"
14 Tập 2 - Peter Clines PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 14 Tập 2 - Peter Clines PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
14 - TẬP 2
---❊ ❖ ❊---
Tác giả: Peter Clines
Dịch thuật: Trịnh Thúy Ngân Phát hành: Phúc Minh Books Nhà xuất bản Dân Trí
Thể loại: Trinh thám
Nguồn text: Waka
Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap ebook©vctvegroup
CÂU CHUYỆN THỨ BA
N
CHƯƠNG
1
hìn chúng giống hệt như máu vậy.” Tim thốt lên. “Có thể xác định dựa vào màu sắc của nó kìa, dưới ánh sáng của tia cực tím, nó chuyển thành màu đen tuyền.” Tim bước lui lại và nhìn vào dòng chữ họ đã phát hiện bằng tấm phản quang.
Mấy dòng chữ được viết gần với mặt đất. Hàng chữ cao nhất chỉ đến tầm ngực. Hàng chữ dưới cùng chỉ cao khoảng sáu mươi xen ti mét so với sàn.
Nate đứng trong bếp, vừa giữ tấm phản quang cố định, vừa liếc nhìn mấy dòng chữ, sao cho dòng chữ kia hiện ra.
THEY HAVE FOUND US HURT MUST HIDE
PROTECT KAVACH
PROTECT THE WORLD1*
1* Họ đã phát hiện ra chúng tôi
Đau Phải chạy trốn
Hãy bảo vệ Kavach
Hãy bảo vệ thế giới
(Tập 1: “Họ đã phát hiện ra chúng ta” - Đây là lỗi trong quá trình chuyển ngữ, chúng tôi vô cùng xin lỗi bạn đọc về sai sót này.)
Rồi anh sang đánh thức Tim dậy, lôi ông qua căn hộ của mình. “Ai đó đã
viết lên tường của cháu bằng máu,” Nate nói.
Tim gật gù. “Có vẻ vậy.”
“Tại sao chứ?”
“Đoán vậy thôi”, Tim nói, “là ai chăng nữa thì họ cũng thừa biết một điều rằng lời nhắn này sẽ còn tồn tại mãi bất chấp người khác tìm đủ mọi cách tẩy xóa.”
“Không, ý cháu là tại sao nó lại được viết bằng máu kia chứ?” Tim chỉ vào chữ ‘ĐAU’ và nói “Tôi nghĩ rằng đây chính là nguyên nhân.”
Một cơn ớn lạnh thoáng qua, Nate quay lại, nhìn cửa sổ khu bếp để chắc rằng nó vẫn đang được đóng. “Nếu nó được viết bằng máu tại sao chúng ta lại không thể nhìn thấy chứ?”.
Tim huơ tay qua phía trước bức tường, bóng của ông đã làm ẩn đi dòng chữ. “Kẻ tìm cách xóa nó đi đã không kịp trở tay, phần lớn máu đã ngấm vào lớp thạch cao. Chúng đã được viết lên khoảng mười đến hai mươi phút trước khi bị tẩy xóa.”
“Nhưng nó vẫn còn đó đấy thôi?”
Tim nhún vai. “Như Xela nói, dòng chữ đã bị ẩn đi dưới lớp sơn. Mặc dù phần lớn máu đã bị khô nhưng những chất hóa học chính đã kịp gây ra phản ứng để vết máu không bị mất hoàn toàn.”
Nate buông thõng tấm phản quang trên tay, dòng chữ cũng biến mất theo. “Mẹ kiếp”, anh chửi thề.
Tim ngoảnh lại về phía Nate và nói, “Điều an ủi duy nhất là tôi thấy chúng ta có thể chắc chắn rằng nó đã được viết từ cách đây cả hàng trăm năm. Có thể chúng được viết cùng với quãng thời gian của những thứ còn lại trong căn nhà.” Tim ám chỉ những tính toán trên các bức tường khác.
“Bác nghĩ rằng đã có người bị giết tại đây à?”
“Nếu họ bị giết hại thì tôi không nghĩ họ có đủ thời gian để viết lại những dòng chữ này.” Tim lại nhún vai. “Trừ khi là họ đã giết ai đó, nhưng như vậy lại không hợp lý khi mấy dòng chữ được viết bằng máu”.
“Bác có vẻ không hề sợ sệt nhỉ?” Nate nói.
“Đây không phải là căn hộ của tôi.” Tim nói. “Và tôi cũng không bị ám ảnh về ai đó đã bị giết ở đây từ mấy trăm năm trước.”
Nate hít một hơi thật sâu rồi gật đầu. “Cháu nên tìm Xela.” Nate nói. “Chúng ta cần vài bức ảnh lưu lại mấy dòng chữ này.”
Tim liếc nhìn chiếc đồng hồ. “Giờ đã quá nửa đêm, hy vọng cô vẫn còn thức chứ?”
Nate gật đầu. “Xela là một con cú đêm mà.” “Vậy tôi sẽ chờ”.
Nate đi xuống sảnh sang phía căn hộ của Xela. Anh gõ nhẹ hai lần lên cửa, không nghe thấy tiếng động gì nên lại gõ mạnh hơn. Nate đi đi lại lại trước cửa trong khi đợi Xela trả lời.
Một bóng người thoáng qua lỗ nhìn trên cánh cửa và tiếng Xela vọng ra. “Đợi một chút.”
Nate bước vài bước và ngoảnh lại nhìn qua cửa sổ hành lang.
Cửa sổ hành lang nhìn ra phía bãi cỏ trước tòa nhà và đường Kenmore. Con đường hoàn toàn tĩnh lặng, nếu ai đó trên phố đứng yên thì Nate cũng không thể nhận ra họ được.
Nate nhìn xuống phía người đàn ông đang đứng dựa vào chiếc xe Taurus xanh lá, gã thám tử tư được thuê theo dõi Tim. Hắn ném trả lại Nate một cái nhìn chết trân.
Xela mở cửa phòng và Nate cũng không để ý đến gã thám tử kia nữa. “Đừng nói với tôi là anh đang kiểm tra tôi vì mấy chuyện liên quan tới Roger đấy nhé.” Xela nói.
Nate lắc đầu, mắt nhìn Xela từ trên xuống dưới trước khi anh có thể kiềm
chế lại được. Tóc cô vẫn ướt khiến cho màu trông đậm hơn màu xanh dương vốn có một chút. Xela mặc một chiếc áo phông to quá khổ để lộ một bên vai. Chiếc áo bị ướt vài chỗ và Nate có thể nhận ra được là Xela không mặc thêm gì ở trong.
Khi ánh mắt Nate nhìn lại khuôn mặt Xela, cô cũng đang nhìn anh. “Tôi đã hẹn với cố vấn học tập vào sáng mai, có chuyện gì thế?”
“Tôi cần cô giúp tôi chụp vài kiểu ảnh nữa. Việc này khá quan trọng”. “Chụp cái gì mới được chứ?”
“Trong căn phòng của tôi còn nhiều lời nhắn nữa.” “Nhiều lời nhắn nữa?” “Chúng được viết bằng máu.”
Mặt Xela nghệt ra. “Để tôi mặc quần dài đã nào.” Xela nói. Cô lạch bạch quay trở lại phòng nhưng vẫn để cửa mở, vơ lấy một chiếc quần jean dính đầy sơn mặc vào. Nate chưa kịp quay mặt đi thì Xela đã kéo chiếc áo phông lên quá thắt lưng để lộ ra cặp mông. Một lát sau, cô trở lại với chân máy ảnh đã được thu gọn và chiếc máy ảnh vẫn được gắn sẵn trên đó.
Tim đã xem xét lại bức tường khi họ tiến vào căn hộ của Nate. Ông nhìn dọc theo bức tường nơi những dòng chữ xuất hiện. Không hề có vết tích nào của mấy dòng chữ khi không chiếu tia cực tím. “Chúng đã được ‘dọn dẹp’ hoàn toàn.” Tim nói. “Mọi người chỉ có thể nhìn thấy dấu ấn để lại của chúng sau khi họ đã chùi sạch, họ đã làm khá là cẩu thả. Tôi thấy việc xóa đi những lời nhắn này diễn ra cũng nhanh như lúc viết lên vậy”.
“Ồ!” Xela thốt lên. “Ông vẫn thường có óc phán đoán như thám tử Sherlock Holmes vậy, đúng không?”
Tim cười. “Chỉ là tôi đã xem quá nhiều cuộc giám định pháp y mà thôi”. Xela ngoảnh lại nhìn quanh căn phòng. “Veek không ở đây sao?”
Nate gật đầu. “Veek đang phải xử lý một dự án khác.” “Anh cũng chưa hề nói gì về việc này với cô đúng không?”
“Tôi định sẽ nói với cô ta vào ngày mai.”
Xela lắc đầu và mím môi cười một cách khó khăn. “Cô ta sẽ không thích điều này đâu.”
Xela chỉnh lại chân máy ảnh trong khi Nate đặt tấm phản quang để phản chiếu ánh sáng về phía bức tường. Dòng chữ xuất hiện rồi mờ đi như làn khói.
“Lạy Chúa tôi!” Xela lẩm bẩm, mặt tái mét. “Đó là máu phải không?” “Đúng vậy.” Tim nói.
Xela nhìn từ Tim sang Nate hỏi “Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra vậy?” Hai người đàn ông đều lắc đầu. “Ai đã để lại chúng cơ chứ?” Nate nhún vai. “Không có manh mối nào hết.”
“Hãy bảo vệ Kavach, bảo vệ thế giới!” Xela đọc lại mấy dòng chữ. Ánh mắt cô nhìn đăm đăm. “Bảo vệ thế giới!?”
Nate gật đầu. “Cho dù Kavach là ai đi nữa, thì cũng chắc rằng ông ta là một người quan trọng.”
“Quan trọng tới mức có thể vì ông ta mà giết người.” Tim nói. “Hoặc là chết vì ông ta”.
Xela hít một hơi thật sâu và cúi xuống máy ảnh. Cô chụp khoảng hơn hai mươi tấm ảnh và khi về phòng lưu.
Khi quay trở lại Xela giơ ngón tay cái lên và nói với Nate. “Gần như hoàn hảo.” Xela nói. “Những chữ được viết đậm hơn có ảnh chụp lại tốt hơn là mấy chữ phản quang. Tôi chụp được ba tấm rất ổn. Nhìn chúng thậm chí còn rõ hơn cả mấy dòng chữ phản quang kia.” Cô chỉ tay vào khu bếp.
Nate gật đầu “Vậy tốt rồi.”
Xela ngoảnh nhìn lại những bức tường khác. “Còn lời nhắn nào nữa
không?”
Nate lắc đầu. “Tôi đã cố chiếu đèn khắp căn phòng, nếu còn có gì khác thì tôi đã phát hiện ra rồi.”
“Có gì để chia sẻ với mọi người vào thứ bảy này nhỉ?” Tim trầm ngâm.
Tim và Xela rời khỏi căn phòng, để lại Nate đứng trước bức tường dính đầy những vết máu khô.
Nate nhìn vào mảng thạch cao. Nếu không có gì phản chiếu ánh sáng thì những dòng chữ hoàn toàn bị che giấu. Nate tự hỏi về những người có thể đã viết ra mấy dòng chữ này. Anh tự hình dung ra một người mặc trang phục thời xưa, một người mặc áo vest sọc, mũ quả dưa và giày mũi cánh, có thể người này có một bộ ria rậm, quỳ dưới sàn ngay trước giá sách kê trên sàn. Trong hình ảnh ba chiều mà Nate tưởng tượng ra, con người khốn khổ đó có một cánh tay bị thương, mặc dù một hai lần Nate đã nghĩ rằng người đó có một bên chân đang chảy máu. Liệu có những tiếng bước chân trong sảnh hay ai đó đang đập cửa khi người đàn ông đó đang viết lời nhắn không?
Liệu rằng người đàn ông đó có chết khi đang viết những lời nhắn này? Kavach là ai? Ông chủ của ông ta, hay là một người bạn?
Nate túm lấy đầu tấm chăn và trải phẳng ra. Anh trải chăn lên tấm đệm. Bình thường Nate hay đặt gối về phía giá sách, tối nay thì khác, anh ném chiếc gối về phía đầu còn lại.
Quần jean và áo của Nate vắt lên chiếc ghế làm việc. Anh gấp gối lại làm đôi, ngửa người ra sau và nhìn về phía bức tường. Nate nhắm mắt và ngủ một giấc mà không hề mơ mộng gì.
Anh tỉnh giấc vì có ai đó đang gõ cửa. Đó là Oskar và vài người thợ sơn nữa.
N
CHƯƠNG
2
ate đi làm về, căn phòng của anh thoát ra một thứ mùi nồng nặc. Các bức tường đã trở lại bóng loáng và không còn dấu vết gì của những thứ đã từng tồn tại trên nó. Tất cả các con số và dòng chữ đã biến mất, ẩn giấu dưới một lớp sơn dày, mà có thể là hai lớp, chúng có thể được đặt những cái tên vô tội như Vỏ Trứng, Tường Trắng Cổ Xưa, hay giấy Bu-lô2*.
2* Giấy Bu-lô: tên một loại giấy được làm từ cây phong của người Anh Điêng ở Bắc Mỹ cổ đại.
Anh nhìn về phía bức tường trống trơn và thở dài. Ít nhất thì họ cũng đã có đủ số ảnh cần thiết. Nate quẳng túi xách xuống ghế và mở ngay cửa sổ ra. Mùi không khí trong lành hòa với mùi nước tiểu ven đường lẫn mùi thơm từ lò bánh ở góc phố đã tràn vào át hết mùi sơn trong căn phòng.
Sau gần nửa tiếng đồng hồ, mảng tường Vỏ Trứng làm anh không thể chịu đựng thêm nữa. Nó giống như một tấm biển quảng cáo trống trơn luôn nhắc nhở anh về những thứ đã mất. Cứ để cửa sổ mở như vậy, Nate quyết định đi ngắm hoàng hôn.
Nate đi lên sân thượng và gặp Tim đang chào đón anh với một chai bia. “Tối qua ngủ được chứ chàng trai?”
“Một chút ạ.” Nate trả lời. “Ba hay bốn tiếng đồng hồ gì đó.”
Nate nhún vai. “Cháu có ngủ được một chút ở chỗ làm, không có gì quá quan trọng để làm ở đó”.
Tim nhe răng cười. “Tôi thì lại không thể ngủ ở chỗ làm. Nếu ngủ ngồi tôi
sẽ ngáy rất lớn”.
Nate lấy ra một chai bia từ trong thùng đá. “Bác có vẻ cũng rất ổn đấy nhỉ. Bác có dậy sớm để chạy bộ không đấy?”
“Luôn luôn như vậy.” “Phục thật!”
“Vì thói quen thôi.”
Nate ngồi xuống chiếc ghế tựa cạnh Tim. Sau một thoáng suy nghĩ, Nate dùng gót chân và ngón chân tháo đôi giầy thể thao đang đi và thả chúng rơi xuống sàn gỗ. Anh ngọ nguậy mấy ngón chân trong khi vẫn đi tất.
“Cậu ổn chứ?”
“Có vẻ vậy.” Nate nói. Họ cụng hai chai bia vào nhau.
“Veek đâu?”
“Cô ấy đang trên đường về từ Santa Monica.” Tim gật đầu. “Ừm.”
Hai người ngồi im lặng trong vài phút. Những đám mây đã chuyển màu từ trắng sang màu vàng thau khi mặt trời lặn dần về phía Century City.
“Họ đã sơn lại chỗ của cháu. “ Nate nói. Tim gật gù. “Chỗ tôi cũng vậy.”
“Mấy gã đó đã đứng chờ cháu từ sớm. Họ đứng ở sảnh trong lúc cháu đang thay đồ đi làm.”
“Tôi cũng trông thấy họ,” Tim gật gù, “họ đã hoàn tất công việc ở chỗ cháu sau chín giờ rưỡi, sau đó thì sang bên phòng của tôi. Công việc ở đó đã ngốn của mấy gã đó hẳn hai giờ đồng hồ. Bọn họ còn làm luôn cả những bức ngăn phòng và ở đó thì không có nhiều chỗ để đứng sơn.” Trên ghế, Tim bắt
chước hành động một thợ sơn đang cố gắng làm việc với một chiếc cán lăn sơn dài trong khoảng không gian chật hẹp. “Oskar thì sao ạ?”
“Lão ta đứng đó trong suốt quãng thời gian họ làm việc mà không hề mở miệng nói một câu nào. Lão có vẻ đã bình tĩnh lại nhưng chắc vẫn còn tức giận.”
Nate uống một ngụm bia. “Bác uống đi.”
“Đây là một bước lùi, đúng vậy, nhưng cậu sẽ vượt qua thôi.” Nate nhìn về phía Tim. “Cháu có thể hỏi bác một câu hỏi được chứ?” “Chắc chắn rồi.”
“Bằng cách nào mà cháu lại trở thành người khởi xướng trong vụ này chứ? Veek đã theo đuổi vụ này cả một năm nay giống như Clive. Bác cũng có rất nhiều kinh nghiệm trong việc làm quản lý, vậy tại sao mọi người đều trông chờ vào cháu?”
Tim nhún vai. “Đơn giản vì chính cậu là người chịu trách nhiệm trong vụ này.”
“Đó không phải là câu trả lời.”
“Cậu muốn tôi nói gì bây giờ? Rằng chúng ta đã bí mật gặp nhau và chọn ra tên cậu bằng cách rút thăm từ một chiếc mũ à?” Tim lại nhún vai. “Đôi khi mọi người đơn giản chỉ là hiểu ngầm với nhau ai sẽ là người chịu trách nhiệm chính. Không phải là thường xuyên, nhưng điều đó vẫn xảy ra. Cho dù là trong làm ăn hay chính trị, tất cả những người liên quan đều nhận ra được điều này. Người đó phải là người khiến cho tất cả mọi người đều lắng nghe, và trong vụ này người đó không phải ai khác ngoài cậu.”
Nate uống nốt chai bia của mình.
“Tôi có vẻ hơi lên lớp với cậu vài phút vừa rồi.“ Tim nói. “Cậu không phiền chứ?”
“Ai đó nên đảm nhận việc này. Có thể sẽ là một người có kinh nghiệm hơn.”
“Một người lớn tuổi vẫn có thể đánh bại cậu.” Tim nói trong khi cầm cổ chai bia và ra hiệu. “Hãy luôn nhớ lấy điều đó.”
“Cháu xin lỗi.”
“Tôi đã làm việc với hàng tá chuyên gia trong những vụ như thế này trong nhiều năm qua, lớn có bé cũng có. Tất cả bọn họ đều cho rằng họ là người giỏi nhất, và họ đã làm tốt nhất có thể. Vài người trong số họ thực sự tài ba. Vậy cậu cho rằng điều gì đã tạo nên sự khác biệt?”
“Điều đó có liên quan đến mấy bộ cánh hay những chiếc cà vạt quyền lực không?”
Tim lại cầm chai bia chĩa vào khoảng không phía trước. “Điều duy nhất có ý nghĩa với họ chính là đạt được mục đích của mình. Nếu họ cần đạt được điều gì, họ sẽ làm mọi thứ để có được nó. Nếu cần phải loại bỏ đối thủ của mình, họ sẽ làm như vậy. Họ là những người thành công cuối cùng, người mà tất cả những người còn lại phải lấy làm gương.”
Nate nhấp một ngụm bia. “Bác cho rằng cháu có con mắt của người thủ lĩnh?”
“Đó cũng là một cách nhìn nhận, đúng vậy. Đôi khi, giải quyết được câu đố trong vụ này trở thành điều quan trọng nhất đối với cậu. Và điều mà cậu coi là quan trọng đó, chính sự nhiệt huyết ở trong đó lan truyền từ cậu đến tất cả chúng ta.”
“Veek cũng quan tâm đến vụ này, cô ấy chính là người đầu tiên quan tâm đến nó.”
“Cô ta đã quan tâm đến nó,” Tim nói với một cái gật đầu, “nhưng cậu muốn nó được giải quyết. Tìm ra đáp án cuối cùng chính là điều duy nhất có ý nghĩa với cậu.”
Nate uống vài ngụm bia nữa rồi nhìn về phía người đàn ông lớn tuổi. “Vậy đó là cách mà bác giải quyết mọi vấn đề? Triệt hạ đối thủ của mình khi cần thiết?”
Tim nhấp một ngụm bia, mặt trời đã tiến gần về phía tòa nhà Century City. “Trước đây thôi,” Tim nói, “trong suốt một khoảng thời gian dài. Khoảng ba mươi năm gì đó. Đến một ngày tôi đã nhận ra được có nhiều điều đáng làm hơn là đạp đối thủ của mình xuống bùn.”
“Chẳng hạn như lắng nghe những điều phàn nàn từ những người phụ nữ của họ?”
Tim ngoảnh lại và nhe răng cười. “Đại loại là như vậy.”
“Nghe có vẻ như việc bác nhảy ra khỏi ngành xuất bản là một bước tiến tốt đấy.”
“Cậu không thể nào hiểu được đâu.”
Hai người nghe tiếng bước chân từ phía cầu thang vọng lên. Roger đang bước ra từ phía ánh nắng hắt ngược lại. Một tay anh chàng cầm một lốc sáu chai bia, tay kia cầm một túi đá lớn. “Này ông bạn,” Roger kêu lên, “đã nói với ông là tuần này tôi sẽ mua bia mà.”
“Thì đúng là đến lượt cậu mà.” Tim nói. “Tôi thấy có vẻ như chúng ta có thêm người.”
Roger gật đầu. “Tôi đã trông thấy Veek, cô ta sẽ có mặt trong ít phút nữa thôi.” Roger đặt lốc bia gần thùng bia của Tim, lấy ra một chai và khui nắp.
“Uống nào!” Tim mào đầu. Họ giơ chai bia ra cụng làm vang lên tiếng chai thủy tinh chạm vào nhau.
Roger cụng chai với Nate. “Phòng của tôi cũng đã được sơn lại rồi. Xin lỗi nhé anh bạn trẻ!”
“Không phải lỗi của anh mà.” Nate nói. “Đã tìm được gì từ bài toán đó chưa?”
Nate lắc đầu. “Chúng tôi tìm được ra vài điều khác kia.”
“Còn gì khác được chứ, gì vậy?”
Nate và Tim kể lại cho Roger nghe về những lời nhắn được viết bằng máu trên tường, được họ tìm ra khi chiếu tia cực tím lên và giờ lại được giấu đi dưới lớp bọc mới mà Nate gọi là “Vỏ Trứng”. Roger nốc cạn nửa chai bia trong khi nghe hai người kể lại. “Điều đó, thật sự là một bí mật hạng A đấy.” Roger thốt lên sau khi nghe hai người kể xong câu chuyện.
“Này mọi người!” Veek gọi vọng lại từ phía cửa thoát hiểm. Hôm nay cô mặc một chiếc sơ mi xanh phẳng phiu và thắt hờ một chiếc cà vạt. Vì cô đang đeo kính nên nhìn trông nó có vẻ giống một bộ đồng phục nữ sinh hơn là một bộ đồ văn phòng. Nate liếc về phía Roger và có thể chắc chắn rằng anh cũng có cùng suy nghĩ.
“Tôi đã nghĩ rằng cô sẽ không lên được đây hôm nay đấy.” Tim nói. Ông quay về phía tây và nhìn theo mặt trời đang lững thững qua nóc của những tòa nhà cao tầng phía xa.
Veek đẩy chân Nate sang một bên và ngồi xuống cạnh anh. Nước đá chảy xuống khi cô nhấc một chai bia lên, Veek lấy vạt áo quấn quanh nút chai và vặn nó ra, nút chai để lại một vết thẫm màu trên áo. “Bác biết đấy,”cô nói. “Cháu đã đợi cả tuần để có được buổi chiều hôm nay đó.”
Nate liếc nhìn Veek. “Để ngồi uống bia trên sân thượng ấy hả?”
“Là được ngồi uống với tất cả mọi người chứ.” Veek làm một hơi và họ cứ thế ngồi nhìn bầu trời chuyển sang màu cam khi trượt qua những tòa nhà. “Họ đã sơn lại tường phòng của tôi rồi đúng không?”
“Đúng vậy,” Nate nói, “có vẻ như họ đã sơn lại phòng của tất cả mọi người.”
“Chúng ta có thể lại tróc nó ra từ đầu,” Veek nói, “chỉ cần cẩn thận hơn một chút.”
Tim lắc đầu. “Không cần thiết phải làm điều đó.” Tim nói. “Chúng ta đã kiểm tra kĩ lưỡng mọi nơi rồi, mọi thứ đều đã được sao lưu lại nữa. Nếu chúng ta muốn tìm thêm manh mối thì phải tìm ở những căn hộ khác thôi.”
“Vậy thì,” Roger lưỡng lự, “tại sao những lời nhắn ấy lại được viết bằng máu chứ?”
Veek ném một cái nhìn kinh ngạc về phía Roger. “Viết bằng máu ư?”
“Đúng vậy.” Roger quả quyết. Anh nghiêng đầu về phía Nate. “Những dòng chữ trên tường phòng của Nate.”
Veek thậm chí không ngậm miệng lại được trong chốc lát. “Chúng được viết bằng máu?”
“Không phải những dòng chữ mà cô đã nhìn thấy đâu.” Nate nói. “Tôi tìm thấy những lời nhắn khác.”
Veek chớp chớp mắt. “Nội dung viết gì vậy?”
Họ lại kể câu chuyện một lần nữa cho Veek nghe. Veek lắc đầu ngao ngán. “Tại sao anh lại không gọi tôi đến cơ chứ?”
“Cô đã nói là cô bận mà, nhớ không? Tôi không muốn làm phiền cô, nên tôi đã không gọi.” “Nhưng anh đã gọi Xela dậy đấy thôi.”
“Tôi đâu có đánh thức cô ta?” Nate phản pháo.
“Chẳng phải anh đã đi tìm và kéo cô ta vào vụ này còn gì.”
“Xela là người có máy ảnh tốt nhất trong chúng ta.” Veek cắn môi và nốc một ngụm bia. “Vậy mà tôi cứ nghĩ rằng chúng ta sẽ giải quyết vụ này cùng nhau kia đấy.”
“Tôi xin lỗi,” Nate nói khẽ, “cô nói rằng cô không có thời gian rảnh, vì thế tôi nghĩ là... là cô không có thời gian cho vụ này.”
“Người anh em,“ Roger nói với Nate trong khi mở một chai bia mới, “thế ra cậu vẫn không biết gì về phụ nữ à? Họ chẳng bao giờ nghĩ như những gì họ nói đâu. Không có ý gì với cô đâu nhé!” Roger nói với Veek.
“Không phải,” Veek lẩm bẩm, “đúng là tôi có nói tôi không rảnh thật.”
“Đúng vậy. Điều đó chẳng phải có nghĩa là cô muốn dành nhiều thời gian hơn cho Nate sao?”
Veek hạ chai bia xuống. “Không, chỉ đơn giản là tôi bận và không có thời gian rảnh thôi.”
Roger nháy mắt với Veek và gật gù.
“Tôi còn có việc phải làm mà, anh không biết à?”
Veek lầu bầu.
Đúng lúc này, mọi người nghe thấy ai đó hắng họng một cách nặng nề. “Xin lỗi, tôi có đường đột quá không?”
Andrew xuất hiện từ phía cửa lên sân thượng. Anh ta mặc một chiếc quần kaki quen thuộc và một chiếc áo thun có cổ, khoác ngoài một chiếc áo vest bằng vải len. Tất cả những gì anh ta mặc chẳng vàng thì cũng là xanh, Nate lẩm bẩm trong đầu.
“Tôi... tôi vừa nghe được một chút từ câu chuyện của mọi người.” Andrew nói. “Tôi có hiểu một chút về những gì mọi người đang cố giải mã xung quanh những điều kì lạ tại tòa nhà của chúng ta.”
Lông mày của Veek dựng lên sau mắt kính của cô. “Anh nói vậy là có ý gì chứ?”
Andrew đưa tay ra sau lưng, chà đế giày vào miếng chống thấm. “Tôi đã ở đây được ba năm rồi.” anh ta nói. “Tôi đã cố gắng không phàn nàn gì, và Chúa dạy rằng chúng ta phải tĩnh tâm, nhưng tôi không thể không nhận thấy rất nhiều bí ẩn trong tòa nhà này.” Andrew nhìn lên và nói cao giọng hơn một chút. “Tôi thực sự muốn giúp đỡ mọi người, tôi muốn biết nơi đây đang ẩn giấu điều gì.”
Tim ho khan một tiếng. Roger và Veek đồng loạt nhìn về phía Nate.
“Ngày mai đi.” Nate nói. “Tất cả chúng ta sẽ hẹn gặp ở phòng sinh hoạt chung và thảo luận về vụ này. Anh cũng được mời đấy, Andrew.”
“Mấy giờ thì được nhỉ?” “Khoảng bốn giờ đi.”
Andrew gật đầu. “Tôi sẽ có mặt ở đó lúc bốn giờ.”
“Nhớ mang theo đồ ăn nhé.” Veek nói với khuôn mặt thật nghiêm túc. “Bánh kẹo sẽ khiến ta cảm thấy thèm ăn hơn đấy.” Andrew nói.
“Thế thì anh mang khoai tây chiên đi nhé,” Veek nói, “hay là mang bánh quy cũng được, hoặc cái gì đó giòn giòn ấy.”
Andrew suy nghĩ một thoáng rồi gật đầu lần nữa. “Tôi sẽ mang gì đó đến. Buổi tối tốt lành nhé! ” Andrew nói với mọi người trước khi quay lại phía cầu thang.
Tất cả mọi ánh mắt đều dồn về phía Veek. “Gì vậy chứ?” Cô phản ứng. “Anh ta chưa bao giờ giúp đỡ chúng ta hết và cả tỉ lần anh ta đều giảng giải cho tôi hiểu về một người phụ nữ độc thân sống cô độc là sao. Ngày mai là ngày Lễ Tưởng niệm3*, anh ta có thể mang khoai tây chiên cho chúng ta.”
3* Memorial Day: ngày lễ kỷ niệm của Mỹ tưởng nhớ những binh lính hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, trước đây được tổ chức thường niên vào ngày 30 tháng 5 nhưng hiện tại chuyển sang ngày thứ hai cuối cùng trong tháng 5.
CHƯƠNG
P
3
hòng sinh hoạt chung đã chật kín người khi Nate đi xuống từ phía cầu thang phụ. Debbie và Clive đã ngồi ở ghế sofa và đang nói chuyện với Tim. Mandy đứng ngay gần đó mà không nói gì nhiều chỉ nghe mọi người. Xela và Roger đứng nói chuyện bên cửa chống cháy. Veek đứng ở phía trước bên chiếc máy tính xách tay hiệu Toshiba có vỏ sáng bóng đang được đặt trên đỉnh một chồng thùng sữa. Cô đang kiểm tra lại cáp nối máy tính với màn hình tivi lớn.
Andrew đứng bên cạnh một đĩa cần tây đặt trên một chiếc bàn thấp, và anh ta đứng cạnh nó như thể là vệ sĩ của nó vậy. Đặt giữa chiếc đĩa còn có một chiếc chén nhỏ đựng một chút kem gì đó màu trắng. Nate nghĩ có thể đó là một chút kem chua hoặc xốt trứng gà.
Đang ngồi chính giữa ghế đối diện với Andrew là một bà lão với mái tóc đen được búi chặt lại đằng sau. Nate đoán chừng bà khoảng gần tám mươi tuổi. Lưng bà lão khá thẳng và một vài nốt đồi mồi trên bàn mu tay gầy gò. Bà đặt một cây gậy nhôm nằm ngang trên đùi làm vướng víu với bất cứ ai muốn ngồi cùng. Nate cũng không chắc là bà lão có cố ý đặt cây gậy như thế hay không nữa.
Hầu hết mọi người đều vẫy tay hay chào hỏi Nate khi anh đi loanh quanh tìm Veek. Cô trông thấy Nate và ngẩng lên mỉm cười. “Này Nate,” Veek gọi, “vài người bọn tôi đang tính sẽ gọi đồ Thái sau khi chúng ta kết thúc cuộc thảo luận, anh có muốn ăn không?”
“A,” Nate đáp lại, “tôi nghĩ là không đâu, tình hình tài chính của tôi có vẻ hạn hẹp kể từ khi bị cắt giảm giờ làm.”
Nụ cười của Veek vụt tắt nhưng trông cũng không đến nỗi tệ. “Không
sao, “ Veek đáp lại, “tôi hiểu mà.”
“Cám ơn cô nhé.” Nate ngoắc đầu ra hiệu với Veek nhìn về phía sau anh. “Bà lão đó là ai vậy?”
“Đó là bà Knight ở căn hộ số 4,” Veek trả lời, “bà lão ấy chính là người đã kể với tôi về vụ tự tử ở căn hộ số 16.”
“Ra vậy.” Nate trả lời.
“Tôi không nghĩ bà ấy khó tính như vẻ bề ngoài, hay cách bà ấy nói chuyện.”
“Tuyệt.”
“Thử lại đây tôi chỉ anh xem cái này,” Veek nói. Trên màn hình máy tính có khoảng một tá biểu tượng, “đây là máy tính của Xela và mấy bức ảnh của cô ấy, tôi biết cách sử dụng chúng. Chỉ cần nhấp chuột vào bất cứ bức ảnh nào là nó sẽ hiện ra trên màn hình tivi.” Veek nhấp con trỏ lên một vài bức ảnh và chúng lần lượt hiện lên trên màn hình tivi.
“Đây có phải là phần mềm Powerpoint không?” “Không phức tạp như vậy đâu. Nó chỉ đơn giản là một phần mềm trình chiếu ảnh tôi dùng để chiếu lên màn hình tivi. Còn nếu anh di chuột về bất cứ chỗ nào ở phía này...”, Veek kéo con trỏ chuột về phía góc phải màn hình thì màn hình sẽ xuất một bộ phim. Mất một lúc Nate mới nhận ra đó là bộ phim The Dark Knight4*. “Tôi đang mở phim chạy trên máy, nếu Oskar đến, ta chỉ cần giả vờ như cần chỉnh một cái gì đó trên máy tính và màn hình tivi sẽ chiếu bộ phim này.”
4* The Dark Knight: bộ phim trong seri phim về siêu anh hùng người dơi của đạo diễn Christopher Nolan, công chiếu năm 2008.
“Cô thật là thông minh đấy.” Nate khen ngợi.
“Cám ơn.”
Nate cười với cô và ngoảnh lại nhìn phía sau. Mọi người đã tập trung đông đủ cả khi anh lên đây. “Xin chào!” anh nói to. “Vâng, chúng ta đã tụ tập
được cả nửa tòa nhà có mặt ở đây lúc này, phải không?”
Mọi người đều nhìn Nate. Họ có vẻ rất hào hứng. “Bà Knight,” Nate gọi, “anh Andrew, tôi sẽ bắt đầu luôn với một số chuyện mới và tôi sẽ giải thích với hai người những chuyện trước đây sau, như vậy ổn chứ?”
Andrew bình tĩnh gật đầu, anh ta ngồi thẳng lưng và đặt tay trước đùi. Bà Knight nhìn có vẻ không được thoải mái lắm, nhưng bà chỉ càu nhàu vài câu nghe có vẻ khá quả quyết. Một tay bà Knight đặt trên cây gậy, như thể bà sẵn sàng dùng cây gậy đó để đánh về phía Nate nếu anh đưa ra thêm bất cứ một quyết định nào làm phật ý bà nữa.
“Vậy thì,” Nate nói, mắt rời khỏi cây gậy của bà Knight, “tôi nghĩ rằng mọi người đã được nghe kể về những lời nhắn mà chúng tôi tìm thấy vào đêm hôm trước, thật ra là đêm trước nữa.” Nate nhìn vào màn hình máy tính, nhấp
chuột và dòng chữ phát sáng hiện ra trên màn hình tivi lớn phía sau anh. “Đây là hình ảnh trong căn hộ của tôi, trong bếp. Mặc dù đã tróc đi lớp sơn bên ngoài, dòng chữ này chỉ có thể nhìn thấy được khi có tia cực tím chiếu lên.” Nate nhìn về phía những người hàng xóm. “Tôi không cho là mọi người biết ngôn ngữ của mấy dòng chữ này.”
“Trông có vẻ giống tiếng Nga.” bà Knight lên tiếng. Giọng bà lão vang lên và vọng lại khắp phòng, nghe như thể thanh quản của bà được làm bằng chất liệu giống như miếng da sống nhợt nhạt vẫn hay được dùng làm đồ chơi cho động vật.
“Không phải tiếng Nga.” Nate nói với bà lão. “Ít nhất chúng tôi có thể khẳng định được điều đó.”
Bà Knight đặt lòng bàn tay lên giữa cây gậy và lăn đi lăn lại trên đùi mình. “Nhưng nhìn nó thật sự giống tiếng Nga mà.” bà đáp lại.
Nate gật đầu. “Cháu biết chứ, cùng bảng chữ cái. Nhưng chắc chắn không phải là tiếng Nga.” Nate nhìn về phía những người còn lại. “Tôi hy vọng mọi người có thể trật tự và làm việc như một nhóm,” anh nói trước cả đám đông. “Nếu mọi người biết bất cứ ai có thể nói một loại ngôn ngữ châu Âu nào đó thì hãy nhờ họ xem những dòng chữ này viết gì nhé. Dù chỉ một cái tên cũng mang lại cho chúng ta nhiều thông tin đấy.” Nate chỉ vào những dòng chữ
hiện bên trên những con số ghi ngày tháng.
“Hãy cho mọi người xem mấy dòng chữ được viết bằng máu đi Nate.” Roger lên tiếng.
Nate di ngón tay trên chuột cảm ứng và nhấp một cái. Lời nhắn được viết bằng máu ngay sau đó hiện trên màn hình tivi. “Những lời nhắn này cũng được tìm thấy trong căn phòng của tôi.” Nate nói. “Bác Tim cho rằng chúng được viết bằng máu. Sau khi nghiên cứu những bài viết về tác dụng của tia cực tím trên mạng, tôi nghĩ rằng bác ấy đã nhận định đúng.”
Mandy rùng mình. “Chúng được viết bằng máu người à?”
Nate nhún vai. “Tôi không thể biết chắc được, nhưng tôi đoán là như vậy.”
Clive chỉ lên màn hình lớn. “Cậu có nghĩ rằng ‘trốn đi’ nghĩa là người đàn ông đó cần phải trốn khỏi một cái gì đó, hay ông ta đang cố nhắn ai đó rằng hãy tìm cách trốn đi?”
“Tôi cũng không biết nữa.” Nate đáp lại.
“Tôi đọc thì cảm thấy như thể người đó đang bị thương và đang tìm cách lẩn trốn khỏi ai đó đang tìm cách giết hại họ thì đúng hơn.” Xela nói.
Clive nhún vai. “Tôi cũng không biết. Nếu cô đọc nó từ đầu đến cuối thì có vẻ như họ đang cố gắng tìm cách giúp Kavach lẩn trốn một điều gì đó.”
“Và chúng ta vẫn không thể xác định được Kavach là ai.” Veek tiếp lời.
“Liệu sẽ ra sao nếu những điều họ nói là về chính tòa nhà này?” Roger đột nhiên lên tiếng.
Clive cười sằng sặc. “Làm sao mà anh có thể giấu được cả một tòa nhà cơ chứ?”
“Tôi có thể đội cho nó một chiếc mũ và đeo thêm cặp kính râm nữa.” Xela đế vào.
“Nếu là ẩn trong một khu rừng thì sao nhỉ?” Mandy ý kiến. Nate nhìn về phía cô. “Gì chứ?”
“Tôi đã nghe được một điều tương tự trong một chương trình truyền hình khi còn bé,” Mandy trả lời. “Bạn sẽ giấu một cái cây ở đâu được? Một khu rừng sẽ là nơi lý tưởng nhất. Vậy thì bạn sẽ giấu một tòa nhà ở đâu được chứ?”
Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Mandy.
“Trong một thành phố.” Tim cọ tay lên cằm. “Nhưng bằng cách nào mà có thể giấu được cả một tòa nhà kia chứ?” Veek thắc mắc. “Một tòa nhà thì luôn đứng im một chỗ, không có lẽ nó lại có thể di chuyển được khi mọi người không chú ý à?”
“Không, chúng ta không nói về tòa nhà.” Andrew lên tiếng. Anh ta vẫn ngồi với đôi bàn tay đặt trên đùi. “Có thể đó là một cái gì đó được cất giấu trong tòa nhà này.”
“Có thể là một vật gì đó, cũng có thể là một ai đó,” Debbie đáp lời.
“Nếu đó là một con người, ta nghĩ rằng vụ này sẽ đi vào ngõ cụt.” Tim nói. “Chúng ta đang nói về một sự kiện diễn ra cách đây cả một trăm hai mươi năm.”
“Tôi có một thắc mắc,” bà Knight nói. Nate gật đầu về phía bà Knight và để bà tiếp tục nói, “điều này có gì liên quan đến căn hộ số 16 không vậy?”
“Sao chúng lại có liên quan đến nhau được chứ?” Nate hỏi ngược lại.
Bà Knight nhướn mày và đôi tay bà chộp lấy cây gậy trên đùi. Nate lùi lại phía sau nửa bước ngay tức thì. “Cậu biết rõ điều gì đã xảy ra ở đó mà?” Bà lão vặn hỏi.
“Ý bà là vụ tự tử trong căn nhà đó?” Veek lên tiếng. “Chẳng phải người diễn viên đó đã tự sát hay sao?”
Bà Knight gật gù. “Cô ta tên là Andrea, đó là vào tháng 8 năm 1987. Lúc
đó cô ta chỉ đóng một vai nhỏ trong bộ phim của Roger Corman. Cô ta là người cuối cùng trong số bọn họ. Ta vẫn còn nhớ, cô ta có mái tóc vàng. Rất quyến rũ. Thời đó ta vẫn còn để tóc ngắn.”
“Chờ chút,” Tim ngắt lời, “người cuối cùng trong số bọn họ, ý của bà là sao?”
Bà lão lại gật đầu rồi tiếp tục nói. “Những người đã chết trong căn nhà đó. Đó là lý do vì sao ta lại nghĩ rằng chúng có liên quan đến những lời nhắn được viết bằng máu. Chẳng phải chúng chính là lý do cho tất cả những chuyện này sao?”
Một cảm giác rùng mình đáng sợ tràn qua khắp căn phòng. Debbie và Clive thậm chí còn siết chặt tay nhau vì sợ hãi. Andrew nắm chặt hai tay và vặn chúng lại với nhau. Bà Knight lại chẳng có vẻ quan tâm đến tâm trạng của mọi người xung quanh, nếu có thì cũng chỉ là nắm lấy cây gậy của bà một cách rất thản nhiên.
“Bà Knight,” Nate nói, “chính xác thì điều gì đã xảy ra trong căn hộ số 16 vậy?”
Bà lão liếc nhìn Nate một cái, xem như ác cảm của bà với anh chàng Nate này cũng đã bớt đi vài phần. “Cô diễn viên đó đã treo cổ trên cổng tò vò giữa phòng chính và nhà bếp.”
“Cô ta đã tự treo cổ sao?” Nate phản ứng.
“Cháu nghĩ rằng chuyện đó diễn ra ở trong tủ quần áo chứ nhỉ?” Xela lên tiếng.
Bà Knight lắc đầu. “Cô ta treo cổ ở chỗ cửa tò vò, chính mắt ta đã nhìn thấy ngay trước khi cảnh sát ập đến, chỉ trong một thời gian ngắn thôi.”
Tim hắng giọng. “Sao bà lại gọi cô ta là người cuối cùng trong số bọn họ? Như vậy có nghĩa là có rất nhiều án mạng diễn ra ở trong căn hộ đó?”
Bà lão gật đầu, tay bà lại nắm chặt lấy cây gậy. “Khi đó tôi vừa mới chuyển đến khu nhà thôi, nhưng đã có nhiều câu chuyện xung quanh căn hộ
đó. Trước Andrea đã có một người đàn ông tự kết liễu đời mình bằng súng chỉ cách đó bảy tháng. Một vụ tương tự xảy ra trước đó một năm, một người đàn ông khác cũng đã tự sát bằng súng. Trước đó thì đã có một cặp tình nhân tự tử bằng thuốc độc, vụ đó diễn ra vào tháng 12 năm 1984. ”
Nate chớp mắt. “Bà đang nói gì vậy? Như vậy là những người từng sống trong căn hộ đó đều chết cả ư?”
Bà Knight thở dài một tiếng trong khi Nate có thể nhận thấy rằng giọng nói của bà tụt thêm một nấc nữa. “Không,” bà nói. “tất cả mọi người sống ở đó đều đã tự sát. Thường thì chỉ trong một năm hoặc ít hơn.”
“Tất cả ư?” Veek tròn mắt.
Người phụ nữ lớn tuổi gật đầu. “Thời bấy giờ ta coi mình là một phiên bản của Angela Lansbury5* vậy.” bà kể. “Có cả tuần lễ ta đã dành thời gian tìm hiểu những vụ án diễn ra trong tòa nhà này. Theo tìm hiểu ta phát hiện ra có tới hai mươi sáu vụ tự sát trong tòa nhà này diễn ra trong khoảng thời gian ba mươi năm. Tất cả những vụ tự sát đều xảy ra trong căn hộ số 16.”
5* Angela Lansbury: nữ diễn viên người Anh nổi danh với bộ phim truyền hình Murder, She wrote, trong phim cô thủ vai một nữ thám tử tài ba, sử dụng tài chí của mình để theo đuổi đến cùng rất nhiều vụ trọng án.
T
CHƯƠNG
4
ôi cũng có một câu hỏi,” bà Knight tiếp tục, “cậu nói rằng ai đó đã viết những lời nhắn đó bằng máu và cậu phát hiện ra chúng do chiếu tia cực tím lên bức tường trong bếp à?”
“Đúng vậy ạ.” Nate trả lời.
“Liệu rằng người viết lại lời nhắn này có biết về tác dụng của tia cực tím không? Phải chăng đó chỉ là trùng hợp khi mà người đó viết chúng trong căn hộ của cậu mà không phải ở chỗ nào khác hay là trong đại sảnh?”
Nate chớp mắt, “Cháu thậm chí chưa bao giờ nghĩ theo hướng đó nữa kia.”
“Câu hỏi tuyệt đấy.” Tim bình phẩm.
“Thật ra thì cháu vừa nghĩ ra một điều,” Veek nói trong khi cô nhìn lên màn hình lớn.
“Khoan.” Nate thốt lên.
“Nó được viết bằng tiếng Anh.”
“Họ đã sử dụng tiếng Anh ở đây từ cả trăm năm trước rồi kia.” bà Knight cho biết.
“Đúng vậy,” Veek tiếp lời, “nhưng những lời nhắn khác lại được viết bằng tiếng Nga hay một ngôn ngữ nào đó đại loại như vậy. Chúng có thể được viết bởi không phải chỉ một người.”
“Hoặc là,” Tim tiếp tục, “có thể chúng được viết bởi một người bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau với mục đích để nhiều người có thể đọc được chúng.”
“Gì cơ?”
Tim chỉ lên hình ảnh đang được trình chiếu trên màn hình. “Cho dù là ai đã để lại lời nhắn này thì đối với họ nó đều có ý nghĩa sống còn. Lời nhắn này cần phải được hiểu ngay lập tức, không thể nào người đó lại viết chúng bằng một ngôn ngữ mà người cần đọc chúng lại không thể hiểu được chúng viết gì.”
Debbie hắng giọng. Âm thanh phát ra khản đặc và đục ngầu cho thấy cô đang lo lắng. “Chúng ta vẫn đang quên mất phần quan trọng nhất của lời nhắn thì phải?”
“Cô có ý gì?”
“Bảo vệ Kavach, bảo vệ thế giới. Câu này là có ý gì chứ?” Tất cả đều im lặng và nhìn lên màn hình lớn.
Bà Knight ho lên một tiếng mà nghe như thể tiếng khịt mũi thì đúng hơn. “Tôi không nghĩ rằng một điều gì có thể làm đe dọa đến cả thế giới lại được ẩn giấu trong chính tòa nhà này.”
“Nó có thể chỉ là một câu nói,” Veek lên tiếng, “có thể nó chỉ là một điều gì đó có ý nghĩa quan trọng đối với người đã xây dựng nên tòa nhà này.”
“Sự an nguy của cả thế giới có vẻ là một điều quan trọng đấy,” Roger lên tiếng.
“Một lần nữa,” Tim nhấn mạnh, “nó là một lời nhắn vô cùng quan trọng. Không ai lại đi lãng phí thời gian để dùng phép ẩn dụ hay để lại một câu nói vô nghĩa nếu như họ viết chúng bằng chính máu của mình cả.”
Một thoáng im lặng bao trùm cả phòng.
“Tại sao người đó không dùng từ ‘cứu’?”
Nate nói. “Người đó đã viết là ‘bảo vệ’?”
“Anh lại soi mói rồi.” Veek phản ứng.
Nate lắc đầu. “Không, hãy nghĩ mà xem. Như Tim đã nói, dù là ai đã viết những dòng chữ này đều đang cố gắng để lại một thông điệp rõ ràng. Nếu ông ấy viết là hãy ‘cứu’, điều này có nghĩa là nguy hiểm đã tìm đến với Kavach. Chẳng ai lại lao vào một tòa nhà để cứu người khỏi đám cháy khi mà còn chưa có ngọn lửa nào xuất hiện cả. ‘Bảo vệ’ ám chỉ rằng nguy hiểm hay sự đe dọa có thể sẽ ập đến chứ nó chưa thực sự diễn ra.”
“Tôi cho rằng cô bé da đen nói đúng đấy,” bà Knight lên tiếng, “cậu đang soi mói không đâu đấy chàng trai.”
“Ấy!” Veek đường đột thốt lên.
“Tôi không hề có ý vậy đâu, Nate,” Veek nói, “thời đại bấy giờ người ta có thể dùng ngôn ngữ gì được nhỉ? Liệu có phải là tiếng Hindi6* không?
Veek nổi dựng lên, Debbie liền đặt tay mình lên cánh tay cô.
“Dù sao đi nữa,” Nate nói lớn, “cháu nghĩ chúng ta có thể đưa ra một quan điểm đồng thuận rằng có một mối đe dọa nào đó, nhưng chúng ta không có đủ thông tin để xác định được ai hay cái gì đang bị đe dọa.”
“Ngoại trừ thế giới ra,” Roger lên tiếng, “nghe có vẻ như thế giới đang bị đe dọa vào thời điểm đó.”
“Đúng vậy,”Nate nói “ngoại trừ điều đó.”
6* Hindi: một ngôn ngữ được dùng phổ biến bởi người Ấn Độ.
Mọi người xì xào bàn tán và nhìn lại những lời nhắn trên màn hình. Ngay cả Andrew cũng đã rời khỏi ghế. Nhìn anh ta có vẻ không thoải mái chút nào.
“Tôi sẽ để mọi người xem một vài hình ảnh khác nữa.” Nate nói. Anh nhìn chăm chú vào màn hình máy tính. Xela đã sắp xếp các bức hình theo thứ tự chủ nhân của từng căn hộ vì vậy không mất nhiều thời gian để Nate tìm ra được hình ảnh mà anh đang cần. Chỉ một cú kích chuột và ngay sau đó một
phương trình toán học xuất hiện trên màn hình lớn sau lưng Nate. “Được rồi, đây là một vài hình ảnh được chụp lại khi chúng tôi tróc lớp sơn lần đầu tiên. Một vài người trong chúng ta đã cố gắng để giải nó nhưng quả thật là nó quá khó.” Nate lại bấm chuột một lần nữa và phương trình thứ hai được tìm thấy trong căn hộ của anh xuất hiện trên màn hình lớn, phương trình này có một
dãy số dài ở đoạn cuối của nó.
Mandy giơ cao tay. “Có phải chúng được viết ra bởi cùng một người không?”
Nate nhìn về phía Tim và ông gật đầu đáp lại. “Chúng tôi nghĩ thế này,” Tim nói, “nhìn có vẻ như chúng được viết bởi hai người khác nhau. Một phương trình được viết với số 4 có đỉnh là hình tam giác kín, cái còn lại số 4 lại có đỉnh khyết.” Tim vừa nói vừa phác họa hai con số 4 trong khoảng không trước mặt. “Người có số 4 được viết với đỉnh hình tam giác khép kín cũng viết số 8 với nét X đậm hơn ở giữa con số. Chúng ta xác định người này có thể cùng là người đã để lại lời nhắn trên bếp của Nate.”
Mandy gật gù.
Debbie ngả về phía trước, mắt chị liếc từ đầu này sang đầu kia của phương trình lớn. Môi Debbie lẩm nhẩm cái gì đó. Nate nhận ra điều này và hỏi. “Chị có nhìn ra được điều gì không?”
Một góc khóe miệng của chị nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống. “Tôi cũng không dám chắc một trăm phần trăm đâu,” chị nói, “nhưng có vẻ nhìn nó giống như phép tính gia tăng dân số.”
“Cái gì cơ?”
“Gia tăng dân số,” Debbie nhắc lại. Chị bước lại gần màn hình tivi và phác họa một vòng tròn quanh mấy con số bằng ngón tay. “Nó có vẻ phức tạp hơn công thức toán học cơ bản kiểu mẫu của Thuyết dân số7*, nhưng đây chính là tỉ lệ sinh, tỉ lệ tử và dân số ban đầu...” Debbie nhún vai. “Mặc dù tôi cũng không chắc những phần còn lại có nghĩa gì.”
7* Malthusian: Thuyết dân số được phát minh bởi nhà nhân khẩu học, kinh tế học người Anh Thomas Malthus.
Nate nhìn vào những con số. “Vậy chị nghĩ rằng đây là tỉ lệ dân số à?” Anh tiến tới và đặt ngón tay lên con số lớn 1.528,326.500 ±5000. Ngón tay Nate để lại một đốm nhỏ trên màn hình tivi.
Debbie nhún vai. “Có lẽ vậy, tôi chỉ nói là trông chúng có vẻ giống với công thức tính mức độ gia tăng dân số.”
Veek nghiêng đầu theo dãy số trên màn hình. “Dân số thế giới ấy hả?”
“Đừng có ngốc vậy chứ.” bà Knight quở trách. “Dân số thế giới đã vượt qua con số đó từ trước khi ta sinh ra. Ta nhớ rõ rằng dân số thế giới đã đạt đến con số ba tỉ khi ta vừa tròn hai mươi tuổi.”
Nate cau mày. Anh nhìn về phía Veek trong khi cô đang bấm bấm gì đó trên phím điện thoại của mình. “Có kiếm được thông tin gì không?”
Veek hít một hơi rồi trả lời. “Có đây, dân số thế giới đạt một phẩy sáu tỉ chỉ vài năm sau khi tòa nhà này xây dựng xong.”
Lại một loạt tiếng xì xào vang lên trong căn phòng. “Liệu đó có phải là một sự trùng hợp không?”
Clive hỏi. “Ý tôi là, chúng không xảy ra trong cùng một thời điểm.” “Đó cũng có thể chính là điều khiến họ sợ hãi.” Xela thêm vào.
N
CHƯƠNG
5
ày Nate,” Eddie gọi, “tôi có thể nói chuyện riêng với cậu một lát không?” Đó là ngày thứ ba của tuần kế tiếp kể từ ngày Lễ Tưởng niệm. Cùng với lịch làm việc mới, ở cơ quan giờ này chỉ có Zach và Nate là đang có mặt ở đó. Lúc này Nate chỉ muốn dành thời gian để tìm kiếm một chút thông tin về tòa nhà Kavach trên mạng, việc dành ra “vài phút” cho Eddie lúc này cũng đồng nghĩa với việc anh sẽ mất luôn cả nửa buổi chiều.
“Được chứ!” Nate đáp lại. “Có chuyện gì thế?”
Eddie đi về phía căn phòng chật hẹp và đặt cặp mông bành trướng của gã lên góc bàn làm việc của Nate, hầu như choán hết cả mặt bàn. Mùi dầu và xốt pepperoni8*cũng theo người gã tràn ngập vào căn phòng. Eddie đã ngốn hết hai miếng pizza suất đặc biệt trong cửa hàng dưới tầng cho bữa trưa của mình. “Đây có thể coi như là một kỷ lục mới đấy,” Eddie trầm ngâm. “Chẳng ai có thể biết được chúng ta đã có một cuộc trò chuyện.”
8* Pepperoni: xốt được làm từ ớt và thịt lợn hay thịt bò, được dùng phổ biến trong món pizza.
Nate khó khăn lắm mới ngăn được sự khó chịu của mình không thể hiện ra mặt. Điều duy nhất trên đời này tồi tệ hơn câu chuyện của Eddie chính là một cuộc trò chuyện với gã như hai người đàn ông. Gã thậm chí còn không có đủ năng lực để giả tạo một chút khi thể hiện sự đồng cảm của mình.
“Cậu biết đấy, mọi việc bây giờ đã trở nên căng thẳng hơn rất nhiều.” Eddie nói. “Họ đang cố cắt giảm giờ làm và thậm chí còn ép tôi phải giảm thêm nữa. Tôi đang đấu tranh để có thể giữ được việc làm cho tất cả mọi nhân viên ở đây. Cậu cũng biết là tôi đang cố gắng làm điều đó, đúng
không?”
“Ồ vâng, tất nhiên là tôi biết chứ.”
Eddie gật gù. Gã nhìn qua vai Nate về phía mấy chồng thư ở phía sau. Có tới ba chồng lận. Một chồng được kê lên hai chồng còn lại tạo thành hình một kim tự tháp toàn những thư từ thất lạc được gửi trả lại và đám tờ rơi đính kèm. Nate đã dành hầu như cả buổi sáng để tìm hiểu về những vụ tự sát và dự đoán dân số.
“Cậu đang bị tụt lại phía sau đấy.” Eddie cảnh báo. “Sẽ chẳng ích lợi gì nếu mấy gã ở tầng trên cảm thấy cậu làm việc không được nhanh như những gì họ nghĩ.”
Nate tin rằng hầu hết mấy người ở văn phòng tầng trên đều cho rằng những công việc ở đây được làm bằng máy hay là được đảm nhận bởi một công ty thứ ba. Anh nghi ngờ không biết có ai ở văn phòng đó biết Eddie hay không? Khi mà ngay cả nhân viên kế toán cũng không biết tên gã. “Tôi đã cố gắng để giải thích với họ,” Nate nói, “những tính toán của họ về năng suất công việc ở đây đều là hoang đường.”
Eddie giơ cánh tay lên. “Này chàng trai,”gã nói, “hãy nhớ rằng tôi luôn đứng về phía cậu đó. Hầu như nó cũng không phải vấn đề gì lớn khi mà cậu làm việc không được nhanh. Nhưng công việc bây giờ càng ngày càng trở nên khó khăn, cậu có đồng ý với tôi như vậy không?”
Nate thở dài và gật đầu. Công bằng mà nói, anh đã làm việc chưa đầy mười tiếng trong tuần trước. “Đúng vậy rồi.” anh đáp. “Quả thật là mọi chuyện đang có vẻ vượt ra ngoài tầm kiểm soát.”
“Tôi đang đấu tranh với cấp trên để giữ cậu, Anne và Zach không bị thôi việc. Tất nhiên điều này có nghĩa tôi sẽ cần mọi người làm việc với một trăm mười phần trăm khả năng của mình, cậu hiểu ý tôi đúng không?” Gã vẫy bàn tay ám mùi pizza về phía chồng thư từ phía sau. “Nếu ai đó xuống đây và nhìn thấy đống lộn xộn này, họ sẽ yêu cầu tôi sa thải cậu đấy!”
“Đúng thật.” Nate nói. “Tôi thành thật xin lỗi.” “Cậu có vấn đề gì à? Nếu có bất cứ điều gì mà tôi có thể giúp đỡ, đừng ngại nói với tôi nhé.”
Nate có thể cảm nhận được mối nguy đang rình rập trước mặt, một bãi mìn đã được gài sẵn phía trước. “Không có vấn đề gì đâu,” Nate đáp lại sau khoảng ba giây suy nghĩ, “chỉ là tôi bị thiếu ngủ thôi.”
Eddie hiền hòa gật đầu. “Có vấn đề gì ở nhà sao?” “Không,” Nate đáp lại, “cũng không hẳn vậy.”
Lông mày Eddie nhướn lên một chút. Sau đó mặt gã nở một nụ cười toe toét. “Ààà,” gã nói lớn. “Cậu không ngủ được vì chuyện ‘đó’ ấy hả?”
Bây giờ thì một quả lựu đạn đã thực sự nằm giữa bãi mìn phía trước Nate rồi.
“Không, không phải vậy đâu Eddie,” Nate nói. “Còn chối hả.” Eddie nói. Gã đấm một cái lên vai Nate, cú đấm có phần hơi quá đà. “Tên của cô ta là gì vậy?”
“Veek.” Nate trả lời mà không cần suy nghĩ. “Cô ta nóng bỏng chứ hả?”
“Tôi...” Một bóng hình từ trong những giấc mơ của Nate hiện ra trong đầu anh. Veek đeo một cặp kính gọng sừng và mặc áo thun len màu cam, bên cạnh cô là một Xela đang khỏa thân với mái tóc đen nhánh, Nate cố gắng xua đuổi hình ảnh đó rồi vội gật đầu để làm Eddie vừa lòng. “Đúng vậy. Cô ấy cực kì nóng bỏng.”
“Nate, nhờ có cậu mà tôi lại có cơ hội nhớ về những ngày xưa của mình,” gã đàn ông to béo hoài niệm, “làm việc suốt ngày sau đó trở về nhà và cả đêm thì thức.” Gã nhấn mạnh một cách cố ý vào chữ ‘thức’.
Nate phải rất khó khăn để tưởng tượng ra hình ảnh Eddie đang làm tình sẽ ra sao. Thật khó để không nghĩ về gã mà lại không tưởng tượng ra một con voi màu hồng. Hay nói một cách khác, tưởng tượng ra một con voi to lớn đến mức che hết cả ánh nắng mặt trời và nặng mùi pizza béo ngậy.
“Đúng vậy,” Nate nói, “quả thật là tôi cứ suy nghĩ mãi về cô ấy, nhưng mà hoàn toàn trong sáng nhé.”
“Mạnh mẽ lên chàng trai.” Eddie động viên. “Cậu đã gặp cô nàng trong
dịp nào vậy? Có phải là một trong những buổi gặp mà mấy gã biên tập viên đã rủ rê cậu tham gia không?”
“Không.” Nate trả lời. Anh nghĩ ngay đến hình ảnh của một binh đoàn đang diễu hành trước mắt. Chẳng quả mìn nào còn sót lại sau vụ nổ cuối cùng cả. “Cô ấy sống cùng tòa nhà mà tôi đang ở.”
Eddie nhướn mày. “Thật thế à?”
Nate gật đầu.
“Có vẻ cam go đấy, cậu có nghĩ vậy không? Ý tôi là, thật tuyệt khi cô nàng vừa nóng bỏng lại cởi mở trong chuyện chăn gối nữa, nhưng nếu mọi chuyện không như mong muốn thì cô ta vẫn cứ luôn luôn xuất hiện trong cùng tòa nhà đó.”
“À không, không hẳn như vậy,” Nate trả lời, “chúng tôi có một việc cùng phải giải quyết trong tòa nhà đó, ông biết đấy?” Nate bắt đầu tìm đến sự cứu rỗi của Chúa và thầm cầu nguyện sao cho cuộc trò chuyện này nhanh chóng kết thúc trước khi bất cứ chi tiết nào về đời sống tình dục trong tưởng tượng của anh có thể gã béo này phát hiện.
Eddie lại diễn lại bộ dạng cười toe và gật gù. “Được đấy,” gã nói, “giữa tôi và cậu, cuộc trò chuyện này tốt nhất là chỉ có hai chúng ta biết thôi nhé. Cậu biết mà, tôi sẽ chẳng đi kể lại chuyện này với họ đâu.” Gã nhìn lên trần nhà, rồi lại nhìn vào đống thư từ bị trả lại hình kim tự tháp. “Cậu cần từ chối cô ta trong vài hôm nữa và nên tập trung vào công việc ở văn phòng này đi.” Gã cười gian trá. “Tập trung vào công việc. Nghe có vẻ thú vị đấy.”
Nate gật đầu. “Cũng có thú vị thật đấy.”
Eddie lại gật đầu và khuôn mặt gã lại trở về trạng thái lạnh tanh. Nụ cười toe vụt biến mất, nhanh chóng hệt như lúc nó xuất hiện vậy. “Được rồi, cứ như vậy đi nhé,” gã nói. Gã rướn người về phía trước trong khi cặp mông đồ sộ dần dần tụt xuống khỏi mặt bàn. “Tốt nhất là cậu nên hoàn thành mớ lộn xộn này trong tuần tới.”
“Tôi sẽ cố gắng,” Nate trả lời, “sẽ dễ dàng hơn nếu tôi có thể làm đủ số
thời g.ian tôi cần.”
“Không, cậu chỉ có từng ấy thời gian mà thôi.”
Có một bảng ghim dưới chân cầu thang của tòa nhà. Bình thường, nó bị dán đầy những danh thiếp hay hàng tá phiếu giảm giá pizza. Khi Nate trở về nhà thì tất cả những thứ đó đã biến mất và thay vào đó là một tờ giấy trắng đính ngay chính giữa bảng. Tờ giấy được viết tay những chữ rất rõ ràng và đĩnh đạc.
Gửi đến toàn thể cư dân của tòa nhà!
Một sự cố của gia đình buộc tôi phải rời khỏi thị trấn trong suốt cuối tuần này. Tôi sẽ rời khỏi đây vào sáng ngày thứ sáu và quay trở lại vào thứ ba của tuần sau.
Bình thường, tôi sẽ không rời khỏi tòa nhà lâu như vậy, đặc biệt là khi có những vụ phá hoại đã diễn ra gần đây. Tuy nhiên, tôi đã nói chuyện với cô Toni từ công ty quản lý tòa nhà và cam kết sẽ không tái diễn những vụ tương tự.
Làm ơn hãy tôn trọng những cư dân khác trong tòa nhà. Nếu có bất cứ vấn đề khẩn cấp nào, hãy liên lạc với cô Toni qua số điện thoại cá nhân.
Ký tên
Oskar Rommel
Quản lý tòa nhà.
Lão ta chẳng hiểu gì sất, Nate thầm nghĩ. Bí mật về danh tính của Toni - Kathy vẫn được giữ bí mật với các nhân viên trong công ty Quản lý Locke. Cũng có thể, Nate chợt nhận ra, vì cô ta chưa bao giờ gửi cho anh chút thông tin gì về lịch sử của tòa nhà.
Ít nhất, Oskar cũng sẽ không có mặt ở đây trong khoảng năm ngày. Họ sẽ có khá nhiều thời gian để tiếp tục cuộc điều tra.
Đã gần mười giờ tối, có ai đó đập cửa phòng anh. Nate đứng trước bức
tường đối diện gian bếp, tay đặt lên đúng chỗ mà trước đó từng xuất hiện những lời nhắn bằng máu. Nate liếc mắt về phía cửa và nghĩ rằng đó có thể là Oskar, lão đến đây để càu nhàu về việc Nate đã dấy lên trong cả khu nhà về mấy dòng chữ ở dưới lớp sơn.
Tiếng gõ cửa lại dồn dập, ba tiếng liên tiếp và có phần thô bạo. Nate ngó qua lỗ nhòm và trông thấy cặp mắt như mắt cá của Roger. Mặt anh dãn ra đầy vẻ phấn khởi.
Roger đẩy Nate sang một bên và cứ thế tiến vào phòng ngay khi cửa được mở. “Chàng trai,” anh nói, “cậu sẽ không thể tin được điều này đâu.” “Có chuyện gì vậy?”
“Được rồi, cậu có nhớ những điều tôi đã nói với cậu về dự án làm phim kinh phí thấp của tôi không?”
Nate hoàn toàn không nhớ gì nhưng vẫn gật đầu cho qua.
“Hôm trước tôi đã gặp nữ diễn viên chính của đoàn. Một cô nàng bốc lửa. Cô ta có vẻ rất tuyệt, tôi đã trò chuyện với cô ta một chút và đoán thử xem! Cô nàng có thể nói được cả sáu ngôn ngữ lận, một trong số đó là tiếng Nga.”
Nội dung chính mà Roger đang cố diễn đạt cuối cùng cũng đã trở nên sáng tỏ hơn nhiều.
“Được rồi,” Nate nói, “nhưng nó không phải được viết bằng tiếng Nga mà.”
“Đúng là như vậy, nhưng cô ta có thể nói được mấy ngôn ngữ kia mà,” Roger cố gắng giải thích. “Tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Ý. Tôi nghĩ là chúng ta có thể thử nhờ cô ta xem giúp mấy dòng chữ đó có ý nghĩa gì.”
“Tôi chắc là nó cũng chẳng phải tiếng Pháp hay tiếng Ý gì đâu.”
“Chàng trai, sao chúng ta không thử để cho cô ta xem qua một chút những lời nhắn đó nhỉ?”
Nate suy nghĩ một chút. “Anh có nghĩ là cô ta có thể dịch được không?”
“Cô ta khá đặc biệt, và chúng ta cũng đâu có nhờ vả cô ta việc gì to tát lắm đâu. Chỉ là xem qua vài dòng chữ và thử dịch nó thôi, không phải sao?”
“Được rồi.” Nate ra hiệu cho Roger vào trong căn hộ. Anh đã giữ lại bản cứng tất cả những bức ảnh được chụp lại và ghim một vài quanh bàn làm việc. “Anh có muốn cầm một bản sao không? Tôi có hai bản ở đây.”
Roger gật đầu. “Tuyệt vời,” anh nói. “Chỉ là một mẩu giấy, vừa gọn nhẹ, lại nhìn rất bình thường. Tôi sẽ gặp và hỏi cô ta vào ngày mai, biết đâu đến cuối tuần này chúng ta sẽ có được câu trả lời. ”
CHƯƠNG
L
6
ần gõ cửa tiếp theo là vào ba giờ chiều ngày hôm sau. Nate ra mở cửa và thấy Veek cùng Tim đang đứng chờ sẵn ở ngoài. Tim đeo một chiếc ba lô lớn trên vai. Nate nhìn về phía Veek. “Không phải giờ này cô đang đi làm sao?
“Tôi đã xin nghỉ ốm,” cô vừa nói vừa cười khúc khích. “Anh đã sẵn sàng cho một chuyến phiêu lưu chưa?”
“Cô có ý gì vậy, chuyến phiêu lưu nào kia?”
“Veek và tôi đã thảo luận từ trước rồi,” Tim phân trần.
“Chúng ta biết rằng có một mối đe dọa đang rình rập tòa nhà này. Thậm chí có thể là tội phạm giết người nữa. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta phải trở nên chủ động.”
“Tất cả những điều này nghĩa là sao?” Nate thắc mắc. “Chúng ta sẽ đi xuống tầng hầm,” Veek đáp lại. “Xin lỗi, nhưng chúng ta sẽ xuống đó thật sao?” “Chúng ta sẽ xuống căn hầm lớn,” Veek nói, “cả khu dưới tầng hầm nữa. Chúng ta cần tìm kiếm xem có manh mối gì ở đó không?”
“Vậy Oskar thì sao?”
“Ông ta hiện tại đang vào vai một người đàn ông lịch thiệp, lái xe chở Mandy xuống phố Van Nuys đến nhà hàng Food4Less rồi,” Tim nói. “Nhân viên ở đó bị một con bọ gì đó cắn và hiện tại họ đang thiếu nhân viên thu ngân. Mandy sẽ có thể còn phải làm thêm ca nữa nếu cô nhân viên đen đủi kia chưa kịp quay lại trước bốn giờ.”
“Đường 101 đang trong giờ cao điểm thì ít nhất Oskar cũng sẽ không thể
trở lại đây trong một tiếng rưỡi nữa,” Veek quả quyết.
“Bao nhiêu phần trăm trong số những gì cô nói là sự thật vậy?”
“Ít nhất thì Mandy cũng đã cố gắng giúp đỡ chúng ta,” Tim nói. “Không còn nhiều thời gian nữa. Cậu có định đi hay không nào?”
Ba người bọn họ chạy về phía cầu thang phía sau của tòa nhà, nơi có lối đi vào tầng hầm. Nate dừng lại trước cánh cửa được khóa kiên cố bởi ổ khóa móc, cánh cửa này nằm ngay đối diện phòng giặt là. “Chúng ta sẽ bắt đầu từ đây chứ?”
Tim gật đầu. “Trước hết phải giải quyết vấn đề nhỏ bé trước mắt kia đã,” ông nói.
“Vậy phải làm thế nào?” Veek hỏi. “Chúng ta sẽ chẳng bao giờ phá được cái ổ khóa này.”
Tim lôi ra một chiếc túi nhỏ bằng da cũ từ túi sau và lật mở nó ra, để lộ ra một loạt những dụng cụ cậy khóa. Nhìn chúng có có vẻ cũ kĩ và xỉn màu như thể đã được sử dụng trong nhiều năm qua. Tim đút hai dụng cụ gì đó vào ổ khóa và dùng ngón tay của mình điều chỉnh chúng nhìn có vẻ rất thành thục và trơn tru.
Mắt của Veek đang nổi đom đóm sau cặp kính của cô. “Thế là” Nate nói, “bác thậm chí còn biết cách cậy khóa nữa ấy hả?”
“Tôi thậm chí đã xuất bản một cuốn sách về nghề này từ vài năm trước kia,” Tim nói. “Một trong số bí kíp này đã từng được in trong tạp chí Soldier of Fortune and Writer’s Digest9* hay một vài tạp chí tương tự như vậy. Nó có vẻ là một mánh có ích, vì thế tôi đã thử học và thực hành nó.
9* Chiến binh của Vận may và Khẩu vị của Tác giả.
“Bác biết không?” Veek thảng thốt, “Đã có rất nhiều lần bác dùng đến câu ‘tôi đã từng xuất bản một cuốn sách về điều này’ và cháu nghĩ chúng cháu sẽ mua nó.”
Tim tủm tỉm cười. “Dù sao thì nó cũng là một cách để thoát khỏi rắc rối rất tốt trong rất nhiều trường hợp, không phải vậy sao?”
“Vậy làm cách nào mà bác lại biết cách làm mấy cái này vậy?” Dụng cụ cậy khóa xoắn mạnh một cái và chiếc khóa móc bật tung ra.
“Nghe này,” Tim nói. “Cô có định nói cho chúng ta biết cô đang làm gì với chiếc siêu máy tính trên căn hộ của mình không? Nếu cô nói ra trước, tôi sẽ nói ra tất cả những bí mật của tôi.”
Nụ cười của Veek vụt tắt. “Cháu không hiểu bác đang nói gì hết.”
“Đánh trống lảng được đấy,” Tim nói. “Cũng may tôi chỉ là một tay in sách đã nghỉ hưu. Nếu không thì cô đã gặp rắc rối to.”
Cánh cửa mở ra và ba người nhìn vào bên trong. Một chiếc giỏ đựng đầy những dụng cụ cầm tay được đặt ngay gần cánh cửa. Một chiếc máy cắt cỏ đã hỏng nằm thê thảm trong xó, nằm dựa vào nó là một cây chổi cào bằng nhựa. Ba chiếc giá lớn bằng khung sắt được dựng cạnh bức tường, lấp đầy những chiếc hộp lớn nhỏ. Một nửa số hộp có gắn mác, có chiếc được gắn những cái mác nguyên bản, có cái lại được dán tạm mác khác lên. Có đủ cả, từ bóng đèn ha-lô-gen, bóng đèn loại thường được lắp trong lối đi, ống nối, một vài chiếc hộp chứa đầy cầu chì với đủ mức hiệu điện thế và cường độ điện khác nhau. Một vài chiếc hộp lại được gắn mác đơn giản với những cụm từ như ‘phòng ngủ của Katie’, điều này khiến Nate hiểu rằng chúng đã được sử dụng bởi những cư dân đã từng sống trong tòa nhà.
“Ôi trời,” Veek thốt lên. “Một căn nhà kho bẩn thỉu.” “Nhưng giờ chúng ta đã biết trong này có gì,” Tim nói.
“Biết được đến đây mới chỉ là một nửa chặng đường thôi,” Nate nói.
Cả ba người đều mỉm cười. Tim kéo cánh cửa đóng lại và cài ổ khóa trở lại then cửa.
Cuối hành lang là một cửa đôi được trang trí khá công phu. Một thanh chốt lớn được cài giữa hai cánh cửa và một dây xích lớn được quấn quanh nó.
“Giờ thì bác tính sao với vấn đề ‘nhỏ’ này đây?” Nate hỏi.
Tim quăng chiếc ba lô trên vai xuống và rút ra một chiếc đèn pin lớn bằng kim loại. Nó là một trong những chiếc đèn pin màu đen mà cảnh sát vẫn hay dùng. Ông đưa nó cho Nate. “Vẫn cách cũ thôi,” ông nói. Tim quay lại phía Veek. “Cháu có mang điện thoại ở đây chứ?”
“Có chứ, đây ạ.”
“Trước hết hãy chụp lại vị trí sợi dây xích kia,” ông nói. “Phải chụp lại xem chúng được vắt qua thanh chốt cửa và tay nắm cửa ra sao. Chúng ta sẽ phải cài chúng lại giống hệt như lúc ban đầu.”
Nate soi đèn pin vào phần giá khóa bên trái trước tiên, chỗ này sợi xích được cuộn xuống bên dưới thanh thép chữ L và cuốn quanh thanh chốt cửa. Điện thoại Veek vang lên tiếng chụp click rồi sau đó Nate rọi đèn pin về phía còn lại của ổ khóa.
Tim đợi cho hai người chụp hình xong và ánh đèn pin được rọi thẳng vào chiếc ổ khóa đồ sộ. Dụng cụ cậy khóa được đút vào lỗ khóa và nảy lên dưới đầu ngón tay của ông. Chỉ một thoáng sau, ổ khóa bật ra.
Sợi xích vang lên tiếng kêu lớn khi ba người tìm cách tháo nó ra khỏi thanh chốt cửa và tay nắm. Tim lôi từ trong ba lô ra một chiếc áo gối và đút sợi xích cùng với ổ khóa vào trong đó trước khi quẳng chúng vào một góc phòng.
Nate nắm tay vào một bên tay cầm của cánh cửa lớn. Veek cũng nắm lấy tay cầm của cánh cửa còn lại. “Sẵn sàng chưa?”
“Chờ mãi,” cô trả lời. Một nụ cười hiện lên trên khuôn mặt Veek.
Họ kéo cánh cửa lớn mở ra. Bản lề có vẻ còn rất trơn tru dưới sức nặng và sự dịch chuyển của cánh cửa lớn mà không hề gây ra tiếng động nào. Ánh sáng từ ngoài hành lang cũng theo đó tràn vào bên trong.
Nhìn nó cũng không khác so với trong bức ảnh Xela đã chụp lại là mấy. Sàn của căn phòng là cả một mảng bê -tông lớn với hai rãnh nứt lớn trên bề
mặt. Một trong số chúng đã được tu sửa lại. Ánh đèn pin khiến cho mấy con gián xanh lá bỏ chạy và biến mất vào góc tối của căn hầm. Chúng để lại vệt chân mỏng manh trên đám bụi trên sàn, Nate có thể nhìn thấy được hàng nghìn những vết chân của đám côn trùng để lại trong bao nhiêu năm qua.
Nate liếc nhìn Veek. “Cô ổn cả chứ?”
“Sẽ ổn thôi.” Veek giậm chân trên sàn và tạo ra vài gợn sóng từ thảm bụi dày. Nate để ý thấy thậm chí cô còn nhét gấu quần vào trong giày của mình.
“Tìm công tắc đèn đi nào,” Tim nói trong khi đi vòng theo chu vi căn hầm. “Hai người thấy có mạo hiểm không khi chúng ta bật công tắc lên?”
Nate nhìn quanh căn phòng. “Cháu không nghĩ là dây điện ở đây được lắp đặt cho điều kiện an ninh cao đâu. Cứ bật công tắc lên thôi.”
Công tắc đèn vang lên một tiếng click và cả căn hầm bừng sáng. Ánh sáng từ chiếc bóng đèn ngoại cỡ được treo ở chính giữa phòng đã đẩy lùi bóng tối, khiến cho mấy con gián dũng cảm cuối cùng cũng chạy trốn hết.
Căn hầm nằm trên một diện tích cỡ bằng một nửa nền móng phía trước của tòa nhà. Trần hầm với toàn bộ dầm gỗ đã bị giăng kín bởi những lớp mạng nhện bụi bặm phải đến cả vài thập kỷ, khiến chúng thậm chí sáng lên quanh chiếc bóng đèn mà chúng đã bao kín từ bao giờ. Tường hầm được xây toàn bộ bằng gạch với những ống gang lớn chạy thẳng lên phía tòa nhà.
Chính giữa căn hầm là một lan can cầu thang. Chúng được làm từ những ống thép, gắn với nhau bằng những khớp nối to ngoại cỡ. Có hai thanh thép lớn đặt nằm ngang. Toàn bộ lan can dài khoảng hơn hai mét và rộng gần một mét. Ở giữa là một cầu thang với các bậc được làm bằng thép với đầy những chấm gỉ màu cam, dẫn xuống một khoảng không tối om bên dưới.
Tim đã đi hết được chu vi của căn hầm. Ông tìm thấy một cái xẻng và một cặp chổi cán dài ở một góc hầm, tất cả đều đã xỉn màu xám ngoét.
“Chẳng có gì ở đây hết,” Tim nói. “Có vẻ như căn hầm này trống không. Chúng ta có thể xem qua đường thông thang máy kia.” Tim chỉ về góc hầm phía sau cánh cửa. Có một cái lồng sắt với khung gỗ được xây bao quanh
đường thông thang máy. Cửa lồng được làm từ lưới sắt nhìn giống như một cánh cửa lưới thông thường nhưng với những mắt cá dày hơn. Không có dấu hiệu gì về sự tồn tại của một chiếc thang máy ở đây. Đường thông trống trơn ngoại trừ một cặp dây cáp lớn chạy thẳng lên phía tòa nhà và chạy xuống bên dưới sàn hầm.
Veek chụp lại những hình ảnh này bằng điện thoại. Cô chụp ảnh cuộn dây trên tường và thử chạm vào nó. Cuộn dây đung đưa và xé toạc vài mảng mạng nhện cũ kĩ khiến chúng lờ đờ rơi vào khoảng không bên dưới. “Là dây cáp,” cô nói. “Tôi đã nói với anh là vậy rồi mà.”
“Mặc dù vậy thì đây cũng không phải là những sợi dây đồng,” Nate nói khi nhìn qua vai cô. “Có thể nó được dùng cho thang máy.”
Veek nhún vai.
Nate cúi xuống nhặt một chồng báo được đặt ở chân lan can. Trang trên cùng bị phủ một lớp bụi mờ mịt với đầy dấu chân gián. Anh thổi lớp bụi đi, những hình ảnh và chữ in hiện ra dưới lớp bụi từ nhiều năm trước.
Tim đang đứng ngay cạnh Nate. “Có tin gì trên báo vậy?”
“Máy bay đã trở nên an toàn trở lại. Có vẻ như tổng thống Carter hy vọng toàn thể nhân dân sẽ đoàn kết để vượt qua cuộc khủng hoảng về năng lượng.” Nate cười. “Ồ, và thống đốc ngân hàng Brown quyết định cắt giảm ba triệu đô từ ngân sách liên bang bằng việc từ chối tăng lương cho nhân viên của liên bang.” Anh tiếp tục thổi bụi bám trên phần tiêu đề của tờ báo. “Thời báo Los Angeles. Ngày 14 tháng 7 năm 1979.”
“Thông tin này liệu có quan trọng không?” Veek hỏi, “Ngày mà tờ báo được phát hành ấy?”
Nate trượt ngón tay cái qua xấp giấy báo. Những trang giấy đã ngả màu vàng và kẹp ríp lại với nhau, và không quá mỏng. “Có vẻ không liên quan gì đâu. Tôi nghĩ chúng chỉ là mấy tập báo mà ai đó đã bỏ lại đây.”
“Ít nhất thì nó cũng cung cấp cho chúng ta thông tin về thời gian,” Tim nói. “Từ chiếc ổ khóa gỉ sét và đám bụi này tôi nghĩ chúng ta có thể tự tin
rằng chưa có ai xuống đây kể từ khi đống báo bị bỏ lại chỗ này.”
Veek nghiêng đầu. “Vậy là đã ba mươi ba năm rồi,” cô nói. “Lúc đó thậm chí còn trước mười năm so với thời điểm Oskar chuyển đến đây. Ông ta có thể chưa bao giờ bước chân xuống dưới này.” Cô liếc nhìn khắp căn phòng.
“Có thể ông ta không có chìa khóa của căn hầm này,” Nate nói.
Tim tiến gần về phía hai người. Ông liếc nhìn về phía cầu thang dẫn xuống khoảng không tối om phía dưới và xem lại đồng hồ. “Tích tắc,” ông lên tiếng. “Chúng ta đã ở đây cả mười lăm phút rồi. Còn khoảng một giờ đồng hồ nữa nếu chúng ta muốn tiếp tục. Hai người sẵn sàng rồi chứ?”
Nate nhìn Veek. Cô gật đầu. “Cháu sẵn sàng rồi.” “Bác muốn cháu xuống trước chứ?”
Nate hít một hơi thật sâu và nhấc đèn pin lên. “Dù sao cháu cũng là người chịu trách nhiệm chính trong vụ này, không phải vậy sao?”
Tim cười nhỏ nhẹ. “Điều đấy không có nghĩa là cậu không thể ủy nhiệm cho người khác.”
“Cháu sẽ xuống trước.” Nate bật đèn pin lên và soi xuống khoảng tối phía dưới. Chân cầu thang cách khoảng hơn bốn mét rưỡi phía dưới.
Nate đặt bước chân đầu tiên xuống bậc cầu thang. Tấm thép kêu lên cót két nhưng không hề bị lung lay. Anh bước xuống thêm một bậc nữa và Veek đặt bàn tay mình lên vai anh. Cô siết chặt bờ vai Nate. Nate với bàn tay còn lại của mình lên và nắm lấy bàn tay đang siết chặt vai mình.
Họ chìm vào trong bóng tối.
CHƯƠNG
B
7
ước trên những bậc cầu thang dẫn vào một cái hố đen ngòm trong khi trên tay chỉ có duy nhất chiếc đèn pin thực sự là một điều đáng sợ hơn rất nhiều so với tưởng tượng của Nate. Mỗi bước đi xuống tạo ra một quầng sáng tròn đung đưa lắc qua lắc lại khiến cho các bậc thang chìm trong bóng tối trong một thoáng cho đến khi Nate soi đèn trở lại phía chúng. Cảnh này đã xuất hiện trong cả tá những bộ phim kinh dị. Nate vẫn chờ đợi ánh đèn sẽ làm lộ ra một bộ xương, một vệt máu hay thậm chí một sinh vật trắng bệch vì bạch tạng do bị nhốt ở dưới căn hầm ngầm này trong suốt bao nhiêu năm qua. Bàn tay đang siết chặt của Veek trên vai giúp anh cảm thấy bình tĩnh hơn đôi chút. Mỗi bước đi xuống, cô lại nắm chặt vai anh hơn một chút và đến bậc thứ mười thì anh đảm bảo là bàn tay Veek đã hằn dấu lên vai mình.
“Tôi nghĩ là chúng ta đến nơi rồi,” Nate nói sau khi bước đến bước thứ mười tám. Nate dùng đen pin soi một khoảng rộng xung quanh chân mình để chắc rằng anh có thể tiếp đất an toàn. Những gì bên dưới có thể khiến anh trượt ngã và làm hỏng chiếc đèn pin. Cũng có thể nó sẽ khiến anh ngã gãy cổ.
Cầu thang chạy về phía một bức tường đằng trước. Sàn hầm được làm bằng thép, nhìn giống như thể anh đang đứng trên thân của một con tàu chiến. Một vài chiếc đinh tán được vẽ vòng quanh bởi những vòng tròn màu cam. Tất cả chúng đều bị bụi phủi kín.
Nate cảm nhận được Veek đã bước xuống sàn đằng sau mình, một lát sau thì Tim cũng xuống đến nơi. “Tất cả mọi người đều ở đây rồi chứ?”
“Vâng.”
“Có tôi đây,” Tim nói. “Cậu có nhìn thấy cái công tắc đèn nào không? Có thể dưới này cũng có một cái ở đâu đó. ”
Nate xoay đèn pin về phía bức tường và tìm được một công tắc bấm ngay chỗ mà anh không ngờ tới. Nút bấm ở phía dưới đã được ấn vào, nút ở bên trên thì không. Nate bấm chiếc nút bên trên và làm nó tụt hẳn vào trong.
Sáu chiếc đèn chụp được bật lên đồng loạt ngay sau đó và chiếu sáng cả căn hầm, chúng được treo thành hai hàng, mỗi hàng có ba chiếc. Chiếc ở gần phía họ nhất nhấp nháy mất một lúc, vụt sáng lên rồi tắt hẳn. Mấy nhà thám hiểm chớp mắt. Một vài điểm màu xanh, màu sắc tươi sáng duy nhất trong căn phòng cũng biến mất. Phải mất một lúc ba người họ mới nhận ra được hình dạng của những đồ vật bị “chôn vùi” dưới một lớp bụi dày xung quanh. Họ chia nhau ra và tìm kiếm tất cả mọi ngóc ngách trong căn hầm.
Ba người đang đứng trong một căn hầm hình chữ nhật có diện tích lớn hơn một chút so với phòng sinh hoạt chung phía trên. Các bức tường được ép ván gỗ nhưng thời gian đã làm chúng bị co lại và biến dạng. Trần hầm được làm bằng dầm thép và bê tông.
Một chiếc bàn làm việc và một cái bàn dài gần phía cầu thang đã chiếm hết một nửa diện tích căn hầm. Có đến mấy lớp thảm được trải ra bên dưới chúng, che đi sàn thép bên dưới.
Sáu chiếc ghế được bày quanh một chiếc bàn dài. Một vài lọ nhỏ đặt ở chính giữa bàn, Tim thổi lớp bụi quấn quanh chúng. Trong một chiếc lọ đựng thứ bột gì đó màu trắng mà ông tin rằng nó chính là muối, qua đó có thể đoán ra được chiếc lọ đựng toàn hạt đen và xám bên cạnh là tiêu thô.
Nate kiểm tra quanh chiếc bàn. Nó là một chiếc bàn gỗ lớn, được làm từ một tấm gỗ cứng nguyên khối, kiểu vẫn thường được nhìn thấy ở trường đại học New England. Nate nhìn lại phía cầu thang và tự hỏi liệu họ có phải tháo rời nó ra để có thể vận chuyển nó xuống dưới này.
Một tấm giấy trải bàn cổ xưa được trải lên mặt bàn làm việc nhiều ngăn. Cạnh của hốc để đồ được khắc hình dây leo và lá. Một chiếc móc đồng đã chuyển sang màu nâu theo thời gian nhô ra trên mặt hốc. Trên móc có treo một chùm ba chiếc chìa khóa xâu vào một chiếc vòng. Cả ba đều có trục dài và răng khóa hình vuông.
Nate tìm thấy vài mẩu giấy trong một hộp được gắn mác “Xuất”, nhưng
lại không thấy chiếc hộp nào có gắn mác “Nhập”. Mực in đã mờ hết theo thời gian và khiến mấy mẩu giấy trở nên rất giòn. Một vài trong số chúng thậm chí đã bị mục nát ở cạnh bởi chính sức nặng của nó. Trong những hốc khác còn có vài mẩu giấy được cuộn tròn lại và sắp xếp một cách cụ thể, nhưng đa phần chúng đều đã mục gần hết.
Phía trên bức tường phía sau chiếc bàn có treo một cuốn lịch, nó được treo trên một chiếc đinh nhỏ. Tương tự như mấy mẩu giấy kia, mực in đã mờ gần hết dù chúng được in đậm hơn. Nate cố gắng đọc những ghi chú được viết vào các ngày trên tờ lịch nhưng không thể dịch được chúng viết gì, tuy nhiên tờ lịch được lật ra vào tháng 11 năm 1898.
“Tôi nghĩ rằng bức tường này nằm ngay dưới vị trí phòng giặt là,” Tim nói.
“Dưới này cũng chẳng hề có cái thang máy nào hết,” Veek ca thán. Cô đang đứng cạnh một chiếc lồng sắt được dựng chỉ cách lối cầu thang chừng một mét. Cáp nối chạy xuống khoảng không đen kịt phía dưới. Veek cố dùng sức để kéo cánh cửa lồng sắt ra nhưng chẳng thể làm chúng dịch chuyển chút nào. Cô tìm cách lắc mạnh nó và việc này khiến cho cả một đống bụi lớn bay tứ tung trong không khí.
“Bình tĩnh nào,” Tim nói. “Nếu cô còn tìm cách lay nó thêm nữa thì chúng ta sẽ chết ngạt vì bụi mất.”
Veek hắt hơi một cái rồi dùng điện thoại chụp lại vài bức ảnh của khung sắt bao quanh đường thông thang máy. Sau đó cô đút điện thoại vào trong túi và rút ra một cái gì đó.
Nate quay đầu về phía Veek. “Cô có gì ở đó vậy?” “Một năm đồng xu,” Veek trả lời. “Tôi sẽ dùng nó để ước chừng xem đường thông thang máy này sâu đến đâu?”
Veek quẳng đồng xu qua khe của chiếc lồng sắt xuống dưới đường thông thang máy. Nó biến mất hoàn toàn trong bóng tối. Một lát sau họ nghe thấy tiếng keng của đồng xu va chạm với bề mặt trong đường thông thang máy. Tiếp đó thì không nghe được thêm tiếng động gì khác.
“Cháu nghĩ rằng nó chỉ va vào cạnh của đường thông thang máy thôi,” Veek nói.
Tim tiến lại gần hơn và đưa ngón tay ra hiệu cho hai người im lặng. “Đồng xu ấy vẫn chưa rơi xuống đáy đâu,” Veek quả quyết. “Làm sao cô biết được nếu cứ liên tục nói như vậy chứ?” Tim càu nhàu.
“Nó chưa chạm đáy mà,” Veek nhắc lại. “Cháu nghĩ rằng nó vẫn đang tiếp tục rơi.”
Nate lắc đầu nguầy nguậy. “Không thể như vậy được.” Tim rút ra một đồng hai mươi lăm xu từ trong túi mình ra và lườm hai người còn lại để ra hiệu họ giữ yên lặng. Ông đưa bàn tay qua song sắt cánh cửa và thả đồng xu rơi thẳng từ trên xuống. Tim nghiêng đầu ghé sát vào đường thông thang máy và nhắm mắt lại. Khi ông mở mắt ra vừa kịp lúc Nate đã lẩm nhẩm chừng mười lăm lần Mississippi10*. Vẫn không hề có tiếng vọng lại.
10* Thay vì đếm một, hai, ba,... sẽ nhanh hơn giây đồng hồ thông thường, vì vậy người Mỹ thường chèn thêm từ Mississippi để làm chậm khoảng đếm.
“Thật là kinh khủng,” Veek thốt lên. Tim gật đầu đồng ý.
“Kia là những thứ gì vậy?” Nate hỏi. Có ba bó gì đó nằm dựa vào bức tường, trông giống như những khổ vải lớn bọc quanh những tấm gỗ dài. Mỗi tấm trong số chúng đều được buộc lại bởi thứ gì đó trông giống một cặp đai lưng mỏng.
“Tôi nghĩ chúng là giường cắm trại,” Tim nói. Ông lần tay theo lớp vải quấn quanh chúng, khi tay ông chạm đến đâu thì chúng rách tả tơi đến đó. “Chúng đều là giường cắm trại cũ.”
Veek bước qua chúng, nhìn về phía chiếc bàn làm việc. Cô chụp lại ảnh của chiếc bàn, chùm chìa khóa và tờ lịch cũ. Sau đó, cô tiến về phía còn lại của căn phòng. Nó được ngăn cách bởi hai cột bê tông chìm trong tường, gần như tạo thành một căn phòng khác.
Phía còn lại của căn hầm không có thảm hay những khoảng tường ép ván gỗ. Sàn nhà bằng thép kêu vang dưới gót giày Veek. Phía xa của bức tường sau bàn làm việc có đặt vật gì đó giống một ghế băng dài. Đối diện với chiếc ghế là một dãy những tủ chứa đồ. Veek đếm được tất cả sáu tủ đồ. Chúng được làm bằng gỗ nhưng có thiết kế và kiểu dáng giống hệt như trong những phòng tập thể hình mà cô vẫn thường thấy.
Veek dõi mắt dọc theo cạnh của căn hầm và dừng lại ở bức tường phía sau cùng. Loại đinh tán ở đây hoàn toàn khác những chỗ còn lại. Chúng to gấp đôi và tạo thành một hình chữ nhật lớn trên bức tường. Nếu không đứng ở khoảng cách này thì cô đã không thể nhận ra nó. Phía trong dãy đinh tán là một tay cầm ngắn và dày, dài chừng mười lăm xen ti mét, bị che phủ bởi một lớp bụi và mạng nhện dày đặc. Veek tiến gần thêm một bước và nhận ra một chỗ phồng lớn ở chính giữa hình chữ nhật.
Có vẻ nó đã được sơn màu đen nhưng lớp bụi dày đặc khiến cô khó có thể xác định được màu thật sự của nó.
Veek tiến về phía bức tường, cúi xuống, hít một hơi thật sâu và thổi mạnh vào vết phồng. Đám bụi bật ra, bay tán loạn trong không khí. Một lượng lớn bụi dính đầy mặt Veek khiến cô phải dùng ngón tay để lau chúng.
“Ồ,” Veek ho sù sụ, “thật không thể tin được.” Nate nhìn về phía đó. “Cái gì vậy?”
“Hai người lại đây mà xem.” Veek lau bụi trên mặt và rút điện thoại ra. Cô chụp mấy tấm hình một lúc sau đó cúi xuống, thổi một hơi mạnh vào dãy đinh tán.
Nate và Tim chạy về phía Veek. “Xem cô gái của chúng ta đã tìm được gì này?” Tim nói.
Phía sau của bức tường là một cửa vòm lớn, cao đến mức đủ cho Tim bước qua một cách dễ dàng mà không cần phải cúi đầu. Veek đã lau sạch hầu như toàn bộ đám bụi bám trên ổ khóa quay số. Ổ khóa màu đen và có các con
số màu trắng gắn vào một vòng tròn bằng bạc. Tay cầm ngắn và dày được làm bằng thép đặc bị che phủ bởi một lớp bụi dày. Khi Nate kiểm tra lại cánh cửa thép, anh có thể thấy được bản lề đặt ở phía đối diện. Chúng đã bị vùi
dưới lớp bụi cả trăm năm nay.
Tim cúi xuống để kiểm tra ổ khóa quay số. Nó đã được cài lại, vì thế mà số 0 được đặt ở vị trí 12 giờ, ngay dưới một mũi tên trỏ đánh dấu vị trí của ổ xoay. Bên trái của số 0 là bốn vạch kẻ nhỏ và số 95. “Ổ khóa này có đến một trăm số,” Tim nói. Cứ cho là mật khẩu của nó được tạo nên từ ba con số thì cũng có đến cả triệu khả năng.”
Nate nhìn vào ổ khóa số rồi lại nhìn Tim. “Có thể còn nhiều hơn vậy nữa ấy chứ?”
Tim gật đầu. “Người ta phân ra những dòng ổ khóa quay số khác nhau dựa vào cách mà ổ bi bên trong thiết kế như thế nào. Ngày nay hầu hết chúng ta đều thấy loại thứ hai, đó là những ổ khóa móc cơ bản hay là loại khóa tủ,”
Tim vừa nói vừa nhìn lại phía dãy tủ đồ bằng gỗ trong phòng. “Hoặc là, chúng ta có thể gặp phải loại ổ khóa số một, chúng thường được dùng trong kho bạc của ngân hàng hay két sắt loại lớn, vân vân. Ổ khóa cổ như chiếc này thường thì không thể xác định được là thuộc về dòng khóa nào, tuy nhiên công nghệ tạo ra chúng hầu như không thay đổi kể từ khi Houdini11*tìm cách phá chúng và tẩu thoát thành công.” Tim đưa tay ra và ấn mấy đốt ngón tay lên tấm cửa. Âm thanh vang lên cho thấy cánh cửa được làm từ một tấm kim loại rắn và đặc. “Mật khẩu của ổ khóa loại này có thể bao gồm ba con số, cũng có thể là bốn hay năm số...” Ông nhún vai.
11* Harry Houdini (1874 -1926): ảo thuật gia người Áo, nổi tiếng với những màn thoát khỏi xích trong khi bị khóa bằng nhiều loại ổ khóa khác nhau.
Veek đã chuyển qua chụp ảnh căn hầm từ một hướng khác. “Anh có biết nơi này làm tôi nghĩ đến chỗ nào không?”
“Làm sao tôi biết được chứ?” Nate hỏi lại.
“Nơi này có thể là một phòng nghỉ.” Veek nghiêng đầu về phía mấy tủ để đồ. “Ở đây có chỗ để cất đồ lao động và quần áo thường. Có chỗ để cất dụng cụ làm việc nữa.” Veek chĩa chiếc điện thoại trên tay ra hiệu về phía nửa còn lại của căn hầm. “Họ có thể nghỉ ăn trưa ở đây, có thể chợp mắt một lát.
Thậm chí còn có chỗ để người quản lý có thể ngồi làm việc nữa.”
“Vậy cô biết tôi nghĩ gì về chỗ này không?” Nate hỏi. “Chỗ này quá gọn gàng.”
Tim cười tủm tỉm và thổi một hơi làm bay nốt đám bụi đang bám trên ổ khóa xoay.
Nate nhún vai. “Chúng đã không được sử dụng từ rất lâu rồi, vậy mà nhìn xem,” anh chỉ về phía chiếc bàn lớn. “Tất cả những chiếc ghế đều được kê sát vào bàn trong khi chiếc bàn đã được lau dọn cẩn thận. Trên bàn làm việc mọi thứ đều được sắp xếp rất ngăn nắp. Cho dù là ai đã từng làm việc dưới này đi
nữa thì họ đều không rời khỏi đây một cách vội vã. Họ dành thời gian để sắp xếp lại mọi thứ trước khi xong việc.”
“Điều này có vẻ trái ngược hoàn toàn với việc để lại những lời nhắn trên tường phòng của anh đấy,” Veek nhận xét.
“Đúng vậy.”
“Cậu đang nghĩ gì vậy Nate?” Tim hỏi.
Nate nhìn quanh căn phòng. “Cháu đang tự hỏi rằng liệu những gì diễn ra ở dưới này có chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn hay không. Sẽ ra sao nếu họ làm gì đó ở dưới này trong suốt nhiều năm trời? Thời gian trên tờ lịch là bốn năm sau so với thời điểm ghi trên phiến đá ngoài kia,” Nate chỉ về phía dãy tủ đồ và bàn làm việc. “Không ai chuẩn bị những thứ này cho một việc chỉ diễn ra trong khoảng thời gian cuối tuần hay thậm chí vài tháng. Cháu nghĩ rằng bọn họ đã thực sự làm việc ở đây, đó là một công việc toàn thời gian và diễn ra trong suốt một thời gian dài. Họ có thời gian để dọn dẹp mọi thứ và thậm chí còn dự định quay trở lại để tiếp tục làm việc sau đó. Mẹ kiếp !”
Veek nghiêng đầu về phía anh. “Vậy bây giờ chúng ta phải làm gì?”
Nate nhìn hết về phía cô, rồi nhìn sang cánh cửa hầm và cuối cùng dừng lại ở chỗ Tim đang đứng. “Có khả năng ổ khóa đó có cài mật mã tới sáu con số không bác?”
Tim gật gù. “Hiện tại loại ổ khóa số một này vẫn có thể được cài đặt với
mật khẩu tới sáu con số. Nó thậm chí còn không thay đổi cách thức cài đặt, khoan đã. Cô đã kịp chụp lại ổ khóa đó chưa vậy?”
Hai người cùng nhìn về phía Veek. Cô mở khóa màn hình và trượt nhanh qua mấy tấm ảnh rồi sau đó giơ cao chiếc điện thoại lên. Trên màn hình là một trong những hình ảnh của cánh cửa vòm đã được chụp lại.
66-16-9-4-1-89
“Hãy đọc chúng lên,” Tim nói. Họ thử một lần với dãy số đó nhưng tay nắm cửa không hề có dấu hiệu nhúc nhích. Tim quay vòng ổ khóa vài lần để cài lại chúng từ đầu. Lần này thì ông cài dãy số ngược với thứ tự vừa nãy. Con trỏ khóa được đặt trên vạch chỉ cạnh số 90 và ông thử kéo cánh tay cửa một lần nữa.
Tay nắm bằng thép đặc ban đầu không lay chuyển nhưng sau đó bắt đầu lung lay. Ba người thậm chí cảm nhận được sự rung động của những con ốc đã nằm im lìm trong suốt bao thế kỷ bên trong cánh cửa. Tiếng kêu của kim loại vang lớn trong căn hầm khiến cho sàn nhà bằng thép rung lên bần bật.
“Có vẻ không đáng ngại như chúng ta đã nghĩ,” Veek hào hứng.
Tim kéo mạnh tay nắm cửa. Cánh cửa nặng nề nhích dần từng đoạn một. Bản lề kêu lên thảm thiết và một lần nữa lan truyền rung động ra khắp căn hầm. Nate và Veek ra sức cùng đẩy cánh cửa lớn. Một thanh thép chắn bị hất văng ra khỏi bức tường trước khi một luồng không khí ẩm mốc nồng nặc tràn vào từ sau cánh cửa. Nó rất ấm, chính xác hơn là có vẻ hơi nóng.
Ba người họ lui lại một chút để nhìn lại rõ hơn những gì mà họ vừa khám phá ra.
“Chao ôi,” Nate thốt lên sau một giây kinh ngạc, “đúng ra chúng ta phải có sự chuẩn bị trước cho chuyện này!”
CHƯƠNG
P
8
hía trong của căn hầm là một khoảng không nhỏ với diện tích không lớn hơn một tủ quần áo là mấy. Phân nửa sàn hầm là một miệng ống hình tròn giống như miệng lỗ cống. Mép cống làm từ thép, uốn vòng rất tinh xảo, được rèn và đóng đinh tán cố định. Một chiếc thang sắt được vít vào phần sau của bức tường dẫn xuống phía dưới Nate rướn người ra trước, bật đèn pin lên. Veek khúm núm bên cạnh anh. Ánh sáng từ đèn pin rọi xuống ống dẫn, tạo thành một vệt sáng tròn ở khoảng cách chừng vài mét phía dưới. “Có vẻ không sâu lắm đâu.” Nate nói với lên chỗ Tim đứng. “Tối đa chỉ khoảng sáu mét gì đó thôi.”
Veek nhìn quanh. “Á,” cô kêu lên. Veek đứng thẳng lên và cộc đầu vào một công tắc bấm ngay trên cửa hầm.
Một luồng sáng hắt lên từ phía dưới đường ống. Họ có thể trông thấy một sàn nhà bằng thép phủ đầy bụi bên dưới.
Nate chuyển chiếc đèn pin cho Veek và định nắm lấy thanh vịn thang. “Khoan đã!” Tim nói. “Chúng ta còn chưa biết dưới đó có gì.” “Đó chính là lý do cháu sẽ xuống đó kiểm tra,” Nate đáp.
“Hãy cẩn thận và chậm thôi. Mặc dù chúng ta bị giới hạn về thời gian nhưng như vậy không có nghĩa là chúng ta phải vội. Cho dù có gì đang ở dưới đó thì chúng cũng ở đấy cả mấy trăm năm rồi. Chúng còn có thể chạy đi đâu được chứ.”
Veek nhìn về phía Tim. “Bác lo lắng chuyện gì vậy?” “Tôi lo rằng cái cầu thang chết tiệt này rất có thể là một cái bẫy. Cho dù ai đã xây dựng nên chỗ
này đều muốn bảo vệ chúng khỏi sự xâm nhập từ bên ngoài.” “Cháu nghĩ rằng chúng ta không cần phải lo lắng về mấy cái bẫy đâu,” Nate trả lời. “Như cháu đã nói, rất có thể đã từng có người làm việc ở dưới này. Sẽ không ai lại đi đặt bẫy chỗ làm việc của mình khi mà họ dự định sẽ trở lại vào hôm sau cả.”
“Cái đó còn phụ thuộc vào chỗ làm việc của họ ở đâu,” Tim nói.
Nate mỉm cười đu xuống chiếc thang. Chiếc thang bị gỉ rất nhiều chỗ và thật bất ngờ, nó có thể chịu được trọng lượng của Nate mà không hề gây ra tiếng động nào. Anh ngoái đầu lại và nhìn chằm chằm vào đôi mắt Veek.
“Tôi sẽ ở ngay sau anh thôi,” cô nói.
Nate trèo xuống đường ống. Bên trong này là một đường hầm tròn bằng thép. Anh dừng lại và nhìn sang hai bên, Nate nhận thấy một dãy mờ mờ mà anh cho rằng chúng là những chiếc đinh tán. Một thoáng sợ hãi lướt qua khi anh cảm giác mình đang bị kẹt trong một khoảng không chật hẹp12*, tuy nhiên sau đó, đường ống mở rộng hơn khi xuống gần đến nền hầm. Một giọt mồ hôi lăn xuống thái dương khi Nate chạm chân tới sàn. Phía dưới này nhiệt độ cao hơn và sự thay đổi nhiệt độ bất ngờ này khiến anh có cảm giác giống như vừa bước ra khỏi một cửa hàng có lắp điều hòa trong một ngày nắng nóng.
12* Claustrophobia: chứng bệnh sợ hãi khi bị kẹt giữa một không gian chật hẹp.
Căn phòng ở phía dưới có diện tích gần bằng khu bếp của Nate. Đường ống thép đã đưa anh xuống đây còn mở rộng khoảng nửa mét nữa qua trần hầm. Các bức tường đều bằng thép. Một bóng đèn duy nhất chiếu sáng cho cả căn phòng, được dẫn điện từ hai dây điện mảnh xoắn vào nhau. Bóng đèn trông có vẻ như sưng phồng lên, khiến nó có một hình dạng khá kì cục. Vỏ thủy tinh khá trong nên Nate có thể nhìn thấy được sợi tóc rực sáng bên trong.
Lối vào dẫn tới một cầu thang cuốn bằng thép đã chiếm một nửa diện tích căn hầm. Nó chìm sâu dưới nền và mất hút khỏi tầm mắt.
Veek cũng đi theo đường ống dẫn xuống gần đến nơi. “Trời đất ơi, sao lại nóng vậy?”
Nate quệt tay lau trán. “Tôi không nghĩ nó nóng như cô tưởng,” Nate nói. “Tôi cho rằng khi xuống tới đây, nhiệt độ đã thay đổi quá đột ngột.”
Veek lắc đầu trong khi bước xuống khỏi thang. “Nó thật sự rất tệ,” cô nói. “Tôi rất ghét nóng.”
Tim buông tay vịn và nhảy khỏi thang khi còn cách sàn khoảng nửa mét. “Tôi đã từng có mặt ở những nơi còn tệ hơn nơi này nhiều,” ông nói và nhìn quanh căn phòng. Tim dừng lại trước chiếc bóng đèn duy nhất trong phòng. “Chắc chắn không phải là loại bóng đèn tiêu chuẩn.”
Nate gật đầu. “Nếu mấy bóng đèn ở tầng trên là loại cổ thì cháu đoán chiếc này còn cổ hơn rất nhiều. Cháu cá là đã không có ai mở cánh cửa đó ra từ hàng trăm năm nay rồi.”
Họ tập trung lại cạnh cầu thang. Hình dạng xoắn ốc của nó khiến cho việc nhìn xuống phía dưới chân thang là điều không thể. Nate phải cố vươn cổ ra để nhìn xuống càng sâu càng tốt. Có ánh sáng hắt lên từ chính giữa, khiến nó trông như một bốt điện thoại cố định. “Nó được làm bằng đá,” Nate nói. “Đường dẫn này vẫn chưa được xây dựng xong, nó chỉ dẫn xuống phía dưới thôi.”
Veek nhìn quanh căn phòng. “Chúng ta đang ở độ sâu bằng một tòa nhà ba tầng, phải không? Tầng tiểu-tiểu ngầm rồi cũng nên.”
Tim gật đầu. “Chúng ta đang ở độ sâu tương đương với chân của ngọn đồi,” ông nói. “Thậm chí có thể sâu hơn một chút.” Ông rút thứ gì đó từ trong túi và đặt nó trong lòng bàn tay. “La bàn thậm chí không thể hoạt động ở dưới này.”
“Vậy thì,” Nate chần chừ, “chúng ta vẫn tiếp tục chứ?” Hai người nhìn Tim. Người đàn ông lớn tuổi kiểm tra lại đồng hồ đeo tay. “Bây giờ chúng ta chỉ còn khoảng hơn ba mươi lăm phút nữa,” ông nói. “Đi lên luôn mất thời gian hơn so với đi xuống. Nếu vậy chúng ta chỉ còn khoảng hơn mười lăm phút nữa trước khi cần phải quay trở lại. Đợi một chút.” Tim lấy chiếc ba lô
từ trên vai xuống và lôi ra một bình nước lớn. “Hai người hãy uống một một chút nước đi.”
Veek nhận lấy chai nước, cạy lớp đai nhựa ra và uống ba ngụm lớn.
“Bác thật sự đã chuẩn bị tất cả những thứ này à?” Nate hỏi. Anh nhận lấy chai nước từ Veek và tu một hơi.
“Tôi đã từng là một hướng đạo sinh cừ khôi đấy,” Tim đáp. Ông lấy tay lau miệng chai và uống hai ngụm lớn. “Hãy xem chúng ta có thể đi được bao xa?”
Nate dẫn đầu ba người đi xuống cầu thang. Veek theo ngay sau anh và không quên túm chặt lấy vai Nate. Tim đi sau cùng. Chỉ đi được vài bước, Nate nhận ra rằng cầu thang xoắn ốc sẽ khiến họ cảm thấy chóng mặt nếu đi quá nhanh.
Một cặp dây điện màu đen quấn vào nhau chạy dọc theo cầu thang nơi các bậc thang được gắn vào đá. Cứ tầm mười bậc, những sợi dây điện lại được tách ra và chạy thẳng về phía hốc tường được đục vào lớp đá thô ở độ cao bằng đầu người. Trên mỗi hốc tường đều lắp một bóng đèn đặt trên đế bằng gốm. Một hoặc hai chiếc trong số chúng được ngăn bởi lớp kính mờ. Một số chỉ còn lại vài mảnh vỡ.
“Đã năm mươi bậc rồi đấy,” Veek lên tiếng sau khi họ đi được khoảng chừng vài phút.
Tim đặt chân xuống một cách nặng nề. “Có vẻ đúng đấy.”
“Cháu rất vui vì hai người đã để ý số bước,” Nate nói. “Anh đi ở phía trước đó,” Veek nói. Cô vỗ vỗ vai Nate. “Việc của anh là làm bia đỡ đạn nếu chúng ta gặp phải mấy cái bẫy nỏ.”
Tim phát ra tiếng lầm bầm mà hai người suýt đã hiểu nhầm rằng ông đang cười. “Hai người có cảm nhận thấy nó không?” Ông bất ngờ hỏi.
Nate dừng lại. “Cảm nhận được gì cơ ạ?”
Tim đặt tay mình lên trục chính của cầu thang xoắn và vẫy tay ra hiệu cho
hai người còn lại làm giống mình. Nate đặt bàn tay anh lên trục sắt còn Veek thận trọng chỉ dám đặt mấy ngón tay mình lên.
Một rung động nhỏ lan truyền qua trục cầu thang. Nó không đủ mạnh để có thể lan ra ngoài không khí nhưng cũng đủ để người ta cảm nhận được. Nate đổi tay vịn sang bên lan can còn lại, đi thêm mấy bước nữa rồi lại tiếp tục chuyển tay.
“Nó có vẻ như là điện cao thế,” Veek nói. “Cách mà nó làm cho không khí rung lên khiến cháu nghĩ vậy.”
Ba người nhìn nhau rồi tiếp tục đi xuống phía dưới. Một lát sau, Veek đã đếm được đến bậc thứ sáu mươi rồi bảy mươi. Nate thầm nghĩ trong đầu rằng con số một trăm bậc có thể là mốc để họ dừng lại. Họ có thể dừng lại để đánh dấu hay làm gì đó.
Nate bước lệch một bước theo đường cong cầu thang và nhìn thấy đáy qua ánh sáng được rọi xuống từ giếng thang. Bước thêm hai bước nữa thì anh chạm tới nền đất toàn đá và bụi. Veek và Tim cũng xuất hiện trong ánh sáng lờ mờ bên cạnh anh.
Trên bức tường đối diện là một khối gỗ hình vuông. Một cầu dao lớn được lắp lên khối gỗ, nó là cầu dao hình chữ Y, loại đã từng được những nhà bác học điên khùng sử dụng để kích hoạt những cỗ máy hủy diệt và tạo ra những con quái vật. Lúc này nó đang nằm ở vị trí gạt hướng xuống dưới.
Nate bước qua Veek để gạt công tắc lên. Sự va chạm tạo ra tiếng kêu răng rắc. Ánh sáng sau đó đã tràn ngập toàn bộ căn hầm.
“Chúng ta giống như thể đang trong bộ phim Chú chó Scooby Doo vậy,” Veek thì thầm.
Họ đang đứng trong một hầm mỏ. Nate chưa từng xuống hầm mỏ bao giờ, nhưng những đường hầm ở đây hoàn toàn tương tự như những gì anh được xem trên tivi hay trong các bộ phim. Sàn, thành và trần hầm đều được đào dưới lòng đất và thông với nhau. Cứ cách khoảng ba mét, một thanh chống bằng gỗ hình vòm lớn lại được dựng lên để chống đỡ cho căn hầm. Nate có thể nhìn thấy một chỗ mà có tới ba thanh chống được đặt sát nhau.
Nhiều dây điện mảnh chạy dọc theo hệ thống đường hầm. Chúng được treo trên những chiếc đinh đóng trên những dầm gỗ và một vài móc nhỏ được đóng trên thành hầm. Mỗi thanh chống hầm đều được treo thêm một bóng đèn đặt trong một chiếc lồng nhỏ. Nate có thể đếm được tám hay chín bóng đèn dọc theo chiều dài của đường hầm, ít nhất năm chiếc trong số chúng đã bị cháy từ lâu.
“Tôi đếm được tổng cộng bảy mươi tám bậc tất cả,” Tim nói.
“Đúng đấy,” Veek đáp lại. Cô dùng bàn tay thấm mồ hôi trên trán. “Cháu có thể xin một chút nước nữa được không?”
“Tất nhiên là được rồi.” Tim lôi ba lô trên vai xuống.
“Bảy mươi tám bậc, ước chừng mỗi bậc cao khoảng hơn hai mươi ba phân,” ông vừa nói vừa chuyển chai nước cho Veek. Tim nhắm mắt lẩm nhẩm tính toán. “Tính ra là khoảng tầm mười tám mét. Chúng ta đã ở độ sâu hơn năm tầng nữa so với ban nãy rồi.”
Veek uống một vài ngụm nước rồi quệt miệng lên vai áo mình. “Thật vậy ạ?”
Phía bên trái đường hầm là một vài dây cáp lớn, chúng có độ dày tương đương với ống dẫn nước cứu hỏa. Dưới lớp bụi dày, những sợi cáp có vẻ được bọc bởi một lớp vỏ trông giống như một loại cao su đen. Một đoạn dây bó chúng lại với nhau thành một bó lỏng lẻo, cũng có thể đơn giản chỉ là để giúp chúng trông gọn gàng hơn. Nate dùng chân đá vào bó dây cáp và cảm nhận được dòng điện đang chạy bên trong. Cú đá khiến sợi dây bện bị tung ra, sợi cáp bị bật tung, đập xuống nền đất và gây ra tiếng ầm lớn bởi sức nặng của nó.
“Chúng vẫn hoạt động!” Nate hô lớn.
“Đó là lý do vì sao chúng ta vẫn có ánh sáng ở dưới này,” Veek nói.
Tim nhìn vào đống dây cáp. “Có lẽ vậy. Không biết chúng dẫn đến đâu? Có thể có một cỗ máy nào đó ở phía cuối đường hầm và nó cần đến một nguồn năng lượng khổng lồ.”
“Dao cạo Occam13*,” Veek thốt lên. “Có vẻ chúng dẫn lên phía trên thì đúng hơn.”
13* Dao cạo của Occam: một lý thuyết triết học nổi tiếng của nhà triết học người Anh William xứ Ockham, ”Điều gì có thể được giải thích bằng ít giả thuyết hơn thì lại được giải thích một cách vô ích bằng nhiều giả định hơn”. Tức là nếu một vấn đề khoa học được giải thích bằng ít giả thuyết nhất thì sẽ đúng đắn nhất. Dao cạo Ockham đã chứng tỏ được giá trị lớn của mình trong việc nghiên cứu khoa học.
“Tôi nghĩ rằng Occam sẽ giữ im lặng nếu ông ta đã từng sống trong tòa nhà này,” Nate nói. Anh lần theo đám dây cáp đi về phía cầu thang xoắn ốc. Bó cáp được luồn dưới các bậc thang và chạy thẳng vào trục chính. “Trục cầu thang đóng vai trò như một ống dẫn dây cáp vậy,” Nate nói.
Tim rót một chút nước từ trong chai xuống nền hầm. Mỗi khi dòng nước ngừng chảy, ông lại cúi xuống để xem xét. Tiếp đó Tim di chuyển ra xa, cách vài bước rồi lại rót nước xuống. Cuối cùng ông lùi ra sau khoảng nửa mét rồi thực hiện lại việc này lần thứ ba.
“Bác đang muốn kiểm tra xem nền hầm có nghiêng hay không à?” Veek dò hỏi. Cô rút điện thoại ra và tiếp tục chụp ảnh.
Tim mỉm cười. “Thông minh đấy!” Tim khen ngợi. “Đúng vậy, và nó quả thật có nghiêng đấy. Chúng có vẻ được đào hướng xuống phía dưới một chút. Tôi tính vào khoảng năm hay sáu độ gì đó.” Ông ước lượng khoảng cách giữa mấy ngón tay mình. “Cũng có thể là lớn hơn hoặc nhỏ hơn một chút.”
Nate bước lại về phía họ. “Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề về thời gian như thế nào đây?”
Tim liếc nhìn đồng hồ. “Cậu chỉ có khoảng ba mươi giây để làm bất kể điều gì đang định làm thôi.”
“Nếu chúng ta chỉ đi thêm một đoạn ngắn nữa thôi thì sao?” Veek chỉ tay về phía cuối đường hầm. “Chúng ta có thể đi đến khúc quanh kia.”
“Khúc quanh ư?” Nate hỏi lại.
Veek nhấc điện thoại của mình lên. “Tôi dùng công nghệ thu phóng kỹ thuật số của điện thoại. Đường hầm này có thể dừng hoặc là rẽ sang một hướng khác ở khoảng tầm bốn mươi lăm mét phía trước.”
“Thử đi xem sao,” Nate nói.
“Chúng ta nên quay trở lại thì hơn,” Tim ngăn cản. “Không cần thiết phải vội vã như vậy, giờ là lúc để quay lên chứ không phải tiếp tục mò xuống dưới đó.”
“Chỉ khoảng bốn mươi lăm mét thôi mà,” Veek thở khò khè. “Bốn lăm mươi mét nhưng mà là đi xuống,” Tim đáp lại.
“Bác Tim nói đúng đấy,” Nate nói. “Chúng ta không thể để lão Oskar phát hiện ra chúng ta đang làm gì dưới này. Tốt nhất là quay trở lại và chờ đợi cơ hội, dù sao tới đây lão cũng sẽ vắng mặt trong suốt năm ngày liền.”
Veek cau mày. “Nhưng lỡ ông ta không đi nữa thì sao?”
“Lão ta sẽ đi thôi,” Nate động viên. “Hơn nữa, trông cô cũng không ổn lắm đâu.”
“Cám ơn. Tôi thấy anh cũng đâu có khá hơn.”
“Nate nói đúng đấy,” Tim nói. “Mặt cô đang đỏ tưng bừng kìa.”
“Cháu bị một cơn hen suyễn nhẹ thôi ạ.” “Cô có mang theo thuốc hen không?”
“Cháu chưa bao giờ cần dùng đến chúng cả. Không sao đâu, cháu sẽ ổn thôi. Chúng ta nên đi xem thử xem thế nào.”
Nate lắc đầu. “Không, bác Tim nói đúng đấy. Chúng ta cần quay trở lại.”
Veek giận dỗi nhìn hai người và nhét điện thoại vào túi áo. “Được rồi,” cô lẩm bẩm. Veek bám theo hai người quay trở lại phía cầu thang xoắn ốc.
Tim ra hiệu với Nate. “Cậu đi trước đi, tôi sẽ theo sau.” “Cám ơn bác
nhé,” Nate nói.
Tim lắc đầu. “Không cần cảm ơn, chỉ là tôi không muốn lỡ bị đạp vào mặt nếu cô bé vẫn còn tức tối thôi.”
Nate liếc lại một lần cuối cùng về phía căn hầm sau đó tiến về phía công tắc. Anh gạt nó xuống, tạo nên một tiếng cạch lớn. Tất cả các ngọn đèn đều vụt tắt và con đường hầm biến mất trong bóng tối.
V
CHƯƠNG
9
ào buổi trưa ngày thứ năm, nhân lúc Anne ra ngoài ăn trưa, Nate đã lục lại đống ghi chú của anh và tìm thấy số của Bộ Nội vụ. Anh bấm số máy lẻ 8-20- 3 và đợi hệ thống kết nối với đầu dây bên kia. Tiếng điện thoại ngắt quãng trong giây lát, sau đó là hai tiếng tút và rồi có chuông vang lên.
Một người đàn ông bắt máy. “Phòng Văn thư Lưu trữ xin nghe.”
“Xin chào,” Nate nói. Anh dừng lại một lát rồi tiếp tục. “Xin lỗi anh, có vẻ như tôi bấm lộn số.”
“Anh cần gặp ai? Tôi có thể giúp anh nối máy.”
“Tôi cần gặp bà Elaine ở số máy lẻ 8-20-3. Bà ấy đang giúp tôi kiểm tra một số thông tin.”
Người đàn ông có vẻ bực tức. “Đây là số máy lẻ 8-20-3,” gã nói lớn, “hơn nữa ở đây chỉ có mình tôi thôi.”
Nate có cảm giác chột dạ. “Anh là người duy nhất làm việc ở đó à?”
“Đúng vậy,” gã nói. “Tôi đã làm việc ở đây được ba... Khoan đã anh bạn! Anh vừa nói cần gặp bà Elaine phải không?”
“Đúng! Tôi cần gặp bà ấy.”
“Xin lỗi nhé. Chả hiểu sao tôi lại nghe nhầm thành ‘Shane’, thành ra tôi nghĩ đến một người khác kia.” “Vậy bà Elaine còn làm việc ở đó không?” “Không, bà ấy đã nghỉ việc từ ba tuần trước rồi.” “Nghỉ việc sao?”
“Đúng vậy,” gã trả lời. “Bà đang giúp anh tìm kiếm cái gì à?”
“Anh hỏi gì cơ?” Nate đang định trả lời nhưng rồi lại quyết định chuyển hướng cuộc trò chuyện. “Anh có biết vì sao bà lại nghỉ việc không?”
Nate nghe thấy tiếng người đàn ông đầu dây bên kia chuyển ống nghe sang tai còn lại. “Tôi cũng không rõ,” gã nói. “Tôi đoán là bà đã được cử sang làm việc ở một văn phòng khác. Điều duy nhất tôi có thể nói với anh là bà đã nghỉ rất đột ngột, mọi thứ ở đây trở thành một mớ hỗn độn ngay sau đó. Hiện tại tôi đang tiếp quản vị trí của bà. Tên tôi là Russell.”
Dạ dày và ruột gan Nate cuộn lên, tác động vào xương hông, chúng khiến bụng anh sôi lên và âm thanh lan truyền qua cơ thể. “Anh có biết liệu tôi có thể tìm được bà ở đâu không?”
“Hoàn toàn không. Bình thường thì chúng tôi hay để lại một ghi chú để nối máy và thư điện tử, nhưng hình như tôi đã làm mất nó ở đâu đó rồi. Cũng có thể bà đã mang theo nó khi chuyển công tác sang một văn phòng khác.” Nate nghe thấy tiếng gõ bàn phím từ đầu dây bên kia. “Dù sao đi nữa nếu anh có thể cho tôi biết là bà đang giúp anh tìm kiếm cái gì thì có thể tôi sẽ giúp đỡ anh một chút. Tôi có tất cả các tài liệu và yêu cầu được gửi đến của bà ở đây. Mà này... có phải bà đã nhận lời giúp đỡ anh ngay trước khi bà rời khỏi đây không?”
“Vâng,” Nate lẩm nhẩm.
“Ừm,” Russell nói, “chúng tôi bị vi rút tấn công hệ thống máy tính cũng trong khoảng thời gian đó. Một gã bệnh hoạn nào đó đã dùng máy tính ở đây để xem phim khiêu dâm hay gì đó. Chúng tôi bị mất toàn bộ dữ liệu tìm kiếm và các yêu cầu trong hai tuần.”
Nate cảm nhận được một giọt mồ hôi lăn xuống sau lưng mình, tạo thành một vệt dài trên chiếc áo phông đang mặc. “Anh không đùa đấy chứ?”
“Vâng. Nếu anh muốn hình dung dễ hơn thì tôi có thể nói rằng mọi thứ đã hoàn toàn biến mất. Tuy nhiên, tôi có thể giúp anh bắt đầu lại từ đầu. Nếu bà chỉ vừa mới bắt đầu tìm kiếm chúng ngay trước khi bà rời đi, có thể Elaine cũng chưa tìm được gì nhiều.”
“Có lẽ vậy,” Nate trả lời, anh thầm nghĩ Elaine thật sự có thể đã tìm ra được điều gì đó quan trọng, “không có gì quan trọng đâu. Dù sao thì cũng cảm ơn lòng tốt của anh nhé!”
“Này anh bạn, không cần phải ngại đâu,” Russell nói. “Cậu có chắc là tôi không...”. Nate cúp máy.
Nate quay trở về nhà và chỉ mất chưa đầy mười phút để tìm được một chỗ đậu xe trên đường Kenmore. Anh kiểm tra lại các vạch kẻ trên đường để chắc rằng chỗ đỗ xe mình vừa lái vào là thật chứ không phải là mấy cái bẫy mà đội quản lý vi phạm vẫn thường dựng lên. Nate nhìn thấy thông tin về thời gian
và ngày tháng, cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút. Ai đó chợt nắm lấy cánh tay Nate, theo phản xạ, anh xoay người lại và vung mạnh tay lên theo tư thế phòng thủ mặc dù vẫn đeo ba lô trên vai.
Debbie đeo chiếc vali nhỏ lủng lẳng một bên vai, những ngón tay vẫn ngoắc vào quai túi. Tay còn lại để không. “Xin lỗi nhé,” chị nói. “Tôi không cố ý làm cậu sợ đâu. Tôi vừa nhìn thấy cậu đỗ xe ở đây.”
“Không có gì, tôi cũng xin lỗi,” Nate nói. “Tôi thậm chí không nhìn thấy chị ở đó nữa.”
Họ bắt đầu đi về phía tòa nhà. “Vừa hay, tôi cũng đang nghĩ đến cậu. Tôi còn định là sẽ qua phòng để tìm cậu nữa.”
“Tôi sẽ không để cho Clive biết đâu,” Nate nói. Anh mỉm cười với Debbie.
Mắt Debbie trợn ngược nhưng vẫn cười đáp lại. “Anh ấy cũng biết chuyện rồi. Tôi đã gọi cho anh ấy từ phòng thí nghiệm.” Debbie liếc nhìn xung quanh. “Mọi người vẫn quyết định sẽ quay trở lại đường hầm vào ngày mai chứ?”
“Đúng vậy,” Nate trả lời. “Tôi đã ám chỉ mình bị mệt trong buổi làm việc hôm nay. Tối nay tôi sẽ gọi điện cáo ốm và xin nghỉ.”
“Tôi không chắc mình và Clive có thể tham gia cùng mọi người,” Debbie nói. “Anh ấy có một buổi biểu diễn lớn và không thể không tham gia được.
Chúng tôi cũng không có đủ khả năng bồi thường nếu anh ấy hủy bỏ buổi diễn.”
Nate gật đầu trong khi mở khóa cổng. “Không có vấn đề gì đâu. Vậy còn chị?”
Debbie nở một nụ cười yếu ớt. “Sẽ rất là kì nếu tôi đi mà không có anh ấy đi cùng.”
Họ cùng leo lên bậc thang và Debbie dừng lại quan sát dòng tên được khắc trên dầm cửa. “Veek chắc những dòng chữ này là tiếng Ấn Độ sao?
“Ừm, cô ấy có vẻ khá chắc chắn,” Nate nói. “Martha cái gì đó. Sao chị lại hỏi vậy?”
Debbie lắc đầu. “Chỉ là một vài suy nghĩ vừa thoáng qua trong đầu tôi thôi.”
Nate liếc nhìn mấy dòng chữ. “Thế còn Kavach là ai?” “Tôi nghĩ là mình đã từng ghi nhớ điều gì đó về một vài cái tên Ấn Độ nhưng giờ tôi lại quên mất rồi.” Chị nhìn Nate và nhún vai. “Xin lỗi nhé!”
D
CHƯƠNG
11
ựa vào chiếc máy đếm bước của Tim, khoảng cách để đến được khúc quanh trong đường hầm hai trăm mười bảy bước chân và ba người đã đi xuống sâu thêm phía dưới khoảng sáu mét nữa. Đến đây, đường hầm tạo ra một khúc quẹo hẹp được đánh dấu bởi nửa tá những thanh gỗ chống hầm và giá đỡ. Đống cáp điện chạy sát với thành hầm và bị cuộn lại quanh góc cua. Xela dừng lại, cô nhắm mắt rồi đi tới đi lui.
“Có chuyện gì vậy?” Roger hỏi.
“Tôi đang tìm cách xác định xem chúng ta đang ở hướng nào,” Xela trả lời. “Cầu thang xoắn ốc khiến chúng ta bị mất phương hướng, nhưng tôi nghĩ đường hầm này chạy về hướng tây bắc.”
Nate nhìn vào mấy bức tường đá rồi lại nhìn về phía Xela. “Cô chắc chắn chứ?”
“Quy tắc quan hệ không gian,” cô nói. “Đó là công việc của tôi mà.” Cô nhìn qua đường hầm hướng về phía cầu thang xoắn ốc rồi nhìn lên trần hầm. “Tôi nghĩ chúng ta đang ở ngay dưới một con đường. Đoạn ngã ba đường Beverly cắt với lối đi bộ trên đường Kenmore, ở giữa hiệu sửa xe và một cửa hàng. Chúng ta đang ở độ sâu khoảng hơn mười mét .”
Roger gật đầu. “Đúng đấy, tôi nghĩ tính toán của cô chính xác. Nghe thử xem, có tiếng xe hơi chạy phía trên.”
Nate nhìn sang khúc quanh tiếp theo của đường hầm. “Như vậy là chúng ta đang hướng quay trở lại về phía tòa nhà đúng không?”
“Tôi cho là như vậy.”
Họ tiếp tục bước đi, mỗi đoạn từ năm mươi đến năm mươi lăm mét đường hầm lại rẽ sang một hướng khác khiến họ càng ngày càng tiến sâu hơn xuống lòng đất. Cứ khoảng ba mét lại có một thanh chống hầm bằng gỗ được dựng lên, con đường được thắp sáng bởi những bóng đèn bị bụi phủ kín tỏa ra thứ ánh sáng màu nâu đỏ. Không có bất cứ cột mốc hay biển báo gì và các đoạn đường hầm cứ thế tiếp nối nhau.
“Xela này,” Roger nói với cô sau cả tiếng đồng hồ đi bộ, “Cô đã đến với nghệ thuật như thế nào?” Cô nhìn lại Roger. “Ý anh là gì chứ?”
“Nghệ thuật ấy,” anh nói. “Cô đã thích nó từ bé hay khi đi học hay là vào thời điểm nào?”
“Chuyện đó thì có gì liên quan đến anh?”
Roger nhún vai. “Chỉ là tôi nghĩ nếu chúng ta không nói chuyện một chút về vấn đề gì đó thì tất cả sẽ phát điên lên mất.”
“Chuyện của tôi khá là nhạt nhẽo đấy,” cô nói. “Không sao,” anh đáp. Roger cố tình giảm tốc độ và tụt lại phía sau một mét. “Tôi sẽ đi phía sau và ngắm mông cô trong vài giờ tới vậy.”
Xela cười khúc khích. “Trời ạ,” cô thì thầm, “dây giày của tôi tuột mất rồi.” Cô cúi người và đẩy hông về phía Roger. Không may chiếc ba lô nặng nề trên lưng khiến cho cô bị mất thăng bằng và chúi về phía trước, may mắn là Nate đã bắt kịp cánh tay Xela trước khi cô ngã bẹp trên nền dốc.
Cả ba người đều bật cười. “Diễn hay lắm,” Nate nói. “Nếu cô cứ tiếp tục làm vậy thì chúng ta chẳng cần nói chuyện nữa đâu.”
“Mỗi người chỉ được chứng kiến một lần thôi,” Xela trả lời. Cô chỉnh lại ba lô, kéo chiếc quần jean lên và tiếp tục bước đi. “Tôi tưởng là chúng ta đang nói chuyện về nghệ thuật cơ đấy?”
Roger cười toe toét. “Tôi cũng cho là như vậy.”
“Tôi chỉ có một câu trả lời ngắn gọn thôi,” Xela đáp, “theo một vài nhà tâm lý học thì đó chính là phát sinh của sự nổi loạn thời niên thiếu.”
“Nhà tâm lý học sao?” Nate nhắc lại.
“Đúng vậy đấy,” Xela nói. “Ý tôi là, một vài đứa trẻ phớt lờ bố mẹ của chúng và dành thời gian cho mấy thứ vô bổ, chắc hẳn chúng phải có vấn đề gì đó, phải chứ? Có thể đó là sự ảnh hưởng từ mấy bà vú nuôi.”
“Cô đã từng có vú nuôi à?”
“Không, nhưng anh biết đấy, chuyện này giống như khi con cái của chúng ta trở thành rắc rối của tất cả mọi người nhưng lại không hề gây rắc rối cho bố mẹ chúng.” Cô lắc đầu. “Anh chắc là muốn nghe chuyện của tôi đấy chứ? Tôi thề rằng nó thực sự là một kịch bản phim sitcom14* chán ngắt.”
14* Sitcom: từ viết tắt của situation comedy, tạm dịch là “hài kịch tình huống”. Làm phim theo kiểu sitcom đã được các nước trên thế giới áp dụng từ lâu vì nó cho phép tiết kiệm kinh phí, tạo ra hàng trăm tập phim trong một thời gian ngắn, đáp ứng nhu cầu phát sóng liên tục của các đài truyền hình.
“Những bộ phim sitcom luôn rất hay mà,” Roger nói. Nate gật đầu đồng tình. “Miễn là chúng không đệm thêm những tràng cười giả tạo là được.”
“Ồ không, không hề giả tạo đâu, tôi đảm bảo với anh đấy.” Họ đi được khoảng một mét nữa trong khi Xela đang hình dung lại câu chuyện trong đầu mình. “Chuyện là thế này, tôi rất thích những cuốn sách tập tô khi còn bé. Ý tôi là, tôi thật sự yêu chúng. Mẹ tôi mua về hàng tá sách tập tô và tôi dành thời gian xem hết trang này đến trang khác. Tôi thậm chí còn tô màu cho cả những mê cung hay trò giải đố ô chữ và rất nhiều những hình khác, lớn thêm một chút nữa tôi được mẹ mua cho một vài chiếc bút chì màu và một khay màu nước loại rẻ tiền. Tôi có thể dành ra cả một tuần để chơi với chúng và một ram giấy.”
“Dù sao thì, mọi việc vẫn tiếp diễn như vậy cho đến khi tôi lên tám và bố mẹ tôi cho rằng tôi nên nghe theo lựa chọn của hai người. Bố tôi là bác sĩ và ông đã quyết định rằng tôi sẽ nối nghiệp ông. Trong khi ông là một bác sĩ chuẩn đoán thì tôi lại được kì vọng trở thành một bác sĩ phẫu thuật, có thể là chuyên khoa về tim mạch hoặc thần kinh.”
“Khoan đã,” Roger lên tiếng. “Cô nghiêm túc đấy chứ? Bố cô thực sự muốn cô trở thành một bác sĩ sao?”
Xela gật đầu. “Thật ra cũng không hẳn vậy. Ông ấy không phải là muốn điều này, tôi nghĩ rằng bố tôi coi đó là lẽ tự nhiên, với ông thì việc tôi trở thành một bác sĩ cũng giống như việc ông biết đôi giày nào sẽ vừa với chân mình vậy.”
“Thật là tệ!”
“Tôi đã nói với anh là câu chuyện của tôi chán ngắt mà.”
Tới khúc quanh tiếp theo của đường hầm, bóng đèn ở đây nhấp nháy liên tục trong khi dây tóc bóng đèn cứ lóe lên rồi lịm đi mặc dù nó chẳng có dấu hiệu gì là sẽ thật sự cháy cả. Nate thổi bay lớp bụi quanh chiếc bóng đèn rồi xoáy nó chặt lại. Chiếc bóng đèn nhờ đó cũng hết chập chờn và tỏa sáng khắp toàn bộ đường hầm khiến Nate phải chớp mắt mấy lần trước khi rụt tay lại.
“Này,” Roger lên tiếng. “Có vẻ khá hơn nhiều rồi đấy.” Khi ba người đi qua chỗ chiếc bóng đèn tiếp theo, anh đã dừng lại và thổi bay lớp bụi bám quanh nó và căn hầm cũng sáng lên đôi chút. Anh quay về phía Xela. “Có vẻ như bố cô cũng không phải là một người tâm lý nhỉ?”
Xela cười ngây ngô. “Ông ấy không phải người xấu, chỉ đơn giản là ông khá cứng nhắc trong mọi chuyện. Nếu ông nghĩ rằng một chuyện nên có hướng đi như vậy thì tốt nhất là nó nên đi theo hướng đó, chuyện ông cho rằng tôi sẽ trở thành một bác sĩ cũng giống như những vị phụ huynh khác cho rằng con cái họ rồi sẽ lớn lên và tìm được một công việc cho mình vậy.”
“Ông ấy thật sự đã cho cô học giải phẫu từ năm mười tuổi sao?”
“Không tệ đến thế đâu,” Xela nói. “Tuy nhiên tôi đã gặp phải rất nhiều áp lực từ kết quả học tập và các chương trình bắt buộc hay những hoạt động sau giờ học. Mọi thứ được đề ra đều nhằm vào mục đích biến tôi trở thành ứng viên sáng giá cho một vị trí trong trường y.
Bố mẹ tôi thậm chí còn đến gặp giáo viên hướng dẫn của tôi để chắc chắn rằng tôi được theo học ở lớp tốt nhất. Tôi thậm chí từng được cho theo học
vi-ô-lông trong suốt hai năm liền chỉ để chứng tỏ rằng tôi có đủ tố chất.” “Vậy là cô không được phép tham gia các lớp nghệ thuật?” Nate dò hỏi.
Xela gật đầu. “Nghệ thuật thì quá phù phiếm,” cô giải thích. Xela tiếp tục nói với giọng điệu nghiêm trọng và vươn thẳng lưng. “Vi-ô-lông đòi hỏi sự chính xác, khả năng toán học và qua đó người chơi cũng luyện tập sự khéo léo của đôi tay.”
Nate thổi bụi ở một bóng đèn khác khi ba người đi qua một khúc quanh nữa. “Điều đó thì có ý nghĩa gì chứ?”
Xela nhún vai và nhếch mép cười. “Không biết nữa, nhưng tôi phải nghe chúng một tuần một lần trong suốt hai năm. Tôi thậm chí còn cảm thấy bắt đầu quen với nó và sau đó, tôi nhận ra những đứa trẻ khác cũng rơi vào hoàn cảnh giống như mình vậy.”
“Dẫu sao thì, sang năm thứ hai tôi được hướng dẫn bởi một giáo viên mới, thầy tên là Woodley. Tôi nghĩ rằng thầy chỉ hơn tôi mười tuổi mà thôi, hồi đó tôi luôn có cảm giác rằng thầy vừa mới ra trường và trong đầu ông ấy luôn luôn tràn ngập ý tưởng để định hướng cho những đứa trẻ như tôi. Thầy đã gọi tôi vào gặp trong văn phòng của ông và hỏi rằng tôi có cảm thấy thoải mái với chương trình học của mình hay không và tôi muốn theo học gì ở cấp đại học? Tôi nói rằng tôi sẽ học ngành y và thầy đã hỏi liệu rằng tôi có muốn
trở thành một bác sĩ?” Cô nhún vai. “Trước đó thậm chí chưa từng có ai đặt ra cho tôi một câu hỏi tương tự như vậy. Bố tôi nghĩ rằng việc đó là lẽ đương nhiên, mẹ tôi cũng vậy, vì thế tôi đã chấp nhận. Mọi người cũng đơn giản cho rằng mọi việc nên là như vậy.”
Roger gật đầu. “Thế cô đã nói gì với ông ấy?”
“Tôi có nói với thầy rằng tất nhiên tôi muốn trở thành một bác sĩ. Lúc đó tôi cũng không nghĩ ra điều gì khác để nói nữa, nhưng tôi tin rằng ông ấy hiểu được. Thầy đã thay đổi một chút thời khóa biểu của tôi, nói với tôi rằng một vài lớp học đã bị quá tải vì thế ông ấy sẽ cho tôi tham gia lớp vẽ thay vì lớp Lịch sử Nga. Tôi nghĩ rằng đó là một điều kì diệu, như thể ông ấy đang rút ra một con thỏ từ trong chiếc mũ của mình vậy. Tôi thậm chí có thể đã lập một ban nhạc hay gì đó tương tự.”
Nate nhìn chằm chằm vào cô. “Trường cấp ba của cô còn dạy cả tiếng Nga nữa à?”
“Đó là một trường tư thục,” cô trả lời. “Nó áp dụng những giáo án để đào tạo ra những chuyên gia nhí thật sự.”
“Thế cơ đấy.”
“Sau đó, khi được cầm trong tay cây cọ vẽ, tôi đã có lại được cảm giác như hồi mình sáu tuổi. Tất cả những màu sắc, hình ảnh rồi các đường nét nữa. Tôi đã vui sướng đến mức gần như phát điên. Lúc đó, tôi đã rất cố gắng để giữ bí mật này, tuy nhiên mẹ tôi đã phát hiện ra vài vệt màu trên tay áo của tôi một vài tuần sau đó và thế là hết... Tôi bị gọi lên để tham gia vào một cuộc họp giữa bố mẹ tôi và thầy Woodley cùng với thầy hiệu trưởng. Bố tôi đã rất tức giận và đổ lỗi cho thầy Woodley rằng ông đã phá hủy tương lai của tôi. Sau đó tôi thậm chí còn phát hiện ra rằng bố tôi đã can thiệp vào một số chuyện và khiến cho thầy Woodley bị đuổi việc.
Tôi được đưa về nhà sau đó và phải hứng chịu cả một bài diễn văn về việc tôi không thể sao nhãng việc học tập mà cần tập trung nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, khi đó đã quá muộn, tôi bắt đầu trốn học để lén tham dự những lớp học vẽ. Tôi tin rằng việc này thậm chí còn khiến cho một vài giáo viên cảm thấy lo sợ sau khi họ biết được chuyện gì đã xảy ra với thầy Woodley, cũng may là ít nhất họ vẫn cảm thấy an toàn, đơn giản vì tôi không đăng ký theo học lớp của họ.
Kể từ đó, mỗi khi bị phát hiện ra màu sơn hay màu bút vẽ thì ngay lập tức tôi lại được giảng cho một bài. Những bài giảng sau này còn biến thành những bài trị liệu. Một vài trong số chúng thậm chí còn trở thành bài trị liệu về tâm lý và tâm thần thật sự. Một trong số những trị liệu đó cần sử dụng đến Ritalin hay một loại thuốc tương tự, ơn trời là bố tôi đã nhận thấy điều đó và ngay lập tức ngăn cản.
Sau đó tôi tốt nghiệp và vào đại học Yale, điều này khiến bố tôi thực sự tức giận vì ông vẫn luôn mong đợi tôi sẽ vào Havard. Ngay sau khi nhập học tôi đã thay đổi toàn bộ chương trình học của mình bằng những lớp học nghệ thuật và kỳ học đầu tiên thật sự tuyệt vời ngoài sức tưởng tượng.”
Nate nhìn về phía cô. “Sau đó thì bố cô phát hiện ra danh sách môn học của cô à?”
Xela gật đầu. “Tin tôi đi, kỳ nghỉ Giáng sinh năm đó thật đáng nhớ. Tôi nghĩ rằng bố tôi thậm chí sẽ mắc phải chứng phình mạch. Ông cứ nhắc đi nhắc lại những câu chuyện về việc tôi đã phá hỏng mọi thứ như thế nào và nghệ thuật chỉ dành cho những kẻ lười biếng không có tương lai ra sao.” Cô tỏ vẻ nghiêm giọng hơn một chút rồi nói. “Con đang phá hỏng chính tương lai của mình đấy! Con cho là chuyện này rồi sẽ đi đến đâu đây, Alexis? Bố không thể tin rằng con lại có thể phản bội ta và mẹ con sau tất cả những gì mà chúng ta đã dành cho con. Con sẽ phải học lại cả kỳ học này, Alexis, và điều này sẽ khiến cho bảng điểm của con trở nên tệ hại trong việc...‘’’
“Đợi một chút,” Roger lên tiếng. “Alexis là ai vậy?” Sàn hầm khá bằng phẳng tuy nhiên Xela vấp phải vật gì đó và suýt té ngã. Sau một lát, âm thanh duy nhất vang lên chỉ còn là tiếng chân của ba người giẫm lên đám bụi.
“Lạy Chúa,” Nate nói. “Cô kể chuyện tệ thật đấy.” “Không phải vậy chứ,” Xela vặc lại, “đấy chính là phần duy nhất không tệ trong câu chuyện của tôi đấy.
Một nghệ sĩ thực thụ sẽ chẳng bao giờ mang theo mình những thứ vô dụng.”
“Tôi lại nghĩ rằng đấy chính là điều cần thiết để trở thành một nghệ sĩ,” Roger nói trong khi cố gắng tỏ ra nghiêm túc.
“Nếu cứ tiếp tục nói năng như vậy thì anh sẽ chẳng bao giờ hẹn hò được ai đâu,” Xela cảnh báo. Cô ngửa đầu ra sau uống một ngụm nước và không quên lườm Roger một cái điếng người. “Dẫu sao thì bố tôi cũng yêu cầu tôi từ bỏ những lớp học kia, hoặc là ông sẽ không chu cấp tiền học cho tôi nữa. Tôi đã đáp lại ông rằng chả có gì phải lo khi mà thực ra tôi cũng không hề
muốn theo học nữa. Sau đó là năm tháng tồi tệ khi tôi phải ở nhà và tham gia các lớp học nghệ thuật miễn phí dành cho cộng đồng. Đến cuối kỳ học thứ hai, chúng tôi quyết định chuyển đến Los Angeles và cảm thấy thật sự thích thú với môi trường sáng tạo tuyệt vời ở đó.”
“Trước đó cô chưa biết gì về L.A, đúng không?” Roger dò hỏi, vẫn với
khuôn mặt nghiêm túc.
Xela cười. “Chúng tôi đã lái xe và trên suốt quãng đường, câu chuyện được nhắc đến nhiều nhất chính là dự định để lập lên một cộng đồng nghệ sĩ hoạt động chung với nhau, tương tự như Andy Warhol vậy. Sự thật là chúng tôi đã gây dựng được một nhóm nhỏ và hoạt động trong vòng ba tháng, mọi
chuyện chỉ kết thúc cho đến khi tất cả mọi người đều phải thừa nhận rằng đây là một dự án bất khả thi. Hơn nữa, việc thuê một địa điểm để hoạt động đòi hỏi chúng tôi phải trả một mức phí quá lớn cho dù nó đã được chia ra làm năm.
Tôi đã sống trong khách sạn trong vòng hai tháng tiếp theo nhờ vào tiền của mẹ. Sau đó tôi có kiếm được một công việc làm nhân viên chạy bàn và anh chàng pha chế ở đó đã giới thiệu tôi đến thuê ở đây. Tôi đã đăng ký tham gia một vài lớp học vào buổi tối nhưng đến bây giờ tôi vẫn chẳng thể nào nuốt nổi chúng. Và bây giờ thì tôi xuất hiện ở đây cùng với mọi người.” Xela nói trong khi quay tròn tại chỗ trong đường hầm với hai cánh tay dang rộng. “Có thể coi như đây là hồi kết cho câu chuyện tẻ nhạt của cô gái Xela, người mà trước đây được biết đến với cái tên Alexis Thorne.”
“Câu chuyện cũng không đến nỗi tệ mà,” Nate nói. “À, còn nữa, con mèo của tôi đã chết năm tôi mười một tuổi.”
“Ừ, chuyện này thì quả là tệ thật.”
Xela trỏ tay về phía Roger. “Đến lượt anh rồi đấy, đồ khỉ gió!”
Roger xòe tay mình ra. “Mở sách ra nào, cô muốn biết chuyện gì về tôi đây?”
“Bằng cách nào mà anh lại trở thành một nhà quay phim vậy?” Nate hỏi. “Trước đây anh đã từng theo học làm phim hay là gì đó à?”
Roger lắc đầu. “Chỉ là tình cờ thôi, tôi đoán mọi người cũng đều vậy cả.”
“Thôi nào, có gì để giấu giếm chứ,” Xela thốt lên. “Tôi thậm chí còn cho anh biết tên cúng cơm của mình, vậy mà tất cả những gì anh nói được chỉ là ‘tình cờ thôi’ sao?”
Roger nhún vai. “Tôi đã tốt nghiệp trường đại học San Diego với tấm bằng kỹ sư, sau đó tôi cảm thấy thật tệ khi phát hiện ra công việc duy nhất mà tôi có thể có được là làm việc cho Target. Thậm chí tôi đã phải giả mạo hồ sơ khi nộp đơn vào hệ thống tuyển dụng chết tiệt ở đó.”
“Tôi cũng ghét mấy công việc ở đó thậm tệ,” Nate nói. “Tôi đã từng nhận được một công việc bán thời gian trong kỳ nghỉ lễ và tất cả những gì tôi phải làm chỉ là trả lời một lô những câu hỏi trắc nghiệm phục vụ cho một cuộc nghiên cứu gì đó.”
Roger gật đầu tán thành. “Dù sao thì tôi cũng gắn bó với công việc tệ hại đó với bộ đồng phục là chiếc sơ mi đỏ được gần một năm, sau đó, tôi chơi dài trong một năm trời. May mắn là một người bạn cũ đã chỉ cho tôi biết về một vị trí trống trong đoàn làm phim. Hầu như lúc nào ở đó cũng có trường quay cho một bộ phim hay chương trình truyền hình nào đó. Công việc thật ra vô cùng đơn giản và họ cũng chỉ cần tôi tham gia trong một vài ngày. Ba ngày ở đó tôi có thể kiếm được số tiền mà bình thường tôi phải làm ở Target suốt một tuần mới có được. Tôi đã xin nghỉ ốm và nhận làm ở hai chỗ khác nhau, học được mọi thứ có thể và sau đó thì họ đã mời tôi tham gia làm việc trong suốt tuần cuối cùng của chương trình.” Roger nhún vai. “Sau đó thì hai người biết rồi đấy, tôi bỏ việc ở Target, chuyển đến L.A và theo học một khóa làm phim trong vòng mấy tháng vì tôi có thời gian rảnh. Khi có được chứng chỉ hành nghề, bố mẹ đã cho tôi vay một chút tiền và rồi tôi đã thật sự gia nhập vào đoàn làm phim. Tất cả là vậy đấy.”
“Vậy anh nghĩ trong tương lai anh sẽ làm gì với nghề quay phim của mình?”
“Ý của cô là gì?”
“Phải có mục tiêu gì đó chứ, đại loại như trở thành một quay phim tay nghề cao hơn, hay là được thăng chức chẳng hạn?”
Roger nhún vai. “Thật ra, mọi người có thể định hướng trở thành một trợ thủ tâm đắc cho một đạo diễn nào đó chẳng hạn, có người lại nỗ lực để trở thành chuyên gia về các thiết bị chạy máy quay.” Anh nhún vai. “Thậm chí nếu cố gắng thì anh còn có thể trở thành người dựng chương trình nữa.”
“Đó có phải một trong những vị trí mà anh đang hướng đến không?”
“Tôi cũng không biết nữa,” Roger trả lời. “Một vài đồng nghiệp của tôi đã làm công việc này đến cả hai mươi thậm chí ba mươi năm nay, tất cả bọn họ đều cảm thấy mệt mỏi, anh biết đấy! Có những người thật sự rất giỏi, họ cũng thông minh và nhanh nhẹn nữa, tiền kiếm được cũng khá nhưng mà nhìn chung họ đều...” Roger lúng túng mãi không biết chọn từ nào cho đúng và cuối cùng anh đành buông xuôi. “Nói chung là họ cảm thấy mệt mỏi.”
Nate gật đầu. “Anh không cảm thấy mệt hay buồn chán sao?”
“Không. Thật ra tôi cũng không chắc mình muốn làm gì trong mười năm tới, ít nhất thì công việc hiện tại khiến tôi cảm thấy vui vẻ. Tôi đã nghĩ tới ‘kịch bản’ rằng mình sẽ gắn bó với công việc hiện tại trong vòng tám hay chín năm gì đó, đủ để kiếm được một món tiền kha khá. Cũng giống như khi tôi được một người giới thiệu để tìm đến tòa nhà này, tôi nhận thấy nó thật tuyệt!”
Nate dừng lại khi cùng lúc cả ba người đi đến khúc quanh tiếp theo trong căn hầm. “Anh vừa nói gì cơ?”
“Nói gì là nói gì chứ?”
“Anh cũng được người khác giới thiệu về tòa nhà này à?” Nate đảo mắt nhìn hai người còn lại trong căn hầm. “Hai người không phải biết đến tòa nhà này thông qua quảng cáo hay là một trang web thuê nhà hay thứ gì đó tương tự à?”
Roger lắc đầu. “Không, sao vậy, không phải cậu tìm đến tòa nhà này qua mấy chỗ đó à?”
“Không hề,” Nate trả lời, “Tôi cũng được người khác giới thiệu về nơi này. Một người làm trong một quán bar mà tôi cũng không quen thân gì cho lắm, tôi chỉ nói với anh ta rằng tôi đang cần tìm thuê nhà và thế là anh ta đã chỉ tôi tìm đến đây.” “Vậy thì sao chứ?”
Nate nhún vai. “Anh không thấy điều gì lạ sao? Không ai trong chúng ta tìm đến đây một cách tự nhiên cả, tất cả đều là nhờ vào sự giới thiệu của
người khác.”
Ba người đi đến chỗ quẹo tiếp theo trong khi Xela duỗi tay ra sau. “Chúng ta đã đi được bao lâu rồi nhỉ?”
Nate rút điện thoại ra xem giờ. “Hai tiếng. Cô có muốn dừng lại nghỉ một chút không?”
“Đây là lần nghỉ thứ hai rồi đấy,” Roger nói.
“Tôi cần nghỉ một chút,” Xela nói. Cô ngồi sụp xuống chỗ thanh chống hầm gần nhất và ngả người xuống cho thoải mái.
Mọi người bỏ ba lô xuống và lấy nước ra uống. Nate lau mồ hôi trên trán và lấy chiếc nhiệt kế ra. Roger tháo đôi giày đang đi để co duỗi mấy ngón chân. “Tôi đau hết cả hai bắp chân rồi đây,” anh nói trong khi cúi xuống xoa bóp đôi chân của mình.
“Nãy giờ chúng ta chỉ đi hướng xuống dưới,” Nate nói. “Cơ bắp bị mỏi vì chúng ta di chuyển theo một hướng. Đừng quá lo, khi quay lên thì chúng ta sẽ được thư giãn thôi.”
“Nghe tuyệt đấy nhỉ!”
Xela nhìn về phía chiếc máy đếm bước. “Chúng ta đã đi được bao xa rồi?”
Nate tháo chiếc máy khỏi thắt lưng. “Hơn tám cây số,” anh trả lời. “Như vậy có vẻ là chúng ta đã đi sâu xuống phía dưới khoảng hơn sáu trăm mét.”
“Sáu trăm mét ấy hả?”
Nate nhún vai. “Đấy là nếu chiếc máy này vẫn hoạt động tốt và tính toán về độ nghiêng đường hầm của bác Tim là chính xác.”
“Anh có biết hang động sâu nhất thế giới sâu bao nhiêu không?” Roger dò hỏi.
“Hai nghìn một trăm ba mươi ba mét,” Xela đáp lời. “Nó nằm ở Georgia.
Georgia châu Á, không phải cái ở phía nam đâu.”
Roger cười toe toét. “Tôi thấy phụ nữ thông minh đều rất gợi cảm đấy.”
Xela đáp lại anh bằng một cái hôn gió. “Tôi đã tìm hiểu về nó sáng nay trước khi chúng ta bắt đầu xuống dưới này. Còn anh thì vẫn thật tệ với mấy câu tán tỉnh.”
“Nhiệt độ đã lên tới hơn 37 độC rồi,” Nate nói.
“Lạ thật đấy,” Xela đáp lời. “Trong khi nghiên cứu về các hang động, tôi thấy có vẻ nhiệt độ ngày càng giảm khi chúng ta càng đi sâu vào trong, chỉ khoảng 10 độ C hay 15 độ C gì đó, vì nhiệt lượng đều hầu như bị hấp thu vào trong lòng đất.” Cô vỗ vỗ vào chiếc ba lô của mình. “Tôi thậm chí còn mang thêm sơ mi và một chiếc áo len.” “Thật là vô lý,” Roger nhận xét. “Đi xuống càng sâu thì chúng ta sẽ gần với tâm trái đất và lớp nham thạch hơn. Nhiệt độ đáng lẽ phải tăng lên chứ?”
“Chúng ta làm sao có thể ở gần tâm trái đất được chứ?” Nate trả lời với nụ cười méo mó. “Nói như vậy chẳng khác gì bảo rằng phía bắc của Hollywood sẽ lạnh hơn vì nó nằm gần cực Bắc hơn.”
Xela nhìn về đoạn đường phía trước đường hầm. “Vậy thì chuyện gì đang diễn ra vậy?”
Nate nhún vai. “Có Chúa mới biết được.”
CHƯƠNG
S
10
au cuộc thảo luận vào tối thứ năm, mọi người đã đưa ra quyết định, Nate, Xela và Roger sẽ là những người quay trở lại đường hầm. Tất cả đều đã sắp xếp được ngày nghỉ trong khi Veek miễn cưỡng từ chối vì lo rằng cô có thể làm phiền đến mọi người nếu như chứng hen suyễn của mình lại tái phát. Còn Tim lo lắng rằng việc mình vắng mặt quá lâu có thể sẽ khiến anh chàng thám tử tư cảm thấy nghi ngờ. Mọi người cũng đều đồng ý với nhau là sẽ chẳng ích gì khi yêu cầu Mandy và Andrew tham gia vào phi vụ này.
Oskar đã rời khỏi tòa nhà vào mười giờ sáng ngày hôm sau. Lão ta thậm chí không hề trò chuyện với bất cứ ai trước khi đi và điều này khiến không ai biết được chính xác lão sẽ đi đâu. “Em cảm thấy thật tồi tệ,” Debbie nói trong khi nhìn chiếc taxi chở người quản lý của tòa nhà đi khỏi. “Như thể chúng ta đang lợi dụng ông ta trong khi ông ta đang gặp rắc rối.”
Veek và Nate chỉ cho mọi người xem qua về tiểu tầng hầm trong khi Tim dỡ mấy chiếc ba lô mà mình đã chuẩn bị xuống. Ông đã ra cửa hàng Target và mua một loạt đồ mới bất chấp sự phản đối của mọi người. “Chúng ta không thể xuống dưới đó mà không chuẩn bị kĩ càng được,” ông nói. “Không thể xác định được là chúng ta sẽ phải đi bao xa, tuy nhiên tôi nghĩ rằng nó có thể giống như việc leo núi hay là thám hiểm hẻm núi Lớn15*, leo lên sẽ tốn thời gian gấp đôi so với đi xuống.” Họ đã chuẩn bị mọi thứ, từ đồ ăn cho đến đèn pin và pin dự phòng. Xela mang theo một chiếc máy ảnh cùng hai chiếc thẻ nhớ dự phòng. Tất cả chúng đều đã được lắp sẵn vào máy. Những chai nước được gài vào túi lưới hai bên hông ba lô, còn túi ngủ được gắn dưới đáy. Dây quai còn được trang bị cả một chiếc còi bấm. “Chúng ta sẽ không thể sử dụng điện thoại ở độ sâu ba mươi mét phía dưới,” Tim giải thích. “Còi sẽ giúp mọi người liên lạc với nhau ở khoảng cách xa hơn. Chúng ta sẽ để một ai đó ở lại trên phòng chờ để nghe ngóng, phòng trường hợp mọi người
cần trợ giúp.” Tất cả mọi người đều tán thành.
15* Grand Canyon: một khe núi dốc được tạo ra bởi bờ sông Colorado ở tiểu bang Arizona của Hoa Kỳ. Grand Canyon nằm trọn gần như trong Vườn Quốc gia Grand Canyon - đây là một trong những vườn quốc gia đầu tiên được thành lập của Hoa Kỳ.
“Còn một món quà cuối cùng tôi dành cho cậu đây,” Tim nói với Nate. Ông lấy ra một thiết bị gì đó nhìn giống một chiếc máy nhắn tin được làm bằng nhựa trong màu cam. “Đây là máy đếm bước. Nó sẽ giúp cậu tính được khoảng cách. Nếu mọi người giữ được tốc độ ổn định và những tính toán về góc nghiêng đường hầm của tôi tương đối chính xác, thì ít nhiều cứ khoảng chín mươi bước chúng ta lại xuống sâu thêm khoảng ba mét.”
“Không thể tính chính xác hơn được à, ông bạn?” Roger thắc mắc.
“Tôi không có thiết bị quan trắc nào ở đây cả,” Tim nói. “Chúng ta đành phải chấp nhận rằng tính toán này có thể có sai số với những gì tôi còn nhớ về môn hình học từ hồi lớp mười.”
“Tuyệt đấy,” Nate nói. “Cháu sẽ chú ý sử dụng nó.” Tim xoay ổ khóa mã trên cánh cửa hầm và đẩy nó mở ra. Đường ống không đủ rộng cho mọi người xuống cùng lúc, vì vậy Roger một mình xuống trước theo lối cầu thang xoắn ốc và những người khác thả ba lô xuống cho anh sau đó lần lượt leo xuống cầu thang, còn Veek líu ríu theo sau họ.
Xela liếc nhìn điện thoại. “Điện thoại của tôi mất tín hiệu rồi,” cô nói. “Mọi người thử kiểm tra điện thoại của mình xem nào?”
Nate cũng kiểm tra điện thoại. “Của tôi cũng mất tín hiệu rồi.”
“Như vậy là chúng ta đã mất khả năng liên lạc bằng điện thoại,” Nate nói. Anh vắt chiếc ba lô qua vai và bấm thử chiếc còi được gắn vào dây đeo. “Ít nhất thì chúng ta vẫn còn mấy cái còi này, có thể dùng để báo hiệu được.”
“Tôi nghĩ cũng chưa chắc chúng đã phát huy được tác dụng đâu,” Xela nói. “Phải dùng thì mới biết được.”
“Mọi người hãy cẩn trọng đấy,” Veek lên tiếng. Cô mỉm cười với Nate. “Đừng làm điều gì dại dột đấy nhé, Shaggy.”
“Mò xuống một hầm mỏ cả trăm tuổi có được tính là một việc dại dột không nhỉ?”
“Đúng đấy,” Veek nói. “Chẳng máy móc nào đo được sự dại dột của anh khi lựa chọn lao đầu xuống cái hầm mỏ đó đâu.”
Nate mỉm cười đáp lại. “Đây có vẻ là một vùng lãnh thổ hoàn toàn mới đấy nhỉ, tôi không nghĩ là Shaggy lại có thể đi với Fred và Daphne trong khi Velma bị bỏ lại một mình.”
“Tôi sẽ không cảm thấy cô đơn đâu,” Veek đáp lại. “Bọn tôi sẽ tiến hành kiểm tra một chút ở phòng nghỉ.”
“Fred với Daphne là ai vậy?” Roger hỏi. “Tôi tưởng là chỉ có ba người chúng ta đi xuống chỗ này thôi chứ.”
Veek lắc đầu còn những người khác phì cười. Họ mất hút khỏi tầm mắt của cô khi xuống cầu thang xoắn ốc. Một lát sau, giọng của Roger vọng lên. “Thì ra là vậy,” anh nói, “mọi người đang nói về bộ phim Chú chó Scooby Doo sao? Thú vị đấy!”
Ba người đi thêm được hai mươi bước thì Xela dừng lại để kiểm tra một chiếc bóng đèn nằm trong hốc tường với lớp vỏ thủy tinh vẫn còn nguyên vẹn. Bề rộng lối cầu thang quá hẹp để mọi người có thể vượt qua nhau, vì vậy, hai người còn lại phải dừng lại chờ cô. Roger cũng phát hiện ra rung động điện phát ra từ phía trong trục thang và Nate đã nói cho anh những cáp điện này được dẫn xuống đường hầm phía dưới. Mặc dù phải dừng lại vài lần nhưng Nate vẫn cảm thấy lần đi xuống này nhanh hơn lần trước. Có thể là vì mình đã biết dưới này có gì, anh nghĩ.
Sau một vài phút mọi người đã xuống đến hầm mỏ phía dưới. Nate tìm thấy cầu dao điện và bật hệ thống đèn lên, chúng nhấp nháy một lát rồi tỏa sáng toàn bộ căn hầm.
“Oa,” Roger nói. “Hóa ra tất cả chỗ này không phải là trò đùa.”
"""