"
120 Câu Hỏi Phòng Chữa Đục Tinh Thể
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 120 Câu Hỏi Phòng Chữa Đục Tinh Thể
Ebooks
Nhóm Zalo
THÁI NHIÊN và Ts. Y học PHẠM VIẾT Dự
CẤU HÔ!
PHÒNG CHỮA ĐỤC THỦY TINH T Ể
NHÀ XUẤT BẢN TỪ ĐIÊN bá c h kh o a
HỆ THỐNG CÁC SIÊU THỊ SÁCH TRựC THUỘC DN SÁCH THÀNH NGHĨA TP Hồ CHÍ MINH
I DN SÁCH THÀNH NGHỈA TP HCM
288B An Dương vương. P4. Q5. TPHCM
ĐT: 08.8392516
2. NHÀ SÁCH NGYỀN VẢN c ừ
Thư Viện Vởn Ba
09 Nguyên Tđt Thành. P12. 04, TP HCM
ĐT: 08.9400258
3. NHÀ SÁCH NGUYỀN VÂN c ừ
(Chi Nhánh Quân 1, TP.HCM)
235C Nguyẻn Vởn cư. Q 1.ĨPHCM
ĐT: 08.920876
4.SỈÊU TH| SÁCH NGUYỀN VÁN c ừ
(Chi Nhánh Quộn 10, TP HCM)
' 601-603 Cách Mợng Tháng 8. Q 10. TP HCM t ĐT: 08.8641534
5. NHÀ SÁCH NGUYỀN VÂN c ừ
(Chi Nhánh Quộn Bình Thọnh, TP HCM)
551 ABC Xỗ Viết Nghệ Tĩnh. P12. QBT. TPHCM
ĐT:08.8984476
6. NHÀ SÁCH NGUYỄN VÂN c ừ
(Chi Nhánh Quện 6, TP HCM)
18 ỉ-189 HÔNG BÀN. P9. 06. TP HCM
ĐT: 08.9606023
7 NHÀ SÁCH NGUYỄN VÃN c ừ
(Chi Nhánh Đồng Thóp)
42 Nguyễn Huệ. Thi Xà Cao Lởnh. Tỉnh E)ồng Tháp ĐT: 067.854362
8. NHÀ SÁCH NGUYỄN VÃN c ừ
(Chi Nhánh Quộn 7 TP. HCM)
1/6 HUỲNH TẤN PHÁT. Q7. TP HCM
Đĩ: 08.7731893
9. NHÀ SÁCH NGUYỀN VẢN c ừ
(Chl Nhánh Hà Nội)
36 Xuân Thủy. Q.cổu G lđy. Tp Hà NỘI
ĐT: 04.7549098
10. NHÀ SÁCH NGUYỄN VẢN c ừ
(Chi Nhánh Thủ Đức)
188 Vô Vởn Ngớn . KP1. p. BÌNH THỌ. Q.TĐ.
TP.HCM
ĐT: 08.7222848 '
II .NHÀ SÁCH PHAN ĐẢNG LƯU
216 Phan Đởng Lưu. P3. QPN. TP HCM
ĐT08.8421118
12. NHÀ SÁCH THANH NIÊN
189 Cống Quỳnh. Q l.TP HCM
ĐT: 08.9252249
13. NHÀ SÁCH TRÍ ĐỨC
09 Đổng Nal. P15. Q10. TP HCM
ĐT: 08.9700071
14. SIÊU THI QUẢNG NGẢI
70 Đợi Lộ Hùng vương. TP QUẢNG NGẢI. QN
ĐT: 055.829376
15. SIÊU THI ĐỒNG NAI
2B+4A. QUỐC Lộ l KHU PHỐ 2. p. TẢN HIỆP TP BIÊN HÒA . ĐỔNG NAI
ĐT: 061.219677
16. SIÊU THI VẢN HÓA TIỀN GIANG
53 Đinh Bộ Unh. TP MỸ THO. TIỀN GIANG
ĐT: 073.829463
n o CẢ u HỎI PHÒNG CHỮA ĐỤC THUỶ TINH THỂ
120Câu HỎI PHÒNG CHữH 0ỤC ĨHUV TINH THỂ
Người biên soạn: THAI NHIÊN
NHÀ XLÂ I BÁN Tì:'ĐIỂN BÁCH KHOA
LỜI NÓI ĐẦU
ục thuỷ tinh thể là một loại bệnh mắt đa phát và thường gặp trong lảm sàng; đặc biệt đục thuỷ tinh thể do tuổi già, là một trong những bệnh mắt hay gặp nhất của người già. Nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ thể chất và tinh thần, củng như khả năng nhìn của bệnh nhăn, ảnh hường đến cả công tác và sinh hoạt của họ, cũng như đem đến những tổn thất nhất định cho gia đình và xã hội. Do đó phòng, chữa đục thuỷ tinh thể là một nhiệm vụ quan trọng của việc phòng, chữa mù loà.
Do điều kiện môi trường, hoàn cảnh sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người trong nửa cuối thế kỉ 20 thay đổi rất mạnh, khiến tỉ lệ người bị đục thuỷ tinh thể trên thế giới củng như ở Việt Nam ngày càng tăng. Bệnh này có thể phát sinh do nhiều yếu tố khác nhau, có thể do bị thương bên ngoài gây ra, có thể do các bệnh toàn thân hoặc bệnh ở mắt, cũng có thể do lão hoá hoặc di truyền gây ra; tuy vậy nếu biết đề phòng, biết ăn uống và sinh hoạt đúng đắn vẫn có thể phòng chống được. Mặt khác nếu phát hiện sớm, biết dùng đúng thuốc và chọn phương án xử lí thích hợp sẽ không bị mù loà một cách đáng tiếc. Ngày nay kĩ thuật mổ nội soi bằng kính hiển vi, công nghệ và vật liệu chế tạo thuỷ
5
tinh thể nhăn tạo ngày càng hoàn thiện và phổ biến ở khắp nơi trên thế giới, đã giúp rất nhiều người lấy lại được ánh sáng sau nhiều năm chịu mờ loà, đó là điều đáng mừng với tất cả bệnh nhân đục thuỷ tinh thể.
Đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc bị hoặc có người nhà bị đục thuỷ tinh thể, là lí do để cuốn sách này ra đời. Sách gồm 5 phần, giới thiệu: các tri thức cơ bản về đục thuỷ tinh thể, đục thuỷ tinh thể do bẩm sinh, đục thuỷ tinh thể do tuổi già, đục thuỷ tinh thể do ngoại thương và đục thuỷ tinh thể kéo theo. Được trình bày dưới dạng hỏi đáp, để trả lời các vấn đề nguyên nhân gây bệnh, đặc trưng hình thái, cơ chế phát sinh phát triển bệnh, phương pháp chẩn đoán điều trị, biện pháp dự phòng và bảo vệ, một cách đơn giản, dễ hiểu với đại chúng. Rất mong sách sẽ góp một phần nhỏ vào việc giúp các bạn bảo vệ và phòng chữa đôi mắt quý giá của mình.
T á c giả
6
I
KIẾN THỨC C ơ BẢN
1. Bệnh đục thuỷ tình thể là gì?
Trong mắt của người bình thường, ở phía sau hồng mạc có một thể trong suốt lồi hai mặt, đó chinh là thuỷ tinh thể. Một thuỷ tinh thể bình thường, ngoài kết cấu của các sựi trong suốt sắp xếp có quy tắc và các nhân tố không phải là mạch máu tạo thành, còn phải dựa vào hoạt dộng trao đổi chất đặc thù và phức tạp, mới có thể duy trì được độ trong suốt của nó. Trong thời kì nhi đồng và thiếu niên, do hoạt động trao đổi chất diễn ra mạnh mẽ, liên tục nên thuỷ tinh thể có dạng hình bầu dục, không màu, trong suốt. Cùng với tuổi tác tăng lên, thành phần nước trong thuỷ tinh thể giảm dần đi, khiến bộ phận trung tâm dần dần cứng lại, xuất hiện một lượng lớn các sắc tố, làm xung quanh thuỷ tinh thể biến dần thành màu xám hoặc vàng nhạt, có trường hợp phần nhân thuỷ tinh thể biến thành mầu nâu sẫm, tuổi càng cao, sự thay đổi này càng rõ rệt, mức độ cứng của phần nhãn càng lớn. Bất kể với lý do gì, khi thuỷ tinh thể đã bị biến tính và đục, trở nên không
7
trong suốt, sẽ ảnh hưởng đến thị lực, đó chính là bệnh đục thuỷ tinh thể.
2. Thuỷ tình thể bình thường có kết cấu như thế nào?
Thuỷ tinh thể bình thường là một tổ chức trong suốt lồi hai mặt, đường kính khoảng lOmm, dày 4mm, nằm ở phía sau hồng mạc, đồng tử, nằm ở phía trước thể trong suốt, chỗ giao tiếp giữa mặt trước và mặt sau của nó là bộ phận xích đạo, điểm chính giữa của mặt trước là cực trước, điểm chính giữa mặt sau gọi là cực sau, ở bộ phận xích đạo của thuỷ tinh thể có các dây chằng dạng lông mi bám vào. Mối quan hệ giữa vị trí của thuỷ tình thể trong nhãn cầu với các tổ chức xung quanh xem hình 1, 2, 3.
Trong suốt cuộc đời con người, các sợi thuỷ tình thể không ngừng được hình thành, nhưng các sỢi cũ không bị bong ra mà bị chèn ép ở phần chính giữa, giống như các lớp của củ hành dần dần lớn lên và không có tính đàn hồi. Dưới kính hiển vi, ta nhìn thấy kết cấu bên trong của thuỷ tình thể được chia làm 3 lớp từ ngoài vào trong: (1) Tầng màng túi là tầng bên ngoài bao bọc toàn bộ thuỷ tình thể. (2) Tầng chất da, là tầng dưới màng túi, được chia làm hai tầng nhỏ là tầng chất da trước và tầng chất da sau. (3) Tầng nhân, nằm chính
8
giữa thuỷ tinh thể, ở người lớn có thể nhìn thấy nhân phôi thai, nhân thai nhi, nhân trẻ nhỏ và nhân người lớn. Giữa nhân trẻ nhỏ và nhân người lớn có thể nhìn thấy hai kết cấu thể khe hở trong suốt, trong y học gọi là khe chữ ’Y" (xem Hình 4).
1. Đàu vú thần kinh
thị giác; 2. Thể lông
mi; 3. Đồng tử (con
ngươi); 4. Trục nhìn;
5. Trục mát; 6. Hồng
mạc; 7. Thuỳ tinh thể;
8. Thể trong suốt;
9. Dây chằng treo
thuỷ tinh thể.
Hình 1. Vị trí của
thuỷ tinh thể trang
nhãn cầu
1
Hình 2. Thuỷ
tinh thể nhu1 từ
mặt bên
2
1. Cực trước; 2. Cực sau; 3. Phần xích đạo
9
1. Thể lông mi; 2. Thuỳ tinh thể; 3. Thể trong suốt; 4. Dây chằng treo thuỷ tinh thể; 5. Cơ dạng lông mi
Hình 3. Kết cấu dây chàng treo thuỷ tinh thể
1. Màng túi trước; 2. Tầng chất da trước; 3. Nhân người lớn; 4. Nhân trẻ nhỏ; 5. Nhân thai nhi; 6. Nhân phôi thai; 7. Khe chữ Y
Hình 4 . Mặt cắt quang học của thuỷ tửih thể khi soi khe hở
10
3. Thuỷ tinh thể có chức năng gì?
Người ta thường ví mắt như một chiếc máy ảnh. Máy ảnh bao gồm ống kính, cửa chập, hộp tối, phim và cơ cấu điều chỉnh. Kết cấu của mắt ngươi cũng như vậy. Giác mạc và thuỷ tinh thể tương đương với ống kính, đồng tử tương đương với cửa chập, màng mạch tương dương với hộp tối, võng mạc tương đơng với phim. Có thể thấy thuỷ tinh thể giữ một vị trí quan trọng trong mắt người. Chức năng của nó là:
(1) Chức năng hội tụ ánh sáng tạo thành ảnh: thuỷ tinh thể là thấu kính lồi, làm cho các tia sáng song song từ bên ngoài vào bị khúc xạ, sau đó hội tụ trẽn võng mạc, thông qua hoạt động thần kinh truyền dẫn tín hiệu đến trung khu nhìn, khiến con người cảm nhận được hình ảnh của vật thể. Nếu thuỷ tinh thể bị đục thì ánh sáng đi vào sẽ bị tán xạ hoặc không di qua dược, khiến không thể hội tụ được trên võng mạc, khiến ngươi ta không nhìn rõ được sự vật.
(2) Chức năng điều tiết tiêu cự: khi còn trẻ, khi nhìn xa, nhìn gần mọi vật đều rất rõ, nhưng khi tuổi tác gia tăng, nhìn các vật ở gần sẽ không rõ nữa (ví dụ như đọc sách).
Đó là do chức năng điều tiết của m ắt đã bị giảm. Chức năng điều tiết của mắt chủ yếu là do thuỷ tinh thể và cơ dạng lông mi thực hiện. Khi
11
chú ỷ nhìn vào một vật ở gần, cơ lông mi sẽ co lại, dây chằng thuỷ tinh thể lỏng ra, làm thuỷ tinh thể lồi hơn, vì vậy độ khúc xạ của ánh sáng sẽ lớn hơn, khiến ảnh của vật ở gần rơi đúng vào võng mạc. Ngược lại, khi nhìn vật ở xa, cơ lông mi chùng đi, dây chằng thuỷ tinh thể căng lên, làm thuỷ tinh thể bớt lồi đi, độ khúc xạ giảm khiến ảnh của vật ở xa rơi lên võng mạc. Mắt người sở dĩ có thể thích ứng với cả vật ở xa lẫn ở gần là nhờ sự co giãn, căng chùng của thuỷ tính thể và cơ lông mi, đó chính là chức năng điều tiết của thuỷ tinh thể.
(3) Chức năng chắn tia tử ngoại: khi tuổi càng cao, thì độ trong suốt của thuỷ tinh thể càng giảm dần đi, phần nhân thuỷ tinh thể cũng bị cứng hơn. Mức độ cứng càng lớn thì khả năng hấp thu tia tử ngoại và sóng ngắn càng mạnh, nên giúp cho võng mạc tránh không bị tia tử ngoại gây tổn hại. Bởi vậy, sau khi mổ bỏ thuỷ tinh thể thì phải đeo m ắt kính màu hấp thu tía tử ngoại để bảo vệ võng mạc.
4. Thuỷ tình thể có những đặc điểm sinh lý, sinh hoá như thế nào?
Thuỷ tính thể là một tổ chức trong suốt không màu, không có mạch máu, không có dây thần kinh, có hàm lượng nước luôn cố định, nồng độ
12
prôtêin cao và hoạt động trao đổi chất rất phức tạp. Nhưng đặc điểm sinh lý này đảm bảo cho thuỷ tinh thể luôn trong suốt.
Đặc điểm sinh lý của thuỷ tinh thể:
(1) Hàm lượng prôtêin cao: hàm lượng prôtêin trong thuỷ tinh thể tới 35%, nên thuỷ tính thể là tổ chức có hàm lượng prôtêin cao nhất trong cơ thể con người. Xét từ góc độ sinh hoá, đục thuỷ tinh thể chủ yếu là do sự thay đổi của prôtêin. Thuỷ tinh thể thường có màu vàng nhạt khi tuổi tác tăng lên, do các sản phẩm trao đổi prôtêin trong thuỷ tinh thể gãy ra. Đó chính là sự thay đổi sinh lý ở người cao tuổi bĩnh thường.
(2) Hoạt động trao đổi chất vừa chậm vừa phức tạp: các chất dinh dường cung cấp cho thuỷ tỉnh thể được lấy từ thể trong suốt trong nhăn cầu và phòng nước xung quanh, dinh dưỡng cần thiết dể duy trì sự trao đổi chất bình thường, được khuếch tán vào trong thuỷ tinh thể nhờ tác dụng thẩm thấu và lan toả thông qua các màng nang (túi). Các sản phẩm trao đổi chất cũng dược bài tiết ra ngoài nhờ quá trình đổi dịch thể với xung quanh, bởi vậy quá trình trao đổi chất diễn ra rất chậm. Khi trong phòng nước và thể trong suốt bị thay đổi vẻ thành phần thì trao đổi chất trong thuỷ tinh thể cũng bị ảnh hưởng. Ngoài ra, hàm lượng vitamin c và peptid trong thuỷ tinh thể người bình thường tương đối cao,
13
còn ở người cao tuổi lại thấp. Thêm vào đó, ở người già, thành phần chất béo và hàm lượng canxi, phốtpho trong thuỷ tinh thể tăng, khiến quá trinh trao đổi chất trong thuỷ tinh thể bị rối loạn và thúc đẩy bệnh đục thuỷ tinh thể phát sinh.
(3) Hoạt tính của men cao: trong thuỷ tính thể có hai loại men thuỷ phân prôtêin. Một loại tham gia vào quá trình tự hoà tan của prôiêin trong thuỷ tính thể. Khi độ pH trong thuỷ tinh thể thấp hơn 7,4, có thể làm cho thuỷ tinh thể mờ đục do tính tự tan của prôtẽin bị thay đổi. Loại men kia có tác dụng loại bỏ các prõtêin bị biến tính và trầm lắng để ngăn ngừa thuỷ tính thể bị đục. Nếu hoạt tính của loại men này giảm đi, thì các prôtêin bị biến tính sẽ tích lại rồi gây ra bệnh thuỷ tính thể.
(4) Có khả năng hấp thu nước: các sỢi trong thuỷ tinh thể có khả năng hấp thụ một lượng lớn nước. Nếu áp suất thẩm thấu của phòng nước bị thay đổi hoặc màng túi thuỷ tính thể bị rạn nứt, tổn thương thì một lượng lớn nước trong phòng nước bị hấp thụ làm các sỢi của thuỷ tính thể bị căng chương rồi dẫn đến đục thuỷ tính thể.
5. Bệnh thuỷ tình thể ở giai đoạn đầu có những thay đổi gì?
Rất nhiều người cho rằng, mình bị đục thuỷ tinh thể, nhưng sau khi làm giãn to đồng tử, rồi
14
kiểm tra bằng kính hiển vi có đèn soi khe nứt, bác sĩ lại kết luận thuỷ tinh thể vẫn bình thường nhưng bị lão hoá. Những trường hựp này không những gây sức ép về tinh thần cho bệnh nhân mà còn gây cho bác sĩ những rắc rối không cần thiết. Nguyên nhân chính là do không phân biệt được rõ những thay đổi sinh lý trong thuỷ tinh thể và những biến đổi do đục thuỷ tinh thể ở giai đoạn đầu gây ra. Vậy làm thế nào để phân biệt hai loại thay đổi này.
(1) Thay đổi vẻ mặt sinh lý: người bình thường, khi tuổi cao, phần trung tâm thuỷ tinh thể bị cứng dần lên, mật độ quang học tăng lẽn. Trong nhân người lớn, những hoa văn như phù điêu tăng lên, có trường hợp giống như đỉnh núi gồ lên, có độ phản quang mạnh, mật độ chất da của thuỷ tinh thể cũng tăng lên nên có màu vàng nhạt (đó là do lượng axit amin tăng lên gây ra), hiện tượng này ở khu chất da sau rõ rệt hơn, có lúc ở phía dưới túi hoặc ở bề mặt nhân người lớn xuất hiện 1 đến 2 bọt rỗng dộc lập, cũng có thể có sự thay đổi về khúc xạ ánh sáng (như cận thị, viễn thi, chức năng điều tiết kém), chỉ cản đeo kính cận (hoặc viễn) là thị lực vẫn bình thường. Những hiện tượng này đều là sự thay đổi sinh lý của thuỷ tinh thể, giống như hiện tượng đẩu bạc da nhăn ở người già.
15
(2) Những thay đổi do đục thuỷ tính thể giai đoạn đầu:
o Các lớp của thuỷ tinh thể bị tách ra, trên chất da của thuỷ tinh thể xuất hiện những đường vết có độ rộng nhất định, xếp song song với nhau, làm tăng độ phản quang của các sợi thuỷ tinh thể, có lúc còn phát sinh những rìa xờm ở xung quanh (hình 5). Trong lâm sàng người ta cho rằng, các tầng thuỷ tinh thể bị tách nhau là do chất da lớp của thuỷ tinh thể hút nước tích đọng lại gây ra.
Hình 5. Bong tầng đ ế Hình 6. vết nứt nước (chất da phía trước) dạng tía
© Hình thành các vết nứt nước hoặc xuất hiện nhiều bọt rỗng: Các vết nứt nước nằm ở sâu hoặc
16
tầng giữa của chất da thuỷ tinh thể, ở xung quanh vết nứt chữ Y, có thể xuất hiện các tia lan ra ngoài, trên mặt cắt quang
học khi soi đèn vết nứt,
các vết nứt nước là không
gian có m ật độ giảm, bờ
viền không có quy tắc, có
chỗ đục màu trắng dạng
tia (xem hình 6). Các bọt
rỗng phần lớn nằm ở dưới
nang và tầng nông của
chất da trước, kích thước
và số lượng không đều
nhau nhưng không tồn tại
độc lập. Kết cấu của chất
da của thuỷ tinh thể xung
quanh bọt rỗng không rõ Hình 7. Bọt rỗng trong ràng (xem hình 7). thuỷ tinh thê đục
© Xung quanh thuỷ
tinh thể xuất hiện nhiều chỗ đục dạng nốt, phiến hay dạng lông vũ, có loại có hình vân gỗ, có loại như hình bánh xe, các sợi của thuỷ tinh thể xung quanh đó phản quang mạnh.
© Nhân thuỷ tinh thể biến thành màu trắng xám hoặc màu vàng đục, mất đi độ trong suốt vốn có, khiến thị lực bệnh nhân giảm dần.
17
Phân biệt được hai loại thay đổi này có ý nghĩa rất quan trọng trong lâm sàng nhãn khoa, ở giai đoạn đầu của bệnh đục thuỷ tinh thể, nếu phát hiện thấy những biến đổi nói trên, có thể điều trị bằng thuốc để giữ bệnh ổn định ở một mức độ nhất định, ngăn chặn hoặc làm chậm quá trĩnh phát triển đục thuỷ tinh thể, đây cũng là điểm được giới y học rất chú ý trong nghiên cứu điều trị đục thuỷ tinh thể bằng thuốc.
6. Có những nguyên nhân nào gây ra đục thuỷ tình thể?
Người ta bị đục thuỷ tinh thể như thế nào? Đây là vấn đề được rất nhiều người cao tuổi quan tâm. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh này, trong đó có các nguyên nhân chính sau:
(1) Bị tổn thương do ngoại thương hoặc do tia phóng xạ.
(2) Do trúng độc thuốc hoặc do mắc một số bệnh nghiêm trọng về mắt (như viêm màng sắc tố) .
(3) Do quá trình phát dục trong bảo thai bị trở ngại.
(4) Do một số bệnh toàn thân hoặc do trở ngại trao đổi chất (như bệnh ưểu đường, chức năng tuyến giáp trạng kém).
18
Đối với đục thuỷ tinh thể thường gặp ở người già, hiện vẫn chưa tìm được nguyên nhân xác đáng, nhưng rất nhiều ỷ kiến cho rằng, có liên quan đến các nhân tố sau:
(1) Trao đổi chất dinh dưỡng trong thuỷ tinh thể bị trở ngại: do tuổi cao, động mạch toàn thán thương bị xơ cứng, chức năng thải dộc và trao đổi chất của gan bị trở ngại, chức năng bài tiết của tiiạn bị rối loạn, dẫn đến tỉ lệ glutathionin, vitamin và muối võ cơ trong máu mất cân bằng. Những nguyên nhân này dều gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình trao đổi chất dinh dương trong thuỷ tinh thể. Ngoài ra, thiếu vitamin c, sự thay đổi nồng độ pH trong thuỷ tinh thể và sự thay đổi áp suất thẩm thấu nước gây ra hiện tượng nước và một số chất độc thấm vào thuỷ tinh thẻ làm prõtêin của thuỷ tính thể bị biến tính, các sợi phù thũng, rồi cuối cùng gây ra đục thuỷ tính thể.
(2) Chiếu xạ của tía tử ngoại: trong điều kiện ở ngoài trời bị chói m ắt trong thời gian dài, ngoài việc m ắt bị trực tiếp tổn thương, tía tử ngoại còn làm ảnh hưởng đến quá -trinh hoàn nguyên ôxy hoá trong thuỷ tính thể, làm thuỷ tính thể bị biến tính. Các điều tra về đục thuỷ tính thể thường gặp cho thấy: ở vùng cao nguyên và phía Nam, tỉ lệ đục thuỷ tính thể cao hơn rất nhiều so với khu vực đồng bằng và miền Bắc. Bởi vậy người ta cho
19
rằng, tía tử ngoại chiếu vào mắt có thể thúc đẩy sự hình thành đục thuỷ tính thể.
(3) Rối loạn nội tiết: trong lâm sàng thường thấy bệnh tiểu đường, chức năng tuyến giáp trạng suy giảm đều có thể làm tăng nặng và làm phát sinh đục thuỷ tính thể tuổi già. Do đó, có thể thấy rối loạn nội tiết là một trong những nguyên nhân gây ra đục thuỷ tính thể tuổi già.
(4) Nhân tố di truyền: có một điều tương đối rõ ràng là đục thuỷ tinh thể bẩm sinh có liên quan chặt chẽ với di truyền trong gia tộc. Có một số học giả cho rằng, một bộ phận bệnh đục thuỷ tính thể tuổi già cũng có quan hệ nhất định với di truyền, nhưng nhân tố di truyền phải thông qua ảnh hưởng hoạt động trao đổi chất tinh tế và phức tạp của thuỷ tính thể mới phát huy được tác dộng.
(5) Nhân thuỷ tinh thể bị cứng lại và mất nước: có người cho rằng, đục thuỷ tính thể do tuổi già là một bộ phận của hiện tượng lão suy của cơ thể, cũng giống như hiện tượng toàn cơ thể bị lão hoá. Khi tuổi tác tảng lên, thuỷ tính thể bị lão suy, trao đổi chất trong tế bào thuỷ tính thể giảm thấp, tốc độ phân chia nhân tế bào cũng giảm xuống, thêm vào đó là áp lực thẩm thấu của phòng nước bị thay đổi và độ dẫn điện tăng lên, làm hiện tượng ồxy hoá bên trong tế bào tăng lẽn, dẫn dến đục thuỷ tính thể.
20
7. Sau khi bị đục thuỷ tình thể thường có những cảm giác gì?
Căn cứ vào đặc trưng, hình thái học và nguyên nhân, có thể phân đục thuỷ tinh thể thành nhiều loại. Ngoài đục thuỷ tinh thể do ngoại thương có nguyên nhân gây bệnh rõ ràng ra, còn lại tất cả loại dục thuỷ tinh thể khác, phần lớn đều phát bệnh chậm chạp, phát triển dần dần. Do vậy, sau khi bị đục thuỷ tính thể, ở giai đoạn đầu hầu như không có cảm giác gì, m ắt bị bệnh cũng không đỏ, không sưng, không đau, không ngứa, chỉ cảm thấy trước mắt có lớp mù trắng, nhìn mọi vật thấy mở mờ, không phân biệt được rõ các vật nhỏ, thị lực suy giảm dần, hơn nữa không thể điều chỉnh bằng kính được. Có lúc có hiện tượng nhìn vật bị cong vẹo, nhìn một vật thành hai hoặc nhiều vật. Với những người bị đục thuỷ tinh thể do nhân hoặc đục thuỷ tinh thể kế phát, khi ánh sáng mạnh (như ngày nắng) thì thị lực lại kém, khi ánh sáng yếu (như ban đêm, chập choạng tối) thì ngược lại thị lực lại rất tốt. Đó là do với tia sáng yếu, con ngươi to ra, các tia sáng đi qua phần xung quanh thuỷ tinh thể còn trong suốt nên có thể xuyên vào trong. Khi tia sáng mạnh, con ngươi thu lại, số tia sáng đi vào mắt ít và không thể đi qua chính giữa thuỷ tinh thể bị đục nên cảm thấy nhìn mờ ảo không rõ. Khi nhiều tuổi thuỷ tinh thể ngày càng cứng lại thì độ
21
chiết quang của nó cũng tăng lên, do đó có thể bị cận thị do thuỷ tinh thể, đồng thời do đục thuỷ tinh thể không đều (như bóng nước, khe nước...) có thể dẫn đến tán xạ ánh sáng và càng làm cảm giác nhìn vật mờ ảo nặng thêm.
Ngoài ra, có một số ít người đục thuỷ tinh thể, khi bệnh đang phát do thuỷ tinh thể hấp thu một lượng nước quá nhiều làm cho thuỷ tinh thể trương phồng, thể tích tăng lớn, gây trở ngại cho thể lõng mi hoặc đồng tử, dẫn đến nhãn áp tăng cao, y học gọi là 'bệnh thong manh kế phát", bệnh nhân có thể có các chứng kéo theo nghiêm trọng như đau mắt, đau đầu dữ dội, người nặng có thể có buồn nôn, ói mửa.
8. Kiểm tra đục thuỷ tinh thể như thế nào?
Thường có người hỏi, bị đục thuỷ tinh thể thì phải làm những kiểm tra nào? Thời gian bao lâu kiểm tra một lần là tốt nhất. Điều đó căn cứ vào điều kiện chữa trị của người bệnh và trĩnh dộ chữa trị của địa phương mà phân tích cụ thể. Thông thưởng, người bị đục thuỷ tính thể phải thực hiện những kiểm tra sau đây:
(1) Đối với người đục xung quanh thuỷ tinh thể không ảnh hưởng đến thị lực, có thể 6 tháng kiểm tra 1 lần bằng dọi đèn tìm vết nứt, để tìm hiểu phạm vi đục có mở rộng hay không, hình
22
thái có thay đổi hay không, túi sau có bị đục hay không, vv. Người có điều kiện, tốt nhất mỗi năm chụp ảnh thuỷ tinh thể (mặt cắt dọi sáng vết nứt) hoặc phân tích định hướng của đục thuỷ tinh thể.
(2) Đối với người đục không có quy tắc, có nhiều khe nước, làm thay đổi chiết quang (như cận thị, viễn thị, tán quang...), ngoài cách kiểm tra bằng dọi đèn khe nứt, phải căn cứ vào mức độ suy giảm thị lực và tính chất công việc của bệnh nhân, cho làm kiểm tra bằng máy đo thị lực vỉ tính để điều chỉnh thị lực tốt nhất.
(3) Đối với người bị đục thuỷ tính thể rõ rệt, ít nhất mỗi năm phải kiểm tra thị lực 1 lần và kiểm tra đáy m ắt và dọi đèn soi khe nứt để tìm hiểu thực trạng đục thuỷ tính thể và xem đáy mắt có thay đổi bệnh lý hay không.
(4) Đối với người đục thuỷ tính thể gần thành thục (thị lực dưới 0,1) hoặc túi sau bị đục rõ rệt, thị lực suy giảm nghiêm trọng thì phải kiểm tra cảm giác ánh sáng 5m, định vị ánh sáng, cảm giác màu, dãn con ngươi để dọi đèn soi khe nứt, khi cần có thể cho siêu âm và kiểm tra điện nhãn sinh lý (ERG, VEP) và chuẩn bị phẫu thuật đục thuỷ tính thể.
Tóm lại, khi kiểm tra đục thuỷ tính thể phải tuỳ cơ ứng biến cho phù hợp, mỗi người mỗi khác, căn cứ vào các nhân tố như mức độ, phạm vi
23
thuỷ tinh thể đục, mức độ ảnh hưởng đối với thi lực, yêu cầu độ tinh xác của thị giác, w ... để quyết định thời gian giãn cách và các hạng mục cần kiểm tra nhằm chẩn đoán sớm, chữa trị hợp lý.
9. Đề phòng bệnh đục thuỷ tình thể như thế nào?
Đục thuỷ tinh thể tuy không phải là một bệnh lớn, nhưng có thể làm thị lực suy giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến việc học tập, công tác, sinh hoạt hàng ngày, thậm chí, có trường hợp gây ra bất hoà trong gia đình, vợ chồng ly dị (như đục thuỷ tinh thể do ngoại thương). Do vậy, việc phòng tránh đục thuỷ tinh thể, đặc biệt là đục thuỷ tinh thể do tuổi già, ngoại thương, bẩm sinh có vai trò rất quan trọng. Các biện pháp chủ yếu như sau:
(1) Đục thuỷ tinh thể do ngoại thương:
- Từ nhỏ phải dạy cho trẻ không dùng các vật nhọn để đánh nhau, không được chơi các dồ chơi nguy hiểm như súng có dạn, cung nỏ, w ...
- Ngươi lớn khi làm việc cần chú ý bảo hộ, cõng nhân luyện kim, đứng máy tiện, w ... khi làm việc phải mang kính bảo hộ, khi nhãn cầu bị thương phải kịp thời đến bệnh viện nhãn khoa kiểm tra và chữa trị.
(2) Đục thuỷ tính thể do tuổi già: Nguyên nhân phát sinh của loại bệnh này tương đối phức tạp.
24
Các nhân tố như dinh dưỡng, trao đổi chất, thay đổi nội tiết, chiếu xạ tia hồng ngoại, môi trường, vv... đều có thể ảnh hưởng đến việc hình thành thuỷ tinh thể. xử lí đối chứng với những nhãn tố này, phải tăng cường chế độ dinh dưỡng thích hợp, ăn nhiều hoa quả rau xanh, duy trì tâm lí thoải mái, tránh dể ánh sáng quá mạnh và tia hồng ngoại chiếu trực tiếp vào mắt, nếu phát hiện thấy bị bệnh về nội hết (như chức năng tuyến giáp trạng yếu) phải kịp thời chữa trị. Ngoài ra, phải định kỳ kiểm tra sức khoẻ, kiểm tra thuỷ tinh thể bằng kính hiển vi đèn dọi, khi phát hiện thấy thuỷ tinh thể có những thay đổi ở giai đoạn đầu thì phải tích cực lựa chọn thuốc hữu hiệu để điều trị; đó cũng là biện pháp hữu hiệu để phòng tránh và ngăn chặn đục thuỷ tinh thể phát triển.
(3) Đục thuỷ tính thể do bẩm sinh: do người mẹ và nhân tố di truyền gây ra, loại hình đục thuỷ tính thể này hoàn toàn có thể phòng tránh được. Thời kì mang thai, nhất là 3 tháng dầu, chính là giai đoạn hình thành phôi mắt, người mẹ phải tránh không để bị cảm cúm, sốt, mẩn ngứa và nổi mề đay, nếu bị bệnh không được tự ý dùng thuốc mà phải theo hướng dẫn của bác sĩ, để tránh ảnh hưởng đến mắt của thai nhi. Ngoài ra phải tránh kết hôn gần huyết thống để đề phòng trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh do di truyền.
25
(4) Đục thuỷ tinh thể kế phát: chủ yếu là đề phòng các bệnh về mắt và bệnh có liên quan đến sự hình thành đục thuỷ tinh thể. Sau khi bị bệnh phải chẩn đoán sớm, kịp thời điều trị có hiệu quả; như bệnh tiểu đường phải chú ý hạn chế trong ăn uống, cố gắng khống chế dường huyết dưới 6,7 mmol/1 (120mg%), định kì dến viện để kiểm tra bằng đèn dọi, nếu thấy thuỷ tinh thể có thay đổi nhỏ nên dùng thuốc điều trị ngay. Người bị viêm màng nho mạn tính phải tích cực tìm nguyên nhân, khống chế triệt để chứng viêm và kiên trì điều trị, phòng tránh tái phát, dùng các thuốc bổ hợp lý để tránh chứng viêm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động trao đổi chất của thuỷ tính thể.
10. Những thuốc nào có thể điều trị đục thuỷ tinh thể?
Hiện nay chủ yếu có hai phương pháp điều trị đục thuỷ tính thể là phẫu thuật và điều trị bằng thuốc. Phẫu thuật cắt bỏ đục thuỷ tính thể đã trở thành phương pháp điều trị hữu hiệu duy nhất đối với đục thuỷ tính thể ở giai đoạn thành thục. Còn điều trị bằng thuốc, hiện vẫn ở giai đoạn nghiên cứu thăm dò. Nếu dùng thuốc có thể ngăn chặn sự phát triển của đục thuỷ tính thể ở giai đoạn đầu hoặc làm khỏi đục thuỷ tính thể thì đó là phương pháp lý tưởng nhất trong diều trị đục
26
thuỷ tính thể. Hiện nay, những loại thuốc thường dùng trong lâm sàng có mấy loại sau:
(1) Loại thuốc nước nhỏ mắt: Bạch nội đình, LỢi minh nhãn, tính minh nhãn, w ... của Trung Quốc. Các nước Âu Mĩ chủ yếu dùng thuốc nhỏ m ắt Glutathione, Catalin, Phacolin, w ...
(2) Loại thuốc uống: Vitamin c, Vitamin E, Potassium, Iodide, Aspirin, Rutoside, w ...
(3) Loại thuốc bắc chế sẵn: Từ châu hoàn, Tri chướng đan, Chướng nhãn minh phiến, Thạch giác dạ quang hoàn, Thạch giác minh mục hoàn, Kỉ cúc địa hoàng hoàn, Minh mục địa hoàng hoàn, w ...
Bất kể loại thuốc nào, kể cả thuốc ngoại, nếu xét từ góc độ hiệu quả điều trị thì hiện nay chưa có loại thuốc gì có thể ngăn chặn đục thuỷ tính thể phát triển như mong muốn. Một số loại đục thuỷ tính thể ở giai đoạn đầu, sau một thời gian dài dùng thuốc, có phát triển chậm lại, thậm chí thi lực có nâng lên được một chút. Nhưng đối với đục thuỷ tính thể ở giai đoạn giữa thì dùng thuốc vẫn không thấy hiệu nghiệm gì, mức độ đục của thuỷ tính thể không cải thiện. Đối với đục thuỷ tính thể ở giai đoạn gần thành thục, thì điều trị bằng thuốc lại càng không có hiệu quả.
Đối với dục thuỷ tính thể ở giai đoạn đầu dù điều trị không thấy bệnh phát triển cũng không
27
thể khẳng định kết quả là do diều trị bằng thuốc, vì đục thuỷ tinh thể ở giai đoạn tiến triển đến giai đoạn thành thục là một quá trình phát triển lâu dài, có thể tự dừng lại ở một giai đoạn phát triển nào dó và không ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị lực (trong lâm sàng thường gặp). Tóm lại, hiệu quả điều trị đục thuỷ tinh thể bằng các loại thuốc hiện đang dùng đều chưa thể khẳng định, còn phải thăm dò tìm ra những phương pháp điều trị bằng thuốc hữu hiệu và đúng đắn.
11. Bị đục thuỷ tinh thể nên nhỏ thuốc như thế nào?
Khi bạn nhìn các vật ngày càng thấy mờ ảo thì nên đến bệnh viện kiểm tra, nếu bác sĩ nói bạn bị đục thuỷ tinh thể thì phải dùng thuốc điều trị kịp thời, phải tuân thủ chặt chẽ lời dặn của bác sĩ. Vĩ đục thuỷ tinh thể là loại bệnh mạn tính nhãn khoa phát triển chậm, hiệu quả điều trị bằng thuốc cũng chậm, chu kĩ điều trị ngắn cũng phải vài năm, dài có thể mười mấy năm, mấy chục năm. Bởi vậy biết cách nhỏ thuốc là một yêu cầu cơ bản đối với bệnh dân đục thuỷ tinh thể. Ngoài ra, các điều tra cho thấy, trên thị trường hiện nay thường bán các loại ống thuốc nhỏ mắt, thương 1 giọt khoảng 50 |il, nhưng dung lượng túi kết mạc của người Việt lại thường là 10 - 16gl, dung lượng
28
lớn nhất cũng chỉ là 20|il. Có thể thấy nhỏ 1 giọt thuốc đả láng phí mất một nửa. Ngoài ra, sau khi nhỏ thuốc vào túi kết mạc, do việc tiết và thải dịch nước mắt làm thuốc nhanh chóng bị pha loãng, nồng độ thuốc hữu hiệu chỉ duy trì được khoảng 20 phút, đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị bằng thuốc. Bởi vậy nắm được phương pháp nhỏ thuốc chính xác có vai trò rất quan trọng. Thường các bạn phải chú ý những m ặt sau:
(1) Học bằng được cách tự nhỏ thuốc, trước khi nhỏ thuốc phải rửa 2 tay sạch sẽ, nằm thẳng trên giường, dùng ngón trỏ trái ấn nhẹn da dưới mắt và kéo thẳng xuống dưới, m ắt nhìn lên trên, tay phải cảm lọ thuốc, để ống nhỏ chỉ đúng vào kết mạc mí mắt dưới, nhẹ nhàng vê nặn lọ thuốc, để một giọt thuốc nhỏ vào trong mắt (chú ý không được để đầu ống nhỏ tiếp xúc với niêm mạc m ắt để tránh thuốc bị ô nhiễm).
(2) Sau khi nhỏ thuốc xong, nhắm mắt lại khoảng 15 phút, dùng ngón tay ấn nhẹ phẩn khoé mắt trong của 2 m ắt dể giảm hoạt động tiết nước mắt.
(3) Bệnh mắt mạn tính mỗi ngày nhỏ 3 - 4 lần, nhỏ thuốc theo đúng thời gian quy định. Muốn nâng cao hiệu quả có thể tăng số lần nhỏ hoặc tăng nồng độ của thuốc (cách đầu tốt hơn cách sau).
29
Hiện nay, ở nước ngoài có bán hệ thống thuốc đặt màng (gọi tắt là màng thuốc). Khi đặt loại thuốc này vào túi kết mạc, nó sẽ tự giải phóng thuốc một cách dần dần lâu dài, làm cho túi kết m ạc luôn duy tri được nồng độ thuốc ở mức cao, đồng thời cũng không cần phải nhỏ thuốc hằng ngày, do đó mang lại cho bệnh nhân nhiều thuận lợi.
12. Bị đục thuỷ tình thể nên chú ỷ ăn uống như thế nào?
Khi đã bị đục thuỷ tinh thể không được để tinh thần chịu áp lực quá lớn, nhưng cũng không được xem nhẹ bỏ qua, không nghe không hỏi, cho rằng chẳng việc gì. Đối với đục thuỷ tinh thể giai đoạn đầu, chỉ cần phát hiện kịp thời, tích cực bảo dưỡng thì bệnh có thể tự dừng lại ở một giai đoạn nào đó, không phát triển nữa, cũng không ảnh hưởng lớn dến thị lực. Ngược lại, nếu không đoái hoài, chẳng hề để ý, lúc thường cũng không chú ý bảo dưỡng thì bệnh sẽ phát triển nhanh hơn, thậm chí đến mức không phẫu thuật không được. Khi bị đục thuỷ tính thể (chủ yếu loại đục thuỷ tính thể do tuổi già) phải chú ý mấy điểm sau trong ăn uống:
(1) Trước tiên phải duy tri tính thần thoải mái, ăn uống có quy luật, tránh ăn uống quá nhiều.
30
(2) Chú ý kĩ thuật nấu nướng, tăng cường dinh dưỡng hợp lý.
(3) Ăn nhiều đồ ăn giàu Vitamin c, Vitamin E như rau tươi, hoa quả, ...
(4) Tăng cường ăn gan lợn, gan gà với số lượng phù hợp.
(5) Tránh uống rượu hút thuốc, không thường xuyên ăn các đồ ăn kích thích như hành, tỏi tươi, vv...
13. Bị đục thuỷ tình thể phải điều dưỡng như thế nào trong sinh hoạt?
Có người nói, đục thuỷ tinh thể (chủ yếu là loại đục thuỷ tinh thể do tuổi già) không có liên quan nhiều với nghề nghiệp cuộc sống và môi trường, nên trong ăn uống và sinh hoạt cũng không phải quá chú ỷ. Thực ra, cách nhìn nhận này không toàn diện. Mọi người đều biết, bất kì một loại bệnh mạn tính nào cũng đều có liên quan ngàn tơ vạn mối với cuộc sống, môi trường, gia đĩnh, tình cảm và nghề nghiệp, các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn với sự phát sinh - phát triển - tái phát của bệnh tật. Người xưa nói, để điều trị bệnh mạn tính phải "3 phần điều trị, 7 phần bảo dưỡng", vì vậy trong điều trị đục thuỷ tinh thể cũng như vậy, không được coi thường cho qua.
31
Trong sinh hoạt phải tăng cường bảo dưỡng ở những m ặt sau:
(1) Ăn uống ngủ nghỉ có quy luật, chú ý kết hợp giữa lao động và nghỉ ngơi.
(2) Thời gian đọc sách, xem tivi phải khống chế hợp lý. ở người cao tuổi, do tính đàn hồi của thuỷ tinh thể đã bị suy giảm, khả năng điều tiết của cơ dạng lông mi bị suy yếu, nếu đọc sách, viết lách lâu sẽ làm mắt bị chướng đau, thậm chí đau đầu khó chịu. Do vậy thời gian dọc sách, xem tivi, viết lách chỉ khoảng 1 tiếng là vừa, cứ 1 tiếng lại ra ngoài hoạt động hoặc nhắm m ắt nghỉ ngơi một lúc, khi trời tối hoặc ở nơi ánh sáng kém tốt nhất là không đọc sách.
(3) Sắp xếp hợp lí giữa đọc sách và rèn luyện sức khoẻ.
(4) Giữ tinh thần thông thoáng, tính cách cởi mở, gặp những chuyện buồn, phiền não phải chú ý khống chế tình cảm, xử lí đúng đắn, thoả đáng.
(5) Giữ giấc ngủ đầy đủ hàng đêm, với người bị m ất ngủ hoặc suy nhược thần kinh thi phải dùng thuốc an thần hoặc thuốc bắc chế sẩn để điều chỉnh.
(6) Nhỏ thuốc và uống thuốc đúng giờ, phải duy tri dùng thuốc đều đặn lâu dài, không được gián đoạn.
32
(7) Người có độ chiết quang mắt thay đổi phải đến viện kiểm tra và chọn đeo kính mắt hợp lý.
(8) Định kì đến bệnh viện kiểm tra bằng kinh hiển vi đèn dpi, quan sát sự phát triển của bệnh đục thuỷ tinh thể. Người có điều kiện có thể làm các phân tích định lượng bệnh đục thuỷ tính thể.
14. Y học cổ truyền nói về bệnh đục thuỷ tinh thể như thế nào?
Y học cổ truyền cho rằng, đục thuỷ tính thể là loại bệnh biến thần kinh của con ngươi "không nhìn thấy bên ngoài, do bị che lấp từ bên trong", phần lớn là do kinh lạc tạng phủ bị mất cân bằng, tính khi không thể lên nuôi dưỡng đầy đủ cho các bộ phận như tính chân, thần cao, thị y mục hệ... dẫn đến. Trong sách cổ có nói đến chứng "nội ngoại chướng" để chỉ chung cho tất cả các bệnh về mắt, tuỳ theo vị trí phát sinh bệnh khác nhau mà chia thành 2 loại lớn là nội chướng và ngoại chướng.
Nội chướng bao gồm hơn 10 loại bệnh vẻ mắt như bệnh thong manh, bệnh biến ở võng mạc, bệnh biến ở thể trong suốt và đục thuỷ tính thể. Đục thuỷ tính thể tuy thuộc phạm trù nội chướng, nhưng theo nguyên nhân phát bệnh có thể phân thành các loại khác nhau như nội chướng kéo màng tròn (đục thuỷ tính thể do tuổi già), nội
33
chướng kinh chấn (đục thuỷ tính thể do ngoại thương), nội chướng từ trong thai (đục thuỷ tinh thể do bẩm sinh), w ...
Hình 8. Kéo màng kiểu hoa táo
(1) Căn cứ vào các ghi chép trong sách về nhãn khoa Trung y của các triều đại, thì chứng nội chướng kéo màng tròn là loại bệnh mắt mạn tính do tinh chân bị đục, thị lực giảm dần đến mờ loà, phần lớn do tuổi già sức khoẻ suy giảm, gan - thận suy yếu, tính huyết không đủ hoặc tỳ hư không vận khí được, tính khí không lên đủ để nuôi mắt gây ra. Căn cứ vào hình thái, vị trí, mức độ, giai đoạn phát triển bệnh biến và màu sắc khác nhau có thể chia thành kéo màng nổi, kéo màng nhẩn kéo màng kiểu hoa táo, kéo màng trắng ở giữa vàng, kéo màng trắng bạc, kéo màng chim... (xem Hình 8 - Hình 11).
34
Hình 9. Kéo màng trăng giữa vàng Hình 10. Kéo màng tráng bạc
(2) Nội chướng kinh chấn là
chứng con ngươi bị tổn thương
rồi phát sinh ra dục, do các
mao mạch các lạc ở mắt bị
tổn thương làm máu ứ không
lưu thông, tích tụ hoá nhiệt,
rồi bị thần thuỷ xâm nhiễu
gây ra.
(3) Nội chướng từ trong thai:
do di truyền của cha mẹ hoặc
tiên thiên bất túc, tỳ thận đều suy hư; Hoặc do ở thời kỳ mang thai, người mẹ ngủ nghỉ không
Hình 11. Kéo màng chìm
35
điều độ hoặc do dùng một loại thuốc nào đó hoặc bị trúng gió... ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi, rồi gây ra dục thuỷ tinh thể cho thai nhi. Phần lớn trẻ đều bị ở cả 2 mắt.
15. Đông y có những phương pháp nào để điều trị đục thuỷ tinh thể?
Đông y cho rằng, đục thuỷ tinh thể phần lớn là do can - thận lưỡng hư, tinh khí không đưa lên đủ để nuôi mắt; hoặc do tỳ thổ bị lao thương, tỳ không thể vận tinh khí lên mắt, hoặc can kinh bị phong nhiệt, âm hư thấp nhiệt bốc lên hoặc do ngoại thương và một số bệnh mắt kế phát khác gây ra. Do vậy, trong điều trị phải phân biệt các chứng khác nhau mà áp dụng những quy tắc điều trị khác nhau. Phương pháp điều trị thông thường gồm nội trị, ngoại trị, châm cứu, tiêm huyệt vị và phẫu thuật, vv...
Đối với chứng nội chướng kéo màng tròn (đục thuỷ tinh thể do tuổi già):
(1) Can thận âm hư:
+ Nội trị (thuốc uống): có thể dùng minh mục địa hoàng hoàn, tri bá địa hoàng hoàn, kỉ cúc dực hoàng hoàn hoặc hoàng thảo dạ quang hoàn w ... Cũng có thể sá.ig cho uống thang phục minh, tối cho uống bổ thận từ châu hoàn.
36
+ Ngoại trị: Có thể dùng thuốc nhỏ mắt bát bảo, thuốc nhỏ mắt côn bố hoặc tam duy 3 lần/ngày.
(2) Tỹ vị khí hư:
+ Nội trị: dùng thang bổ trung ích khí, thang thăng thanh giáng trọc gia giảm. Cũng có thể dùng ngũ vị dị công tán hoặc thuốc uống chướng nhãn minh.
+ Ngoại trị: Dùng thuốc nhỏ mắt bát bảo 3 lần/ngày.
(3) Can kinh phong nhiệt: quy tắc điều trị nên bình can tả nhiệt khứ phong, phương thuốc dùng thạch quyết minh tán gia giảm.
(4) Khí huyết bất túc: quy tắc diều trị nên ích khí bổ tỳ, có thể dùng thang bổ trung ích khí, thang tứ vật gia giảm, hoặc uống định chí hoàn, 2 lần/ngày.
(5) Thận dương bất túc: quy tắc điều trị nên ôn bổ thận nguyên, phương thức dùng thạch quy hoàn, lục vị địa hoàng hoàn.
- Đối với nội chướng kinh chấn (đục thuỷ tinh thể do ngoại thương): nếu do ngoại thương gây ra, phần lớn có máu ứ không lưu thông, thần thuỷ tràn ra ngoài, nên quy tắc điều trị là thanh nhiệt hoá ứ, sáng mắt tiêu chướng, phương thuốc dùng thạch quyết minh tán gia giảm hoặc thang trừ phong ích tổn, có thể dùng kèm thêm thiên kim từ châu hoàn.
37
Ngoại trị: có thể dùng thuốc nhỏ mắt bạch nội dinh.
- Đối với nội chướng từ trong thai (đục thuỷ tinh thể do bẩm sinh).
Phần lớn là do tỳ thận lưỡng hư: quy tắc điều trị nên bổ ích tỳ thận, dồng thời chú ý đến đặc điểm của trẻ, phương thuốc dùng thang tứ quân tử, sâm linh bạch truật tán hoặc uống thêm trú cảnh hoàn, ngũ tứ diễn tống hoàn w ...
Ngoài ra, đối với một số trường hợp đục thuỷ tinh thể giai đoạn đầu, có thể chọn dùng phương pháp chum cứu (chọn các huyệt vị như Tình minh, Cầu hặu, Toản trúc, Ngư yêu, HỢp cốc, Túc tam lý, Tam âm giao w ... mỗi ngày 1 lần, mỗi lần lấy 2 - 3 huyệt, 10-12 lần là 1 liệu trình). Phương pháp tíêm huyệt vị (dùng Vitamin c lOOmg, tiêm vào huyệt vị, có thể chọn các huyệt vị như HỢp cốc, Khúc trì, Dưỡng lão, Túc tam lý, w ... mỗi lần 2 huyệt, 10 lần là 1 liệu tình).
Đối với đục thuỷ tinh thể dạng năng (con người đục hoàn toàn, kéo màng che cố định đả lâu) nên chọn phương pháp điều trị bằng phẫu thuật. Phương pháp phẫu thuật có kĩ thuật nhổ bằng kim, kĩ thuật nhổ lồng, kĩ thuật hút và cắt bỏ thuỷ tinh thể đục bằng dường sau w ... Có thể căn cứ vào bệnh tình và tình hình cụ thể của mắt bị bệnh mà lựa chọn phương pháp phẫu thuật thích hợp.
38
16. Cách điều trị đục thuỷ tinh thể của Đông y và Tây y có gì khác nhau?
Chúng ta đều biết, việc nhận thức về chức năng tạng phủ, kết cấu cơ thể, lỷ luận về trị bệnh, phương pháp và cách thức chẩn đoán bệnh giữa Đông y và Tây y có những khác biệt rất lớn. Do vậy, nhận thức, nguyên nhân phát bệnh và cơ chế phát bệnh cũng như phương pháp điều trị đục thuỷ tinh thể cũng có những khác biệt lớn.
Đông y cho rằng: nội chướng là do kinh lạc tạng phủ m ất cân bằng, tinh khí không đưa lên đủ nuôi mắt, can - thận lưỡng suy, mắt không được nuôi dưỡng tốt, hoặc tỳ vị tổn thương không thể vận chuyển tinh khí lên mắt gây ra. Do vậy, Đông y điều trị đục thuỷ tinh thể là dựa vào "ngũ luân bát khoách" (thuỷ tinh thể thuộc phạm trù thuỷ luân), kinh lạc tạng phủ và kết hợp tứ chẩn bát cương, căn cứ vào mối liên hệ chặt chẽ giữa lục phủ ngũ tạng với các bộ vị của mắt, để tiến hành biện chứng luận trị, tức là quan niệm biện chứng chỉnh thể của Đông y. Phương pháp điều trị gồm:
+ Nội trị: Chủ yếu chữa thẳng vào đục thuỷ tinh thể ở giai đoạn đầu, cho sắc uống các loại thảo dược, cho uống thuốc bột, thuốc bắc chế sẵn.
+ Ngoại trị: Dùng thuốc bôi bằng thảo dược hoặc các thảo dược được bào chế theo phương pháp hiện đại để nhỏ vào mắt.
39
+ Điều trị qua huyệt vị và kinh lạc: Dùng châm cứu hoặc tiêm vào huyệt vị các thuốc Đông dược chế sẵn để điều chỉnh kinh lạc toàn thân, nâng cao chức năng của tạng phủ.
+ Điều trị bằng phẫu thuật: Điều trị phẫu thuật của Đông y không giống với Tây y, phương pháp phẫu thuật truyền thống là kĩ thuật nhổ bằng kim, tức là dùng kim để nhổ thuỷ tinh thể đục, nén thuỷ tinh thể đục đã hoàn toàn vào trong phía dưới thể trong suốt và không lấy thuỷ tinh thể dục ra. Sau đó, qua ứng dụng cải tiến kĩ thuật nhổ lồng (sau khi nhổ bằng kim rồi mới lấy thuỷ tinh thể đục ra), kĩ thuật hút hoặc kĩ thuật lấy thuỷ tinh thể đục ra bằng đường sau (qua cửa mổ ở phần dẹt của thể lông mi, rồi lấy thuỷ tinh thể đục ra). Bất kể là phương pháp phẫu thuật nào cũng phải chờ thuỷ tinh thể đã đục hoàn toàn mới thực hiện dược phẫu thuật.
Tây y điều trị đục thuỷ tinh thể chủ yếu chữa thẳng vào bộ phận thuỷ tinh thể bị đục, hầu như không xem xét tĩnh trạng toàn thân. Phương pháp diều trị thường dùng là:
+ Thuốc nước nhỏ mắt: Đối với đục thuỷ tinh thể giai đoạn đầu ng íời ta cho rằng, nhỏ thuốc có thể ngăn chặn bệnh phát triển, thuốc thường dùng là Glutathione, Catalin, thuốc nhỏ m ắt lợi minh nhãn w ...
40
+ Thuốc uống: Chủ yếu chữa thẳng vào nguyên nhân phát bệnh, chọn dùng một số thuốc viên uống. Như đục thuỷ tinh thể do tuổi già có thể uống Vitamin C; đục thuỷ tinh thể kế phát có thể cho uống thuốc viên Calcium Gluconate w ...
+ Điều trị bằng phẫu thuật: Tây y cho rằng, việc lựa chọn phương pháp phẫu thuật phải dựa vào nhu cầu về chức năng thị lực của bệnh nhân để quyết định. Nếu bệnh nhân thường xuyên điều khiển xe, hoặc thao tác sử dụng các máy móc tinh tế, yêu cầu độ cao về thị lực khi làm việc, thì không cần chờ đến thuỷ tinh thể đục hoàn toàn (thị lực chỉ cần ở mức 0,1- 0,3) cũng có thể phẫu thuật được. Phẫu thuật đục thuỷ tính thể hiện đại dược thao tác toàn bộ dưới kính hiển vi, trình độ thao tác hiện nay đá đạt đến mức thành thạo, hơn nữa hiện đã có đủ thuỷ tinh thể nhân tạo các cỡ, các loại khác nhau. Sau khi đặt thuỷ tinh thể hầu như không có khác biệt mấy so với mắt thường. Do vậy, hiện nay ở nước ngoài cũng như Việt Nam đã triển khai kĩ thuật cắt bỏ và lắp đặt thuỷ tinh thể nhân tạo ở quy mô rộng, và đã lấy lại ánh sáng cho rất nhiều bệnh nhân. Bất kể thuỷ tinh thể đã đục hoàn toàn hay chưa, chỉ cần theo yêu cầu công tác của bệnh nhân là đều có thể lựa chọn điều trị bằng phẫu thuật.
Tóm lại: Khi điều trị đục thuỷ tinh thể Đông y nhấn mạnh mối liên hệ giữa lục phủ ngũ tạng và kinh lạc toàn thân với m ắt để tiến hành biện
41
chứng luận trị, và lấy nội trị (cho uống thuốc) là chính. Còn Tây y, khi điều trị đục thuỷ tinh thể lại chú trọng điều trị cục bộ và lấy phẫu thuật cắt bỏ và lắp dặt thuỷ tinh thể nhân tạo là chủ yếu.
17. Phân loại đục thuỷ tình thể như thế nào?
Căn cứ vào nguyên nhăn phát bệnh và đặc trưng về hình thái trong lâm sàng, người ta chia đục thuỷ tinh thể thành những loại sau:
(1) Đục thuỷ tinh thể do bẩm sinh: trong quá trình phát triển của thai nhi, do một nguyên nhân nào đó ảnh hưởng đến sự hình thành phôi thai của thuỷ tinh thể, nên trẻ sinh ra đã bị dục thuỷ tinh thể. Phần lớn do biến dị gen nhiễm sắc thể hoặc do bệnh biến của mẹ vã thai nhi (như trong 6 tháng đầu mang thai người mẹ bị phong mẩn, mẩn mề
'đay, thuỷ đậu, viêm tuyến nước bọt, w ...) gây tổn hại cho thuỷ tinh thể của thai nhi. Cá biệt có trẻ ngoài bị dục thuỷ tinh thể ra còn kèm theo dị dạng như khiếm khuyết hồng mọc, nhản cầu nhỏ, giác mạc nhỏ hoặc dại não phát triển không đủ w ... theo đặc trưng về hình thái, có thể phân đục thuỷ tinh thể do bẩm sinh thành hơn 10 loại:
o Đục thuỷ tinh thể bao quanh nhân.
© Đục thuỷ tinh thể dạng màng.
© Đục thuỷ rình thể dạng điểm chấm.
© Đục thuỷ tinh thể dạng cánh hoa.
42
© Đục thuỷ tinh thể dạng nang và cấp tính. *
© Đục thuỷ tinh thể dạng cọc sợi.
0 Đục thuỷ tinh thể hoàn toàn...
(2) Đục thuỷ tinh thể do tuổi già: là dạng bản thân thuỷ tinh thể dần dần bị biến tính vẩn đục, còn cục bộ mắt hoặc toàn thân vẫn không tim được nguyên nhân rõ ràng. Thường xảy ra ở độ tuổi 40 - 45 trở lên. Phần lớn phát bệnh ở cả 2 mắt, tiến triển chậm, ít là 3 - 5 năm, nhiều là mười mấy năm, mấy chục năm, nhưng thời gian, tốc độ và mức độ đục khác nhau, mức độ ảnh hưởng đối với thị lực cũng khác nhau. Dựa vào vị trí phát sinh đục có thể chia thành hai loại đục màng và đục nhân.
(3) Đục thuỷ tinh thể do ngoại thương: có nguyên nhân gây bệnh rõ ràng, do mắt bị các vật tẩy, nhọn làm tổn thương, xuyên thủng, tổn thương do điện giật, do tia phóng xạ hoặc do dị vật rơi vào mắt gây ra. Khi mức độ và tính chất của tổn thương khác nhau thì hình thái và tốc độ phát triển cũng khác nhau, dẫn đến phạm vi dục và ảnh hưởng đối với thị lực cũng không giống nhau.
(4) Đục thuỷ tinh thể kế phát: là loại đục thuỷ tinh thể do những bệnh biến cục bộ ở mắt hoặc toàn thân gây ra, bao gồm:
- Đục thuỷ tinh thể do bệnh tiểu dường: phần lớn là đục màng sau hoặc túi sau của thuỷ tinh thể,
43
người 40 trở lên mới bị sẽ rất khó phân biệt với loại đục thuỷ tinh thể do tuổi già (đục màng) đồng thời cùng tồn tại. Loại đục này phát bệnh sớm, phát triển nhanh, đục hoàn toàn cũng rất nhanh.
- Đục thuỷ tinh thể dạng co giật: do chức năng tuyến cạnh giáp trạng không tốt, lượng canxi trong máu quá thấp gây ra, thường xuất hiện đục dạng tia hình xương cá trong chất da thuỷ tinh thể. Người bị nặng có thể trong một thời gian ngắn đã bị đục thuỷ tinh thể hoàn toàn.
- Đục thuỷ tinh thể do thuốc: thường gặp ở người dùng các hoocmon với liều lượng lớn thời gian dài cho toàn thân hoặc bộ phận, làm chất da phía sau của thuỷ tinh thể bị đục.
- Đục thuỷ tinh thể do trúng độc: phần lớn do tiếp xúc lâu ngày với các chất độc hại như Triniro Phenol, Phenol Dinitol w ... gây ra, đặc điểm là hình thành các vết đục hình chêm hoặc hình vòng ở xung quanh thuỷ tinh thể.
Ngoài ra, còn có đục thuỷ tinh thể dạng hậu phát, là loại đục màng túi sau phát sinh sau khi cắt bỏ thuỷ tính thể (theo phương pháp cắt bỏ ngoài nang) gây ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị lực. Trẽn thực tế là đục dạng màng do chất da còn sót lại khi phẫu thuật và tế bào thượng bì của túi tăng thực tạo ra, nhưng nếu nói một cách chặt chẽ thi không thể gọi là đục thuỷ tinh thể.
44
II
ĐỤC THUỶ TINH THE RAM sin h
18. Thế nào gọi là đục thuỷ tình thể bẩm sinh?
Đục thuỷ tính thể bẩm sinh là loại đục thuỷ tinh thể do trong quá trình thai nhi phát triển, một số nhân tố nội sinh (di truyền nhiễm sắc thể) hoặc ngoại sinh (do bệnh biến toàn thân của mẹ hoặc thai nhi) ảnh hưởng đến quá trình phát sinh, phát triển, trưởng thành của phôi thai thuỷ tính thể, ngay sau khi sinh ra trẻ đã bị. Dựa vào các đặc trưng hình thái khác nhau, có thể chia thành hơn 10 loại như đục dạng điểm chấm, đục cực trước và cực sau, đục dạng nan^, dục dạng màng, đục dạng cánh hoa, đục bao quanh nhân và đục hoàn toàn... Tuyệt đại đa số các ca đục thuỷ tính thể bẩm sinh không ảnh hưởng dến thị lực, cũng không có bất kì cảm giác nào, nên không cần điều trị dặc biệt, chỉ trường hợp đục bao quanh nhân và đục hoàn toàn là ảnh hưởng nhiều đến thị lực mới cần phải điều trị phẫu thuật sớm.
45
Đục thuỷ tinh thể bẩm sinh là một biểu hiện trở ngại phát triển toàn thân của thai nhi, ngoài trở ngại sự phát triển của thuỷ tinh thể, còn thường kèm theo những dị dạng ở mắt hoặc các bộ phận khác trên cơ thể, bởi vậy, đối với trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh, không những phải chú ý những thay đổi ở bản thân thuỷ tinh thể, mà còn phải chú ý đến cả mắt (như giác mạc nhỏ, khiếm khuyết hồng mạc, nhãn cầu nhỏ w ...) và các bộ phận khác (như tứ chi phát triển không đầy đủ w ...) có bị dị dạng bẩm sinh hay không.
19. Đục thuỷ tình thể bẩm sinh diễn ra như thê' nào?
Tuy đục thuỷ tinh thể bẩm sinh có nhiều loại hình thái khác nhau, hơn nữa, những biến dị trong quá trĩnh phát triển phôi thai thuỷ tinh thể cũng không giống nhau, nhưng về cơ bản có 2 nhân tố lớn ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển của thuỷ tinh thể, đó là:
(1) Nhân tố nội sinh: do biến đổi của gen nhiễm sắc thể làm quá trình phát triển phôi thai thuỷ tinh thể bị trở ngại (như tinh bào thể không dầy đủ hoặc bị rụng chậm, hệ thống mạch máu thuỷ tinh thể phát triển chậm suy thoái...), bị di truyền trong gia đình.
46
(2) Nhân tố ngoại sinh: là nhân tố chủ yếu gây ra đục thuỷ tính thể bẩm sinh. Do mẹ hoặc thai nhi bị ảnh hưởng một nhân tố nào đó làm quá trình phát triển của thuỷ tính thể bị trở ngại. Nếu trong 6 tháng đầu người mẹ mang thai bị các bệnh truyền nhiễm như phong mẩn, thuỷ đậu, mề đay, viêm chất xám tuỷ, viêm tuyến nước bọt w ... thì thai nhi có thể gặp hàng loạt trở ngại khi phát dục và phần lớn gây ra đục thuỷ tính thể bẩm sinh, lây nhiễm càng sớm thì tỷ lệ phát sinh đục thuỷ tính thể càng cao. Ngoài ra, trong thời gian phát triển nếu thai nhi bị một nhân tố nào đó làm chức năng tuyến cạnh giáp trạng bị rối loạn, gây mất cân bằng trao đổi canxi, cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến đục thuỷ tính thể bẩm sinh. Trẻ bị đục loại này có thể kèm theo các mô chứa canxi phát triển không tốt, như răng lợi, xương cốt phát triển dị thường.
20. Quá trình phát triển nhãn cầu của trẻ nhỏ có những đặc điểm gì?
Chúng ta đều biết, khi thai nhi được 6 - 7 tuần tuổi, phôi m ắt đã bắt đầu hình thành, dã có thể phân biệt được hình dáng của nhãn cầu, nhưng các hệ thống và chức năng của nhãn cầu vẫn phát triển chưa hoàn thiện, cho đến khi chào đời, nhãn cầu vẫn tiếp tục thay đổi, đến trước thời kì dậy thì,
47
tốc độ phát triển của nhãn cầu vẫn tăng nhanh, tới 15 - 16 tuổi kích thước nhãn cầu mới cơ bản gần bằng người lớn.
Đặc điểm phát triển nhãn cầu của trẻ nhỏ, có 4 điểm sau:
(1) Sự thay đổi kích thước và ngoại hĩnh của nhãn cầu: 6 tháng - 3 tuổi nhãn cầu lớn rất nhanh. Khi 3-14 tuổi, tốc độ tăng trưởng của nhãn cầu chậm dần, nhưng vẫn tiếp tục tăng. Đến giai đoạn dậy thì (15 - 16 tuổi) tốc dộ tăng trưởng của nhãn cầu lại tăng nhanh, sau đó lại thay đổi rất ít. Theo thống kê, đường kính trước - sau của nhãn cầu trẻ mới sinh khoảng 15mm, 3 tuổi tăng lên 22,5 - 23mm, sau đó mỗi nám chỉ tăng khoảng 0,lm m , đến 15 - 16 tuổi thì kích thước gần bằng người lớn. Tuy mức độ và tốc độ tăng trưởng của các loại mô nhãn cẩu không giống nhau, nhưng thông thường phần trước của nhãn cầu (giác mạc) tăng trưởng ít và chậm, còn phần phía sau lại tăng trưởng nhiều và nhanh nhất là thuỷ tinh thể, dung lượng tăng nhiều, tử đó làm nhãn cầu thay đổi rõ rệt về ngoại hình.
(2) Độ chiết quang của nhãn cầu bị thay đổi: Như ở trên đã nói, đường kính trước sau của nhãn cầu ở trẻ sơ sinh rất ngắn, hơn nữa không phải là hình tròn đích thực, do vậy phần lớn trẻ bị viễn thị nhẹ (thường độ chiết quang là 3 - 4). Khi
48
thuỷ tình thể có hình cầu, thi độ cong của giác mạc cũng tương đối lớn, nên độ chiết quang của thuỷ tình thể ở trẻ mạnh hơn người lớn. Khi tuổi tác tăng lên, đặc biệt là giai đoạn trước - sau thời ki dậy thì, trục mắt dài dần, làm cho khuynh hướng cận thị tăng lên, đồng thời, giác mạc và thuỷ tình thể cũng phẳng dẹt hơn, đến một mức độ nhất định thì hết khuynh hướng cận thị, như vậy làm cho năng lực chiết quang chung của nhãn cầu đảm bảo không thay đổi.
Tóm lại, khi nhãn cầu trẻ nhỏ phát triển, thì sự thay đổi năng lực chiết quang của nó sẽ phát triển dần dần từ viễn thị (trên 85%) sang hướng bình thương.
(3) Sự phân hoá liên tục và hoàn thiện chức năng các mô trong nhãn cầu: những người làm mẹ đều có những thể nghiệm như sau, khi trẻ vừa mới chào đời đều chưa có phản xạ nháy mắt, dùng tay quơ trước m ắt nó cũng không chớp mắt, nhãn cầu của trẻ chuyển động cũng không hài hoà và không có mục đích, khi dùng đèn pin chiếu vào mắt, trẻ cũng chi có một phản ứng là nháy mắt. Khi tuổi của trẻ tăng dần phản xạ nháy mắt mới được hình thành. 2 tháng sau khi sinh, trẻ bắt đầu có những phản xạ nháy mắt đơn thuần, 3 tháng bắt đầu biết chú ý nhìn có mục đích, 4 tháng các tế bào ở điểm vàng đáy m ắt tiếp tục phân hoá, dần dần có lõm giữa. 6
49
tháng hình dạng của đáy m ắt mới dần giống với kết cấu điển hình của đáy mắt người lớn, cả 2 mắt mới thực sự biết nhìn chăm chú.
(4) Sự thay đổi của thuỷ tinh thể: Các sựi của thuỷ tinh thể không ngừng được sinh thêm trong suốt cuộc đời, giống như củ hành táy vậy, các lớp sựi mới phát triển thêm không ngừng. Vì vậy, sau khi chào đời, khi năm tháng tăng lên, thể tích của thuỷ tinh thể cũng dần tăng theo. Trọng lượng của thuỷ tính thể của trẻ mới sinh khoảng 80g, đến thời kĩ dậy thì nặng khoảng 160g, đến 70 tuổi thi nặng khoảng 200g. Lúc mới sinh, thuỷ tính thể có hình cầu, sau thời kì dậy thì dần dần biến thành hình tròn dẹt. Khả năng chiết quang cũng thay đổi từ mạnh đến yếu.
21. Quá trình hình thành thuỷ tinh thể bình thường diễn ra như thế nào?
Xét từ góc độ phôi thai học, thi thuỷ tính thể được hình thành từ lá phôi ngoài bề mặt, quá trình hình thành của nó đưực chia thành 2 giai đoạn:
(1) Giai đoạn hĩnh thành bóng thuỷ tính thể: trước khi phôi thai dài khoảng 3,2mm (tương dương thai 3 tuần tuổi), là phôi ngoài bề mặt chỉ do 1 lớp thượng bì lập phương chưa phân hoá tạo thành. Đến khi phôi thai dài khoảng 4,5m m (khoảng 3 - 4 tuần tuổi), lớp thượng bì lá mẩm ngoài bẻ
50
m ặt mới dần dần dày lên, hình thành bản thuỷ tinh thể. Khi phôi thai khoảng 5mm, bản thuỷ tinh thể lõm xuống, gọi là lõm thuỷ tinh thể. Đến khi phôi thai khoảng 9mm (4-5 tuần tuổi), lõm thuỷ tinh thể dần dần sâu và rộng hơn, hoàn toàn phân cách với lá phôi ngoài bề mặt, tạo ra bóng thuỷ tinh thể hình cầu.
(2) Giai đoạn hình thành nhân và sỢi thuỷ tinh thể: Bóng thuỷ tính thể sau khi được tách ra khỏi lá phôi ngoài bề mặt, vách trước dần dần được phân hoá thành túi trước; vách sau dần dần mảnh và dài ra, phân hoá thành các sỢi thuỷ tinh thể nguyên thuỷ, ở phần giữa hình thành nhân phôi thuỷ tinh thể và hoàn chỉnh trong khoảng 1 - 3
tháng. Khi phôi thai được 3 - 8 tháng tuổi sẽ dần dần hình thành nhân thai nhi, và hình thành nhân sơ sinh trước lúc đứa trẻ ra đời (do ưếp tục hình thành sỢi thuỷ tinh thể). Sau thời kĩ dậy thì đến lúc trưởng thành sẽ dần hình thành nhân trưởng thành. Khi phôi thai được 2 - 3 tháng, tế bào ở chỗ giao nhau giữa vách trước vách sau biến thành tế bào thượng bì phần xích đạo của thuỷ tinh thể, sau đó dần dần phân hoá và phát triển, hình thành ra các sựi thuỷ tinh thể mới (gọi là sỢi thuỷ tinh thể kế phát). Do lớp thượng bì dịch lấn dần xuống sâu, còn lớp bao quanh nhân giữa không ngừng tăng lên suốt đời, đến sau tuổi trưởng thành, số sỢi thuỷ tinh thể vẫn tăng nhưng chậm.
51
22. Như thế nào gọi là chứng không có thuỷ tinh thể và thuỷ tinh thể hình cầu bẩm sinh?
Như phần trên dã nói, sự hình thành bệnh đục thuỷ tinh thể bẩm sinh có liên quan tới 2 nhân tố ngoại sinh và nội sinh. Ngoài hiện tượng vẩn đục thuỷ tinh thể ra, trong lâm sàng còn có thể gặp các bệnh thuỷ tinh thể phát triển dị thưởng bẩm sinh khác, như thuỷ tinh thể nhỏ bẩm sinh, thuỷ tinh thể hình cầu, hoặc không có thuỷ tinh thể do bẩm sinh.
Thuỷ tinh thể nhỏ bẩm sinh hoặc thuỷ tinh thể hình cầu phần lớn đều bị đồng thời cả 2 mắt, thuỷ tinh thể nhỏ và tròn, dường kính trước - sau lớn, có độ chiết quang cao, cho nên các nhãn cầu loại này phần lớn là cận thị nặng. Do cự ly giữa thuỷ tinh thể và hồng mạc tương đối gần, hơn nữa, các dây chằng nhỏ của thể lông mi phát triển không tốt, nên khi tư thế dầu thay đổi thì thuỷ tinh thể cũng thay đổi theo sự thay đổi tư thế của đầu, làm thuỷ tinh thể bị lệch vị trí hoặc bị bán thoát vị, về sinh lý con ngươi bị trở ngại. Chứng này thường kèm theo không có đồng tử bẩm sinh, bệnh thong manh phản hướng w ..., ở giai đoạn cuối thường phát sinh bệnh đục thuỷ tinh thể. Nguyên nhân phát sinh thuỷ tinh thể nhỏ bẩm sinh hoặc thuỷ tinh thể hình cầu là do khi thai được 5 - 6 tháng tuổi bị ảnh hưởnr) của một nhân
52
tố không tốt nào đó, làm sự phát triển của thuỷ tinh thể bị gián đoạn, hoặc màng mạch máu thuỷ tinh thể cung cấp máu không đủ hoặc do một nguyên nhân nào dó gây thiếu máu thiếu oxy, làm thuỷ tính thể không phát triển tương ứng, gây ra thuỷ tinh thể hình cầu hoặc nhỏ bẩm sinh.
Bệnh không có thuỷ tinh thể bẩm sinh ít gặp hơn, có thể phân thành hai loại: không có thuỷ tinh thể nguyên phát và khống có thuỷ tinh thể kế phát. Không có thuỷ tinh thể nguyên phát là trước lúc phôi thai dài 3 - 2mm, là phôi ngoài bề m ặt bị ảnh hưởng của một nhân tố không tốt nào đó, làm bản thuỷ tinh thể không hình thành được, do vậy thuỷ tinh thể cũng không thể hình thành được. Không có thuỷ tinh thể kế phát là loại sau khi bản thuỷ tinh thể hĩnh thành hoặc sau khi thuỷ tinh thể vừa mới định hình, do một nguyên nhân nào đó (như rách màng túi thuỷ tinh thể, chất da bị hấp thu...) làm thuỷ tinh thể biến tính và teo đi, chỉ còn sót lại mấy sỢi mô như lông nhung màu trắng nối với màng con ngươi hoặc chỉ thấy mô màng túi bị bièn hình teo lại, tạo ra đục thuỷ tinh thể kế phát do màng. Sự phát sinh đục kế phát do màng, nói chung đều có liên quan tới việc bị lây nhiễm khi mang thai, có khi đồng thời bị với nhãn cầu nhỏ bẩm sinh hoặc lung lay nhãn cầu bẩm sinh.
53
23. Đục thuỷ tình thể bẩm sinh có quan hệ như thế nào với sự phát triển của toàn thân?
Mắt là một bộ phận của cả chỉnh thể con người, trong nhiều chứng bệnh toàn thân bẩm sinh đều thấy có biểu hiện ở mắt, có lúc dựa vào sự thay đổi của rãnh chữ Y, có thể truy tìm manh mối của một bệnh toàn thân nào đó. Trẻ nhỏ bị dục thuỷ tinh thể do bẩm sinh cũng thường kèm theo dị dạng ở các cơ quan khác hoặc phát triển không tốt, giữa chúng luôn có một mối liên hệ chặt chẽ. Như chứng tổng hợp Francois (trong đó có đục thuỷ tinh thể), ngoài đục thuỷ tinh thể bẩm sinh ra, còn kèm theo những thay đổi trên cơ thể như cằm phát triển không đầy đủ, lùn, lông tóc thưa ít, da khô vv... Người ngu đần bẩm sinh cũng là một trong những chứng tổng hợp đục thuỷ tinh thể bẩm sinh, thường kèm theo đại não phát triển không dầy đủ, trí lực suy giảm, các khớp tứ chi lỏng lẻo, bệnh tim bẩm sinh w ...
Ngoài ra, còn có nhiều bệnh di truyền cũng liên quan m ật thiết với chứng dục thuỷ tinh thể, như cơ tê cứng, chứng đường huyết bán nhũ, xương vôi hoá bẩm sinh, chứng stickler, chứng Maíanshi, chứng già sớm, chứng Gruber, chứng Tumer w ... Do vậy, đồng thời với việc kiểm tra đục thuỷ tình thể bẩm sinh, bác sĩ nhãn khoa phải chú ý xem bệnh nhân có những phát triển khác thường của
54
một cơ quan nào đó hay không, để chẩn đoán chính xác và diều trị hợp lý hơn.
24. Trẻ nhỏ bị đục thuỷ tình thể bẩm sinh có những biểu hiện gì?
Mọi người đều biết, phần lớn những người bị đục thuỷ tinh thể phát triển rất chậm, thị lực cũng suy giảm dần, hơn nữa họ không hề có bất kỳ cảm giác khó chịu nào. Đặc biệt là trẻ nhỏ, bản thân các cháu không thể nói rõ bệnh tình của mình, nếu cha mẹ không quan sát kĩ mọi hành vi động tác của con mình, thì rất dễ bỏ qua các bệnh tật ở mắt của trẻ. Bệnh đục thuỷ tinh thể bẩm sinh có những biểu hiện gì, có thể phân tích trên 2 phương diện là quan sát sinh hoạt của trẻ và kiểm tra của bác sĩ.
ở trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh, do chức năng nhìn kém hơn so với các bạn cùng tuổi, nên biểu hiện ban dầu là khả năng sinh hoạt giảm sút và hoạt động không hài hoà. Như không hứng thú xem ti vi và những bức tranh sặc sở, không thể cảm nắm chuẩn xác những đồ chơi hoặc vật nhỏ, khoảng cách mắt lúc đọc sách và viết lách quá gần vv... Có lúc các cháu có biểu hiện chỉ nhìn bằng một mắt (khi xem sách phải ngoẹo đầu), hành dộng chậm chạp hơn so với trẻ cùng tuổi, không thích ra ngoài chơi cùng với các bạn w ... Có những
55
cha mẹ thấy con mình như vậy, lại cho rằng con mình còn nhỏ, nhát gan, sau này lớn sẽ hết. Các cháu còn có những biểu hiện khác: khi mới chào đời, nhãn cẩu 2 mắt hơi nhỏ hoặc m ắt to nhỏ không đều (chênh lệch quá lớn), sau vài tháng hoặc vài năm phát hiện thấy mắt của trẻ không tự chủ chuyển động, có lúc thấy toàn lòng trắng hoặc bị lác, nhưng có cha mẹ chỉ cho rằng đó là thói quen không tốt của trẻ hoặc trẻ lơ đễnh, nên thường vô cớ trách móc, đánh chửi con cái, buộc chúng phải sửa chữa. Kỳ thực, đó là do bản thân trẻ không thể khống chế được chuyển động của mắt, vì chức năng thị lực của trẻ không tốt gây ra. Khi cha mẹ thấy con mình có những biểu hiện như trên, thì nên đưa con đến bệnh viện kiểm tra xem có bị đục thuỷ tinh thể hay không. Trong nhản khoa, việc kiểm tra trẻ bị đục thuỷ tinh thể tương đối đơn giản, nếu thấy khu con ngươi của trẻ chuyển sang màu xám hoặc trắng, thị lực lại kém, có thể dùng thuốc nhỏ m ắt Atropine 1% hoặc cao mắt làm giãn rộng con ngươi để kiểm tra cụ thể, qua quan sát hình dáng, phạm vi vẩn đục của thuỷ tinh thể là có thể biết ngay.
Ngoài ra, trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh thường kèm theo những dị dạng bẩm sinh khác ở mắt hoặc kèm theo cơ thể phát triển dị thường và trao đổi chất bị trở ngại. Nếu thấy nhãn cầu 2 m ắt nhỏ, giác mạc, hồng m ạc nhỏ, màng mạch
56
máu thiếu, nhãn cầu lung lay, nhìn kém, tứ chi phát triển không đầy đủ, đầu nhở dị dạng thì phải chú ý xem có biểu hiện của đục thuỷ tinh thể bẩm sinh hay không.
25. Đục thuỷ tình thể bẩm sinh có ảnh hưởng đến thị lực không?
Như ở trên đã nói, đục thuỷ tinh thể bẩm sinh tuy vừa sinh ra đá có, nhưng ở không ít người chứng bệnh dừng lại hoặc phát triển chậm chạp, phần lớn vẩn đục thuỷ tinh thể chỉ nằm ở khu chất da xung quanh, hơn nữa lại phân bố thưa thớt, phạm vi nhỏ. Nếu đục thuỷ tinh thể phân bố dày đặc hoặc nằm ở tầng nhân, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị lực, khi đó phải điều trị phẫu thuật sớm. Đục thuỷ tinh thể bẩm sinh có mấy dạng ảnh hưởng đến thị lực như sau:
(1) Đục tinh thể quanh nhân: là kiểu vẩn dục dạng chấm xuất hiện xung quanh lớp nhân bán trong suốt, biểu hiện điển hình là khu vẩn đục kiểu vành đai sắp xếp như "cánh hoa cúc", có lúc thấy các khu vẩn đục kiểu vành đai chồng lên nhau. Vì chúng thường nằm ở khu vực con ngươi, nên có ảnh hưởng rất lớn đến thị lực. Trong thời kì phôi thai, vẩn dục dạng vành đai phát sinh càng sớm thì vị trí càng gần trung tâm, phạm vi càng nhỏ. Ngược lại, nếu phát sinh càng muộn thì phạm
57
vi che phủ con ngươi càng lớn, ảnh hưởng đối với thi lực càng lớn. Loại đục hnh thể này đa số xuất hiện ở cả 2 mắt, khi tuổi tác tăng lên khu vẩn đục có thể dịch chuyển sâu dần vào trong.
(2) Đục tinh thể hoàn toàn: Do một nguyên nhân nào đó, lớp thượng bì và cơ chất của thuỷ tinh thể bị rách trong lúc là thai nhi, làm cho trẻ ngay sau khi chào đời đã bị đục thuỷ tinh thể hoàn toàn, biểu hiện là khu vẩn đục màu xám trắng, không có quy tắc, m ật độ không đồng đều, có lúc trong thuỷ tinh thể bị vẩn đục có thể phát sinh nhũ hoá giống như sữa bò. ở dạng đục thuỷ tinh thể loại này, do ngay sau khi sinh ra đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị lực, nên phải điều trị phẫu thuật sớm (khoảng 1 - 2 tuổi).
(3) Các dạng đục thuỷ tinh thể bẩm sinh ít gặp khác: như đục thuỷ tinh thể hình cọc sỢi là loại vẩn đục hình cọc sợi có trục hình mũi tên xuyên qua thuỷ tinh thể, nối liền cực trước với cực sau, các sỢi tính thể ở phần giữa có thể nở to, ảnh hưởng tới thị lực. Trong đục thuỷ tinh thể trung tám, vẩn dục xuất hiện ở khu nhân thai, có bờ mép rõ ràng, màu trắng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị lực.
Điều cần chú ỷ là: đục thuỷ tinh thể bẩm sinh, tuy phần lớn tự dừng lại, không ảnh hưởng lớn tới thị lực, nhưng có một số phát triển chậm chạp.
58
đến sau tuổi thành niên, phạm vi vẩn đục tinh thể mới dần dần mở rộng và có ảnh hưởng nhất định đến thị lực. Do vậy, đối với người đục thuỷ tinh thể bẩm sinh, ngoài việc chú ỹ những thay đổi về thị lực khi còn nhỏ ra, sau tuổi trưởng thành vẫn phải chú ỷ những thay đổi thị lực của mình và kịp thời dùng các biện pháp chữa trị thích hợp.
26. Làm thế nào phát hiện sớm đục thuỷ tinh thể ở trẻ nhỏ?
Trong các phòng khám mắt, thường gặp các trẻ nhỏ chưa đi học được mẹ dẫn đến khám bệnh, khi kiểm tra thị lực, thấy rất thấp: dưới 0,1, nếu kiểm tra bằng kính hiển vi đèn rọi sẽ thấy trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh. Khi đó người mẹ mới giật mình, hối hận không kịp thời kiểm tra mắt cho con. Kỳ thực, chủ yếu chl do người mẹ lúc bình thường không quan sát kĩ các hành vi động tác của con mình, không chú ỷ những thay đổi bên trong m ắt của con, nên để gây ra những hậu quả rất khó cứu vãn, ân hậu cả đời. Vậy làm thế nào để phát hiện sớm đục thuv tinh thể ở trẻ nhỏ? Cha mẹ phải chú ý quan sát trên những phương diện sau:
(1) Chú ý quan sát mọi hành vi động tác của con: khi trẻ mới chào đời, dường kính trước - sau của nhãn cầu rất ngắn, phần lớn là viễn thị, thị
59
lực cũng chưa phát triển đầy đủ. Khi tuổi trẻ tăng lên, nhãn cầu sẽ dần dần dài ra, làm độ viễn thị giảm dần, thị lực cũng tăng dần lẽn. Trong môi trường bình thường, trẻ 3 tháng tuổi đã biết dùng tay lấy dồ vật, khi mẹ cầm đồ chơi huơ huơ trước mắt trẻ, thì mắt hoặc đầu của nó cũng chuyển động theo. Trẻ 1 tuổi tuy thị lực còn kém, nhưng trẻ đã có thể chủ động nhặt các đồ chơi xung quanh hoặc cầm dồ ăn. Nếu trẻ bị đục thuỷ tinh thể (đặc biệt trường hợp bị cả 2 mắt) thì những khả năng này giảm rõ, khi đó phải đến bệnh viện dể kiểm tra.
(2) Chú ý những thay đổi ở khu vực con ngươi của trẻ: ở trẻ phát triển bình thường thì nhãn cầu 2 mắt có độ to - nhỏ cơ bản là bằng nhau, giác mạc trong suốt, dùng đèn pin chiếu vào con ngươi thấy phản ứng co đồng tử rõ ràng, thuỷ tinh thể trong suốt. Nếu thấy khu vực con ngươi biến sang màu trắng hoặc xám, không phản sáng thì phải đến bệnh viện kiểm tra.
(3) Chú ỹ quan sát chuyển động nhãn cầu của trẻ: Có cha mẹ thấy mắt của con chuyển động không tự chủ lại cho rằng dó là thói quen không tốt của trẻ nên trách móc đánh mắng trẻ. Thực ra, đó là do bản thân trẻ không thể khống chế được chuyển động của nhãn cầu, là một trạng thái bệnh. Nếu thấy mắt trẻ chuyển dộng không tự chủ thì phải tích cực tìm nguyên nhân, đưa đến bệnh viện chuyên khoa kiểm tra xem trẻ có
60
bị các bệnh về m ắt như đục thuỷ tinh thể bẩm sinh, khiếm khuyết màng mạch, khiếm khuyết hồng mạc bẩm sinh hay không.
(4) Chú ý quan sát trẻ có phải thay đổi vị trí đầu để nhìn không, đó là do thị lực một bên mắt không tốt không nhìn rõ đồ vật, khi trẻ muốn nhìn vật thường phải dùng mắt có thị lực tốt, nên khi nhìn vật phải nghiêng đầu, đầu hơi lệch sang bên mắt có thị lực tốt. Nếu có biểu hiện này, phải mời bác sĩ chuyên khoa khám xem có bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh hay không.
(5) Chú ý kiểm tra thị lực cho trẻ: với trẻ phát triển bình thường thì 4 - 5 tuổi, thị lực có thể đạt tới 0 ,8 - 1,0, ta có thể nhận biết được qua bảng kiểm tra thi lực thông thường, lúc 3 tuổi có thể hiểu được các hình vẽ của bảng thị lực động vật. Do vậy, cha mẹ phải sớm cho con tới bệnh viện để kiểm tra thị lực và kịp thời phát hiện đục tinh thể bẩm sinh. Ngoài ra, khi kiểm tra thị lực cho trẻ phải kiên tri, thái độ ôn hoà, phải biểu dương, động viên trể để trẻ hợp tác, có vậy mới kiểm tra chính xác.
27. Chăm sóc trẻ bị đục thuỷ tinh thể như thế nào?
ở trẻ bị đục thuỷ tinh thể, do chức năng nhìn không tốt, nên sẽ ảnh hưởng ở một mức độ nhất
61
định tới sự phát triển tri lực và hoạt động của trẻ. Thường trẻ hay bị kèm theo những dị dạng ở các cơ quan khác, khả năng tự lo liệu cuộc sống rất kém, nên đòi hỏi cha mẹ phải bỏ thời gian chăm sóc trẻ nhiều hơn. Phải chăm sóc trẻ ở những mặt sau:
(1) Chăm sóc nhiều hơn trong sinh hoạt: Do trẻ từ nhỏ đã bị kém về thị lực, chức năng nhìn phát triển không hoàn thiện, nên việc tự liệu trong sinh hoạt và khả năng khống chế tương đối yếu, trẻ nhìn không rõ các đồ vật bé nhỏ, khi chơi cũng cảm thấy chân tay lóng ngóng, động tác chậm chạp, một số phản xạ có điều kiện cũng tương đối chậm, không linh hoạt. Cha mẹ phải biết rõ những vấn đề đó là do chức năng nhìn kém mang lại, nên không phải dành cho trẻ sự chăm sóc đặc biệt, phải nhẫn lại, ân cần dạy bảo, rèn luyện từ từ từ đơn giản đến phức tạp, nâng cao năng lực sinh hoạt cho trẻ, mua những đồ chơi to hoặc có màu sắc sặc sở, có ý thức kích thích chức năng nhìn của trẻ phát triển.
(2) Kiên nhẫn phụ đạo trẻ học tập: có cha mẹ (nhất là bố mẹ trẻ) mong muốn "con thành rồng", nên bắt con học tập cả ngày trong nhà, họ cho rằng m ắt trẻ bị khuyết tật, thì càng phải giữ gìn, không cho trẻ thời gian chơi bời. Thực ra, cách làm này hoàn toàn phản tác dụng, làm kết quả
62
học tập của con cái không những không nâng cao, mà còn dần dần giảm sút. Cách làm đúng đắn là cha mẹ nên giúp trẻ sắp xếp thời gian học tập và chơi đùa, nghỉ ngơi hợp lý, kích thích hứng thú học tập bằng nhiều kênh, nhiều phương diện. Do trẻ bị kém thị lực từ nhỏ, nhưng khả năng nghe và ghi nhớ vẫn tốt, cha mẹ phải nắm bắt được đặc điểm này để kiên nhẫn chỉ bảo, kích thích trí lực của trẻ phát triển, nếu có thể thì nên đáp ứng đầy đủ yêu cầu của trẻ về đồ dùng học tập và môi trường học tập ở nhà, để nâng cao năng lực học tập của trẻ.
(3) Hương dẫn trẻ tham gia vào hoạt động xã hội và tập thể: Trẻ bị đục thuỷ tinh thể, do thị lực kém nên khả năng hoạt động của trẻ bị hạn chế. Có trẻ không muốn chuyện trò, chơi đùa với người khác, không thích tham gia các hoạt động tập thể, lâu dần thành tính cô độc, hướng nội thậm chí đến mức kỳ quặc. Vĩ vậy cha mẹ phải chủ động dẫn dắt trẻ tham gia một số hoạt động tập thể có ý nghĩa như bơi, tham quan..., không nên nói thị lực của bé không tốt, trẻ đã phải mổ mắt vv... trước mặt người khác, nên mạnh dạn thả cho trẻ tham gia những việc có khả năng làm, khi trẻ làm sai hoặc làm hỏng phải kiên nhẫn chỉ bảo, không nên huấn thị thô bạo để tránh làm tổn thương lòng tự trọng của trẻ.
63
Chi cần cha mẹ cố gắng kích thích phát huy hứng thú học tập và sinh hoạt của trẻ, quan tâm chú ý tới đặc điểm sinh lý của trẻ, thì trẻ bị đục thuỷ tính thể cũng có thể sống vui vẻ như những trẻ bình thường khác.
28. Nuôi dưỡng trẻ bị đục thuỷ tinh thể như thế nào?
Trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh thường kèm theo những khó khăn trong quá trình phát triển những kết cấu khác ở m ắt và những bộ phận khác của cơ thể, có thể bị ở 1 mắt, cũng có thể bị ở cả 2 mắt, có trẻ bị khiếm khuyết về trí lực, cũng có trẻ bị dị dạng ở tứ chi, hơn nữa thường kéo theo suy dinh dưỡng toàn thân. Do vậy, từ nhỏ phải chú ỷ dinh dưỡng cho trẻ bị đục thuỷ tính thể, việc nắm được những đặc thù trong nuôi dưỡng trẻ bị đục thuỷ tinh thể có vai trò vô cùng quan trọng. Cách làm cụ thể như sau:
(1) Nâng cao hứng thú ăn uống, chú ý kết hợp giữa ăn kiêng và ăn mặn: Do thị lực của trẻ kém, độ mẫn cảm của thị giác thấp, phản ứng chậm, thờ ơ lánh đạm với những sự vật xung quanh, vì vậy trong ăn uống phải làm thế nào để nâng cao hứng thú ăn uống cho trẻ. Ngoài việc thường xuyên đa dạng hoá, thay dổi món ăn ra, việc thay đổi màu sắc hương vị của món ăn cũng rất quan trọng,
64
phải làm nhiều đồ ăn có màu sắc tươi ngon để trẻ tự chọn gắp, cũng có thể mua hoặc làm các thành phẩm hoặc bán thành phẩm có hình dáng dộng vật, hình thù kỳ lạ cho trẻ tự lựa chọn; chú ý phối hợp hợp lý giữa ăn kiêng và ăn mặn, hoa quả cũng nên thay đổi liên tục để nâng cao khả năng ăn uống của trẻ.
(2) Điều chỉnh hợp lý kết cấu bữa ăn, chú ý vệ sinh ăn uống: Với trẻ bị dục thuỷ tinh thể bẩm sinh, nhất là những trẻ kéo theo trở ngại về trí lực, hàng ngày phải tăng cường prôtêin một cách thích hợp, có thể cho ăn nhiều sữa bò, thịt nạc, gan lợn, cá, tôm...; đồng thời tăng cường các Vitamin một cách thích hợp, ăn nhiều rau cỏ, hoa quả; mua những sản phẩm bổ sung giầu Axit Amin để thúc đẩy đại não phát triển. Ngoài ra, do khả năng tự lo liệu sinh hoạt của trẻ bị bệnh kém, nhất là trẻ bị bệnh ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu, có thói quen vệ sinh không tốt, thì bố mẹ nên dành thời gian chăm sóc trẻ nhiều hơn trong ăn uống, chú ý vệ sinh ăn uống.
(3) Cần phải kiên nhẫn trong nuôi dương, chú ý tiêu hoá: Những trẻ bị đục thuỷ tinh thể kéo theo đại não phát triển không tốt, ngoài việc trí lực chậm phát triển ra, khả năng tiêu hoá cũng kém, ăn ít và chậm, biếng ăn, có hiện tượng bỏ bữa liên tục, dẫn đến suy dinh dưỡng. Do vậy,
65
khi trẻ còn nhỏ, cha mẹ nên kiên nhẫn, cẩn thận ân cần trong nuôi dưỡng, tăng cường thích hợp các thực phẩm giầu prôtêin, đường, khi cho ăn phải đặc biệt cẩn thận, có thể mua những thực phẩm bán thành phẩm, dễ tiêu hoá như "sữa trẻ em", "bột dinh dưỡng" trên thị trường. Có những cha mẹ, nhất là cha mẹ trẻ, khi nuôi con thiếu kiên nhẫn, trẻ ăn ít hay ăn nhiều cũng không xem xét hỏi han, thậm chí buông lỏng để mặc tự nhiên; cũng có người nuôi dưỡng con thiếu khoa học, không phân biệt các trường hợp, không nhớ thời gian cho ăn, trẻ ngủ dậy là cho bú, khóc quấy là cho bú, làm chức năng tiêu hoá của trẻ bị suy giảm. Lời khuyên với các cha mẹ có con bị đục thuỷ tinh thể trong trường hợp này là, nên mua sách báo nói về dinh dưỡng của trẻ, học tập và nắm vững phương pháp nuôi trẻ bị bệnh một cách khoa học, như vậy viên ngọc nhỏ của bạn sẽ vẫn phát triển tốt như những đứa trẻ bình thường, hoạt bát và đáng yêu.
29. Đục thuỷ tình thể bẩm sinh được phân loại như thế nào?
Theo nguyên nhân phát bệnh, đục thuỷ tinh thể bẩm sinh có thể chia thành 2 loại lớn là nội sinh và ngoại sinh. Nhưng bất kể là nội sinh hay ngoại sinh, thì đặc trưng về hình thái và nguyên
66
tắc điều trị không có gì khác biệt lớn, do vậy không có ý nghĩa quan trọng trong lâm sàng. Hiện nay, phương pháp có ý nghĩa chỉ đạo điều trị là phương pháp phân loại theo hình thái học căn cứ vào hình thái khác nhau của đục thuỷ tinh thể bẩm sinh, phạm vi và vị trí đục mà quyết định thời cơ và phương pháp diều trị.
Thông thường có thể chia thành mấy loại sau:
(1) Đục thuỷ tinh thể cực trước: thường kèm theo đục ở túi trước, có hình chuỳ mầu trắng gồ lên ở khu con ngươi, có lúc có thể xâm nhập vào tiền phòng tạo ra đục thuỷ tinh thể hình chuỳ, đó
A. Đục thuỷ tinh thể ở cực trước (mặt cắt quang học)
B. Đục thuỷ tinh thể ở cực sau (mặt cắt quang học).
Hình 12.
67
là biểu hiện tăng sinh của tế bào thượng bì màng túi trước. Đục thuỷ tinh thể cực trước là do tiền phòng trong thời kì phôi thai hình thành quá muộn, thuỷ tính thể ưếp xúc với giác mạc quá lâu, hoặc do thể tinh bào chưa thoát li hết khỏi lá phôi ngoài bề mặt (xem Hình 12).
(2) Đục thuỷ tinh thể ở cực sau: còn gọi là đục thuỷ tinh thể túi sau, nằm ở cực sau của thuỷ tính thể, hình thái giống như đục thuỷ tinh thể ở cực trước, là do mạch máu của thể trong suốt trong thời kì phôi thai chưa tiêu thoái hoàn toàn gãy ra.
Hình 13. Đục thuỷ tình thể dạng chấm (quan sát chừih diện)
Hình 14. Đục thuỷ tình thể dạng chấm (mặt cắt quang học)
(3) Đục thuỷ tinh thể dạng chấm, khi làm giãn con ngươi, kiểm tra bằng đèn dọi có thể phát
68
hiện thấy đục dạng chấm cực nhỏ trong thuỷ tinh thể, có màu xám hoặc màu lam nhạt, có bờ mép rõ rệt. Bằng m ắt thường có thể nhin thấy các chấm, đến khi các chấm ảnh hưởng tới thị lực thì gọi là đục thuỷ tinh thể dạng chấm (xem Hình 13 và Hình 14).
(4) Đục thuỷ tinh thể dạng cánh hoa: thường phát sinh đồng thời ở cả 2 mứt, dặc điểm là xuất hiện các vẩn đục dạng hạt với các hình dạng khác nhau, to nhỏ không đều nhau trong các lớp khác nhau xung quanh mép của thuỷ tinh thể, sắp xếp vây quanh phần xích đạo, có hình dạng giống như cánh hoa, nên gọi là đục thuỷ tinh thể dạng cánh hoa. (Xem Hình 15 và Hĩnh 16).
Hình 15. Đục thuỷ tinh Hình 16. Đục thuỷ tinh thể dạng cánh hoa (quan thể dạng cánh hoa (mặt sát chinh diện) cắt quang học)
69
(5) Đục thuỷ tinh thể hình thoi hoặc hình cọc sỢi: là loại các vẩn đục có dạng hình thoi hoặc hình cọc sợi, xuyên qua trung tâm của thuỷ tinh thể, có lúc nối liền cực trước với cực sau, ở phần giữa có thể nở to (xem Hình 17 và Hình 18).
Hỉnh 17. Đục thuỷ tinh thể hùxh thoi (quan sát chứih diện)
Hình 18. Đục thuỷ tính thể hình thoi (mặt cát quang học)
(6) Đục thuỷ tính thể hình sao: có các vẩn đục hình ngôi sao ở gần rãnh chữ Y của thuỷ tính thể, thường có màu tuyết trắng hoặc màu xanh nhạt.
(7) Các dạng đục thuỷ tính thể ít gặp khác: như đục thuỷ tính thể dạng san hô, đục thuỷ tính thể dạng rêu, đục thuỷ tinh thể hình hoa, đục thuỷ tính thể dạng ngọn giáo... (Xem Hình 19 - Hình 24).
70
Hình 19. Đục thuỷ tinh,
Hình 2 0 . Đục thuỷ
thể dạng san hô (quan
tinh thể dạng san hô
sát chmh diện)
(mặt cắt quang học)
Hình 21. Đục thuỷ tinh
Hình 2 2 . Đục tịiuỷ
thể dạng ngọn giáo (quan
tinh thể hình hoa
sát chính diện)
(quan sát chính diện)
71
Hình 2 3 . Đục thuỷ Hình 2 4 . Đục thuỷ tính thể dạng rêu tính thể dạng rêu (quan sát chinh diện.ì (phóng đại nhiều lần)
Những loại đục thuỷ tinh thể nói trẽn, nói chung đều tự dừng lại, nếu thấy không ảnh hưởng tới thị lực thi không cần phải xử lý.
(8) Đục thuỷ tính thể bao quanh nhân: là dạng đục thuỷ tinh thể thường gặp ở trẻ nhỏ, phần lớn bị đồng thời ở cả 2 mắt, dặc điểm là vẩn đục dạng đĩa, xuất hiện ở lớp nhân của thuỷ tính thể, xung quanh phía ngoài lớp nhân bị chất da trong suốt bao lấy, có thể nhìn thấy vẩn đục hình móc câu dàl ngắn khác nhau trong chất da trong suốt, xuyên qua phần xích đạo, có vẩn đục dạng cánh hoa cúc điển hình (xem Hĩnh 25 và Hình 26). Loại đục thuỷ tính thể loại này có ảnh hưởng rất lớn đối với thị lực, nên phải điều trị phẫu thuật sớm.
72
Hình 2 5 . Đục tívuỷ từih thể bao quanh nhãn (quan sát chửih diện) (Sắp xếp dạng "cánh hoa cúc")
Hình 2 6 . Đục thuỷ tmh thể bao quanh nhân (mật cắt quang học)
(9) Đục thuỷ tinh thể hoàn toàn: là loại đục thuỷ tinh thể nghiêm trọng nhất, thông thường loại này khi sinh ra, thuỷ tinh thể đã bị đục hoàn toàn, mức độ đậm - nhạt của chỗ đục có thể không dồng đều, có bóng màu trắng xám dày đặc, có màng túi hoàn chỉnh, có lúc toàn bộ thuỷ tinh thể bị dịch hoá hoàn toàn biến thành dịch thể màu trắng sữa, gọi là đục thuỷ tinh thể dịch hoá. Đục thuỷ tinh thể dạng này ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị lực, nên phải cho chọc hút sớm.
73
(10) Đục thuỷ tính thể dạng màng: thường xảy ra sau khi hút đục thuỷ tinh thể dịch hoá, màng túi trước và túi sau dính lại với nhau và tạo thành cơ, thêm vào dó là tế bào thượng bì và các sợi thuỷ tinh thể còn sót lại tạo nên đục dạng màng, độ dày mỏng không đều, nhưng lại có ảnh hưởng lớn tới thị lực, nên cũng phải phẫu thuật cắt bỏ sớm. Đối với đục thuỷ tinh thể dạng màng tương đối mỏng có thể dùng tia lade YAG để điều trị.
30. Dùng thuốc có thể điều trị được đục thuỷ tinh thể bẩm sinh không?
Như ở trên đã nói, hiện nay điều trị đục thuỷ tinh thể chủ yếu có 2 phương pháp là điều trị bằng phẫu thuật và diều trị bằng thuốc. Kĩ thuật cắt bỏ thuỷ tinh thể đục, lắp dặt tinh thể nhân tạo hiện đại, là phương pháp có hiệu quả duy nhất trong diều trị dục thuỷ tinh thể. Điều trị dục thuỷ tinh thể bằng thuốc vẫn đang ở giai đoạn tìm tòi nghiên cứu. Đục thuỷ tinh thể bẩm sinh là do thuỷ tinh thể phát triển không tốt trong quá trình phát triển thời ki thai nhi gây ra. Nó khác với các loại dục thuỷ tinh thể khác, phần lớn dục thuỷ tinh thể bẩm sinh tự dừng lại, hĩnh dạng và phạm vi dục thuỷ tinh thể không thay dổi lớn trong suốt cuộc đời, cũng không ảnh hưởng tới thi lực, hoặc chỉ bị thay đổi chiết quang nhẹ (có thể
74
đeo kính phổ thông để điều chỉnh), do vậy cũng không cần thiết phải điều trị.
Trong đó, loại có ảnh hưởng tới thị lực chủ yếu là đục thuỷ tinh thể hoàn toàn và đục thuỷ tinh thể bao quanh nhân, cùng một số trường hợp ít gặp là đục thuỷ tinh thể dạng màng. 3 loại đục thuỷ tinh thể này chủ yếu dùng phẫu thuật và tia lade để điều trị (Có một số loại đục thuỷ tinh thể dạng màng có thể dùng tia lade YAG để điều trị).
Hiện nay, các bệnh viện trong nước đã phối chế và bán thuốc điều trị đục thuỷ tỉnh thể (gồm thuốc nhỏ mắt, thuốc uống, thuốc đông y) và chi phù hợp với đục thuỷ tinh thể do tuổi già và các loại đục thuỷ tinh thể khác, nhưng không có hiệu quả gì đối với dục thuỷ tinh thể bẩm sinh.
31. Đục thuỷ tinh thể bẩm sinh có ảnh hưởng như thế nào với sự phát triển trí lực của trẻ?
Như ở trên đã nói, chức năng nhìn của phần lớn các ca đục thuỷ tinh thể bẩm sinh tương đối tốt, có trường hợp thậm chí cả đời không phát hiện ra được, chỉ có biểu hiện các vẩn đục thuỷ tinh thể chỉ bị có mức độ và hình dáng khác nhau, do vậy không có ảnh hưởng nghiêm trọng đối với phát triển trí lực. Nhưng đối với đục thuỷ tinh thể
75
hoàn toàn cả 2 mắt, đục thuỷ tinh thể bao quanh nhân tương đối nặng, thì ngay khi sinh ra thị lực đã không tốt hoặc kèm theo có các dị dạng khác ở m ắt như khiếm khuyết màng mạch hồng mạc, nhãn cầu nhỏ, giác mạc nhỏ, thần kinh thị giác teo w ... Do thị lực của trẻ từ nhỏ đã bị trở ngại, nên gây ảnh hưởng tới sự giao lưu với thế giới bên ngoài ở một mức độ nhất định, đồng thời ảnh hưởng tới sự phát triển trí lực của trẻ.
Ngoài ra, đục thuỷ tinh thể bẩm sinh kèm theo sự phát triển khác thường ở một cơ quan nào đó trên cơ thể, cũng thường có biểu hiện như trí lực thấp phát triển chậm. Như ở dạng ngu đần bẩm sinh, ngoài đục thuỷ tinh thể ra, thường kèm theo đại não phát triển không đầy đủ, trí lực suy giảm, bệnh tim bẩm sinh; Chứng tổng hợp đục thuỷ tinh thể ô nghiệm thường kèm theo cằm dưới phát triển không đầy đủ, lùn, lông tóc ít, da khô... Những điều này có ảnh hưởng nhất định dối với sự phát triển trí lực của trẻ.
32. Trẻ bị đục thuỷ tình thể bẩm sinh có thể đi học được không?
Có cha mẹ lo lắng, con minh bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh thì cuộc sống tương lai, học tập sẽ có vấn đề, rất khó tìm được công việc. Thực ra, những lo lắng đó không cần thiết. Phần lớn trẻ bị
76
đục thuỷ tinh thể bẩm sinh không ảnh hưởng tới thị lực hoặc thị lực chỉ giảm nhẹ, trí lực phát triển cũng tương đối hoàn thiện, do đó chúng hoàn toàn có thể đi học. Tham gia làm việc như những đứa trẻ bình thường khác.
Đối với trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh tương đối nặng như đục thuỷ tinh thể hoàn toàn, đục thuỷ tính thể bao quanh nhân w ..., có ảnh hưởng lớn đến chức năng nhìn thì phải cho phẫu thuật cắt bỏ sớm ở giai đoạn 1 - 2 tuổi, sau phẫu thuật kết hợp với đeo kính hoặc dùng máy kích thích thị lực, thì vẫn có thể đạt được thị lực tốt, không ảnh hưởng lớn đến học tập.
Đối với trẻ có kèm theo các dị dạng khác ở mắt như giác mạc nhỏ, nhãn cầu nhỏ bẩm sinh, khiếm khuyết màng mạch, khiếm khuyết hồng mạc, nhãn cầu lung lay w ... hoặc trí lực phát triển không tốt, chỉ cần cha mẹ kiên nhẫn dạy bảo thì trẻ vẫn có thể đủ điều kiện đi học. Mấy năm gần đây, các tỉnh thành phố lớn và vừa ở Việt Nam đều xây dựng trường học cho người mù, trường cho trẻ phát triển chậm, do dó, với những trẻ trí lực quá thấp hoặc thị lực dưới 0,1 có thể đưa đến những trường hợp này để học tập, có thể sau này các em vẫn có khả năng trở thành nhân tài của đất nước.
77
33. Nên phụ đạo học tập như thế nào cho trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh?
Đối với trẻ bị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh, chức năng nhìn vẫn còn tốt, trí lực phát triển hoàn thiện, sinh hoạt, học tập có thể tự lo liệu được, thì cha mẹ cũng không phải lo lắng nhiều, chi cần hướng dẫn như những trẻ bình thường khác thì kết quả học tập của chúng cũng vẫn tốt. Nhưng với trẻ thị lực thấp, trí lực phát triển kém thì cha mẹ phải dành sự quan tâm đặc biệt trong sinh hoạt và học tập cho trẻ. Họ phải chú ý cẩn thận về phương pháp và cách thức mới có thể giúp trẻ đạt được kết quả học tập tốt.
(1) Sự kiên nhẫn và lo lắng của cha mẹ là chìa khoá vàng dể mở cửa sổ tâm hồn cho trẻ: do thi lực kém nên hiệu quả học tập của trẻ thấp, khi đó cha mẹ không nên ghét bỏ phiền muộn, mà phải nhẫn nại khêu gợi hứng thú học tập cho trẻ, dẫn dắt từ nông đến sâu. c ầ n phải khác phục cách suy nghĩ nôn nóng, mong con thành tài, hận sắt không thể luyện thành thép, mà phải nhìn thẳng vào sự thực. Đồng thời khi hương dẫn con học tập, phải vừa nhiệt tình, vừa kiên nhẫn, kiên trì không mệt mỏi mới có thể dạt được kết quả.
(2) Dựa vào đặc điểm của trẻ mà lựa chọn phương pháp phụ dạo phù hợp. Để kích thích chức năng nhìn của trẻ phát triển, ngoài việc nâng cao hứng
78
thú học tập cho trẻ, còn phải có ỷ thức mua những đồ dùng học tập có màu sắc tươi tắn hài hoà như hình vẽ dộng vật, hình chữ có màu khác nhau đủ hình dủ kiểu. Đối với hình vẽ và hình chữ phải nghĩ đến đặc điểm thị lực của trẻ kém, mua những đồ to một chút, rồi dần dần chuyển từ hình màu sang hình đen trắng, từ hình to sang hình nhỏ, tữ đơn giản sang phức tạp, một cách tuần tự, đi từng bước vững chắc. Để phát triển, nâng cao thị lực là một quá trình lâu dài, không thể một sớm một chiều có ngay được kết quả, mọi sự quý ở chỗ kiên trì.
(3) Giúp trẻ hình thành thói quen học tập tốt: Ngoài việc dạy trên lớp chú ý nghe giảng, kính thầy yêu bạn, còn phải làm trẻ hiểu được những khiếm khuyết sinh lý của mình {nhất là những trẻ thị lực kém), cố gắng khắc phục khó khăn, kiên trì hoàn thành nhiệm vụ học tập, cổ vũ chúng cố gắng hơn nữa, rèn luyện ý chí học tập. Yêu cầu trẻ ngủ nghỉ đúng giờ, hoàn thành bài tập đúng thời gian biểu.
(4) Chú ý uốn nắn những thói quen không tốt thường gặp: Có cha mẹ cho rằng, năng lực của trẻ vốn yếu kém nên buông lỏng không yêu cầu nghiêm khắc với chúng, như trẻ không chăm chỉ học bài, không hoàn thành bài tập đúng thời gian, bài làm xong không tự kiểm tra lại mà ỷ cha mẹ, làm bài sai cũng không sao, tối xem tivi
79
nhiều, đi ngủ muộn... Trong hoàn cảnh này cha mẹ nên kiên nhẫn chỉ bảo, nói rõ đạo lý, làm trẻ có thái độ học tập đúng đắn.
34. Đục thuỷ tình thể bẩm sinh có phẫu thuật được không?
Như ỡ trên dã nói, đục thuỷ tinh thể bẩm sinh phần lớn tự dừng lại, nên khi không ảnh hưởng tới thị lực thì không cần bất cứ diều trị nào. Chỉ khi đục thuỷ tinh thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị lực mới phải điều trị bằng phẫu thuật. Có phải tất cả mọi trường hợp đục thuỷ tinh thể bẩm sinh đều có thể phẫu thuật không? Điều này đòi hỏi phải phân tích cụ thể với từng trường hợp cụ thể. Thường phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
(1) Vẩn đục thuỷ tinh thể dày đặc, nằm ở khu vực con ngươi, ảnh hưởng nghiêm trọng tới thi lực, nếu kiểm tra khách quan, thấy có đáy mắt tốt thì nên cho phẫu thuật sớm.
(2) Đục thuỷ tinh thể bẩm sinh 1 mắt, mắt còn lại bình thường, nên điều trị phẫu thuật sớm. Sau phẫu thuật nên kết hợp cho đeo kính.
(3) Đục thuỷ tính thể hoàn toàn, ngay khi sinh ra đã bị võng mạc hoàn toàn không có ánh sáng kích thích, phải cố gắng phẫu thuật sớm ngay sau khi sinh.
80
(4) Người bị vẩn đục một phần thuỷ tính thể, kèm theo thuỷ tinh thể hình cầu hoặc phán đoán thị lực kém do liên quan với độ chiết quang của thuỷ tinh thể, cũng phải cho phẫu thuật sớm.
(5) Đục thuỷ tinh thể bẩm sinh 2 mắt ảnh hưởng tới thị lực, về nguyên tắc phải phẫu thuật phân giai đoạn mới an toàn, có thể mổ 1 mắt, sau 1 - 2 tuần mới mổ tiếp mắt còn lại.
35. Khi nào phẫu thuật đục thuỷ tinh thể bẩm sinh là tốt nhất?
Hiện nay điều trị đục thuỷ tinh thể bẩm sinh vẫn dùng phẫu thuật là chính, số người dùng phẫu thuật càng ngày càng nhiều, thời gian phẫu thuật là nhân tố then chốt quyết định thị lực tốt hay xấu sau phẫu thuật. Nếu phẫu thuật quá sớm sau khi sinh, do chức năng của các cơ quan của trẻ phát triển chưa đầy đủ, khi gây mê toàn thân sẽ có khả năng nguy hiểm nhất đinh. Với trẻ bị nhãn cầu hơi nhỏ, khả năng chịu dựng phẫu thuật kém, nên đòi hỏi trình độ của người phẫu thuật phải cao; Còn phẫu thuật quá muộn, tất nhiên sẽ cản trở đến việc phát triển chức năng nhìn, dẫn đến nhìn kém hoặc bị chứng nhãn cầu lung lay. Do vậy, nắm vững thời cơ phẫu thuật phù hợp là khâu quan trọng quyết định thị lực có phục hồi hay không. Để biết khi nào phẫu thuật
81
"""