước” đưa ta vào thế giới gần gũi, mỹ lệ và bay bổng của ca dao, truyền thuyết, của văn hóa dân gian nhưng lại mới mẻ, qua cảm nhận và tư duy hiện đại, qua hình thức thơ tự do. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ.
Đất nước là đoạn thơ trữ tình – chính luận. Chất chính luận ở đây cũng như trong toàn trường ca “Mặt đường khát vọng” là nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ thành thị miền Nam, để dứt khoát trong sự lựa chọn đúng về phía nhân dân và cách mạng, trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Đoạn thơ thể hiện được chỗ mạnh của thơ Nguyễn Khoa Điềm: kết hợp cảm xúc và suy nghĩ, chính luận và trữ tình. Tuy nhiên, nhược điểm của đoạn thơ này cũng khá rõ: chính luận có chỗ còn nặng nề, lấn áp cảm xúc, nhiều ý triển khai còn trùng lặp, dàn trải trong mỗi đoạn chưa thật cô đọng để gây ấn tượng tập trung, thêm nữa nội dung chính luận không phải chỗ nào cũng mới mẻ và sâu sắc.
Đề 2. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
BÀI LÀM
I. MỞ BÀI
Nguyễn Khoa Điềm là 1 nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kì gian khổ. Ông cùng thế hệ với những nhà thơ như Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Vũ Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Xuân Quỳnh,...Trong dàn đồng ca chung của thơ ca thời kì "Lửa cháy", Nguyễn Khoa Điềm cũng viết về hào khí của 1 dân tộc:
"Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!"
Trong giai đoạn này, Nguyễn Khoa Điềm viết rất sung sức, rất đều tay. Ông đã
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 71
Khoa Điềm, mỗi người yêu thơ không thể không nhắc đến tập thơ tiêu biểu đó là "Đất ngoại ô" còn nhắc đến trường ca, sẽ thật là thiếu sót nếu ta bỏ qua trường ca "Mặt đường khát vọng". Ai đã từng đọc trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm có thể quên đi 4 chương thơ đầu tiên để chỉ nhớ
đến chương cuối đó là chương 5 với nhan đề "Đất nước". Chương thơ ấy đã được tách ra khỏi trường ca "Mặt đường khát vọng" như 1 bài thơ độc lập và được đưa vao trong chương trình giảng dạy như 1 kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm nói riêng, của thơ ca thời kì "Lửa cháy" nói chung. Thành công của Nguyễn Khoa Điềm trong chương thơ này là nhà thơ đã thể hiện được tư tưởng đất nước của nhân dân:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
II. THÂN BÀI
Nếu đặt tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ này vào trong dòng chảy của văn chương Việt Nam thì đây là 1 tư tưởng không mới bởi cách đây hơn 5 thế kỷ, Nguyễn Trãi đã khẳng định: "Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân". Hơn 100 năm sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao "dân vi bản" nghĩa là dân là gốc của nước bằng 2 câu thơ:
"Cổ lai quốc dĩ dân vi bản.
Đắc quốc ưng tri tại đắc dân"
Ta còn băt gặp tư tưởng tưởng này ở quan điểm của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu khi ông nói: "Dân là dân nước, nước là nước dân". Tuy nhiên, quan điểm của những nhà hiền triết trên đây mang nặng ý thức hệ của nhà nước phong kiến phương Đông. Chỉ đến khi cuộc CMXHCN thành công ở miền Bắc nước ta thì tư tưởng đất nước của nhân dân được nhìn dưới ý thức hệ mới đó là tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và được đưa vào trong chương trình giảng dạy. Là sinh viên khóa 1 khoa văn trường đại học sư Phạm Một Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm lại là con trai nhà phê bình Mác xít Hải Triều, ông được tiếp thủ, ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Mác – Lênin ngay từ tấm bé. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, quần chúng nhân dân là người làm ra đất nước,
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 72
Năm 1964, rời ghế nhà trường trở về quê hương đúng ngày quê hương đầy bóng giặc như trong "Quê hương" của Giang Nam:
"Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi"
Nguyễn Khoa Điềm trực tiếp cầm súng chiến đấu. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là 1 thời kì lịch sử cho phép ông nhìn nhận lại vai trò to lớn của nội dung. Như vậy với cái nhìn đồng đại của thế giới quan Mác xít kết hợp với cái nhìn lịch đại của đất nước 4000 năm nội dung ra trận bảo vệ đất nước, Nguyễn Khoa Điềm viết rất thành công tư tưởng đất nước cua nội dung ở 1 bài thơ rất dài mà đoạn trích trên đây gồm 90 câu.
Thành công đầu tiên khi thể hiện tư tưởng đất nước của nội dung là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của 1 bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Nói như Bạch Cư Dị:
"Lời là gốc
Ý là cành
Thanh là hoa
Nghĩa là quả"
Thơ ca là nghệ thuật của ngôn từ. Chính nghệ thuật đã đem lại cho thơ ca trở thành lĩnh vực của 1 sự độc đáo. Trong bất cứ 1 nền văn học nào đều có 2 dòng văn hóa song song tồn tại đó là văn hóa dân gian và văn hóa chính thống hay còn gọi là văn hóa bác học. Văn hóa dân gian là nền tảng văn hóa ở 1 đất nước, 1 dân tộc. Trong bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm không dùng văn hóa chính thống. Nói cách khác, ông từ chối văn hóa chính thống, quay trở lại lấy văn hóa dân gian làm chất liệu để viết bài thơ này.
Văn hóa dân gian vốn được hiểu là văn hóa do nội dung sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất, chinh phục tự nhiên, được đúc kết thành những kinh nghiệm, những câu tục ngữ ca dao truyền đến muôn đời. Văn hóa dân gian
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 73
trong phạm vi bài thơ này là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn trong câu thơ:
"Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"
Văn hóa dân gian là sản phẩm tinh thần của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã mượn sản phẩm tinh thần của nhân dân để viết về tư tưởng đất nước của nhân dân. Như vậy, bài thơ "Đất nước" từ nội dung đến hình thức nghệ thuật đều thấm đẫm tư tưởng đất nước của nhân dân.
Đất nước vốn là 1 đề tài lớn nhưng nó hiện lên trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề chương trình, không hề lí luận khô khan, khó hiểu mà dễ đi sâu vào lòng người như câu hát, điệu ru của bà của mẹ. Ta có cảm giác Nguyễn Khoa Điềm không làm thơ mà như đang cất lên làn điệu dân ca, những câu hò sông nước bởi mỗi người Việt Nam từ trong tiềm thức của mình ai chẳng 1 lần vang lên câu hát vọng về từ xứ Lạng:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Câu ca này điệp vào thơ của Nguyễn Khoa Điềm ở hình ảnh: "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu"
Mỗi độ xuân về, người Việt Nam lại hành hương về đất tổ, lòng ta lại rạo rực, bồi hồi, xúc động trước những câu ca dao mộc mạc chân thành mà đằm thắm:
"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng 3 mùng 10"
Toàn bộ điều này được kết tinh trong câu thơ:
"Hằng năm ăn đâu làm đâu
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 74
Ta còn thấy ở đây có những câu ca dao như:
"Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai"
Câu ca dao ấy bước vào "Đất nước" trở thành câu thơ:
"Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Ta cũng còn bắt gặp những câu chuyện cổ tích như sự tích Thánh Gióng, sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ,... mà tiêu biểu nhất là sự tích trầu cau:
"Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn"
Ta còn thấy ở bài thơ này có rất nhiều những phong tục tập quán của người Việt như cách làm ra hạt gạo:
"Hạt gao phải 1 nắng 2 sương xay, giã, giần sàng"
Đó còn là việc nhà việc cửa:
"Cái kèo cái cột thành tên"
Đó là cách để tóc sau đầu của mẹ:
"Tóc mẹ thì bới sau đầu"
Tất cả những đều làm toát lên vẻ đẹp của nền văn minh nông nghiệp lúa nước lâu đời. Nó là cách cảm, cách nghĩ của người Việt từ tời thượng cổ. Nó xuyên suốt 1 bài thơ dài với 90 câu, tưới thẫm lên đó là chất liệu dân gian.
Cái hay của Nguyễn Khoa Điềm ở đây đó là ông không bê y nguyên câu tục ngữ ca dao nào thành thơ của mình mà dường như văn hóa dân gian thấm sâu vào tâm hồn ông ngay từ tấm bé qua câu hát điệu ru của bà của mẹ để bây giờ khi viết bài đất nước, ông đã chưng cất nó, chắt lọc nó, xử lí nó qua lăng kính tâm hồn của mình. Thế là mỗi câu thơ dưới ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm phảng phất theo làn điệu dân ca, phỏng theo những điệu hát ca dao, phỏng theo câu
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 75
Đặt bài thơ "Đất nước" trong bối cảnh ngày hôm nay, khi nền văn học Việt Nam đang hội nhập với nền văn học thế giới. Mỗi người Việt Nam yêu nước cần phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Chúng ta phải hòa với văn học thế giới nhưng không được tan. Và thế là "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm 1 lần nữa khẳng định những thành công vốn có của bài thơ này, xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của mỗi chúng ta.
Một trong những thành công nữa của Nguyễn Khoa Điềm trong bài thơ này ta cần phải kể đến đó là cách triển tư tưởng đất nước của nhân dân. Cần phải khẳng định "Đất nước" được Nguyễn Khoa Điềm viết khá đều tay như 1 dòng nội tâm tuôn chảy vì nhà phê bình văn học Diệp Tiếp đã nói: "thơ là tiếng lòng". Đọc bài thơ, ta có cảm giác Nguyễn Khoa Điềm không hề sắp đặt theo 1 đề cương nào. Vì vậy độc giả bạn đọc khó có thể chia cắt hay phân tách. Với cảm hứng khám phá, cắt nghĩa, lí giải, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm ra khái niệm đất nước. Khi viết bài thơ này, hình như Nguyễn Khoa Điềm luôn đứng trước hàng loạt câu hỏi: Đất nước là gì? Đất nước này do ai làm ra? Đất nước này do ai gìn giữ và bảo vệ trong suốt 4000 năm qua? Trích đoạn "Đất nước" là 1 câu trả lời đầy triết luận triết lí nhưng cũng giàu chất thơ: đó chính là nhân dân. Trong bài thơ, ta có thể dễ dàng nhận thấy khái niệm đất nước và nhân dân có chung nội hàm. Nhân dân là hiện thân sự sống của Đất nước, là chủ thể của Đất nước. Họ là chủ thể về địa lí, chủ thể về lịch sử, chủ thể về văn học, phong tục tập quán. Ngược lại, Đất nước đi lên, phát triển, giàu mạnh nhằm đáp lại lòng mong mỏi của nhân dân.
Là một người chiến sĩ làm thơ, gót chân của Nguyễn Khoa Điềm đi nhiều trên dải đất hình tia chớp thân yêu. Đi đến đâu, nhìn vào lĩnh vực nào, khía cạnh nào, phương diện nào, Nguyễn Khoa Điềm đều khẳng định đất nước này chính là nhân dân làm ra. Vì vậy, nhìn sâu vào bên trong mạch thơ, ta nhận thấy tư tưởng đất nước của nhân dân được Nguyễn Khoa Điềm triển khai trên 3 bình diện: bề rộng của không gian địa lí lãnh thổ, chiều dài của thế giới lịch sử và bề dày của nền văn học phong tục tập quán. 3 bình diện này quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau. Thậm chí, có những câu thơ cùng 1 lúc mang cả 3 bình diện. Chính điều này đã làm nên mạch thống nhất trong tư tưởng của nhà thơ, sự thống nhất của bài thơ.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 76
Đầu tiên, Đất nước được triển khai từ bình diện không gian địa lí lãnh thổ. Nói đến không gian địa lí, lãnh thổ nước ta là phải nói đến 1 dải đất hình tia chớp mà ta đã từng quen thuộc qua những vần thơ:
Quê hương ta một dải
Từ mũi Cà mau
đến địa đầu Móng Cái
Nguyễn Khoa Điềm khi viết bài thơ này, ông đi tìm đất nước ở những cái ngày xửa ngày xưa ở trong câu chuyện cổ tích. Vì vậy, nhà thơ mở đầu khúc ca "Đất nước" bằng những câu thơ:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể"
Trở về với cái "ngày xửa ngày xưa" ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện ra 2 nguyên tố gốc, 2 nguyên tố cơ bản làm ra đất nước đó là "đất" và "nước". Trong quá trình hình thành thực thể đất nước cũng như phát triển đất nước, "đất" và "nước" là 2 tế bào đầu tiên. Nguyễn Khoa Điềm biến hóa, nhân đôi, sinh sôi nảy nở để trở thành cơ thể đất nước hoàn chỉnh. Ở đây ông đồng nhất đất là người "anh", nước là người "em":
"Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm"
Dùng thuyết âm dương, Nguyễn Khoa Điềm đã nhập "đất" vào với "nước" để tìm ra khái niệm đầu tiên:
"Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Với cách cắt nghĩa, khám phá để lí giải, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định làm ra Đất nước này đó chính là sự hò hẹn của đôi ta. Đôi ta ở đây chính là "anh" và "em", là sự hóa thân của nhân dân. Nói cách khác, nhân dân là người làm ra đất nước.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 77
Để thêm phần thuyết phục độc giả bạn đọc, Nguyễn Khoa Điềm 1 lần nữa lại tách khái niệm đất nước để khẳng định:
"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Cùng khoảng "thế giới đằng đẵng" và "Không gian mênh mông" kia, Nguyễn Khoa Điềm lại tìm ra 1 khái niệm mới của đất nước:
"Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ"
Như vậy rõ ràng chính sự đoàn tụ của muôn dân đã làm ra đất nước. Như vậy với 2 lần cắt nghĩa, lí giẩi, Nguyễn Khoa Điềm đã khăng định với người đọc nhân dân là người làm ra đất nước ở góc độ không gian địa lí.
Và cứ như thế, không mạnh mẽ gân guốc, chẳng mạnh mẽ hào hùng Nguyễn Khoa Điềm thủ thỉ, tâm tình với bạn đọc để khẳng định rằng phát triển đất nước này trong 4000 năm qua không ai khác ngoài nhân dân bằng những câu thơ:
"Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn"
Như vậy, đất nước này có phát triển, có "vẹn tròn, to lớn" nhờ có "chúng ta cầm tay mọi người", nhờ có tinh thần đoàn kết của nhân dân. Tinh thần đoàn kết ấy tạo ra sức mạnh nội lực của 1 đất nước, giúp đất nước phát triển to lớn hơn. Như vậy tựu trung lại, phát triển đất nước này trong suốt 4000 năm qua chính là nhờ có nhân dân.
Một trong những đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm trong chương thơ này là ông đã đi lí giải tên địa danh của đât nước để chứng minh rằng bảo vệ đất nước này trong suốt 4000 năm qua không ai khác cũng là nhân dân. Vẫn biết rằng 1 đất nước là sự cộng gộp của biết bao nhiêu ngọn núi, con sông, ruộng đồng, gò bãi... Ở đâu cũng có tên đất, tên làng, tên núi, tên sông..Một mảnh đất chừng nào thiếu đi tên gọi, chừng ấy nó thiếu đi sự sống thiêng liêng của con người. Nhưng đặt tên gọi không thể tùy tiện bởi đằng sau tên gọi là 1 huyền thoại,
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 78
đằng sau huyền thoại là 1 cuộc đời. Chính cuộc đời ấy, con người ấy ngã xuống bảo vệ đất nước này, làm nên đất đai của xứ sở.
Hòn Vọng Phu ngàn năm còn đó như 1 minh chứng cho lòng thủy chung, son sắt ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam bởi 2 chữ Vọng Phu chính là chờ chồng. Đất nước ta đã phải trải qua 30 năm của 2 cuộc chiến tranh trường kì gian khổ. Biết bao nhiêu người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con, chờ chồng đằng đẵng hóa đá với biết bao cảm động. Nhân dân ở đây còn được hóa thân thành chàng Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh tan giặc Ân trong buổi đầu dựng nước và giữ nước. Đây chính là tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Nội dung cũng là hình ảnh người học trò nghèo đã "góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên". Họ còn là người yêu quê hương, thổi hồn mình vào con cóc, con gà "cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh". Đó còn là những con người ta nhớ mặt đặt tên:
"Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"
Nhưng thử hỏi đất nước này có biết bao nhiêu con người đã ngã xuống vì ngày mai độc lập, ngã xuống để bảo vệ đất nước mà ta không biết mặt đặt tên:
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Làm sao ta quên được hình ảnh anh giải phóng quân bước vào "Dáng đứng Việt Nam" của Lê Anh Xuân:
"Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân."
Đó chính là dáng đứng của người Việt Nam ở thế kỷ 20 – những con người ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc thân yêu.
Như đã nói, là 1 người chiến sĩ làm thơ, gót chân của Nguyễn Khoa Điềm đã in hằn trên mọi nẻ của Tổ quốc thân yêu. Đi đến đâu, nhìn vào lĩnh vực nào,
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 79
khía cạnh nào, phương diện nào, ông đều chia sẻ tất cả là do nhân dân làm ra. Ông đã đúc kết thành đoạn thơ rất đẹp:
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..."
Những cuộc đời ấy ngã xuống bảo vệ đất nước này, làm nên đất đai của xứ sở. Như vậy, có thể thấy rõ chính nội dung là người bảo vệ đất nước này trong 4000 năm qua.
Từ 1 tiền đề vững chắc như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã triển khai tiếp đất nước ở chiều dài thế giới lịch sử. Nói đế lịch sử của nước ta là phải nói đến con số của 4000 năm dựng nước và giữ nước. Cái đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm khi triển khai đất nước ở chiều dài thế giới lịch sử đó là ông không đi theo hướng của các nhà sử gia chính thống – họ nhìn lịch sử là sự tiếp nối của các triều đại. Nguyễn Trãi đã từng đi theo hướng này trong t/p "Bình ngô đại cáo":
"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên xưng đế một phương" Chế Lan Viên cũng đã từng viết:
"Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn"
Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm nhìn lịch sử như 1 cuộc chạy tiếp sức của 4000 thế hệ, 4000 lớp người mang trong mình ngọn lửa sức sống Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ nhất ở đoạn thơ:
"Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
Trang 80
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con"
Trong suốt 4000 năm ấy, người Việt Nam cứ truyền ngọn lửa yêu nước từ lớp người này qua lớp người khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời này qua đời khác, từ lồng ngực người già qua trái tim của thế hệ trẻ. Lớp lớp người Việt Nam ra trận để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam như 1 nhà thơ đã từng viết:
"Tôi muốn viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên để viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua"
Như vậy rõ ràng viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam là nhân dân Việt Nam. Trang sử ấy được viết lên bằng máu, bằng mồ hôi, bằng nước mắt, bằng cuộc đời của biết bao con người. Nhận định về vấn đề này, Engels đã nói: "Không có máu và nước mắt của nhân dân, dân tộc ấy không thể có lịch sử."
Bên cạnh đó, viết về lịch sử trong bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ dừng lại ở lịch sử của chiến trận. Lịch sử của Nguyễn Khoa Điềm là lịch sử của sự gợi mở. Trong suốt 4000 năm qua, nội dung Việt Nam đã lưu truyền đất nước này ở nhiều phương diện. Họ gìn giữ hạt giống để mùa sau. Họ gìn giữ cả ngọn lửa. Ngọn lửa ở đây chính là ngọn lửa của dân tộc Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên trong mỗi đêm thiêng, người Việt Nam lại thường nhớ đến ngọn lửa. Họ truyền lại cho ta cả giọng điệu, cả ngôn ngữ. Họ giữ gìn cả 1 nền văn hóa bởi nói như chủ tịch HCM: "Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy." Như vậy, ta có thể thấy rõ chính nội dung là người đã làm ra, gìn giữ và bảo vệ đất nước này trong suốt 4000 năm qua. Tóm lại, nội dung là chủ thể của đất nước ở phương diện lịch sử.
15 Ngày luyện thi cấp tốc chuyên đề nghị luận văn học
"""