"
13.67 - Chan Ho Kei PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 13.67 - Chan Ho Kei PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
I will well and faithfully serve Her Majesty and Her Heirsand Successors according to law as a police officer, I will obey, uphold and maintain the laws of the Colony of Hong Kong, I will execute the powers and duties of my office honestly, faithfully and diligently without fear of or favour to any person and with malice of ill will towards none, and I will obey without question all lawful orders of those set in authority over me.
Từ nay, với tư cách cảnh sát, tôi nguyện hết lòng trung thành với nữ hoàng Anh cùng người thừa kế của người theo pháp luật. Tôi nguyện tuân thủ, bảo vệ và duy trì luật pháp Hồng Kông. Với tinh thần kiên cường bất khuất, ngay thẳng chính trực, tôi nguyện giữ vững công bằng, nỗ lực thực hiện chức trách của bản thân và tuyệt đối phục tùng mọi mệnh lệnh hợp pháp của cấp trên. Xin thề.
- Lời tuyên thệ của cảnh sát Hồng Kông
(Bản trước năm 1980)
1. ĐEN VÀ TRẮNG
Thanh tra Lạc căm ghét mùi bệnh viện, nhất là thứ mùi hăng hắc của nước khử trùng lẩn quất trong không khí. Chẳng phải vì có kí ức đau buồn gì ở đây, mà chỉ đơn giản là thứ mùi đó gợi nhớ đến nhà xác. Dù đã làm cảnh sát hai mươi bảy năm, nhìn thấy biết bao thi thể, anh vẫn khó lòng quen với mùi này. Nói chung, ngoài những kẻ biến thái đam mê tử thi ra, chắc không ai trông thấy người chết mà vui cho được.
Lạc thở mạnh, nỗi bất an vẫn không vợi bớt, tâm trạng còn nặng nề hơn cả khi theo dõi khám nghiệm tử thi trong nhà xác.
Anh mặc bộ vest màu lam chỉnh tề, buồn bã nhìn người đang nằm trên giường bệnh.
Bệnh nhân trong căn phòng đơn này là một ông lão tóc pha sương, gương mặt đầy nếp nhăn lấp ló dưới mặt nạ thở oxy, hai mắt nhắm nghiền, làn da tái nhợt, cánh tay lấm tấm đồi mồi cắm những ống nhỏ nối với mấy cái máy trị liệu đang hoạt động. Màn hình 17 inch gắn trên đầu giường hiển thị các số liệu như mạch đập, huyết áp, lượng oxy trong máu... Đường đo nhịp tim chạy chầm chậm từ phải qua trái thỉnh thoảng nhấp nhô, nếu không thì chắc ai cũng nghĩ ông lão này chết rồi, và nằm trên giường chỉ là một thi thể được bảo quản tốt mà thôi.
Ông lão là sư phụ của Lạc, ông đã dạy anh điều tra, thu thập chứng cứ, lập luận phá án bao nhiêu năm nay, nhưng chính ông lại thường không hành động theo một quy tắc cố định nào.
“Tiểu Minh à, phá án không thể chỉ biết chăm chăm làm theo nguyên tắc. Ngành này đã có quá nhiều thành phần bảo thủ máy móc rồi. Mặc dù phục tùng mệnh lệnh cấp trên là lẽ đương nhiên, nhưng con phải nhớ, bảo vệ người dân mới là nhiệm vụ thực sự của cảnh sát. Nếu chế độ đẩy người vô tội vào hiểm nguy, chính nghĩa không rõ ràng, bấy giờ chúng ta có lý do chống lại chế độ trì trệ đó.”
Nhớ lại câu cửa miệng của thầy, Lạc không khỏi gượng cười. Tên đầy đủ của anh là Lạc Tiểu Minh. Mười bốn năm nay, kể từ ngày lên chức quyền thanh tra, hầu như không còn đồng nghiệp nào gọi thẳng cái tên mộc mạc đó nữa. Chỉ có thầy vẫn kêu anh là “Tiểu Minh”.
Đối với chỉ huy Quan Chấn Đạc, Lạc cũng như con đẻ của ông.
Trước lúc nghỉ hưu, Quan là tổ trưởng tổ B Phòng Tình báo Hình sự tại Bộ chỉ huy. Phòng Tình báo hình sự, gọi tắt CIB, là cơ quan tình báo trung ương của ngành cảnh sát, phụ trách thu thập, phân tích và nghiên cứu tin tức tội phạm của các khu vực, rồi phối hợp với các phòng ban khác lập kế hoạch hành động.
Nếu coi CIB là não bộ của ngành cảnh sát, thì tổ B chính là thùy trước trán, làm nhiệm vụ phân tích, tổng hợp và tìm ra sự thật từ muôn vàn manh mối rối như tơ vò. Quan bắt đầu dẫn dắt tổ hạt nhân này từ năm 1989 và trở thành linh hồn của CIB. Năm 1997 chuẩn bị về hưu, ông nhận Lạc Tiểu Minh, điều tra viên mới được thuyên chuyển về tổ B làm đệ tử cuối cùng.
Chỉ huy Quan chính thức làm cấp trên của Lạc chỉ trong nửa năm, nhưng sau khi nghỉ hưu, ông làm cố vấn hợp đồng cho ngành cảnh sát nên vẫn có nhiều dịp chỉ bảo cậu hậu bối kém mình hai mươi hai tuổi này. Đối với người không có con cái như chỉ huy Quan, Lạc chẳng khác nào con đẻ.
“Tiểu Minh à, đấu trí với nghi phạm giống như đánh bài, phải để đối thủ đoán sai át chủ bài của mình. Dù con cầm đôi át cũng phải khiến đối thủ nghĩ con chỉ có quân 2, quân 3 tép riu. Kể cả khi thấy mình không có cửa thắng, con vẫn phải giả bộ đặt cược thêm, lung lạc đối thủ. Như thế mới khiến nghi phạm để lộ sơ hở.”
Quan từng căn dặn Lạc như vậy, lại dốc lòng truyền dạy bí quyết phá án như người cha ân cần chỉ bảo con trai.
Sau bao năm tiếp xúc, Lạc coi Quan như cha, cũng hiểu rất rõ tính ông. Đồng nghiệp từng đặt cho ông nhiều biệt danh như “cỗ máy phá án”, “mắt thần”, “thám tử đại tài”... Nhưng Lạc thấy người vợ đã khuất của thầy nhận xét mới là chuẩn nhất.
“Ông ấy hả, bản chất chẳng khác nào dân cá gỗ, phải gọi là ‘Quan Chấn Đo’ mới đúng.”
Dân “cá gỗ” là cách nói vui chỉ những người tính toán chỉ li, “đo” với “đạc” vừa khéo tạo thành một từ ghép chỉ sự cân đong đo đếm. Nhớ đến cách chơi chữ của cô, Lạc bất giác mỉm cười.
Thật vậy, Quan là một quái kiệt khôn khéo giỏi giang, thích hoạt động độc lập, hay cân nhắc thiệt hơn. Ông đã trải qua bạo động thập niên 60, trụ vững trong sóng gió xung đột với ICAC thập niên 70, đối đầu bọn lưu manh hung hãn thập niên 80, tận mắt chứng kiến quá trình thay đổi chủ quyền thập niên 90 và dõi theo bao chuyển mình của xã hội trong thập niên đầu thế kỉ mới. Ông đã phá hơn trăm vụ án suốt hàng chục năm trời, âm thầm viết nên trang sử chói lọi cho ngành cảnh sát Hồng Kông.
Giờ đây, ở cái tuổi gần đất xa trời, bao hình tượng tốt đẹp mà ông dày công gây dựng cho ngành cảnh sát lại đang vụn vỡ. Đến thời điểm năm
2013 này, vầng hào quang của cảnh sát Hồng Kông cũng đã phai nhạt đi khá nhiều.
Thời kì thuộc địa, lực lượng cảnh sát Hồng Kông từng được nữ hoàng Anh phong danh hiệu “Hoàng gia” vì lòng tận tụy với nghề. Sau sự kiện quét sạch tham nhũng hồi thập niên 70, họ trở thành đội ngũ hành pháp ưu tú nhất nhì thế giới, liên tiếp chặn đứng các hành vi phạm tội tại Hồng Kông, luôn coi trọng chức trách bảo vệ người dân, được mọi tầng lớp xã hội ủng hộ, gắn với hình tượng chí công vô tư, chân thành đáng tin trong mắt dân chúng.
Tuy thi thoảng vẫn có những con sâu làm rầu nồi canh, khoác trên mình bộ cảnh phục mà lại dính líu đến những vụ án kinh thiên động địa, nhưng phần lớn người dân đều coi đây là thành phần cá biệt, không ảnh hưởng đến cảm nhận của họ về lực lượng cảnh sát.
Những cảm nhận đó đã thực sự thay đổi vì một sự kiện lớn lao.
Sau cuộc chuyển giao chủ quyền năm 1997, các vấn đề chính trị dần dà trở nên nóng hổi. Khác biệt về giá trị quan nảy sinh trong tranh chấp chính trị từng bước lan sang mâu thuẫn xã hội. Khi các phong trào xã hội và biểu tình thị uy ngày một dữ dội, thì kẻ đứng mũi chịu sào chính là lực lượng cảnh sát.
Những năm gần đây, phía cảnh sát nhiều lần dùng biện pháp cứng rắn theo lệnh cấp trên để đàn áp biểu tình. Đến tổ trọng án còn bị cử đi điều tra và bắt giữ các phần tử tham gia phong trào quần chúng. Những nghi ngờ về lực lượng cảnh sát bén rễ trong dư luận và ngày càng thu hút nhiều sự ủng hộ từ người dân vốn không có lập trường rõ ràng.
Nhưng gây tổn hại nghiêm trọng nhất đến hình tượng ngành, là tin đồn cảnh sát “hai mặt” khi làm nhiệm vụ. Lực lượng cảnh sát có một nguyên
tắc cố hữu, luôn giữ thế trung lập trong chính trị, đối mặt với tình huống nào cũng vì công lý, theo pháp luật.
Đến khi đụng phải các xung đột dây dưa tới những tổ chức có quan hệ mật thiết với chính phủ, cảnh sát gặp trở ngại, không duy trì được năng suất phá án. Có người còn lên tiếng khẳng định, giờ đây cường quyền lấn át chính nghĩa, cảnh sát Hồng Kông trở thành tay sai cho giới cầm quyền, dung túng các tổ chức được chính phủ chở che, không giữ cán cân công lý mà chỉ thuần túy phục vụ chính trị.
Trước đây, mỗi lần nghe thấy những lời như vậy, Lạc đều lập tức phản bác. Nhưng hiện giờ, bản thân anh cũng mấp mé dao động, phải chăng lời nói đó là đúng. Anh không thể khẳng định chắc nịch vị thế trung lập tuyệt đối, luôn đứng về phía nhân dân, hành pháp công bằng của ngành cảnh sát được nữa. Số người mang tâm lý “làm thuê” trong đội ngũ cứ tăng dần đều. Họ đã quên đi bản chất cao quý của nghề này, chỉ biết vâng lệnh cấp trên, chẳng khác nào lao động phổ thông làm công ăn lương ngoài kia.
“Làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm không sai.” Đôi khi Lạc vẫn nghe có người nói thế.
Năm 1985, Lạc đầu quân vào ngành, vì khao khát niềm vinh dự khi làm cảnh sát. Đối với anh, đây là công việc vô cùng thiêng liêng, diệt trừ tội ác, bảo vệ chính nghĩa. Nhưng đối với không ít lính mới, cảnh sát không còn là “vinh dự”, mà chỉ là “nghề nghiệp”. “Căm thù cái ác”, “trừ gian diệt bạo” đều là lý thuyết suông. Họ chẳng thiết làm tốt, chỉ mong làm xong, duy trì mức chuyên cần, mau chóng thăng chức lên lương, an toàn hạ cánh, nhận trợ cấp nghỉ với lương hưu(1) mà sống đến hết đời.
Quan điểm này phổ biến bao nhiêu thì những phẩm chất riêng có của cảnh sát mất đi bấy nhiêu, hình tượng cao cả trong mắt người dân cũng theo đó sụp đổ.
Mới đây thôi, Quan còn nằm thoi thóp trên giường bệnh, vừa nắm chặt tay Lạc vừa cố thều thào, “Tiểu Minh... Dù người dân căm ghét, dù cấp trên bắt làm chuyện trái lương tâm, dù kẻ thù bao vây tứ phía... Cũng đừng quên bổn phận và sứ mệnh của người cảnh sát... Hãy quyết định cho đúng...”
Lạc biết rõ “bổn phận” và “sứ mệnh” thầy nói là gì. Với tư cách tổ trưởng tổ trọng án Sở cảnh sát Đông Cửu Long, anh hiểu rằng trước giờ mình chỉ có duy nhất một nhiệm vụ: bắt giữ tội phạm, bảo vệ người dân. Khi sự thật bị vùi lấp khỏi con mắt công chúng, thì trách nhiệm của anh là phải lập lại trật tự, giữ gìn phòng tuyến cuối cùng của chính nghĩa.
Và hôm nay, để hoàn thành trách nhiệm, anh quyết định trông cậy cả vào người thầy đang hấp hối.
Nắng chiều đổ xuống vịnh biển xanh như ngọc. Tia nắng rạng rỡ xuyên qua khung cửa sổ sát đất, rọi vào phòng. Căn phòng chỉ có tiếng máy móc chạy, tiếng tít tít thỉnh thoảng vang lên cho biết bệnh nhân còn sống và tiếng gõ bàn phím lạch cạch. Một cô gái ngồi trong góc phòng đang giúp Lạc làm nhiệm vụ này.
“Chưa xong hả Táo? Họ sắp đến rồi.” Lạc quay sang hỏi cô gái.
“Sắp. Nếu anh nói trước là phải thay đổi cả hệ thống, em đã không chật vật thế này. Sửa giao diện thì dễ, chứ biên dịch mã nguồn thì hơi tốn thời gian.”
“Ừ, nhờ cả vào em.” Về lập trình máy tính thì Lạc mít đặc, chẳng hiểu giao diện với biên dịch mã nguồn là gì. Nhưng anh tin tưởng trình độ kĩ thuật của Táo.
Cô gái trả lời mà mặt cứ cắm vào bàn phím. Cô đội mũ lưỡi trai đen cũ kĩ, mái tóc nâu xoăn tít buông xõa bên dưới, trên khuôn mặt mộc là cặp đít chai gọng đen dày cộp, áo thun đen phối với quần yếm tả tơi xơ mướp, chân xỏ xăng đan để lộ mười đầu ngón sơn đen bóng. Cả người cô toát ra vẻ lập dị, trên bàn nước trước mặt còn bày ba laptop đang mở sẵn, dưới chân là một đống dây dợ nhằng nhịt.
“Cốc cốc.” Có người gõ cửa.
“Đến rồi.” Lạc nhủ thầm. Trong tích tắc, anh lấy lại ánh mắt diều hâu săn mồi.
“Sếp ơi, đến cả rồi ạ.” Thanh, cấp dưới của Lạc, mở cửa gật đầu chào. Những người phía sau lục tục tiến vào phòng bệnh, ai nấy đều tỏ vẻ ngờ vực, không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
“Chào cậu Nghĩa, cảm ơn cậu đã bớt chút thời gian.” Lạc đứng dậy tiến về phía cửa. “Cả năm người đều đến thế này thì tốt quá. Dù chỉ một người vắng mặt, việc điều tra sẽ lại dây dưa thêm mấy ngày. Vậy nên thực sự cảm ơn mọi người.”
Lạc mở lời rất lịch sự, nhưng ai cũng hiểu đó chỉ là mấy câu xã giao bề ngoài. Dù sao họ cũng đang đối mặt với một vụ giết người.
“Xin lỗi, nhưng tôi không hiểu vì sao chúng tôi phải tới đây.”
Người lên tiếng đầu tiên là Du Vĩnh Nghĩa, tức “cậu Nghĩa” mà Lạc vừa chào. Thông thường, khi cần lấy lời khai từ nhân chứng hay những người liên quan đến vụ án, cảnh sát sẽ mời họ về đồn hoặc làm việc luôn tại hiện trường. Nghĩa không ngờ mình lại được gọi tới phòng bệnh đơn trên tầng năm bệnh viện Hòa Nhân ở khu Tướng Quân Áo(2). Ngạc nhiên
hơn, đây là một trong những bệnh viện tư nhân trực thuộc tập đoàn Phong Hải của nhà họ Du. Nhưng nơi đây đâu liên quan đến vụ án.
Lạc ung dung đáp, “Chỉ là trùng hợp thôi, mong cậu đừng băn khoăn. Cố vấn của chúng tôi được chuyển đến bệnh viện này, nên đành phải mời cậu tới đây. Chưa kể, Hòa Nhân tình cờ lại là một trong những cơ sở y tế có trang thiết bị tốt nhất nữa, nên càng tính là trùng hợp.”
“Vậy sao.” Nghĩa vẫn thấy lạ, nhưng không hỏi thêm. Anh mặc bộ vest xám, đeo kính không gọng, tuổi vừa tròn 32, khuôn mặt còn vương đôi nét ngây ngô, vậy mà đã phải đưa vai ra gánh trách nhiệm chủ nhân nhà họ Du. Mẹ bệnh nặng qua đời, bố bị giết hại, anh đành gồng mình chèo chống gia nghiệp, hợp tác cùng cảnh sát với tư cách người đứng đầu dòng họ. Gia đình anh là danh gia vọng tộc, tập đoàn Phong Hải là doanh nghiệp IPO. Nghĩa biết rồi sẽ có ngày mình phải đứng ra tiếp quản việc kinh doanh, nhưng chẳng ngờ trách nhiệm lại đè lên vai đột ngột thế này.
Tuy là con thứ, song hiện giờ Nghĩa lại là người lớn tuổi nhất trong số con cái trưởng thành của cả dòng họ. Từ khi tận mắt nhìn thấy thi thể bố nằm trong vũng máu, suốt một tuần nay anh không nguôi nhớ về Du Vĩnh Lễ, người anh trai yểu mệnh hơn hai mươi năm trước.
“Nếu anh cả còn sống, chắc chắn sẽ bình tĩnh đối mặt với tình cảnh này.” Nghĩa tự nhủ. Bố vừa qua đời, vậy mà trong đầu anh chỉ toàn hiện lên khuôn mặt anh trai. Hễ nghĩ tới Lễ, cổ họng anh lại nghẹn đắng. Cái chết của Lễ đã phủ bóng đen u ám xuống thời thơ ấu của anh. Phải mất mấy năm trời anh mới thoát ra được, và mới quen được với cảm giác nôn nao mỗi khi kí ức ùa về. Cơn hoảng loạn lâu lâu trỗi dậy ấy khiến Nghĩa hiểu rằng, cái chết của Lễ là sự thật không thể lãng quên. Anh chỉ còn cách âm thầm chấp nhận, lặng lẽ gánh vác trọng trách khi đứng đầu nhà họ Du.
Ví như trọng trách thay mặt gia đình đến làm việc với cảnh sát.
Lần nào giáp mặt thanh tra Lạc, Nghĩa cũng căng thẳng. Nhưng địa điểm lần này là bệnh viện Hòa Nhân quen thuộc, anh thấy thoải mái hơn so với sở cảnh sát lạnh lẽo. Nghĩa không phải bác sĩ, nhưng nắm khá rõ cách bố trí phòng bệnh ở đây, không phải vì anh là lãnh đạo cấp cao của tập đoàn, mà chỉ vì hơn một năm trước, cứ vài ba ngày anh lại ghé vào thăm mẹ.
Trước đó, mỗi năm Nghĩa chỉ đến bệnh viện thị sát nhiều lắm là một lần. Ngoài Hòa Nhân, tập đoàn Phong Hải còn sở hữu vô số bất động sản và các công ty buôn bán vận chuyển hàng hóa, đó mới là đối tượng đầu tư chính. Hòa Nhân không mang lại doanh thu cao nhất, nhưng lại có tiếng nhất. Bệnh viện luôn đi đầu trong việc đưa các kĩ thuật chữa trị tối tân của nước ngoài về Hồng Kông, từ phẫu thuật lỗ khóa(3), kĩ thuật RFLP(4) tìm kiếm bệnh di truyền dựa trên ADN, cho đến phương pháp điều trị ung thư bằng tia phóng xạ...
Nhưng, y như mấy phim ba xu éo le, dù sở hữu bệnh viện Hòa Nhân với trang thiết bị và đội ngũ thầy thuốc hàng đầu, phu nhân nhà họ Du vẫn không thể qua khỏi căn bệnh ung thư quái ác, đành nhắm mắt xuôi tay ở tuổi 59.
“Sếp Lạc, các anh làm phiền chúng tôi mấy ngày nay rồi đấy. Tôi thấy cảnh sát các anh không phá nổi vụ này, nên cố tình vẽ vời nọ kia để có cái mà báo cáo cấp trên thôi.” Cậu thanh niên đứng sau Nghĩa nói với vẻ châm chọc. Cậu ta là Du Vĩnh Liêm, con út nhà họ Du, kém Nghĩa tám tuổi. Khác với phong cách của người anh khôn khéo chín chắn, cậu mặc toàn hàng hiệu, đầu nhuộm đỏ, giọng điệu ngả ngớn, trước mặt cảnh sát cũng không biết kiêng dè, dáng vẻ ngông nghênh chẳng sợ ai.
Nghĩa quay đầu lườm em trai trách móc. Nhưng thật ra anh cũng đồng tình với quan điểm là cảnh sát chỉ làm qua loa cho xong chuyện. Ba người
còn lại gồm Thái Đình vợ Nghĩa, bà Hồ Kim Mạt giúp việc, và ông Vương Quán Đường thư kí riêng của gia đình, cũng đều chung nhận định. Tuần trước từng người đã bị triệu tới sở cảnh sát để làm bản tường trình. Không ai hiểu nổi thẩm vấn thêm lần nữa thì có tác dụng gì với việc phá án.
Lạc không để ý đến lời xúc phạm, bình thản nói.
“Nhà họ Du là một gia tộc lớn, Phong Hải lại là một trong những tập đoàn tài chính trụ cột của kinh tế Hồng Kông, nên cánh nhà báo mới rình rập vụ này như hổ đói săn mồi. Cấp trên của tôi quan tâm, muốn nhanh chóng phá án để tránh gây náo động giới doanh nhân và chính trị, nên đành nhờ đến sự trợ giúp của thầy tôi, cố vấn Bộ chỉ huy. Mong các vị chịu khó thuật lại vụ án.”
“Thầy của anh là nhân vật lỗi lạc nào thế?” Liêm mỉa mai, không coi viên thanh tra này ra gì.
“Là Quan Chấn Đạc, nguyên tổ trưởng tổ B CIB, cựu tổ trưởng tổ trọng án Sở cảnh sát Đảo Hồng Kông, hiện là cố vấn đặc biệt của ngành cảnh sát.” Lạc cười đáp. “Thầy chưa bó tay trước một vụ án nào. Tính đến nay, tỉ lệ phá án luôn là một trăm phần trăm.”
Nghĩa kinh ngạc, “Một trăm phần trăm?”
“Đúng vậy.”
“Anh... Anh nói quá rồi! Làm gì có ai đạt tỉ lệ phá án một trăm phần trăm?” Liêm phản bác, nhưng nghe giọng điệu không còn hống hách nữa.
“Vị cố vấn họ Quan ấy đâu?” Ông Đường tò mò hỏi. Người thư kí tóc bạc trắng, tuổi ngoài lục tuần đánh mắt nhìn Táo đang ngồi gõ bàn phím trong góc phòng. Cô gái ở độ đôi mươi này không thể nào là cựu tổ trưởng tổ trọng án.
Lạc quay đầu về phía giường bệnh. Mới đầu mọi người còn chưa kịp hiểu, sau mới dần nhận ra câu trả lời theo hướng nhìn của anh.
Nghĩa thốt lên kinh ngạc, “Ông... ông lão này chính là Quan Chấn Đạc?”
“Đúng.”
Chẳng ai ngờ ông lão gần kề miệng lỗ trên giường bệnh lại chính là viên thám tử tài ba mà Lạc đang ca ngợi.
“Ông ấy... mắc bệnh gì?” Vừa dứt lời, Nghĩa lập tức hối hận. Đây là việc riêng của bệnh nhân, hỏi thẳng như thế có khi lại khiến thanh tra phật ý, mà anh thì không hề muốn gây chuyện với cảnh sát.
Nhưng Lạc chẳng giấu giếm, “Ung thư gan, giai đoạn cuối.” Không ai để ý thấy, giọng anh thoáng xót xa khi buột ra câu nói này.
“Nhờ lão... ông lão này điều tra vụ án của bố tôi sao?” Liêm vẫn nói năng bất cần, nhưng ít ra cậu ta đã không thốt lên cụm từ “lão già chết tiệt”.
“Liêm à, ăn nói cho cẩn thận!”
Người nhắc nhở không phải Nghĩa mà là ông Đường, tôi tớ lâu năm của nhà họ Du.
Liêm bĩu môi, nhưng không cãi lại.
“Sếp Lạc, anh gọi chúng tôi tới bệnh viện là để thuật lại lời khai cho... cho ông Quan đây nghe sao?” Thái Đình rụt rè hỏi như sợ lỡ lời, có vẻ vẫn chưa quen với thân phận “bà chủ”.
“Đúng vậy.” Lạc gật đầu. “Thầy tôi không thể đến tận nhà riêng hay sở cảnh sát, nên cảm phiền các vị quá bộ tới đây.”
“Nhưng... ông ấy có nói được không?” Thái Đình nhìn về phía ông lão nằm trên giường bệnh. Trước khi gả vào nhà họ Du, cô từng làm bác sĩ, nên thấy bệnh nhân phải cắm ống thở vào mũi, nhờ máy móc hỗ trợ để hô hấp, cô biết ngay đối thoại với bệnh nhân đúng là chuyện không tưởng.
Lạc thản nhiên đáp, “Không được. Cũng chẳng cử động nổi nữa. Thầy tôi... vừa hôn mê lại rồi.”
“Hôn mê rồi á?” Liêm cướp lời.
Nghĩa thốt lên, “Tức là chúng tôi đến muộn sao?”
“Điểm Glasgow(5) là bao nhiêu?” Thái Đình lại hỏi.
“Ba.” Lạc đáp. Đây là tình trạng hôn mê sâu nhất. Chỉ khi bệnh nhân không thể mở mắt, nói chuyện, tứ chi mất hết phản ứng, con số “3” tàn nhẫn ấy mới xuất hiện.
Thái Đình hiểu tường tận ung thư gan đến mức nào thì sẽ gây ra hôn mê. Chức năng gan suy yếu khiến nồng độ NH3 hoặc một số axit amin trong máu tăng cao, ảnh hưởng đến hệ thần kinh, làm bệnh nhân bất tỉnh. Hội chứng não-gan này ban đầu sẽ ảnh hưởng đến ý thức của bệnh nhân, nghiêm trọng nhất là dẫn đến hôn mê sâu.
“Nếu không thể nói cũng không thể cử động, làm sao chỉ huy Quan giúp cậu phá án đây?” Ông Đường hỏi. “Cậu không đùa chúng tôi chứ?”
“Thầy vẫn nghe được.” Lạc bình tĩnh đáp. “Vả lại, nồng độ NH3 trong máu đã giảm xuống mức an toàn, sẽ không ảnh hưởng đến khả năng tư duy.”
Thái Đình ngắt lời, “Nghe được thì ích gì? Một bệnh nhân hôn mê sâu như ông ấy truyền đạt suy nghĩ cho anh bằng cách nào?” Trong năm người,
chỉ mình cô có kiến thức chuyên môn về y học. Cô hiểu rằng giờ là lúc cần lên tiếng thay cho người nhà.
“Nghe được là đủ rồi.” Lạc trỏ cô nàng lập dị ngồi phía sau, “Cô ấy sẽ xử lý nốt những việc còn lại.”
Táo chẳng buồn đáp, vẫn mải miết gõ bàn phím, cũng không thèm đếm xỉa đến ánh nhìn khác thường của năm người kia.
“Cô ấy là Táo, chuyên gia máy tính.”
“Chuyên gia máy tính?” Nghĩa thấy giới thiệu như vậy cũng bằng thừa, vì trước mặt cô gái bày ba máy tính lớn nhỏ, vỏ máy dán hình hoạt họa, cùng một đống dây dợ nhằng nhịt, vừa nhìn đã biết là chuyên gia máy tính lập dị. Nghĩa nhớ là phòng kĩ thuật của tập đoàn cũng có mấy anh chàng quai quái như thế. Quả nhiên dân IT trông khác hẳn những nhà quản lý như anh.
Liêm lại bắt đầu chọc ngoáy, “Chuyên gia máy tính thì làm được gì? Rút não ông già này ra nối với máy tính à?”
“Ừ, cũng gần giống vậy.”
Mọi người ngơ ngác nhìn vẻ mặt nghiêm nghị của Lạc, không ngờ anh lại thẳng thắn khẳng định như thế.
“Giải thích thì hơi lằng nhằng, mọi người cứ nhìn tận mắt cho dễ hiểu. Tuy nhiên, phải điều chỉnh lại hệ thống thì các vị mới dùng thử được, sẽ mất chút thời gian.” Lạc quay sang hỏi Táo, “Vẫn chưa xong à?”
“Xong, được rồi đấy.” Táo ngẩng đầu đáp, đưa cho Lạc một cái vòng nhựa trông như bờm cài tóc. Chiếc bờm có màu đen, rộng khoảng 2 cm, một đầu gắn dây điện màu xám nối với máy tính màu lam đặt bên trái trước mặt Táo.
“Đây chính là dụng cụ để ‘rút não’ thầy tôi.” Lạc giơ bờm lên. “Ông Đường, phiền ông qua đây làm mẫu.”
Ông Đường lúng túng lại gần.
Lạc bảo ông ngồi xuống sofa, rồi giúp ông đeo bờm. Nhưng anh không đặt chiếc bờm lên mái tóc lưa thưa của người đàn ông già, mà kéo nó xuống ngang trán, trông như vòng kim cô của Tôn Ngộ Không, khiến ai cũng thấy khó hiểu. Ông Đường bị hai đầu chiếc bờm áp vào hai bên thái dương, còn trước trán cảm giác như có gì đó nhô ra từ mặt trong của vòng, chạm hẳn vào da. Lạc nhẹ nhàng xoay cái vòng để điều chỉnh.
Đang chăm chú nhìn màn hình, Táo đột ngột bảo, “Được rồi.” Lạc liền dừng tay, quay ra hỏi, “Mọi người có biết EEG(6) không?” Thái Đình cất tiếng, “Là điện não đồ?”
“Chính nó.” Lạc giải thích, “Não người được tạo thành từ các nơron. Khi não hoạt động, nơron sẽ sản sinh ra xung điện nhỏ. Phương pháp EEG giúp chúng ta đo đạc những xung điện đó. Các nhà khoa học gọi nó là sóng não.”
Nghĩa kinh ngạc thốt lên, “Lẽ nào... cái bờm này có thể chuyển đổi sóng não thành ngôn ngữ?”
“Không phải. Hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa thể giải mã hoàn toàn suy nghĩ của con người thông qua sóng não. Nhưng nếu chỉ để kiểm tra tình trạng não bộ, thì phương pháp này đã được ứng dụng từ lâu, những năm gần đây cũng có nhiều bước tiến lớn, chỉ cần vài thiết bị đơn giản là thực hiện được.”
“Việc đo sóng não khó ở chỗ phải phân biệt được đâu mới đúng là sóng não.” Táo nói xen vào. “Ví như trong căn phòng này, chỉ riêng các thiết bị y
tế cũng đủ tạo ra vô số sóng điện gây nhiễu. Trước kia, EEG phải được tiến hành trong môi trường đặc biệt. Nhưng ngày nay, với sự hỗ trợ của máy tính, việc loại bỏ tạp âm trở nên vô cùng dễ dàng. Tôi đã tự viết chương trình vận hành cho hệ thống máy móc này, các thuật toán giảm tạp âm thì lấy từ kho dữ liệu của một nhóm nghiên cứu thuộc đại học Berkeley ở Mỹ, còn giao diện...”
“Tóm lại, chỉ cần não vẫn hoạt động, thiết bị này sẽ giúp chúng ta đoán được nội dung cơ bản nhất trong suy nghĩ của đối tượng.” Lạc cắt ngang bài diễn thuyết bất tận của Táo, ra hiệu bảo cô xoay màn hình máy tính ở giữa ra cho mọi người nhìn. Đó là loại laptop xoay 180 độ. Màn hình chia đôi, nửa trên màu trắng có chữ YES màu đen, nửa dưới màu đen lại hiện lên chữ NO màu trắng, trên đường phân cách hai nửa màn hình là một dấu cộng màu xanh lam.
“Ông Đường, bây giờ ông hãy tập trung cao độ, tưởng tượng dấu cộng màu xanh di chuyển lên trên.” Lạc hướng dẫn.
Ông Đường tuy không hiểu gì nhưng vẫn làm theo.
Liêm chỉ vào màn hình hét lớn, “Nó... nó chuyển động!”
Trên màn hình, dấu cộng màu xanh đang từ từ dịch chuyển lên trên, khi chạm đến chữ YES thì máy tính kêu “bíp” một tiếng.
“Sóng não ở trạng thái tập trung và thả lỏng khác nhau rõ rệt.” Lạc vừa nói vừa trỏ màn hình. “Khi ông Đường tập trung tinh thần, não sẽ sản sinh ra... ra...”
“Sóng beta. Chỉ khi tinh thần tập trung sóng não với tần số từ 12 đến 30 hz mới xuất hiện.” Táo nhô đầu lên giải thích. “Còn khi thả lỏng, não chỉ sản sinh ra sóng alpha ở tần số 8 đến 10 hz.”
“Đúng vậy, là sóng beta.” Lạc cười trừ, nghĩ thầm mình đúng là chẳng biết gì về nghiên cứu khoa học. “Ông Đường, bây giờ ông thử thả lỏng đi, ngắm cảnh biển ngoài cửa sổ chẳng hạn, khi đó dấu cộng sẽ chạy xuống phía dưới. Ông có thể điều khiển dấu cộng màu xanh lên xuống nhờ vào hai trạng thái ‘tập trung’ và ‘thả lỏng’.”
Mọi người dán mắt vào màn hình, thấy dấu cộng chậm rãi di chuyển khi lên khi xuống, lòng bán tín bán nghi. Nhưng nhìn vẻ mặt càng lúc càng sững sờ của ông Đường, tất cả hiểu rằng thiết bị này thực sự đo được sóng não.
Dấu cộng lên xuống thêm đôi lần, ông Đường tấm tắc khen, “Đúng thật! Khi tôi cố bảo nó đi lên, nó liền đi lên! Còn khi tôi không nghĩ gì, nó sẽ từ từ trôi xuống.”
“Các vị muốn thử cũng không sao.” Vừa nói, Lạc vừa tháo thiết bị ra khỏi đầu ông Đường.
Bình thường, Nghĩa sẽ xin thử ngay, vì anh vốn luôn hứng thú với những thứ mới lạ. Nhưng trong tình cảnh này, anh không hề muốn gây chú ý, nhất là khi viên thanh tra trước mặt quá đỗi khó đoán.
“Khoan đã, cô chuyên gia kia nói đã tự viết chương trình, thế còn phần cứng thì sao? Cái bờm này có vẻ giống như được đặt làm riêng...” Ông Đường hỏi.
“Mua đấy.” Táo đáp.
Ông Đường trông hoang mang, “Có chỗ bán thứ này ư?”
“Cửa hàng đồ chơi Toy“R”Us.” Táo lôi thùng các tông từ đằng sau ra, “Đồ chơi dùng sóng não đã tung ra thị trường từ mấy năm nay, không còn lạ lẫm nữa. Tôi chỉ mua linh kiện về sửa sang một chút thôi. Đừng coi thường đồ chơi thời nay. Đợt trước tôi còn thử sửa ống kính 3D trong máy
trò chơi điện tử thành máy cảm ứng thực tế ảo để thay thế găng tay thực tế ảo đấy.”
“Khoan đã.” Thái Đình ngắt lời, quay sang hỏi Lạc, “Tức là anh sẽ đeo thiết bị này cho ông Quan, chờ ông ấy suy luận các tình tiết vụ án rồi báo lại kết quả cho chúng ta ư?”
“Đúng thế.”
“Nhưng thiết bị này chỉ cho phép trả lời YES hoặc NO thì phá án sao được?”
Lạc quét đôi mắt lanh lợi nhìn mọi người một lượt, “YES hay NO cũng đều có ích cho điều tra.” Ngừng một lát, anh khẽ nhếch miệng, “Với cả, thầy tôi còn thông thạo thiết bị này hơn tất cả những người ở đây.”
Anh rời sofa để ra phía cửa sổ sát đất, vòng qua cả Táo cùng đống dây và máy móc, đến bên trái giường bệnh, nhẹ nhàng đeo chiếc vòng nhựa lên trán ông lão, đến khi Táo nói “OK” mới thả tay ra. Ngồi xuống chiếc ghế kê sát đầu giường, anh hỏi, “Thầy ơi, thầy có nghe thấy con nói không?”
Bíp. Âm thanh lanh lảnh đột ngột vang lên từ loa máy tính. Dấu cộng màu lam lập tức chạy thẳng lên trên, dừng ở chữ YES.
“Sao dấu cộng lại di chuyển bất thình lình vậy? Hay nó bị hỏng?” Liêm thắc mắc.
Tút tút. Lần này máy tính lại phát ra tiếng trầm trầm, dấu cộng nhanh chóng nhảy xuống chữ NO.
“Tôi bảo rồi, thầy tôi giỏi điều khiển thiết bị này.” Lạc nói. “Trước đây, mỗi lần hôn mê gan(7), thầy đều dùng nó để giao tiếp với tôi, tính cả thời gian luyện tập cũng phải hơn một tháng. Hệ thống đã ghi nhận nhiều số liệu của thầy, nên tỉ lệ sai sót gần như bằng không.”
“Có người thay đổi mức tập trung tinh thần nhanh đến vậy sao?” Thái Đình sửng sốt, hết nhìn ông lão lại nhìn màn hình.
Bíp. Dấu cộng lập tức chạy lên chữ YES.
“Người mù có thể đoán khoảng cách dựa vào tiếng động. Người điếc có thể đoán lời nói dựa theo khẩu hình. Khi bị dồn đến đường cùng, tiềm năng của con người sẽ bộc phát.” Lạc đan tay vào nhau, đặt trên đùi, “Vả lại, đây là công cụ duy nhất giúp thầy tôi kết nối với thế giới bên ngoài, không luyện thành thạo không được.”
Dấu cộng từ từ trở về đường phân cách, như thể người dùng đang tuyên bố dấu cộng là một phần cơ thể ông, không ai được phép nghi ngờ tính chính xác của nó.
“Để tiện cho việc điều tra, hôm nay tôi mời các vị đến đây giúp chỉ huy Quan nắm rõ tình hình. Thầy cũng sẽ hỏi các vị chi tiết sự việc trước và sau án mạng. Ban đầu tôi định chờ thầy tỉnh lại, nhưng các vị biết đấy, cấp trên rất chú ý đến vụ án này, nên tôi đành dùng phương pháp đặc biệt để thầy ‘lên tiếng’, tham gia điều tra. Đương nhiên, tôi sẽ là người đặt câu hỏi. Khi nào cần, thầy sẽ phản ứng ngay tức thì để gợi ý, giúp chúng ta lần ra chân tướng.”
Bíp. Dấu cộng chạy lên chữ YES.
“Tại sao phải thẩm vấn tất cả cùng lúc? Hung thủ không phải kẻ trộm ư? Tôi tưởng việc này đã rõ mười mươi rồi.” Liêm khinh thường hỏi.
“Tôi sẽ giải thích kĩ càng từng việc một. Hơn nữa, tôi còn phải sắp xếp lại tình tiết vụ án rồi mới kể cho thầy nghe.” Lạc trả lời vòng vo, vẫn an tọa ở ghế bên đầu giường bệnh, “Mời các vị ngồi. Sofa hơi chật nhưng cũng đủ cho bốn người, vị còn lại xin vui lòng ngồi ở ghế gần cửa ra vào.”
Ông Đường đã ngồi trên sofa từ trước. Nghĩa, Liêm và Thái Đình đến ngồi cùng. Bà giúp việc im lặng nãy giờ liền ra đứng cạnh cửa, đắn đo một lúc rồi ngồi xuống.
Sofa kê bên phải cửa phòng, đối diện cuối giường bệnh. Nghĩa ngồi giữa, bị chiếc bàn đặt ngang giường che mất tầm nhìn, chỉ thấy nửa trên khuôn mặt bệnh nhân.
Có điều, mọi người còn mải tập trung vào Táo đang ngồi ngay gần cửa sổ phía bên phải sofa, hay chính xác hơn là vào màn hình 17 inch với hai nửa đen trắng, tức thiết bị nói chuyện thay ông Quan.
“Thanh, chuẩn bị máy quay.”
Nghe lệnh, Thanh dựng giá đỡ ba chân bên cạnh Táo, khởi động máy quay phim loại nhỏ, điều chỉnh cho ống kính quay trọn mọi người trong phòng rồi gật đầu với sếp.
“Thầy ơi, bây giờ con sẽ tường thuật lại vụ án.” Lạc lấy quyển sổ trong túi áo ngực, giở ra rồi chậm rãi nói, “Khoảng từ ngày 7 đến ngày 8 tháng Chín năm 2013, tức từ tối thứ Bảy đến rạng sáng Chủ nhật tuần trước, tại biệt thự Phong Doanh số 163 đường Trúc Dương quận Tây Cống đã xảy ra một vụ giết người. Biệt thự này là nơi ở của gia đình ông Bân chủ tịch tập đoàn Phong Hải. Nạn nhân chính là chủ hộ, Nguyễn Văn Bân.”
Nghe đến tên bố, Nghĩa lại thấp thỏm không yên.
“Nguyễn Văn Bân năm nay 67 tuổi, ở rể nhà họ Du, tiếp quản vị trí chủ tịch tập đoàn Phong Hải từ năm 1986. Một năm sau, bố vợ là Du Phong qua đời, Bân trở thành chủ nhân nhà họ Du.”
Lạc lật trang.
“Trước đó, năm 1971, ông kết hôn với con gái độc nhất của nhà họ Du, bà Du Thiên Nhu, sinh được ba người con. Con trai cả Du Vĩnh Lễ đã mất năm 1990 do tai nạn giao thông, con thứ Du Vĩnh Nghĩa và con út Du Vĩnh Liêm vẫn đang sống tại địa chỉ trên. Năm ngoái, Nghĩa kết hôn nhưng không dọn ra ở riêng, mà cùng vợ là Thái Đình sống chung với bố mẹ.
“Vợ nạn nhân, bà Nhu, qua đời vì đau ốm tháng Năm năm nay. Ngoài bốn người kể trên, hiện đang sống tại nhà họ Du còn có thư kí riêng Vương Quán Đường và bà giúp việc Hồ Kim Mạt. Tối hôm xảy ra vụ án, những người có mặt tại biệt thự Phong Doanh gồm nạn nhân, hai con trai, con dâu, thư kí riêng và bà giúp việc, tổng cộng sáu người. Thầy có cần con nhắc lại không ạ?”
Tút tút. Dấu cộng đáp NO đầy dứt khoát.
“Tiếp theo con sẽ mô tả hiện trường và quá trình xảy ra vụ án.” Lạc hắng giọng rồi từ tốn nói, “Biệt thự Phong Doanh cao ba tầng, tổng diện tích tính cả vườn hoa là hơn 1800 m2, nằm trên đường Trúc Dương gần công viên ngoại ô(8) Mã An Sơn, xung quanh có khoảng bốn, năm kiến trúc thấp tầng cùng loại, phần lớn là biệt thự tư nhân. Ba đời nhà họ Du đều sống tại đây. Từ những năm 1960, biệt thự Phong Doanh trở thành nhà chính của dòng họ Du.”
Lạc liếc nhìn mọi người, để ý thấy bà Mạt khẽ gật đầu đồng ý, ánh mắt xa xăm như đang hồi tưởng về thập niên 60- 70 rực rỡ, khi cụ chủ Du Phong mới mở xưởng.
“7 giờ 30 phút sáng ngày 8 tháng Chín, Nghĩa thấy bố không xuống phòng khách đọc báo như mọi ngày, bèn lên tầng hai tìm thì phát hiện ông Bân đã chết trong phòng làm việc. Theo điều tra sơ bộ của cảnh sát hiện trường, đây là một vụ đột nhập ăn trộm, nạn nhân tình cờ bắt gặp kẻ trộm nên bị giết hại.”
Nghe lời kể của viên thanh tra, Nghĩa nhớ lại buổi sáng hôm ấy, không khỏi rùng mình.
“Cửa sổ bị đập vỡ, phòng có dấu vết lục lọi.”
Lạc đặt sổ xuống, hướng ánh mắt sang người cảnh sát già trên giường bệnh. Anh có thể miêu tả chính xác hiện trường gây án theo trí nhớ, vì anh đã suy đi nghĩ lại về nó biết bao lần.
“Phòng làm việc trông ra vườn hoa trồng vài cây phượng, thủ phạm dễ dàng băng qua vườn để tránh bị bắt gặp. Mặt ngoài cửa sổ dán mấy lớp băng dính rộng khoảng 5 cm. Hung thủ xem chừng có kinh nghiệm đột nhập, biết dán băng dính trước khi đập vỡ kính để mảnh vỡ khỏi rơi xuống đất gây tiếng động, sau đó mới bóc băng dính, luồn tay qua lỗ để mở chốt cửa. Chúng con tìm được một cuộn băng dính chống thấm dưới đất gần cửa sổ, Phòng Giám định đã xác nhận băng dính dán trên cửa sổ trùng khớp với cuộn băng dính đó.”
Dấu cộng không ngắt lời viên thanh tra, y hệt đang chăm chú lắng nghe.
“Phòng làm việc của nạn nhân rộng 36 m2, gồm hai giá sách, một bàn làm việc, một két sắt, hai sofa, hai bàn uống nước, bốn ghế xoay và một tủ sắt đặc biệt có kích thước 2x1x1 m. Trong tủ đặt súng phóng xiên. Nạn nhân thích lặn biển săn cá nên đã xin giấy phép để cất giữ súng phóng xiên tại nhà. Cạnh tủ sắt là một hộp xốp thể tích 1 m3 đựng báo và tạp chí cũ. Theo lời kể của người nhà, lúc rảnh rỗi, nạn nhân dùng hộp này làm bia tập bắn.”
“Không phải, sếp Lạc, cái đó không dùng để luyện tập.” Nghĩa bất chợt ngắt lời.
“Không phải ư? Tôi nghe ông Đường nói là...”
“Không, tôi không nói thế.” Ông Đường lập tức thanh minh, “Tôi chỉ nói anh Bân thường lấy nó ra làm bia ngắm, chứ không bảo để luyện tập. Mấy năm trước anh ấy bị viêm khớp, chân trái cử động kém nên không đi lặn được nữa, bèn bảo tôi làm một cái bia ngắm đặt trong phòng làm việc để thỉnh thoảng lôi súng ra chơi, ôn lại kỉ niệm. Thật ra những người săn cá biển đều hiểu rằng không nên dùng súng phóng xiên trên mặt đất, vì nguy hiểm.”
“Ồ, ra là tôi hiểu nhầm. Thưa thầy, chuyện là vậy đấy ạ.”
Máy tính “bíp” một tiếng, như thể người cảnh sát già vừa gật đầu bảo nói tiếp.
“Phòng bị lục tung, cả két sắt và tủ sắt đều có vết cạy bằng dụng cụ. Nhưng két sắt vẫn đóng nguyên, tủ sắt thì mở toang. Sách vở tài liệu trên giá rơi bừa bãi dưới sàn, màn hình máy tính vỡ vụn, đồ đạc trong ngăn kéo vứt la liệt ra đất. Sau khi kiểm kê, xác định chỉ mất khoảng 200 nghìn đô(9) tiền mặt, nhẫn trên tay nạn nhân, dao rọc thư khảm đá quý trên bàn và chiếc đồng hồ quả quýt cổ bằng vàng trị giá 300 nghìn đô đều còn nguyên. Hung thủ chỉ trộm tiền mặt.”
Đứng bên cạnh nghe sếp kể, Thanh nhớ hôm đầu đi điều tra, khi biết số tiền 200 nghìn mất cắp chỉ được nhà người ta coi là “tiền lẻ”, cậu mới ý thức được khoảng cách giữa mình với giới thượng lưu xa vời đến mức nào.
“Giám định viên không tìm thấy dấu vân tay hay dấu giày trong phòng. Chắc hẳn hung thủ đã đeo găng lúc gây án.” Lạc lại mở sổ, liếc nhanh rồi tiếp, “Đó là hiện trường gây án. Bây giờ con sẽ nói chi tiết về cái chết của nạn nhân.”
Bíp.
“Nạn nhân Nguyễn Văn Bân được con trai Du Vĩnh Nghĩa phát hiện vào hồi 7 giờ 40 phút sáng. Sau khi kiểm tra pháp y, thời gian tử vong dự đoán là từ 2 đến 4 giờ sáng. Thi thể nằm cạnh giá sách, sau đầu bị thương hai chỗ, nhưng vết thương chí mạng lại nằm ở bụng. Nạn nhân bị súng phóng xiên bắn trúng, mất máu quá nhiều dẫn đến tử vong.”
Trước mắt Nghĩa lại hiện ra hình ảnh mũi xiên kim loại vừa dài vừa mảnh cắm vào bụng bố.
“Bây giờ con sẽ miêu tả chi tiết về hung khí.” Lạc lật vài trang, tìm phần ghi chép về súng phóng xiên, “Mũi xiên trên người nạn nhân làm bằng thép, dài 115 cm, đầu xiên là móc câu dài 3 cm, đâm vào gan khiến nạn nhân mất nhiều máu. Giữa sàn có một khẩu súng phóng xiên làm bằng sợi các bon loại RGSH115 do công ty Rob Allen của Nam Phi sản xuất. Thân súng dài 115 cm, phần đầu súng khép kín gắn một ống cao su dài 30 cm. Trên súng chỉ có dấu vân tay của nạn nhân.”
Hôm mới tiếp xúc với vụ án, Lạc đau hết cả đầu vì đống từ chuyên môn này, phải mất kha khá thời gian bổ sung kiến thức mới hiểu được, về cơ bản, súng phóng xiên hoạt động nhờ lực đàn hồi của ống cao su, nguyên lý giống với ná cao su. Khi mũi xiên được giữ cố định bởi lẫy cò trên tay cầm thân súng, thợ lặn có thể kéo ống cao su gắn với đầu súng ra sau, gài phần móc làm bằng kim loại hoặc dây thừng vào mũi xiên. Đến lúc bật lẫy, móc trên tay cầm nhả ra, mũi xiên lao tới trước theo lực đàn hồi.
Đầu súng khép kín là chỉ loại súng có miệng hình tròn, mũi xiên phải luồn qua miệng tròn đó thì mới vào được rãnh trên thân súng. Còn loại đầu súng mở thì không có lỗ tròn trên đầu, chỉ có giá chữ V để cài xiên. Các đồng nghiệp thích lặn cho biết, nhiều người chuộng súng đầu mở, vì lúc bắn sẽ nhìn rõ con mồi. Nhưng đầu súng khép kín lại có ưu điểm là giảm độ rung của mũi xiên, tăng tỉ lệ trúng mục tiêu.
“Sau khi kiểm tra tủ sắt, chúng con xác định khẩu súng dùng để gây án là của nạn nhân. Bởi vì trong tủ có một ngăn đủ để đặt ba khẩu súng dựng đứng, lúc điều tra chỉ thấy có hai khẩu chiều dài không bằng nhau là RGSH075 và RGSH130, giá ở giữa trống không. Trong tủ còn một khẩu RGZL160 dài thuộc dòng súng Rob Allen Zulu và một khẩu Rabitech RB075 dài 75 cm làm bằng hợp kim nhôm. Hai khẩu này đều được tháo rời và đặt trong hai va li khác nhau để tiện mang đi. Ngoài ra còn vài mũi xiên thép dài từ 115 đến 160 cm. Giám định viên xác nhận những mũi xiên này và mũi xiên ghim vào bụng nạn nhân thuộc cùng một loại.”
“Bố tôi chưa bao giờ dùng khẩu Zulu đó.” Nghĩa xúc động, “Bố bảo mua nó về để săn cá mập, nhưng chưa kịp dùng đã phải từ bỏ thú vui lặn biển.”
Lạc tiếp tục tường trình, không đáp lời Nghĩa, “Trong tủ còn chứa một số dụng cụ lặn biển săn cá như mặt nạ, mũ chụp đầu, thiết bị điều chỉnh bình oxy, găng tay, dây phóng xiên, tuốc nơ vít, dao đa năng, hai con dao lặn dài 25 cm... Điều tra sơ bộ cho thấy, có khả năng hung thủ đã cạy tủ sắt, lấy súng phóng xiên ra rồi tấn công nạn nhân.”
Thanh nuốt nước miếng đánh ực. Suốt hai năm làm trợ thủ cho thanh tra Lạc, cậu đã nhìn thấy không ít thi thể, nhưng cứ nghĩ đến cảnh mũi xiên có móc câu đâm vào bụng nạn nhân khiến nội tạng nát bét là cậu lại sởn gai ốc.
“Ngoài vết thương chí mạng ở bụng, nạn nhân còn nhận hai vết thương nữa sau đầu.” Lạc nói, “Nhưng lạ là, theo báo cáo pháp y, sau lần tấn công đầu tiên, phải một lúc sau nạn nhân mới bị đánh lần thứ hai. Căn cứ vào vết máu trên quần áo và miệng vết thương, hai lần tấn công cách nhau khoảng ba mươi phút. Chúng con không thể xác định tình hình lúc đó, song Phòng Giám định đã tìm ra hung khí là bình hoa kim loại dùng để trang trí
đặt trên bàn làm việc. Trên bình không có dấu vân tay. Xem chừng hung thủ đã cẩn thận lau sạch mặt ngoài sau khi dùng nó để tấn công nạn nhân.”
Lạc lại rời mắt khỏi quyển sổ, liếc một vòng rồi nhìn về phía giường bệnh.
“Điều khiến con cảm thấy kì lạ nhất là tình trạng tử vong.” Anh cau mày, “Nạn nhân nằm bên giá sách, cạnh đó là album ảnh gia đình. Giám định viên phát hiện có dấu vân tay dính máu, khẳng định nạn nhân đã giở xem album trước khi chết. Vết máu trên sàn cho thấy, sau khi nhận vết thương chí mạng, nạn nhân đã cố gắng bò từ bàn làm việc đến chỗ giá sách, khoảng cách giữa hai điểm này là 5 m, rồi mở album ra xem. Pháp y phán đoán rằng bị thương phải đến hơn hai mươi phút, nạn nhân mới tắt thở. Lúc trước, con cho rằng nạn nhân muốn để lại thông điệp nào đó, nhưng điều tra kĩ càng thì thấy các vết máu không hề có quy luật, dường như nạn nhân chỉ đơn thuần muốn xem lại ảnh cũ. Kì lạ hơn, cổ tay và bắp chân nạn nhân hằn vết trói, quanh miệng có vết dán băng dính nhưng đã được gỡ bỏ, cũng không thấy băng dính ở hiện trường.”
Mấy hôm trước, khi nhận kết quả khám nghiệm, Thanh cho rằng chưa chắc hung thủ đã dán băng dính bịt miệng nạn nhân. Biết đâu nạn nhân có máu khổ dâm, chơi bời với tình nhân xong để lại dấu vết như vậy. Thế là các đồng nghiệp nữ trong tổ quay ra nhìn cậu với ánh mắt khinh bỉ cứ như nhìn một tên biến thái. Lạc giễu cợt, chẳng lẽ cậu nghĩ người giàu ai cũng hoang dâm vô độ và có sở thích dị hợm?
“Tạm gác những điểm bất thường đó sang bên, nếu chỉ căn cứ vào hiện trường, chúng con đoán hung thủ là một tên trộm, nửa đêm phá cửa sổ đột nhập phòng làm việc, đang lục lọi thì bị bắt quả tang, nên đã dùng bình hoa đánh ngất nạn nhân, trói lại rồi lục lọi tiếp. Hung thủ thấy két sắt nhưng không mở được, dùng súng phóng xiên uy hiếp nạn nhân khai mật mã
nhưng không thành, cuối cùng bắn chết nạn nhân rồi cuỗm 200 nghìn bỏ chạy...”
Tút tút.
Tiếng trầm vang lên ngắt lời Lạc. Dấu cộng chỉ vào chữ NO. Năm nhân chứng nhìn nhau, hết sức hoang mang.
“Ý thầy nói, hung thủ không phải người ngoài?”
Bíp. Dấu cộng lập tức chạy lên chữ YES.
Lạc ngớ người, “Thật ra sau khi điều tra kĩ lưỡng, chúng con thấy khả năng hung thủ không phải kẻ trộm tương đối cao. Ngoài cửa sổ không có dấu vết leo trèo, trong vườn hoa không lưu lại dấu giày. Con từng nghĩ hung thủ đột nhập bằng đường khác, ví như dùng dây thừng thả người từ trên mái xuống, nhưng lan can tầng thượng không có dấu vết nào cả. Cũng có khả năng hung thủ dùng trực thăng...”
Tút tút. Âm thanh lần này nghe như thể ông cảnh sát già đang cười nhạo cậu học trò cứ mải chui đầu vào ngõ cụt mà bỏ qua sự thật hiển nhiên.
“Thầy chỉ nghe tường thuật như thế đã biết hung thủ không phải người ngoài ạ?”
Bíp. Lại là một câu YES nhanh gọn.
“Là nhờ điểm nào... Cách hung thủ đập vỡ cửa sổ? Bằng chứng cho thấy nạn nhân bị giết bằng súng phóng xiên? Hay dấu vết lục lọi trong phòng?”
Dấu cộng đứng yên ở đường phân cách giữa màn hình.
“Bàn làm việc? Giá sách? Bình hoa? Sàn nhà...”
Bíp.
Dấu cộng lập tức phản ứng.
“Sàn nhà? Sàn nhà không có gì cả, không dấu vân tay cũng chẳng thấy dấu giày, sạch sẽ vô cùng.” Thanh nhanh nhảu nói.
Lạc quay phắt ra nhìn Thanh, rồi ngoái lại nhìn Quan, chừng như bừng tỉnh. Anh vỗ trán, “Đúng rồi! Chính là nó...”
“Sao cơ?”
Thanh vẫn không hiểu ất giáp gì. Năm người nhà họ Du cũng vậy.
“Thanh, cậu đã bao giờ thấy hiện trường vụ trộm nào sạch sẽ như thế chưa?” Lạc chậm rãi nói, “Không có dấu vân tay thì còn hiểu được, bởi đó là bằng chứng buộc tội, kẻ trộm ắt phải đeo găng. Nhưng dấu giày không phải chứng cứ gì quan trọng, nhất là khi đột nhập ăn trộm thông thường, kẻ trộm sẽ không cất công xóa sạch dấu vết, mà chỉ cần mua đôi giày mới, xong việc thì vứt đi là gọn.”
“Nhỡ đâu sau khi giết người, hung thủ lau sạch sàn nhà để che giấu?” Thanh thắc mắc.
“Nói vậy thì càng không lý giải được việc sách vở và tài liệu vung vãi dưới sàn.” Lạc bác bỏ, “Chúng ta đang giả định rằng hung thủ đi qua bãi đất trong vườn hoa, đột nhập căn phòng không người, đang sục sạo thì bị bắt gặp, bèn trói nạn nhân lại rồi lục lọi tiếp, vì không ép hỏi được mật mã nên đã ra tay hạ sát. Nếu hung thủ muốn lau sạch dấu giày, đầu tiên phải dọn dẹp những thứ vương vãi trên sàn. Lau sạch rồi, hắn không có lý do gì để vứt lại đồ đạc xuống. Giết người xóa dấu vết xong không chuồn luôn mà còn nấn ná bày biện hiện trường ‘bị lục lọi’ làm gì? Vô lý.”
Cuộc đối thoại khiến Nghĩa dần hiểu vì sao thanh tra Lạc lại nhờ ông Quan giúp đỡ. Mới nghe mô tả hiện trường, ông lão đang hôn mê đã đi đến kết luận mà cảnh sát phải tốn bao công sức mới tìm ra. Nghĩ đến đó, Nghĩa
bỗng thấy ớn lạnh. Anh sợ người cảnh sát già không cử động nổi một đầu ngón tay kia vẫn có thể nhìn thấu tâm can mình.
Anh sợ, hành vi sát nhân không qua được mắt ông Quan.
“Nếu không phải người ngoài, vậy thì...” Ở bên cạnh, Thái Đình đột ngột lên tiếng, làm Nghĩa giật mình hoàn hồn.
“Vậy thì hung thủ chính là một trong năm người có mặt tại nhà họ Du hôm đó,” Lạc lạnh lùng nói.
Lập tức, năm nhân chứng, đúng hơn là năm nghi phạm, nhận ra mục đích thực sự của viên thanh tra suốt mấy ngày nay.
Ba hôm trước, khi thẩm vấn, Lạc đã hỏi về mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà và quá khứ của nạn nhân. Trong đó lạ lùng nhất là câu, “Giả sử hung thủ không phải kẻ trộm, anh/chị nghĩ kẻ đó là ai?”
“Cái đồ... Hóa ra lúc đầu anh muốn moi tin từ tôi?”
Liêm đùng đùng nổi giận, nói năng chẳng hề nể nang. Lần này ông Đường không cản cậu nữa.
“Du Vĩnh Liêm, cậu phải hiểu rằng,” Lạc nhìn thẳng vào cậu thanh niên bằng ánh mắt diều hâu sắc bén, nói rành mạch. “Công việc của tôi là tìm ra sự thật, đòi lại công bằng cho nạn nhân. Tôi không có nghĩa vụ phải nịnh nọt các vị, vì cảnh sát luôn đứng về phía người bị hại, lên tiếng thay cho những người không còn lên tiếng được nữa.”
Thanh nghe rõ, khi nói những lời này, Lạc đặc biệt nhấn mạnh vào hai chữ “các vị”.
Bầu không khí bỗng trở nên nặng nề. Nhưng Lạc đã lấy lại giọng điệu bình thường ban đầu, “Bây giờ tôi sẽ thuật lại thông tin về từng người mà
tôi đã thu thập suốt tuần qua, nếu có ý kiến gì xin các vị cứ thẳng thắn trình bày.”
Không ai đáp lời, chỉ có máy tính “bíp” một tiếng, như thể ông lão đang ra hiệu cho học trò nói tiếp.
“Đầu tiên là nạn nhân.” Lạc lật một trang trong sổ ghi chép, “Nguyễn Văn Bân, 67 tuổi, giới tính nam, chủ tịch tập đoàn Phong Hải. Theo lời khai từ nhân chứng, nạn nhân luôn đóng ‘vai phản diện’ trong giới kinh doanh, phương châm làm việc khác hẳn Du Phong người sáng lập tập đoàn, ví như bất chấp thủ đoạn để thu mua các công ty con và tấn công đối thủ, thường bị gọi là ‘Cá mập Phong Hải’. Tuy nhiên, giữa cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, doanh thu của Phong Hải chẳng những không giảm mà còn tăng cao. Cho nên, xét trên kết quả, phương pháp của ông Bân có lẽ cũng đúng đắn. Lại nói, các nhân viên quản lý trong tập đoàn đều đánh giá ông là người thân thiện, dù yêu cầu khắt khe hơn những ông chủ khác.”
Thanh đồ rằng đây chỉ là mấy lời đãi bôi. Tuy ông chủ đã qua đời, nhưng người lên thay chính là con trai ông. Nếu nhân viên lỡ mồm để sếp mới nghe được thì chỉ có nước cuốn xéo. Dùng từ “thân thiện” để miêu tả “cá mập”... Đúng là nực cười!
“Nguyễn Văn Bân vốn là cấp dưới của Du Phong. Lúc mới thành lập, Phong Hải chỉ là một xưởng nhỏ chuyên sản xuất đồ nhựa. Đến cuối những năm 1960, công ty chuyển sang đầu tư địa ốc, Du Phong liền nắm bắt cơ hội để Phong Hải được lên sàn tại vô số sở giao dịch chứng khoán.
“Bấy giờ, Du Phong thích tuyển dụng những người trẻ tuổi. Bân 23 tuổi, là nhân viên văn phòng, nhưng gây ấn tượng sâu sắc nhờ đầu óc linh hoạt, nên được thăng chức làm trợ lý riêng của ông chủ. Một người khác
cũng được đề bạt là Vương Quán Đường khi ấy mới 20 tuổi, hiện đã 64, thư kí riêng của nhà họ Du, đồng thời cũng là một trong năm nghi phạm.”
Nghe đến tên mình, ông Đường bất giác thẳng lưng.
“Theo lời kể của những nhân viên đã nghỉ hưu có quan hệ thân thiết với nhà họ Du, hồi đó có tin đồn Du Phong không chỉ chọn trợ lý riêng mà còn định tuyển ‘phò mã’. Bấy giờ cụ đã 60 tuổi, có độc một cô con gái vừa tròn 16, bản thân cụ lại là con độc đinh. Người ta kháo nhau rằng cụ lo nhà họ Du tuyệt tự, nên mới cố tình tìm một người tuổi trẻ tài cao để cho ở rể, mai này tiếp quản tập đoàn. Có người nói khi ấy Nhu thân với Đường hơn. Nhưng về sau lại cưới Bân.”
“Sếp Lạc, cậu định nói đây là động cơ giết người của tôi?” Ông Đường xen vào. “Hồi đó cô Nhu tự chọn chồng chứ cụ Du Phong không hề quyết định. Vả lại, tuy thân thiết nhưng tôi với cô Nhu chưa từng yêu nhau. Huống hồ đã bốn mươi năm trôi qua, ai lại đi giết ‘tình địch’ vì những chuyện xưa như diễm ấy? Tôi luôn làm việc bên anh Bân, muốn ra tay đâu cần chờ đến hôm nay.”
Lạc đáp, “Tôi chỉ kể lại sự việc chứ không ám chỉ điều gì. Thầy tôi nghe tự khắc có suy đoán riêng.”
“Đúng đấy.”
Bà Mạt im ắng nãy giờ bỗng lên tiếng.
“Cậu Đường không phải hung thủ đâu. Cậu ấy thân với ông chủ và cô chủ lắm. Ông chủ với cô chủ kết hôn tháng Tư năm 1971, đúng lúc công ty vừa niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán Kim Ngân mới mở ở Hồng Kông. Để đôi uyên ương an tâm hưởng tuần trăng mật, cậu Đường đã đứng ra quán xuyến mọi việc mà không một lời oán trách. Cậu ấy còn khen với cụ chủ rằng, ông chủ dù mới cưới nhưng vẫn tranh thủ thời gian để giải
quyết công việc. Hai người gắn bó như anh em, cậu Đường sẽ không làm chuyện tàn nhẫn ấy đâu.”
“Ông chủ” ở đây tất nhiên là chỉ ông Bân, “cô chủ” là bà Nhu. Dù bà Nhu đã lấy chồng và trở thành “bà chủ”, nhưng bà Mạt vẫn quen miệng gọi “cô chủ” như xưa.
Lạc liếc nhìn bà, lật thêm vài trang rồi nói, “Đúng, những điều bà vừa nói đều là sự thật. Tiếp theo sẽ là những thông tin về bà.”
Không ngờ mũi nhọn lại chĩa về mình, bà Mạt không khỏi giật bắn vì hoảng hốt.
“Hồ Kim Mạt, 65 tuổi, năm 1965 vượt biên từ đại lục sang Hồng Kông, tình cờ gặp vợ chồng Du Phong, tôi làm giúp việc cho nhà họ Du. Hồi ấy Hồng Kông cấm nuôi hầu gái, nhưng các gia đình giàu có vẫn cứ thuê con sen hoặc u già, nên bà Mạt trở thành vú em cho Du Thiên Nhu ngay từ năm 1965. Khi đó bà Mạt 17 tuổi, còn bà Nhu mới... 12... 13...”
“11 tuổi.” Bà Mạt nắm chặt khăn tay, thận trọng đáp.
“Đúng rồi, 11 tuổi.” Lạc khẽ gật đầu. “Về sau, bà Mạt trở thành hầu gái thân cận của bà Nhu, chăm lo cho cả gia đình đến ngày hôm nay, đã hơn bốn chục năm rồi. Theo lời kể của những nhân chứng khác, bà Mạt luôn có quan hệ tốt với vợ chồng nạn nhân.”
Phận là người giúp việc, nhưng vì săn sóc cô chủ từ nhỏ, nên bà Mạt được bà Nhu quý như chị ruột, có bí mật hay tâm sự gì đều thủ thỉ. Bà Mạt cũng mang tình cảm sâu nặng với bà Nhu. Bốn tháng trước, khi bà Nhu bệnh nặng qua đời, bà Mạt đã khóc hết nước mắt, nửa đêm trằn trọc chẳng kém gì người nhà.
“Nguyễn Văn Bân kết hôn với Du Thiên Nhu, cùng năm sinh con đầu lòng là Du Vĩnh Lễ. Năm 1990, Lễ qua đời do tai nạn giao thông. Con sẽ
bỏ qua phần này.”
Tút tút.
Mọi người giật thót vì tiếng máy tính kêu.
“Thầy bào ‘không’ ạ? Thầy muốn con nói về chuyện của Du Vĩnh Lễ ư?”
Bíp.
Lạc đành gãi đầu nghe theo, “Du Vĩnh Lễ sinh năm 1971, mất năm 1990 trong một tai nạn giao thông thảm khốc. Xe ô tô trượt khỏi đường Vịnh Thanh Thủy lao xuống vực, Lễ bị thương nặng dẫn đến hôn mê, đưa vào viện được hai ngày thì qua đời. Hình như con không ghi hết thông tin. Thanh, cậu phụ trách điều tra quan hệ giữa các thành viên trong nhà, có bổ sung gì không?”
Thanh luống cuống móc quyển sổ bìa nâu từ trong túi áo, lật một trang rồi lắp bắp đáp.
“À... Du... Vĩnh Lễ mất khi mới 18 tuổi. 13 tuổi đi du học Úc, nhưng do thành tích quá kém nên 17 bị bố bắt về, theo lớp dự bị đại học tại trường trung học St. George. Lễ từng thi bằng lái xe ở nước ngoài nên vừa tròn 18 đã được lấy bằng lái ở Hồng Kông mà không cần thi, sau đấy thường xuyên lái xe đi chơi xa. Khác với ông bố giỏi kinh doanh, Lễ chỉ ham chơi bời lêu lổng, lắm thói hư tật xấu, hay gây sự, nên quan hệ với bố mẹ cứ xa cách dần. Ngày sinh ngày mất tình cờ đều rất đặc biệt, sinh vào tết Trung thu, lại mất đúng ngày Cá tháng Tư...”
“Khụ khụ.” Lạc cố tình ho khan hai tiếng để ngắt lời. Thanh ngẩng lên thì thấy vẻ mặt của năm nghi phạm không mấy dễ chịu.
“Cấp dưới của tôi còn trẻ người non dạ, nói năng hấp tấp. Nếu có gì bất kính với người đã khuất, mong các vị bỏ quá cho.” Lạc đỡ lời. Thanh
cũng cuống quýt cúi đầu tỏ ý xin lỗi.
Thấy mọi người không ý kiến gì, Lạc mới hỏi, “Tiếp theo là về người con thứ. Thầy ơi, tiếp tục được chưa ạ?”
Bíp. Dấu cộng nhảy lên chữ YES.
“Du Vĩnh Nghĩa, năm nay 32 tuổi, con trai thứ hai của Nguyễn Văn Bân và Du Thiên Nhu, cũng theo học tại trường St. George như anh cả, tốt nghiệp xong sang Mỹ du học ngành quản trị kinh doanh, lấy bằng rồi về nước làm phó chủ tịch tập đoàn Phong Hải, cũng là trợ thủ đắc lực của nạn nhân. Theo lời khai của nhân chứng, khụ, Nghĩa khác hẳn anh trai, làm việc nghiêm túc, tài năng không thua gì bố và ông ngoại, được nạn nhân coi trọng, quan hệ giữa hai bố con vô cùng tốt đẹp.”
Nghe ngợi khen mà Nghĩa căng thẳng ra mặt. Lạc tưởng anh khó chịu vì Thanh vừa nói những lời không hay về Lễ. Nhưng thật ra, Nghĩa đang lo sợ tội lỗi của mình bị vạch trần. Dù không cố ý giết người, anh vẫn day dứt không yên. Anh bắt đầu nghĩ quẩn, thôi cứ để ông cảnh sát già làm rõ chân tướng rồi tống mình vào tù, có khi còn nhẹ nhõm hơn.
“Du Vĩnh Nghĩa kết hôn năm ngoái. Vợ là Thái Đình, 34 tuổi, con gái út của Thái Nguyên Tam người sáng lập Điện tử Thái Thị, trước là bác sĩ đa khoa công tác tại trung tâm y tế Bách Hoa, sau khi kết hôn đã xin nghỉ việc.” Lạc chợt săm soi cô con dâu nhà họ Du, “Có tin đồn Thái Đình kết hôn với Du Vĩnh Nghĩa là do mấy năm gần đây Điện tử Thái Thị nợ nần chồng chất, cần trợ cấp đầu tư từ một tập đoàn tài chính lớn...”
“Sếp Lạc, anh đừng có ngậm máu phun người.” Mặt Thái Đình đỏ gay, giọng phẫn nộ, “Anh nói thế khác nào bảo tôi lấy anh Nghĩa vì tiền.”
“Tôi chỉ truyền đạt lại thông tin, cũng nhấn mạnh đây là tin đồn.” Lạc bình tĩnh nói, “Phải nói trong năm nghi phạm, động cơ giết người của cô là
rõ ràng nhất. Nguyễn Văn Bân chết, Du Vĩnh Nghĩa và Du Vĩnh Liêm sẽ được thừa kế tài sản. Hai người họ không có việc gì gấp cần đến tiền, nhưng nhà cô lại đang khát một khoản lớn để xoay vòng vốn. Tháng trước có bài báo nói năm nay công ty Thái Thị lỗ mất 180 triệu đô. Nếu Du Vĩnh Nghĩa ngồi vào ghế chủ tịch tập đoàn, cô muốn huy động vốn thì chỉ việc...”
“Đồ... đồ khốn! Những lời anh nói đều là bịa đặt! Tôi... tôi...” Không còn giữ được cử chỉ đoan trang ban đầu nữa, Thái Đình bật dậy gào thét như người mắc chứng ictêri(10), mắt trừng trừng căm phẫn.
“Sếp Lạc, đó đều là phỏng đoán sai sự thật.”
Ông Đường vỗ vai Thái Đình, ra ý bảo cô ngồi xuống.
“Đúng là Thái Thị gặp khó khăn về tài chính, nhưng anh Bân biết rõ tiềm lực của họ, nên đã luôn viện trợ và hợp tác từ trước khi cô Đình được gả vào nhà họ Du. Cậu chủ quen biết cô Đình chính là nhờ những lần hợp tác này. Ban nãy sếp cũng nói anh Bân có biệt danh Cá mập Phong Hải, nên không đời nào có chuyện anh ấy thấy thua lỗ mà vẫn đâm đầu vào. Tôi đang cầm nhiều giấy tờ chứng minh thuở sinh thời anh Bân có kế hoạch đầu tư cho Thái Thị. Cô Đình mà giết anh Bân chẳng phải là gậy ông đập lưng ông sao?”
Lạc không nói gì, chỉ rời mắt khỏi Thái Đình, cúi xuống nhìn sổ ghi chép. Thái Đình cảm thấy anh không hề nhượng bộ. Anh im lặng không có nghĩa là đã đồng ý với lời ông Đường, mà chỉ đơn giản là không bộc lộ suy nghĩ, tựa như con bạc lão luyện che giấu quân át chủ bài, cố tình bày kế hoãn binh, không để đối phương nhìn thấu mọi suy tính.
“Cuối cùng là Du Vĩnh Liêm, con trai út của nạn nhân.” Lạc nói với người cảnh sát già trên giường bệnh, “24 tuổi, học khoa Công trình tại Đại học Văn hóa Hồng Kông, hiện đang trong kì nghỉ. Được biết, Liêm không
mấy gắn bó với nạn nhân, nhưng lại hiếu thuận với mẹ. Khi bà Nhu nằm viện, hầu như ngày nào cậu cũng đến thăm. Ông Bân yêu cầu Liêm học đại học xong phải vào tập đoàn làm việc ngay, nhưng cậu lại muốn trở thành nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, nên giữa hai người nảy sinh mâu thuẫn.”
Mấy hôm trước, khi Lạc hỏi “Nếu hung thủ không phải kẻ trộm, ông nghĩ đó có thể là ai”, ông Đường đã tiết lộ mối quan hệ bất hòa giữa cha con Liêm, nhưng lại khẳng định Liêm không thể nào ra tay giết người.
“Hừ.” Liêm không to tiếng như chị dâu, chỉ khinh khỉnh bật ra một hơi.
“Trên đây là thông tin về các thành viên nhà họ Du. Bây giờ con sẽ thuật lại tình hình mọi người trong nhà trước và sau khi vụ án xảy ra...”
Tút tút. Dấu cộng chỉ vào chữ NO.
“Sao ạ?” Lạc chừng như quên mất thầy không nói được, đợi một lát mới sực nhớ và tiếp tục, “Thầy muốn hỏi chuyện gì ạ? Về thông tin của họ ư?”
Tút tút. Máy tính đưa ra lời phủ định.
“Hay là... thầy muốn hỏi chuyện liên quan đến ai đó?”
Bíp.
“Người này là nam ạ?” Lạc hỏi. Mọi người nghe thế mới hiểu anh đang dùng phương pháp loại trừ, thu hẹp phạm vi câu trả lời một cách nhanh gọn nhất.
Tút tút. Máy tính đáp NO làm Thái Đình sợ thót tim.
“Là cô Thái Đình?”
Tút tút.
Bà Mạt sững sờ.
“Bà Mạt?”
Tút tút.
Máy tính NO liên tiếp hai lần, làm hai nữ nghi phạm đều phấp phỏng. Thái Đình đang định lên tiếng thì Lạc đã cất lời, “Hay là... thầy muốn hỏi về bà Nhu?”
Bíp. Câu trả lời khiến năm nghi phạm thở phào nhẹ nhõm, nhưng ngay lập tức lại dấy lên nghi ngờ. Tại sao ông lão này có hứng thú với chuyện của người đã khuất thế? Ban nãy hỏi về Du Vĩnh Lễ, bây giờ lại hỏi đến Du Thiên Nhu.
“Thông tin về bà Nhu đơn giản, hầu như không có gì đáng kể.” Lạc nói vậy nhưng vẫn mở sổ ra, lật đến một trang rồi dừng lại. “Du Thiên Nhu, con gái duy nhất của Du Phong, vợ Nguyễn Văn Bân, có ba người con trai... Những điểm này đều đã nhắc qua lúc nãy. Ừm... tháng Năm năm nay, bà Nhu qua đời vì bệnh ung thư tuyến tụy, hưởng thọ 59 tuổi. Kết hôn được một năm thì bà mắc chứng trầm cảm sau sinh. Ngoài ra không còn gì đặc biệt. Thầy nghĩ bà ấy liên quan đến vụ án này ạ?”
Dấu cộng nhịp nhàng dao động quanh đường phân cách.
“Thầy muốn nói là ‘có thể’?”
Bíp.
“Ra vậy... Các vị có bổ sung gì không?” Lạc quay sang năm nghi phạm. Năm người nhìn nhau, không ai lên tiếng.
“Không có à?” Lạc gặng hỏi.
“Ừ thì...” Bà Mạt e dè nói, “Chắc cũng không có gì đâu, chỉ là ông chủ gặp nạn đúng vào hôm cúng trăm ngày của cô chủ. Tôi có chuẩn bị ít vàng mã để đốt cho cô ấy...”
“À, phải, tôi có nghe ông Đường nhắc đến.” Lạc thừa nhận, “Ông ấy còn kể, bà đặt làm một ngôi nhà giấy giống hệt biệt thự Phong Doanh.”
“Cô chủ gắn bó với căn nhà suốt cả cuộc đời, sợ xuống dưới kia ở nhà khác không quen...” Bà Mạt hai mắt đỏ hoe, dường như đang hồi tưởng về tình nghĩa chủ tớ năm xưa.
Thanh nhớ lại hôm đến hiện trường điều tra, căn phòng tràn ngập mùi nhang. Cậu còn tưởng nhà họ theo Phật giáo hoặc Đạo giáo, cứ đến cuối tuần lại thắp hương cúng tổ tiên.
“Không lẽ ông già này định nói mẹ tôi hiện hồn về giết bố tôi?” Liêm thình lình mở miệng.
Câu nói đùa đúng là hơi quá đáng, ông Đường đang định quở trách thì mắt mọi người lại đổ dồn về phía màn hình máy tính. Bởi dấu cộng đang dao động nhịp nhàng quanh đường phân cách.
Tức là “có thể”.
“Hoang đường vãi!” Liêm bật cười. Nhưng ai cũng nhìn ra nét gượng gạo trên khuôn mặt cậu.
“Ý thầy... hung thủ là bà Nhu?”
Dấu cộng không di chuyển nữa, đứng im tại đường phân cách. Không phải YES. Cũng chẳng phải NO. Căn phòng lặng phắc như tờ, không ai hiểu vì sao ông lão từ chối trả lời.
“Ừm... Có phải giống lần trước, thầy đã tìm ra sơ hở nhưng cần thêm bằng chứng không ạ?” Lạc hỏi.
Bíp. Câu trả lời dứt khoát.
“Vậy con tiếp tục diễn giải các tình tiết, rồi thầy đưa ra chỉ dẫn cho con sau nhé?”
Bíp.
Nghe đoạn đối thoại trên, Nghĩa liền ra sức che giấu nỗi bất an trong lòng. Mỗi lần máy tính kêu, anh lại thấy tâm can mình bị đâm một nhát, như thể linh hồn ông lão vừa đứng sau lưng, nay đã chui vào đầu rồi không ngừng đào bới những bí mật mà anh cố sống cố chết chôn vùi.
Mình sắp không chống đỡ được nữa rồi.
“Bây giờ con sẽ thuật lại tình hình hôm xảy ra vụ án.”
Lạc vẫn giữ giọng điềm tĩnh.
“Như đã nói ban đầu, vụ án xảy ra trong khoảng thời gian từ tối thứ Bảy đến rạng sáng Chủ nhật. Theo lời khai của nhân chứng, tối thứ Bảy không có gì bất thường, sáu người vẫn ăn tối tại nhà như những dịp cuối tuần khác. Chỉ hơi đặc biệt ở chỗ mọi người đã chuẩn bị sẵn để ăn xong làm lễ cúng bà Nhu. Nhưng bữa cơm hôm đó... ‘không được ngon miệng cho lắm’.” Câu này trích nguyên văn lời ông Đường nói với Lạc.
“Sau lễ cúng, mọi người về phòng lúc 11 giờ đêm. Ông Đường và bà Mạt ở tầng một. Phòng làm việc của nạn nhân nằm ngay sát phòng ngủ trên tầng hai. Liêm và vợ chồng Nghĩa ở tầng ba. Điểm rắc rối nhất của vụ án này là cả năm người đều không có chứng cứ ngoại phạm. Lúc xảy ra án mạng, ngoài Nghĩa và Thái Đình, ba người còn lại đều tự nhận đang ở trong phòng một mình, cũng không thấy có gì khác lạ. Vợ chồng Nghĩa đáng lẽ có thể làm chứng cho nhau, nhưng cả hai đều nói người kia có thói quen đi vệ sinh lúc nửa đêm, trong lúc mơ màng khó lòng để ý đối phương có ra ngoài không, hay nếu có thì trong bao lâu.”
Lạc dừng một lát rồi tiếp tục, “Nói cách khác, xét về mặt thời gian, năm người này đều có khả năng là hung thủ.”
Đến lính mới như Thanh cũng nhận ra, câu nói của Lạc khiến ai nấy đều khó chịu.
“Quan sát giường đệm cho thấy, nạn nhân bấy giờ vẫn chưa đi ngủ, mà ở nguyên trong phòng làm việc cho đến lúc chết. Tất nhiên, không loại trừ khả năng ban đầu nạn nhân đang ở phòng ngủ hoặc buồng vệ sinh bên trong phòng ngủ, tình cờ sang phòng làm việc rồi chạm trán hung thủ.”
Lạc gãi cằm.
“Chúng con vẫn chưa đưa ra được suy luận hợp lý về thứ tự xuất hiện của nạn nhân và hung thủ, cũng như tương tác giữa hai người, bởi cả căn phòng đã bị xáo trộn, không thể phục dựng. Nhưng có thể xác định danh sách các món đồ vẫn còn nguyên trong két sắt: kim cương và đồ cổ trị giá 8 triệu đô la Mỹ, chứng khoán vô danh trị giá 12 triệu đô la Mỹ, chứng từ cổ phần của bốn doanh nghiệp, bản chính di chúc của nạn nhân và một quyển sổ kế toán cũ của tập đoàn Phong Hải bốn mươi năm về trước, trên đó có chữ kí của nạn nhân.
“Theo lời thư kí Đường, có thể nạn nhân giữ nó lại làm kỉ niệm, vì đây là công việc đầu tiên nạn nhân đảm trách khi lên làm trợ lý riêng cho Du Phong.”
Vẻ mặt mọi người cho thấy, họ biết rõ trong két sắt có những gì. Lúc chuyên viên phá khóa mở két ra, cả Thanh lẫn Lạc đều giật mình trước đống kim cương và giấy tờ có giá bên trong, không ngờ người giàu lại để mấy thứ quý báu như vậy ở nhà. Tin này mà truyền ra ngoài khác nào mời chào lũ đầu trộm đuôi cướp ghé thăm. Số tài sản trên còn đáng giá hơn kho tiền của ngân hàng hay tòa nhà văn phòng của tập đoàn Phong Hải, nhưng độ an toàn của két sắt lại chưa bằng một phần mười.
“Theo suy luận đơn thuần,” Lạc nói, “có khả năng mục tiêu của hung thủ là bản di chúc. Hung thủ lẻn vào phòng làm việc, loay hoay mở két sắt, nạn nhân thình lình xuất hiện, hai người đối chất qua lại, sau đó hung thủ đập bình hoa vào đầu nạn nhân, trói lại rồi dùng súng phóng xiên ép nạn nhân nói ra mật mã. Nạn nhân chống đối nên bị hung thủ giết chết, hoặc cũng có thể do lỡ tay. Để ngụy tạo hiện trường ăn trộm, hung thủ chế dấu vết giả trên cửa sổ, xới tung đồ đạc trong phòng. Vì là trộm giả, nên hung thủ đeo găng tay và thay giày mới để không lưu lại dấu vết, ngăn cảnh sát điều tra ra kẻ gây án là người trong nhà... Có khả năng hung thủ chỉ định trộm thứ mình cần, ngờ đâu bị bắt quả tang giữa chừng nên sự thể mới thành như vậy.”
Lạc lơ đãng nhắc đến “di chúc” như muốn ám chỉ ba người con đáng nghi hơn hai người làm. Nhưng cả ba chưa dại đến mức cướp lời phản bác. Có khi anh đang dụ họ phản ứng lại, giúp ông lão tìm ra sơ hở. Hơn ai hết, Nghĩa thấu hiểu, muốn che đậy tội lỗi thì càng không được gây chú ý.
Lạc nói xong, máy tính liền cho ra đáp án “Tút tút”.
“Không phải ư? Lúc nãy con nói sai chỗ nào ạ?”
“Bíp, bíp, bíp.” Dấu cộng chạy từ đường phân cách đến chữ YES rồi liên tục lặp lại, như thể ông lão đang cau mày, mắng học trò mắc sai lầm nghiêm trọng. Lạc định hỏi rõ, nhưng rồi lại nghiêng đầu vẻ suy tư.
“Hiện trường căn phòng đã đánh lạc hướng điều tra?”
Bíp.
“Vậy con nên để ý đến điều gì? Nạn nhân? Chứng cứ ngoại phạm? Cách thức gây án? Hung khí...”
Bíp.
“Hung khí? Súng phóng xiên?”
Bíp.
Lạc ngẩn người, “Súng phóng xiên... Đúng rồi! Ban nãy con quên mất, trong số năm nghi phạm, chỉ Đường và Nghĩa có kinh nghiệm lặn biển săn cá, từng ra biển với nạn nhân. Ba người còn lại đều không biết cách dùng súng phóng xiên...”
“Khoan đã! Chỉ dựa vào chi tiết đó mà đã khẳng định một trong hai chúng tôi là hung thủ sao?” Ông Đường gắt lên.
Nghĩa im thin thít, con ngươi đảo qua đảo lại giữa thanh tra Lạc và ông Đường.
“Nhưng đây là một trong những điểm mấu chốt.” Lạc bừng tỉnh, “Hung thủ dùng súng phóng xiên giết nạn nhân, chứng tỏ hắn thành thạo loại vũ khí này. Bằng không trong tủ sắt còn có dao lặn, dao thì ai chẳng biết dùng, tại sao phải bỏ dễ lấy khó?”
“Nhưng...” Ông Đường có vẻ nôn nóng.
Tút tút.
Tiếng NO cắt ngang cuộc tranh luận của hai người.
“Thầy có chuyện muốn nói ạ?”
Bíp.
“Thầy muốn chỉ ra hung thủ?”
Tút tút.
Mọi người tròn mắt kinh ngạc. Theo đà này, đáng lẽ ông lão phải chỉ luôn hung thủ mới đúng. Thế nhưng ông lại bất ngờ bảo NO.
Lạc lộ vẻ bối rối.
Ông Đường thấy cứ dò hỏi mông lung thế này cũng khó. Thầy thì muốn nói trò thì không hiểu thầy muốn nói gì. Nếu tiếp tục suy luận đúng/sai như ban đầu thì đơn giản, đây tự nhiên lại bảo “có chuyện muốn nói”, thật không biết đường nào mà lần.
Nhưng Lạc đã nhanh chóng quay lại chủ đề chính, “Điều thầy muốn nói có liên quan đến lập luận của con lúc nãy không?”
Tút tút.
“Liên quan đến nạn nhân?”
Tút tút.
“Năm nghi phạm?”
Tút tút. Không ngờ đáp án cho câu này cũng là NO.
“Thế thì là... chuyện nhà họ Du?”
Bíp.
“Về hiện trường gây án?”
Tút tút.
“Hay tập đoàn Phong Hải?”
Tút tút.
Đến đây, ai nấy đều hoang mang. Ngoài “chuyện nhà họ Du”, tất cả các câu trả lời khác đều là phủ định. Không phải nạn nhân hay nghi phạm, không phải hiện trường, cũng chẳng phải công việc của nạn nhân... Cả năm nghi phạm đều lấy làm lạ.
“Hay là về bà Nhu?” Thanh láu táu chen ngang.
“Bíp, bíp.”
Mọi người quay ra nhìn nhau, không ngờ ông lão lại nhắc đến vợ nạn nhân một lần nữa.
“Thầy vừa YES hai lần...” Lạc nói, “Ngoài chuyện của bà Nhu, thầy còn muốn nói đến Du Vĩnh Lễ nữa đúng không ạ?”
Bíp. Dấu cộng lập tức nhảy lên chữ YES, như reo mừng vì Lạc đã chọn đúng đáp án.
Liêm quát, “Sao cứ bám dai như đỉa thế, người khuất bóng cả rồi!”
Lạc ngẩng đầu lên, thấy nét mặt ai cũng sa sầm. Lúc trước Thanh nhắc đến Lễ, họ đều không thoải mái, như thể cậu đã buông lời xúc phạm. Nhưng lần này, Lạc dễ dàng nhận ra sự thật đằng sau vẻ khó ở ấy. Họ không muốn nói đến Lễ, giống như né tránh thứ gì bẩn thỉu vậy.
Nhưng, biểu cảm của một người làm anh chú ý. Bà Mạt rưng rưng nước mắt, trông rất đau khổ.
“Bà Mạt, có uẩn khúc gì xin cứ nói thẳng. Tôi bảo đảm không kể với người khác.”
Đoán chừng chuyện này liên quan đến bí mật nào đó của nhà họ Du, Lạc nhạy bén cam đoan ngay. Bà Mạt nhìn bốn người còn lại, thấy không ai phản đối mới hít một hơi, rồi chậm rãi nói, “Sếp Lạc, tôi nghĩ chắc chỉ huy Quan đã đoán ra, nhưng tôi vẫn muốn nói... Cậu Lễ không phải con đẻ của ông chủ.”
“Hả?” Lạc kinh ngạc thốt lên.
“Vụ bê bối này đã được nhà họ Du bưng bít.” Bà Mạt cắn răng, “Năm ấy cô chủ trẻ người non dạ, bị người ta làm cho có bầu.”
“Làm cho có bầu cái nỗi gì! Rõ ràng là cưỡng bức!” Ông Đường bất bình cướp lời.
Bà Mạt nhíu mày, liếc nhìn ông Đường với vẻ đau buồn, rồi nói tiếp, “Mùa đông năm 1970... à không, phải là tháng Giêng năm 1971, gần tết âm lịch, cô chủ vừa tròn 17, tài sắc vẹn toàn, nhưng vì trào lưu hippy(11) mà quen một đám bạn chẳng ra sao. Vâng lời cụ chủ, tôi trông chừng cô ấy rất cẩn thận.
“Không ngờ một đêm nọ, cô ấy trốn tôi lẻn ra ngoài. Cả nhà cuống lên tìm khắp nơi, cụ chủ còn đến sở cảnh sát nhờ người quen giúp đỡ. Sáng hôm sau, tôi nhận được điện thoại của cô chủ, nói rằng đang ở một trạm điện thoại trên núi Phi Nga, khóc thút thít nhờ tôi lẳng lặng đến đón, đừng cho cụ chủ biết. Tôi không đi một mình được, đành nhờ anh Bân, hức, tức là ông chủ. Anh Bân cả đêm thức trắng đi tìm vừa trở về, chưa kịp nghỉ ngơi đã phải lái xe đưa tôi đi. Hôm đó ai nấy đều mệt mỏi, cậu Đường cũng không dám chợp mắt, gần như xới tung cả khu Cửu Long lên.”
Bà Mạt kể được một nửa, thì Lạc, Thanh, thậm chí cả Táo cũng đoán ra nửa sau.
“Chúng tôi tìm thấy cô chủ ngồi bên vệ đường, hai tay ôm đầu gối, váy bị xé mất một mảng lớn, trông mà đáng thương... Cô ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở. Tôi đành bảo cô lên xe nghỉ ngơi trước đã.
“Cô chủ kể đang ngồi trong xe nghe nhạc uống rượu với mấy người ‘bạn’, thì có kẻ lấy thứ gì trông như xì gà ra hút, còn rủ rê cô dùng thử. Hít được mấy hơi, cô mụ mẫm dần, trong lúc lơ mơ thấy quần áo mình bị lột ra, tỉnh lại thì đang nằm trong một chòi nghỉ mát của bãi đỗ xe gần núi Phi Nga, quần áo xộc xệch, xung quanh không bóng người... Ôi, nghiệt ngã, đúng là nghiệt ngã...”
“Thứ đó là cần sa phải không?” Thanh hỏi.
“Chắc thế...” Bà Mạt khóc. “Cô chủ bị người lạ cưỡng bức như vậy đấy. Cô van nài tôi đừng cho cụ chủ biết, vì mủi lòng nên tôi đồng ý, còn cố tình về nhà lấy bộ quần áo khác cho cô thay. Cụ chủ tưởng cô chủ trốn nhà đi chơi thâu đêm, nên chỉ mắng một trận rồi thôi. Ai ngờ hai tháng sau rắc rối thành hình... Cô chủ bảo mãi không đến tháng, tôi mới nhận ra sự việc nghiêm trọng nhường nào...”
Thanh nghĩ bụng, thời bấy giờ giáo dục giới tính còn chưa được chú trọng, đúng là tai hại.
“Chuyện này không thể giấu cụ chủ được. Bất ngờ thay, cụ chủ cũng không nổi giận, chỉ ôm vợ và con cùng khóc trong đau đớn. Cụ nhờ người quen làm bác sĩ đến kiểm tra, định để cô chủ phá thai. Nhưng bác sĩ khám xong lại nói, bây giờ phá sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh đẻ sau này.
“Cụ chủ chỉ có mỗi một cô con gái, hai vợ chồng đều đã nhiều tuổi, khó mà có thêm con. Nếu cô chủ vô sinh, nhà họ Du sẽ tuyệt tự. Cụ chủ vẫn luôn canh cánh trong lòng vì mình chỉ có con gái, cảm thấy có lỗi với tổ tông. Rồi tự an ủi rằng, sau này cô chủ có con, đứa trẻ đó tính ra cũng là máu mủ nhà họ Du, cho nó theo họ Du là được. Thế mà ông trời lại muốn cắt đứt lối thoát duy nhất này...”
“Vậy là cụ Du Phong muốn bà Nhu sinh đứa bé đó ra?” Lạc hỏi.
“Cụ chủ không bắt ép, cô chủ tự nguyện đồng ý đấy, nhưng là do bần cùng bất đắc dĩ thôi.” Bà Mạt xót xa đưa khăn chấm mắt, “Bấy giờ nhà họ Du mới phất, chuyện đồn ra ngoài thì có hại cả hai đường công tư, tổn hại danh dự của cụ chủ, ảnh hưởng đến cổ phiếu của công ty. Thời buổi chưa thoáng như bây giờ, mọi người sẽ chê cười cụ chủ không biết dạy con, làm sao quản lý kinh doanh được. Nên chỉ còn cách để cô chủ nhanh chóng kết hôn.”
“Thế ra, ông Đường và ông Bân quả thật là đối tượng được Du Phong chọn làm con rể?”
“Không phải.” Ông Đường nói, “Cụ chủ tuyển chúng tôi vào chỉ vì muốn tìm trợ lý trẻ. Nhưng tiếp xúc lâu ngày, chúng tôi trở nên thân thiết với cô chủ... với Thiên Nhu. Cho nên cụ chủ muốn một trong hai chúng tôi kết hôn với cô ấy.”
Lạc chằm chằm nhìn ông Đường, “Tức là, ông từng có cơ hội trở thành chủ nhân nhà họ Du?”
“Nói thế cũng không sai.”
Ông Đường cười gượng.
“Nhưng tôi đã từ bỏ. Được rồi, tôi thừa nhận mình có cảm tình với Thiên Nhu, nhưng khi biết cô ấy bị cưỡng bức, tôi không nuốt trôi được, càng không muốn nuôi con tu hú. Còn anh Bân... thì rộng lượng hơn, chủ động đứng ra nhận, bảo là đứa bé trong bụng vô tội. Cũng có thể anh mê địa vị và danh vọng nhà họ Du, nhưng dẫu sao, việc sẵn sàng nhận một đứa bé xa lạ làm con, nhận một cô gái thất thân làm vợ, cũng không hề đơn giản trong xã hội bấy giờ. Thế mới thấy anh ấy yêu Thiên Nhu nhường nào. Còn tôi, chắc chẳng bao giờ dũng cảm được như vậy.”
“Ông chủ đối xử với con cái rất tốt.” Bà Mạt nói, “Dù là con đẻ hay không, ông đều yêu thương.”
“Sự cố này cho thấy trình độ y học nơi đây chưa cao, nên mấy năm sau cụ Du Phong đã thành lập bệnh viện Hòa Nhân.” Ông Đường tiếp lời, “Nếu thời ấy kĩ thuật phá thai an toàn hơn, không gây ảnh hưởng đến khả năng sinh đẻ của người mang thai, thì Thiên Nhu đã không phải chịu khổ nhiều như thế, càng không mắc chứng trầm cảm sau sinh.”
“Nói vậy, thói hư thật xấu của Du Vĩnh Lễ đều do thừa hưởng từ tên tội phạm cưỡng bức năm xưa nhỉ?”
Thanh nói thẳng toẹt, chẳng khác nào xát muối lên vết thương của người ta. Có điều không ai phản đối, ông Đường thì chỉ cười nhạt, lắc đầu.
“Phải rồi... thói xấu của Lễ... có lẽ kế thừa từ cha đẻ...”
“Cậu Đường à, cậu chủ có thế nào thì cũng không còn nữa. Đừng nói mấy lời khó nghe như vậy.” Bà Mạt khuyên, dù giọng điệu cũng không cứng rắn mấy.
“Làm sao ông Quan biết chuyện này?” Thái Đình đột ngột hỏi. “Chỉ dựa vào lời khai của chúng tôi ban nãy mà ông biết cả quá khứ của mẹ và anh Lễ sao?”
Bíp. Dấu cộng nhảy lên chữ YES, rồi quay lại dao động quanh đường phân cách.
“Như thế là ý gì?”
“Ý là biết đại khái, còn chi tiết đều nhờ suy đoán.” Lạc trầm ngâm một lúc rồi tiếp, “À phải, Thanh vừa nói Lễ sinh vào tết Trung thu, mất ngày Cá tháng Tư. Theo lời bà Mạt thì ông Bân kết hôn vào tháng Tư năm 1971, cùng năm sinh con đầu lòng. Trung thu rơi vào tầm tháng Chín tháng Mười, sau hôn lễ chưa đầy bảy tháng, bảo sinh non thì cũng hơi quá, mang thai trước khi cưới nghe hợp lý hơn...
Nếu cha đứa trẻ là một trong hai con rể giấm sẵn thì nhiều khả năng là ông Đường, vì theo điều tra, bà Nhu thân với ông Đường hơn. Giả sử ông Bân cưỡng bức bà Nhu khiến bà có bầu thì kể cả khi ép hai người kết hôn, cụ Du Phong cũng sẽ không giao tập đoàn cho ông Bân mà để lại cho Du Vĩnh Lễ trẻ tuổi và nhờ ông Đường dìu dắt. Suy ra, cha đứa trẻ là một người khác nữa.”
Bíp. Máy tính kêu lên, nghe như khen ngợi.
“Còn Lễ...”
Thanh tra Lạc nói đến đây, Nghĩa đột nhiên đứng phắt dậy. Bấy giờ mọi người mới nhận ra mặt anh tái mét, bộ dạng nhãn nhó, đầu vã mồ hôi, trông đầy căng thẳng.
“Anh làm sao thế? Anh khó chịu ở đâu?” Thái Đình lo lắng hỏi han. “Tôi... tôi...” Nghĩa lắp ba lắp bắp, chỉ thốt được hai chữ “tôi”. “Cậu Nghĩa, cậu...”
“Tôi... tôi tự thú. Là tôi giết người.”
Mọi người sửng sốt. Nghĩa hoảng loạn gỡ kính, tay run lẩy bẩy, không ngớt liếc ra sau, cứ như có kẻ vô hình nào đang săm soi anh. Lạc nhìn thẳng vào Nghĩa, hỏi lại, “Cậu vừa nói gì?”
“Tôi bảo, tôi chính là kẻ giết người. Đừng... đừng để ông Quan nói nữa. Tôi sẽ khai hết.” Nghĩa ôm đầu, như thể không chịu nổi sự uy hiếp của ông lão, quá sợ hãi trước viễn cảnh bị vạch tội nên đành tự thú.
“Sao cậu lại giết bố ruột mình!” Bà Mạt lần nữa rơi nước mắt, “Hai bố con tâm đầu ý hợp lắm mà! Cậu bất mãn trong công việc? Hay mắc nợ? Hay là...”
“Không, không, tôi không giết bố... mà là anh cả.”
Câu nói vang ra như quả bom thứ hai, khiến tất thảy thảng thốt.
“Du Vĩnh Lễ? Không phải cậu ấy chết vì tai nạn xe cộ sao? Với lại năm đó cậu... mới có 9 tuổi!” Lời thú tội quá bất ngờ, khiến Lạc không còn giữ được vẻ điềm tĩnh ban đầu.
Nghĩa ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm mặt, “Đúng vậy, tôi giết anh ấy lúc tôi 9 tuổi. Và che giấu bí mật này suốt hơn hai mươi năm qua.”
“Mới 9 tuổi thì cậu giết người kiểu gì?” Lạc hỏi.
“Hôm đó... hôm đó là ngày Cá tháng Tư.”
“Thì sao?”
“Hôm đó... tôi định trêu anh ấy, nên đã nhờ chú Đường tìm giúp... mấy món đồ chơi để dọa người ta.” Giọng Nghĩa run run, “Loại đồ chơi hình lon nước có ga, chỉ cần bật nắp là phần đáy mở ra, rồi một lũ côn trùng làm bằng nhựa dẻo rơi xuống.”
“A! Là nó!” Bà Mạt thốt lên, hẳn cũng từng bị hù dọa.
“Tôi thấy thú vị nên đặt một lon vào xe anh cả...” Nghĩa cắn răng, ngón tay bấu chặt vào da đầu. “Sau vụ tai nạn, tôi nghe có người nói không hiểu sao anh lại rơi xuống vực, vì đường rất rộng, cũng không hiểm trở, tức là phải có thứ gì thình lình xuất hiện khiến anh hoảng hốt trượt tay lái mới xảy ra bất trắc...”
“Thế nên cậu nghĩ rằng anh trai mình đã mở lon nước trong lúc lái xe, khiếp hồn vì đống côn trùng giả, trở tay không kịp nên rơi xuống vực?”
Nghĩa ủ rũ gật đầu. Lạc có vẻ bối rối. Anh không ngờ tự nhiên lại nảy ra một vụ án từ xa xưa.
“Ừm... Cậu Nghĩa, hiện giờ chúng ta đang điều tra cái chết của ông Bân. Vụ tai nạn đó không thuộc quyền hạn của tôi, tạm thời chưa thể làm gì. Tôi không phải quan tòa, không đủ tư cách phán xét tội trạng của cậu. Nhưng theo kinh nghiệm, tôi nghĩ nhiều khả năng vụ việc sẽ được xếp vào tai nạn ngoài ý muốn, và cậu sẽ không bị khởi tố. Chờ giải quyết xong án mạng của ông nhà, chúng ta quay lại bàn cách xử lý, được không?”
Nghĩa ngẩng lên nhìn Lạc, khẽ gật đầu, ánh mắt không khác nào đứa trẻ mắc lỗi.
“Khụ... Đến chuyện này mà thầy cũng biết ạ?” Lạc hỏi.
Bíp. Dấu cộng lập tức nhảy lên chữ YES.
“Có liên quan đến án mạng của ông Bân không ạ?”
Lân này dấu cộng chỉ đứng yên tại đường phân cách.
“Thưa thầy? Việc bà Nhu bị cưỡng bức, sinh ra Lễ, rồi Lễ chết... đều liên quan đến án mạng của ông Bân ạ?”
Dấu cộng dao động quanh đường phân cách. Mọi người đều hiểu ý nghĩa của nó.
“Có thể ư? Phải chăng... thầy nhìn thấy sơ hở và mâu thuẫn trong các chi tiết đã nhắc đến, phát hiện ra điểm khả nghi nên mới cố tình đề cập tới nó để củng cố lập luận?”
Bíp. Viên cảnh sát vừa mê giải đố vừa thích thể hiện khả năng suy luận lập tức đáp YES bằng âm thanh của máy móc.
“Mẹ kiếp! Rõ ràng là lão già chết giẫm này muốn đào khoét vết thương lòng của người ta!” Liêm kích động nhào lên, “Chỉ vì muốn thỏa mãn tính tò mò mà ông ngang nhiên hạ nhục mẹ tôi, để cả đám bu nhau chỉ trỏ bàn tán đầy thành kiến về bà như thế à?”
“Cậu Liêm, xin hãy bình tĩnh.” Lạc giảng hòa. “Tôi thay mặt thầy nói lời xin lỗi, mong mọi người bỏ quá cho. Thầy tôi sẽ không châm chước bất kì điểm đáng ngờ nào, cho nên mới muốn làm rõ tính xác thực của những sự việc trên. Dù sao thầy cũng đã đoán định hung thủ là người nhà họ Du, có thể quá khứ của gia đình liên quan đến án mạng lần này. Tôi nghĩ thầy đã nắm rõ chân tướng, biết hung thủ là...”
Bíp. Không chờ Lạc nói hết, máy tính đã khẳng định luôn. “Ông biết hung thủ là ai rồi ạ?” Thanh mau mắn hỏi.
Bíp.
“Bảo ông ấy nói tên hung thủ đi!” Bà Mạt giục.
“Khoan, tôi muốn xác nhận chứng cứ trước đã.” Lạc từ chối, “Chứng cứ không đầy đủ, chỉ ra hung thủ cũng vô ích. Chẳng may hung thủ viện cớ ngụy biện, quyết không nhận tội, thì tất cả cũng công cốc.”
Bíp. Ông lão đồng tình với học trò. Suy nghĩ này của Lạc vốn học từ ông mà ra. Hồi anh còn trẻ, ông đã dạy đi dạy lại không ít lần: Tìm ra hung thủ có khó gì? Cái khó nằm ở chỗ phải khiến hung thủ ngoan ngoãn nhận tội kia!
“Thầy ơi, trong những thông tin con nói lúc nãy, hung thủ có để lại sơ hở đúng không?”
Bíp.
“Có ạ?” Thanh nói, “Em chỉ thấy một đống manh mối chứ chẳng thấy sơ hở nào. Nạn nhân trước khi chết cũng không gửi gắm thông điệp gì...”
Bíp. Tiếng “bíp” lần này nghe rất vang.
“Thông điệp trước khi chết?” Lạc hỏi.
Bíp. Máy tính khẳng định lần nữa.
“Có sao?” Lạc ngạc nhiên, lật sổ tay loạt soạt, “Là album ảnh ạ? Nhưng chúng con không tìm được bất kì manh mối nào...”
Tút tút.
Mọi người không hiểu NO ở đây là “thông điệp không nằm ở album” hay “không phải album không có manh mối”.
“Thông điệp của nạn nhân nằm ở album ảnh?” Lạc hỏi lại cho chắc. Tút tút. Đáp án là NO.
“Trên xác nạn nhân?” Thanh hỏi.
Tút tút.
“Hay là vết máu?” Thanh chưa bỏ cuộc.
Tút tút.
“Thanh, chúng ta không hề đề cập đến vết máu trên sàn nhà.” “Đúng vậy... Hay là đồ vật trong phòng làm việc?”
Tút tút.
“Không phải ư?” Thanh cả kinh. “Tức là vật chứng nằm ngoài phòng làm việc?”
“Còn hỏi, không ở trong phòng thì tất nhiên là ở ngoài...” Tút tút. Máy tính ngắt lời.
“Hả?” Mọi người tròn mắt ngỡ ngàng.
“Sao lại như vậy?” Liêm nói, “Chỉ có hai khả năng là trong hoặc ngoài phòng, làm gì có thứ nào không ở trong cũng chẳng ở ngoài?”
“Hay là ở cửa?” Ông Đường xen vào.
Tiếng “Tút tút” như muốn nói “Đoán tốt đấy, đáng tiếc không phải”. “Làm gì có thứ nào như thế!” Liêm la ầm lên.
Bíp. Sau một chuỗi phủ nhận, đến giờ màn hình mới hiện lên một câu khẳng định.
“Không có sao?” Lạc trầm tư. “Ý thầy là ‘nạn nhân không gửi gắm bất kì thông điệp nào’?”
Bíp.
“Ông già này đúng là lú lẫn! Ban nãy vừa nói có thông điệp trước khi chết, giờ lại bảo không...” Liêm mỉa mai.
“Không, tôi hiểu ý thầy rồi.” Lạc mỉm cười rạng rỡ, “Thầy muốn nói ‘nạn nhân không gửi gắm thông điệp gì, đó chính là thông điệp rõ ràng nhất’!”
Mọi người nghệt mặt ra nhìn anh.
“Ban đầu, chúng tôi cứ tưởng hung thủ là kẻ trộm. Trong tình huống ấy, nạn nhân chưa từng tiếp xúc với hung thủ nên không biết phải nhắn thế nào, bởi vậy sẽ không có thông điệp. Nhưng sau khi điều tra, chúng tôi phát hiện hung thủ là người thân trong nhà, đáng lẽ nạn nhân phải để lại lời nhắn đơn giản nào đó mới đúng.”
Lạc liếc nhìn ông lão nằm trên giường bệnh.
“Giờ hãy xét đến điều kiện khách quan. Trước hết, liệu nạn nhân có khả năng nhắn nhủ bằng câu chữ rõ ràng không. Nạn nhân bị mũi xiên đâm vào bụng, mất máu nhiều. Kể cả không tìm thấy bút, dùng tay chấm máu viết manh mối về hung thủ vẫn được cơ mà. Tuy có vết trói, nhưng khi chúng tôi phát hiện cái xác thì thấy tay chân không hề bị trói, cử động tự do chứng tỏ thừa sức viết ra thông điệp trước khi chết. Tiếp theo là vấn đề thời gian. Căn cứ vào tình trạng lúc hấp hối, nạn nhân có đủ thì giờ để viết di ngôn. Trên album đầy vân tay dính máu, tức là trước khi chết nạn nhân đã lật nó ra xem. Với những điều kiện thuận lợi như thế, tại sao ông ấy không để lại bất kì gợi ý nào, chẳng phải bất thường sao?”
“Rốt cuộc việc không có lời nhắn nói lên điều gì?” Ông Đường sốt ruột.
“Có khả năng mà không làm, chứng tỏ... ông ấy thà chết cũng không muốn người khác biết hung thủ là ai.”
Suy luận này khiến tất cả im phăng phắc.
“Ý cậu là ông ấy muốn bảo vệ hung thủ?”
Bíp. Máy tính im ắng nãy giờ, đột nhiên “sống lại” vì câu hỏi của ông Đường.
“Có khi nào... thông điệp bị hung thủ xóa mất rồi?” Thái Đình hỏi.
“Hừ... không phải.” Lạc đáp, “Lúc bị thương nặng, nạn nhân không bò về phía cửa ra vào, mà lại lết đến giá sách để lấy album, tức là đã từ bỏ cơ hội kêu cứu. Có khả năng nạn nhân nghĩ mình sắp chết nên thà nằm yên một chỗ, ngụy tạo hiện trường cướp của giết người để bảo vệ hung thủ, chứ không muốn hắn bị bại lộ.”
Anh bất chợt mỉm cười, như thấy rõ sự thật ẩn giữa màn sương mờ mịt, “Tôi đã đoán được đại khái tình hình trước khi vụ án xảy ra. Hung thủ đang nói chuyện với nạn nhân trong phòng làm việc, vì lý do nào đó mà trở nên tức giận, cầm bình hoa đập vào đầu nạn nhân. Hắn tưởng mình lỡ tay giết người nên vội vàng sắp xếp căn phòng cho giống một vụ cướp, lấy dụng cụ cạy tủ súng, tạo dấu vết ở két sắt rồi hất đồ đạc trên giá xuống đất.
“Lúc này, nạn nhân tỉnh lại khiến hung thủ hốt hoảng cầm bình hoa đập tiếp phát nữa. Không biết do sợ bị tố giác hay vì nguyên nhân nào, bấy giờ hung thủ mới thực sự nảy sinh ý định giết người. Hắn trói tay chân nạn nhân bằng băng dính chống thấm rồi lại dùng băng dính tạo dấu vết đột nhập bên ngoài cửa sổ, sau đó mới bóp cò. Tôi đoán hắn lấy băng dính trong tủ để súng, đã có dụng cụ lặn thì có băng dính chống thấm âu cũng là hợp lý.”
Ngừng một lát, anh tiếp, “Bắn xong, hung thủ nghĩ nạn nhân đã chết nên mới tháo băng dính trói chân tay nạn nhân và rời hiện trường. Hắn đâu biết, nạn nhân đã dùng chút sức tàn lết đến giá sách...”
“Khoan đã, tại sao hung thủ nhất thiết phải cởi trói cho nạn nhân?” Thái Đình hỏi.
“Việc này...” Lạc bối rối.
Bíp.
“Thầy có chuyện muốn nói ạ?”
Bíp. Máy tính như muốn đáp “Còn phải hỏi”.
“Về vấn đề mà cô Thái Đình vừa thắc mắc?”
Bíp.
“Có phải hung thủ cố tình cởi trói cho nạn nhân không ạ?” Bíp.
“Hung thủ làm thế là để... đánh lạc hướng?”
Tút tút. Đáp án là NO.
“Để giết hại nạn nhân?”
Tút tút. Vẫn là NO.
“Hay là... hung thủ mắc sai lầm nên buộc phải tháo băng dính?” Bíp.
Lạc đưa tay trái xoa cằm, vẻ trầm tư. Trừ Du Vĩnh Nghĩa đang gục đầu u sầu, bốn nghi phạm còn lại không rời mắt khỏi viên thanh tra, thấp thỏm chờ anh diễn giải suy luận của Quan. Mất một lúc, Lạc mới ngẩng đầu hỏi ông lão nằm trên giường, “Có phải suy luận ban nãy của con chính xác, ngay cả ‘trình tự’ cũng đúng không ạ?”
Bíp.
Lạc cười mỉm, nói với Thái Đình, “Hung thủ mắc sai lầm cơ bản, cho nên buộc phải làm thế.”
“Sai lầm gì?”
“Nhầm thứ tự.”
“Thứ tự gì?”
Lạc đắc ý, “Thứ tự của việc dán băng dính lên kính cửa sổ với việc trói nạn nhân.”
Mọi người nghe xong đều nghi hoặc. Thanh vỡ lẽ đầu tiên, “Đúng rồi, nếu đột nhập từ bên ngoài, phải đập vỡ cửa sổ trước, vào phòng rồi mới trói nạn nhân. Nếu đảo thứ tự, thì khi thu thập chứng cứ, giám định viên sẽ thấy bất thường, đầu băng dính dán ở lớp trong cùng trên cửa sổ sao lại nối tiếp với băng dính trói nạn nhân chứ!”
Giả sử hung thủ dán hai lớp băng dính lên cửa sổ, đánh số là 1 và 2, sau đó cắt tiếp hai đoạn băng dính để trói nạn nhân, gọi là 3 và 4, thì vết cắt của 1 sẽ nối với 2, 2 nối với 3 và 3 nối với 4. Nhưng, nếu hung thủ trói nạn nhân trước rồi mới dán băng dính lên cửa sổ, thì sẽ xuất hiện tình huống mâu thuẫn, vết cắt của băng dính số 1 lại khớp với đầu số 3 hoặc số 4.
“Kĩ thuật thu thập chứng cứ từ băng dính đã được nghiên cứu ở Mỹ từ lâu. Tôi cũng từng đọc một vài báo cáo về kĩ thuật này.” Lạc nói, “Hung thủ ra tay xong mới biết mình phạm sai lầm. Khi đó, hắn chỉ có hai lựa chọn: một là cởi băng dính trói nạn nhân, hai là bóc băng dính trên cửa sổ. Lựa chọn thứ nhất kinh tế hơn, vì nếu theo ngả thứ hai, hung thủ không những phải thủ tiêu băng dính mà còn phải xử lý kính vỡ.”
“Nhưng tôi không thấy hai lựa chọn này khác nhau là bao, cùng lắm là giải quyết thêm mấy mẩu kính vụn thôi.” Liêm phản bác.
“Băng dính có thể thiêu hủy, nhưng thủy tinh thì không.” Lạc nói như thể đã thông suốt mọi chuyện.
“Thiêu hủy?” Bà Mạt hỏi.
“Tôi cho rằng, để ngụy tạo hiện trường vụ cướp, hung thủ phải tính đến vô vàn chi tiết, bao gồm việc phi tang vật chứng.” Lạc trỏ bà Mạt, “Bà đã góp công lớn giúp hắn.”
“Cái gì! Cậu... cậu đừng có vu oan...”
“Tôi chỉ nói bà đã giúp hung thủ chứ không nói bà là hung thủ. Đêm hôm đó, bà đốt một tá vàng mã cho Du Thiên Nhu, làm mùi khói ám khắp nhà.”
“Vậy thì sao... Ồ!” Thái Đình đang định xen vào thì ngưng bặt.
“Hung thủ đốt băng dính, sau đó đổ tro xuống bồn cầu giật nước. Tôi đoán số tiền 200 nghìn cũng bị đốt thành tro trôi theo nước bồn cầu rồi.”
“Ồ!”
“Chính vì thế mà hung thủ lấy tiền mặt, chứ không lấy mấy thứ như nhẫn hay đồng hồ, vì chúng khó xử lý, mang theo người hay cất trong phòng đều dễ bị cảnh sát phát hiện, nhất là hung thủ giết người không phải vì tiền.”
“Rốt cuộc hung thủ là ai?” Thái Đình hỏi.
“Nạn nhân thà chết cũng không muốn tố giác, nên hung thủ hẳn là một trong hai cậu con trai.” Thanh trầm ngâm.
Liêm lại bực mình đứng phắt dậy. Nghĩa vẫn ngồi ôm đầu, có vẻ chưa thoát khỏi nỗi ám ảnh “hại chết anh cả”.
“Chí ít nạn nhân sẽ không vì một bà giúp việc hay một ông thư kí mà hi sinh như vậy.” Lạc bình luận.
Thái Đình đang định cãi lại thì anh đã tiếp tục.
“Và tôi nghĩ một bác sĩ như cô sẽ không ngớ ngẩn đến mức không phân biệt nổi đâu là ngất, đâu là chết, càng không thể bỏ qua dấu hiệu sống sót sau khi dùng súng phóng xiên bắn nạn nhân. Nguyễn Văn Bân mất mạng, một phần cũng vì ông ấy không chịu kêu cứu. Còn hung thủ, cứ tưởng đã giết được nạn nhân, nhưng thực chất mới chỉ ra tay một nửa. Nếu là cô, chắc chắn cô sẽ kiểm tra xem nạn nhân chết hẳn chưa rồi mới rời đi, chứ không có chuyện để nạn nhân còn hơi sức lết đến giá sách mở album ra xem đâu.”
Cho nên, hung thủ chỉ có thể là một trong hai anh em... Ai nấy thầm nghĩ.
“Chắc là Du Vĩnh Nghĩa rồi.” Thanh quả quyết. “Trong hai người, chỉ có anh ta biết dùng súng phóng xiên.”
“Bóp cò súng không hề khó.” Lạc nói.
“Nhưng sếp cũng biết, người thiếu kinh nghiệm không dễ gì kéo dây cao su để lên nòng, sơ sẩy một cái là tự làm mình bị thương ngay.” Thanh phát biểu như chuyên gia, chứ cậu cũng giống thanh tra Lạc, mới bổ sung kiến thức trong một tuần nay, có bao nhiêu vốn liếng đều đem ra dùng hết.
Bíp. Máy tính im lìm nãy giờ bỗng thay ông lão lên tiếng. “Súng phóng xiên? Thầy có ý kiến gì về nó ạ?”
Bíp.
Mọi người vẫn nhớ, ông lão từng hỏi đến súng phóng xiên trước khi đề cập tới chuyện của Du Thiên Nhu và Du Vĩnh Lễ.
“Chúng ta đã bỏ qua chứng cứ rõ ràng nào chăng?”
Bíp. Câu YES này như muốn nói, “Đồ ngốc, mấy người bị mù hay sao?”
Lạc lại giở sổ tay, “Súng phóng xiên thì có vấn đề gì? Nạn nhân bị một mũi xiên dài 115 cm đâm vào bụng, mất quá nhiều máu dẫn đến tử vong, trên mặt đất có một khẩu RGSH115 dài 115 cm, đầu súng khép kín gắn với dây cao su dài 30 cm...”
“Hử?” Không ngờ Nghĩa lại đột nhiên cất lời. Dù chưa hết sầu não, anh vẫn dán mắt vào Lạc với vẻ ngạc nhiên.
“Cậu có ý kiến gì sao?”
“Anh nhắc lại lần nữa được không?”
“Câu tôi vừa nói hả? Nạn nhân bị một mũi xiên dài 115 cm đâm vào bụng dẫn đến tử vong, trên sàn có một khẩu RGSH115, đầu súng khép kín...”
“Khẩu RGSH115 không thể phóng ra mũi xiên đó.” Nghĩa nói chắc nịch. “Vì sao?”
“Độ dài không phù hợp.”
“Thân súng và mũi xiên đều dài 115 cm, chẳng phải vừa khít sao?” Thanh bối rối.
“Thân súng nhất định phải ngắn hơn mũi xiên! Nếu mũi xiên dài 115 cm thì phải dùng súng dài 75 cm mới bắn được.”
“Đúng rồi! Ban nãy tôi cũng thấy là lạ, ra là vì chuyện này.” Ông Đường đồng tình.
Bíp. Máy tính khẳng định.
“Nhưng... thực sự không thể dùng súng dài 115 cm để phóng xiên dài 115 cm à?” Thanh truy hỏi đến cùng.
“Bắn thì bắn được, nhưng riêng khẩu này thì không.” Nghĩa bỗng không giống nghi phạm nữa, mà giống thám tử hơn, “Bởi vì đầu súng là loại khép kín.”
“Thì liên quan gì?”
“Đầu mũi xiên có móc câu, nếu dùng súng đầu mở thì còn tạm bắn được. Chứ với đầu súng khép kín, móc câu khi bắn ra sẽ đi qua miệng súng hình tròn. Các anh có phát hiện vết xước nào trên mũi xiên và đầu súng không?”
Lạc lắc đầu, “Không. Tức là mũi xiên này được bắn bằng một khẩu súng khác?”
“Đúng vậy, nhất định phải là khẩu RGSH075 hoặc RB075.” Bíp.
Nghe thấy tiếng “bíp”, Nghĩa tưởng như ông lão đã tha thứ cho tội lỗi của mình.
“Nói vậy, hung thủ không biết dùng súng nên mới nhầm khẩu 075 với khẩu 115... Liêm à?” Thái Đình nơm nớp lo sợ quay sang nhìn cậu em chồng bên cạnh.
“Vớ vẩn.” Liêm không hề tức giận, chỉ khinh khỉnh đáp trả, “Đã không biết dùng thì tôi lên nòng để bắn kiểu gì? Còn nếu tôi biết dùng, những người khác cũng có thể nhầm hai loại với nhau. Xét từ góc độ này, tôi mới là người trong sạch nhất.”
Lạc không lên tiếng, chỉ gãi gãi cằm, chăm chú nhìn Liêm như muốn tìm sơ hở.
Tút tút.
“Thầy vừa nói ‘không phải’ ạ?” Lạc hỏi, “Thầy muốn phản bác Liêm, chỉ ra cậu ấy là hung thủ?”
Bíp.
Tiếng “bíp” dứt khoát như thể ông lão bật dậy khỏi giường bệnh, chỉ thẳng vào Liêm mà nói đầy khí thế, “Đừng ngụy biện nữa, cậu chính là hung thủ!”
Liêm chột dạ, nhưng ngay lập tức lấy lại bình tĩnh, “Được, để xem ông có bằng chứng gì!”
“Thầy ơi, có bằng chứng không ạ?”
Bíp. Ông cảnh sát già nhẹ nhàng bảo YES, không khác nào đang đối chất với hung thủ.
“Nhưng ban nãy cậu ấy nói cũng có lý. Nếu không biết dùng thì làm sao lên cò súng rồi giết người?”
“Tút tút. Bíp.”
“Liêm không lên nòng nhưng vẫn dùng nó để giết người?” Bíp.
“Nếu cậu ấy không lên nòng... A!” Lạc kêu lên. “Là nạn nhân tự lên! Ông Đường có nói, thỉnh thoảng nạn nhân lấy súng ra ngắm chơi trong phòng, tối hôm đó cũng thế!”
Bíp. Ông lão xác nhận YES.
“Vậy thì vết cạy ở tủ để súng cũng là ngụy tạo! Cái tủ vốn không khóa, là do Liêm cố tình dàn cảnh như thế thôi. Băng dính chống thấm và găng tay đã được lấy ngay từ đầu, có thể dụng cụ mở khóa cũng lôi từ trong tủ
ra. Liêm không dùng dao vì sợ dính máu nạn nhân, với lại dùng vũ khí mình không thông thạo sẽ giúp cậu ấy bớt bị nghi ngờ!”
Bíp.
“Tức là, nạn nhân đang ngắm súng, ôn lại kỉ niệm xưa trong phòng, Liêm thình lình bước vào. Hai người nói chuyện được một lúc thì xảy ra tranh cãi, tiếp theo là màn tấn công bằng bình hoa, dựng hiện trường giả, dùng súng giết người... Khoan đã, tại sao hung thủ đánh tráo hung khí? Hắn phải đeo găng tay trước khi bắn rồi chứ...”
“Bíp, bíp, bíp, bíp...” Máy tính kêu YES liên hồi, dấu cộng liên tục di chuyển từ đường phân cách đến mép trên màn hình, nhanh như trong trò chơi điện tử. Mọi người đều hiểu một loạt tiếng “bíp” nghĩa là “Mấu chốt nằm ở chính chỗ này”.
Lạc ngẩng phắt lên, trỏ tay vào Liêm, mắt diều hâu sắc bén, “Cậu đánh tráo hai khẩu súng với nhau vì cậu buộc phải làm thế. Cậu đã để lại chứng cứ phạm tội trên hung khí thực sự!”
Liêm tái mặt, nhưng vẫn đứng thẳng người, đối diện với ngón tay đang chĩa vào mình của viên thanh tra.
“Cậu bắn nạn nhân bằng khẩu RGSH075, do không thạo dùng súng nên chỉ bắn trúng phần bụng. Cậu muốn bồi thêm phát nữa, nhưng lại không biết lên nòng. Việc kéo ống cao su đòi hỏi kĩ thuật tương đối cao, đầu tiên phải chống báng súng vào ngực, sau đó hai tay đồng thời nắm chặt dây để kéo lên.
“Nếu không biết cách làm, khi thao tác dễ bị thương. Cậu sợ giám định viên phát hiện ra ADN trên hung khí, lại thêm tưởng nhầm nạn nhân đã chết, nên quyết định dừng tay, tập trung giải quyết nguy cơ trước mắt. Cậu muốn dùng khẩu RB075 cùng độ dài để đánh tráo, nhưng khẩu súng đó lại
bị tháo rời, cậu không biết cách lắp nên đành dùng RGSH115 để thế vào, không ngờ có sự khác biệt về độ dài của xiên và loại đầu súng khép kín. Phòng Giám định không động đến đồ vật không liên quan tới vụ án, nhưng giờ đây chúng tôi đã biết đâu là hung khí thực sự rồi, nên sẽ...”
Nhanh như chớp, Liêm hành động như bao thủ phạm khác: chạy trốn. Cậu vọt qua anh trai và chị dâu ngồi bên cạnh, lao thẳng ra cửa, túm lấy tay nắm.
Nhưng vô ích. Thấy Liêm bỏ chạy, Thanh phản ứng ngay tức thì, hai tay túm chặt cậu từ phía sau, ấn xuống sàn nhà.
“Cậu tưởng tôi gà mờ, không lường trước khả năng hung thủ bỏ chạy à? Tôi đã dặn Thanh khóa cửa từ lâu rồi.” Lạc nói.
Mọi người nhìn ra cửa, thấy núm vặn trên khóa nằm xoay ngang.
Thanh ghì chặt Liêm rồi còng tay vào. Nghĩa, Thái Đình và ông Đường đều đứng dậy, để một mình cậu ngồi trên sofa. Bà Mạt muốn hỏi lý do khiến cậu giết bố, nhưng cứ nghĩ cô chủ mà lại có đứa con đốn mạt nhường này, liền nghẹn ngào nói không nên lời.
“Liêm, tại sao cậu giết ông Bân?” Lạc hỏi.
“Hừ!” Liêm không thèm đáp.
“Vừa rồi cậu bỏ chạy là đã gián tiếp nhận tội. Giám định viên cũng sẽ nhanh chóng tìm thấy ADN của cậu trên hung khí. Cậu có quyền im lặng, những gì cậu nói sẽ trở thành bằng chứng trước tòa(12)... Nhưng thiết nghĩ, nếu cậu không chịu bộc bạch, người nhà sẽ không hiểu được lý do cho hành động của cậu đâu.”
Liêm thốt lên, “Tôi... tôi muốn làm nhiếp ảnh gia.”
“Thì sao?”
“Ông già không ưng thuận, nên chúng tôi cãi nhau, rồi tôi đánh ông ấy. Sau đó thế nào anh cũng đoán được mà.”
Bà Mạt không kìm nén nổi nữa, “Chỉ vì lý do đó?”
“Đúng. Với lại, ông ấy chết rồi, anh hai lên làm chủ tịch sẽ không bắt tôi vào tập đoàn. Vừa được thừa kế tài sản, vừa có thể tập trung làm nhiếp ảnh gia, một công đôi việc, đúng là quá tốt.”
Chát! Bà Mạt tát Liêm. “Lý... lý do vớ vẩn, cô chủ dưới suối vàng mà biết làm sao siêu thoát!”
Hự! Liêm không đáp, chỉ cúi đầu tránh ánh mắt bà Mạt.
“Cuối cùng vụ án cũng khép lại. Cảm ơn mọi người đã tham gia buổi điều tra hôm nay. Thầy cũng vất vả rồi.” Lạc vẫn ngồi bên cạnh giường, “Thanh, tắt máy quay đi. Táo, em thu dọn máy tính được rồi đấy.”
Tút tút.
Tất cả quay về phía màn hình, dấu cộng đang chỉ vào NO. “Thầy ơi, sao thế ạ?”
Tút tút.
Không khí ngờ vực bủa vây khắp phòng, rồi đổ dồn về tâm điểm là chiếc máy tính. Tiếng tút tút nặng nề liên tục phát ra như muốn truyền đạt điều gì.
“Thầy nói là... vụ án này vẫn chưa kết thúc?”
Bíp.
Mọi người nhìn màn hình máy tính với vẻ nghi hoặc. Nghĩa hoảng sợ nghĩ, lẽ nào ông lão muốn truy cứu chuyện ngộ sát anh trai. Lạc cau mày, “Vẫn chưa xong ư? Con đã bỏ sót điều gì sao?”
Dấu cộng chẳng hề nhúc nhích.
“Thầy ơi?”
Máy tính vẫn im lặng.
Tinh! Bỗng dưng, góc dưới màn hình hiện lên hộp thoại với dòng chữ “ERROR::Interface Linkage Exception/ Address: oxoo4D78F9”, bên cạnh có dấu chấm than đỏ chót, phía dưới là hàng tràng kí tự không ai hiểu nổi.
“Sao thế Táo?” Lạc hỏi.
“Ấy, lỗi rồi.” Táo lại cắm cúi vào một màn hình khác, “Để em xem thử.” “Mất bao lâu mới sửa xong?”
“Nhanh thì nửa tiếng, chậm thì... nửa ngày. Em nghĩ là lỗi phần cứng, phải về nhà lấy dụng cụ mới sửa được.”
Lạc lúng túng, hết nhìn mọi người lại nhìn thầy, “Vậy hôm nay đến đây thôi, trời cũng sắp tối rồi. Táo, phiền em về sửa lại hệ thống, sáng mai vào đây với anh, hỏi xem thầy còn muốn nói gì... Có khi lúc ấy thầy tỉnh rồi, sẽ tự mình giải thích cho chúng ta cũng nên.” Anh quay sang bốn người kia, “Tôi sẽ liên lạc với các vị sau.”
Bên ngoài, ráng chiều đã nhuộm đỏ rực cả vịnh biển xanh tự bao giờ. Thanh thu dọn máy quay xong thì áp giải Liêm đi. Táo chỉ xách về một máy tính, hai chiếc còn lại và đống dây điện lằng nhằng vẫn để nguyên. Nghĩa, Thái Đình, ông Đường và bà Mạt đều đang ở ngoài cửa. Thanh tra Lạc đứng bên giường, nhìn Quan Chấn Đạc bằng ánh mắt đầy yêu thương và kính trọng, đoạn cầm tay ông nói, “Thầy ơi, con đi đây. Con sẽ tiếp nối chí hướng của thầy, tiếp tục nỗ lực phá án.”
Khóe môi ông lão khẽ nhếch lên. Nhưng Lạc biết, đây chỉ là ảo giác dưới nắng.
9 giờ sáng hôm sau.
Khi thanh tra Lạc và Thanh đến cổng biệt thự nhà họ Du, một đám đông phóng viên đang chầu chực ở đó. Hay tin Liêm bị bắt, họ ráo riết cắm chốt hòng moi tin độc quyền. Thấy xe cảnh sát phóng vào sân, họ cũng lũ lượt chạy theo, nhưng đều bị nhân viên an ninh tạm thời của nhà họ Du cản lại, nên đành nhìn ngó qua song cửa.
“Sếp Lạc, chào buổi sáng.” Bà Mạt ra mở cửa. Hai mắt bà nổi đầy tia máu, trông là biết tối qua ngủ không ngon.
“Chào bà.” Lạc cũng rất tiều tụy, hẳn là mệt mỏi vì công việc. “Những người khác có nhà không?”
“Đều ở nhà cả.” Bà Mạt đang trả lời, Nghĩa và ông Đường đã ra tới tiền sảnh. Hôm nay là Chủ nhật, họ không phải đi làm. “Vì cái thằng bất hiếu đó mà tối qua cậu Đường phải chạy đôn chạy đáo tìm luật sư, cậu Nghĩa thì gọi điện thoại suốt đêm. Không ai được ngủ tử tế...”
“Vợ tôi đang ở trong phòng... Sếp Lạc, anh đến vì chuyện của tôi sao?” Nghĩa hỏi. Bí mật chôn giấu suốt hai mươi năm ròng cuối cùng cũng được thổ lộ hết vào hôm qua. Dù gia đình gặp biến cố lớn, Nghĩa vẫn thấy nhẹ nhõm, chí ít là thanh thản hơn thường ngày. Lỗi lầm hại chết anh cả khiến anh biến thành con người khác, từ năm 9 tuổi đã phải sống trong thấp thỏm lo âu. Vì thế mà anh nỗ lực học tập, rồi trở nên nghiêm túc cẩn trọng như ngày hôm nay.
“Không phải, chuyện đó chúng ta sẽ bàn sau.” Lạc quay sang nói với ông Đường bằng giọng nghiêm túc, “Ông Vương Quán Đường, cảnh sát nghi ngờ ông liên quan đến một vụ mưu sát, quyết định bắt giữ trong hôm nay. Mời ông theo chúng tôi về sở cảnh sát để điều tra. Ông có quyền giữ
im lặng, nhưng tất cả những điều ông nói đều sẽ được ghi lại và trở thành bằng chứng trước tòa.”
Nghe thông báo chính thức, cả ba sửng sốt. Nghĩa và bà Mạt lập tức dán mắt vào ông Đường.
“Hung... hung thủ không phải thằng Liêm, mà là... chú Đường?” Khó khăn lắm Nghĩa mới nói được một câu hoàn chỉnh. Nhưng Lạc không trả lời.
Ông Đường thoạt tiên ngạc nhiên, rồi dần bình tĩnh, khẽ cau mày hỏi, “Tôi... mặc thêm áo khoác được chứ?”
Lạc nhìn cây treo áo đặt ở ngay tiền sảnh, gật đầu. Anh đợi người đàn ông già mặc áo khoác xong mới còng tay ông lại.
“Có khi Liêm nói linh tinh ở sở cảnh sát, muốn làm người khác liên lụy... Mọi người đừng lo.” Trước khi đi, ông Đường còn trấn an bà Mạt và Nghĩa vẫn đang đứng sững tại chỗ.
Ba người lên xe, rời khỏi nhà họ Du. Ra đến cổng, ánh đèn flash lóe lên như chớp, phóng viên thi nhau chụp hình ông Đường và thanh tra Lạc ngồi băng ghế sau qua lớp kính cửa sổ. Xe chạy dọc theo đường lớn, đi về phía Sở cảnh sát Đông Cửu Long ở Tướng Quân Áo.
Cả ba nín lặng. Thanh liên tục nhìn trộm thanh tra Lạc và ông Đường qua kính chiếu hậu, nhưng mặt hai người lạnh tanh, chẳng để lộ chút cảm xúc nào. Ông Đường hết sức điềm tĩnh, như thể vẻ ngạc nhiên ban nãy chỉ là giả tạo.
“Ông xúi Liêm giết ông Bân đúng không?” Cuối cùng Lạc lên tiếng.
“Liêm nói thế à?” Ông Đường chẳng buồn quay đầu sang, mắt vẫn nhìn thẳng phía trước.
“Không. Sau khi về sở, cậu ấy không nói năng gì, ngay cả luật sư do các ông mời tới cũng không thể khiến cậu ấy mở miệng.” Lạc rủa thầm, biết tỏng còn làm trò, tay luật sư thể nào chả báo cáo ông rồi.
“Vậy tại sao cậu lại cho rằng tôi xui Liêm giết người?” Ông Đường ung dung vặn lại.
“Động cơ cậu ấy đưa ra không có tính thuyết phục.” Lạc nói, “Chỉ vì muốn làm nhiếp ảnh gia mà giết chết bố mình? Quá nực cười. Bảo lỡ tay còn chấp nhận được, đằng này lấy bình hoa đập nạn nhân hai lần, còn dùng cả súng, không thể coi là hành động vì nông nổi.”
“Cậu cho rằng hung thủ không phải Liêm?”
“Không, kẻ ra tay đúng là cậu ấy. Kết quả khám nghiệm ADN cho thấy có vết máu của Liêm dính trên hung khí thực sự. Vì không biết cách lên nòng, cậu ấy bị móc cài ống cao su cứa vào cổ tay trái, làm rơi một giọt máu xuống mặt trong của rãnh cài xiên. Có lẽ cậu ấy đã lau đi, nhưng dù mắt thường không nhìn thấy, cảnh sát vẫn có cách lấy được chứng cứ.”
“Vậy thì đúng là Liêm rồi.”
“Nếu quả thật chỉ là tranh cãi định hướng tương lai, dù vô tình làm bố bị thương, cũng không thể phát triển thành án mạng. Lỡ tay đánh ngất bố trong lúc kích động, tưởng lầm mình đã giết người nên dựng hiện trường thành vụ cướp, diễn biến như vậy còn dễ hiểu. Nhưng thấy bố tỉnh lại mà vẫn tấn công lần nữa, thậm chí còn dùng súng bắn chết ông ấy thì rõ ràng là đã đi quá xa.
“Đây không phải vụ giết người có chủ đích, vì hiện trường giả lộ đầy sơ hở. Nhưng cách ra tay lại quá tàn độc, cứ như phải lấy mạng nạn nhân bằng được. Tôi cho rằng, mấu chốt là hung thủ có thù oán lớn với nạn nhân
nhưng vẫn luôn kìm nén, giờ chỉ vì đôi co với nhau mà cơn giận bùng nổ, sự việc mới thành ra không thể cứu vãn.”
“Nói thế nào thì cũng là vấn đề cá nhân của Liêm.”
“Có điều này tôi nghĩ mãi không thông. Một thanh niên 24 tuổi thì hận thù sâu sắc gì với bố ruột? Thông thường, các vụ giết cha mẹ đều do hung thủ và nạn nhân ghét bỏ nhau từ lâu, quan trọng nhất là hung thủ từ nhỏ đã không cảm nhận được hơi ấm gia đình.
“Liêm khác họ ở chỗ, quan hệ giữa cậu ấy và mẹ luôn hòa hợp, lời nói cử chỉ cho thấy rõ điều này. Kể cả khi bất mãn với bố, cậu ấy cũng không thể ra tay giết người như đám thanh thiếu niên dễ kích động kia.
“Trên thực tế, hầu hết các vụ giết cha đều bắt nguồn từ chuyện tiền nong. Ví dụ, đứa con lông bông không nghề ngỗng vòi tiền bố không được, tranh cãi nảy lửa dẫn đến đánh nhau, cuối cùng thành giết người. Liêm ăn mặc sành điệu nên có lẽ không gặp khó khăn về tiền bạc, huống hồ ông Bân còn chu cấp đầy đủ cho cậu ấy học đại học. Giữa hai bố con họ khó mà nung nấu thù oán lớn đến nỗi thôi thúc Liêm giết người.”
“Bân chỉ làm tròn trách nhiệm về mặt tài chính chứ chưa bao giờ là một người bố tốt. Hắn chỉ quan tâm đến tiền bạc, quyền lực, danh vọng và địa vị. Hắn thích Nghĩa cũng vì biết nó có khả năng công thành danh toại trong giới thương nhân.”
Thấy ông Đường không gọi “anh” nữa mà gọi “hắn”, Lạc lập tức hiểu ra người đàn ông này thực chất vẫn luôn khinh thường nạn nhân.
“Dù ông Bân có thờ ơ tới đâu, tôi cũng không tin Liêm giết người vì lý do đó. Đằng sau vụ án ắt phải có nguyên nhân sâu xa hơn.”
“Đây là suy luận của ông cảnh sát đang hôn mê kia à?”
“Không, là suy luận của riêng tôi.” Lạc mỉm cười, có vẻ không hợp với đôi mắt mệt mỏi cho lắm.
“Và cậu cho rằng tôi chính là nguyên nhân ‘sâu xa hơn’ đó?” “Đúng.”
“Sếp Lạc, cậu đánh giá tôi cao quá.” Ông Đường cười giả tạo, biểu cảm cứng đờ như đang đeo mặt nạ. “Tôi chỉ là một thư kí nhỏ nhoi...”
“Nhưng ông đã ở nhà họ Du từ lâu.”
“Thì sao?”
“Trực giác mách bảo tôi, ông chính là nhân vật trung tâm của vụ án này.” Lạc nói, “Ông còn nhớ tuần trước, khi ông đến sở cảnh sát lấy lời khai, tôi từng hỏi ‘Giả sử hung thủ không phải kẻ trộm, ông nghĩ đó là ai’ không?”
“Có, tôi vẫn nhớ.”
“Ông trả lời rằng, trong nhà họ Du, người bất hòa nhất với nạn nhân là Liêm, nhưng cậu ấy sẽ không đời nào giết bố ruột của mình.”
Ông Đường nhún vai, “Chứng tỏ tôi đã nhìn nhầm người.” “Ông có biết những người khác trả lời thế nào không?”
“Thế nào?”
“Liêm đáp ‘Không biết’, nhưng ba người còn lại đưa ra ba cái tên khác nhau, đều liên quan đến những công ty bị tập đoàn Phong Hải chèn ép, thu mua.”
“Ồ?” Ông Đường hơi ngẩn ra.
“Câu hỏi của tôi là ‘Kẻ nào đã hại ông Bân’, họ lập tức nghĩ đế đối thủ của nạn nhân trên thương trường. Không thể có chuyện Cá mập Phong Hải
không có kẻ thù. Với phong cách làm việc cứng rắn, chắc hẳn không ít người trong giới kinh doanh muốn ông ấy biến mất.”
Lạc bình thản nói.
“Nhưng ông, là thư kí, lại không nêu ra mấy cái tên như thế, mà đi giải thích Liêm không phải hung thủ. Tôi không tin ông lỡ lời hay nhất thời không nhớ ra đám đối thủ kinh doanh. Chẳng qua ông đã tự cho rằng phạm vi câu hỏi của tôi chỉ gói gọn trong các thành viên nhà họ Du. Một khi đã nghĩ thế, thì dù không phải hung thủ hay chủ mưu, ông cũng biết sự tình đằng sau vụ án, thậm chí còn nhúng tay vào.”
“Ý tưởng thú vị đấy.” Ông Đường thản nhiên đáp, “Nhưng đó chỉ là suy nghĩ chủ quan, không có bằng chứng.”
“Đúng, không có bằng chứng.” Lạc cười nhạt, “Chỉ là trực giác mà thôi. Và nếu đơn thuần dựa vào trực giác, tôi còn có một phỏng đoán táo bạo hơn.”
“Phỏng đoán gì?”
“Liêm không phải con ông Bân, mà là con ông.”
“Ha!” Ông Đường bật cười, “Đúng là ý nghĩ mới lạ. Cậu nói tôi nghe xem nào.”
“Nếu bà Nhu ngoại tình với ông và đẻ ra Liêm, những tình tiết khó hiểu lập tức sáng tỏ gần hết. Tại sao Liêm có quan hệ không tốt với ông Bân? Tại sao một mực khai rằng mình giết ông ta vì muốn làm nhiếp ảnh gia? Chỉ cần thêm lý do, ‘Cậu ấy phẫn uất khi bố mẹ mình bị ông Bân khống chế, mẹ ấm ức qua đời, nên hai bố con quyết định báo thù,’ là mọi chuyện sẽ hợp lý hơn nhiều.”
“Giả thuyết này đúng là không tưởng, nghe cứ như kịch bản vớ vẩn của mấy cái phim truyền hình giờ vàng vậy.”
“Chẳng phải cuộc đời đầy rẫy chuyện không tưởng như thế sao? Tôi vẫn còn vài bằng chứng nữa.” Lạc nói, “Đầu tiên, thái độ của ông đối với hai anh em nhà họ Du rất khác biệt. Ông khách sáo gọi Nghĩa là ‘cậu chủ’, còn Liêm thì kêu thẳng tên, cũng không ngại khiển trách cậu ấy trước mặt người ngoài. Liêm dám cãi cả anh trai, không coi ai ra gì, nhưng lại im bặt khi bị ông trách mắng, chẳng phải kì lạ sao? Ông chỉ là thư kí riêng của bố cậu ấy, sao lại được tôn trọng đặc biệt như vậy? Kể cả khi ông thuộc hàng cha chú, có công với nhà họ Du nhiều năm nay, cậu ấy cũng không nhất thiết phải ngoan ngoãn nghe lời đến thế.”
“Cũng có lý, nhưng vẫn thiếu sức thuyết phục.” Ông Đường cười nói, “Thử nghĩ xem, nếu tôi ngoại tình với Thiên Nhu, sinh ra Liêm, nhưng lại giấu Bân để hắn nuôi con mình, thì chẳng phải tôi đã báo thù được rồi sao? Giết chóc đúng là việc thừa thãi.”
“Hừm...” Lạc có vẻ lúng túng, không tìm được lời nào để phản bác. “Sếp Lạc, giả thuyết của cậu quá hoang đường.”
Ông Đường thu lại nụ cười.
“Có điều, dựa trên ý tưởng đó, tôi sẽ đưa ra một giả thuyết còn hoang đường hơn. Tất nhiên, đây chỉ là giả thuyết vô căn cứ, dù cậu ghi âm lại, luật sư vẫn có thể lấy lý do ‘suy đoán chủ quan’ để khiến nó vô nghĩa trước tòa. Cậu có muốn nghe không?”
“Mời ông.”
“Đầu tiên, nếu là chủ mưu, tôi sẽ không xúi giục Liêm giết Bân.” Ông Đường khoác lên mình bộ mặt bí hiểm, “Xúi kẻ khác phạm tội là cách làm ngu xuẩn tột cùng. Muốn khiến một kẻ ra tay, đơn giản nhất là tạo ra môi trường, gieo rắc hạt giống thù hận, để nó từ từ nhú mầm. Đến một lúc nào
đó, khi hận thù hóa ra ham muốn giết người, chỉ cần gặp thời cơ, người bình thường cũng sẽ biến thành sát nhân. Tất nhiên, tôi chỉ nói bừa thôi.”
“Được, đều là giả thuyết. Ông nói tiếp đi.”
“Tiếp theo là tính chất của thù hận. Giả sử lòng căm hận của Liêm là do tôi ‘nuôi dưỡng’, tôi phải có lý do phù hợp để truyền mối hận này cho... khụ, con mình. Ban nãy cậu đặt giả thuyết Liêm là con tôi. Đây chỉ là hoàn cảnh bất khả kháng, không thể biến thành động cơ. Cậu nên nghiền ngẫm kĩ hơn từ đâu mà Liêm lại căm hận đến mức muốn giết người.”
Ông Đường ngừng một lát, hai mắt như đang nhìn về chân trời xa xăm.
“Chẳng hạn, thấy người mình yêu quý suy sụp đến mức không thể chữa lành. Sếp Lạc, cậu cũng biết, yêu và hận là hai mặt cùng tồn tại mà. Muốn một người căm hận người khác, cách tối ưu là làm nó tin rằng kẻ kia đã gây tổn thương cho người nó rất mực yêu quý.”
“Rất mực yêu quý?”
“Ví dụ như mẹ.”
“Tổn thương kiểu gì?”
“Tỉ như... Lễ là con đẻ của Bân.”
“Con đẻ? Nhưng...”
“Giả dụ kẻ cưỡng bức Thiên Nhu là Bân thì sao?”
Không khí trong xe đột nhiên đông cứng.
“Giả sử, chỉ là giả sử thôi.”
Ông Đường giơ bàn tay đeo còng lên vén mái tóc bạc lơ thơ.
“Bân đố kị với mối quan hệ gần gũi giữa người đồng nghiệp trẻ tuổi và con gái rượu của ông chủ, thấy cơ hội làm phò mã sắp tuột khỏi tay, hắn
liền vạch ra một kế hoạch đê tiện bẩn thỉu. Hắn lấy tiền công quỹ thuê một đám côn đồ, tạo cơ hội để mình tiếp cận Thiên Nhu, trong một lần tụ tập bảo bọn chúng dùng rượu với cần sa làm Thiên Nhu hôn mê, sau đó đích thân cưỡng bức. Hắn biết Thiên Nhu nhát gan sẽ không dám thú thật với bố mẹ, mà chỉ nhờ Mạt giấu giếm cho qua chuyện.
“Tình huống tốt nhất là Thiên Nhu mang thai, cụ Du Phong buộc phải tìm người kết hôn với cô ấy, tôi ngần ngừ vì vụ ăn ốc đổ vỏ, Bân sẽ thừa cơ nhảy vào, cứ thế có đà tiếp quản tập đoàn Phong Hải. Tình huống xấu hơn một chút là Thiên Nhu sảy thai, nhưng dầu sao vẫn là ngọc có vết, Bân vờ rộng lượng thân thiết là đủ để cạnh tranh với tôi. Tình huống xấu nhất là Thiên Nhu không mang thai, sau đó kết hôn với một trong hai chúng tôi. Kể cả như thế, Bân cũng không chịu tổn thất gì, ngược lại còn được thỏa mãn dục vọng, giải tỏa ganh ghét.”
Lạc choáng váng, “Giả... giả thuyết này hợp lý. Nhưng trong trường hợp đó, ông đâu thể biết sự thật.”
“Có chứ, chẳng hạn vì công việc mà phải va chạm với xã hội đen, nghe được mấy lời đồn đại trong thế giới ngầm hơn mười năm trước.” Ông Đường cười trừ, “Cá mập Phong Hải kinh doanh không từ thủ đoạn, đôi lúc còn lấy ‘đen’ trị ‘đen’. Phận thư kí như tôi dĩ nhiên có cơ hội tiếp xúc với lũ người đó. Không ngờ trái đất tròn, tên đàn em từng tiếp tay cho Bân cưỡng bức Thiên Nhu năm xưa nay đã trở thành đại ca giang hồ, trong một lần uống rượu với tôi đã lỡ miệng tiết lộ vì nghĩ tôi là thân tín của Bân.”
“Vì bị cướp đoạt quyền lực và địa vị, ông xui con trai giết ông Bân để trả thù sao?”
“Sếp Lạc, tôi nói rồi, chỉ là giả thuyết thôi. Dù tôi báo thù vì bị cướp mất quyền lực hay do căm hận hành vi bỉ ổi của Bân với Thiên Nhu, đến giờ phút này đều không quan trọng nữa. Chưa kể, nhỡ đâu tôi quyết định
trả đũa chỉ vì bị anh em tốt bán đứng, bị coi là quân cờ suốt mười năm ròng thì sao?”
Tuy chỉ chớp nhoáng, nhưng Lạc vẫn nhận thấy ánh mắt cực kì khác thường của ông Đường, trong căm hận lại lẫn xót xa. Anh nói, “Thế thì đòn trả đũa khí muộn, đã hơn bốn mươi năm rồi...”
“Trong giả thuyết này, việc báo thù đã nhen nhóm từ lâu. Trả đũa không đồng nghĩa với giết người. Khiến kẻ thù đau khổ đến mức không thiết sống, trong lòng mới càng thỏa thuê.”
Lạc chằm chằm nhìn ông Đường. Anh biết “giả thuyết” của ông ta thực chất chính là lời “tự thú”. Đã dám nói ra, chứng tỏ ông ta thừa biết việc tìm kiếm bằng chứng là vô vọng.
“Ví dụ?”
“Cho thằng con hoang kia tiêu đời.”
Lạc nghĩ đến Lễ, “Không phải cậu ấy chết vì tai nạn xe cộ sao?”
“Tai nạn xe cộ cũng có thể do con người tạo ra. Chỉ cần tác động đôi chút vào vô lăng, chân ga hay phanh, là đủ gây nguy hiểm chết người cho một thanh niên hư hỏng thích đua xe tìm cảm giác mạnh. Đáng tiếc, chiếc xe đã bị phá hủy, sự việc coi như là tai nạn ngoài ý muốn, thế nên đây chỉ là ‘giả thuyết’ mà thôi.”
“Ông không sợ bà Nhu đau buồn sao?”
“Không đâu. Đối với cô ấy, Bân là người chồng vị tha đã chấp nhận mình, còn Lễ là đứa con mà kẻ cưỡng bức dúi vào tay. Nếu Bân chết, cô ấy sẽ buồn khổ. Còn Lễ chết ư, chỉ có Bân đau đớn thôi, vì hắn biết rõ sự thật mà. Hơn nữa, hắn lại không thể thổ lộ với ai, còn phải che giấu nỗi lòng trước mặt người nhà. Chậc, đúng là đáng đời.”
“Tại sao phải chờ đến lúc Lễ gần hai mươi tuổi mới ra tay? Theo giả thuyết ông nói lúc nãy, chẳng phải mười năm sau vụ hippy ông đã biết chân tướng qua dân anh chị rồi sao?”
“Tôi không phải thằng ngu hành động nông nổi, đời nào mới nghe vài câu đã tin sái cổ lời bọn côn đồ. Tôi chỉ tin vào mắt mình. Cũng may ông trời không bạc đãi, đã tặng tôi một món quà vào năm 1990.”
“Món quà gì?”
“Trung tâm xét nghiệm ADN của bệnh viện Hòa Nhân.”
Lạc sực nhớ ra, Hòa Nhân là bệnh viện đầu tiên của Hồng Kông nhập kĩ thuật RFLP để kiểm tra ADN. RFLP không những tìm được bệnh di truyền trong gen, mà còn giúp xác định quan hệ huyết thống.
“Với tư cách thư kí riêng của chủ tịch tập đoàn Phong Hải, sắp xếp cho gia đình chủ tịch kiểm tra sức khỏe chẳng khó khăn gì. Chỉ cần lấy được một ít máu, rồi dùng danh nghĩa ông chủ là dễ dàng bảo bệnh viện bí mật làm vài xét nghiệm đơn giản.”
Lạc nhận ra, ông già này thâm hiểm không kém Nguyễn Văn Bân. “Sao ông lại bỏ qua cho con thứ hai của ông ta?”
“Ai bảo tôi bỏ qua cho nó?”
Lạc kinh ngạc thấy rõ.
“Theo cậu, kẻ nào khiến nó cứ mãi mặc cảm, tưởng chính mình đã giết anh trai?” Ông Đường bình thản nói, nhưng Lạc vẫn nghe ra, ông ta đang kiềm chế để không cười phá lên.
Lạc hiểu ngụ ý trong câu nói này. Hôm qua, Nghĩa có khai, ông Đường là người đưa đồ chơi cho anh. Không chừng chính ông đã xúi Nghĩa bỏ món đồ vào xe Lễ, sau tai nạn lại kích thích cậu bé suy diễn bằng cách an
ủi, “Cậu chủ yên tâm, việc cậu đặt đồ chơi vào xe, tôi sẽ không cho người khác biết đâu.” Đối với con cáo già này, thao túng một đứa trẻ 9 tuổi là việc dễ như bỡn.
“Vậy Liêm...”
“Tôi không hề nói với nó rằng tôi mới là bố đẻ, mà chỉ âm thầm quan tâm. Từ nhỏ nó đã không ưa Bân, điểm này đúng là giống tôi. Dù không rõ ‘sự thật’, vô hình chung nó vẫn cùng chí hướng với tôi. Sau khi Thiên Nhu qua đời, nó ‘tình cờ’ thấy hai bản kết quả xét nghiệm ADN ‘không biết ai bỏ quên’, thế là giọt nước tràn ly. Tôi ‘đành phải’ cho nó biết Bân đã cưỡng bức, lừa gạt người mẹ nó hết mực yêu thương.”
Hai bản kết quả đó, một hẳn là xét nghiệm ADN của ông Bân và Lễ, một là của ông Đường và Liêm.
“Cho nên, tối hôm cúng một trăm ngày mất của mẹ, Liêm kích động đến tìm ông Bân đối chất, truy hỏi bằng được về việc ông ta cưỡng bức mẹ mình. Trong lúc nóng nảy, cậu dùng bình hoa đánh ngất ông Bân, rồi bắt đầu đấu tranh tư tưởng xem có nên giải quyết triệt để kẻ thù không... Đến lần thứ hai đập cho Bân bất tỉnh, cậu mới quyết tâm làm thay phần việc của đao phủ. Sau đó thế nào, hôm qua cũng đã nói rồi...”
Lạc lẩm bẩm.
“Để báo thù cho mẹ, cậu giết người... Chắc Liêm không nói ra thân thế của mình đâu nhỉ? Phải rồi, cậu ấy sẽ không hé răng chuyện mẹ ngoại tình. Liêm rất yêu mẹ, nên sẽ không làm tổn hại danh dự bà khi đứng trước mặt kẻ thù. Ông Bân tưởng con trai giết mình để trả thù cho mẹ nó, nên thà chết cũng không muốn hung thủ bị lộ tẩy... Trước lúc chết, ông lật giở album ảnh để sám hối về những việc mình đã làm với bà Nhu...”
"""