"12 Quy Luật Cuộc Đời - Jordan B. Peterson PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 12 Quy Luật Cuộc Đời - Jordan B. Peterson PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo 12 Quy Luật Cuộc Đời: Thần Dược Cho Cuộc Sống Hiện Đại –★– Tác giả: Jordan B. Peterson Dịch giả: Bùi Cẩm Tú Hiệu đính: Vũ Thái Hà Phát hành: Saigon Books Nhà xuất bản Thế Giới 02/2020 ebook©vctvegroup “THẦN DƯỢC” NÀO CHO CUỘC SỐNG CỦA CHÚNG TA? N ếu được hỏi chính mình một câu thật thẳng thắn thì chắc chắn chúng ta sẽ muốn bắt đầu bằng câu hỏi này: “Tại sao cuộc sống lại xấu xa, nặng nề và mệt mỏi đến thế?” Chẳng phải là mọi lúc, mọi nơi, nhưng đấy là câu hỏi vẫn đeo đẳng mỗi chúng ta; có lúc nó như động cơ thôi thúc chúng ta sống, sống để tìm ra câu trả lời cuối cùng; có lúc nó như hòn đá tảng cản đường, như muốn lấy nốt đi của chúng ta chút ý chí cuối cùng, khiến chúng ta muốn hủy hoại cuộc sống của mình. Cứ thế cho đến tận cùng. “Mọi người đều hành động như thể nỗi đau của họ là có thật - để rồi sau cùng nó là thật. Nỗi đau quan trọng hơn cả những vấn đề vật chất.” Có cách nào không, để mỗi chúng ta tìm thấy được ý nghĩa của cuộc sống và vượt qua được những xấu xa, nặng nề và mệt mỏi của nó mà sống một cuộc đời an vui? Rất nhiều người đi tìm câu trả lời, tìm trong triết học, tìm trong khoa học, tìm trong văn chương và nghệ thuật; và cho dù đã có rất nhiều câu trả lời được công bố bằng cách này hay cách khác, thì dường như điểm chung của chúng đều nằm ở kết luận rằng: Chúng ta mệt mỏi với cuộc sống là vì đã sống sai ở đâu đó; để tốt đẹp và thoải mái hơn, hãy biết tuân theo các quy luật! Thế là các quy luật cứ lần lượt ra đời, khiến người ta tò mò lúc đầu, hứng thú lúc sau và nhiều khi thất vọng lúc cuối cùng. Nhưng, cho dù có chút băn khoăn hay e dè chăng nữa thì cũng chưa thấy có ai thờ ơ hay chối bỏ các quy luật bao giờ; chúng có sức hấp dẫn riêng, bởi chí ít chúng cũng giúp chúng ta yên lòng. Và lần này cũng vậy, quyển sách 12 Quy luật cuộc đời của Jordan B. Peterson đem đến cho người đọc 12 nguyên lý mà tác giả cho là phép màu giữa cuộc sống đầy hỗn độn hiện nay; quyển sách nhanh chóng được đón nhận và được đánh giá rất cao. “Hãy tìm nguồn cảm hứng để trở thành con tôm hùm chiến thắng, với trí tuệ thực tiễn đã đúc kết qua 350 triệu năm. Và hãy đứng thẳng thật hiên ngang.” Ngay ở quy luật đầu tiên, tác giả đã làm người đọc sửng sốt: Thế ra một sinh vật được xem là cấp thấp mà đã biết khẳng định bản thân mình để tìm chiến thắng, từ hàng triệu năm vẫn thế, thì cớ gì mà con người không làm được! Việc hiểu được thế giới đã từng như thế nào, hiện nay đang ra sao và ngày mai có thay đổi gì hoàn toàn không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện; mục đích là biết phải ứng xử thế nào trước thế giới ấy. Các quy luật của Jordan Peterson sẽ dẫn dắt bạn đi trên con đường tìm ra các lựa chọn ứng xử phù hợp nhất. Chúng ta muốn làm bạn với ai? Hẳn nhiên phải là những người lành mạnh và tốt đẹp. Nhưng đấy lại không phải là chuyện dễ dàng. “Một người tốt lành và lành mạnh là hình mẫu lý tưởng. Nó đòi hỏi bạn phải có sức mạnh và lòng can đảm để đứng gần bên một người như thế.” Thất vọng về bản thân vì thua kém người khác ư? “Sự nghiệp của bạn chán ngắt và vô nghĩa, kỹ năng làm việc nhà thuộc hàng thứ cấp, khẩu vị thì tệ kinh khủng, còn cơ thể thì béo hơn bạn bè đồng trang lứa; và chẳng ai thèm đoái hoài đến những buổi tiệc của bạn. Ai thèm quan tâm bạn có phải thủ tướng Canada hay không, khi một người khác đã thành tổng thống Mỹ?” Chẳng hề hấn gì! “Nếu bạn không thành công ở cách này, bạn có thể thử cách khác. Bạn có thể chọn ra thứ gì đó phù hợp hơn với tổ hợp các thế mạnh, điểm yếu và hoàn cảnh có một không hai của minh. Không những thế, nếu việc thay đổi trò chơi không hữu hiệu, bạn có thể sáng chế ra một trò khác.” Và còn nữa. “Một đứa trẻ biết chú ý, thay vì lơ ngơ, có thể chơi đùa mà không than khóc, hài hước mà không làm phiền, cũng như rất đáng tin cậy - đứa trẻ đó sẽ luôn có bạn bè ở bất cứ nơi nào chúng đến. Các thầy cô của nó đó cũng sẽ yêu thích nó như cha mẹ vậy. Nếu nó tỏ ra lễ phép với người lớn, nó sẽ được họ săn sóc, cười đùa và vui vẻ chỉ bảo nó. Nó sẽ vươn mình từ một thế giới rất dễ trở nên lạnh nhạt, hiềm khích và thù địch.” Nếu bạn nuôi con mình với tâm thế đó thì bạn hoàn toàn có quyền hy vọng vào tương lai của đứa trẻ, và vào tương lai của chính bạn. Hãy giữ cho căn nhà của mình ngăn nắp trước khi chỉ trích cả thế giới, và nên theo đuổi những gì có ý nghĩa chứ đừng nên theo đuổi lợi lạc. “Những thứ vị lợi chỉ có hiệu nghiệm trong khoảnh khắc. Nó nhất thời, bốc đồng và hạn chế. Trái lại, những điều có ý nghĩa là sự sắp xếp những thứ vị lợi đơn thuần vào bản giao hưởng của Hữu thể. Ý nghĩa là những lực thúc đẩy mạnh mẽ hơn cả lời ca được thể hiện trong “Khúc hoan ca” của Beethoven… khi mọi nhạc cụ đều chơi tròn vai, khi những giọng ca quy củ xếp trên tất cả những thứ ấy, và trải rộng đến toàn bộ hơi thở xúc cảm của con người, từ sự tuyệt vọng đến niềm hân hoan.” Uyên bác trong từng câu viết, Jordan Peterson mời người đọc du hành trên trang sách, xuyên qua các câu chuyện của Kinh Thánh, chìm vào các tư tưởng triết học và dạo quanh các chi tiết của văn chương, để cùng truy vấn và tìm câu trả lời cho câu hỏi: Mỗi con người nên ứng xử như thế nào trước cuộc đời? “… Rằng sự tự nguyện gánh vác trách nhiệm cũng giống hệt như quyết định sống một cuộc đời ý nghĩa. Nếu mỗi người chúng ta sống đúng đắn, thì chúng ta sẽ lớn mạnh cùng nhau.” “Không có gì chắc chắn và bất biến. Thậm chí, Mặt trời cũng có những chu kỳ bất ổn của nó. Tương tự, không có gì tùy biến đến mức không thể cố định lại được. Mỗi cuộc cách mạng lại tạo ra một trật tự mới. Mỗi cái chết đồng thời cũng là một sự biến đổi.” “Hãy hỏi, rồi bạn sẽ nhận được. Hãy gõ, rồi cửa sẽ mở. Nếu bạn hỏi như thể bạn muốn biết, và gõ cửa như thể bạn muốn bước vào, thì bạn có thể sẽ nhận được cơ hội để cải thiện cuộc đời mình từng chút một.” “Thần dược” cho cuộc sống không phải là thứ chúng ta có thể mua được hay tìm được ở bên ngoài, mà là kết quả của một quá trình tự vấn có mục đích, có phương pháp, và hơn hết nó phải chuyển chở ý chí lãng mạn ở mức độ cao nhất: Sự lãng mạn cần thiết để vươn tới một cuộc sống đầy đủ trách nhiệm và có ý nghĩa, là sứ mệnh của sự tồn tại của chúng ta trên cõi đời này. Vũ Thái Hà, MBA Giám đốc Công ty Tư vấn & Đào tạo INNMA Trích lời tựa của NORMAN DOIDGE Q UY LUẬT? KHÔNG PHẢI MỘT MÀ NHIỀU QUY LUẬT HƠN NỮA? CÓ CẦN PHẢI THẾ KHÔNG? Lẽ nào cuộc sống vẫn chưa đủ phức tạp, chưa đủ gò bó, ngay cả khi thiếu vắng những quy luật phi thực tế vốn chẳng thèm đếm xỉa đến hoàn cảnh cá nhân đặc thù của chúng ta hay sao? Và nếu cho rằng bộ não chúng ta dễ định hình và phát triển toàn diện theo những hướng khác nhau dựa trên kinh nghiệm sống, thì tại sao ta lại mong đợi vài quy luật hay ho nào đó có thể sẽ hữu ích cho tất cả? Con người không kêu gào đòi hỏi các quy luật. Ngay cả trong Kinh Thánh… khi Moses xuống núi sau một khoảng thời gian dài biệt tăm, mang theo những phiến đá khắc Mười Điều răn của Chúa, ông đã thấy Con dân Israel vẫn đang tiệc tùng ồn ào. Họ từng là nô lệ của Pha-ra-ông xứ Ai Cập và phải cam chịu những luật lệ bạo ngược suốt 400 năm. Sau đó, Moses lại dẫn họ đến vùng sa mạc hoang vu khắc nghiệt trong 40 năm nữa, để gột sạch họ khỏi xiềng xích nô lệ. Để rồi giờ đây, khi rốt cuộc có được tự do, họ lại buông thả, mất hết kiểm soát rồ dại nhảy nhót quanh một tượng thần - con bê bằng vàng - biểu trưng cho lối sống tha hóa vì vật chất. “Ta có vài tin tốt… và cũng có vài tin xấu” - Đấng Lập pháp hét to - “Các người muốn nghe tin nào trước?” “Tin tốt!”, những kẻ chìm trong khoái lạc trả lời. “Đức Chúa đã giảm từ 15 điều răn xuống chỉ còn mười cho chúng ta!” “Tạ ơn Chúa!” đám đông ương ngạnh hò hét vui mừng. “Còn tin xấu thì sao?” “Tội ngoại tình vẫn còn trong danh sách này.” Vậy nên vẫn có quy luật - nhưng xin đừng quá nhiều. Chúng ta luôn phân vân về các quy luật, ngay cả khi biết rằng nó tốt cho chúng ta. Nếu chúng ta có những tâm hồn khoáng đạt, nếu chúng ta có cá tính, thì quy luật dường như là sự hạn chế, là chế giễu đối với ý thức chủ thể cũng như với lòng kiêu hãnh được hoàn thiện cuộc sống của chính mình. Vì sao chúng ta nên chịu phán xét bởi quy luật của kẻ khác? Và rồi chúng ta bị phán xét. Xét cho cùng, Thượng Đế không trao cho Moses “Mười gợi ý” mà là “Mười điều răn”; và nếu ta là một chủ thể tự do, thì phản ứng đầu tiên của ta với một mệnh lệnh chỉ có thể là “không một ai, kể cả Thượng Đế, có thể bảo ban ta phải làm gì”, dù điều đó có tốt cho ta đi chăng nữa. Song, câu chuyện về con bê vàng cũng nhắc nhở chúng ta rằng nếu không có luật lệ, chúng ta sẽ nhanh chóng trở thành nô lệ cho chính những si mê của bản thân mình - và không gì giải thoát ta khỏi điều đó. Song, câu chuyện còn gửi gắm nhiều điều hơn thế, rằng: Nếu không có sự quản thúc và cứ để mặc bản thân nương theo những phán xét ngây ngô, chúng ta sẽ sớm nhắm đến những mục tiêu tầm thường và tôn sùng những phẩm chất thua kém mình - trong trường hợp này, một con vật do con người tạo nên đã gợi ra những bản năng thú vật trong chúng ta theo cách hoàn toàn vô lối. Câu chuyện Do Thái cổ giúp chúng ta hiểu rõ người xưa cảm thấy thế nào về những viễn cảnh đối với hành vi văn minh khi thiếu đi các quy luật, vốn nhằm nâng tầm quan điểm và nâng cao những chuẩn mực của chúng ta. Một điểm tài tình của câu chuyện này trong Kinh Thánh là nó không chỉ đơn giản liệt kê các quy luật, như cách các luật sư, nhà lập pháp hay các nhà quản lý sẽ làm; mà nó lồng ghép chúng trong một câu chuyện đầy kịch tính, minh họa vì sao chúng ta cần đến chúng, từ đó khiến chúng dễ hiểu hơn. Tương tự, trong cuốn sách này, Giáo sư Peterson không chỉ đề xuất 12 quy luật, mà anh còn kể những câu chuyện hàm chứa vốn kiến thức của anh trên nhiều lĩnh vực. Nhờ đó, anh sẽ minh họa và giải thích tại sao các quy luật tốt nhất tuyệt đối không hạn chế ta, mà thay vào đó sẽ thúc đẩy các mục tiêu của chúng ta, cũng như mang đến một cuộc sống tự do hơn, trọn vẹn hơn. Lần đầu tiên tôi gặp Jordan Peterson là vào ngày 12 tháng Chín năm 2004, tại nhà hai người bạn chung khác của chúng tôi, nhà sản xuất truyền hình Wodek Szemberg và bác sĩ nội khoa Estera Bekier. Hôm ấy là tiệc sinh nhật của Wodek. Wodek và Estera là dân Ba Lan, lớn lên trong xã hội Xô-viết thời đó, nơi mà có nhiều chủ đề bị hạn chế đàm luận. Nhưng giờ thì hai ông bà chủ nhà được tận hưởng những cuộc trò chuyện chân thành, cởi mở thông qua những bữa tiệc tao nhã, hết mình trong niềm hân hoan được phát ngôn những gì mình thực sự nghĩ cũng như nghe người khác nói những lời tương tự, theo cách cho đi và nhận lại mà không hề bị cấm đoán. Tại đây, quy luật chính là “Nghĩ gì nói nấy”. Nếu câu chuyện chuyển sang chủ đề chính trị, những người có quan niệm chính trị khác biệt sẽ trao đổi cùng nhau - đúng hơn là háo hức chia sẻ - theo một phong thái mà giờ đây ngày càng hiếm hoi. Đôi lúc, ý kiến của Wodek hay một sự thật nào đó bùng nổ trong anh cùng với tiếng cười vang. Sau đó, anh sẽ ôm chầm lấy chính người vừa làm anh bật cười, hoặc khơi gợi anh nói ra suy nghĩ có sức mãnh liệt hơn dự kiến. Đây là phần hay nhất của bữa tiệc và tính cách thẳng thắn cùng vòng tay ấm áp của anh khiến cho sự khơi gợi ấy thật xứng đáng. Trong khi đó, giọng của Estera lướt nhẹ khắp căn phòng, cực kỳ rõ ràng thẳng đến thính giả mà cô nhắm trước. Những lần sự thật được phơi bày ra cũng không khiến cho bầu không khí giữa các bằng hữu kém cởi mở hơn chút nào - mà còn làm bùng nổ nhiều sự thật hơn! Chúng khai phóng mọi người, tạo thêm nhiều tiếng cười và khiến bầu không khí dễ chịu hơn. Vì đối với người dân Đông Âu như vợ chồng Szemberg-Bekier, họ luôn biết mình đang nói chuyện gì và nói với ai, rồi sự thẳng thắn ấy càng thêm tỏa sáng. Tiểu thuyết gia Honoré de Balzac từng mô tả các buổi tiệc tùng và khiêu vũ bằng tiếng Pháp, cũng là tiếng mẹ đẻ của ông, khi chứng kiến một bữa tiệc nhưng thực chất là hai. Trong vài giờ đồng hổ đầu tiên, đám đông tràn ngập những kẻ nhạt nhẽo ưỡn ẹo làm dáng và những kẻ cốt chỉ đến để gặp một người đặc biệt nào đó, người mà có thể khẳng định vẻ đẹp và địa vị của họ. Tiếp theo, chỉ đến những giờ phút cuối cùng, sau khi phần lớn khách khứa đã về hết thì bữa tiệc thứ hai và cũng là bữa tiệc thực sự mới bắt đầu. Lúc này, từng người có mặt mới cùng chia sẻ những câu chuyện với nhau và bầu không khí ngột ngạt được thay thế bằng tiếng cười cởi mở. Nhưng tại những bữa tiệc của Estera và Wodek, kiểu thân mật và cởi mở rạng rỡ như hừng đông ấy lại bắt đầu ngay từ giây phút chúng tôi đặt chân vào phòng. Wodek là một thợ săn với mái tóc bờm sư tử màu bạc, luôn quan sát cẩn trọng những trí thức tiềm năng trong đại chúng, là người biết cách nhìn ra được những ai thực sự có khả năng phát biểu trước ống kính truyền hình và ai trông chân thành vì con người họ đúng là như vậy (máy quay sẽ bắt chụp những khoảnh khắc đó). Ông ấy thường mời những người như thế đến những buổi họp mặt này. Hôm ấy, Wodek đã mời một giáo sư tâm lý học từ Đại học Toronto của tôi đến tham dự, một người đáp ứng mọi tiêu chí: Trí tuệ và cảm xúc luôn song hành. Wodek chính là người đầu tiên đưa Jordan Peterson ra trước ống kính và cho rằng anh sẽ là người thầy luôn kiếm tìm học trò cho mình - vì anh ấy lúc nào cũng trong tâm thế sẵn sàng giảng giải. Và thật hữu ích khi cả anh ấy và máy quay đều có thiện cảm với nhau. Chiều hôm đó, một bộ bàn ăn lớn được bày biện trong khu vườn của vợ chồng Szemberg-Bekiers; xung quanh là những vị khách quen thuộc cùng các bậc thầy tán chuyện với nhau. Tuy rằng chúng tôi dường như bị vây quanh bởi một bầy ong giống mấy “tay săn ảnh” phiền nhiễu, nhưng chính người bạn mới này, với chất giọng vùng Alberta[1] và đôi bốt cao bồi, lại chẳng màng đến họ mà vẫn say sưa nói chuyện. Anh vẫn cứ luyên thuyên trong khi những người còn lại trong chúng tôi chơi trò chơi giành ghế theo nhạc[2] để tránh xa tiếng vo ve khó chịu. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn lưu lại bàn ăn vì sự bổ sung mới mẻ thú vị này trong buổi hội họp. Anh ấy có một thói quen kỳ lạ, đó là đưa ra những câu hỏi “đào xới” sâu xa nhất dành cho bất kỳ ai trong bàn - hầu hết đều là người mới quen - như thể anh ấy chỉ đang nói chuyện phiếm. Hoặc nếu anh ấy nói chuyện phiếm thật chăng nữa, thì khoảng thời gian xen giữa những câu thoại như “Anh quen biết Wodek và Estera thế nào?” và “Tôi từng là người nuôi ong nên tôi quen với chúng rồi”, luôn có những chủ để nghiêm túc hơn chỉ cách nhau vài phần tỉ giây. Người ta có thể nghe những câu hỏi như thế được bàn luận tại các bữa tiệc nơi những giáo sư và chuyên gia gặp gỡ, nhưng thường một cuộc đàm luận trong phạm vi hai chuyên gia như thế thường nói về một chủ đề, trong một góc riêng, hoặc nếu có chia sẻ với cả nhóm thì cũng không thiếu chuyện ai đó tự tô vẽ mình. Nhưng ngài Peterson đây không hề tỏ vẻ ta đây dù cho bản thân thật sự rất thông thái. Anh ấy có sự say mê của một đứa trẻ vừa học được một điều mới mẻ và nhất định phải chia sẻ nó. Dường như anh ta có vẻ kiêu căng của một đứa trẻ - trước khi nhận ra đám người lớn ngờ nghệch như thế nào - rằng nếu anh ấy nghĩ một điều gì đó thú vị, thì những người khác cũng sẽ nghĩ như vậy. Có một chút trẻ con ở chàng cao bồi này, trong cách anh ấy đề cập đến nhiều vấn đề như thể chúng tôi cùng lớn lên trong cùng một gia đình, hay sống cùng một thị trấn nhỏ và tất thảy đều có suy nghĩ giống nhau về những vấn đề tồn tại xưa nay của nhân loại. Peterson không hẳn là một “kẻ lập dị”; anh ấy có đủ bằng cấp như thông lệ, từng là giáo sư trường Havard và cũng là một quý ông (theo phong cách của một chàng cao bổi) mặc dù anh ấy hay dùng từ ngữ bộc trực khi nói chuyện, theo kiểu dân thôn quê hồi thập niên 1950. Nhưng tất cả mọi người đều lắng nghe với niềm hân hoan trên khuôn mặt như thể bị thôi miên, vì khi anh ấy giải đáp các thắc mắc của bất kỳ ai trong bàn, anh ấy đều thực lòng để tâm đến họ. Có một cảm giác được giải phóng khi bầu bạn cùng một người “học rộng hiểu sâu” mà lối nói năng lại không màu mè. Lối suy nghĩ của anh ấy như một động cơ xe máy, như thể anh ấy cần phải nghĩ thành lời, cần sử dụng vỏ não vận động của mình để suy nghĩ, nhưng dây thần kinh vận động đó cũng cần phải hoạt động thật nhanh mới kịp đáp ứng. Để cất cánh cho anh. Không hẳn là bất thường, nhưng tốc độ nghỉ ngơi của anh ấy xoay vòng rất nhanh. Những suy nghĩ mãnh liệt cứ tỏa đi khắp mọi hướng. Nhưng không như nhiều học giả khác cứ khư khư giữ lập trường của mình, anh ấy dường như rất thích khi ai đó chất vấn hoặc chỉnh đốn mình. Anh ấy không bao giờ nổi đóa và đốp chát lại, mà sẽ nói một cách rất chan hòa: “Vâng”, cùng cái cúi đầu không chủ đích, lắc nhẹ đầu nếu anh đã bỏ qua điều gì đó và tự cười bản thân vì đã khái quát thái quá vấn đề. Anh sẽ cảm kích nếu được trình bày vấn đề theo một khía cạnh khác, và rõ ràng là đối với anh, để thông hiểu một vấn đề, cần có một quá trình bàn thảo. Người ta không thể không ngỡ ngàng với một điểm khác thường khác nơi anh: Peterson trí thức mà lại cực kỳ thực tế. Các ví dụ của anh luôn chứa đầy những ứng dụng đời thường: quản lý doanh nghiệp, cách làm đồ nội thất (anh tự làm nội thất cho nhà mình), thiết kế một ngôi nhà giản dị, làm đẹp một căn phòng (còn giờ là ảnh chế trên mạng) hoặc trường hợp cụ thể khác liên quan đến giáo dục là xây dựng một dự án viết bài trực tuyến giúp ngăn học sinh da màu thiểu số bỏ học. Dự án này yêu cầu học sinh làm một loại bài tập phân tích tâm lý của chính bản thân, trong đó, chúng sẽ tự do liên tưởng đến quá khứ, hiện tại và tương lai (hiện nay, chương trình này được gọi là Chương trình Tạo tác bản thân - Self-Authoring Program[3]). Chúng tôi trở thành bạn bè. Với tư cách một chuyên gia tâm thần học và một nhà phân tích tâm lý yêu văn chương, tôi bị anh ấy thu hút bởi anh giống như một thầy thuốc lâm sàng, người tự bồi dưỡng cho mình bằng nền học vấn sách vở vĩ đại và là người không chỉ yêu thích tiểu thuyết Nga trữ tình, triết học lẫn thần thoại cổ đại, mà còn xem chúng như của cải thừa kế quý báu nhất. Nhưng anh cũng làm sáng tỏ những nghiên cứu thống kê về nhân cách, tính khí cũng như nghiên cứu cả thần kinh học. Mặc dù được đào tạo về mảng khoa học hành vi, nhưng anh lại bị cuốn hút mạnh mẽ bởi ngành phân tích tâm lý đặt trọng tâm vào các giấc mơ, các hình thái nguyên mẫu, tính dai dẳng của những xung đột thời thơ ấu trong mỗi người trưởng thành và vai trò của hành vi phòng thủ cũng như sự hợp lý hóa trong cuộc sống hằng ngày. Anh còn là kẻ ngoại đạo làm thành viên duy nhất trong Khoa Tâm lý học của Đại học Toronto - vốn có thiên hướng nghiên cứu - vẫn duy trì được hoạt động thực hành lâm sàng. Trong những chuyên thăm của tôi, các cuộc chuyện trò thường bắt đầu bằng những tràng cười đùa và bình luận vui vẻ - đúng là chàng Peterson từ thị trấn nhỏ vùng quê Alberta, nơi anh dành cả thời niên thiếu để sống như trong bộ phim FUBAR - chào mừng các bạn đến quê hương của anh. Ngôi nhà được Tammy, vợ anh, và chính anh chất đầy đồ đạc, rồi biến nó thành một mái ấm có lẽ là phong lưu thú vị nhất và gây ngạc nhiên nhất mà tôi từng thấy. Cả hai treo tranh vẽ, vài tấm mặt nạ điêu khắc và chân dung trừu tượng khắp nhà. Song, chúng bị áp đảo bởi bộ sưu tập tranh gốc khổng lồ theo trường phái Hiện thực Xã hội chủ nghĩa về Lenin cùng những cán bộ cộng sản đời đầu được Liên bang Xô-viết bổ nhiệm. Không lâu sau khi Liên Xô sụp đổ, Peterson bắt đầu mua những bức tranh này với giá rất hời qua mạng. Những bức tranh mang đậm tinh thần cách mạng Xô-viết che kín từng bức tường, trần nhà và thậm chí phòng tắm. Chúng có mặt ở đó không phải vì Jordan có sự đồng cảm với chế độ đó, mà vì anh muốn nhắc nhở bản thân về khoảng thời gian mà anh biết rằng anh và mọi người đều muốn đưa vào dĩ vãng. Chúng tôi cũng hay trò chuyện và nhấm nháp trà trong căn bếp dưới tầng hầm của anh, trên tường là cả bộ sưu tập tranh dị thường, một chỉ dấu dễ thấy cho sứ mệnh đau đáu nhất của anh, đó là vượt lên trên hệ tư tưởng tối giản phân biệt phải trái và không lặp lại những sai lầm trong quá khứ. Sau một lúc, không còn gì ngoài một bữa trà trong bếp và trò chuyện về các vấn đề gia đình, về một cuốn sách mới đọc, với những bức tranh vây quanh. Cứ như thể chúng tôi đang sống trong một thế giới hay những nơi chốn đã từng tồn tại, hoặc vẫn đang tồn tại đâu đó. Trong quyển sách đầu tiên của Jordan và cũng là quyển duy nhất ra đời trước quyển này, Maps of Meaning (tạm dịch: Những tấm bản đồ của ý nghĩa), anh đã chia sẻ những hiểu biết sâu sắc của mình về những chủ đề muôn thuở như thần thoại thế giới, rồi giải thích rằng cuối cùng, mọi nền văn hóa đã tạo ra những câu chuyện giúp chúng ta vật lộn, và sau cùng là vạch rõ những hỗn loạn mà từ khi sinh ra chúng ta đã phải đối mặt; sự hỗn loạn này là toàn bộ những gì chúng ta chưa biết đến, là mọi vùng đất chưa được khám phá mà chúng ta phải đi qua, thâm nhập vào nó ở cả thế giới bên ngoài lẫn cái hồn bên trong. Nhờ kết hợp thuyết tiến hóa, khoa học thần kinh về mặt cảm xúc, một số tư tưởng vĩ đại nhất của Jung, một số khác của Freud cùng rất nhiều công trình vĩ đại của Nietzsche, Dostoevsky, Solzhenitsyn, Eliade, Neumann, Piaget, Frye và Frankl, Những tấm bản đồ của ý nghĩa, được xuất bản cách đây gần hai thập kỷ, đã thể hiện được bước tiếp cận bao quát của Jordan nhằm thấu hiểu cách nhân loại và bộ não con người xử lý những tình huống nguyên mẫu phát sinh mỗi khi chúng ta phải đối mặt với những điều mình không hiểu trong đời sống hằng ngày. Điểm tài tình của quyển sách thể hiện ở cách anh mô tả tình huống này bắt nguồn từ sự tiến hóa, từ ADN của chúng ta, từ não bộ và những câu chuyện cổ xưa ra sao. Và anh cho chúng ta thấy những câu chuyện này vẫn tồn tại là vì chúng mang đến cho ta chỉ dẫn để giải quyết những điều không chắc chắn và cái chưa biết không thể tránh khỏi. Một trong nhiều ưu điểm của quyển sách mà bạn đang cẩm trên tay chính là nó mở ra một lối vào Những tấm bản đồ của ý nghĩa, một công trình cực kỳ phức tạp vì Jordan vẫn đang tìm cách tiếp cận tâm lý học khi anh viết nó. Nhưng nó lại chính là nền tảng, vì cho dù gien và kinh nghiệm sống có khác nhau thế nào, hoặc dù bộ não tùy biến của chúng ta có được nối nguồn kinh nghiệm cá nhân theo cách khác nhau ra sao chăng nữa, thì tất cả chúng ta đều phải đối mặt với những gì mình không biết và luôn nỗ lực chuyển từ hỗn loạn sang trật tự. Và đây chính là lý do rất nhiều quy luật trong cuốn sách này, được dựa trên cuốn Những tấm bản đồ của ý nghĩa, lại có yếu tố phổ quát trong chúng. Cuốn Những tấm bản đồ của ý nghĩa được nhen nhóm bởi ý thức đầy phiền não của Jordan, từ khi anh còn là một thiếu niên lớn lên giữa thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khi phần lớn nhân loại dường như sắp làm nổ tung cả hành tinh chỉ để bảo vệ những bản ngã khác nhau của họ. Anh cảm thấy mình buộc phải hiểu thế nào người ta lại có thể hy sinh tất cả chỉ vì một “bản sắc”, bất kể nó là gì. Anh cảm thấy mình phải hiểu được những hệ tư tưởng nào đã dẫn dắt các chế độ. Trong cuốn Những tấm bản đồ của ý nghĩa, và một lần nữa trong cuốn sách này, một trong những vấn đề anh cảnh báo bạn đọc nên quan tâm nhất chính là hệ tư tưởng, bất kể ai là người truyền bá nó và nhằm mục đích gì… Sự không hài lòng của tôi với những nỗ lực của khoa học chính trị hiện đại nhằm hiểu rõ sự trỗi dậy chủ nghĩa Quốc xã, chủ nghĩa độc tài và thành kiến là yếu tố chủ chốt trong quyết định bổ sung cho các nghiên cứu khoa học chính trị bằng nghiên cứu về sự vô thức, phương pháp chiếu, phân tích tâm lý, tiềm năng hồi quy của tâm lý nhóm, tâm thần học và não bộ. Jordan đã thoát khỏi khoa học chính trị vì những lý do tương tự. Với những lợi ích song song quan trọng này, chúng tôi không phải lúc nào cũng đồng tình với “các câu trả lời” (tạ ơn Chúa), nhưng hầu như luôn đồng tình về các câu hỏi. Tình bạn của chúng tôi không phải lúc nào cũng buồn tẻ và u ám. Tôi có thói quen đến dự các lớp của những giáo sư đồng nghiệp ở trường đại học, bao gồm cả lớp học lúc nào cũng chật cứng sinh viên của anh ấy. Và tôi đã chứng kiến điều mà hàng triệu người khác từng thấy khi xem trên mạng: Một diễn giả nói trước công chúng xuất sắc, rạng rỡ như một nghệ sĩ nhạc jazz đang dạo từng tiết tấu với thần thái mạnh mẽ nhất; nhiều lúc anh giống như một nhà thuyết giáo sôi nổi của phái Prairie (không phải bằng cách truyền bá Phúc âm, mà bằng niềm đam mê của mình và bằng khả năng kể chuyện để truyền đạt những câu chuyện bao hàm các nguyên tắc sống, về việc tin theo hay không tin nhiều quan niệm khác nhau). Sau đó, anh dễ dàng chuyển sang làm một bản tóm tắt ngoạn mục, có hệ thống về một loạt các nghiên cứu khoa học. Anh là bậc thầy trong việc giúp sinh viên suy ngẫm tốt hơn, cũng như xem trọng bản thân và tương lai một cách nghiêm túc. Anh dạy họ phải trân trọng những cuốn sách vĩ đại. Anh dẫn các ví dụ sinh động từ quá trình thực hành lâm sàng, tự bộc lộ bản thân (một cách đứng đắn), thậm chí cả nhược điểm của mình và tạo ra sự liên kết hấp dẫn giữa thuyết tiến hóa, não bộ cùng với những câu chuyện tôn giáo. Trong một thế giới nơi học viên được dạy cách nhìn nhận thuyết tiến hóa và tôn giáo đơn giản chỉ là sự đối nghịch (bởi các nhà tư tưởng như Richard Dawkins), Jordan đã cho họ thấy rằng trên tất thảy, sự tiến hóa sẽ lý giải sức hấp dẫn sâu sắc của tâm lý học và trí tuệ của nhiều câu chuyện từ ngàn xưa, từ Vua Gilgamesh cho đến Cuộc đời của Đức Phật, Thần thoại Ai Cập và Kinh Thánh. Ví dụ, anh đã đưa ra những câu chuyện về cuộc hành trình tự nguyện đến vùng đất chưa ai biết đến - nhiệm vụ của người hùng - phản ánh những nhiệm vụ phổ quát giúp bộ não tiến hóa. Anh tôn trọng những câu chuyện ấy, không giản lược và không bao giờ tuyên bố sẽ tiếp thu hết. Nếu bàn về một chủ đề, ví dụ như thành kiến, hoặc những yếu tố liên quan đến nó như sợ hãi và ghê sợ, hoặc sự khác biệt về giới tính nói chung, anh sẽ chỉ ra cho mọi người thấy những đặc điểm này đã tiến hóa như thế nào và vì sao chúng còn tồn tại. Trên hết, anh đã cảnh báo học viên của mình về những chủ đề hiếm khi được thảo luận ở môi trường đại học, như một thực tế đơn giản rằng tất cả các nhân vật cổ xưa, từ Đức Phật cho đến các tác giả của Kinh Thánh, đều biết mọi điều mà một người trưởng thành từng trải phải hiểu, rằng cuộc sống là đau khổ. Nếu bạn đang đau khổ, hoặc ai đó thân thiết với bạn đang đau khổ, thì thật đáng buồn. Nhưng than ôi, điều đó không đặc biệt đến vậy đâu! Chúng ta không đau khổ chỉ vì “những chính trị gia tối dạ” hay “hệ thống bị lũng đoạn”, hoặc vì bạn và tôi, như hầu hết mọi người khác, có thể bằng cách nào đó mô tả bản thân mình một cách hợp lẽ như nạn nhân của điều gì đó hoặc ai đó. Đó là bởi vì chúng ta được sinh ra là con người và được đảm bảo hưởng một liều đau khổ nhất định. Và nhiều khả năng nếu bạn hoặc người thân của bạn không gặp đau khổ lúc này, thì trong vòng năm năm sau cũng sẽ phải gặp, trừ khi bạn là một người may mắn lạ thường. Nuôi dạy con cái rất khó, làm việc cũng vất vả và lão hóa, bệnh tật cũng như cái chết còn nặng nề hơn nữa. Jordan nhấn mạnh rằng nếu bạn tự mình làm tất thảy những điều đó mà không màng đến lợi ích của mối quan hệ yêu thương, trí tuệ, hay những hiểu biết về tâm lý của các nhà tâm lý học vĩ đại nhất, thì chỉ khiến nó trở nên khó khăn hơn mà thôi. Anh không dọa các sinh viên của mình; thực tế thì họ nhận thấy cuộc nói chuyện thẳng thắn của anh khiến họ vững dạ, bởi trong thâm tâm, đa số họ đều biết điều anh nói là chí phải, ngay cả khi không có diễn đàn nào thảo luận về nó - có lẽ vì trong cuộc sống, người trưởng thành có khuynh hướng bao bọc thái quá đến mức ngây thơ, dẫn đến việc họ tự lừa dối chính mình trong suy nghĩ rằng: Việc không đề cập gì đến đau khổ sẽ bằng cách kỳ diệu nào đó bảo vệ con cái họ khỏi đau khổ. Ở đây, anh liên hệ đến huyền thoại về người hùng, một chủ đề xuyên văn hóa được khám phá theo hướng phân tích tâm lý của Otto Rank, người đã lưu ý rằng - phỏng theo Freud - những thần thoại anh hùng đều tương tự như nhau trong nhiều nền văn hóa, một chủ đề mà Carl Jung, Joseph Campbell và Erich Neumann đã lựa chọn. Trong khi Freud có những đóng góp vĩ đại vào công cuộc lý giải các chứng loạn thần kinh chức năng - trong số nhiều chủ đề khác - bằng cách tập trung tìm hiểu cái mà chúng ta gọi là câu chuyện về anh-hùng-bại-trận (về Oedipus[4]), thì Jordan lại tập trung vào những anh hùng thắng trận. Trong tất cả những câu chuyện chiến thắng này, người hùng phải tiến vào cái chưa biết, vào một vùng đất chưa được khám phá và vừa đối phó với một thử thách vừa to lớn vừa mới mẻ, và phải chấp nhận mạo hiểm. Trong quá trình này, một phần nào đó của anh phải chết đi, hoặc bị từ bỏ để anh ta có thể được tái sinh và vượt qua thử thách. Việc này đòi hỏi lòng can đảm, điều hiếm khi được bàn luận trong một lớp tâm lý học hoặc sách giáo khoa. Trong bài phát biểu trước công chúng gần đây của anh nhằm ủng hộ tự do ngôn luận và chống lại cái mà tôi gọi là “ngôn luận cưỡng ép” (vì nó liên quan đến việc chính phủ buộc người dân phải lên tiếng về quan điểm chính trị), cái giá phải trả rất cao; anh đã mất nhiều thứ và biết rõ điều đó. Tuy nhiên, tôi nhận thấy anh (và cả Tammy) không chỉ thể hiện lòng can đảm, mà cả hai còn tiếp tục sống theo nhiều quy luật trong cuốn sách này, mà một số trong đó đòi hỏi nỗ lực rất lớn. Tôi đã chứng kiến anh phát triển từ một người nổi bật thành một người không thể quả quyết và thành công hơn - nhờ sống theo những quy luật này. Thực tế, đó chính là quá trình anh viết nên cuốn sách này và phát triển những quy luật ấy để dẫn dắt anh đứng lên chống lại ngôn luận gượng ép hoặc cưỡng bách. Và đó là lý do trong suốt những sự kiện ấy, anh bắt đầu đăng một số cảm nghĩ của mình về cuộc sống cũng như các quy luật lên mạng. Giờ đây, với hơn 100 triệu lượt xem trên Youtube, chúng tôi biết chúng đã đánh động đến lòng đồng thuận của rất nhiều người. Do tất cả chúng ta đều chán ngán các quy luật, làm thế nào chúng tôi lý giải được phản ứng phi thường đối với những bài giảng bao hàm những quy tắc này của anh? Trong trường hợp của Jordan, chính sức lôi cuốn và sự sẵn sàng hiếm hoi đứng về phía một quy luật đã khiến mọi người lắng nghe anh rộng rãi trên mạng ngay từ đầu. Số lượt xem những lời tuyên bố đầu tiên của anh trên Youtube tăng nhanh đến con số hàng trăm nghìn. Nhưng mọi người vẫn tiếp tục lắng nghe vì điều anh nói đáp ứng nhu cầu sâu xa và không nói thành lời của họ. Và đó là bởi vì bên cạnh mong ước thoát khỏi các quy luật, tất cả chúng ta đều kiếm tìm một kết cấu nào đó. Niềm khao khát các quy luật hoặc ít nhất là những chỉ dẫn ở nhiều người trẻ tuổi hiện nay đã lớn hơn nhiều vì lý do chính đáng. Ở phương Tây, các bạn trẻ thuộc thế hệ Thiên niên kỷ[5] đang trải qua một bối cảnh lịch sử độc nhất vô nhị. Tôi tin họ là thế hệ đầu tiên được giáo dục thấu đáo cả hai luồng ý tưởng dường như mâu thuẫn nhau về mặt đạo đức - ở trường học, cao đẳng và đại học bởi nhiều người thuộc thế hệ của tôi. Sự đối lập này khiến họ đôi khi mất phương hướng và thiếu chắc chắn, thiếu chỉ dẫn và bi kịch hơn nữa là bị tước đoạt mất những sự phong phú mà họ thậm chí không biết đến sự tồn tại của chúng. Chúng tôi từng tham gia buổi giảng dạy mà thế hệ Thiên niên kỷ phải chiến đấu triền miên. Họ đăng ký một khóa học ngành nhân văn để nghiên cứu những cuốn sách vĩ đại nhất từng được sáng tác. Nhưng họ không được giao sách; mà thay vào đó lại bị chúng tấn công tư tưởng dựa trên sự đơn giản hóa kinh khủng nào đó. Nếu người theo chủ nghĩa tương đối bị nhồi nhét cảm giác không chắc chắn, thì một nhà tư tưởng sẽ ngược lại. Nhà tư tưởng sẽ là người siêu phán xét và hay chỉ trích người khác, luôn biết người khác sai ở đâu và phải làm gì với nó. Đôi khi, trong xã hội có vẻ như những người duy nhất sẵn sàng đưa ra lời khuyên lại hầu như là những người có ít lời khuyên nhất để cho đi. Chúng ta là những người tạo ra quy tắc. Và vì là những sinh vật có đạo đức, thuyết tương đối hiện đại mà đơn giản đang áp đặt lên chúng ta thứ hệ quả phải xảy đến nào? Nó đồng nghĩa với việc chúng ta đang tự ngáng chân mình bằng cách giả vờ là thứ gì đó không phải là mình. Nó là một chiếc mặt nạ, nhưng là một chiếc mặt nạ kỳ lạ, vì hầu như chỉ lừa dối người đeo nó. Hãy dùng một chiếc chìa khóa để cccàoooo chiếc ô-tô Mercedes của vị giáo sư thông thái nhất theo thuyết tương đối hậu hiện đại, bạn sẽ thấy chiếc mặt nạ của thuyết tương đối (tức giả vờ rằng không có cả đúng lẫn sai) và tấm áo choàng của sự khoan dung triệt để rơi xuống nhanh thế nào. Vì chúng ta chưa có phạm trù dựa trên khoa học hiện đại, Jordan không ra sức phát triển các quy tắc của mình bằng cách xóa sạch tấm đá phiến - tức bằng cách loại bỏ hàng nghìn năm trí tuệ như thể chúng là thứ mê tín dị đoan thuần túy mà bỏ qua những thành tựu đạo đức vĩ đại nhất của loài người. Hơn thế, anh đã hợp nhất những điều tốt đẹp nhất mà chúng ta đang học với những cuốn sách mà nhân loại xem là phù hợp để bảo tồn qua hàng thiên niên kỷ, cũng như với những câu chuyện đã tồn tại được, bất chấp mọi rủi ro và khuynh hướng lãng quên theo thời gian. Anh ấy đang làm những điều luôn được hoàn thiện từ những chỉ dẫn hợp lý: Anh không tuyên bố rằng trí tuệ của con người bắt đầu từ chính anh, mà đúng hơn là chuyển hướng đến các chỉ dẫn của anh ngay từ đầu. Và mặc dù các chủ đề trong cuốn sách này thật sự nghiêm túc, nhưng Jordan vẫn rất vui vẻ giải quyết chúng bằng cái chạm nhẹ nhàng, giống như các tiêu đề ở mỗi chương đang truyền đạt. Anh không hề tuyên bố rằng mình thấu đáo mọi mặt và đôi khi các chương cũng bao gồm nhiều cuộc thảo luận trong phạm vi rộng về tâm lý của chúng ta theo cách anh hiểu. Vậy tại sao không gọi đây là một cuốn tuyển tập “các chỉ dẫn”, một thuật ngữ nhẹ nhàng, thân thiện với người dùng và ít cứng nhắc hơn là “quy luật”? Bởi vì đây thực sự là những quy luật. Và quy luật tiên quyết nhất là bạn phải chịu trách nhiệm cho cuộc sống của mình. Chấm hết. Đôi khi những quy tắc này đòi hỏi quá nhiều. Chúng yêu cầu bạn phải thực hiện một quá trình tuần tự theo thời gian và kéo căng bạn đến một giới hạn mới. Như tôi đã nói, điều đó đòi hỏi bạn phải mạo hiểm khám phá cái chưa biết. Để vươn mình vượt ra ranh giới của bản thân hiện tại, bạn cần phải cẩn thận lựa chọn và theo đuổi những lý tưởng của mình: Lý tưởng luôn ở đó, phía trên bạn, vượt trội hơn bạn và không phải lúc nào bạn cũng chắc chắn với tới chúng được. Nhưng nếu không chắc chắn đạt được những lý tưởng của mình, vậy vì sao chúng ta lại bận tâm với tay đến chúng ngay từ đầu? Bởi vì nếu không với đến chúng, thì chắc chắn bạn sẽ không bao giờ cảm thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa. Và có lẽ bởi vì - nghe vừa xa lạ vừa khác thường - thẳm sâu trong tâm hồn, tất cả chúng ta đều muốn được phán xét. Tiến sĩ Norman Doidge, Bác sĩ Y khoa, Tác giả cuốn The Brain That Changes Itself (tạm dịch: Bộ não tự biến đổi) DẪN NHẬP C UỐN SÁCH NÀY CÓ MỘT LAI LỊCH ngắn cùng một lai lịch dài. Chúng ta sẽ bắt đầu với phần lai lịch ngắn trước. Năm 2012, tôi bắt đầu viết bài cho một trang web tên Quora. Trên trang Quora, ai cũng có thể đặt câu hỏi về bất kỳ điều gì - và bất cứ ai cũng có thể trả lời. Người đọc bỏ phiếu thuận cho những câu trả lời họ thích và bỏ phiếu chống cho những câu họ không thích. Bằng cách này, những câu trả lời hữu ích nhất sẽ được đưa lên đầu trang, trong khi những câu còn lại sẽ chìm vào quên lãng. Tôi đã tò mò về trang web này. Tôi thích cái bản chất “miễn phí cho tất cả” của nó. Phần thảo luận thường rất thuyết phục và thực sự thú vị khi thấy nhiều ý kiến đa chiều khởi phát từ cùng một câu hỏi. Những lúc nghỉ giữa giờ (hoặc trốn việc), tôi thường tìm đến Quora, tìm kiếm những câu hỏi để trả lời. Tôi cân nhắc và rốt cuộc là trả lời những câu hỏi đại loại như: “Sự khác biệt giữa hạnh phúc và hài lòng là gì?”, “Điều gì sẽ trở nên tốt đẹp hơn khi bạn già đi?” và “Điều gì khiến cuộc sống có ý nghĩa hơn?” Trang Quora cũng cho bạn biết bao nhiêu người đã xem câu trả lời của bạn và bạn nhận được bao nhiêu phiếu thuận. Thêm nữa, bạn có thể quyết định đối tượng mình hướng đến và xem mọi người nghĩ gì về ý tưởng của mình. Chỉ một số rất ít những người xem câu trả lời bỏ phiếu thuận cho nó. Như vào khoảng tháng Bảy năm 2017, khi tôi viết quyển sách này - và cũng là năm năm sau khi tôi trả lời câu “Điều gì khiến cuộc sống có ý nghĩa hơn?” - câu trả lời của tôi nhận được một số lượng tương đối ít người xem (14 nghìn lượt xem và 133 phiếu thuận), trong khi câu trả lời về việc lão hóa được 7.200 người xem và nhận được 36 phiếu thuận. Kết quả không hẳn là đáng kể. Tuy nhiên nó vẫn nằm trong mức dự tính. Trên những trang này, đa phần các câu trả lời đều nhận được rất ít sự quan tâm, trong khi một phần rất nhỏ lại được quan tâm hơn hẳn. Không lâu sau, tôi trả lời một câu hỏi khác: “Những điều quý giá nhất mà mọi người nên biết là gì?” Tôi liệt kê một danh sách các quy tắc hoặc châm ngôn; một số thì cực kỳ nghiêm túc, một số thì chỉ nói suông - như “Hãy tỏ lòng biết ơn dù đau khổ”, “Đừng làm những gì bạn ghét”, “Đừng giấu giếm mọi thứ trong mơ hồ”… Độc giả trên Quora lại có vẻ hài lòng với danh sách này. Họ bình luận và chia sẻ nó. Họ nói những điều như: “Chắc chắn tôi phải in danh sách này ra và giữ lại tham khảo. Thật đơn giản đến phi thường” và “Anh đã đánh bại Quora. Chúng ta đóng trang này luôn được rồi”. Các sinh viên Đại học Toronto, nơi tôi đang giảng dạy, đến gặp tôi và cho tôi biết họ thích danh sách này đến nhường nào. Đến hôm nay, câu trả lời của tôi về “Những điều đáng giá nhất…” đã nhận được 120 nghìn lượt xem và 2.300 phiếu thuận. Chỉ vài trăm trong số xấp xỉ 600 nghìn câu hỏi trên Quora vượt ngưỡng 2 nghìn phiếu thuận. Câu trả lời mà tôi nghĩ ra trong thời gian uể oải lại tạo nên kỳ tích. Tôi đã trình bày một câu trả lời chiếm đến 99,9% mức phản hồi. Việc viết ra danh sách các quy luật trong cuộc sống nhận được phản hồi tốt đến vậy không hề nằm trong dự tính của tôi. Tôi đã khá để tâm đến khoảng 60 câu trả lời mình đưa ra trong vài tháng xung quanh bài đăng ấy. Tuy thế, nghiên cứu thị trường vẫn là mảng ổn nhất mà Quora cung cấp. Người phản hồi được ẩn danh. Họ “không vị lợi” theo nghĩa chính xác nhất của từ này. Các ý kiến đều tự phát và không thiên vị. Do đó, tôi lưu tâm đến kết quả và suy nghĩ về lý do câu trả lời ấy lại nhận được thành công vượt bậc. Có lẽ tôi đã đánh trúng điểm cân bằng giữa những điều quen thuộc và xa lạ khi lập ra các quỵ luật. Có thể mọi người bị thu hút bởi cấu trúc mà các quy luật đang ngụ ý. Hoặc có lẽ họ chỉ đơn giản là thích danh sách này. Vài tháng trước, tức tháng Ba năm 2012, tôi nhận được e-mail từ một người đại diện cho tác giả. Cô ấy từng nghe tôi phát biểu trên đài CBC trong chương trình Just Say No to Happiness (tạm dịch: Hãy cứ nói không với hạnh phúc), khi ấy tôi đã phê bình ý tưởng cho rằng hạnh phúc là mục tiêu đúng đắn của cuộc sống. Trong suốt vài thập niên trước, tôi đã đọc rất nhiều cuốn sách về những giai đoạn lịch sử đen tối của thế kỷ XX, nhiều hơn số tôi chia sẻ, đặc biệt tập trung vào Đức Quốc xã và Liên Xô. Nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn, người thu thập tư liệu về những nỗi kinh hoàng trong các trại lao động khổ sai đã từng viết: “Tư tưởng thương xót” cho rằng “loài người sinh ra để được hạnh phúc” là tư tưởng “được sinh ra từ nhát dùi cui đầu tiên của tay quản giáo”. Trong một cuộc khủng hoảng, những khổ đau không thể tránh khỏi mà cuộc sống bắt ta phải chịu có thể nhanh chóng chế giễu cái lý tưởng rằng hạnh phúc là mưu cầu đúng đắn của mỗi cá nhân. Trên chương trình vô tuyến ấy, tôi đề xuất rằng thay vì thế, ta cần một tầng ý nghĩa sâu sắc hơn. Tôi ghi nhận rằng bản chất của một ý nghĩa như thế đã luôn được tái hiện trong những câu chuyện vĩ đại thời quá khứ và rằng chúng thiên về phát triển nhân cách con người khi đối mặt với nỗi đau hơn là hạnh phúc. Đây cũng là một phần của lịch sử lâu đời đã làm nên tác phẩm hiện tại này. Từ năm 1985 đến 1999, tôi làm việc khoảng ba tiếng mỗi ngày cho cuốn sách đầu tiên mà tôi đã xuất bản: Maps of Meaning: The Architecture of Belief (tạm dịch: Những tấm bản đồ của ý nghĩa: Kiến trúc của niềm tin) Trong thời gian đó và nhiều những năm sau, tôi cũng giảng dạy một khóa học dựa trên nội dung của cuốn sách ấy, đầu tiên là ở Harvard và giờ là ở Đại học Toronto. Năm 2013, chứng kiến sự phát triển của Youtube và sự phổ biến của vài sản phẩm mà tôi từng hợp tác với TVO, một đài truyền hình công của Canada, tôi đã quyết định ghi hình lại những bài giảng được công bố trước đại chúng và trong trường đại học, rồi đăng tải chúng lên mạng. Chúng đã thu hút thêm một lượng khán giả lớn ngày càng tăng - hơn một triệu lượt xem tính đến tháng Tư năm 2016. Số lượt xem cũng “lên dốc” vô cùng đáng kể từ thời điểm đó (18 triệu lượt khi tôi đang viết những dòng này), dù nhận được lượng chú ý bất thường như thế một phần cũng do tôi bị kéo vào một cuộc tranh luận chính trị nhiều tranh cãi. Đấy là một câu chuyện khác. Có thể sẽ được viết trong một quyển sách khác. Tôi đã đề xướng trong cuốn Những tấm bản đồ của ý nghĩa rằng những thần thoại vĩ đại và các câu chuyện tôn giáo cổ xưa, đặc biệt là những chuyện được khai sinh từ thuở sơ khai và truyền miệng lại, mang tính đạo đức có chủ đích hơn là chỉ đơn thuần trần thuật. Do đó, chúng không quan tâm thế giới từng ra sao như các nhà khoa học, mà chỉ quan tâm cách loài người nên hành xử. Tôi cho rằng tổ tiên chúng ta đã khắc họa thế giới như một sàn diễn - một vở kịch - thay vì là một nơi chốn bao gồm các sự vật. Tôi mô tả mình đã dần tin rằng những yếu tố cấu thành thế giới này - như một vở kịch - là trật tự và hỗn loạn, chứ không phải vật chất. Trật tự là cách những người xung quanh bạn hành xử dựa trên sự thấu hiểu về những chuẩn mực trong xã hội và bạn luôn có thể đoán trước, rồi hợp tác với họ. Đây là thế giới của cấu trúc xã hội, lãnh địa được khai phá và sự quen thuộc. Trạng thái của Trật tự thường được mô tả một cách biểu trưng - trong trí tưởng tượng - là hình tượng nam tính. Chẳng hạn như Nhà vua Thông thái hoặc tên Bạo chúa luôn đi liền với nhau, giống như xã hội vừa có tính kiến tạo, vừa là sự áp bức. Trái lại, sự Hỗn loạn là nơi - hoặc khi - những điều khó lường xảy ra. Hỗn loạn xuất hiện, trong hình thái bình thường nhất, khi bạn nói một câu đùa với những người bạn nghĩ là mình hiểu họ và rồi sự yên lặng cùng với cảm giác ngượng ngập bao trùm lên buổi tiệc họp mặt ấy. Hỗn loạn sẽ trỗi dậy mãnh liệt hơn nữa khi bạn chợt nhận ra mình đang thất nghiệp, hoặc bị người yêu phản bội. Dưới dạng phản đề của trật tự mang biểu trưng cho vẻ “nam tính”, hỗn loạn thường được thể hiện bằng “nữ tính” trong trí tưởng tượng. Chúng là điều mới mẻ và không thể đoán trước, bất thần sinh ra giữa những điều quen thuộc. Chúng chính là Sáng tạo và Hủỵ diệt, là khởi nguồn của những điều mới mẻ và đích đến của cái chết (vì lẽ tự nhiên, đối lập với văn hóa, vừa là sự ra đời, vừa là cái chết). Trật tự và hỗn loạn chính là “dương” và “âm” trong biểu tượng nổi tiếng của Đạo giáo: Hai con rắn tạo thành một vòng tròn từ đầu đến đuôi[6]. Trật tự là màu trắng, là con rắn đực; Hỗn loạn là màu đen, là con rắn cái. Điểm màu đen trong con rắn trắng - và điểm màu trắng trong con rắn đen - biểu thị cho khả năng biến đổi: Ngay khi mọi việc đang êm đẹp, bóng đen to lớn không ai biết có thể bất chợt lù lù hiện ra. Trái lại, khi mọi thứ dường như đang lạc lối, một trật tự mới có thể khởi sinh từ tai họa và hỗn loạn. Đối với Đạo giáo, ý nghĩa chính là được tìm thấy giữa ranh giới của một cặp đôi mãi quấn chặt lấy nhau. Bước trên ranh giới ấy để vững chân trên đường đời chính là Thánh Đạo. Và như thế tốt hơn hạnh phúc rất nhiều. Người đại diện tác giả mà tôi nhắc đến đã nghe phần thảo luận của tôi về vấn đề này trên đài CBC. Bài nói khiến cô tự chất vấn bản thân sâu sắc hơn. Cô gửi e-mail cho tôi và hỏi liệu tôi có xét đến việc viết một cuốn sách dành cho độc giả đại chúng không. Tôi đã từng cố viết nên một phiên bản dễ hiểu hơn cho cuốn Những tấm bản đồ của ý nghĩa, dù cuốn sách ấy rất khô khan. Và tôi nhận ra rằng cả bản thân mình trong nỗ lực viết ấy lẫn bản thảo cuối cùng đều chẳng có chút hổn nào cả. Tôi cho rằng do tôi đã phỏng theo bản thể và cuốn sách trước đây của mình, thay vì ngụ trong nơi chốn nằm giữa trật tự với hỗn loạn và sáng tạo ra những thứ gì đó mới hơn. Tôi khuyên cô ấy xem bốn bài giảng của mình trong chương trình của đài TVO mang tên Big Ideas (Những ý tưởng lớn), được đăng trên kênh Youtube của tôi. Tôi nghĩ nếu cô ấy xem xong bài giảng này, chúng tôi sẽ có một cuộc thảo luận sáng suốt và thấu đáo hơn về kiểu chủ đề nào mà tôi sẽ đề cập trong quyển sách “dễ hiểu” sắp được công bố. Cô ấy đã liên lạc với tôi vài tuần sau đó, sau khi xem hết cả bốn bài giảng và thảo luận chúng với một đồng nghiệp. Sự hứng thú của cô được nâng cao hơn nữa, hệt như cam kết của cô ấy đối với dự án này. Điều ấy quả thật đầy hứa hẹn và bất ngờ nữa. Tôi luôn ngạc nhiên trước cách mọi người phản ứng tích cực với những điều mình trình bày, bất kể sự nghiêm túc và kỳ lạ trong bản chất lời nói của mình. Tôi kinh ngạc vì mình đã được phép (thậm chí được khuyến khích) giảng dạy tại Boston trước đây và giờ là Toronto. Tôi luôn nghĩ nếu mọi người thực sự chú ý đến những gì mình dạy thì thật vô cùng xứng đáng. Bạn có thể tự quyết định xem điều đó có đúng không sau khi đọc quyển sách này. :) Cô ấy đề nghị tôi viết một kiểu cẩm nang về những điều mà một người cần “để sống tốt” - bất kể điều đó mang nghĩa gì. Tôi đã nghĩ ngay đến danh sách trên Quora của mình. Trong thời gian ấy, tôi cũng đang viết ra những suy nghĩ sâu xa hơn về các quy luật mình đã đăng. Mọi người cũng phản ứng tích cực với những ý tưởng mới. Nên đối với tôi, dường như có một sự hài hòa thỏa đáng giữa danh sách trên Quora và các ý tưởng của người đại diện mới. Thế là tôi gửi cô ấy xem bản danh sách. Và cô ấy thích chúng. Đồng thời, một người bạn và cũng là cựu sinh viên của tôi - tiểu thuyết gia kiêm biên kịch Gregg Hurwitz - cũng đang viết một quyển sách mới, mà về sau trở thành tiểu thuyết ly kỳ bán chạy Orphan X (tạm dịch: Đứa trẻ mồ côi X). Cậu ấy cũng thích các quy luật đó. Nhân vật nữ chính Mia trong cuốn tiểu thuyết của cậu đã dán những quy luật được chọn lọc từng cái một lên tủ lạnh, hoặc ở những thời điểm trong truyện được lồng ghép phù hợp. Đây cũng là một phần minh chứng ủng hộ cho giả thiết của tôi về độ hấp dẫn của chúng. Tôi đề xuất với người đại diện của mình rằng tôi sẽ viết một chương sơ lược nói về từng quy tắc. Cô ấy đồng ý, nên tôi đã viết một bản đề xuất cho cuốn sách với nội dung tương tự. Tuy vậy, lúc tôi bắt tay vào viết các chương thực sự, chúng lại chẳng sơ lược tí nào. Tôi có nhiều điều muốn nói về từng quy tắc nhiều hơn những gì mình đã hình dung rất nhiều. Điều này một phần là nhờ tôi đã dành thời gian dài nghiên cứu cho cuốn sách đầu tiên: Nghiên cứu lịch sử, thần thoại, khoa học thần kinh, phân tích tâm lý, tâm lý trẻ em, thi ca và nhiều phần lớn trong Kinh Thánh. Tôi đọc và thậm chí hiểu được hầu hết các cuốn Thiên đường đánh mất (Paradise Lost) - tập thơ của Milton, Faust của Goethe và Hỏa ngục (Inferno) trong Thần khúc của Dante. Tôi hợp nhất tất cả kiến thức ấy, dù kết quả tốt hơn hay tệ hơn, thì chúng cũng cố gắng giải thích tình trạng xung đột căng thẳng: nguyên nhân hoặc những nguyên nhân đã dẫn đến thế giằng co hạt nhân thời Chiến tranh Lạnh. Tôi không thể hiểu được bằng cách nào những hệ thống tín niệm lại quan trọng với con người tới mức họ sẵn sàng chấp nhận nguy cơ phá hủy thế giới chỉ để bảo vệ chúng. Tôi nhận ra con người sẽ dễ hiểu nhau hơn khi họ cùng chia sẻ một hệ thống tín niệm - và các hệ thống ấy không chỉ có niềm tin mà thôi. Những người sống theo cùng một nguyên tắc đều có sự dễ đoán chung giống như nhau. Họ hành xử dựa vào những kỳ vọng và mong muốn của đối phương. Họ có thể hợp tác. Thậm chí họ có thể cạnh tranh trong hòa bình, vì mỗi người đều biết mình kỳ vọng điều gì ở tất cả những người khác. Một hệ thống tín niệm chung, một phần trong tâm lý, một phần trong hành động, sẽ đơn giản hóa tất cả mọi người - theo góc nhìn của chính họ và của người khác. Các niềm tin chung cũng đơn giản hóa thế giới, bởi con người biết nên kỳ vọng gì ở người khác và cùng hành động để chinh phục cả thế giới. Có thể không gì quan trọng hơn việc duy trì cách tổ chức này - tức sự đơn giản hóa này. Nếu nó bị đe dọa, “con thuyền” quốc gia vĩ đại sẽ bị rung chuyển. Cũng không thật chính xác khi nói rằng con người sẽ đấu tranh cho những gì họ tin tưởng. Thay vì thế, họ sẽ đấu tranh để duy trì sự ăn khớp giữa những điều họ tin, những điều họ kỳ vọng với những điều họ khao khát. Họ cũng sẽ đấu tranh để duy trì sự ăn khớp giữa những gì họ kỳ vọng và cách mọi người hành động. Và chính việc duy trì sự ăn khớp ấy đã tạo cơ hội cho mọi người chung sống một cách hòa bình, dễ đoán và có năng suất. Nó làm giảm bớt tình trạng không chắc chắn và sự rối ren hỗn loạn của những cảm xúc không thể dung thứ hiển nhiên hình thành từ sự không chắc chắn ấy. Hãy tưởng tượng một người bị người tình mà họ tin tưởng phản bội. Một khế ước xã hội thiêng liêng giữa hai con người vừa bị xâm phạm. Hành động ghê gớm hơn cả lời nói, và một hành động phản bội sẽ đập tan sự yên bình mong manh được vun vén cẩn thận của một mối quan hệ mật thiết. Trong chuỗi hậu quả của sự bất nghĩa, con người bị những cảm xúc kinh khủng bủa vây: Ghê tởm, khinh miệt (đối với bản thân lẫn kẻ phản bội), tội lỗi, lo lắng, phẫn nộ và sợ hãi. Mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi và đôi khi nó mang đến hậu quả chết người. Các hệ thống tín niệm chung - hệ thống chung về tư cách và kỳ vọng được đồng thuận từ trước - giúp điều chỉnh và kiểm soát mọi tác động mạnh mẽ ấy. Chẳng có gì lạ khi con người đấu tranh bảo vệ những điều giúp họ an toàn giữa những cảm xúc hỗn loạn và kinh khủng (và tiếp theo đó là sự thoái hóa dẫn đến bất đồng và tranh chấp). Và còn hơn thế nữa. Một hệ thống văn hóa chung sẽ ổn định mối tương tác của con người, nhưng đó cũng chính là một hệ thống giá trị - một hệ thống phân cấp giá trị, trong đó một số điều được xếp ưu tiên và quan trọng, còn số khác thì không. Khi thiếu đi hệ thống giá trị ấy, con người đơn giản là không thể hành động. Trên thực tế, họ thậm chí không thể lĩnh hội, vì cả hành vi lẫn nhận thức đều cần một mục tiêu và một mục tiêu đúng đắn phải là điều gì đó được xem trọng. Chúng ta trải nghiệm phần lớn những cảm xúc tích cực khi gắn với các mục tiêu. Nói đúng ra, chúng ta không hạnh phúc trừ khi nhận thấy bản thân đang tiến bộ - và ý nghĩ về sự tiến triển hàm chứa giá trị. Tuy nhiên, tệ hơn là một ý nghĩa cuộc sống không hàm chứa giá trị tích cực thì cũng không đơn thuần trung dung. Vì chúng ta yếu đuối và tầm thường, nên nỗi đau đớn và sự lo lắng là một phần không thể thiếu đối với sự tồn vong của nhân loại. Chúng ta cần có điều gì đó để chống lại bản chất khổ đau nội tại của Hữu thể[7]. Chúng ta phải tìm thấy ý nghĩa vốn có trong một hệ thống giá trị sâu sắc, nếu không muốn bị nỗi kinh hoàng về sự tồn vong chi phối. Sau đó, chủ nghĩa hư vô sẽ vẫy gọi, đi kèm với nỗi tuyệt vọng và bất hạnh. Do vậy: Không giá trị, không ý nghĩa. Song, giữa các hệ thống giá trị lại tồn tại khả năng mâu thuẫn. Chúng ta vì thế mà muôn đời vướng vào những tình huống “tiến thoái lưỡng nan” nhất: Việc mất niềm tin cốt lõi của nhóm sẽ khiến cuộc đời hỗn loạn, đau khổ và không chịu đựng nổi; còn sự tồn tại của niềm tin cốt lõi trong nhóm lại khiến mâu thuẫn giữa các nhóm với nhau là điều không thể tránh khỏi. Ở phương Tây, chúng ta đã thoát ly khỏi những nền văn hóa đặt trọng tâm vào truyền thống, tốn giáo và thậm chí quốc gia, một phần để giảm thiểu sự nguy hiểm của mâu thuẫn nhóm. Nhưng chúng ta lại ngày càng trở thành con mồi cho nỗi tuyệt vọng của sự vô nghĩa và điều đó không mang lại chút cải thiện nào. Trong khi viết cuốn Những tấm bản đồ của ý nghĩa, tôi (cũng) đã bị thôi thúc bởi một nhận thức rằng chúng ta không thể cam chịu mâu thuẫn nữa - chắc chắn không phải với quy mô của những cuộc xung đột lớn trên thế giới ở thế kỷ XX. Những công nghệ hủy diệt của chúng ta đã trở nên quá mãnh liệt. Hậu quả tiềm tàng của chiến tranh có thể dẫn đến khải huyền đúng nghĩa. Nhưng chúng ta cũng không thể đơn giản từ bỏ các hệ thống giá trị, tín niệm và văn hóa. Tôi đã trăn trở vì vấn đề khó giải quyết này suốt hàng tháng trời. Liệu có tồn tại một cách thứ ba, mà tôi vẫn chưa nhìn ra hay không? Vào một đêm trong khoảng thời gian ấy, tôi đã mơ thấy mình bị treo giữa không trung, bám chặt vào một chiếc đèn trần, lơ lửng cách mặt đất rất xa và ngay dưới mái vòm của một nhà thờ lớn bể thế. Mọi người đứng dưới sàn thật xa xôi và nhỏ bé. Và khoảng cách giữa tôi đến mọi bức tường - ngay cả đỉnh mái vòm - cũng vô cùng xa vời. Tôi đã học cách chú ý đến những giấc mơ, đặc biệt là vì bản thân được đào tạo trở thành bác sĩ tâm lý lâm sàng. Những giấc mơ soi sáng các góc khuất nơi nguyên nhân vẫn còn là xa vời. Tôi cũng nghiên cứu kha khá về Ki-tô giáo (sâu hơn những truyền thống tôn giáo khác, mặc dù tôi luôn cố gắng bù đắp cho thiếu sót này). Vì thế, giống như mọi việc khác, tôi buộc phải trông cậy vào những gì mình biết hơn là những gì mình không biết. Tôi biết rằng các thánh đường được xây dựng dựa trên hình dáng cây thánh giá và điểm bên dưới mái vòm chính là trung tâm của thánh giá. Tôi biết cây thánh giá đồng thời là điểm khổ đau cùng cực, điểm diệt vong lẫn tái sinh và cũng là trung tâm biểu trưng của thế giới. Tôi không muốn bị treo ở đó tí nào. Tôi tìm cách leo xuống, thoát khỏi những tầng cao - thoát khỏi bầu trời biểu tượng - để trở về với mặt đất an toàn, quen thuộc và ẩn dật. Tôi không biết làm sao xuống được. Rồi vẫn trong giấc mơ của mình, tôi quay về phòng ngủ với chiếc giường quen thuộc và cố gắng ngủ lại, trở lại với sự vô thức bình yên. Nhưng trong lúc thả lỏng, tôi cảm thấy cơ thể mình bị dịch chuyển. Một cơn gió lớn đang cuốn tôi đi, chuẩn bị ném tôi về lại thánh đường và một lần nữa đặt tôi ở điểm trung tâm. Không có lối thoát nào. Đây đích thực là một cơn ác mộng. Tôi buộc bản thân phải tỉnh giấc. Những tấm màn sau lưng tôi đang phủ lên chiếc gối. Nửa tỉnh nửa mê, tôi nhìn xuống chân giường và lại thấy những cánh cửa thánh đường khổng lồ. Tôi vội cựa mình để tỉnh giấc hoàn toàn và chúng liền biến mất. Giấc mơ đã đặt tôi vào trung tâm của Hữu thể và không có lối thoát nào. Tôi phải mất vài tháng để hiểu được ý nghĩa của nó. Trong khoảng thời gian này, tôi đã nghiệm ra thực tế đầy đủ và cá nhân hơn về những gì mà những câu chuyện vĩ đại của quá khứ vẫn khăng khăng biểu thị: Phần trung tâm bị cá nhân chi phối. Trung tâm được đánh dấu bởi thánh giá, giống như chữ X đánh dấu một điểm vậy. Điều tồn tại ở điểm giao thoa ấy là sự khổ đau và biến đổi - và trên tất thảy, tôi phải chấp nhận sự thật ấy một cách tự nguyện. Điều khả thi là ta có thể vượt qua sự trung thành mù quáng với các giáo lý của nó, đồng thời vẫn tránh được thái cực đối lập của nó, tức thuyết hư vô. Thay vì thế, ta cũng có thể tự đi tìm ý nghĩa đầy đủ trong nhận thức và kinh nghiệm cá nhân. Làm sao ta có thể giải phóng thế giới, một mặt khỏi tình cảnh tiên thoái lưỡng nan mâu thuẫn tồi tệ, mặt khác khỏi sự tan biến về mặt tâm lý và xã hội? Câu trả lời là: thông qua sự nâng tầm và phát triển của một cá nhân, thông qua việc mọi người sẵn sàng gánh lấy gánh nặng Hữu thể và bước trên con đường với lòng dũng cảm. Chúng ta phải đón nhận càng nhiều trách nhiệm càng tốt với cuộc sống cá nhân, xã hội và thế giới. Mỗi chúng ta phải nói lên sự thật và sửa chữa những điều đang tổn thương và đổ vỡ, tái tạo những điều xưa cũ và lỗi thời. Theo cách này, chúng ta có thể và nhất định phải giảm đi những khổ đau đang đầu độc cả thế giới. Điều này đòi hỏi rất nhiều. Nó đòi hỏi ta mọi thứ. Nhưng lựa chọn còn lại - nỗi kinh hoàng của tín niệm độc đoán, sự hỗn loạn của trạng thái sụp đổ, thảm họa bi thảm của thế giới tự nhiên buông thả, cảm giác lo lắng về sự tồn vong và sự yếu đuối của những cá nhân thiếu mục tiêu - rõ ràng là tệ hơn nhiều. Tôi đã và đang suy nghĩ, giảng dạy về những ý tưởng trên suốt vài thập kỷ vừa qua. Tôi thu thập thành một tập bài viết kha khá về những câu chuyện và khái niệm liên quan đến chúng. Tuy nhiên, chưa giây phút nào tôi khẳng định suy nghĩ của mình hoàn toàn đúng hay hoàn chỉnh. Hữu thể phức tạp hơn rất nhiều so với khả năng hiểu biết của bất cứ ai, và tôi cũng không nắm được toàn bộ câu chuyện. Tôi chỉ đơn giản đề xuất những điều tốt nhất mà tôi xoay xở được. Dù sao chăng nữa, kết quả từ mọi nghiên cứu và suy nghĩ trước đây của tôi đã mang đến những tiểu luận mới và cuối cùng trở thành cuốn sách này. Ý tưởng ban đầu của tôi là viết một tiểu luận ngắn cho từng điều trong toàn bộ 40 câu trả lời mà tôi đã đăng trên Quora. Bản đề xuất ấy được nhà xuất bản Penguin Random House tại Canada chấp thuận. Tuy nhiên, trong lúc viết quyển sách, tôi cắt bớt số tiểu luận còn 25 bài, rồi còn 16 và cuối cùng là 12. Tôi chỉnh sửa phần còn lại đó với sự giúp đỡ và quan tâm từ biên tập viên chính thức của mình (cùng với sự phê bình nghiêm khắc và chính xác kinh khủng của Hurwitz, người mà tôi đã đề cập ở trên) trong suốt ba năm qua. Cũng mất kha khá thời gian để thống nhất được cái tên 12 quy luật cuộc đời: Thần dược cho cuộc sống hiện đại. Tại sao cái tên này lại nổi bật hơn tất cả những cái tên khác? Trước nhất là vì nó rất đơn giản. Nó chỉ rõ rằng con người cần quy luật và trật tự, nếu không họ sẽ bị cuốn vào vòng xoáy hỗn loạn. Chúng ta yêu cầu phải có quy luật, tiêu chuẩn và giá trị - dù cho bản thân hay tập thể. Chúng ta là những sinh vật thồ hàng, mang trên mình những gánh nặng. Chúng ta phải mang vật nặng để biện minh cho sự tồn tại khốn khổ của mình. Chúng ta đòi hỏi lệ thường và truyền thống. Và đó chính là trật tự. Trật tự cũng có thể vượt quá giới hạn và điều này thì không hề tốt, nhưng hỗn loạn cũng có thể kéo ta xuống bùn lầy - và điều đó cũng không khả quan. Chúng ta cần vững bước trên một con đường mòn thẳng và hẹp. Mỗi quy luật trong số 12 quy luật của quyển sách này - cùng các bài viết đi kèm với chúng - sẽ cung cấp một chỉ dẫn để đến nơi ấy. “Nơi ấy” chính là ranh giới thiêng liêng giữa trật tự và hỗn loạn. Đó là nơi đồng thời có sự ổn định, khám phá, biến đổi, khắc phục và hợp tác vừa đủ. Đó là nơi chúng ta tìm thấy ý nghĩa chứng minh cho cuộc sống và những khổ đau không thể tránh khỏi của nó. Có lẽ nếu sống đúng đắn, chúng ta sẽ chấp nhận được gánh nặng từ sự tự giác của mình. Có lẽ nếu sống đúng đắn, chúng ta sẽ giữ vững được hiểu biết về sự mong manh và tầm thường của con người, mà không cần phải đóng vai nạn nhân phiền muộn; để rồi sinh ra trước hết là sự oán hận, rồi đến ghen tuông, và sau đó nung nấu khát vọng trả thù và hủy diệt. Có lẽ nếu sống đúng đắn, chúng ta sẽ không phải quay sang nhờ cậy trạng thái chắc chắn của chế độ chuyên chế để bảo vệ bản thân khỏi những hiểu biết về sự bất toàn và vô tri. Có thể chúng ta sẽ tránh được những lối mòn dẫn thẳng xuống Địa Ngục - và chúng ta đã từng chứng kiến Địa Ngục thực sự trông như thế nào trong suốt thế kỷ XX kinh hoàng. Tôi hy vọng những quy luật và các bài viết kèm với chúng sẽ giúp mọi người hiểu được điều họ đã thông suốt rằng: linh hồn của một cá nhân mãi khao khát chủ nghĩa anh hùng và Hữu thể chân chính, và rằng sự tự nguyện gánh vác trách nhiệm cũng giống hệt như quyết định sống một cuộc đời ý nghĩa. Nếu mỗi người chúng ta sống đúng đắn, thì chúng ta sẽ lớn mạnh cùng nhau. Xin dành tặng mọi lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả các bạn, những người đã đọc đến hết trang này. Tiến sĩ Jordan B. Peterson Bác sĩ Tâm lý và Giáo sư Tâm lý học QUY LUẬT 1 ĐỨNG THẲNG HIÊN NGANG TÔM HÙM - VÀ LÃNH THỔ GIỐNG NHƯ BAO NGƯỜI KHÁC, bạn ít khi nghĩ đến những con tôm hùm - ngoại trừ lúc bạn đang thưởng thức nó. Tuy nhiên, loài giáp xác thú vị và ngon lành này rất đáng để chúng ta phải suy ngẫm. Hệ thần kinh của chúng tương đối đơn giản với các nơ-ron thần kinh lớn và dễ quan sát - quả là những tế bào não kỳ diệu. Chính vì thế, các nhà khoa học đã phác họa ra được mạch thần kinh của tôm hùm một cách chuẩn xác. Điều này giúp chúng ta hiểu được cấu trúc cũng như chức năng của não bộ và hành vi của các loài động vật phức tạp hơn, gồm cả con người. Tôm hùm có nhiều điểm chung với chúng ta hơn bạn nghĩ đấy (đặc biệt là những lúc bạn cảm thấy cáu gắt - ha ha). Đáy đại dương là nơi cư ngụ của tôm hùm. Chúng cần một ngôi nhà dưới đáy biển, phạm vi mà chúng có thể săn mồi và nhặt nhạnh các mảnh vụn thức ăn xung quanh, hoặc bất kỳ tàn dư nào chìm xuống của những cuộc tàn sát giết chóc hỗn loạn không ngừng phía trên. Chúng muốn có một nơi an toàn, thuận lợi cho việc săn mồi và tụ họp. Chúng muốn một ngôi nhà. Bởi có rất nhiều tôm hùm, nên có thể nảy sinh một vấn đề. Điều gì sẽ xảy ra nếu như có hai con tôm hùm chiếm lĩnh cùng một lãnh thổ ở tận đáy đại dương vào cùng một thời điểm, và cả hai đều muốn sống ở đó? Điều gì sẽ xảy ra nếu có hàng trăm con tôm hùm cũng đang phải cố gắng kiếm sống và nuôi gia đình, trong cùng một trảng cát hay bãi đá thải đông đúc như thế? Các sinh vật khác cũng đối mặt với vấn đề này. Ví dụ, khi những loài chim hét bay đến phương Bắc mỗi độ xuân về, chúng phải tham gia vào những cuộc giành giật lãnh thổ khốc liệt. Những bản nhạc du dương như rót vào tai người nghe một cảm giác yên bình đẹp đẽ, nhưng lại chính là tiếng còi báo động và hò reo thống trị. Khi con chim hét cất giọng cũng chính là một chiến binh nhỏ bé đang tuyên bố chủ quyền của mình. Hay ví dụ loài hồng tước, chúng là loài chim nhỏ biết hót, hiếu chiến và ăn côn trùng phổ biến ở Bắc Mỹ. Một con chim hồng tước mới đến muốn có một nơi trú ẩn để xây tổ và tránh mưa gió. Nó muốn tổ của mình gần nguồn thức ăn và thu hút những bạn tình tiềm năng. Nó cũng muốn khẳng định lãnh thổ của mình trước đối thủ để khiến chúng tránh xa. NHỮNG CON CHIM - VÀ LÃNH THỔ Cha và tôi đã thiết kế ngôi nhà cho một gia đình chim hồng tước hồi tôi mười tuổi. Nó trông như một toa xe có mái che lối vào phía trước chiếm khoảng 1/4 kích thước. Nhờ thế ngôi nhà này tốt đối với loài hồng tước - những chú chim bé nhỏ - và không thích hợp đối với những loài chim lớn khác, vì chúng không thể vào trong được. Người hàng xóm già của tôi cũng có một tổ chim, một ngôi nhà mà chúng tôi đã xây giúp bà ấy cùng lúc với tổ chim của chúng tôi, từ một chiếc ủng cao su đã cũ. Chiếc tổ có lối vào đủ lớn cho một chú chim cỡ chim cổ đỏ. Bà hồi hộp mong chờ đến ngày chiếc tổ ấy sẽ có một chú chim đến ở. Một chú hồng tước đã sớm phát hiện ra “ngôi nhà” của chúng tôi và chọn nơi đây làm cái tổ của mình. Chúng tôi đã nghe thây tiếng hót ngân dài của chủ, lặp đi lặp lại suốt những ngày đầu xuân. Ngay khi xây tổ trong toa xe có mái che ấy, vị khách nhỏ biết bay của chúng tôi cũng bắt đầu tha những que củi nhỏ đặt vào chiếc ủng của bà hàng xóm. Cậu chàng chất đầy đến nỗi những con chim khác, dù lớn hay nhỏ cũng không thể chui vào bên trong được. Bà hàng xóm chẳng mấy hài lòng với cú đột kích “rào trước” này, nhưng cũng không thể làm gì khác. “Nếu chúng ta lấy nó xuống”, cha tôi nói, “lau dọn sạch sẽ và đặt nó lại trên cây thì cậu bạn hồng tước này cũng sẽ lại lấp đẩy bằng những que củi ấy mà thôi”. Hồng tước là loài chim nhỏ bé đáng yêu, nhưng không biết khoan nhượng chút nào. Khi bị gãy chân do trượt tuyết vào mùa đông một năm trước đó - cũng là lần đầu tiên tôi trượt xuống đồi - tôi đã nhận được một ít tiền bảo hiểm ở trường dành cho những học sinh bị tai nạn do không may hoặc bất cẩn. Với số tiền nhận được, tôi đã tự mua cho mình chiếc máy ghi âm cát-xét (một phát minh công nghệ cao vào thời điểm ấy). Cha gợi ý tôi ngồi trên bãi cỏ và ghi lại bài hát của chú hồng tước, sau đó bật nghe lại và xem điều gì sẽ xảy ra. Vì vậy, tôi đã ra ngoài, bước về phía ánh nắng mặt trời tươi sáng của mùa xuân và dành vài phút thu lại tiếng hót của chú hồng tước khi chú đang cao giọng hùng hổ tuyên bố chủ quyển lãnh thổ của mình. Sau đó, tôi bật lại để chú nghe giọng của mình. Chú chim bé nhỏ chỉ bằng 1/3 kích thước của một con chim sẻ ấy bắt đầu bổ nhào xuống mổ tôi và chiếc máy cát-xét tới tấp, chao liệng liên hồi chỉ cách cái loa vài phân. Chúng tôi đã chứng kiến rất nhiều kiểu hành xử như thế, ngay cả khi không có máy ghi âm. Nếu một con chim lớn hơn dám đậu và nghỉ ngơi trên bất kỳ cành cây nào gần tổ chim của chúng tôi, thì rất có khả năng nó sẽ bị chú “thần phong” hồng tước hất văng khỏi cành. Vậy là, chim hồng tước và tôm hùm rất khác nhau. Tôm hùm không biết bay, hót hay đậu trên cành cây. Hồng tước thì lại có lông vũ thay vì vỏ cứng. Hồng tước cũng không thể thở dưới nước và hiếm khi bị đánh chén cùng với bơ. Nhưng chúng lại rất giống nhau ở những điểm quan trọng. Chẳng hạn, cả hai đều bị ám ảnh bởi địa vị và vị trí, giống như tất cả những sinh vật khác. Nhà động vật học kiêm nhà tâm lý học so sánh người Na Uy, Thorlief Schjelderup-Ebbe đã quan sát thấy (vào năm 1921) rằng ngay cả những đàn gà nuôi trong sân kho cũng thiết lập một “tôn ti trật tự” như vậy. Việc xác định “Ai là Ai” trong thế giới loài gà có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là trong các thời điểm khan hiếm thức ăn. Những chú gà luôn được ưu tiên tiếp cận bất kỳ loại thức ăn nào được rắc ngoài sân vào buổi sớm được xem là gà “ngôi sao”. Sau đó mới đến những “tuyển thủ dự bị”, tới lũ a dua rồi đám bon chen. Tiếp theo, mới đến lũ gà hạng ba, cứ như vậy cho đến những con gà khốn khổ lông mào rũ rượi, thấp cổ bé họng và bị đồng bọn mổ đến xơ xác nằm ở bậc thấp nhất, dưới đáy sâu không thể chạm đến của thang cấp bậc loài gà. Cũng giống như người dân sống ở ngoại thành, loài gà có cuộc sống cộng đồng. Còn những loài chim biết hót như hồng tước thì không như vậy, nhưng chúng vẫn quen với một trật tự thống trị. Nó chỉ lan rộng thêm trên nhiều lãnh thổ. Những con mưu mẹo nhất, khỏe nhất, mạnh nhất sẽ là những con may mắn nhất chiếm được và bảo vệ vùng lãnh thổ quan trọng. Nhờ thế, chúng có nhiều khả năng thu hút được bạn tình chất lượng hơn để sản sinh ra những con chim non có khả năng sống sót và lớn mạnh. Sự bảo vệ khỏi gió mưa và các loài ăn thịt, cũng như việc dễ dàng tiếp cận với nguồn thực phẩm chất lượng hơn sẽ giúp chúng sinh tồn với ít áp lực hơn. Lãnh thổ rất quan trọng và hầu như không có sự khác biệt giữa chủ quyền lãnh thổ với địa vị xã hội. Đó thường là vấn đề giữa sống và chết. Nếu có một căn bệnh truyền nhiễm từ chim quét qua khu vực nơi có những loài chim hót (được phân tầng rõ rệt) đang cư ngụ, thì những con chim yếu thế nhất, chịu nhiều áp lực nhất và chiếm vị thế thấp nhất của thế giới loài chim sẽ có nguy cơ nhiễm bệnh và chết cao nhất. Điều này cũng đúng với các khu dân cư của loài người, khi virus cúm gia cầm hay các loại bệnh khác xảy ra: Những người nghèo khố, sống trong căng thẳng luôn là người chết trước và ở số lượng lớn hơn. Họ cũng dễ mắc các bệnh không truyền nhiễm nhiều hơn, chẳng hạn như ung thư, tiểu đường hay bệnh tim. Giả sử khi tầng lớp quý tộc bị cảm lạnh, thì giai cấp lao động sẽ bị chết vì viêm phổi. Vì lãnh thổ rất quan trọng và vì luôn thiếu hụt nơi sống lý tưởng nhất, nên mới xảy ra xung đột giữa các loài động vật khi tìm kiếm lãnh thổ cư ngụ. Xung đột lại tạo nên một vấn đề khác: Làm thế nào để chiến thắng hoặc thất bại mà các bên bất hòa không phải gánh chịu tổn thất quá lớn. Vấn đề theo sau này mới là điều hết sức quan trọng. Hãy hình dung hai chú chim cùng lao vào cuộc tranh giành nhau một khu vực làm tổ đáng mong ước. Sự tương tác này có thể dễ dàng triệt thoái thành cuộc đọ sức thẳng thừng. Trong hoàn cảnh như vậy, sẽ có một con chim, thường là con lớn nhất, giành chiến thắng cuối cùng - nhưng ngay cả kẻ chiến thắng cũng có thể bị thương trong cuộc đấu. Điều đó đồng nghĩa một chú chim thứ ba chưa chịu bất kỳ thiệt hại nào, một kẻ ngoài cuộc thận trọng, có thể nhảy vào chớp lấy cơ hội đánh bại chú chim kia. Và đó không phải là ý hay đối với hai chú chim đầu tiên. XUNG ĐỘT - VÀ LÃNH THỔ Trong hàng thiên niên kỷ, các loài động vật phải chung sống với nhau trong cùng những lãnh thổ và sau cùng đã học được nhiều chiêu thuật trong việc thiết lập sự thống trị, đồng thời mạo hiểm với mức độ tổn hại thấp nhất có thể. Ví dụ, một con sói bại trận sẽ cuộn tròn lưng lại, để lộ cổ họng của mình về phía kẻ chiến thắng, để đối phương không thèm hạ cố xé nát họng nó. Xét cho cùng, con sói thống trị vẫn cần có đồng loại cùng săn mồi trong tương lai, ngay cả nếu đó là một kẻ đáng thương hại như kẻ thù nó vừa đánh bại. Kỳ đà châu Úc là loài thằn lằn đặc biệt sống theo bầy đàn, chúng thường nhẹ nhàng huơ chân trước của mình với nhau để thể hiện mong muốn tiếp tục duy trì mối hòa hảo xã hội. Cá heo thì tạo ra các sóng âm đặc thù trong khi săn mồi và trong những thời điểm phấn khích khác, nhằm làm giảm xung đột tiềm tàng giữa các thành viên của nhóm “thống trị” và nhóm “bị trị”. Đây là hành động đặc hữu trong cộng đồng của các vật thể sống. Những con tôm hùm đang bò hối hả dưới đáy đại dương kia cũng không ngoại lệ. Nếu bắt vài chục con và chuyển chúng đến một địa điểm mới, bạn có thể quan sát những nghi thức và kỹ thuật định hình địa vị của chúng. Mỗi con tôm hùm sẽ bắt đầu khám phá lãnh thổ mới, một phần để lập bản đồ chi tiết và một phần để tìm một nơi trú ẩn tốt. Tôm hùm tìm hiểu rất nhiều về nơi chúng sinh sống và biết ghi nhớ những gì mình học được. Nếu một con ở gần hang của nó hoảng sợ, nó sẽ nhanh chóng thụt người lại và trốn vào hang. Tuy nhiên, nếu bạn dọa chúng ở một chỗ xa, chúng sẽ ngay lập tức búng người về phía nơi trú ẩn thích hợp gần nhất - nơi chúng đã xác định từ trước và vẫn nhớ đến lúc này. Tôm hùm cần một nơi trú ẩn an toàn để nghỉ ngơi, thoát khỏi những động vật ăn thịt khác cũng như các thế lực tự nhiên. Hơn nữa, khi tôm hùm phát triển, chúng sẽ lột xác, vỏ của chúng sẽ rơi ra, khiến chúng trở nên mềm yếu và dễ bị tổn thương trong một khoảng thời gian dài. Một cái hốc dưới tảng đá sẽ là ngôi nhà rất tốt cho tôm hùm, đặc biệt nếu nó tọa lạc ở nơi tôm hùm có thể kéo các mảnh vỏ và mảnh vụn khác để che đậy lối vào, trong lúc náu mình ấm áp bên trong. Tuy nhiên, chỉ có một số lượng rất nhỏ những nơi trú ẩn hoặc náu mình chất lượng cao tại một lãnh thổ mới. Chúng rất khan hiếm và quý giá. Và những con tôm hùm khác cũng liên tục săn tìm chúng. Điều này dẫn đến việc những con tôm hùm sẽ thường xuyên chạm trán với nhau khi chúng ra ngoài khám phá. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng ngay cả một con tôm hùm lớn lên trong môi trường bị cô lập cũng biết phải làm gì khi điều này xảy ra. Các hành vi phòng thủ và tấn công phức tạp của nó đã được lập trình sẵn trong hệ thống thần kinh. Nó bắt đầu búng nhảy xung quanh như một võ sĩ quyển Anh, mở đôi càng ra và giương cao lên, di chuyển trước sau, trái phải, bắt chước đối thủ rồi huơ cặp càng loạn xạ. Cùng lúc đó, nó tận dụng chiếc vòi phun đặc biệt của mình ở dưới mắt để phóng dòng chất lỏng trực tiếp vào đối thủ. Chất lỏng được phun ra có chứa một hỗn hợp các hóa chất giúp đối phương biết được kích cỡ, giới tính, sức mạnh và tính khí của nó. Đôi khi, một con tôm hùm có thể lập tức nhận biết kích thước càng của mình nhỏ hơn nhiều so với đối thủ, nên nó rút lui không tham chiến nữa. Thông tin hóa học được trao đổi trong chiếc vòi phun này cũng có tác dụng tương tự nhằm thuyết phục những con yếu và kém hung hăng hơn phải nhường bước. Đó là cách giải quyết tranh chấp Cấp độ 1. Tuy nhiên, nếu hai con tôm hùm có bề ngoài xấp xỉ nhau về kích thước cũng như thể chất, hoặc nếu việc trao đổi chất dịch không cung cấp đủ thông tin cần thiết, thì chúng sẽ tiến hành giải quyết tranh chấp ở Cấp độ 2. Với chiếc râu ăng-ten vụt lên xuống điên cuồng và cặp càng quặp xuống, cứ con này tiến lên thì con kia sẽ lùi lại. Sau đó, con phòng thủ sẽ tiến lên và con vừa sấn tới sẽ lùi lại. Sau một vài lần hành động như thế, con tôm hùm kém tự tin hơn có thể sẽ nghĩ rằng cứ tiếp tục thì sẽ không đạt được kết quả nào. Nó sẽ phản xạ búng đuôi về hướng ngược lại, thối lui về sau và biến mất, để rồi tiếp tục thử vận may ở một nơi khác. Tuy nhiên, nếu không con nào lẩn đi, thì chúng sẽ chuyển lên Cấp độ 3 và đây mới là cuộc đọ sức đúng nghĩa. Lần này, những con tôm hùm điên tiết sẽ lao vào nhau một cách dữ dội, với cặp càng mở rộng để quắp lấy nhau. Con này cố quất vào lưng con kia. Con bị dính đòn sẽ kết luận rằng đối thủ của nó có khả năng gây ra tổn thương nghiêm trọng. Nhìn chung, nó sẽ từ bỏ và rời đi (mặc dù nó phải kìm nén nỗi oán giận và những lời bàn tán không hồi kết về kẻ chiến thắng sau lưng). Nếu không con nào đánh bại đối phương - hoặc con bị quất vẫn không bỏ cuộc - thì hai con tôm hùm sẽ chuyển sang Cấp độ 4. Nếu làm thế, chúng sẽ phải chịu rủi ro rất lớn và do đó không thể hành động khinh suất: Một hoặc cả hai con tôm hùm sẽ bị thương trong cuộc đụng độ tiếp theo, thậm chí tử vong. Hai con vật tiến về phía nhau với tốc độ ngày càng nhanh. Những chiếc càng mở ra để kẹp lấy chân, râu ăng-ten, mắt hoặc bất kỳ phần nào phô ra ngoài và dễ tổn thương của đối phương. Khi một phần cơ thể hoàn toàn bị tóm chặt, con đang tóm sẽ búng mạnh đuôi về phía sau, với chiếc càng vẫn kẹp chặt và cố gắng xé đối phương làm đôi. Những cuộc xung đột leo thang đến thời điểm này thường sẽ phân định kẻ thắng kẻ thua rõ ràng. Con thua cuộc sẽ khó có thể sống sót, đặc biệt nếu nó vẫn nằm trong vùng lãnh thổ bị kẻ chiến thắng - mà giờ đã là tử thù của nó - chiếm được. Do những hậu quả của cuộc bại trận, bất kể từng hung hăng ra sao, con tôm hùm cũng không còn muốn tranh đấu nữa, thậm chí cả khi đối đầu với một con khác từng là bại tướng của nó. Thường thì một con chiến bại sẽ mất hết tự tin trong vài ngày. Thỉnh thoảng, thất bại còn gây nhiều hậu quả ghê gớm hơn. Nếu một con tôm hùm “thống trị” bị đả bại một cách thảm hại, thì về cơ bản não bộ của nó sẽ bị phân hủy. Sau đó, nó sẽ phát triển một bộ não phụ mới phù hợp với vị trí thấp kém hơn của nó. Bộ não ban đầu của nó đơn giản là không đủ tinh vi để chịu được cảnh “từ voi xuống chó” mà không phân hủy hoàn toàn và tái sinh. Bất cứ ai đã từng trải qua sự lột xác đau đớn sau một chấn thương nặng nề trong tình cảm hay sự nghiệp đều sẽ cảm nhận được sự tương đồng giống như vậy với loài giáp xác từng một thời thành công. HÓA THẦN KINH HỌC VỀ THẤT BẠI VÀ CHIẾN THẮNG Chất hóa học trong não bộ của con tôm hùm chiến bại khác biệt đáng kể so với của con chiến thắng. Nó phản ánh những điệu bộ tương quan của chúng. Việc một con tôm hùm tỏ ra tự tin hay yếu đuối phụ thuộc vào tỷ lệ hai loại hóa chất điều chỉnh vấn đề giao tiếp giữa các nơ-ron thần kinh của tôm hùm: Serotonin[8] và octopamine[9]. Chiến thắng sẽ làm tăng tỷ lệ serotonin so với octopamine. Con tôm hùm nào có hàm lượng serotonin cao và octopamine thấp sẽ hung hăng, tỏ vẻ khệnh khạng và hiếm khi thoái lui khi bị thách thức. Điều này xảy ra do chất serotonin giúp điều chỉnh khả năng uốn cong dáng người. Một con tôm khi uốn cong mình sẽ kéo căng những bộ phận phụ trên cơ thể, khiến chúng trông có vẻ to lớn và đáng sợ, giống như diễn viên nổi tiếng Clint Eastwood trong một bộ phim Viễn Tây bạo lực vậy. Khi một con tôm hùm vừa bại trận được tiếp xúc với chất serotonin, nó sẽ căng mình, tấn công cả những con thắng cuộc trước đó và chiến đấu dũng mãnh hơn, ngoan cường hơn. Những loại thuốc được kê cho các bệnh nhân trầm cảm thường là những chất ức chế tái hấp thu serotonin đã qua chọn lọc, với tác dụng hóa học và hành vi tương tự. Việc thuốc Prozac[10] khiến cho những con tôm hùm bị kích động là một trong những minh chứng đáng kinh ngạc hơn cả về sự tiến hóa không ngừng của sự sống trên Trái đất. Hàm lượng serotonin cao hoặc octopamine thấp là đặc tính của kẻ chiến thắng. Hình trạng hóa học thần kinh đối lập, tức tỷ lệ octopamine cao hơn so với serotonin, sẽ sinh ra những con tôm hùm thất bại, với vẻ ngoài gượng gạo, rụt rè, ủ rũ và lẩn tránh, thường núp vào những góc khuất trên lối đi và nhanh chóng mất tăm trước dấu hiệu rắc rối đầu tiên. Serotonin và octopamine cũng điều chỉnh phản xạ búng đuôi, giúp tôm hùm đẩy người nhanh chóng về phía sau khi cần thoát hiểm. Cần phải giảm sự khiêu khích để kích hoạt phản xạ ấy ở một con tôm hùm bại trận. Bạn có thể thấy phản ứng tương đồng trong phản xạ giật mình cao độ đặc trưng của một binh sĩ, hoặc một đứa trẻ mắc hội chứng trầm cảm sau chấn thương. NGUYÊN TẮC PHÂN PHỐI BẤT BÌNH ĐẲNG Khi một con tôm hùm bại trận lấy lại được lòng can đảm và dám tái đấu, thì nó rất có khả năng sẽ thất bại thêm (như bạn có thể đoán và chiếu theo thống kê) do tổng kết quả từ những cuộc chiến trước. Mặt khác, đối thủ chiến thắng của nó lại có nhiều khả năng thắng thế hơn. Đó là thực tế “được ăn cả, ngã về không” trong thế giới tôm hùm, giống như trong xã hội loài người, nơi 1% đứng đầu hưởng lợi ngang với 50% dưới đáy - và 85 người giàu nhất có tổng tài sản bằng 3 tỉ rưỡi người nghèo nhất. Nguyên lý phân phối bất bình đẳng tàn nhẫn ấy cũng đúng ở phạm vi ngoài lĩnh vực tài chính - thực ra là ở bất kỳ đâu cần đến khâu sản xuất sáng tạo. Phần lớn các chuyên luận khoa học được công bố bởi một nhóm nhỏ các nhà khoa học. Một phần rất nhỏ các nhạc sĩ lại cho ra đời hầu hết mọi ấn phẩm âm nhạc thương mại. Cũng như một cơ số ít tác giả lại bán được toàn bộ số sách. Một triệu rưỡi cuốn sách có nhan đề (!) được bán ra mỗi năm tại Mỹ. Tuy nhiên, chỉ có 500 cuốn trong số đó bán được hơn 100 nghìn bản. Tương tự, chỉ có bốn nhà soạn nhạc cổ điển (Bach, Beethoven, Mozart và Tchaikovsky) sáng tác hầu hết các tác phẩm âm nhạc cho những dàn nhạc hiện đại biểu diễn. Về phần Bach, ông sáng tác nhiều đến nỗi phải mất đến hàng thập kỷ sau người ta mới chép tay hết các nhạc phổ của ông, nhưng chỉ một phần nhỏ trong loạt thành tựu phi thường này được biểu diễn thường xuyên. Tương tự đối với thành tựu của ba thành viên còn lại trong nhóm này: Chỉ một phần nhỏ tác phẩm của họ được biểu diễn rộng rãi. Do vậy, một phần nhỏ tác phẩm âm nhạc do một số ít các nhà soạn nhạc cổ điển sáng tác - những người soạn ra hầu hết mọi tác phẩm âm nhạc cổ điển - được thế giới biết đến và yêu mến. Nguyên tắc này đôi khi được gọi là Luật Price, sau khi Derek J. de Solla Price, một nhà nghiên cứu phát hiện ra ứng dụng khoa học của nó vào năm 1963. Nó có thể được biểu diễn bằng cách sử dụng một đồ thị hình chữ L, với số lượng người ở trục tung và năng suất hoặc tài nguyên ở trục hoành. Nguyên tắc căn bản này đã được khám phá từ sớm hơn thế. Vilfredo Pareto (1848-1923), một học giả người Ý, đã chú ý đến khả năng ứng dụng của việc phân phối tài sản vào đầu thế kỷ XX. Và nó có vẻ đúng với mọi hình thái từng được nghiên cứu, nếu không tính đến hình thái chính phủ. Nó cũng được áp dụng cho dân số của những thành phố (một số ít thành phố là nơi cư ngụ của hầu hết mọi người dân), khối lượng của các thiên thể (chỉ một số lượng nhỏ gây nên mọi vấn đề) hay tần suất xuất hiện của các từ trong một ngôn ngữ (90% trường hợp giao tiếp chỉ sử dụng 500 từ) và nhiều ví dụ khác nữa. Đôi khi nó còn được gọi là Nguyên lý Ma-thi-ơ (dựa theo Phúc âm Ma-thi-ơ 25:29), bắt nguồn từ tuyên bố thẳng thừng nhất được cho là của Chúa Giê-su: “Phàm những ai đã có mọi thứ, hắn sẽ được trao tặng nhiều hơn; phàm những ai không có gì, hắn sẽ bị tước đi mọi thứ.” Bạn sẽ biết mình thực sự là Con của Chúa khi châm ngôn của bạn đúng cả với những loài giáp xác. Quay trở lại với loài giáp xác cứng đầu: Chẳng mấy chốc mà tôm hùm thử thách lẫn nhau để hiểu được rằng kẻ nào chúng có thể gây chuyện và kẻ nào cần tránh xa. Và một khi chúng đã học được rồi, thì hệ thống phân cấp sau cùng sẽ cực kỳ vững chắc. Tất cả những gì con chiến thắng cần làm một khi đã chiến thắng là lắc lư cặp râu của mình một cách đẩy đe dọa và đối thủ trước mặt sẽ biến mất vào trong lớp cát ngay trước mắt nó. Con tôm hùm yếu hơn sẽ không cố đấu nữa, mà chấp nhận địa vị thấp kém của mình và giữ rịt lấy trứng của nó bên mình. Ngược lại, đối với những con tôm hùm hàng đầu - những con chiếm được nơi trú ẩn tốt nhất, dành chút thời gian nghỉ ngơi rồi xơi trọn một bữa ăn ngon - chúng sẽ phô trương sự thống trị quanh lãnh thổ của mình, kích động những con tôm hùm hạ cấp từ nơi trú ẩn của chúng vào ban đêm, để nhắc nhở đối phương rằng ai mới là “ông trùm”. TẤT CẢ NHỮNG CON CÁI Tất cả những con tôm hùm cái (chúng vẫn phải chiến đấu cực khổ đề tranh giành lãnh thổ trong những giai đoạn sinh sản để tồn tại) sẽ nhanh chóng xác định được con tôm đực đứng đấu và bị anh chàng này cuốn hút đến không cưỡng lại nổi. Cá nhân tôi thấy rằng đây quả thực là một chiến thuật tài tình. Các con cái của những loài khác cũng sử dụng chiến thuật này, kể cả con người. Thay vì phải mất công tính toán khó khăn để xác định đâu là người đàn ông tốt nhất, các cô gái sẽ ném bài toán ra ngoài cho những “phép tính máy móc” của hệ thống cấp bậc giải đáp. Họ để cho cánh đàn ông chiến đấu với nhau rồi chọn ra nhân tình cho mình từ trên xuống. Điều này cũng giống như việc định giá trong thị trường chứng khoán, nơi giá trị của một doanh nghiệp bất kỳ được xác định thông qua sự cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Khi con cái đã sẵn sàng thay vỏ và trở nên mềm hơn đôi chút, chúng bắt đầu có hứng thú giao phối. Chúng bắt đầu bám quanh nơi ở của những con tôm đực “thống trị”, tỏa ra nhũng mùi hương hấp dẫn, kích thích tính dục và cố quyến rũ bạn tình. Do sự hung hăng đã giúp con đực này thành công, nên nhiều khả năng nó sẽ hành xử theo cách chi phối và khiến đối phương không cưỡng lại được. Hơn nữa, nó còn to lớn, khỏe mạnh và hùng dũng. Thật không dễ thay đổi sự chú ý của nó từ trạng trái chiến đấu sang giao phối. (Tuy nhiên nếu bị quyến rũ đúng cách, nó sẽ thay đổi cách cư xử của mình đối với con cái. Đây chính là tác phẩm Năm mươi sắc thái (Fifty of Grey) phiên bản tôm hùm, cuốn sách bán nhanh nhất mọi thời đại và cũng là nguyên mẫu của chuyện tình “Người dẹp và Quái vật”. Đây là khuôn mẫu của kiểu hành vi được chú trọng thể hiện lập đi lặp lại trong những tác phẩm văn học viễn tưởng về đề tài tình dục phổ biến ở phụ nữ, cũng giống như những bức ảnh khỏa thân khiêu gợi của phụ nữ đối với đàn ông.) Tuy nhiên, cần phải chỉ ra rằng sức mạnh thể chất tuyệt vời là căn cứ thiếu vững chắc để tìm ra sự thống trị lâu dài, như nhà nghiên cứu linh trưởng người Hà Lan, Frans de Waal đã khổ công chứng minh. Trong số những bầy tinh tinh mà ông nghiên cứu, những con đực thành công lâu dài hơn đã phải củng cố giai đoạn phát triển thể chất của chúng bằng các thuộc tính phức tạp hơn. Ngay cả một con tinh tinh hung bạo nhất rốt cuộc vẫn có thể bị hai đối thủ hạ gục, với kích thước mỗi con bằng 3/4 nó. Kết quả là những con đực giữ được vị trí đầu đàn lâu hơn là những con tạo dựng được những mối quan hệ tương hỗ với những đồng loại có địa vị thấp hơn, cũng như chú ý kỹ đến các con cái và con non. Mánh khóe chính trị “hôn trẻ con[11]” thực ra đã có lịch sử hàng triệu năm. Nhưng tôm hùm vẫn là loài tương đối nguyên sơ, nên các yếu tố trần trụi trong câu truyện “Người đẹp và Quái vật” đơn thuần rất phù hợp với chúng. Một khi “Quái vật” đã bị mê hoặc thành công, con cái “trúng mánh” ấy sẽ lột trần, cởi bỏ đi lớp vỏ cứng cáp của nó để làm mềm thân thể trong tình trạng rất nguy hiểm, trở nên mong manh và sẵn sàng giao phối. Ngay tại thời điểm ấy, con đực sẽ biến thành một người bạn tình chu đáo, đặt túi tinh dịch của mình vào chỗ chứa thích hợp. Sau đó, con cái sẽ nán lại đây vài tuần cho đến khi cứng cáp hơn (một hiện tượng nữa không hề xa lạ đối với con người). Trong giai đoạn thảnh thơi này, chúng sẽ quay trở lại nơi ẩn náu của mình cùng với những quả trứng đã được thụ tinh. Lúc này, sẽ có một con tôm cái khác thử làm điều tương tự… Con đực thống trị với điệu bộ nghiêm trang và tự tin không chỉ có được một nơi ở đắc địa và dễ dàng tiến vào các khu vực săn mồi nhất, mà nó còn chiếm được tất cả những con cái. Thành công sẽ đáng giá hơn gấp bội nếu bạn là một con tôm hùm và là một con đực. Nhưng tại sao tất cả những điều này lại liên quan với nhau? Có vô vàn lý do rất đỗi ngạc nhiên, ngoại trừ những lý do hiển nhiên đến khôi hài. Thứ nhất, chúng ta đều biết rằng tôm hùm đã xuất hiện trên Trái đất từ hơn 350 triệu năm trước, dù dưới dạng này hay dạng khác. Đây là một quãng thời gian rất dài. Cách đây 65 triệu năm, Trái đất vẫn còn khủng long. Đó là một quá khứ xa xăm mà chúng ta không tài nào tưởng tượng nổi. Tuy nhiên, đối với tôm hùm, khủng long là lũ nhà giàu mới phất. Chúng xuất hiện và biến mất trong dòng chảy gần như vĩnh cửu của thời gian. Điều này có nghĩa là các hệ thống cấp bậc thống trị là nét đặc trưng trường cửu cơ bản của môi trường, nơi mọi dạng sống phức tạp đều đã thích nghi. Ba tỉ năm trước, hệ thống não bộ và thần kinh của chúng tương đối đơn giản. Tuy vậy, chúng đã có được cấu trúc và nền tảng hóa học thần kinh cần thiết để xử lý thông tin về địa vị và xã hội. Tầm quan trọng của sự thật này không hề được phóng đại. BẢN CHẤT CỦA TỰ NHIÊN Có một sự thật hiển nhiên là: Quá trình tiến hóa mang tính bảo thủ. Khi có thứ gì đó phát triển, nó phải được xây dựng dựa trên những gì tự nhiên đã ban tặng. Khi những đặc tính mới được thêm vào, các đặc tính cũ có thể trải qua sự biến đổi nào đó, nhưng hầu hết mọi thứ vẫn giữ nguyên. Đó là lý do đôi cánh của loài dơi, bàn tay của con người và vây của cá voi lại có cấu trúc xương trông giống nhau một cách lạ lùng. Thậm chí, cả ba đều có cùng số lượng xương. Sự tiến hóa đã đặt nền móng cho sinh lý học cơ bản cách đây rất lâu. Các công trình tiến hóa hiện nay đa phần đều thông qua sự biến đổi và chọn lọc tự nhiên. Sự biến đổi xảy đến vì nhiều lý do, bao gồm xáo trộn gien (nói một cách đơn giản) và đột biến ngẫu nhiên. Các cá thể biến đổi khác nhau trong cùng một loài cũng do các nguyên nhân tương tự. Theo thời gian, tự nhiên sẽ chọn ra những cách biến đổi tốt nhất trong số chúng. Lý thuyết trên dường như đã giải thích cho sự biến đổi liên tục của các dạng sống qua nhiều thời đại. Nhưng có một câu hỏi bổ sung vẫn nằm khuất bên dưới: “Tự nhiên” trong “chọn lọc tự nhiên” chính xác là gì? “Môi trường” mà động vật thích nghi đích thị là thế nào? Chúng ta đã đưa ra nhiều giả định về tự nhiên - về môi trường - và chúng đều để lại hậu quả. Mark Twain từng nói: “Không phải điều ta không biết khiến ta gặp rắc rối, mà chính những điều ta biết chắc là không phải như vậy.” Đầu tiên, rất dễ giả định rằng “tự nhiên” là điều gì đó có bản chất - điều gì đó tĩnh tại. Nhưng không phải thế: Chí ít là không hề đơn giản như thế. Tự nhiên đồng thời vừa tĩnh tại vừa sôi nổi. Môi trường - hay cái “tự nhiên” có khả năng chọn lọc - sẽ tự biến đổi. Các biểu tượng âm dương trứ danh của Đạo gia nắm bắt điều này rất hay. Đối với các Đạo gia, Hữu thể - hay chính thực tại - được hợp thành từ hai nguyên lý đối lập nhau, thường được diễn giải là giống đực và giống cái, hoặc thậm chí hẹp hơn là nam và nữ. Tuy nhiên, âm và dương được hiểu chính xác hơn là hỗn loạn và trật tự. Biểu tượng của Đạo gia là một vòng tròn khép kín với hai con rắn có đầu và đuôi đối nhau. Con rắn đen là biểu tượng cho sự hỗn loạn, có một chấm trắng trên đầu. Còn con rắn trắng biểu tượng cho trật tự, nhưng lại có một chấm đen trên đầu. Điều này là do hỗn loạn và trật tự có thể hoán đổi cho nhau, cũng như luôn kề cận nhau đến muôn đời. Không có gì chắc chắn và bất biến. Thậm chí, Mặt trời cũng có những chu kỳ bất ổn của nó. Tương tự, không có gì tùy biến đến mức không thể cố định lại được. Mỗi cuộc cách mạng lại tạo ra một trật tự mới. Mỗi cái chết đồng thời cũng là một sự biến đổi. Việc xem tự nhiên là tĩnh tại hoàn toàn có thể gây nên những nhận thức sai lầm nghiêm trọng. Tự nhiên là “chọn lọc”. Ý tưởng chọn lọc chứa đựng những hàm ý bên trong ý tưởng phù hợp. Chính “sự phù hợp” mới được “chọn lọc”. Nói đơn giản, sự phù hợp là khả năng mà một sinh vật nhất định cho ra đời những thế hệ sau (tức nhân rộng gien di truyền của nó theo thời gian). Do đó, yếu tố “phù hợp” trong “sự phù hợp” là sự hòa hợp các thuộc tính của sinh vật với đòi hỏi của môi trường. Nếu sự đòi hỏi đó được quy là tĩnh - cùng với tự nhiên được định nghĩa vĩnh cửu và bất biến - thì sự tiến hóa sẽ là hàng loạt những cải tiến theo tuần tự không ngừng nghỉ và sự phù hợp là điều gì đó có thể được ước chừng chính xác hơn theo thời gian. Ý tưởng về tiến trình tiến hóa thường hằng của triều đại Victoria[12], trong đó con người đứng trên đỉnh, là hậu quả một phần từ mô hình tự nhiên này. Nó tạo nên quan niệm sai lầm rằng có một đích đến cho khâu chọn lọc tự nhiên (tăng cường sự phù hợp với môi trường) và đích đến ấy được khái niệm hóa như một điểm cố định. Nhưng tự nhiên, tức tác nhân chọn lọc, không phải là bộ chọn lọc tĩnh - không hề theo nghĩa đơn giản như thế. Tự nhiên khoác lên vẻ ngoài khác nhau trong mỗi hoàn cảnh. Sự thay đổi của tự nhiên giống như một bản nhạc - và điều đó phần nào giải thích tại sao âm nhạc lại tạo ra những hàm ý sâu sắc về mặt ý nghĩa. Khi môi trường ủng hộ công cuộc biến đổi hay thay đổi của một loài sinh vật, thì các đặc tính tạo nên một cá thể thành công trong việc tồn tại và sinh sản cũng biến đổi và thay đổi theo. Do đó, thuyết chọn lọc tự nhiên không ấn định rõ các sinh vật phù hợp với một khuôn mẫu cụ thể nào do thế giới quy định. Thế nên, có nhiều sinh vật đang “nhảy múa” cùng với tự nhiên hơn, mặc dù đó là một vũ điệu chết chóc. “Trong vương quốc của ta”, như Nữ hoàng Đỏ trong tác phẩm Alice ở xứ sở thần tiên (Alice in Wonderland) đã nói, “ngươi phải chạy nhanh nhất để ở nguyên một chỗ”. Không ai giậm chân tại chỗ mà chiến thắng được, bất kể kẻ đó có thể chất khỏe mạnh thế nào chăng nữa. Tự nhiên cũng không hẳn là sôi nổi. Một số thứ thay đổi nhanh chóng, nhưng chúng lại trú nấp trong những thứ khác ít thay đổi hơn (âm nhạc cũng thường phỏng theo nguyên mẫu này). Lá thay đổi nhanh hơn cây và cây lại thay đổi nhanh hơn rừng. Thời tiết thay đổi nhanh hơn khí hậu. Nếu không phải thế, thì cơ chế bảo thủ của quá trình tiến hóa sẽ không hữu hiệu, như hình thái học cơ bản của cánh tay và bàn tay cũng phải thay đổi nhanh tương đương với chiều dài xương cánh tay và chức năng của ngón tay. Đó là sự hỗn loạn trong trật tự, bên trong hỗn loạn và bên trong một trật tự cao hơn nữa. Trật tự chân thực nhất phải là trật tự bất biến nhất - và nó cũng không nhất thiết phải là trật tự dễ thấy nhất. Khi nhìn lá, ta sẽ không thấy cây. Khi nhìn cây, ta sẽ không thấy rừng. Và cũng có một số điều chân thực nhất (chẳng hạn như một hệ thống cấp bậc luôn hiện diện) lại hoàn toàn không “thấy” được. Khái niệm hóa tự nhiên theo hướng viển vông cũng là một sai lầm. Cư dân thành thị hiện đại, giàu có bị bao quanh bởi lớp bê-tông nóng bức như nung; họ hình dung môi trường là thứ gì đó nguyên sơ và như Thiên Đường, giống như phong cảnh theo trường phái ấn tượng của nước Pháp. Thậm chí, các nhà sinh thái học còn duy tâm hơn trong quan điểm của họ, khi hình dung rằng tự nhiên là trạng thái cân bằng hài hòa và hoàn hảo, không hề có sự tác động và tàn phá của nhân loại. Thật không may thay, “môi trường” cũng là những con trùng Guinea gây bệnh phù chân voi (xin đừng hỏi thêm), muỗi anopheles gây bệnh sốt rét, những cơn hạn hán gây ra nạn đói, bệnh AIDS và đại dịch Cái Chết Đen[13]. Chúng ta không hề mơ mộng viển vông về những khía cạnh “tráng lệ” này của tự nhiên, mặc dù chúng cũng sống động hệt như cảnh vật trên vườn địa đàng vậy. Tất nhiên, do chính sự tồn tại của những điều như thế, nên chúng ta cũng tìm cách thay đổi môi trường xung quanh, bảo vệ con cái của mình, xây dựng những thành phố và hệ thống giao thông, cũng như nuôi trồng thực phẩm và tạo ra điện. Nếu Mẹ Thiên nhiên không nổi giận trước sự tàn phá của chúng ta, thì thật dễ để ta sống một cách hài hòa đơn giản với những tiếng gọi của Người. Và điều này đưa chúng ta đến với khái niệm nhầm lẫn thứ ba: Tự nhiên là điều gì đó tách biệt rõ ràng với những cấu trúc văn hóa nảy sinh bên trong nó. Trật tự bên trong hỗn loạn và trật tự của Hữu thể là tất cả những gì càng “tự nhiên” thì càng trường tồn. Đó là vì “tự nhiên” là “thứ được chọn lọc” và một đặc tính tồn tại càng lâu nghĩa là nó phải được chọn lọc rồi - để định hình cuộc sống, bất kể đặc tính ấy đó mang tính thể chất, sinh học hay văn hóa, xã hội. Theo quan điểm của Darwin, tất cả những điều ấy đều vĩnh cửu - và hệ thống cấp bậc thống trị, bất kể tính xã hội hay văn hóa mà nó thể hiện, đã xuất hiện từ khoảng nửa tỉ năm trước. Nó trường tồn. Nó có thật. Nhưng hệ thống cấp bậc thống trị không phải là chủ nghĩa tư bản. Nó cũng không phải chủ nghĩa cộng sản. Nó không phải khu phức hợp quân sự-công nghiệp, cũng không phải là chế độ gia trưởng - một “món đồ tạo tác” văn hóa nhất thời, dễ uốn nắn và tùy hứng. Nó thậm chí không phải là tạo vật của con người; không phải theo nghĩa sâu sắc nhất ấy. Thay vì thế, nó là một khía cạnh gần như bất diệt của môi trường. Và phần lớn những gì được quy cho các biểu hiện phù du này đều là hệ quả từ sự tồn tại bất biến của nó. Chúng ta (cái chúng ta tối cao, cái chúng ta đã xuất hiện từ khi sự sống khởi sinh) đã sống trong một hệ thống cấp bậc thống trị từ rất, rất lâu rồi. Chúng ta đã tranh giành vị thế từ trước khi có da, tay, phổi hay xương. Không có gì “tự nhiên” hơn văn hóa. Các hệ thống cấp bậc thống trị còn xa xưa hơn cả cây cối cơ mà. Một phần não bộ của chúng ta dõi theo vị trí của mình trong hệ thống cấp bậc thống trị; nó vô cùng cổ xưa và cơ bản. Đó là một hệ thống kiểm soát tổng thể, điều chỉnh các nhận thức, giá trị, cảm xúc, suy nghĩ và hành động của chúng ta. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi khía cạnh của Hữu thể chúng ta, cả trong ý thức lẫn vô thức. Đây là lý do khi bị đánh bại, chúng ta hành động rất giống những con tôm hùm bại trận. Chúng ta mang dáng vẻ ủ rũ. Chúng ta cúi gằm mặt xuống đất. Chúng ta cảm thấy bị đe dọa, tổn thương, lo lắng và yếu đuối. Nếu mọi thứ không được cải thiện, chúng ta sẽ mắc chứng trầm cảm kinh niên. Dưới những điều kiện này, chúng ta không thể dễ dàng chuẩn bị cho kiểu chiến đấu mà cuộc sống đòi hỏi và trở thành mục tiêu dễ dàng của những kẻ bắt nạt phách lối. Không chỉ có những điểm tương đồng về mặt hành vi và kinh nghiệm sống là đáng chú ý. Phần lớn đặc tính hóa học thần kinh cơ bản đểu giống nhau. Hãy xét đến serotonin, loại hóa chất kiểm soát tư thế và cách tẩu thoát của tôm hùm. Những con tôm hùm cấp thấp sản sinh ra lượng serotonin tương đối thấp. Điều này cũng đúng với những người xếp hạng thấp (và thứ hạng của họ lại càng xuống thấp hơn sau mỗi chiến bại). Serotonin thấp cũng đồng nghĩa với sự tự tin sụt giảm, đồng nghĩa với phản ứng mạnh hơn với áp lực và tốn nhiều sức chuẩn bị hơn về thể chất trong tình huống khẩn cấp - bởi vì bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra ở đáy của hệ thống cấp bậc, vào bất kỳ lúc nào (và hiếm có điều gì tốt đẹp). Serotonin thấp đồng nghĩa với niềm vui sống giảm đi, đau buồn và lo lắng tăng lên, bệnh tật nhiều hơn và tuổi thọ cũng ngắn lại - ở người cũng như loài giáp xác. Những vị trí cao hơn trong hệ thống cấp bậc thống trị cùng với tỷ lệ serotonin cao hơn điển hình ở những kẻ đứng đầu là nét đặc trưng cho ít bệnh tật hơn, ít khổ đau và chết chóc hơn, thậm chí khi các nhân tố như mức thu nhập thuần túy - hay số lượng những mảnh vụn thức ăn - luôn được giữ nguyên. Tầm quan trọng của điều này không hề được phóng đại. ĐỈNH CAO VÀ ĐÁY SÂU Có một chiếc máy tính nguyên thủy không thể diễn tả bằng lời nằm sâu bên trong bạn, trong nền tảng não bộ của bạn, sâu bên dưới mọi suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Nó theo dõi chính xác vị trí của bạn trong xã hội - theo thang điểm từ một đến mười, vì mục đích lập luận. Nếu bạn là số một, tức địa vị cao nhất, bạn chính là một người thành công vượt bậc. Nếu là nam giới, bạn sẽ được ưu tiên tiếp cận những nơi chốn tốt nhất để sinh sống cùng nguồn thức ăn có chất lượng cao nhất. Mọi người tranh nhau tỏ thiện chí giúp đỡ bạn. Bạn sẽ có cơ hội tương tác tình cảm hay sinh lý vô hạn. Nếu bạn là một con tôm hùm thành công, thì hầu hết các cô gái đáng mơ tưởng nhất đều sẽ xếp hàng để giành sự chú ý từ bạn. Nếu là nữ giới, bạn có quyền tiếp cận nhiều kẻ theo đuổi chất lượng cao: cao to, mạnh mẽ và có vóc dáng cân đối; sáng tạo, đáng tin cậy, trung thực và hào phóng. Và giống như bản sao của nam giới thống trị, bạn sẽ cạnh tranh rất khốc liệt, thậm chí nhẫn tâm để duy trì và cải thiện vị thế của mình trong hệ thống cấp bậc hôn phối không kém phần ganh đua của phái nữ. Mặc dù ít có khả năng sử dụng sự hiếu chiến về mặt thể chất để làm điều này, nhưng lại có rất nhiều mánh khóe, chiến lược dùng lời lẽ hiệu quả để bạn tùy nghi sử dụng, bao gồm cả gièm pha đối thủ và rất có thể bạn sẽ trở thành chuyên gia sử dụng mánh khóe này. Ngược lại, nếu bạn xếp hạng cực thấp, thì dù là nam hay nữ, bạn cũng sẽ không có nơi nào để sống (hoặc không còn nơi nào tốt). Kể cả khi không phải chịu đói thì thức ăn cũng tệ kinh khủng. Bạn ở trong tình trạng thể chất và tinh thần cực kỳ tồi tệ. Hầu như không ai chú ý đến bạn về mặt tình cảm, trừ khi họ cũng tuyệt vọng như bạn. Bạn có nhiều khả năng bị đau ốm, lão hóa nhanh và chết sớm, mà hầu như chẳng có ai khóc thương. Chính bản thân đồng tiền cũng minh chứng cho việc nó ít được sử dụng. Bạn không biết cách sử dụng nó, vì thật khó để sử dụng tiền đúng cách, nhất là khi bạn không quen dùng nó. Tiền bạc sẽ khiến bạn dễ vướng phải những cám dỗ nguy hiểm như ma túy và bia rượu, những thứ giúp bạn thỏa mãn hơn nếu bị tước đi niềm vui trong một quãng thời gian dài. Tiền bạc cũng biến bạn thành mục tiêu cho những kẻ săn mồi và người bị tâm thần - những kẻ phất lên nhờ bóc lột những người yếu thế hơn trong xã hội. Tận cùng của hệ thống cấp bậc thống trị là nơi hết sức kinh khủng và nguy hiểm. Phần nguyên thủy trong bộ não - chuyên đánh giá mức độ thống trị - sẽ quan sát xem người khác đối xử với bạn ra sao. Dựa trên bằng chứng ấy, nó sẽ đưa ra kết luận về giá trị của bạn và ấn định cho bạn một trạng thái. Nếu những kẻ ngang hàng khác đánh giá bạn là ít giá trị, thì bộ tính toán trong đầu sẽ hạn chế mức serotonin có sẵn. Điều đó sẽ khiến bạn càng dễ phản ứng mạnh mẽ về mặt thể chất lẫn tinh thần đối với bất kỳ hoàn cảnh hay sự kiện kích động cảm xúc, đặc biệt nếu đó là cảm xúc tiêu cực. Bạn cần khả năng phản ứng này. Những trường hợp khẩn cấp thường xuất hiện ở tầng sâu và bạn phải luôn sẵn sàng để tồn tại. Nhưng thật không may, siêu phản ứng vật lý đó, sự cảnh giác liên tục ấy, sẽ đốt cháy rất nhiều nguồn năng lượng và tài nguyên thể chất quý giá. Phản ứng này chính là cái mà mọi người gọi là “sự căng thẳng”, và nó không chỉ là vấn đề tâm lý đơn thuần. Đó là sự phản ứng lại những ức chế đè nén đúng nghĩa trong những hoàn cảnh không may. Khi hoạt động ở “đáy sâu”, bộ tính toán trong não bộ cổ xưa giả định rằng ngay cả một trở ngại bất ngờ dù là nhỏ nhất cũng có thể tạo nên một chuỗi các sự kiện tiêu cực không kiểm soát nổi. Bạn phải tự mình xử lý chúng, vì những người bạn hữu ích bên rìa xã hội thực sự rất hiếm hoi. Từ đó, bạn sẽ liên tục hy sinh những hoạt động mà bạn có thể trau dồi về mặt thể chất cho tương lai, dùng nó để nâng cao tinh thần sẵn sàng và khả năng hành động hoang mang tức thời ở thời điểm hiện tại. Khi không biết phải làm gì, đó là lúc bạn phải chuẩn bị cho bất cứ điều gì và tất cả mọi điều, phòng khi cần thiết. Bạn đang ngồi trong xe hơi, với chân ga và chân thắng đều bị dí xuống sàn. Nếu tích tụ quá nhiều, mọi thứ sẽ vỡ tan. Bộ tính toán trong đầu có tính nguyên thủy này thậm chí sẽ ngắt hệ miễn dịch của bạn, tiêu tốn hết năng lượng và tài nguyên cần thiết cho sức khỏe trong tương lai cho những khủng hoảng của hiện tại. Điều này khiến bạn trở nên bốc đồng, khiến bạn nhảy ngay vào - ví dụ - bất kỳ cơ hội giao hợp nhất thời nào, hoặc bất kỳ khả năng nào đem lại sự thỏa mãn, bất kể chúng hạ cấp, ô nhục hay phi pháp ra sao chăng nữa. Nó cũng sẽ khiến bạn có nhiều khả năng sống hoặc chết một cách tùy tiện chỉ vì một cơ hội được vui sướng hiếm hoi, khi cơ hội ấy tự hiện ra. Dù thế nào đi nữa, những đòi hỏi về mặt thể chất nhằm sẵn sàng ứng phó với tình huống khẩn cấp cũng sẽ khiến bạn kiệt quệ. Trái lại, nếu bạn đứng ở vị thế cao, bộ tính toán sẽ đẩy mạnh, thì các cơ chế não bộ “tiền-bò-sát” sẽ nhận định chỗ đứng của bạn là an toàn, hữu ích và đảm bảo, rồi bạn cũng được hậu thuẫn bởi sự ủng hộ của xã hội. Nó sẽ nghĩ rằng nguy cơ mà một điều gì đó gây hại cho bạn là rất thấp và có thể bị loại bỏ một cách an toàn. May rủi có thể là cơ hội, chứ không phải thảm họa. Serotonin chảy cuồn cuộn trong bạn. Nó giúp bạn tự tin và bình tĩnh, đứng thẳng hiên ngang và rất ít khi phải liên tục cảnh giác. Bởi vị trí của bạn được đảm bảo, nên tương lai của bạn sau này nhiều khả năng cũng tốt đẹp. Điều đó xứng đáng được bạn suy nghĩ về lâu về dài và lên kế hoạch cho một ngày mai tươi sáng hơn. Bạn cũng không cần phải hối hả vơ lấy bất kỳ mảnh vụn nào vương vãi xung quanh, vì bạn thực sự kỳ vọng những điều tốt đẹp luôn sẵn có. Bạn nên hoãn lại sự sung sướng của mình mà không phải hoàn toàn từ bỏ nó. Và bạn cũng có đủ khả năng để trở thành một công dân đáng tin cậy và suy nghĩ thấu đáo. SỰ CỐ Tuy nhiên, cũng có lúc cơ chế “tính toán” này gặp trục trặc. Những thói quen ăn ngủ bất nhất có thể gây trở ngại cho chức năng của nó. Sự bất định có thể rơi vào một vòng lẩn quẩn. Cơ thể, với các cơ quan khác nhau, cần phải hoạt động như một dàn nhạc được tập dợt kỹ càng. Mỗi cơ quan phải thể hiện đúng vai trò của nó và vào đúng thời điểm chính xác. Nếu không, sự nhiễu loạn có thể xảy ra. Đó là tại sao thói quen là điều cần thiết. Những hành động mà chúng ta lặp đi lặp lại mỗi ngày trong cuộc sống cần được tự động hóa. Chúng phải trở thành những thói quen ổn định và đáng tin cậy, để mất dần đi sự phức tạp và ngày càng đơn giản, dễ đoán. Chúng ta có thể thấy điều này rõ nhất ở những đứa trẻ nhỏ, vui tươi, hài hước và hoạt bát khi chúng có thời gian biểu ăn ngủ ổn định. Nếu không, chúng sẽ trở nên khó bảo, hay kêu ca và nghịch phá. Vì những lý do trên, tôi luôn hỏi các bệnh nhân đến khám về giấc ngủ. Họ có thức dậy vào mỗi buổi sáng vào đúng thời điểm xấp xỉ như những người bình thường khác không và có thức cùng một thời điểm mỗi ngày không? Nếu câu trả lời là không, tôi sẽ khuyên họ trước hết phải chấn chỉnh ngay. Bất kể họ có đi ngủ vào cùng một thời điểm mỗi buổi tối hay không, nhưng thức giấc vào cùng một thời điểm là điều cần thiết. Ta không thể dễ dàng điều trị chứng lo lắng và trầm cảm nêu bệnh nhân có các thói quen hằng ngày khó lường. Hệ thống điều hòa cảm xúc tiêu cực gắn chặt với nhịp sinh học theo chu kỳ. Kế tiếp, tôi sẽ hỏi đến bữa sáng. Tôi tư vấn cho bệnh nhân của mình ăn những thực phẩm giàu chất đạm và chất béo sớm nhất có thể ngay khi thức dậy (chứ không phải cacbonhydrat[14] đơn thuần hay chất đường, vì chúng được tiêu hóa rất nhanh, sẽ làm tăng đường huyết và làm mạch đập nhanh). Họ nên thực hiện điều này vì những người hay lo lắng và trầm cảm thường đã căng thẳng sẵn rồi, nhất là nếu họ không kiểm soát tốt nhịp sống của mình trong một thời gian dài. Do đó, cơ thể họ sẽ tích trữ lượng insulin cao nếu tham gia vào bất kỳ hoạt động phức tạp hoặc đòi hỏi cao nào. Nếu họ hoạt động sau khi nhịn ăn cả đêm và trước khi ăn, thì lượng insulin dư thừa trong máu sẽ hấp thụ hết lượng đường trong máu. Sau đó, họ sẽ bị hạ đường huyết và dẫn đến tình trạng bất ổn về tâm sinh lý suốt cả ngày. Các sinh hệ của họ sẽ không được thiết lập lại cho đến khi được ngủ thêm. Tôi từng có nhiều thân chủ thoát chứng lo âu khi họ bắt đầu quyết tâm ăn sáng và ngủ theo một thời gian biểu nhất định. Các thói quen xấu khác cũng có thể cản trở độ chính xác của “bộ tính toán trong đầu”. Đôi khi, nó xảy ra tức thì, vì những lý do sinh học chưa rõ. Và đôi lúc vì những thói quen trên kích hoạt một vòng lặp phản hồi tích cực mà phức tạp. Vòng lặp phản hồi tích cực - gọi nôm na là hồi tiếp dương - cần có một bộ dò đầu vào, một bộ khuếch đại và một kiểu đầu ra nào đó. Hãy tưởng tượng một tín hiệu được bộ dò đầu vào tìm thấy, được khuếch đại và sau đó phát ra ở dạng đã được khuyếch đại. Đến đây vẫn ẩn. Sự cố bắt đầu khi bộ dò đầu vào phát hiện ra đầu ra, rồi đưa nó chạy qua hệ thống lần nữa, khuyếch đại nó và tiếp tục phát lại lần nữa. Qua vài vòng phóng đại như thế, mọi thứ sẽ trở nên nguy hiểm ngoài tầm kiểm soát. Hầu hết mọi người đều từng nghe tiếng hú điếc tai dội lại trong một buổi hòa nhạc, khi hệ thống âm thanh rú lên chói lói. Chiếc micro sẽ gửi một tín hiệu tới loa. Loa phát ra tín hiệu. Tín hiệu có thể được micro thu lại và gửi qua hệ thống một lần nữa, nếu âm thanh đó quá lớn hoặc quá gần loa. Nếu cứ tiếp tục như thế, âm thanh này sẽ nhanh chóng khuếch đại lên tới ngưỡng không thể chịu nổi, đủ để phá hỏng các loa. Vòng lặp tàn phá này cũng xảy ra trong cuộc sống của con người. Đa phần khi điều đó xảy ra, chúng ta lại gán mác cho nó là bệnh thần kinh, mặc dù nó không chỉ, hoặc không hề diễn ra trong tinh thần của con người. Nghiện rượu hoặc một loại thuốc thay đổi tâm trạng nào đó là quá trình hồi tiếp dương thông thường. Hãy hình dung một người thích uống rượu, có lẽ là hơi nhiều. Anh ta uống liền một lúc ba, bốn ly. Độ cồn trong máu anh ta tăng nhanh. Điều này có thể khiến anh ta vui sướng, đặc biệt đối với những người vốn có khuynh hướng nghiện rượu di truyền. Nhưng nó chỉ xảy ra khi độ cồn trong máu chủ động tăng cao và chỉ tiếp diễn nếu người này tiếp tục uống rượu. Khi ngừng uống, không chỉ độ cồn trong máu bình ổn lại và bắt đầu hạ dần, mà cơ thể của họ còn bắt đầu sản sinh ra nhiều chất độc, vì cơ thể đã chuyển hóa lượng ethanol đã hấp thu. Anh ta bắt đầu ngừng uống rượu, hệ thống lo lắng ở não bộ đã bị ức chế do tình trạng nhiễm độc bắt đầu phản ứng dữ dội. Dư vị khó chịu chính là sự ngưng tiêu thụ rượu (thường giết chết những người muốn cai rượu) và nó bắt đầu rất sớm sau khi bạn ngưng uống. Để tiếp tục được sưởi ấm cơ thể và ngăn chặn hậu quả khó chịu, người uống có thể tiếp tục tiêu thụ, cho đến khi rượu trong nhà anh ta được uống hết, các quán bar đóng cửa và tiền cũng không còn. Ngày hôm sau, khi thức dậy, anh ta sẽ cực kỳ khó chịu. Cho đến lúc này, đây vẫn chỉ là sự không may. Rắc rối chỉ thực sự bắt đầu khi anh ta phát hiện ra rằng cảm giác chếnh choáng này có thể được “chữa khỏi” bằng vài ly nữa vào buổi hôm sau. Dĩ nhiên, cách chữa này chỉ là tạm thời. Nó chỉ đẩy các triệu chứng cai rượu trở nên nghiêm trọng hơn trong tương lai. Thế nhưng, điều này có thể cần thiết trong khoảng thời gian ngắn hạn nếu nỗi khổ sở đó quá gay gắt. Do đó, giờ anh ta đã biết rằng uống rượu là để giải tỏa cảm giác khó chịu vì say. Khi loại thuốc gây ra bệnh, nó sẽ thiết lập một vòng hồi tiếp dương. Bệnh nghiện rượu có thể nhanh chóng phát triển trong những điều kiện như thế. Một điều tương tự cũng thường xảy ra với những người mắc chứng rối loạn lo âu nặng, như agoraphobia - chứng sợ đám đông. Những người mắc chứng này dễ bị nỗi lo sợ rằng họ sẽ không bao giờ được ra khỏi nhà nữa xâm chiếm. Chứng sợ đám đông là hậu quả của một vòng hồi tiếp dương. Hiện tượng đầu tiên kích thích chứng rối loạn này thường là một sự công kích gây hoảng loạn. Người gặp phải vấn đề này hầu hết là phụ nữ ở tuổi trung niên hoặc quá phụ thuộc vào người khác. Có lẽ cô ấy đã lập tức thoát khỏi sự quá phụ thuộc vào cha mình để đến với một mối quan hệ khác, với một người chồng hoặc bạn trai có phần lấn át hoặc lớn tuổi hơn và hầu như chẳng có bất kỳ động thái nào rũ bỏ sự tồn tại phụ thuộc nơi cô. Trong những tuần trước khi chứng sợ đám đông xuất hiện, người phụ nữ thường trải qua một chuyện gì đó bất ngờ và không bình thường. Nó có thể liên quan đến sinh lý, chẳng hạn như tim đập nhanh. Điều này thì rất phổ biến trong bất kỳ trường hợp nào và có khả năng xảy ra trong thời kỳ mãn kinh - khi các quy trình hoóc-môn điều tiết trải nghiệm tâm lý của phụ nữ dao động khó lường. Bất cứ sự biến đổi dễ nhận biết nào về nhịp tim cũng có thể kích thích những suy nghĩ về cơn nhồi máu cơ tim, cùng với biểu hiện rành rành và đáng xấu hổ của nỗi đau đớn sau khi bị đau tim (chết chóc và bẽ mặt trước xã hội chính là hai nỗi sợ cơ bản nhất). Sự kiện bất ngờ có thể là mâu thuẫn trong hôn nhân, bệnh tật hay vợ/chồng qua đời. Hoặc cũng có thể là một người bạn thân tan vỡ hôn nhân hay nhập viện. Một sự kiện có thật nào đó thường sẽ làm gia tăng nỗi sợ hãi ban đầu về cái chết và sự phán xét của xã hội. Có thể sau cú sốc, người phụ nữ này sẽ rời khỏi nhà và lên đường đến trung tâm mua sắm. Nó rất nhộn nhịp và khó tìm ra chỗ đậu xe. Điều này còn khiến cho cô ta trở nên căng thẳng hơn. Những suy nghĩ về tình trạng dễ bị tổn thương phủ đầy tâm trí vốn đã có từ trải nghiệm đau buồn gần đây của cô được dịp dâng trào. Nó kích thích nỗi lo lắng. Nhịp tim của cô tăng lên. Cô bắt đầu thở nhanh và gấp gáp. Cô cảm thấy tim mình đập cuồng loạn và bắt đầu tự hỏi liệu mình có bị đau tim hay không. Ý nghĩ này càng khiến cô lo lắng hơn. Cô thở gấp và nhanh hơn trước, làm tăng lượng cacbon-dioxit trong máu. Nhịp tim của cô lại tăng, vì cô càng thêm sợ hãi. Cô phát hiện ra điều đó, và nhịp tim lại tăng thêm nữa. Thế đấy! Đó là vòng hồi tiếp dương! Chẳng mấy chốc, nỗi lo lắng biến thành cơn hoảng loạn, được điều tiết bởi một hệ thống não khác, được thiết lập cho những mối nguy hiểm ngặt nghèo nhất, có thể bị kích hoạt do sợ hãi quá mức. Cô bị choáng ngợp bởi những triệu chứng của mình và lao thẳng đến phòng cấp cứu, rồi họ kiểm tra chức năng tim cho cô sau một hồi lo âu chờ đợi. Chẳng có gì bất ổn cả. Nhưng cô vẫn không an tâm. Phải thêm một vòng hồi tiếp dương nữa để những trải nghiệm khó chịu đó bùng lên thành hội chứng sợ đám đông. Vào lần đến trung tâm mua sắm kế tiếp, những triệu chứng ban đầu của bệnh sợ đám đông lại thêm trầm trọng hơn, khi cô nhớ lại những gì đã xảy ra vào lần trước. Nhưng cô vẫn cứ đi. Trên đường, cô có thể cảm thấy tim mình đang đập thình thịch. Điều đó lại kích động một chu kỳ lo lắng và quan ngại nữa. Để ngăn cơn hoảng loạn, cô tránh bị căng thẳng ở khu mua sắm và quay về nhà. Nhưng giờ đây, hệ thống lo lắng trong não cô đã ghi nhận việc cô chạy trốn khỏi trung tâm mua sắm và kết luận rằng hành trình ấy thực sự nguy hiểm. Hệ thống lo lắng của chúng ta rất thực tế. Nó cho rằng bất kỳ điều gì ta trốn chạy cũng đều nguy hiểm. Dĩ nhiên, bằng chứng ở đây chính là ta đã trốn chạy. Lúc này, trung tâm mua sắm bị dán nhãn là “quá nguy hiểm để tiếp cận” (hoặc hội chứng sợ đám đông vừa nảy nở đã dán cho chính cô ấy cái nhãn “quá mềm yếu để đến trung tâm mua sắm”). Có lẽ mọi sự vẫn chưa tiến xa đến nỗi gây rắc rối thực sự cho cô. Ngoài kia còn rất nhiều nơi khác để mua sắm. Nhưng có thể siêu thị kế bên cũng gần giống với khu mua sắm để kích hoạt phản ứng tương tự. Cô đến đó, và rồi lại rút lui. Giờ thì các siêu thị đã bị gán cùng một nhãn. Tiếp đến là cửa hàng nhỏ ở góc phố. Rồi đến xe buýt, taxi và tàu điện ngầm. Chẳng mấy chốc, nỗi sợ hãi hiển hiện khắp mọi nơi. Cuối cùng, hội chứng sợ đám đông này thậm chí còn khiến cô sợ hãi khi về nhà, thậm chí muốn chạy thoát khỏi nó thật xa nếu có thể. Nhưng điều đó là không thể. Thế là cô mắc kẹt trong chính ngôi nhà của mình. Sự trốn chạy do nỗi lo lắng gây ra khiến cô lẩn tránh tất cả mọi thứ và những thứ này lại tăng thêm nỗi lo lắng cho cô. Nó khiến cô thấy bản thân mình nhỏ bé đi còn thế giới đáng sợ hơn bao giờ hết kia lại to lớn hơn. Có rất nhiều hệ thống tương tác giữa não bộ, cơ thể và thế giới thực tại mà nó có thể giam cầm cô trong các vòng hồi tiếp dương. Ví dụ, những người bị trầm cảm sẽ bắt đầu cảm thấy mình vô dụng và là gánh nặng, cũng như mang đến nỗi đau buồn và ai oán. Điều này khiến họ cắt đứt mọi liên lạc với bạn bè và gia đình. Sau đó, việc thu mình lại như thế càng làm cho họ cảm thấy đơn độc và bị cô lập hơn, từ đó càng cảm thấy mình vô dụng và nặng gánh hơn. Rồi họ lại thu mình nhiều hơn nữa. Theo cách này, bệnh trầm cảm sẽ trầm trọng dần theo vòng xoáy và khuếch đại lên. Nếu ai đó bị tổn thương nặng nề vào một thời điểm nào đó trong đời - bị sang chấn - thì “bộ tính toán” có tính thống trị lại biến đổi theo cách làm gia tăng tổn thương thay vì giảm đi. Điều này thường xảy ra với những người trưởng thành, từng bị bắt nạt thậm tệ lúc còn bé hoặc ở tuổi thiếu niên. Họ trở nên lo lắng và dễ buồn tủi. Họ tự che chắn mình bằng một vỏ ốc phòng thủ và tránh tiếp xúc với ánh nhìn trực tiếp vốn dễ bị diễn giải thành một lời thách thức đầỵ tính thống trị. Điều này đồng nghĩa với những tổn thương do bị bắt nạt (hạ thấp địa vị và giảm sự tự tin) có thể vẫn tiếp tục, thậm chí sau khi cảnh bắt nạt kết thúc. Trong những trường hợp đơn giản nhất, những người từng thấp hèn đã trưởng thành, rồi chuyển đến sống ở những nơi mới và thành công hơn trong đời. Nhưng họ không hoàn toàn nhận ra. Những sự thích nghi phản tác dụng về mặt tâm lý của họ đối với hiện thực ngày trước vẫn còn đó, khiến họ cứ căng thẳng và bất an hơn mức cần thiết. Trong các trường hợp phức tạp hơn, một giả định quen thuộc về sự phụ thuộc lại khiến người đó vừa căng thẳng vừa bất an hơn mức cần thiết và những điệu bộ quy phục thường lệ ấy vẫn cứ tiếp tục thu hút sự chú ý tiêu cực đúng nghĩa từ một hoặc nhiều kẻ bắt nạt tuy kém thành công hơn, nhưng vẫn nhan nhản trong thế giới của người trưởng thành. Trong các tình huống như thế, hậu quả tâm lý từ việc bị bắt nạt trước đây sẽ làm tăng khả năng tiếp tục bị ức hiếp ở hiện tại (dù nói trắng ra, họ không cần phải bị như thế, vì họ đã trưởng thành hoặc chuyển đến sống ở vùng địa lý khác, hoặc tiếp tục học lên, hoặc đã cải thiện vị thế khách quan). VÙNG DẬY Đôi khi, mọi người bị bắt nạt vì họ không thể chống trả. Điều này có thể xảy ra đối với những người có thể chất yếu hơn các đối thủ của mình. Đây là một trong những lý do phổ biến nhất cho tình trạng bắt nạt mà trẻ em phải chịu. Ngay cả những đứa trẻ sáu tuổi cứng cỏi nhất cũng không thể đọ lại với một đứa chín tuổi được. Tuy nhiên, sự khác biệt về sức mạnh ấy sẽ biến mất ở tuổi trưởng thành, với sự ổn định ở mức vừa phải và kích thước thể hình tương xứng (ngoại trừ điểm khác biệt liên quan giữa nam và nữ, khi người nam thường to lớn và khỏe mạnh hơn, đặc biệt là ở phần trên cơ thể). Các hình phạt gia tăng được áp dụng chung đối với những người cứ nhất quyết hăm dọa người khác bằng hình thể ở độ tuổi trưởng thành. Nhưng thông thường, nhiều người bị bắt nạt là vì họ không chịu phản kháng. Điều này hay xảy ra đối với những người có đức hy sinh và cảm thông với tính khí nóng nảy - đặc biệt nếu có cảm xúc tiêu cực cao, họ sẽ thốt lên tiếng than van thảm thiết khi bị một kẻ hành xử tàn bạo với mình (ví dụ, trẻ em dễ khóc la hơn khi chúng thường xuyên bị bắt nạt). Điều này cũng xảy ra với những người lập luận rằng - vì lý do này hay lý do khác - tất cả các hình thức gây hấn, kể cả cảm giác tức giận, đều sai trái về mặt đạo đức. Tôi đã từng chứng kiến những người cực kỳ nhạy cảm với tính cách bạo ngược thấp hèn và mối xung đột gay gắt; họ tự kiềm chế mọi cảm xúc có thể làm nảy sinh các hành vi tương tự. Thông thường, những người như vậy có người cha quá nóng tính và quá kiểm soát. Tuy nhiên, những tác động tâm lý không bao giờ chỉ có tác dụng một chiều và nguy cơ thật sự kinh khủng của lòng tức giận và hiếu chiến (gây nên hành động hung ác và nỗi kinh hoàng) có thể được cân bằng bởi sức mạnh của những tác động nguyên thủy; đó là đẩy lùi sự áp bức, nói ra sự thật và động viên hành động kiên quyết vào những thời khắc xung đột, bất ổn và nguy hiểm. Với khả năng gây hấn bị bó buộc trong khuôn khổ đạo đức quá hạn hẹp, những người có lòng trắc ẩn và đức hy sinh giản dị, đơn thuần (ngây thơ và dễ bị lợi dụng) không thể đáp trả bằng sự giận dữ cần thiết, chính đáng và bảo vệ bản thân mình một cách thích hợp. Dù họ có thể cắn lại, thì nhìn chung họ cũng không phải làm như vậy. Khi được hòa hợp một cách khéo léo, khả năng đáp trả gây hấn và bạo lực sẽ giảm đi, thay vì gia tăng khả năng cần đến sự hung hăng thực sự. Nếu bạn nói “không” ngay từ chu kỳ áp bức đầu tiên và làm rõ ý mình (đồng nghĩa khẳng định mình không chấp nhận sự áp bức, với ngôn từ rõ ràng và chịu trách nhiệm cho lời nói của mình), thì quy mô áp bức của kẻ áp bức sẽ bị thu hẹp và hạn chế. Các tác động bạo ngược sẽ nhân rộng nhằm lấp đầy chỗ trống dành sẵn cho nó mà không gì ngăn cản được. Những ai không chịu tích đầy những phản ứng bảo vệ bản thân phù hợp trong lãnh thổ của họ, cũng như những ai thực sự không thể đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình - do cơ bản là bất lực hay chênh lệch về sức mạnh - sẽ vô tình tạo cơ hội cho việc bị bóc lột nhiều hơn. Những người ngây thơ, vô hại thường hướng nhận thức và hành động của họ đến một vài chân lý đơn giản: Bản chất con người là tốt; không ai thực sự muốn làm tổn thương người khác; sự đe dọa (và chắc chắn cả việc sử dụng) mang tính bạo lực, dù bằng tay chân hay cách nào khác, đều sai trái. Các chân lý này sẽ sụp đổ hoặc còn tệ hơn, nếu xuất hiện những cá nhân thuần ác. Tệ hơn nghĩa là những niềm tin ngây ngô có thể trở thành một lời mời chủ động cho việc bạo hành, vì những kẻ rắp tâm hãm hại người khác thường rất giỏi trong việc “săn” chính những ai có suy nghĩ như vậy. Dưới những điều kiện đó, các chân lý về sự vô hại phải được điều chỉnh. Khi thực hành lâm sàng, tôi thường chuyển sự chú ý của khách hàng, vốn cho rằng những người tốt không bao giờ giận dữ, sang những hiện thực khắc nghiệt do chính sự oán giận của họ gây ra. Không ai muốn bị cư xử thô lỗ, nhưng mọi người lại thường cam chịu điều đó trong thời gian rất dài. Vì vậy, trước tiên tôi sẽ giúp họ thấy được sự oán giận của mình dưới hình thức cơn giận dữ, rồi ngụ ý rằng họ cần phải nói ra điều gì đó, trong trường hợp họ chưa từng nói (nhất là bởi sự trung thực của họ đòi hỏi điều đó). Sau đó, tôi giúp họ nhận ra hành động ấy là một phần của tác động ngăn chặn sự bạo ngược, ở cấp độ xã hội cũng như cá nhân. Nhiều thể chế quan liêu luôn có vài kẻ độc tài ti tiện, tạo ra các quy tắc và thủ tục vô lý chỉ nhằm thể hiện và củng cố quyền lực. Những kẻ này sẽ gây nên lòng oán giận ngầm sôi sục từ những người xung quanh họ, mà nếu được thể hiện ra sẽ giúp ngăn cản trò biểu dương quyền lực vô lý ấy ở họ. Theo cách này, việc một cá nhân sẵn sàng đứng lên vì bản thân mình sẽ bảo vệ mọi người khỏi sự lũng đoạn của xã hội. Khi những người ngây thơ khám phá ra khả năng nổi giận trong bản thân mình, họ sẽ bị sốc và đôi khi sốc dữ dội. Một ví dụ sâu sắc mà ta dễ nhận thấy đó là những người lính mới dễ nhạy cảm với hội chứng hậu chấn tâm lý. Nó thường xảy ra do những việc chính họ thấy mình đang làm, chứ không phải điều gì đó xảy đến với họ. Họ phản ứng giống như những con quái vật thật sự trong những hoàn cảnh khắc nghiệt cao độ nơi chiến trường và sự mặc khải về cách phản ứng ấy đã hủy hoại thế giới của họ. Chẳng có gì ngạc nhiên cả. Có lẽ họ cho rằng tất cả những thủ phạm khủng khiếp của lịch sử là những người hoàn toàn không giống họ. Có lẽ họ chưa bao giờ thấy được khả năng áp bức và bắt nạt tiềm ẩn trong mình (và có lẽ nó cũng không phải là khả năng khẳng định bản thân hay thành công của họ). Tôi có những khách hàng đã trải qua hàng năm trời kinh hãi vẻ ngoài man rợ đúng nghĩa trên gương mặt của kẻ tấn công gây nên cơn co giật dữ dội mỗi ngày. Những cá nhân như thế thường đến từ các gia đình bảo bọc quá mức, nơi không có điều gì khủng khiếp được phép tồn tại và mọi thứ đều tuyệt vời như chốn thần tiên (hoặc những nơi chốn khác). Vào thời khắc thức tỉnh - lúc một người từng một thời ngây thơ nhận ra bên trong họ là những hạt nhân mang bản chất xấu xa và quái dị, cũng như thấy mình thật nguy hiểm (chí ít là nguy hiểm tiềm ẩn) - nỗi sợ của họ sẽ giảm đi. Họ tôn trọng bản thân mình nhiều hơn. Sau đó, có lẽ họ sẽ bắt đầu kháng cự lại những áp bức. Họ nhận ra bản thân cũng có thể trụ vững, vì họ cũng khắc nghiệt không kém. Họ nhận thấy mình có thể và buộc phải đứng lên, vì họ đã bắt đầu hiểu rằng việc mình thức tỉnh có thể trở nên ghê gớm đến mức nào, để rồi nuôi dưỡng sự phẫn uất và biến nó thành những khao khát hủy diệt mạnh mẽ nhất. Tôi xin nhắc lại một lần nữa: Hầu như chẳng có sự khác biệt nào giữa khả năng gây tổn thương kết hợp với sức mạnh tàn phá của nhân cách. Đây là một trong những bài học khó tiếp thu nhất của cuộc sống. Có thể bạn là một kẻ thất bại. Và cũng có thể không phải - nhưng nếu đúng thế, bạn không nhất thiết duy trì tình trạng này. Có thể bạn chỉ có một thói quen xấu. Thậm chí có thể bạn chỉ là một người có những thói quen xấu. Tuy nhiên, nếu thực tình là bạn có một dáng vẻ thảm hại - tức bị ghét bỏ hoặc bị bắt nạt ở nhà hay trường tiểu học - thì điều đó không nhất thiết phải hợp với con người bạn hiện nay. Hoàn cảnh sẽ thay đổi. Nếu bạn suy sụp và mang phong thái đặc trưng ở những con tôm hùm bại trận, thì người ta sẽ gán cho bạn một vị trí thấp hơn. Và bộ tính toán trong đầu của bạn có điểm chung với loài động vật giáp xác - nằm dưới đáy não bộ - sẽ “xuất” cho bạn một điểm số thống trị thấp. Và rồi não của bạn sẽ không sản sinh ra nhiều serotonin. Điều này sẽ khiến bạn ít hạnh phúc, u buồn và lo lắng nhiều hơn, cũng như nhiều khả năng chùn bước trong khi phải đứng lên bảo vệ chính mình. Nó cũng sẽ làm giảm khả năng bạn được sống trong một khu dân cư tốt, tiếp cận với các nguồn tài nguyên chất lượng cao nhất và có được một người bạn đời khỏe mạnh, đáng ao ước. Nó sẽ khiến bạn lạm dụng cocain hay bia rượu, vì bạn đang sống trong thực tại của thế giới với viễn cảnh không chắc chắn. Nó sẽ khiến bạn tăng khả năng mắc bệnh đau tim, ung thư và chứng suy giảm trí lực. Suy cho cùng, điều này không hề tốt. Nếu hoàn cảnh thay đổi thì bạn cũng có thể thay đổi. Những vòng lặp hồi tiếp dương, khi bị gia tăng mức ảnh hưởng liên tiếp, sẽ phản tác dụng và cuộn xoáy theo hướng tiêu cực. Nhưng nó cũng có thể giúp bạn tiến lên. Đó là một bài học khác lạc quan hơn của Luật Price[15] và luật Phân phối Pareto[16]: Những ai từ đầu đã “có” thì sẽ tiếp tục có thêm. Một số vòng chuyển động đi lên này có thể diễn ra trong không gian riêng tư và chủ quan của bạn. Sự thay đổi ngôn ngữ hình thể là một ví dụ điển hình. Nếu nhà nghiên cứu yêu cầu bạn phải chuyển động cơ mặt của mình, mỗi lần mỗi kiểu cho đến khi đạt được biểu cảm buồn rầu trong mắt người quan sát, thì bạn sẽ cảm thấy mình buồn rầu hơn. Ngược lại, nếu bạn được yêu cầu dịch chuyển cơ mặt cho đến khi có biểu cảm vui vẻ, thì bạn sẽ cảm thấy vui vẻ hơn. Cảm xúc là một phần của biểu cảm cơ thể và có thể được khuếch đại (hoặc triệt tiêu) bởi biểu cảm ấy. Một số vòng hồi tiếp dương bắt nguồn từ ngôn ngữ cơ thể có khả năng vượt quá giới hạn riêng của kinh nghiệm chủ quan, trong cùng một không gian xã hội giữa bạn với người khác. Ví dụ, nếu phong thái của bạn quá thảm thương - co rúm người, thu vai lại, ép lồng ngực vào bên trong, cúi đầu, tỏ ra nhỏ bé, thảm bại và bất lực (theo lý thuyết là để tự bảo vệ mình khỏi bị tấn công từ phía sau) - thì bạn sẽ cảm thấy mình nhỏ bé, thảm bại và bất lực. Phản ứng của những người khác sẽ khuếch đại lên. Giống như tôm hùm, con người cũng tự phóng đại kích thước của đối phương lên do hậu quả của lập trường này. Nếu bạn thể hiện mình là một kẻ thất bại, thì người khác sẽ phản ứng với bạn như thể bạn là kẻ thua cuộc. Ngược lại, nếu bạn đứng thẳng người, thì mọi người sẽ nhìn nhận và đối xử với bạn theo cách khác. Bạn có thể sẽ phản đối: Đáy sâu là có thật. Và sống dưới đáy sâu cũng là chuyện có thật không kém. Việc chỉ thay đổi điệu bộ là không đủ để thay đổi bất kỳ điều gì đã thiết lập sẵn. Nếu bạn ở vị trí số 10, sau đó đứng thẳng người và ra vẻ thống trị, thì bạn chỉ có thể thu hút sự chú ý của những kẻ muốn hạ gục bạn một lần nữa mà thôi. Và chuyện này rất công bằng. Nhưng đứng thẳng hiên ngang không phải một điều gì đó thuộc về tác phong, vì bạn không chỉ có mỗi thể xác của mình. Bạn còn có tinh thần - hay một tâm hồn - để lên tiếng. Sự đứng thẳng về mặt hình thể cũng khơi gợi, kêu gọi và đòi hỏi sự đứng thẳng siêu hình. Đứng thẳng đồng nghĩa bạn đã tự nguyện chấp nhận những gánh nặng của Hữu thể. Hệ thống thần kinh của bạn sẽ phản ứng một cách hoàn toàn khác khi bạn tự nguyện đối mặt với những đòi hỏi của cuộc sống. Bạn đáp trả lại thách thức, thay vì “đổ thêm dầu vào lửa”. Bạn nhìn thấy kho báu vàng ròng từ những bầy rồng, thay vì co mình khiếp sợ trước sự hiện diện của một con rồng. Bạn tiến đến để giành lấy một chỗ đứng trong hệ thống cấp bậc, chiếm lấy lãnh thổ cho mình, thể hiện rằng bạn sẵn sàng bảo vệ, mở rộng và thay đổi nó. Điều đó có thể diễn ra hữu hình hoặc mang tính biểu tượng, như một sự tái cấu trúc về mặt vật chất hoặc khái niệm. Đứng thẳng hiên ngang nghĩa là chấp nhận trách nhiệm kinh hoàng của cuộc sống với đôi mắt mở to. Nó đồng nghĩa bạn đã tự nguyện quyết định biến đổi những hỗn loạn tiềm ẩn thành hiện thực của một trật tự mà bạn chịu được. Nó đồng nghĩa bạn đã chấp nhận gánh nặng của sự dễ tổn thương mà bạn tự ý thức được và chấp nhận sự kết thúc của “Thiên Đường” vô thức thời thơ ấu, nơi mà sự hữu hạn và chết chóc chỉ được lĩnh hội một cách mơ hồ. Nó đồng nghĩa với việc bạn đã sẵn sàng chấp nhận những hy sinh cần thiết để hình thành nên một thực tại hữu ích và đầy ý nghĩa (hay hành động để làm hài lòng Thượng thế theo cách nói cổ xưa). Đứng thẳng hiên ngang giống như bạn đang xây dựng một con thuyền lớn của Noah để bảo vệ thế giới khỏi trận đại hồng thủy, dẫn đường cho con người băng qua sa mạc sau khi họ thoát khỏi ách bạo tàn, lên đường rời xa đất nước và quê nhà yên bình và lên tiếng cảnh báo những kẻ bỏ mặc trẻ em và góa phụ. Nó đồng nghĩa với hành động vác một cây thánh giá, đánh dấu X lên chỗ giao nhau khủng khiếp giữa bạn với Hữu thể. Nó đồng nghĩa với đánh đuổi cái trật tự chết chóc, khắc nghiệt và bạo tàn trở về chốn hỗn loạn nơi nó sinh ra; nó đồng nghĩa bạn luôn đứng vững trước sự không chắc chắn tiếp theo và sau cùng tạo nên một trật tự mới tốt đẹp, ý nghĩa và hữu ích hơn. Vì vậy, hãy chú ý hơn nữa đến phong thái của mình. Hãy thôi ủ rũ và khom người. Hãy nói ra những suy nghĩ của mình. Hãy thúc đẩy khao khát của bản thân, như thể bạn có quyển làm thế - chí ít cũng bằng với người khác. Hãy bước hiên ngang và nhìn thẳng về phía trước. Hãy dám đương đầu với hiểm nguy. Hãy thúc đẩy chất serotonin cuồn cuộn chảy qua các đường dẫn truyền thần kinh đang khao khát sự tác động êm dịu của nó. Mọi người, bao gồm cả bạn, sẽ bắt đầu cho rằng bạn có năng lực hoặc có ý chí (ít nhất cũng không kết luận ngay điều ngược lại). Khi bạn cảm nhận được những phản ứng tích cực đang khuyến khích mình, bạn sẽ bắt đầu thấy bớt lo lắng. Sau đó, bạn thấy mình dễ bận tâm hơn đến những gợi ý tinh tế trong cộng đồng mà mọi người trao đổi khi họ giao tiếp. Các cuộc trò chuyện của bạn cũng sẽ trôi chảy và bớt bị ngắt quãng một cách ngượng ngùng hơn. Điều này tạo thêm cơ hội cho bạn gặp gỡ mọi người, tương tác và gây ấn tượng với họ. Cứ như thế, bạn sẽ không chỉ thực sự tăng khả năng hút những điều tốt đẹp đến với mình - mà còn giúp bạn cảm thấy khá hơn khi điều tốt đẹp ấy xảy đến nữa. Như vậy, khi được củng cố và khích lệ, bạn có thể lựa chọn đón nhận Hữu thể và thúc đẩy, cải thiện nó. Khi được truyền thêm sức mạnh, bạn có thể đứng vững ngay cả khi người thân yêu của mình mắc bệnh, khi cha mẹ qua đời và cho phép người khác tìm kiếm sức mạnh cùng với mình, thay vì để họ đắm chìm trong nỗi tuyệt vọng. Khi được khích lệ, bạn sẽ bắt đầu chuyến du hành của cuộc đời mình, để mình được lên tiếng và tỏa sáng trên ngọn đồi Thiên Đường, cũng như theo đuổi vận mệnh chân chính của bản thân. Và rồi, ý nghĩa cuộc đời bạn sẽ đủ để giữ cho những tác động hủy hoại của nỗi tuyệt vọng chết chóc tránh xa. Sau đó, bạn có thể chấp nhận gánh nặng khủng khiếp của Thế giới và tìm thấy niềm vui. Hãy tìm kiếm nguồn cảm hứng để trở thành con tôm hùm chiến thắng vinh quang, với trí tuệ thực tiễn đã đúc kết qua 350 triệu năm. Và hãy đứng thẳng thật hiên ngang. QUY LUẬT 2 ĐỐI XỬ VỚI BẢN THÂN NHƯ THỂ ĐÓ LÀ NGƯỜI MÀ BẠN CÓ TRÁCH NHIỆM GIÚP ĐỠ TẠI SAO BẠN NHẤT ĐỊNH KHÔNG CHỊU UỐNG MẤY VIÊN THUỐC ĐÓ? HÃY HÌNH DUNG CÓ 100 NGƯỜI đang được kê toa thuốc. Hãy xét thử xem điều gì sẽ diễn ra sau đó. Có đến 1/3 trong số họ không lấy đủ số thuốc kê trong toa. Một nửa trong số 67% còn lại vẫn sẽ đi lấy thuốc, nhưng không uống đúng chỉ định. Họ sẽ bỏ vài liều. Họ sẽ ngưng thuốc sớm. Hoặc thậm chí họ sẽ không uống viên nào. Các bác sĩ và dược sĩ hay có khuynh hướng đổ lỗi cho bệnh nhân là không tuân thủ, ỷ lại và phạm sai sót. Họ lập luận là bạn có thể dẫn một con ngựa đến máng nước nhưng không thể bắt nó uống được. Các nhà tâm lý học thường có quan điểm mập mờ về những đánh giá này. Chúng tôi được đào tạo để nhận định rằng việc bệnh nhân không nghe theo lời khuyên của bác sĩ là do lỗi của người hành nghề, chứ không phải bệnh nhân. Chúng tôi tin rằng nhà cung cấp dịch vụ y tế phải có trách nhiệm đưa ra những lời tư vấn sao cho chúng sẽ được tuân theo đầy đủ; cung cấp các biện pháp can thiệp cần được tôn trọng, phác đổ điều trị sao cho bệnh nhân hoặc khách hàng đạt được kết quả như mong muốn, cũng như theo dõi sát sao để đảm bảo mọi thứ phải được diễn ra đúng hướng. Đây là một trong rất nhiều điều biến nhà tâm lý học thành một người tuyệt vời - :). Tất nhiên, không như các chuyên gia dễ phiền lòng hơn - những người luôn tự hỏi tại sao người bệnh không dùng thuốc theo sự chỉ dẫn của họ - chúng tôi phải dành thời gian quý báu của mình với bệnh nhân. Họ làm sao thế? Họ không muốn khỏe hơn hay sao? Song, có một điều thậm chí còn tệ hơn. Hãy hình dung một ai đó được cấy ghép nội tạng, ví dụ như ghép thận. Quá trình cấy ghép chỉ diễn ra sau khi bệnh nhân phải trải qua quãng thời gian dài chờ đợi trong lo lắng. Chỉ có một số ít người hiến tạng sau khi họ chết đi (thậm chí số người còn sống chịu hiến tạng còn ít hơn nữa). Và cũng chỉ có một số lượng rất nhỏ các bộ phận được hiến tặng phù hợp cho bất kỳ bệnh nhân nào đang tràn trề hy vọng được cấy ghép. Điều này có nghĩa các ca ghép thận điển hình đều phải trải qua quá trình gọi là chạy thận, một phương án thay thế duy nhất trong nhiều năm liền. Chạy thận (hay còn gọi thẩm tách máu) nghĩa là rút toàn bộ máu trong người bệnh nhân ra để lọc thông qua một chiếc máy, rồi đưa máu trở lại người bệnh. Đây là một phương pháp điều trị không chắc thành công và diệu kỳ; nên nó tạm ổn, nhưng lại không dễ chịu. Cứ phải chạy thận tám giờ một lần và từ năm đến bảy lần mỗi tuần. Việc này sẽ được tiến hành khi bệnh nhân chìm vào giấc ngủ. Như thế là quá đủ. Chẳng ai muốn mình phải tiếp tục chạy thận cả. Mà một trong những phức tạp của việc cấy ghép là sự đào thải. Cơ thể bạn không thích ứng khi tiếp nhận các bộ phận cơ thể của người khác. Hệ thống miễn dịch của bạn sẽ tấn công và phá hủy các yếu tố ngoại lai này, mặc dù chúng có tầm quan trọng cốt yếu đối với sự sống còn của bạn. Để ngăn chặn tình trạng này xảy ra, bạn phải dùng các loại thuốc chống đào thải - làm suy yếu hệ miễn dịch và tăng khả năng mắc các bệnh nhiễm trùng. Đa số mọi người đành hài lòng với sự đánh đổi này. Các bệnh nhân được cấy ghép vẫn phải chịu ảnh hưởng của sự đào thải nội tạng, dù đã được uống thuốc kháng. Không phải vì các loại thuốc này mất tác dụng (tuy đôi lúc chúng vẫn xảy ra), mà thường vì những người được kê toa không chịu dùng thuốc. Điều này thật không thể tin nổi. Và để thận bạn bị hỏng là việc vô cùng nguy hiểm. Chạy thận không phải là một chuyến dã ngoại. Phẫu thuật cấy ghép chỉ diễn ra sau một khoảng thời gian chờ đợi rất dài, với rủi ro cao và tốn phí rất lớn. Thế nhưng, bạn lại đánh mất tất cả chỉ vì không chịu dùng thuốc thôi sao? Sao người ta có thể đối xử với bản thân như vậy? Sao điều này có thể xảy ra được nhỉ? Công bằng mà nói, điều này rất phức tạp. Nhiều người nhận bộ phận cấy ghép sẽ bị cách ly, nếu không họ sẽ có nguy cơ mắc nhiều vấn đề về sức khỏe thể chất (đó là chưa nói đến các vấn đề liên quan đến thất nghiệp hay khủng hoảng gia đình). Họ có thể bị suy yếu nhận thức hoặc bị trầm cảm. Họ có thể không hoàn toàn tin tưởng vào bác sĩ hay không hiểu được sự cần thiết của thuốc. Có thể họ không đủ điều kiện để mua thuốc và đành phải chia nhỏ liều, một hành động vô vọng. Nhưng - đây cũng là điều ngạc nhiên - hãy tưởng tượng rằng không phải là bạn, mà là chú chó cưng của bạn bị bệnh. Bạn đưa chú ta đến gặp bác sĩ thú y. Bác sĩ sẽ kê cho bạn một toa thuốc. Chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? Bạn cũng có nhiều lý do để không tin tưởng một bác sĩ thú y như một bác sĩ cho người. Hơn nữa, nếu bạn ít quan tâm đến thú cưng của mình và không bận tâm đến những loại thuốc không phù hợp, dưới chuẩn hoặc bị kê sai mà bác sĩ thú ý đưa ra, thì bạn sẽ không tìm đến bác sĩ thú y ngay từ đầu. Như vậy là bạn có quan tâm. Hành động của bạn đã chứng minh tất cả. Thực ra, bạn còn quan tâm nhiều hơn mức bình thường. Mọi người thường kiểm tra đơn và quản lý các loại thuốc được kê trên toa cho vật nuôi hơn là cho bản thân họ. Điều đó không tốt chút nào. Thậm chí từ góc nhìn của thú cưng, việc ấy cũng không hề ổn. Thú cưng của bạn (có thể) yêu mến bạn và chúng thậm chí còn vui hơn nếu bạn chịu dùng thuốc của chính mình. Thật khó để kết luận bất cứ điều gì từ những sự thật trên, ngoại trừ việc mọi người dường như còn yêu mến chó, mèo, chồn sương và chim chóc (có lẽ cả thằn lằn nữa) hơn cả bản thân mình. Sao lại kinh khủng như thế? Đáng xấu hổ biết bao nếu những điều như thế lại là sự thật? Điều gì có thể khiến con người quan tâm, yêu mến thú cưng hơn cả bản thân họ? Một câu chuyện cổ trong Sáng thế ký - cuốn sách mở đầu Kinh Cựu ước - đã giúp tôi khám phá ra đáp án cho câu hỏi khó hiểu này. CÂU CHUYỆN CỔ XƯA NHẤT VÀ BẢN CHẤT CỦA THẾ GIỚI Hai câu chuyện khác nhau về Tạo hóa từ hai nguồn ở Trung Đông dường như được đan kết thành bản ghi chép Sáng thế ký. Theo bản chép đầu tiên về trình tự thời gian nhưng lại xuất hiện muộn hơn trong lịch sử - còn được gọi là “Priestly” - Thượng Đế đã tạo ra vũ trụ, sử dụng Thánh Ngôn của Ngài để tạo ra ánh sáng, nước và đất, sau đó đến các cây cối và các thiên thể. Tiếp đến, Ngài tạo ra các loài chim, muông thú và cá (cũng bằng lời nói) - và sau cùng là con người, bao gồm nam và nữ, cả hai đều được tạo hình dựa trên hình tượng của Ngài. Tất cả đều diễn ra trong quyển Sáng thế ký 1. Trong phiên bản thứ hai xuất hiện sớm hơn, hay phiên bản “Jawhist”, chúng ta tìm thấy một nguyên bản khác, liên quan đến Adam và Eve (với các chi tiết về tạo hóa khác nhau đôi chỗ) cũng như các câu chuyện về Cain và Abel, hay Noah và tháp Babel. Đó là quyển """