"
12 Người Lập Ra Nước Nhật
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 12 Người Lập Ra Nước Nhật
Ebooks
Nhóm Zalo
Mười Hai Người Lập Ra Nước Nhật
Sakaiya Taichi; Người dịch Ðặng Lương Mô.
Lời tựa của dịch giả
Khi nói đến Nhật Bản thì không cứ gì ở Việt Nam, mà ở khắp nơi trên thế giới, người ta đều coi đó là một hiện tượng thần kỳ.
Vâng, với diện tích đất đai chỉ lớn hơn Việt Nam khoảng mười phần trăm[1], và dân số khoảng gấp rưỡi Việt Nam[2], Nhật Bản đang có sức mạnh kinh tế thứ nhì trên thế giới, bằng một nửa Mỹ[3], bằng hơn năm lần Trung Quốc[4]. Sản phẩm công nghiệp của Nhật, từ nặng tới nhẹ, từ lớn tới nhỏ, từ tinh vi tới siêu kỹ thuật, luôn luôn đứng hàng đầu thế giới.
Ấy thế mà, mới chỉ 150 năm trước đây thôi, khi Nhật Bản sắp sửa mở cuộc canh tân Minh Trị[5] thì nói chung xã hội Nhật Bản, nền kinh tế Nhật Bản cũng không hơn gì Việt Nam thời đó. Ðừng nói gì chuyện 150 năm trước cho dông dài, hãy nhìn lại khoảng năm chục năm qua, tức là từ sau trận chiến tranh thế giới lần thứ hai, tới nay thôi, ai ai cũng phải nhìn nhận rằng Nhật Bản lại làm một phép lạ, một kỳ tích lần thứ hai, tức là phục hưng lại xứ sở của một nước thua trận, đã bị phá hủy tan hoang, để rồi trở lại sân khấu thế giới một cách hãnh diện là cường quốc kinh tế thứ hai thế giới.
Khi tôi bắt đầu sang du học Nhật Bản tháng 4 năm 1957, tức là chưa đầy 12 năm kể từ sau khi Nhật Bản thua trận chiến tranh thế giới lần thứ hai[6], thì lúc đó Nhật Bản đã đứng đầu thế giới về nền công nghiệp đóng tàu. Lúc đó, mức thu nhập của một người trí thức tốt nghiệp đại học của Nhật so với người Mỹ, chỉ tương tự như mức thu nhập của người Việt Nam ngày nay so với người Mỹ, mà thôi. Thật vậy, khoảng những năm đầu của thập kỷ 1960, mức lương tháng của một người Nhật mới tốt nghiệp đại học là khoảng 50 đôla Mỹ. Trong khi đó, một người Mỹ có trình độ tương tự, lĩnh lương tháng trung bình là 600 đô-la nghĩa là hơn gấp 12 lần. Thế mà chỉ 20 năm sau thôi, thu nhập của người Nhật đã đuổi kịp người Mỹ rồi, và Nhật Bản nghiễm nhiên trở thành cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới như vừa nói.
Ở địa vị một nước thua trận, bị quân đội Mỹ (quân đội đồng minh) chiếm đóng, với
diện tích đất đai nhỏ hẹp, dân số đông đúc, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, Nhật Bản đã vươn lên được để chỉ trong chưa đầy 20 năm sau, đã đường đường đứng ra tổ chức Thế Vận Hội đầu tiên ở châu Á năm 1964. Việc đăng cai tổ chức Thế Vận Hội chứng tỏ quốc lực của Nhật Bản đã hồi phục hoàn toàn.
Giới thiệu một tác phẩm nói về sự thành lập nước Nhật Bản, bằng cách chọn 12 nhân vật đã đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp đó, bởi một tác giả được coi là một chuyên gia hàng đầu về kinh tế, người đã được thủ tướng Obuchi mời vào làm bộ trưởng kế hoạch kinh tế để giải quyết những khúc mắc kinh tế, tài chính do tình trạng kinh tế bong bóng bị nổ xẹp gây ra, chúng tôi hi vọng cống hiến một số tư liệu lịch sử của một trường hợp dựng nước thường được coi là thành công, và đã được nhiều nước, nhất là những nước đang mở mang ở Ðông nam Á, lấy làm mẫu mực, để tham khảo và so sánh.
Trong số 12 người nói đến ở đây, không ai là vị vua khai thiên lập địa, cũng không ai là vị tướng tài đánh dẹp ngoại xâm. Mà họ là 12 người đã để lại ảnh hưởng sâu đậm đối với nước Nhật và người Nhật ngày nay. Họ là những người đã đưa ra quan niệm tôn giáo, tiêu chuẩn luân lý, phong cách xử thế, tức là những giá trị tinh thần của người Nhật, tới những cơ chế chính trị, kinh tế, xã hội còn tồn tại, hoặc vẫn còn ảnh hưởng lớn tới ngày nay.
Về cách diễn đạt, chúng tôi đã cố gắng “dịch từng chữ” của nguyên văn tiếng Nhật, cực lực tránh “dịch thoát,” để không đưa cái chủ quan của người dịch vào nội dung. Ngoài ra, có rất nhiều từ, nhất là những từ có tính cách lịch sử, và nhiều sự kiện lịch sử trong nguyên văn vừa khó đọc lại vừa khó hiểu đối với độc giả Việt Nam. Trong những trường hợp này, chúng tôi đã cố gắng chú thích thêm cho đầy đủ. Chú thích xuất hiện dưới hai dạng: cước chú và lời chú đóng trong ngoặc đơn. Phần chú thích như vậy vốn không có trong bản gốc tiếng Nhật. Người dịch chịu trách nhiệm hoàn toàn về những chú thích như vậy.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Quý Mùi (năm 2003)
Người dịch Ðặng Lương Mô
[1] Diện tích Việt Nam là khoảng 334 ngàn kilômét vuông, trong khi đó diện tích Nhật Bản là khoảng 369 ngàn kilômét vuông.
[2] Dân số Việt Nam là khoảng 80 triệu người, so với khoảng 120 triệu người của Nhật Bản.
[3] Mỹ có diện tích đất đai gấp khoảng 25,4 lần và dân số khoảng 2,5 lần Nhật Bản. [4] Trung Quốc có diện tích đất đai gấp 26,5 lần và dân số gấp hơn 9 lần Nhật Bản.
[5] Vua Minh Trị của Nhật Bản chính thức thâu hồi được quyền chính trị là tháng 11 năm 1867.
[6] Nhật Bản chính thức đầu hàng phe đồng minh là ngày 15 tháng 8 năm 1945. Lời mở đầu
Bây giờ chính là lúc học lịch sử
Nhật Bản hiện đang ở thời kỳ đổi mới lớn.
Trong thời kỳ đổi mới này, cái gì sẽ thay đổi và cái gì sẽ không thay đổi? Nếu thay đổi thì thay đổi như thế nào, yếu tố cũ nào nên giữ lại, yếu tố mới nào nên tiếp thu thêm?
Nghĩ như trên, trước hết phải hiểu thấu cái dòng lịch sử đã biến thành xương, thành thịt, thành con tim, thành “lòng” người Nhật.
Trong những cái coi là “có tính Nhật Bản,” có cái đã hình thành sau cuộc chiến tranh Thái Bình Dương[1], cũng có cái mới chỉ lan truyền rộng ra từ những năm chót của thập niên 1980, tức là khi “cơn thịnh vượng kinh tế bong bóng” hay là khi “xã hội ít con” đã xuất hiện, song cũng có cái đã được vun trồng trong sự kế thừa liên miên của lịch sử. Phần lớn những cái đó đã trở thành “tính dân tộc,” “tính quốc dân” khó có thể thay đổi được.
Xưa nay, Nhật Bản có đủ loại hình văn hóa du nhập vào. Tổ tiên người Nhật đã tiếp xúc bằng con mắt kinh hoàng những văn hóa về hình thức sinh hoạt, từ quần áo, thức ăn, nhà ở tới kỹ thuật, học vấn, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, chính trị, v.v., rồi đã chọn lọc kỹ càng, cái thì bỏ đi, cái thì tiêu hóa đi rồi cải tạo và vun đắp thành “tính Nhật,” “kiểu Nhật.” Ðây chính là một đặc trưng lớn của Nhật Bản và của người Nhật.
Hiện nay, Nhật Bản đang ở thời kỳ biến chuyển mạnh. “Chiến tranh lạnh” kết thúc đã làm cho thế giới đổi mới, đồng thời cái “thể chế hậu chiến[2]” dễ thở ở Nhật Bản cũng đã băng hoại luôn rồi. Chính lúc này mới là lúc cần phải nhìn lại lịch sử, đi tìm cái lai lịch của Nhật Bản, tìm hiểu và nắm cho vững cái đặc sắc của xã hội và nền văn hóa mà người Nhật đã vun đắp lên.
Những vấn đề thời sự như cục diện chính trị, biến động thị trường từng ngày từng giờ thì đều dễ hiểu, dễ kể lại. Ai ai cũng ngóng nghe, và báo chí cũng loan truyền rộng rãi. Tuy nhiên, nếu nghĩ tới tương lai nước Nhật và người Nhật, tới cái mối quan hệ của nước Nhật và người Nhật với thế giới, thì cần phải nhìn thấu suốt lịch sử cùng bản chất của nước Nhật và người Nhật.
Trong những căn nguyên đã làm thành cái đặc trưng của nước Nhật Bản và người Nhật Bản, cái đặc sắc của xã hội Nhật Bản, thì có “vật” và “người,” tức là “phong thổ” và “nhân vật.”
Nói về phong thổ, Nhật Bản quả có một địa thế đặc biệt trên thế giới.
Thứ nhất, Nhật Bản nằm trong vùng gió mùa châu Á, có khí hậu tương đối ấm áp và ẩm ướt. Trạng thái này rất thích hợp cho việc trồng lúa. Vì thế, nền nông nghiệp trồng lúa đã phát triển rộng lớn. Lật lại những trang sử của Nhật Bản, người ta thấy rằng ngay sau thời đại bắt cá, gọi là thời “hoa văn dây thừng[3],” thời đại canh tác thóc lúa đã xuất hiện rồi. Thời đại “du mục, chăn nuôi” vốn chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới, thì lại không thấy có ở Nhật Bản. Núi non hiểm trở và bình nguyên nhỏ hẹp của lãnh thổ Nhật Bản không thích hợp cho việc xua đuổi chăn nuôi những đàn súc vật đông đảo. Vì vậy, người Nhật chỉ có những quan hệ rất mỏng manh với gia súc, và như vậy so với những nước khác vốn đã có kinh nghiệm của thời chăn nuôi gia súc, thì người Nhật tỏ ra yếu kém về thuật chế ngự những con vật có trí khôn.
Ðặc điểm thứ hai là lãnh thổ Nhật Bản do bốn hòn đảo lớn hình thành và ngăn cách với những nước khác bằng một “vùng biển không hẹp.” Ðiều này có nghĩa là việc vượt biển vào Nhật Bản bằng số đông có tổ chức tập thể, có mục đích quân sự hoặc mục đích chính trị, thì rất khó. Tuy nhiên, vùng biển này lại không rộng đến nỗi không thể vượt qua được, dù chỉ bằng kỹ thuật thô sơ của thời cổ xưa. Vì vậy, sự ghi chép về người Nhật xuất hiện trong triều đình Trung Hoa đã có từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.
Nói cách khác, quần đảo Nhật Bản vừa có tính cách cô lập về mặt quân sự và chính trị, song mặt khác lại có tính giao lưu văn hóa từ cổ xưa. May mắn thay, ở bờ bên kia vùng biển không quá hẹp cũng không quá rộng này, có bán đảo Triều Tiên và đại lục Trung Hoa, tức là một trong những vùng mở mang tiên tiến nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.
Ở xa đại lục một quãng cách tương tự như Nhật Bản còn có Cuba và Madagasca. Song trong trường hợp những nước này, thì châu lục Mỹ hoặc châu lục Phi ở bờ bên kia, lại chỉ có nền văn minh cổ đại không lấy gì làm phát triển cho lắm. Bởi vậy, những đảo quốc này đã không được sự du nhập liên tục của những văn hóa cao độ từ đại lục vào. Ở điểm này, có thể nói cái vị trí địa lý của Nhật Bản, vừa cách xa không để cho các thế lực quân sự vượt qua được, nhưng lại vừa đủ gần để cho văn hóa vãng lai được, thì quả là độc đáo trên thế giới.
Ðặc điểm thứ ba là bốn hòn đảo chính của Nhật Bản làm thành một nhóm rất gọn. Hokkaido phát triển muộn hơn, chứ Kyushu, Shikoku và Honshu thì đã hợp lại thành một nước và có điều kiện thiên nhiên để phát triển. Vì vậy, khi có cùng một nền văn hóa đã phát triển, nên nếu có một thế lực chính trị nòng cốt ra đời, thì toàn thể dễ trở thành một quốc gia.
Chính vì vậy mà kể từ khi lịch sử viết thành chữ ra đời, tức là từ tiền bán thế kỷ thứ VII, cho tới nay, một quãng thời gian khoảng chừng 1400 năm, ở Nhật Bản đã có nhiều cuộc tranh chấp chính trị, nhiều vụ nội loạn, song trong tất cả những bè phái tranh giành nhau như vậy, không thấy có ai tự mình tuyên bố rằng “ta đây là một nước khác không phải là Nhật Bản.” Phần lãnh thổ chủ yếu thì chưa bao giờ bị nước ngoài cai trị lâu năm cả, quốc gia cũng chưa bao giờ bị phân cắt.
Ba điều kiện kể trên, tức là “địa thế và khí hậu,” “vị trí quốc tế” và “sự tóm gọn của lãnh thổ,” quả thật đã có ảnh hưởng quan trọng và lớn lao tới lịch sử Nhật Bản. Có lẽ cũng vì vậy mà người Nhật ưa luận về “phong thổ,” bất cứ sự việc gì cũng thuyết giải từ phong thổ. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng vào phong thổ không thôi, thì đó cũng có khi nguy hiểm.
Thí dụ võ tướng Oda Nobunaga là người có tính tình rất phóng đạt, thì thường được giải thích rằng đó là bởi vì ông sinh trưởng ở vùng bình nguyên Mino-Owari rộng lớn. Song le, thời đại Nobunaga sinh ra, thì bình nguyên đó toàn là đồng lầy, có sông ngòi chi chít và rất ít quãng rộng cho ngựa chạy vòng quanh. Nghĩa là khó có thể nói rằng nhờ sinh trưởng ở vùng đồng bằng mà Nobunaga đã có tính tình phóng đạt như vậy được.
Nói cách khác, từ luận về phong thổ, rồi đi đến giải thích tính tình con người, hay có khi cả tình trạng của một chính quyền, là việc làm gò bó. Phong thổ Nhật Bản quả có ảnh hưởng rất lớn tới nước Nhật và người Nhật, song cái gì cũng chứng minh bằng sự xuất phát từ đó, thì e dễ sinh ra nhầm lẫn.
Ngược lại, ảnh hưởng của một “nhân vật” đặc thù nào đó, hoặc của một giai tầng hay tập thể mà nhân vật đó là tượng trưng, thì không nhỏ. Có không ít những cái mà nay ta coi là đương nhiên, thì một lúc nào đó trước đây đã do một người nào đó làm và từ đó đẻ ra tính độc đáo, tạo ra tính dân tộc riêng biệt của Nhật Bản.
Dĩ nhiên cái đó không phải chỉ do năng lực của cá nhân đó hay sự ngẫu nhiên mà xẩy ra được. Có lẽ nên nói rằng người đó, giai tầng người đó đã làm công việc tất yếu lịch sử, thì đúng hơn. Thế nhưng để cho dễ hiểu, nếu coi sự việc như vậy chẳng qua là đã được tượng trưng hóa bởi một nhân vật đặc thù nào đó, thì đây không phải là phương pháp dở.
Sách này chọn 12 “nhân vật” tượng trưng đã để lại ảnh hưởng sâu đậm đối với nước Nhật cho tới ngày nay.
Những người này đã hành động như thế nào trong giai đoạn nào của lịch sử? Ðiều mà họ đã làm còn tồn tại trong người Nhật ngày nay như thế nào? Nó đã kìm hãm ý nghĩ của người Nhật, của xã hội Nhật như thế nào? Thế rồi từ nay về sau, trong sự giao tế với thế giới, nó sẽ ảnh hưởng ra sao?
Cuốn sách này chính là muốn luận về những “nhân vật” này từ quan điểm như vậy.
Trong luận cứ như vậy, cả những “sự thật” đã được thần thoại hóa trong lịch sử cũng sẽ được đề cập, chứ không riêng gì sự nghiệp lịch sử của người đó, lai lịch xác đáng của người đó, hình ảnh đúng của người đó trong thời đại người đó thực sự sống. Tuy nhiên, cái tổng thể, kể cả những điều như vậy, đang có ảnh hưởng như thế nào tới nước Nhật và người Nhật ngày nay, sẽ để lại cái gì cho Nhật Bản sau này, và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng như thế nào, chính là điều chúng tôi có chủ ý tìm hiểu ở đây.
[1] Chiến tranh Thái Bình Dương là nói mảng Thái Bình Dương của trận Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
[2] “Thể chế hậu chiến” cũng gọi là “thể chế năm 55.” Xem chú 104 (Chương VII). [3] Jomon Jidai.
Chương I : Thái tử Shotoku
Người khởi xướng tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho
Thủy tổ của khái niệm tôn giáo của người Nhật
Thái tử Shotoku là một trong những “nhân vật” quen biết nhất trong lịch sử Nhật Bản.
Sau khi qua đời ông được đặt tên thụy là Shotoku Taishi, tức là Thái tử Shotoku, chứ sinh thời ông tên là Umayado no Miko hoặc Kamitsu Umayado no Toyotomimi no Oji.
Những ai sinh trước thập niên 1960, thì hẳn còn nhớ hình bán thân Thái tử Shotoku in trên tờ giấy bạc 5 ngàn Yen hay tờ 10 ngàn Yen cũ. Ðây chỉ là một phần của hình vẽ thái tử đứng chung với hai người con. Hơn nữa, hình vẽ này có miêu tả đúng thái tử hay không, là vấn đề còn cần phải bàn luận thêm. Nhưng dù sao, hình vẽ này cũng đã trở thành quen thuộc như là “bộ mặt Thái tử Shotoku” vậy.
Truyền thuyết về Thái tử Shotoku trên phương diện tôn giáo và văn hóa có rất nhiều. Ðến nỗi ở hậu bán thập niên 1980, người ta đã thấy xuất hiện một tập sách hoạt họa vẽ Thái tử Shotoku, bán rất chạy trong giới trẻ. Một nhân vật lịch sử hoạt động về tôn giáo và ngoại giao, thường ra khó trở thành đề tài kể chuyện Kodan[1] hay đề tài truyện cổ, thế mà đã thành kịch hí họa bán chạy, thì cũng lạ.
Thái tử Shotoku được chọn làm người thứ nhất trong “Mười hai người dựng nên nước Nhật,” chính vì ông là người khởi xướng đồng thời là người thực hành “tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho,” tư tưởng đã được cụ thể hóa thành quan niệm tôn giáo chi phối tâm thức người Nhật trong suốt một nghìn bốn trăm năm qua.
Ðây là tư tưởng tôn sùng cùng một lúc ba giáo lý: đó là Thần đạo hay tôn giáo dân gian của Nhật Bản, Phật giáo hay tôn giáo phát sinh ra ở Ấn Ðộ rồi truyền qua Trung Hoa và bán đảo Triều Tiên vào Nhật Bản, và Nho giáo phát sinh ra ở Trung Hoa, tức là những quy phạm đạo đức làm khuôn mẫu cho cách xử thế.
Từ đó tới nay, cái tư tưởng này không những đã quyết định hẳn quan niệm tôn giáo và quan niệm văn hóa của người Nhật, mà còn có ảnh hưởng lớn tới cung cách đối xử khi Nhật Bản tiếp thu văn hóa hay kỹ thuật từ nước ngoài vào. Ðồng thời, từ sau khi tư tưởng gộp đạo đã bén rễ rồi, thì tôn giáo không còn là một trục đối lập đáng kể ở Nhật Bản nữa. Thậm chí nếu một tôn giáo mới (ví dụ đạo Cơ Ðốc) du nhập vào, thì đó chẳng qua là lại có thêm một đối tượng nữa để tôn sùng. Sự khác biệt tôn giáo chỉ là ở chỗ đặt trọng điểm tín ngưỡng vào đâu mà thôi.
Ðối với người Nhật, thì chiến tranh tôn giáo là cái gì thật sự không hiểu nổi. Khi xét vấn đề Trung Ðông hay cuộc phân tranh Bosnia Helzegovina[2], người Nhật hoàn toàn thấy mù tịt khi đi vào vấn đề tôn giáo! Chỉ vì khác tôn giáo mà đánh nhau đến bỏ mạng, là chuyện chưa bao giờ thấy có ở Nhật Bản, kể từ trận phân tranh giữa hai họ Soga và Mononobe thời Thái tử Shotoku cho tới ngày nay. Người dân nước này đã thành như vậy là do Thái tử Shotoku, hay ít nhất cũng là do cái tinh thần thời đại tượng trưng bởi thái tử.
Chương này sẽ kể lại “nhân vật” Thái tử Shotoku từ quan điểm nói trên. Song, trước hết, chúng ta thử nhìn lại xem thái tử đã sống trong thời đại như thế nào.
Thời chuyển tiếp từ “thời sơ cổ” sang “thời cổ”
Thời kỳ đáng coi là văn hóa đã thực sự bén rễ ở đảo quốc Nhật Bản này, là từ bao giờ? Thật ra, những nghiên cứu khảo cổ học càng đi sâu hơn thì thời kỳ như vậy càng thấy trở
lui thêm về quá khứ. Song tựu trung, nhận thức chung là coi thời kỳ này ở vào khoảng thế kỷ thứ II.
Thời đó có nữ chúa Himiko, làm chúa một số thôn ấp và quy phục được một số thôn ấp xung quanh nữa. Người ta mặc loại y phục chỉ gồm có một mảnh vải đay đục lỗ ở giữa rồi chui cổ qua đó. Ðây là lời tường thuật trong sách “Ngụy chí Oải nhân truyện[3]“. Ngụy nói ở đây là nước Ngụy trong ba nước Ngụy, Ngô, Thục của truyện Tam Quốc Chí, nước đã được con của Tào Tháo[4] dựng nên. Khi Trung Hoa đã ở thời kỳ Tam Quốc, thì Nhật Bản hãy còn ở tình trạng như kể trên vậy.
Tuy nhiên, có một sự thật được biết rất rõ là, trước thời đại Himiko cả hơn 150 năm, nghĩa là vào khoảng năm 57 sau công nguyên, đã có sứ giả của vua nước Nu người Oải tới kinh đô Lạc Dương của nhà Hậu Hán, Trung Hoa, trình cống vật và nhận “ấn vàng” (con dấu bằng vàng) của Hán Vũ đế. Truyện này chép trong sách Hậu Hán Thư. Vật được coi là “ấn vàng” đó, người ta đã đào thấy ở tỉnh Fukuoka vào thời chúa Tokugawa, nay vẫn có thể tới xem ở Viện bảo tàng Fukuoka.
Lại nữa, qua những điều tra gần đây, người ta đã lần lượt phát hiện ra nhiều ngôi mộ cổ xưa chứng tỏ rằng ngay thời Himiko, đã có ở vùng Kinki, tức là vùng quanh kinh đô Kyoto ngày nay, một triều vua với thế lực đáng kể. Xét những sự thật như vậy, không chừng ta có thể coi nền văn minh Nhật Bản đã có từ lâu trước thời đại Himiko.
Cũng có thể là một thời gian trước hoặc sau đầu công nguyên, nền canh nông đã phát triển và do đó đã có một triều vua. Tuy nhiên, dù cho thời đó đã có một triều vua đi chăng nữa, thì tôi cũng chỉ định nghĩa đó là một quốc gia “thời sơ cổ,” chứ chưa phải là “thời cổ” tức là thời kỳ người ta đã biết coi trọng sự gia tăng số lượng vật chất.
Trong lịch sử Tây Âu, thì từ thời Kim tự tháp tới thời đế quốc La Mã tan rã, và trong lịch sử Trung Hoa, thì thời thái cổ kể từ nhà Ân, tức triều đại Hạ, cho tới đời Ðường, nghĩa là suốt khoảng thời gian trước thời “trung cổ” đều gọi là “thời cổ.” Nhưng ngay trong khoảng thời gian dài này thì nửa trước và nửa sau đã có sự khác nhau lớn lao. Nên gọi thời đại mà con người chỉ biết gieo hạt rồi chờ thu hoạch trên những thửa đất có điều kiện thiên nhiên tốt, nghĩa là thời đại coi sự cầu đảo thần linh làm trọng hơn là trông cậy vào tri thức và sự cần cù, là “thời sơ cổ.” Còn thời đại sau cách mạng nông nghiệp, tức là biết dùng thủy lợi và thâm canh để cải thiện đất đai, rồi do đó coi trọng kỹ thuật và sự cần mẫn, là “thời cổ.” Theo tôi, thì chia ra như vậy mới đúng.
Thời Himiko rõ ràng chỉ là “thời sơ cổ,” vì chưa thấy có kỹ thuật dẫn thủy nhập điền hay kỹ thuật đê điều. Nói khác đi, diện tích có thể canh tác được ở mỗi nơi đều nhỏ hẹp, và như thế, ở mỗi địa vực đều không thể sinh ra một quyền lực quốc gia mạnh lớn được.
Nhưng dần dần kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt ngày một tiến bộ, kỹ thuật dẫn thủy nhập điền được phổ cập, thì diện tích canh tác rộng lớn ra. Kết quả là sự hình thành của quốc gia địa vực bao gồm cả vùng xung quanh mà đất đai không canh tác được nếu để nguyên trạng như thiên nhiên. Tiến bộ kỹ thuật đã làm cho luân lý thay đổi, hình thái quốc gia cũng từ dạng quốc gia đô thị biến thành quốc gia địa vực. Ðây chính là thời chuyển tiếp từ “thời sơ cổ” sang “thời cổ” vậy.
Không những diện tích canh tác đã được mở rộng sang vùng phụ cận, mà sức sản xuất cũng tăng lên. Vì thế, dân số gia tăng và sinh ra sản phẩm thặng dư. Do đó mới phát sinh ra quyền lực bắt người khác làm việc để mình thu lợi. Rồi, tổ chức và chế độ mới thành
hình.
Những ngọn kim tự tháp hùng vĩ đã được dựng lên ở quốc gia đô thị thời thái cổ Ai Cập. Việc nặng nhọc khuân vác những tảng đá xây kim tự tháp đó, hẳn đã phải do bọn người nô lệ bị đánh đập, thôi thúc bằng roi vọt, khuân vác. Như vậy, có nhiều người tưởng rằng thời Kim tự tháp đó hẳn đã phải có nhiều nô lệ lắm. Nhưng thật ra, người ta đã biết rằng ở thời thái cổ Ai Cập, tức là lúc những kim tự tháp đó đã được xây dựng, thì hầu như không có người nô lệ. Ðây là vì, bắt một người khác làm việc cho mình, mà sức sản xuất của người đó không nuôi được hơn một miệng người, thì đó là việc làm vô nghĩa. Chế độ nô lệ chỉ trở thành đại quy mô kể từ “thời cổ” khi đã phát sinh ra hiện tượng sản phẩm thặng dư mà thôi.
Kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt đã từ bình nguyên Kawachi lan sang thung lũng Yamato. Do đó, người ta cho rằng một vương quyền kiểu “thời cổ” đã phát sinh ra ở vùng Kinki vào thời bách niên kỷ 500 sau công nguyên (tức là thế kỷ thứ VI). Thế lực này sau đó đã lớn mạnh thành triều vua Yamato vậy.
Thái tử Shotoku đã sinh ra vào thời kỳ mà quốc gia “thời cổ” này đã đứng vững, tức là hậu bán của thế kỷ thứ VI.
Sự đối lập xung quanh vấn đề công nhận Phật giáo
Sức sản xuất đã cao vọt lên từ thời sơ cổ sang thời cổ, là nhờ kỹ thuật du nhập từ đại lục sang. Ðương nhiên, cùng với kỹ thuật đó, cả tư tưởng mới lẫn tôn giáo mới cũng lan vào.
Sự việc trên, không những đã nhờ tiến bộ về thuật hàng hải khiến cho sự đi lại giữa bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản trở nên dễ dàng hơn, mà cũng nhờ có những diễn biến quân sự, chính trị ở bán đảo Triều Tiên nữa. Thời đó, Triều Tiên đang có loạn “tam quốc[5]“. Những người có kỹ thuật và văn hóa ưu tú đã vượt biển sang Nhật Bản. Trong những người gọi là “dân vào làng (dân nhập tịch)” như vậy, có nhiều người đã kéo tất cả bà con thân thích vượt sang Nhật Bản. Những người này đã mang vào Nhật Bản văn hóa và kỹ thuật phát đạt ở Trung Hoa, trong đó có cả Ðạo Phật.
Sử chép năm 538 lần đầu tiên Phật giáo đã được “công truyền” vào Nhật Bản. Ðây là nói sự “công nhận của triều đình,” chứ thật ra, Ðạo Phật hẳn đã được truyền bá trong dân gian từ trước đó. Phật giáo đã lưu hành rộng rãi trong dân gian, đến nỗi triều đình không thể làm ngơ được, đã truyền cho họ Soga “phải thờ Phật đi.” Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì đó chính là sự công nhận tự do tín ngưỡng đối với Ðạo Phật vậy.
Là một tôn giáo đã hoàn chỉnh, Phật giáo vào Nhật Bản mang theo không những chỉ có yếu tố tôn giáo và triết học, mà còn cả một nền “văn hóa” có hệ thống nữa. Từ kỹ thuật kiến trúc và các công nghệ, kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt, nghề thuốc và dinh dưỡng học, v.v., đã cùng với Ðạo Phật được mang vào Nhật Bản.
Vốn thèm khát “văn hóa,” số người Nhật quy y theo Phật giáo đã tăng vọt lên. Một hiện tượng tương tự song với quy mô và sự ưu đãi gấp nhiều lần của hiện tượng lúc ban đầu thời Meiji[6] (Minh Trị), tức là khi nền văn minh Tây Âu hiện đại cùng với đạo Cơ Ðốc truyền vào Nhật Bản, đã thực sự diễn ra. Vì thế, hơn cả chính Ðạo Phật, số người mộ cái lợi ích đời nay, như sự học tập kỹ thuật, cái vẻ bảnh bao, v.v., hẳn đã quy y vô cùng đông đảo. Tôn giáo hoặc tư tưởng từ những nước tiên tiến lan truyền tới thì bao giờ cũng như
vậy.
Tuy nhiên, mười mấy năm sau khi Phật giáo được “công nhận,” nghĩa là khoảng từ năm 552 trở đi, phe “sùng Phật” tức là dòng họ Soga đã gặp phải lúc vận xui. Hễ cứ xây chùa thì bệnh dịch lại lưu hành, khiến đã nẩy ra cuộc tranh luận về vấn đề công nhận Phật giáo. Ðại biểu của phái “bài Phật” là dòng họ Mononobe.
Mononobe là một dòng họ được nâng đỡ bởi chế độ thị tộc của triều đình Yamato, và cùng với họ Otomo, đời đời được giữ quyền lực tối cao với chức Omuraji[7]. Nói cách khác, với địa vị quan chức thống lãnh ba quân của triều đình Yamato, với thói quen thờ “thần bảo hộ” của những nhà quân sự thời đó, dòng họ này đã cố chấp sự duy trì tôn giáo cổ truyền của Nhật Bản.
Một mặt thì phái sùng Phật, với dòng họ Soga làm trung tâm, đã không chịu mãn nguyện với nền tự do tín ngưỡng cho dân gian, mà lại muốn cả bậc nguyên thủ, tức là “thiên hoàng” (vua Nhật Bản), cũng phải sùng bái Ðạo Phật nữa.
Từ đời vua Bidatsu, rồi đến vua Yomei lên ngôi, cuộc tranh luận vẫn còn sôi nổi. Vị này là em trai vua Bidatsu và là cha Thái tử Shotoku.
Theo sử chép, vua Yomei là ông vua đầu tiên ở Nhật Bản đã lễ Phật (năm 585). Tuy nhiên, hình như đó chỉ là một lễ không chính thức của cá nhân nhà vua mà thôi. Ở thời đó, đây là giới hạn tối đa mà nhà vua có thể làm được[8].
Vua Yomei ở ngôi được một năm tám tháng, thì băng hà. Thế là cuộc tranh chấp liên quan đến việc chọn vị vua kế, đã bùng nổ ra giữa đại nguyên soái Mononobe Moriya và thượng thư Soga no Umako. Nghĩa là đã có một cuộc nội loạn giữa một bên gồm có họ Mononobe và họ Nakatomi, tức là phe tôn thờ thần thánh cổ truyền của Nhật Bản, và một bên muốn nâng Ðạo Phật lên thành quốc giáo, tức là phe gồm có dòng họ Soga làm nòng cốt, xung quanh có nhóm người mới “vào làng” cùng với đám hào trưởng muốn học hỏi văn hóa, kỹ thuật của nhóm người mới “vào làng” này.
Thời ấy, đại đa số các hào trưởng đã ủng hộ phe sùng Phật của họ Soga là vì người Nhật lúc đó, với tinh thần “thời cổ,” đã mong có một chế độ xã hội mới với tiến bộ văn minh có thể tạo ra nhiều của cải, hơn là cái nền chính trị Thần quyền. Nói cách khác, Nhật Bản rõ ràng đã bước từ “thời sơ cổ” sang “thời cổ” vậy.
Trong cuộc nội loạn này, Thái tử Shotoku đã đứng về phe họ Soga và đã đích thân ra chiến trường. Thái tử cho tạc tượng tứ thiên vương để cầu thắng và đã phát thệ rằng nếu thắng trận sẽ dựng chùa thờ phụng tứ thiên vương. Kết quả là thái tử thắng trận và đây là cơ hội cho chùa Tứ Thiên Vương được dựng lên thành quốc tự ở Naniwa.
“Chính quyền liên hiệp” giữa hoàng gia và họ Soga
Thắng trận, diệt xong họ Mononobe thì họ Soga đã tôn Thái tử Hatsusebe lên ngôi, tức là vua Sushun.
Thế nhưng khi lên trị vì, nhà vua gặp phải một mâu thuẫn chính trị sâu sắc. Số là vua Nhật, hay “thiên hoàng”, vốn được kể là dòng dõi Amaterasu Omikami[9], hậu duệ vua Jinmu, theo một truyền thuyết Thần đạo. Nay đã phủ nhận Thần đạo rồi, nên cái tính tất yếu của việc phải để cho con cháu dòng họ “thiên hoàng” lên làm vua, cũng đã mất đi rồi.
Thời đó, văn hóa Trung Hoa lan vào Nhật Bản không phải chỉ có Ðạo Phật mà cả Nho
giáo và Ðạo giáo cũng truyền vào. Phép tu luyện thần tiên, đại diện bởi pháp sư Enno Gyoja, cũng truyền bá vào. Ðương nhiên, cái tư tưởng “cách mạng đổi họ[10],” một tư tưởng chính trị quan trọng của Trung Hoa, cũng du nhập vào.
“Dịch tính cách mạng (cách mạng đổi họ)” là nói trời chọn người có đức cho làm thiên tử. Do đó gọi là thiên mệnh. Con cháu nhờ đức của tổ tiên mà trị thiên hạ. Nhưng sau nhiều đời, đức ấy hết đi, trong hàng con cháu có kẻ thất đức xuất hiện, thì kể như thiên mệnh hết. Lúc đó, trời chọn người họ khác có đức, trao cho thiên mệnh và khiến lập ra triều đại mới. Chẳng qua, “đổi họ để thay mệnh” chính là “mệnh lệnh” của “trời” vậy. Tư tưởng này đã được Mạnh Tử lý thuyết hóa, cũng đã được nói đến trong sách Sử Ký Tư Mã Thiên, là tư tưởng khẳng định cách mạng quá khích độc đáo của Trung Hoa.
Thời Thái tử Shotoku thì ở Trung Hoa nhà Tùy mới thành lập chưa được bao lâu. Ðó là thời đại toàn quốc mới thống nhất sau một thời tao loạn gọi là “thời đại lục triều” hay thời “nam bắc triều,” thì đương nhiên phải có sự thay đời đổi vua. Vì vậy, cái tư tưởng “cách mạng đổi họ, đổi đời” hẳn phải được cổ súy hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh như vậy, Ðạo Phật đã phát đạt và được truyền bá vào Nhật Bản.
Như vậy, tư tưởng “cách mạng đổi họ, đổi đời” không thể không du nhập vào Nhật Bản được. Nói cách khác, cái quan niệm lúc đó coi ai có đức thì đáng làm vua, chứ không câu nệ truyền thống “vạn thế nhất hệ (một họ vạn đời),” quả là cái nguy cơ chồng trứng đối với dòng họ “thiên hoàng.”
Hơn thế nữa, lại có cả dòng họ Soga có thế lực đáng đứng ra thay thế nữa. Thế mà, cái tiền đề cho dòng họ “thiên hoàng” được làm “thiên hoàng,” tức là Thần đạo, đã bị phủ nhận mất rồi, thì cái nguy cơ quả là “nước đã đến chân.” Vua Sushun đã nhận thức được cái nguy cơ này. Vì thế, mặc dầu được dòng họ Soga, tức là phe “sùng Phật” tôn lên làm vua, song nhà vua đã ngả sang phe “bài Phật” vậy.
Kết quả là năm năm sau, vua Sushun đã bị Soga no Umako ám sát. Trong lịch sử Nhật Bản, chỉ có hai vị vua được sử chép là “bị giết,” đó là vua Anko ở thế kỷ thứ V và vua Sushun này. Nói cách khác, họ Soga đã có đủ uy thế đến nỗi có thể ám sát được cả vua.
Sau đó, dòng họ vua đã khổ tâm không biết nên tôn ai lên làm vua. Kết cục, bà cô của Thái tử Shotoku đã lên ngôi năm 592, tức là nữ hoàng Suiko. Ðây là vị nữ đế vương đầu tiên ở Ðông Á.
Vị nữ đế vương đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Trung Hoa, tức là bà Tắc Thiên Võ Hậu (Võ Tắc Thiên) đã xuất hiện vào nửa trước của đời nhà Ðường (bà lên ngôi năm 690), nghĩa là sau bà nữ đế vương Nhật Bản khoảng 100 năm. Ở bán đảo Triều Tiên thì cũng khoảng 40 năm sau Nhật Bản mới có nữ vương, tức nữ vương Thiện Ðức của nước Tân La lên ngôi năm 632.
Lúc đó không phải là dòng họ vua không có người đàn ông nào xứng đáng. Chính Thái tử Shotoku lúc đó đã được 19 tuổi, và ở thời đại đó thì như vậy là trưởng thành rồi, vì so với ngày nay thì tuổi đó tương đương với tuổi trên 30. Ấy thế mà người ta đã để cho một người đàn bà thuộc ba thế hệ trước lên làm vua!
Việc tôn lên ngôi vị nữ hoàng đầu tiên này ở Ðông Á đã để lại dấu tích của cái khổ tâm trong vấn đề nhân sự này. Lợi dụng sự sùng bái phụ nữ từ Amaterasu Omikami để chọn nữ hoàng Suiko, đã cho thấy sự thỏa hiệp phức tạp giữa dòng họ Soga và dòng họ thiên
hoàng. Với dòng họ Soga thì việc chọn nữ hoàng tức là làm cho nhà vua khó cựa quậy, mặt khác việc lựa chọn nữ hoàng tỏ rõ cái ý của dòng họ thiên hoàng, hay đúng ra là của Thái tử Shotoku, không muốn đối lập ra mặt với dòng họ Soga.
Với việc đưa thiên hoàng Suiko lên ngôi, vấn đề nhân sự như thế là xong. Nhưng “chính quyền liên hiệp” này giữa dòng họ thiên hoàng và dòng họ Soga liệu có tốt hay không. Trước hết là vấn đề tôn giáo, vấn đề trọng đại nhất, thì chưa giải quyết được. Giữa lúc đó, thì từ dòng họ thiên hoàng đã thấy xuất hiện một thiên tài. Ðó là Thái tử Shotoku, người đã nắm quyền nhiếp chính năm sau đó, tức là năm 593.
Khởi xướng “tư tưởng gộp đạo” duy nhất trên thế giới
Thái tử là một Phật tử rất ngoan đạo. Như đã nói ở trên, thái tử mộ đạo đến nỗi trong cuộc phân tranh Soga - Mononobe, ông đã cho tạc tượng tứ thiên vương để cầu thắng, và sau khi thắng trận, ông đã dựng chùa Tứ Thiên Vương làm quốc tự. Thêm nữa, thái tử đã theo một cao tăng tên là HuệTừ từ Cao Ly trên bán đảo Triều Tiên qua, học Phật giáo và viết chú giải kinh Pháp Hoa cùng nhiều kinh điển khác. Hơn thế nữa, thái tử còn tạc tượng và hiểu biết tinh tường về kiến trúc Phật giáo. Có thể coi thái tử là nhân vật uyên bác nhất về Ðạo Phật thời đó.
Trên thực tế, thái tử cũng đã đích thân truyền bá Ðạo Phật, đã cho xây chùa Horyuji làm ngôi chùa của chính mình. Mặt khác, năm 15 đời nữ hoàng Suiko, chính thái tử đã viết “Kính Thần Chiếu,” hay là tờ chiếu tôn kính Thần đạo.
Sự nghiệp của thái tử đáng được ghi vào sử sách gồm có, thứ nhất, nghiên cứu và phổ cập Ðạo Phật. Sự nghiệp này gồm có việc dựng chùa, tạc tượng Phật, chế tạo Phật cụ và phát triển biết bao nhiêu kỹ thuật liên quan.
Sự nghiệp thứ hai là chế định những chế độ quốc gia như “Hiến pháp 17 điều,” “quan chế 12 bậc,” v.v., làm nền tảng biến Nhật Bản từ một nước cai trị bởi hào trưởng, thành nước có chế độ quan lại, có tổ chức hành chính hẳn hoi. Ðiều thứ nhất của “Hiến pháp 17 điều” có câu nổi tiếng là “lấy hòa làm quý, không đối nghịch nhau làm gốc. Người ta ai nấy hãy nên có bè phái.”
Nước Nhật ngày nay là nước do quan lại cầm quyền. Thời Thái tử Shotoku chính là lúc chế độ quan lại bắt đầu. Cho đến bấy giờ, chế độ quan lại cũng như chế độ quốc gia đều không có gì rõ rệt cả. Vì thế, việc chế định “quan chế 12 bậc” là biểu hiện của nỗ lực xếp đặt chế độ quan lại vậy.
Vì thế, một mặt thì nói “lấy hòa làm quý,” song ngay sau đó lại dạy người ta rằng “ai nấy nên có bè phái!” tức là từng nhóm hãy lập ra tổ chức của mình đi, rồi cùng nhau làm việc trong sự hòa hợp.
Sự nghiệp hiển hách thứ ba của Thái tử Shotoku là vấn đề ngoại giao mà tiêu biểu là việc gửi sứ sang nhà Tùy, Trung Hoa. Sứ giả đầu tiên được Nhật Bản chính thức phái tới Trung Hoa, đã mang quốc thư với câu mở đầu nổi tiếng là “thiên tử nước mặt trời mọc gửi thư này tới thiên tử nước mặt trời lặn.” Thật là minh bạch, để tỏ rõ lập trường coi Nhật Bản cũng như Trung Hoa hay bán đảo Triều Tiên, đều là một nước riêng biệt, độc lập.
Ngoài ra, hình như thái tử còn toan gửi quân sang chinh thảo nước Tân La (ở bán đảo Triều Tiên). Kế hoạch này bái hoàng tử Kume no Miko, bào đệ thái tử, làm đại tướng tổng tư lệnh, nói là sang yểm hộ nước Bách Tề (cũng ở bán đảo Triều Tiên). Trên thực tế,
hoàng tử đã mắc bệnh, mất đi, nên kế hoạch có lẽ đã chỉ mới là “câu chuyện đầu lưỡi.” Dù sao, dù chỉ là “câu chuyện đầu lưỡi,” nó cũng đã chứng tỏ cái ý nghĩ cơ bản về một quốc gia Nhật Bản thực tại.
Sự nghiệp thứ tư là kế hoạch phát triển khu vực Ikaruga để xây dựng kinh đô văn hóa thay cho kinh đô Asuka. Việc thiên đô tới Ikaruga là muốn tránh sự chi phối của bọn hào trưởng ở vùng Asuka, nhất là của dòng họ Soga. Từ vùng này, thái tử đã cho mở con đường qua bến Naniwa tới Ozaka[11] để trực tiếp thông thương với nhà Tùy, chứ không qua con đường xuyên bán đảo Triều Tiên mà dòng họ Soga có quan hệ mật thiết.
Sự nghiệp này đã không nhất thiết thành công về mặt chính trị và kinh tế, vì nó đã làm cho dòng họ Soga phẫn nộ. Song ngược lại, chính vì vậy, nó càng làm cho thái tử thêm miệt mài vào sự nghiệp văn hóa học thuật, khiến đã để lại những di sản văn hóa tuyệt diệu.
Xem như trên thì thấy Thái tử Shotoku đã để lại sự nghiệp hiển hách trên nhiều lãnh vực. Song, cái ảnh hưởng của thái tử đối với nước Nhật ngày nay đáng nhấn mạnh nhất là sự nghiệp truyền bá Ðạo Phật, bởi chính thái tử cũng vừa là một tín đồ vừa là một nhà nghiên cứu nhiệt tâm, đồng thời, đã thảo ra bài “chiếu kính Thần.” Sự thật này đã được ghi chép trong sách Kojiki (Cổ Sự Ký) và sách Nihon Shoki (Nhật Bản Thư Kỷ). Nhưng, sự xuất hiện trong những sách này xem có vẻ đường đột. Có người nghi rằng sự việc này đã được lồng vào đó một cách vội vã khi người đời sau biên soạn sách đó. Sở dĩ nghi ngờ như vậy là vì nếu xét sự kiện thái tử là một Phật tử nhiệt thành, thì sự việc đó đáng lấy làm kỳ lạ.
Nhưng thật ra, chính đây mới là chỗ bao gồm một quan điểm vô cùng trọng yếu. Ðó là, một mặt thì truyền bá và nghiên cứu Ðạo Phật, mặt khác lại không phủ nhận đạo thờ thần cổ lai của Nhật Bản. Chẳng những thái tử đã soạn ra bài “chiếu kính Thần,” ông cũng không đón bà chị làm Itsuki no Miya tức là “bà từ”, ở đền Ise về. Tập tục từ đời vua Suinin, theo đó mỗi đời vua đều để một công chúa còn trinh lên làm “bà từ” tối cao ở đền Ise, đã được kế tục cho tới đời vua Daigo. Từ vua Minh Trị trở về sau thì chức “chủ tế” đền Ise đều là người hoàng tộc cả.
Nói cách khác, Thái tử Shotoku một mặt nhiệt tâm thờ phụng và phổ cập Ðạo Phật, mặt khác đã không hề có cử chỉ nào đàn áp Thần đạo cả. Trái lại, ông tỏ ra thông cảm Thần đạo, thậm chí lại giúp đỡ nữa. Ðiểm này là yếu tố quyết định quan niệm tôn giáo của người Nhật vậy.
Về mặt cá nhân, Thái tử Shotoku là một Phật tử, song đứng ở địa vị một chính trị gia, và vốn là một người trong hoàng tộc, ông không thể không bênh vực truyền thuyết Thần đạo được. Ðể giải quyết mâu thuẫn này bằng lý luận và luân lý, ông đã nghĩ ra sự kết hợp ba giáo lý Thần, Phật và Nho vậy.
Thái tử Shotoku cũng là một “đứa con của thời đại”. Như đã nói, ông sinh vào thời đại mà Phật giáo du nhập vào, rồi đám “người vào làng” đã cùng với Ðạo Phật đem một nền văn hóa cao độ vào. Làm thế nào hòa hợp những yếu tố mới này với đạo thờ Thần cổ truyền của Nhật Bản? Ðây là vấn đề trọng đại mỗi người Nhật phải đối phó. Thái tử Shotoku đã đối xử và vượt qua được bằng cách khẳng định Thần đạo trong khi vẫn cư xử như một Phật tử trong cương vị cá nhân.
Ðiều này không phải là dễ. Khi một tôn giáo mới, cùng với một nền văn minh tiên tiến, du nhập vào, thì vấn đề làm sao dung hòa được với tôn giáo cổ truyền và với chế độ xã hội
sẵn có, là chuyện có thể xẩy ra ở bất cứ nước nào. Chẳng hạn, Hy Lạp thời cổ cũng đã có một kinh nghiệm tương tự khi đạo Thiên chúa du nhập vào. Họ đã phải đương đầu với vấn đề đối xử thế nào với các thánh của đền Olympos, hoặc tín ngưỡng tôn thờ thần Jupiter. Hay là dân German ở địa phương nay là nước Ðức, cũng đã phải giải quyết vấn đề tôn giáo cổ truyền như thế nào khi đạo Cơ đốc đã từ vùng Ðịa Trung Hải truyền bá tới. Ấn Ðộ cũng gặp phải vấn đề tương tự khi đạo Islam loan truyền tới.
Tuy nhiên, ở những nước này, tư tưởng gộp đạo đã không xuất hiện. Do đó mà chiến tranh tôn giáo đã diễn ra không dứt, nhằm giải quyết vấn đề chọn một giữa hai. Nói cách khác, chính vì họ cố tình đi tìm cái thuần túy trong tôn giáo, nên mới phát sinh ra chiến tranh tôn giáo và sự thù ghét lẫn nhau.
Ngoại lệ duy nhất trên thế giới là Nhật Bản. Ở đây cũng đã có cuộc chiến tranh tôn giáo giữa hai dòng họ Soga và Mononobe. Song, sau đó thì sự đối lập tôn giáo hết hẳn.
Sứ quân Oda Nobunaga đã đốt chùa Hieizan, rồi dẹp loạn Ikko (cũng gọi là Jodo Shinshu). Song đây chỉ là một cuộc tranh chấp nhằm hủy duyệt cái võ lực và sự chiếm đoạt đất đai của nhà chùa, tức là những biểu hiệu của quyền lực trần tục mà môn phái này có trong tay. Không hề thấy dấu vết nào tỏ ra Nobunaga đã đàn áp môn phái Ikko bởi đó là một tôn giáo.
Xung quanh Nobunaga, người ta thấy có nhiều tín đồ môn phái Tendai cũng như môn phái Ikko. Là quân nhân hay là quan lại trần tục, hoặc là tăng lữ mà tỏ ra trung thành với Nobunaga, thì ông không đòi họ phải từ bỏ tín ngưỡng hay đổi đạo bao giờ cả.
Chúa Toyotomi Hideyoshi và dòng chúa Tokugawa sở dĩ cấm đạo thiên chúa là bởi vì họ sợ tôn giáo này thông đồng với nước ngoài làm nguy hại tới chính quyền Nhật Bản.
Ở Nhật, chiến tranh tôn giáo đã mất hẳn, chính là nhờ có bậc thiên tài Shotoku xuất hiện, truyền bá tư tưởng gộp đạo bằng lý luận và tài thuyết phục khéo léo vậy.
Thái tử Shotoku, với việc tiếp nhận Ðạo Phật và nền văn minh tiên tiến do đạo này mang tới, đồng thời khởi xướng tư tưởng gộp đạo làm cho lập trường tôn trọng Thần đạo và truyền thuyết về hoàng gia Nhật cũng đứng vững, hẳn đã làm cho người Nhật thời đó thấy thoải mái.
Nhờ đó, tư tưởng này tức khắc được khẳng định và phổ cập, được gọt giũa thêm cả về mặt tôn giáo lẫn lý luận, để cho tới thời Nara, đã được xác lập thành một hệ tư tưởng hẳn hoi.
Phong cách “hay đâu âu đấy ”
Thái tử Shotoku là nhà tư tưởng lớn duy nhất trên thế giới đã khởi xướng tư tưởng gộp đạo. Tư tưởng này đã ăn sâu vào xương tủy người Nhật cho tới ngày nay.
Người Nhật thời đó muốn tiếp nhận Phật giáo như là một nền văn hóa mới mang từ những nước tiên tiến tới. Họ muốn học hỏi kỹ thuật mới, thời trang mới. Song, phải chối bỏ cái tôn giáo của tổ tiên truyền lại thì họ cảm thấy khó chấp nhận được. Tình trạng này đã có trong lịch sử thế giới biết bao nhiêu lần rồi.
Chẳng hạn, trong lịch sử châu Âu, khi đạo Thiên chúa mới truyền tới, đã có mấy biến
cố lớn xảy ra.
Một linh mục nói: “Nếu không tin chúa Giêxu thì sẽ phải xuống địa ngục!” Một bậc vương hầu German tin lời thuyết giáo này nên có ý định theo đạo thiên chúa. Trước khi quyết định, ông hỏi: “Cha ta không hề biết đạo thiên chúa thì nay ra sao?” Linh mục trả lời: “Hẳn là ở dưới địa ngục!” Nhà vua bèn nói: “Cho dù địa ngục của đạo thiên chúa có đáng sợ đến mấy đi chăng nữa, ta cũng muốn tới nơi cha ta ở!” và bắt đầu đàn áp đạo thiên chúa. Ðã có không thiếu gì những thí dụ tương tự.
Ðạo Phật tuy không nghiêm khắc đến như vậy, song người Nhật thời đó hẳn đã nghĩ tương tự. Do đó, thái tử mới nói rằng dẫu theo Phật giáo cũng không phải bỏ Thần đạo. Người Nhật thời đó một mặt thì thèm khát văn hóa mới, mặt khác lại không muốn phải chối bỏ tổ tiên ông bà, nên đã ồ ạt chấp nhận tư tưởng này. Thần đạo, tôn giáo cổ truyền của Nhật Bản, lại có thể đứng song lập với Phật giáo, một tôn giáo mới, mới từ nước ngoài truyền vào. Ðây là một ngụy biện ghê gớm. Ấy thế mà, Thái tử Shotoku đã cộng thêm cả Nho giáo, coi đây là quy phạm của phép xử thế, và bắt đầu triển khai lý luận giảng giải rằng cả ba đều có thể đứng song hàng với nhau được.
Ở Trung Hoa, tôn giáo bản xứ đúng nghĩa thì không có, mà chỉ có Nho giáo coi như quy phạm xử thế và tư tưởng Lão Trang đối nghịch lại. Sau đó, nghi lễ Phật giáo thêm vào, rồi cả ba hợp lại thành một “tổng thể tôn giáo kiểu Trung Hoa.”
Vì vậy, người Trung Hoa, tuy nói là vừa theo Ðạo Phật vừa theo đạo Nho lại vừa theo cả đạo Lão nữa, song không phải là họ tôn thờ một lúc ba tôn giáo. Ðúng ra, họ tôn thờ một “tổng thể tôn giáo kiểu Trung Hoa”, một hỗn hợp của ba yếu tố tôn giáo đó.
Thói thường khi tin một tôn giáo nào rồi, người ta hay bài xích tôn giáo khác. Nói cách khác, không có cái gì đọa lạc bằng tôn thờ một lúc nhiều tôn giáo. Sự khởi xướng và thực hành của Thái tử Shotoku đúng ra là hành vi sa đọa về mặt tôn giáo. Song ngược lại, đó là bước nhảy vọt về mặt chính trị. Nghĩ ra điều ấy thì dù trong cả thế giới rộng rãi này cũng chỉ thấy có một mình Thái tử Shotoku mà thôi. Không thể có một nhà tôn giáo nào lại dạy người ta tin một lúc nhiều tôn giáo cả.
Do đó, dù Ðạo Phật đã du nhập vào, mà đền Ise vẫn không bị mất tín đồ đi. Hơn thế nữa, nghi lễ “thiên cung[12]” vẫn diễn ra liên miên trong lịch sử, người đi lễ đền Ise vẫn không hề bớt đi.
Khi Ðạo Phật tới, thì chọn lấy chỗ nào hay, còn chỗ nào không thích thì cứ việc bỏ đi. Sau này, đạo Thiên chúa truyền vào, thì những chỗ “vui nhộn”, “bảnh bao” cũng đều được gạn lọc lấy. Chẳng hạn, chỉ có tiệc liên hoan Nôen, lễ cưới ở nhà thờ đã được chọn lấy. Chứ ma chay thì vẫn làm ở chùa, lễ Vu lan thì múa Bon Odori[13], tết nhất thì đi lễ đền. Vừa ngồi “tham thiền nhập định” lại cũng đi “rước kiệu”. Tất cả những cái này người Nhật đều thực hành thoải mái không hề cảm thấy một mảy may mâu thuẫn nào hết.
Ðến tôn giáo mà còn “hay đâu âu đấy,” “chọn chỗ hay, chỗ tốt” thôi, thì bất cứ cái văn hóa nào khác cũng vậy, người Nhật cũng có thể chỉ gạn lấy chỗ hay, chổ tốt mà tiếp nhận. Do đó, thời Minh Trị, khi nền văn minh Tây Âu lan truyền vào, thì tức khắc kỹ thuật cơ khí ưu tú đã được gạn lọc lấy, hệ thống đường sắt, mạng lưới truyền thông đã được thiết trí. Tổ chức nghị viện cũng được áp dụng và chế độ trưng binh cũng được lập ra. Từ kỹ thuật tới chế độ học đường đều theo kiểu Tây Âu.
Thế nhưng, cái tư tưởng tự do, cái chế độ gia đình của Tây Âu thì không được chấp nhận. Cái cách gạn lọc này gọi là “hồn Nhật Bản, tài Tây Âu” rất được ưa chuộng. Chính vì có cái truyền thống tư tưởng như thế, nên người Nhật đã không ngừng tiếp nhận được văn hóa, kỹ thuật mới mẻ của nước ngoài.
Văn minh Tây Âu đã lan tràn ra khắp thế giới từ thế kỷ thứ XVIII tới thế kỷ thứ XIX. Ấn Ðộ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư đều đã tiếp xúc với văn minh Tây Âu trước Nhật Bản từ lâu.
Tuy nhiên, những nước này vốn sẵn có những nền văn minh nguyên bản của họ. Do đó, họ không nghĩ tới “chọn lấy chỗ tốt, chỗ hay” mà lại nhìn vào văn minh Tây Âu bằng con mắt hệ thống hóa. Vì vậy, khi kỹ thuật Tây Âu lan truyền tới, họ đã bắt đầu thảo luận xem nếu tiếp nhận chế độ và kỹ thuật của Tây Âu, thì có làm thay đổi chế độ xã hội, chế độ gia đình, nền chính trị quốc gia của chính họ, hay không. Họ nghĩ rằng “khi chấp nhận đạo Thiên chúa thì phải phủ nhận thần Jupiter,” thành ra họ cho rằng từ vẻ mặt của thành phố tới dạng thức sinh hoạt đều phải đổi hết.
Ðiển hình là Trung Hoa. Trước cuộc Duy tân Minh Trị của Nhật Bản, Trung Hoa đã nếm mùi sức mạnh quân sự hiện đại ghê gớm của đế quốc Anh qua trận chiến tranh nha phiến. Ðương nhiên, nếu muốn trở thành một nước hùng cường thì phải tiếp nhận chế độ quân đội, kỹ thuật quân đội của Tây Âu. Ðã có phái tiến bộ chủ trương phải học hỏi kỹ thuật mới, và phổ cập chế độ mới của Tây Âu. Thế nhưng, lập tức một cuộc tranh luận nóng bỏng bùng lên. Họ đặt câu hỏi “nếu tiếp nhận những kỹ thuật mới đó, thì thôn xóm ta, gia đình ta, nền giáo dục của ta sẽ ra sao?” Kết quả là Trung Hoa đã không dễ dàng tiếp nhận kỹ thuật, chế độ hiện đại của Tây Âu vậy.
Ngược lại, Nhật Bản thì coi việc tiếp nhận văn hóa mới không nhất thiết có nghĩa là phải vứt bỏ nền văn hóa cũ đi. Người Nhật không hề nghĩ rằng, bởi vì đã theo Ðạo Phật nên không được đi lễ đền Thần đạo. Ðó chẳng qua là tiếp nhận thêm một cái hay, thế thôi.
Vi vậy, họ coi “cái đó lý thú,” “cái kia cũng hay” và tiếp tục tiếp nhận thoải mái. Trong tất cả các nước châu Á và châu Phi, Nhật Bản trở thành nước duy nhất đã mau mắn tiếp nhận kỹ thuật hiện đại, chế độ hiện đại, chính là nhờ ở đặc tính này.
Nhìn qua lịch sử Nhật Bản, người ta thấy rằng, nói chung, tuy Nhật Bản học nước ngoài, nhưng chỉ 40 năm sau thôi, người Nhật thường đã làm tốt hơn rồi. Bởi vì người Nhật có lối học rất có hiệu quả. Họ bắt đầu bằng cách mô phỏng nguyên xi, “thầy làm sao, trò làm y hệt như vậy.” Thời Minh Trị, người Nhật học Tây Âu kỹ thuật quân sự, kỹ thuật công nghiệp, rồi trải đường sắt, mắc hệ thống điện tín, nhưng tuyệt nhiên không có ai bàn tán dông dài về vấn đề xã hội, gia đình Nhật Bản sẽ biến đổi ra làm sao. Chẳng có ai coi điều này là nghiêm trọng cả.
Cội nguồn của “xã hội chức lộc”
Cái sáng kiến “chọn lấy chỗ tốt” như vậy, đã có cội nguồn từ tư tưởng gộp đạo của Thái tử Shotoku. Thật ra, thời kỳ cải cách sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai cũng giống như vậy. Tư tưởng gốc của xã hội Nhật Bản thì không đổi đi, song việc dân chủ hóa cái bề ngoài thì xúc tiến, kỹ thuật và mánh lới kinh doanh của Mỹ thì thâu nhận. Do đó, mặc dầu có kỹ thuật, có phương pháp quảng cáo tiên tiến kiểu Mỹ hơn ai hết, song ở Nhật Bản đã sinh ra mộ t “xã hội chức lộc (chức tước và bổng lộc)” độc đáo theo chủ nghĩa tập thể do “quan liêu” (công chức) chỉ đạo.
Ngày nay, xã hội Nhật Bản đã thành một “xã hội chức lộc” trong đó “sở” (nơi làm việc) làm thành một “kết hợp thể,” tức là một vật kết tinh chắc nịch. Có nhiều lý do cho sự việc này. Thứ nhất, Nhật Bản hầu như không có những đoàn thể tôn giáo đóng vai “kết hợp thể” thay cho “sở” được. Với tư tưởng gộp đạo do Thái tử Shotoku khởi xướng, người ta có thể dễ dàng tránh được những luật lệ, nghi lễ tôn giáo phiền toái có phương hại cho hoạt động của “sở.” Cũng chính cái sáng kiến “chọn lấy chỗ tốt” này đã đẻ ra cái bản năng “súc vật kinh tế[14].”
Trong thế giới của những tôn giáo độc thần như Ðạo Do Thái, Ðạo Thiên Chúa, Ðạo Islam, thì mỗi cá nhân trực tiếp đối đầu với vị thần đó. Quan hệ với cá nhân khác, phải là qua trung gian của vị thần đó. Ðiều này thật là khó hiểu đối với người Nhật.
Chẳng hạn, trong hôn lễ, khi linh mục hỏi “Ngươi có nhận người này làm vợ hay không? Ngươi có nhận người này làm chồng hay không? Có chịu thề sẽ vĩnh viễn yêu nhau cho tới chết, hay không?” và khi người bị hỏi trả lời “Xin thề!” thì nhiều người Nhật vẫn hiểu lầm rằng đây là thề giữa hai người trai gái với nhau. Thật ra, đây là thề với Chúa, chứ không phải là thề lấy Chúa làm nhân chứng. Ngược lại, đạo Thiên Chúa có lời răn “ngươi chớ thề thốt” tức là cấm không cho thề thốt lấy Chúa làm chứng cho mình.
Bởi vậy, Công giáo mới không nhìn nhận ly hôn mặc dầu hai đương sự đã thỏa thuận ly dị với nhau rồi. Ðó là vì sự thỏa thuận của hai cá nhân thì không thể xóa bỏ được lời giao ước với Chúa. Ðây chính là cái suy nghĩ cơ bản của đạo Thiên Chúa vậy.
Trong các tôn giáo độc thần thì mọi việc đều là do sự đối đầu giữa Chúa và người. Khi chết, thì chẳng có cha mẹ, vợ con bạn bè nào, cũng chẳng có “công ty,” “cấp trên” nào cả, mà chỉ có một mình duy nhất đứng ra chịu sự phán xét của Chúa. Chính vì vậy mới sinh ra cái suy nghĩ rằng nếu mình không thấy hổ thẹn trước Chúa, thì cho dù có bị bạn bè ghét bỏ cũng chẳng sao. Hơn nữa, dù bạn bè có khuyên nên làm đến mấy đi nữa, song nếu là việc đáng sợ trước Chúa, thì cũng không làm. Bởi vậy mà cái quan hệ người với người bị nhạt nhẽo đi, và thay vào đó, cá tính cùng tính sáng tạo đơn độc mới nẩy nở ra.
Song, người Nhật thì “hay đâu, lấy đó” cho nên hôm nay thề với Phật, mai thề với Chúa, mốt thề với Thần, mà không hề thấy hổ thẹn gì cả. Ngược lại, cái quan trọng là mối quan hệ người với người đang có lúc này. Ðây chính là cái cơ sở tinh thần mà từ đó hình thành cái gọi là “cộng đồng sở,” nghĩa là cái tập thể vĩ đại gồm những “con người xí nghiệp.”
“Con người xí nghiệp” đã hoàn thành trong thời kỳ hậu chiến, nhất là trong khoảng năm 1955 (năm thứ 30 niên hiệu Chiêu Hòa). Trước đó, Nhật Bản là “xã hội máu mủ ruột thịt, dây mơ rễ má.” Thời đó hãy còn có đại gia đình, đại gia tộc. Người ta coi trọng cộng đồng hương thôn, bà con lối xóm. Nếu có kẻ gây tội lỗi thì trước nhất người ta bảo đó là “làm bêu rếu họ hàng,” “làm xấu mặt lối xóm.” Không ai nghĩ rằng kẻ đó đã vi phạm giao ước với Chúa cả.
Nhưng trong thời kỳ phục hưng và tăng trưởng cao độ hậu chiến, thì dân địa phương ồ ạt kéo nhau ra các đô thị lớn. Kết quả là cha mẹ và con cái ở xa nhau ra, người ra ở các đô thị lớn sống rải rác lẻ loi không còn “máu mủ ruột thịt, dây mơ rễ má” nữa. Cái xã hội “bà con họ hàng” của đại gia đình, đại gia tộc bị tan rã. Cái “xã hội địa phương, bà con lối xóm” cũng bị tiêu diệt. Kết quả là người Nhật chỉ còn một nơi duy nhất để có ý thức quy thuộc: Ðó là “sở,” đó là “công ty.”
Ý thức quy thuộc vào tập thể của người Nhật, đã có từ trước thời Thái tử Shotoku. Ðó chính là truyền thống đã làm phát sinh ra Thần đạo từ “xã hội thị tộc” (“xã hội họ hàng”) nguyên thủy. Thái tử Shotoku đã không hủy diệt cái xã hội đó mà lại duy trì nó, bảo tồn nó trong quá trình truyền bá Ðạo Phật. Do đó, người Nhật đã trở nên trung thành với tập thể, đã tạo ra cái gọi là cấu tạo “xã hội bề dọc.”
Ý thức quy thuộc hướng tới đại gia đình, đại gia tộc, cộng đồng thôn xóm trong thời tiền chiến, thì tới thời hậu chiến đã biến thành ý thức quy thuộc đối với cộng đồng “sở.” Ðối tượng có thể đã khác đi hoàn toàn, nhưng tựu trung cái căn bản của sự suy nghĩ vẫn là “coi trọng con người ở ngay tại đó.”
Cái cộng đồng “xóm làng, dây mơ rễ má” của Nhật Bản thời cổ, là tập thể có tính cách sản xuất kinh tế. Cộng đồng xóm làng của Nhật Bản là một xã hội địa vực cùng nhau sản xuất thóc lúa. Ở những nước mà sự phân tranh giữa các sắc dân khác nhau đã xẩy ra kịch liệt, thì xã hội địa vực của họ mang tính cách cộng đồng phòng vệ hơn là cộng đồng “sở.” Xã hội địa vực của Nhật Bản, cơ bản là tập thể của những người cùng cày cấy, cùng sản xuất thóc lúa dọc theo cùng một dòng nước với nhau. Ngày nay, cái xã hội đó trở thành tập thể ở một “xí nghiệp,” một “doanh nghiệp,” một “công sở.” Thế thôi.
Xét như trên, ta thấy trong suy nghĩ của người Nhật ngày nay, trong cấu tạo của xã hội Nhật ngày nay, cũng có mối quan hệ sâu sắc của phong cách “chọn lấy chỗ hay” vốn phát xuất từ “tư tưởng gộp đạo” của Thái tử Shotoku vậy.
Thái tử Shotoku còn là một đối tượng thờ cúng của người Nhật đã từ lâu rồi. Sự thờ cúng thái tử chiếm một vị trí thoải mái trong tư tưởng gộp đạo mà chính thái tử đã sáng tạo ra. Thái tử một mặt cống hiến tố đa cho việc phổ cập Ðạo Phật từ ngoài truyền vào, mặt khác đã có sự nghiệp to lớn là tạo ra cội nguồn của nền văn hóa Nhật Bản. Ngày nay, cái phong cách “gạn lọc lấy chỗ hay,” tức là phương pháp áp dụng văn hóa một cách chọn lọc, chính là ảnh hưởng lớn nhất mà người Nhật tiếp nhận được từ thái tử vậy.
[1] Kodan là một nghệ thuật kể truyện truyền thống của Nhật Bản.
[2] Một nước trong Liên bang Nam Tư.
[3] Gishi Wajinden. Chí là sách chép lịch sử, Ngụy là nước Ngụy, Oải nhân là người Nhật. Vậy Ngụy Chí Oải Nhân Truyện là Truyện Người Nhật trong sách Ngụy Chí.
[4] Tức Tào Phi.
[5] Không liên can gì tới thời Tam quốc bên Trung Hoa.
[6] Thời Meiji, tức là thời Duy tân Minh Trị, hay thời Canh tân Minh Trị, là nói từ khi Nhật hoàng đổi niên hiệu từ Khánh ứng (Keio) thành Minh Trị (Meiji, từ 8/9/1968 tới 30/7/1912), sau khi được chúa Tokugawa trả lại quyền chính trị năm 1967, bắt đầu cho thời kỳ canh tân biến nước Nhật thành một quốc gia công nghiệp hiện đại.
[7] Omuraji, tương đương với hàng đại nguyên soái.
[8] Vua Nhật, tức Thiên Hoàng, vốn được coi là con cháu Thái Dương Thần Nữ (xem lời chú tiếp), không những chỉ là vị nguyên thủ của Nhật Bản về mặt chính trị, mà đồng
thời còn là Giáo chủ của Thần đạo Nhật Bản nữa. Giáo chủ Thần đạo mà tới chùa làm lễ Phật giáo là chuyện khó vậy.
[9] Amaterasu Omikami, quen gọi ở Việt Nam là Thái Dương Thần Nữ.
[10] Dịch tính cách mạng (cách mạng đổi họ) hay Dịch thế cách mạng (cách mạng đổi đời).
[11] Ozaka, nay là thành phố Osaka.
[12] Ðền Ise là đền chính của Thần đạo, mỗi 21 năm lại đổi đền một lần gọi là “thiên cung,” bằng cách khi đền mới xây xong thì các thần tượng, thánh thể được di sang đền mới này, và đền cũ bị phá đi để xây lại trong 20 năm rồi năm thứ 21 lại thành đền mới.
[13] Bon Odori, đây là hình thức múa dân gian vào dịp lễ Vu Lan, rằm tháng bảy.
[14] “economic animal”, do một cố tổng thống Philippines gọi Nhật Bản, có ý chê người Nhật chỉ miệt mài làm kinh tế để làm giàu.
Chương II : Hikaru Genji
Người mẫu chính khách thanh nhã
Hikaru Genji có thật không?
Không cần nói, ai cũng biết Hikaru Genji là nhân vật tưởng tượng, vai chính của Truyện Genji (Genji Monogatari)[1].
Tại sao một nhân vật tưởng tượng lại có thể là một người đã lập ra nước Nhật được? Người như vậy có ảnh hưởng gì tới thời nay? Hẳn có nhiều độc giả cảm thấy lạ lùng, ngờ vực, cho nên chúng tôi xin trình bày điểm này trước hết.
Thời Taisho[2] và Showa[3] có một sử gia tên tuổi, là tiến sĩ Tsuda Soukichi, nổi tiếng với lối nghiên cứu thực chứng. Triệt để gạt bỏ những tình cảm lãng mạn, ông đã thẳng thắn tuyên bố trong tác phẩm của ông rằng những gì viết trong Kojiki (Cổ Sự Ký) và Nihon Shoki (Nhật Bản Thư Kỷ) đều không là sự thật, mà chỉ là huyền thoại. Nói cách khác, trong tác phẩm của ông nhan đề “Nghiên cứu lịch sử đời thần thánh,” ông đã chỉ trích thuyết “thiên tôn giáng lâm[4]” bằng cách nói rằng hai sách Ký Kỷ vừa kể, chẳng qua đã được soạn ra căn cứ vào những tư liệu cổ, “Ðế Kỷ” và “Cựu Từ,” tức là những tư liệu ghi chép lại những truyện cổ lưu truyền trong cung đình nhằm chính đáng hóa chế độ “thiên hoàng,” mà thôi.
Ðến thập kỷ Showa thứ X (1926-1935), ông bị nhóm tôn thờ chủ nghĩa “Nhật Bản quốc túy” phê bình là ông đã “phạm thượng,” đã xâm phạm tới sự “tôn nghiêm của hoàng tộc.” Họ nói “Tsuda viết nhảm, dám nghi ngờ sự hình thành của hoàng tộc.” Họ đã thưa kiện ông về tội vi phạm luật xuất bản.
Rút cục, vì lý do “thời hiệu” nên ông đã được “miễn tố,” song trước tòa án, ông đã có lời biện minh tuyệt diệu như sau: “Truyện thần thoại Nhật Bản không phải là đã kể lại những sự thật lịch sử, nhưng đáng được lưu ý về cấu trúc tư tưởng!”
Nói cách khác, “Mọi người tin là như vậy cho nên về mặt tư tưởng, đó là một cấu trúc không phủ nhận được. Bản thân ông cũng không phủ nhận. Tuy nhiên, đó không phải là
những sự thật đã diễn ra trong lịch sử. Chẳng hạn, trên trời làm gì có đất đai, vì thế làm gì có người từ trên trời rơi xuống! Do đó, đây chỉ là truyện thần thoại, và có là thần thoại thì những lời thuật của Cổ Sự Ký mới đứng vững được.”
Ở vào thời đó thì việc làm của ông như vậy là chuyện không thể tránh được, song đó là một cách nói chạy, nói lẩn tránh khá gò bó. Ðể lấy một thí dụ điển hình chứng tỏ rằng một cấu trúc trong tư tưởng tuy không phải là một sự thật lịch sử, vẫn có thể tồn tại được, tiến sĩ Tsuda đã viện dẫn vai Hikaru Genji.
Nghĩa là, Hikaru Genji là nhân vật tưởng tượng được bịa ra trong Truyện Genji, cho nên Truyện Genji không phải là sự thực lịch sử. Thế nhưng, một chính khách quý tộc “hao hao” như vậy đã có tồn tại ở thời Heian, thì rõ ràng lại là một sự thực.
Trên thực tế, ngày nay không còn thấy có “nhân vật” nào đủ truyền lại được cái mẫu người quý tộc hoặc chính trị gia quý tộc thời Heian như Hikaru Genji nữa.
Với ý nghĩa trên, thì Hikaru Genji là một nhân vật tưởng tượng và sự tồn tại của một nhân vật như vậy không phải là một sự kiện lịch sử. Song có thể nói rằng cái cấu trúc lịch sử có ảnh hưởng tới người Nhật như vậy, thì đã thực sự tồn tại. Ðây là lời thuyết minh của tiến sĩ Tsuda.
Ðúng như vậy, khi chúng ta hình dung con người quý tộc thời Heian, tưởng tượng lối sinh hoạt hay thế giới tinh thần của họ, thì Truyện Genji là đại biểu dễ hiểu nhất. Vì thế, nó đã có ảnh hưởng lớn tới lối suy tư hay tiêu chuẩn giá trị của người Nhật ngày nay.
Bởi thế, nhân vật tưởng tượng do Murasaki Shikibu sáng tạo ra, đã được chọn làm một trong số “Mười hai người lập ra nước Nhật” vậy.
Ðại biểu cho lớp người quý tộc thời đại Heian
Vậy nhân vật chính Hikaru Genji mô tả trong Truyện Genji quá quen biết này, là con người có lai lịch ra sao? So với sự kiện tên Hikaru Genji đã trở nên rất quen thuộc, thì lai lịch, sự tích của người ấy lại ít được biết tới.
Người ta cho rằng Hikaru Genji đã sống vào thời đại cũ hơn thời đại tác giả Murasaki Shikibu chừng vài chục năm. Nói kiểu ngày nay, sự kiện này tựa hồ như việc một tác giả thời hậu chiến viết lại cảnh tượng diễn ra ở thời kỳ đầu của đời vua Showa (niên hiệu Showa: 1925-1989) vậy. Có khác chăng là thời ấy không có sự tăng trưởng kinh tế cao độ, không có những biến đổi kỹ thuật, nên dạng thức sinh hoạt không thay đổi mấy. Nói về niên hiệu thì đó là lúc niên hiệu Engi (đọc là ên-ghi, 901-923) đổi sang niên hiệu Tenryaku (947-957), nghĩa là khoảng từ năm 901 tới năm 957. Truyện Genji lấy thời đại đó làm sân khấu, đã có vài nhân vật tưởng tượng chủ yếu như sau xuất hiện.
Trước hết là vua Kiritsubo. Người con trai thứ hai được nưng như trứng hứng như hoa của nhà vua, chính là hoàng tử Hikaru. Thân mẫu của cậu tuy là cung nữ của vua Kiritsubo, song vốn xuất thân hèn hạ, nên cậu bị giáng xuống hàng thần hạ mang họ Genji. Rồi vì đẹp trai, cậu được gọi là Hikaru Genji[5]. Cậu yêu hết cô gái nọ tới cô gái kia, rồi sau cùng rơi vào mối tình đau khổ với một người đàn bà giống địa vị mẹ cậu là cung nữ Fujitsubo. Mà Fujitsubo lại là ái phi của vua cha. Cuộc tình ngang trái đã sinh ra một hoàng tử “hoang.” Người con hoang này lại được nuôi làm con vua Kiritsubo rồi sau này lên ngôi thành vua Reizei.
Về sau, người anh khác mẹ của Genji lên ngôi, tức là vua Suzaku, thì sau khi vua Kiritsubo mất đi, Genji bị ngược đãi và bị lưu đầy hai năm ở vùng Suma, Akashi. Ðây là “đoạn Suma - Akashi” mô tả hoàng tử trong cảnh bất hạnh.
Thế rồi vua Suzaku và mẫu hậu, tức là bà thái hậu Hoằng Huy Ðiện[6] lâm bệnh, nên thế lực yếu đi và nhờ đó, Genji mới về kinh được và lại nắm được quyền hành ở trung ương.
Sau đó, ở địa vị người săn sóc ấu chúa Reizei, Genji đã lần lượt thăng chức tới Naidaijin[7], rồi Dajodaijin[8]. Ngày một có thêm vây cánh, Genji mới xây dinh thự riêng cho mình đặt tên là Rokujo-in. Rồi Genji cho người mình sủng ái nhất tức là Murasaki no Ue, cùng những người đàn bà khác đã có quan hệ với mình, ở đó. Ðịa vị của Genji lên tới bậc tương tự như thái thượng hoàng. Ðến đây là hết phần Một của truyện.
Trong phần Hai, Hikaru Genji ở tuổi sơ lão đã tái hôn với công chúa thứ ba, con gái cưng nhất của Suzakuin[9], rồi dần dần về già. Ở đoạn này, Genji trở thành một nhà chính trị có quyền lực lớn.
Trong phần Ba thì con trai của Genji là công tử Kaoru xuất hiện, song ở đây chỉ có Hikaru Genji được chọn, coi đó là người mẫu của lớp nhà chính trị quý tộc thời đại Heian.
Vậy thì, lớp người quý phái thời đại Heian kể từ niên hiệu Engi tới niên hiệu Tenryaku sinh hoạt trong trạng thái như thế nào.
Trước thời này là thời Nara, thời đại mà các hào trưởng lấy hoàng tộc làm trọng tâm cho cuộc tranh giành quyền lực với nhau trong quá trình thành lập của chế độ tập quyền trung ương.
Nhưng sang tới thời Heian, thì nhà vua được đôn lên trên “mây” và ở dưới thì dòng họ Fujiwara trở thành trung tâm quyền lực của cái gọi là thời đại quý tộc. Giới quý tộc này có trang ấp, đồn điền, nông trại ở khắp nước. Quyền quản lý các trang ấp như vậy được trao cho đám quản gia mà sau này trở thành võ sĩ[10]. Các địa chủ không sống ở trang ấp mà chỉ ngồi mát thâu hoa lợi hàng năm.
Ðám quản gia này được các quý tộc ủy thác cho quyền hành, đã dùng bạo lực bóc lột chiếm đoạt quá nửa hoa lợi, coi đó là phí tổn quản lý.
Quý tộc và quản gia như vậy là có quan hệ nương tựa lẫn nhau. Sự kiện này tương tự như quan hệ ngày nay giữa những bà quả phụ thừa hưởng tài sản chứng khoán lớn với đám người kinh doanh đắc lực vậy.
Nói như vậy không phải là giới quý tộc thời Heian chỉ ngồi chơi xơi nước. Ngược lại, tuy ở kinh đô, họ có nhiệm vụ “chính trị” trọng yếu là đảm đương việc quốc chính, dẹp loạn. Vấn đề là nội dung công tác “chính trị” đó của họ.
Việc làm của một chính khách quý tộc
Thời đó, Nhật Bản có tổ chức triều đình rập khuôn theo kiểu nhà Ðường bên Trung Hoa nên có thể chế luật lệnh đàng hoàng. Ở dưới chức Dajodaijin thì có Sadaijin[11], Udaijin[12], Dainagon[13], Shonagon[14], v.v.. Những quan chức lớn này thì chỉ có dòng dõi nhà vua, hoặc con cháu bốn họ Gen Pei Tô Kitsu[15], đảm đương mà thôi.
Vậy thì, nền chính trị do những người này nắm giữ là như thế nào? Từ tướng quốc trở xuống, các nhà chính trị quý tộc này làm gì? Những điều này được thấy rất rõ ở nhân vật Hikaru Genji.
Như đã kể ở trên, Hikaru là con vua, và nhờ đẹp trai nên chàng đã yêu hết người này tới người khác. Trong khi đó, địa vị của chàng cũng tăng dần lên. Song lúc vua cha mất đi thì chàng bị lôi cuốn vào cuộc tranh giành quyền lực giữa các nhà quý tộc, rồi bị lưu đày ra xứ Suma, xứ Akashi.
Ở trong tình huống này, ai chẳng chán ngán cho cái không may của mình và oán hận những kẻ địch chính trị của mình? Hoặc, để trở lại chính trường, ai chẳng sẽ triển khai cuộc vận động chính trị, trình bầy đường lối chính trị của mình và kết nạp đồng chí? Nhưng Hikaru hầu như chẳng làm gì cả! Trong cả tập truyện dài như vậy, người ta không hề thấy gì viết về chính kiến của Hikaru, về chính sách mà Hikaru muốn thực hiện, mặc dầu Hikaru đã làm quan đại thần lâu năm và đã leo lên tới địa vị tướng quốc.
Ngay cả sự kiện Hikaru được gọi từ vùng lưu đày Suma - Akashi về kinh rồi lại làm quan to nữa, cũng chẳng phải là kết quả của một cuộc vận động chính trị nào cả, mà chỉ do một sự thay đổi bè phái ở kinh đô mà thôi.
Tuy nhiên, “đoạn Suma - Akashi” kể lại cuộc sống trong thời kỳ bị lưu đầy, thì lại có rất nhiều điểm đáng tham khảo. Một điểm là ngay trong trạng huống bất hạnh như vậy mà Hikaru vẫn không hề bị trụy lạc, không hề làm phản!
Xa kinh đô, buồn về đời sống nhà quê tẻ nhạt, Hikaru đã than khóc nỗi niềm nhớ kinh đô và cảnh ngộ phải kéo dài cuộc sinh hoạt chán nản này, nhưng không hề có ý định làm phản, cũng không hề oán hận gì cả. Quý tộc thời đó sống biệt lập với những thành phần khác, và chỉ đắm chìm trong thế giới của ý thức thiện mỹ để khắc phục cái bất mãn của mình. Ðây mới chính là lối sống quý tộc thời đó, mới là nguyên gốc của cái “thanh nhã Nhật Bản” cho tới ngày nay.
Hikaru sau hai năm lưu đày ở vùng Suma - Akashi trở về kinh thì lại càng nắm được địa vị trọng yếu hơn trước. Ðến nỗi, chàng đã leo lên tới bậc tướng quốc, tức là tương đương với chức thủ tướng ngày nay. Hơn thế nữa, là tướng quốc, chàng còn làm Chuẩn Thái thượng hoàng kia.
Là một nhà chính trị ở địa vị cao sang như vậy mà đọc suốt “Truyện Genji” ta không thấy Hikaru làm gì “có vẻ chính trị” cả. Trong cả tập truyện dài của Murasaki Shikibu người ta không thấy nói gì tới vấn đề ngoại giao, quốc phòng hay trị an nào cả. Cũng chẳng thấy có cục diện nào thảo luận về vấn đề tài chính hay chế độ thuế khóa. Thế mà, người đọc vẫn không lấy thế làm lạ lùng, kỳ cục. Ngược lại, người ta gật đầu nhìn nhận rằng, với quý tộc thời Heian thì có khi như vậy là phải.
Nhật Bản ở thời kỳ này về mặt “công,” thì đường lối “bế môn tỏa cảng” được áp dụng, sau khi bỏ lệ gửi sứ sang nhà Ðường, do đề nghị của Sugawara Michizane.
Kể từ khi Thái tử Shotoku bắt đầu gửi sứ sang nhà Tùy, rồi khi nhà Ðường thay thế nhà Tùy, thì thông lệ gửi sứ sang Trung Hoa đã kéo dài trong suốt thời đại Nara cho tới đầu thời đại Heian. Song từ năm 857, nhà Ðường có nội loạn và không thấy có tiến bộ nữa về mặt kỹ thuật cũng như văn hóa trước con mắt người Nhật thời đó, nên việc gửi sứ sang đó đã bị gián đoạn lâu năm. Cho tới năm 894, Sugawara Michizane mới đề nghị rằng “dẫu có
sang nhà Ðường, thì cũng chẳng mang được gì về đáng cho ta học hỏi,” nên lệ gửi sứ sang Trung Hoa đã bị bãi bỏ hẳn.
Trên thực tế, từ loạn Vương Tiên Chi - Hoàng Sào năm 875 trở đi, thì Ðường triều bị suy thoái dần và rơi vào tình trạng nội loạn liên miên, khiến mất cả năng lực thống suất. Cho nên dẫu cho có tới kinh đô Trường An đi chăng nữa thì cũng chẳng mang về được văn vật nào đáng kể cả! Ít nhất đây cũng là cái nhìn của người Nhật thời đó. Thực ra, thời kỳ gọi là “Ðường mạt ngũ đại” này mới chính là lúc sắp thoát thai của đời Tống, thời kỳ “cận hiện đại” với những kỹ thuật mới như “than đá,” “kim nam châm,” “thuốc nổ,” v.v.. Thế mà người Nhật quý tộc thời Heian đã hoàn toàn không quan tâm tới những kỹ thuật công nghiệp như vậy.
Ở trong nội bộ nước Nhật thì thời đại đó chẳng phải là thời đại thong dong gì cả. Quyền thế và võ lực của giới quý tộc Heian đã yếu đi, khiến miền đông thì có loạn Taira no Masakado (935-940), miền tây có loạn Fujiwara Sumitomo (938-941). Hikaru Genji đã lên làm tướng quốc trước đó, song vẫn sống bình thản chứ không thấy lo lắng gì về vấn đề trị an hoặc tài chính cả.
Ấy thế mà, cả người đọc cũng như người bình luận “Truyện Genji” đều hiếm có ai phê bình Hikaru là nhà chính trị vô vi vô tài. Ngược lại, sự kiện những vấn đề hiện thực như trị an hay tài chính thì không phải do giới quý tộc trực tiếp nắm giữ, mà đã được giao phó cho các quản gia ở trang ấp, tức là những người sau này trở thành giai cấp võ sĩ samurai, là điều coi là đương nhiên vậy.
Ðiểm gốc của khái niệm “thanh nhã”
Vậy thì, công việc của người quý tộc thời đó trong chính phủ trung ương do họ chi phối, là gì? Công việc lớn nhất của họ là tiêu dùng tiền thuế do những người quản lý nông trại đã trưng thu, vào những phí tổn ở kinh đô cho việc cử hành những nghi thức Phật giáo hay Thần đạo nhằm truyền bá cái phong thái, cái dạng thức của nhà nước ra toàn quốc, với mục đích giữ được cái phong cách Nhật Bản, duy trì được sự thống nhất nhân tâm và văn hóa trong toàn quốc. Vấn đề trị an hay duy trì sản vật và ngành nghề của địa phương nào thì ủy thác cho quyền tự trị của địa phương ấy.
Thời Nara, họ cho mở nhiều đường quốc lộ, cho dựng chùa Quốc Phân Tự[16] ở mỗi địa phương để hoàn thành chế độ tập quyền trung ương. Ðến thời Heian thì quyền hành trung ương bị yếu dần đi, làm cho nền tự trị địa phương biến thành nền “phân lập” (độc lập) địa phương.
Chẳng hạn, ngày nay khi người ta làm một đường cao tốc và nếu người ta quy hoạch một cách hợp lý thì hầu như con đường đó luôn luôn trùng với quốc lộ ngày xưa. Nói cách khác, thời xưa người ta đã lập ra một quốc gia cổ đại với những con đường đáng được gọi là “đường viên đạn” chạy từ kinh đô Nara ra khắp nơi trong nước.
Nhưng đến thời Heian thì những con đường này mất khí thế, rất hiếm người đi lại nữa vì sự di chuyển trên những con đường này trở nên mất thời gian và nguy hiểm. Nói cách khác, Nhật Bản dần dần bước sang thời trung cổ.
Do đó, quyền hạn và quyền lực của chính phủ trung ương bị giảm đi, “giá trị” của chính phủ cũng không lấy gì làm “đắt” cho lắm nữa. Mỗi địa phương đều được phân quyền và lập ra một chính phủ nhỏ bé của mình. Việc làm của các chính trị gia quý tộc chủ yếu là
duy trì những nghi thức tôn giáo có tính cách quốc gia để làm mô phạm cho ý thức thiện mỹ của toàn quốc. Có thể nói một cách cực đoan rằng nước Nhật thời đó đã được bảo tồn nhờ một ý thức thiện mỹ chung vậy. Chính ở thời kỳ như vậy mà Hikaru Genji, ở địa vị một chính trị gia, đã làm một “cấu trúc trên mặt tư tưởng.”
Chính phủ trung ương thời đại Heian là một “chính phủ nhỏ,” song việc thu thuế để duy trì một chính phủ nhỏ như vậy cũng không dễ dàng gì. Truyện Genji có những đoạn mô tả cảnh biệt thự hoang tàn của những bậc công khanh nghèo nàn hoặc những nhân vật quý tộc đã suy đồi. Hikaru Genji làm tướng quốc mà không thấy nghiêm chỉnh thảo luận vấn đề cứu tế những nhà quý tộc suy đồi đó. Ngược lại, thái độ của ông là xa lánh, hoặc dẫu có nhìn thấy cũng làm ngơ trước những nhân vật quý tộc đáng thương đó. Ðương nhiên là với thứ dân, ông cũng làm như vậy. Cá nhân ông thì có coi những cảnh tượng đó là tội nghiệp thật, song với tư cách chính trị gia, ông đã không hề nghĩ đến một chính sách phúc lợi nào cho họ.
Tướng quốc Hikaru Genji đã chỉ miệt mài vào thế giới của ý thức đẹp, ý thức thẩm mỹ. Thơ ca hoặc trang phục, cử chỉ hoặc sự xếp đặt chỗ ngồi trên dưới trong nghi lễ, thì thấy thảo luận rất nhiều. Rồi yêu đương và tranh giành trong quan hệ với nữ giới cũng thế. Thật ra, nếu nghĩ rằng chính trị chẳng qua là vấn đề bè phái, vấn đề máu mủ ruột thịt, thì yêu đương nhau cũng là vấn đề chính trị trọng yếu chăng.
Ngày nay, nếu các nhà chính trị không màng gì đến ngoại giao, tài chính, mà chỉ miệt mài với thẩm mỹ, thì sẽ ra sao? Không chừng, bọn quan liêu (công chức), tức là những người tương đương với đám quản gia thời Heian xưa, lại làm cho mọi việc chạy trơn chu hơn cũng nên. Trước đây đã có một thủ tướng Nhật Bản chỉ bận tâm tới cách quàng khăn cổ trong buổi hội kiến với tổng thống Mỹ. Biết đâu ông thủ tướng ấy chẳng là “hậu duệ” của các nhà quý tộc thời Heian? Và nếu nghĩ như vậy, người ta có thể sẽ gật đầu nghĩ thầm: “chí lý!”
Có điều lạ lùng là riêng với nhân vật Hikaru Genji này, thì dù chẳng làm chính trị gì cả, mà không thấy có gì đáng ghét, không bị nghĩ là ngu. Gần đây, từ lập trường nhân quyền của phái nữ, hình như có nhiều người cảm thấy ghê tởm Truyện Hikaru Genji bởi vì có quá nhiều phụ nữ xuất hiện trong truyện. Song ngay với những người như vậy, thì vai chính trị gia Hikaru Genji cũng không đến nỗi bị người ta ghét bỏ. Ðây âu cũng là bởi chàng vốn có “đức” chăng?
Truyện kể Hikaru Genji làm nhân vật điển hình của lớp người quý tộc Heian và được mọi người Nhật biết cho đến ngày nay. Nếu trong lịch sử không có Hikaru Genji, nghĩa là nếu bà Murasaki Shikibu không viết ra Truyện Genji, thì ngày nay chúng ta làm sao biết được chi tiết như vậy về địa vị, về lối sống của lớp người quý tộc Heian.
Thế rồi cái đó đã trở thành hình ảnh của giới quý tộc, hay hơn thế nữa, thành điểm gốc của khái niệm “thanh nhã” của Nhật Bản. Người Nhật thì ngay ngày nay cũng vậy, vẫn chấp nhận những người như Hikaru Genji, dù chỉ là chấp nhận với điều kiện nào đó. Sự kiện Hikaru Genji vẫn có ảnh hưởng lớn tới cách sống hoặc cách đánh giá trong xã hội của người Nhật ngày nay, đủ chứng tỏ Hikaru Genji đáng được đếm là một trong số “Mười hai người lập ra nước Nhật” vậy.
Sự xuất hiện của chính trị gia kiểu “Hikaru Genji”
Ảnh hưởng của “chính trị gia chằng làm gì cả” kiểu Hikaru Genji, đã hiện ra ở đâu và
như thế nào trong nước Nhật ngày nay?
Trước nhất là sự phát sinh ra mô hình “chính khách quý tộc kiểu Nhật Bản,” hay là loại “người thanh lịch.”
Ðúng vậy, ở nước Nhật này, thỉnh thoảng người ta lại thấy xuất hiện những chính trị gia kiểu Hikaru Genji. Nghĩa là loại chính trị gia trông tốt mã, tốt người, song chẳng làm gì đáng gọi là làm chính trị, thậm chí chẳng muốn làm gì, chẳng quan tâm gì, chẳng hiểu gì về thực chất của việc chính trị, tài chính phải làm cả.
Ðiển hình là Konoe Fumimaro, người đã lập nội các năm 1937.
Konoe Fumimaro cao 1m 80, ở thời đó như vậy là cao vượt bực, với vóc người hết sức bảnh bao. Ông để râu mép, mặt mũi thanh tú. Hơn tất cả nữa, ông lại là con dòng chính thống của họ Fujiwara, đồng thời lại là công tước. Thật quả là một chính khách quý tộc chính hiệu.
Lúc đó Nhật Bản đang ở vào thời kỳ vô cùng khó khăn: Từ vụ Mãn Châu qua diễn biến 26 tháng 2[17], Nhật Bản đang bị cô lập hóa trên trường quốc tế và tình hình quốc nội thì rối beng. Ðúng lúc đó thì từ mọi giới nổi lên như cồn lời kỳ vọng: “Ngoài Konoe ra, chắc không còn ai có thể trị nổi nước Nhật hiện nay!” Ðúng là người ta đang muốn tìm ở Konoe hình bóng một Hikaru Genji vậy.
Nhiều chính sách được đề ra, nào phong trào Thể chế mới, nào luật Tổng động viên toàn dân, v.v.. Tất cả đều chỉ là những khẩu hiệu, những phiêu ngữ rộng tuếch, không ra ngoài phạm vi ý thức về vẻ đẹp. Dưới quyền một thủ tướng vô vi vô tài như vậy, nền chính trị thực tế là do quân nhân và quan liêu (công chức) thực thi. Thật đúng là phó mặc cho quản gia. Ấy thế mà dân chúng chẳng ai phê phán, chẳng ai chê bai gì cả, đến nỗi Konoe được làm thủ tướng đến ba lần.
Tiếng tăm của Konoe không hề bị suy giảm mặc dầu ông không hề thực sự làm chính trị, chỉ lạm phát khẩu hiệu và làm điệu bộ thôi. Nội các Konoe thứ nhất đã làm cho chiến tranh Nhật-Hoa sa vào bùn lầy, rồi ông buông bỏ chính quyền mà cũng chẳng bị ai chỉ trích gì cả. Ðến năm 1940, ông lại đứng ra lập nội các thứ hai. Với chiêu bài thúc đẩy phong trào Thể chế mới, ông đã lập ra Hội Ðại chính Dực tán, theo đó mọi chính đảng đều giải tán, và tất cả nghị viên đều vui lòng đặt mình dướI quyền chỉ huy của chính trị gia vô vi vô tài Konoe này!
Vì Konoe không có tài chỉ huy, nên thực tế vấn đề chính trị đã phó mặc cho quân nhân Bộ Lục quân, quan chức Bộ Nội vụ và Bộ Kho bạc thao túng. Kết quả là Nhật Bản đã bị lôi cuốn vào trận chiến tranh Thái Bình Dương.
Thực ra, tội của Konoe đối với việc đưa Nhật Bản mạo hiểm vào trận chiến tranh thế giới trước, là vô cùng nặng.
Thứ nhất, trong đợt nội các thứ nhất (lập ra năm 1937), Nhật Bản đã khởi đầu cuộc chiến tranh Nhật-Hoa. Hơn thế nữa, năm 1938, nội các này đã tuyên bố: “Không thèm bắt tay với Tưởng Giới Thạch,” khiến làm mất cơ hội đình chiến. Dĩ nhiên, đây là vì Bộ Nội vụ, tức là nhà đương cục công an lúc đó, chứ không phải quân đội, đã phản đối với lý do rằng “Nếu thỏa hiệp với Tưởng Giới Thạch thì không thể kiềm chế được bạo động của những nhóm hữu khuynh,” song Konoe làm thủ tướng đã không thuyết phục nổi đám quan liêu Bộ Nội vụ, cũng không cất chức họ đi.
Trong thời kỳ nội các Konoe thứ hai, thì Nhật Bản đã kết bè với Ðức, Italia thành phe trục Nhật - Ðức - Italia. Thế rồi năm 1941, tức là thời nội các Konoe thứ ba, thì một mặt Nhật Bản tuyên bố “Phản đối việc khai chiến Nhật-Mỹ,” nhưng mặt khác mỗi ngày lại có những hành vi gây hấn như chiếm đóng Ðông Dương thuộc Pháp chẳng hạn. Thế rồi đến lúc không còn làm gì khác hơn được là phải nhảy vào vòng chiến, tức là tháng 10 năm 1941, thì nội các Konoe tổng từ chức, nhường bước cho nội các của Ðại tướng lục quân Tojo Hideki.
Ai cũng biết rằng chính nội các Tojo đã bắt đầu cuộc chiến tranh. Lại nữa, ai ai cũng biết rằng Tojo Hideki, Bộ trưởng Lục quân trong nội các Konoe thứ ba, chính là phe chủ chiến. Thế nhưng, làm cho quan hệ với Mỹ bị hỏng một cách tuyệt vọng khiến không còn con đường nào khác hơn là chiến tranh, chính là trách nhiệm của nội các của Konoe Fumimaro vậy.
Mặc dầu có trách nhiệm là đã gây nên sự kiện lớn lao như vậy, song sự ngưỡng mộ của dân chúng Nhật đối với Konoe vẫn không hề suy giảm. Năm 1945, Konoe tâu vua Nhật cho mình sang Liên-Xô cầu hòa, làm như chính mình không hề có trách nhiệm gì về cuộc chiến tranh cả. Ðây chính là thái độ thường có của các chính trị gia quý tộc Nhật Bản như được đại biểu bởi Hikaru Genji vậy.
Thời nay cũng thế, ở Nhật Bản người ta vẫn quan niệm rằng, người đứng trên chóp bu thì không nên để tâm đến những tiểu tiết, nên có thái độ phó mặc cho bề dưới muốn làm sao cho tốt thì làm. Ðây chính là hiện tượng đã khởi nguồn từ từng lớp quý tộc thời Heian, được Hikaru Genji đại diện vậy.
Tính cách vô lãnh đạo của “Chủ nghĩa tập thể”
Cùng thời với Konoe, người ta thấy có các nhà lãnh đạo ngoại quốc như Hitler, Churchill, Stalin, người nào cũng quan niệm trách nhiệm và quyền hạn của mình một cách rất tỉ mỉ.
Tổng thống Mỹ Roosevelt cũng vậy, khi bắt đầu vào cuộc chiến, ông đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia để biết cần bao nhiêu chiến hạm, cần chế tạo loại xe tăng nào, v.v., và chính ông tự mình quyết định. Churchill cũng vậy, Mao Trạch Ðông cũng vậy.
Thời Ðại chiến thứ nhất, thủ tướng Anh Lloyd George, thủ tướng kiêm bộ trưởng Lục quân Pháp George Clémenceau nổi tiếng độc tài, đã chính mình đứng ra chỉ huy chiến trận. Hơn thế nữa, Lloyd George còn bất chấp sự phản đối của hải quân thời đó, đã cho thành lập đoàn tầu có hộ tống. Kết quả là phương án này đã thành công lớn lao, đã ém được sự tấn công bằng tàu ngầm của Ðức. Chịu nghe ý kiến của các chuyên gia, song chính mình hạ quyết định cuối cùng. Ðó là thái độ của các chính khách ngoại quốc.
Dù là chủ nghĩa quân phiệt, hay là chủ nghĩa dân chủ, thì người đứng ở chóp bu cũng phải nhận trách nhiệm ra quyết định. Ðó là bổn phận của kẻ lĩnh lương cao nhất vậy.
Nếu là một tập thể nhỏ của một xí nghiệp, thì điều này càng thấy quyết liệt hơn. Xí nghiệp ở Mỹ hay ở châu Âu thì nguyên tắc là kinh doanh độc tài bởi một cá nhân. Mọi việc đều phó mặc cho người có trách nhiệm kinh doanh tối cao. Kinh doanh có kết quả tốt, thì tổng giám đốc, mặc dầu cũng chỉ là người lĩnh lương, sẽ nhận được thù lao to lớn. Song, ngược lại, nếu kinh doanh không suôn sẻ, thì tức khắc bị giải nhiệm. Nói cách khác,
chính mình nhận tất cả trách nhiệm mà hạ quyết định. Ðó là bổn phận của kẻ ngồi trên chóp bu vậy.
Tuy nhiên, ở Nhật thì người ta quan niệm rằng người ở địa vị cao không nên câu nệ chuyện nhỏ nhặt. “Chỗ đó, tụi bay liệu mà làm cho tốt!” hoặc “Khi nào phương án của văn phòng thảo xong, thì cho tao biết!”… Ðó mới đáng mặt kẻ làm lớn, kẻ “sang,” kẻ “ăn trên ngồi trốc.”
Sở dĩ có sự khác biệt như trên là vì, quý tộc Âu Mỹ vốn là võ tướng, lúc nào cũng sống trong tình trạng chiến tranh cướp giựt lãnh địa, trang ấp của nhau. Chứ quý tộc Heian của Nhật phải chăng chỉ là những “văn nhân” trong triều đình, kiểu Hikaru Genji?
Cái phong cách “người sang,” “người làm to” ngồi trên chóp bu thì không nên chi li, đã có ảnh hưởng trọng đại đối với sự hình thành xã hội ngày nay của Nhật Bản. Người ngồi trên không lãnh đạo gì cả, cho nên mới sinh ra hình thức quyết định tập thể của đông đảo người ở cấp dưới. “Chủ nghĩa tập thể” mới nghe thì hay lắm, song thật ra đó là hình thức thiếu lãnh đạo, mạnh nhóm nào nhóm ấy quyết định theo ý riêng, khiến dễ sinh ra tình trạng không còn biết trách nhiệm ở đâu nữa.
Thời kỳ tao loạn, chẳng hạn thời kỳ “chiến quốc,” thời kỳ “Duy tân,” thì cần có những người lãnh đạo mạnh. Nhưng thời bình thì tức khắc xuất hiện hiện tượng chối bỏ quyền lãnh đạo, khiến phát sinh ra cơ cấu “làm quyết định (decision making) theo chủ nghĩa tập thể.” Kể từ Hikaru Genji trở đi, đã sinh ra truyền thống theo đó nhân sĩ thượng lưu không nhúng tay vào thực vụ, người “thanh nhã” thì “không giám sát, không chỉ huy” người khác.
Ở thế kỷ XX, sau trận chiến tranh thế giới thứ hai, người ta cũng thấy xuất hiện nhiều nhà lãnh đạo có cá tính mãnh liệt trong giới chính trị cũng như trong giới kinh doanh. Họ nghĩ ra những chính sách mới, khởi đầu những doanh nghiệp mới, và có nhiều trường hợp đã thâu được thành công lớn.
Thế nhưng, ba chục năm sau chiến tranh, tức là từ khoảng giữa những năm 1970 trở đi, thì cả ở trong giới chính trị lẫn trong giới kinh doanh, không còn những người có tinh thần khởi nghiệp nữa, mà chỉ còn những người vô lãnh đạo thường được gọi là kiểu “người điều hợp” (coordinator). Cái gì cũng chủ trương “thôi thì mọi người cùng quyết định” là tốt.
Mọi người tụ tập nhau lại, “quyết định” phiên phiến theo bầu không khí, hay nói đúng ra là có “cảm giác” đã quyết định. Chẳng phải là có ai đã nói thế này, đã nói thế khác, cũng chẳng phải đã có quyết định đó từ đâu rồi, mà thật ra chỉ là “vì không có ai phản đối cả” hoặc “trong phiên họp đó, không có ai bàn ra tán vào gì cả, nên phương án do văn phòng đề ra đã được thông qua.”
“Lãnh đạo tập thể” và “quyết định theo tinh thần tập thể,” là hai việc khác nhau hoàn toàn. Lãnh đạo tập thể là một tổ chức rõ rệt gồm mấy người hoặc mấy chục người (chẳng hạn hội đồng nội các, hội đồng quản trị công ty) làm quyết định, rồi chỉ thị xuống cho cấp dưới thi hành. Còn quyết định theo tinh thần tập thể, chẳng qua là sự thiếu sót hẳn một cơ cấu có quyền làm quyết định, cho nên việc quyết định đã phải dựa vào bầu không khí của toàn thể tổ chức hoặc vào cảm tính của toàn thể thành viên của tổ chức. Do đó, những người làm công tác “tạo bầu không khí” phải họp thường xuyên, “mặt đối mặt” để trao đổi “Tình huống lúc này là thế nào?” “Bầu không khí lúc này là thế nào?”
“Phòng xalông” của Hikaru Genji mô tả trong “Truyện Genji” chính là để tạo ra cái bầu không khí như vậy. Ðủ hạng người ra vào đó, ngâm thơ, ngắm trăng,…và từ đó đã tạo ra cái bầu không khí chính trị của Nhật Bản vậy.
Hình thức “phòng xalông” như trên, ngày nay cũng được giới chính trị và giới kinh doanh bắt chước. Xí nghiệp bỏ ra kinh phí rất lớn cho việc giao tế, du lịch giao thông, cơ sở phúc lợi.
Theo thống kê thuế vụ năm 1994, thì giao tế phí tổng cộng của toàn thể xí nghiệp tư doanh Nhật Bản là 5.487 tỷ đồng Yen. Sau khi “bong bóng kinh tế” bị xẹp, người ta đã thắt lưng buộc bụng nên đã giảm bớt kinh phí như vậy được 870 tỷ đồng Yen so với năm 1992. Song, so với Mỹ, kinh phí như vậy vẫn nhiều hơn gấp 3 lần, và so với Ðức thì nhiều hơn gấp gần 16 lần. Tính trên cơ sở GNP[18], thì giao tế phí của Nhật Bản nhiều gấp 5 lần Mỹ, 6 lần Ðức. Ðây mới chỉ là giao tế phí “dân thết đãi dân,” chứ những hình thức giao tế phí khác, như giao tế phí “quan tiếp đãi quan” cũng nhiều vô kể.
Bảo rằng “giao tế phí” thì cần thiết cho kinh doanh, nhưng thật ra đây chỉ là tiêu dùng cho mục đích gặp mặt nhau để trao đổi thông tin hoặc ở trong cùng một xí nghiệp hoặc ở trong cùng một gia đình xí nghiệp. Nghĩa là, muốn cho bầu không khí được hình thành mà chẳng phải vì ai đã muốn như vậy, thì người ta phải thường xuyên gặp mặt nhau, dò dẫm tìm hiểu lẫn nhau bằng cách trao đổi thông tin, sao cho đến một lúc nào đó thì cái ý chí của chính mình cũng hướng theo cùng chiều. Cái đó mới quan trọng.
Kinh phí giao thông, du lịch, để cho mọi người có dịp gặp gỡ nhau trao đổi thông tin như thế này, cũng vô cùng lớn. Cũng năm 1994, kinh phí cho du lịch, giao thông như vậy của Nhật Bản, là 14 ngàn tỷ đồng Yen. Kinh phí này đem so với Mỹ hay Liên bang Âu (EU) thì lớn hơn rất nhiều. Hơn thế nữa, các xí nghiệp tư Nhật Bản còn bỏ ra rất nhiều tiền để xây dựng cơ sở, thiết bị phúc lợi, nhằm cộng đồng hóa tập thể nhân viên.
Chẳng riêng gì ở các xí nghiệp tư nhân. Ngay cả trong giới chính trị gia ở “xóm” Nagata[19], thậm chí trong văn đàn, họa đàn, thi đàn, ca đàn,…người ta cũng thấy hình thành “làng,” nghĩa là sự xây dựng quan hệ người với người trong khuôn khổ xóm làng.
Kết quả là, chẳng phải những người vốn dĩ có năng lực làm việc, mà chính những người khéo xã giao, hay săn sóc bạn bè, không nói phật lòng người khác, nghĩa là những người kiểu Hikaru Genji, là những người sẽ được xung quanh đôn đẩy lên địa vị cao. Hiện tượng như vậy càng thấy nhiều khi thế gian bước vào giai đoạn ổn định.
Cái truyền thống về loại người không quyết định gì cả lại được ở địa vị cao sang, nghĩa là loại người tuy không có năng lực nhưng “thanh nhã” này, đã có từ thời quý tộc Heian, tức là từ thế kỷ thứ X, thời Hikaru Genji sinh sống. Hơn thế nữa, trong lúc quan tể tướng Hikaru Genji chỉ miệt mài với yêu đương và thơ phú, thì thế gian đã xoay vần đổi thay.
Miền đất phương đông thì Taira no Masakado làm phản rồi tự diệt, mặt biển phía tây thì Fujiwara Sumitomo nổi loạn rồi bị Taira diệt. Ấy thế mà bọn võ sĩ samurai chẳng lấy thế làm kiêu ngạo. Rồi xuất hiện thời đại thái bình thịnh trị, thời đại hoàng kim của giới quý tộc Heian, tức là thời đại mà Murasaki Shikibu, tác giả “Truyện Genji,” sinh sống.
Cái ký ức như trên còn có ảnh hưởng lớn tới tính tình người Nhật, tới sự khẳng định kiểu mẫu chính trị gia Hikaru Genji.
Chẳng hạn, ở thời đại mạc phủ Tokugawa thì vua Nhật chỉ coi vấn đề văn hóa, tế lễ thần đạo, còn mạc chúa Tokugawa thì nắm thực quyền chính trị. Song, chính mạc chúa Tokugawa như vậy cũng không được nói xen vào những chuyện tỉ mỉ. Thí dụ, vị chúa Tokugawa đời thứ tư, tên là Ietsuna thường được gọi với hỗn danh “ngài làm thế đi.” Ông này chỉ nói “làm thế đi” mỗi khi được quần thần trình tấu việc nước. Các vị chúa sau ông, trừ vị chúa thứ năm Tsunayoshi và chúa thứ tám Yoshimune, đều là chúa “làm thế đi” như vậy cả. Thậm chí, các phiên chúa (lãnh chúa) cũng thuộc loại này. Nghĩa là, khi thiên hạ được thái bình thì cái “tính di truyền cách đời” từ thời Heian đã lại xuất hiện ra vậy.
Nhìn qua các ví dụ ngoại quốc, ta thấy vua chúa, hoàng đế nói chung đều thuộc loại độc tài cả.
Ngay ở Trung Hoa bên cạnh đây, cũng thấy xuất hiện đủ loại hoàng đế. Nếu có người “kỳ cục” trật đường ray, thì cũng có người “ngu,” “người bệnh,” “con nít,” v.v.. Song, tất cả các hoàng đế Trung Hoa đều là người có quyền hành tuyệt đối cả. Nếu còn nhỏ hoặc bị bệnh, thì có nhiếp chính phụ giúp. Trường hợp ấu đế thì nhiều khi bà mẫu hậu đứng làm nhiếp chính, nhưng cũng có khi quyền bính bị các ông cậu hay anh em họ chiếm đoạt.
Tuy nhiên, cho dù là chính vị hoàng đế, hay vị nhiếp chính đứng cầm quyền, thì người ở địa vị quyền lực tối cao đó, cũng phát huy quyền chỉ huy, quyền lãnh đạo ghê gớm. Quan đại thần có thực lực mấy đi nữa, cũng không bì được với hoàng đế hoặc nhiếp chính. Khi hoàng đế trưởng thành, nắm lấy thực quyền, thì lập tức nền chính trị của quan nhiếp chính bị thay đổi, các quan đại thần có thực quyền lớn cũng dễ dàng bị bay cổ như chơi.
Sự khác nhau lớn giữa “quý phái” và “thanh nhã”
Ðiều kể trên còn có nghĩa rằng quan niệm “thanh nhã” của người Nhật và của ngoại quốc khác nhau xa. Ðây là cái ảnh hưởng thứ hai do Hikaru Genji, tức là tầng lớp quý tộc thời đại Heian, để lại.
Ở Nhật Bản, khi nói “người thanh nhã” chính là chỉ Hikaru Genji. Ðây tức là nói người không phát huy quyền lãnh đạo, đánh nhau yếu và thể lực cũng yếu, không có sức chịu đựng dẻo dai để sống còn trong cảnh hoang dã, lúc nào cũng chỉ miệt mài trong thế giới thẩm mỹ, thi ca, hiểu rõ phép xã giao, không làm phật lòng người khác. Nói cách khác, đây là loại người “không đủ mặn” đồng thời cũng “không đủ mỡ màng.”
Nói chung, trong phim truyện hay trong tiểu thuyết, “người thanh nhã” như công khanh hoặc công tử đài các, thường được mô tả là người ít hoạt bát, chẳng có gì hấp dẫn cả. Người quý tộc thanh nhã mà lại có võ nghệ siêu quần, như vị chúa thứ 13 của dòng chúa Ashikaga, tên là Yoshiteru, thì không phải là không có, nhưng người ta coi như vậy là không thích hợp! Thà ông ta miệt mài với thơ phú, đá cầu[20],.. thì phù hợp hơn. Cái khái niệm “thanh nhã” này là nét độc đáo của Nhật Bản.
Ở xã hội quý tộc châu Âu, thì “thanh nhã,” nghĩa là “quý phái,” phải hội đủ điều kiện tiền đề là có “sức chịu đựng và tính cẩn thận.” Trong hai đức tình này thì “sức chịu đựng” quan trọng.
Thí dụ, bộ đội bị lạc trong rừng sâu. Lương thực đã hết mà mãnh thú lại xuất hiện. Lúc đó, thử hỏi ai sẽ là người sống sót? Ở Nhật thì trước hết người ta nghĩ rằng binh sĩ xuất thân từ nông dân hay giới lao động, sẽ sống sót. Chứ người quý phái “thanh nhã” thì làm
sao sống sót được trong rừng sâu một năm, hai năm? Ðó là thường thức ở Nhật Bản.
Thế nhưng, ở Anh quốc, người ta hẳn sẽ nói: “Hắn ta sẽ sống sót. Vì hắn là quý tộc. Cái gì chứ sống trong rừng là chuyện bình thường! ” Ở Pháp cũng vậy, ở Ðức cũng vậy, câu trả lời cũng sẽ là như vậy.
Quý tộc châu Âu không những là con cháu những chiến sĩ đã thắng trận, chính bản thân họ cũng đang chiến đấu để bảo tồn lãnh địa của mình.
Vì thế, quý tộc không những đánh nhau khỏe, thể hình cũng to lớn. Tự mình quyết định mọi việc, tự ý chí của mình thích ứng với hoàn cảnh. Nóng, lạnh cũng chịu đựng được. Người quý tộc mùa hạ cũng ăn mặc chỉnh tề, mùa đông không mặc dầy xù mất vẻ thẩm mỹ. Ðó chính là vì họ có sức chịu đựng, chịu đựng được nóng cũng như lạnh. Bị bệnh cũng không rên rỉ đau đớn. Khi có chiến tranh, thì tiên phong tự nguyện đầu quân ra chiến trường. Có can đảm không sợ chết. Ðó mới là điều kiện phải có của người “quý phái,” tức là người “thanh nhã” châu Âu.
Ðiều kiện thứ hai của quý tộc châu Âu là “tính cẩn thận.” Quý tộc muốn giữ được gia thế và tài sản của mình, thì không thể không “cẩn thận” được. Cách ăn mặc chỉnh tề, không xuề xòa, cách ăn nói khéo léo chính là biểu hiện của “tính cẩn thận” này vậy.
Một mặt thì mạnh dạn, dũng cảm, có sức chịu đựng, mặt khác lại phải có tính cẩn thận, mới nghe tưởng như mâu thuẫn, song đó chính là điều kiện để làm “quý tộc” châu Âu vậy.
Tóm lại, các kỵ sĩ mặc giáp trụ cưỡi ngựa chiến đấu thời xưa, thời nay sống sót làm thành những con người quý tộc điển hình của châu Âu. Có sức chịu đựng, có tính cẩn thận chính là những điều kiện tất yếu của khái niệm người “quý phái” vậy.
Còn một từ nữa để chỉ “thanh nhã.” Ðó là “gentle” của tiếng Anh (hoặc “gentil” của tiếng Pháp) mà tiếng Nhật dịch là “có vẻ, có dáng thân sĩ.” “Thân sĩ” là từ dùng để chỉ người tiểu tư sản. Vậy nếu coi “noble” là “thanh nhã quý phái” thì “gentle” là “thanh nhã thứ dân,” “thanh nhã tiểu tư sản.”
Gentleman (gentilhomme) là từ chỉ những người từ tốn, ít khi biểu lộ tình cảm, bị nói sao cũng bình tĩnh đối đáp, thế mà lại không a dua theo ý kiến người khác, biết tâm đắc cái trung dung. Quý tộc Heian của Nhật Bản thì khác hẳn loại người gentleman này. Ðối với gentleman thì quan trọng nhất là thường thức và trung dung, rồi đến ý chí cứng cỏi.
“Thanh nhã kiểu Nhật” không còn đắc dụng nữa
Xem như trên, ta thấy cái “thanh nhã” Nhật Bản khác hẳn cái “thanh nhã” Âu Mỹ. Còn cái “thanh nhã” của châu Á, thí dụ cái “thanh nhã” của Trung Hoa thì ra sao? Cái “thanh nhã” Trung Hoa thì hoàn toàn chú trọng vào sự hiểu biết (chủ tri chủ nghĩa), lấy hiểu biết làm điều kiện lớn nhất.
Bên Trung Hoa, sau khi nhà Ðường suy, trải qua thời kỳ hỗn loạn gọi là thời Ngũ đại, rồi nhà Tống bắt đầu chỉ một thời gian ngắn sau thời Hikaru Genji hoạt động chính trị. Ở thời này, bên Trung Hoa, hình thức khoa cử để tuyển chọn quan lại cao cấp đã được tổ chức nghiêm minh và đã trở thành trọng yếu. Chế độ khoa cử thật ra đã bắt đầu từ thời Tùy sơ, song cho tới hết thời Ðường, thì nhiều người đỗ đạt là nhờ con ông cháu cha. Nhưng kể từ đời Tống trở đi, khoa cử đã được tổ chức nghiêm minh, và đỗ đạt khoa bảng
đã thành điều kiện thứ nhất để được coi là “thanh nhã,” để gia nhập giới thượng lưu.
Nghĩa là, muốn trở thành con người “thượng lưu” thì điều kiện thứ nhất là phải có đủ hiểu biết để đỗ đạt khoa bảng.
Ở Trung Hoa thì từ xưa, thi sĩ, hoạ sĩ cũng nhiều người xuất thân từ quan trường khoa bảng. Những người sáng tạo ra học vấn hoặc kỹ thuật mới, cũng phần lớn xuất thân từ quan trường. Như vậy, quả thật quan trường là nơi tụ tập đủ loại nhân tài. Thậm chí, “không thả rong nhân tài nơi dã ngoại” được coi là lý tưởng của quốc gia, nghĩa là quốc gia dùng tất cả người tài làm quan, không để ai chơi không. Ðó là lý tưởng của chính trị.
Do đó, có tri thức đủ để đỗ đạt đã là điều kiện tất yếu để trở thành “thanh nhã.” Nhất là từ thời Minh trở đi, “Chu Tử học” coi trọng tri thức làm cho “chủ nghĩa chủ tri (chủ nghĩa lấy biết làm chủ)” trở thành phổ biến, thì Trung Hoa đã trở thành quốc gia mà những trí thức hiểu biết nhiều được tôn trọng lắm lắm.
Ở Nhật, cứ xem câu nói “trí thức mặt trắng bệch” đủ thấy là người ta có phần nào khinh miệt người trí thức, người đọc sách. Quan niệm tương tự như vậy cũng thấy có ở Mỹ, Anh. Ở Mỹ thì đàn ông võ biền được ưa chung, trong khi đó những người “đầu trứng,” tức là đầu nhét đầy tri thức như quả trứng, thì lại không được tôn trọng. Tập quán tôn trọng người trí thức thì trước nhất là Trung Hoa, thứ đến là Pháp[21].
Ở Trung Hoa, nơi mà những môn học khoa cử như lịch sử, văn sách, được coi trọng, thì dù không muốn làm quan nhưng để chứng tỏ mình cũng là thành phần “thanh nhã” thượng lưu, người ta phải làm sao đậu được khoa thi hương. Do đó, có nhiều người đậu hương thí, lấy được mảnh bằng để chứng tỏ đã có cái hiểu biết của người thượng lưu rồi, nhưng không ra làm quan, chỉ ở nhà làm địa chủ hay nối nghiệp ông cha, vẫn được tôn kính gọi là ngài “cử nhân.” Trí thức Trung Hoa có học vấn, thường khinh bỉ việc lao động chân tay và nghề võ biền[22], song phát huy năng lực lãnh đạo. Cái trật tự trên dưới duy trì được cũng là nhờ vậy.
Quý tộc Heian của Nhật Bản cũng biết làm thơ, cũng thông văn sách chữ Hán, song với họ, có tri thức, có học vấn hay không, không phải là tiêu chuẩn ấn định sự “thanh nhã.” Với họ, ngâm vịnh thơ phú chỉ là một phần trong ý thức thẩm mỹ. Hikaru Genji là người đàn ông đẹp trai, “thanh nhã,” được nữ giới hâm mộ và làm tể tướng. Chàng được người ta vô cùng vì nể, song chẳng phải vì chàng biết làm thơ hay, cũng chằng phải vì chàng có học thức đủ viết sách chú giải Luận ngữ.
Nhật Bản kể từ khi gửi sứ sang nhà Tùy, đã học hỏi văn hóa Trung Hoa rất nhiều, đã mô phỏng chế độ chính trị Trung Hoa, song riêng về khái niệm “thanh nhã” thì Nhật Bản khác xa với Trung Hoa. Ðây có lẽ là bởi vì từ Ðường mạt sang Tống sơ, tức là vào thời kỳ biến chuyển của nền văn hóa Trung Hoa, thì Nhật Bản đã dẹp bỏ việc gửi sứ sang Trung Hoa, và thôi không du nhập văn hóa mới của Trung Hoa nữa chăng?
Ngày nay, 50 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ cũng như xí nghiệp tư nhân đều bước vào giai đoạn hướng tới ổn định. Vì thế, càng ngày càng thấy nhiều người “thanh nhã,” “tư cách mười điểm, tài năng zero điểm” kiểu Hikaru Genji, giữ địa vị chóp bu.
Ðiều này cũng thấy thể hiện cả trong giáo dục con em của Nhật Bản nữa. Giai cấp thượng lưu châu Âu thì trước nhất dạy con “tính chịu đựng” và “tính cẩn thận,” tức là giáo
dục con em thành người cương cường. Nhưng nhà giầu hoặc người có địa vị xã hội ở Nhật thì nuôi con sao cho thành người “thanh nhã.” Vì vậy, họ thường nuông chiều con cái.
Ở Nhật Bản, “đời thứ hai” đang thịnh hành lúc này. Trong giới đại biểu quốc hội, thày thuốc thì đã đành, ngay trong giới nhà kinh doanh, nghệ sĩ nghệ nhân, thậm chí người chơi thể thao cũng thấy xuất hiện nhiều người “đời thứ hai.” Bầu không khí chung là nhìn nhận những người thuộc đời thứ hai này, bởi vì xã hội Nhật Bản đang bước vào thời kỳ ổn định chỉ cần những người ngồi ở chóp bu không làm gì cả song giữ được vẻ “thanh nhã” Nhật Bản là đủ.
Tuy nhiên, đời thứ hai có nhiều, chứ sự giầu sang kéo dài tới ba đời là chuyện hiếm có ở Nhật Bản. Bởi vì, trong khoảng thời gian ba đời, sáu mươi năm, thế nào cũng có lúc biến động sôi nổi, khiến người “thanh nhã” kiểu Nhật Bản dễ bị đè bẹp. Ở điểm này, Nhật Bản là nước mà giai cấp thượng lưu luôn luôn thất bại trong vấn đề giáo dục con em.
Như trên, ngược dòng thời gian tìm đặc điểm ngày nay còn thông dụng của xã hội Nhật Bản, người ta tất sẽ đụng phải cái lối sống của quý tộc thời Heian, cái nội dung “thanh nhã” của giới quý tộc này. Truyện Genji miêu tả Hikaru Genji, phải chăng đã điển hình kể lại cái đó cho tới ngày nay?
Một mơ ước của người Nhật ngày nay vẫn là lối sống của Hikaru Genji, quý tộc thời Heian. Tuy nhiên, ở thời đại mà sự quốc tế hóa ngày càng tiến mạnh, đòi hỏi một sự lãnh đạo mạnh mẽ từ nay trở đi, thì liệu mẫu người Hikaru Genji có thể đáp ứng được chăng?
Nói cách khác, đã đến lúc phải xem lại cái “thanh nhã” kiểu Nhật Bản này.
[1] Truyện Genji, tức là Genji Monogatari, do tác giả Murasaki Shikibu viết vào khoảng gần giữa thời Heian của Nhật Bản (vào khoảng thế kỷ thứ X), là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trên thế giới, đồng thời là tiểu thuyết dài nhất trên thế giới từ trước tới nay, dài hơn gấp hai lần truyện Tam Quốc Chí diễn nghĩa.
[2] Taisho, Ðại Chính. Niên hiệu thời vua Taisho, từ 30/7/1912 tới 25/12/1926. [3] Showa, Chiêu Hòa. Niên hiệu thời vua Showa, từ 25/12/1926 tới 7/1/1989. [4] Thuyết coi dòng họ vua Nhật Bản là con cháu thần thánh từ trên trời xuống! [5] Gengi sáng lóng lánh.
[6] Hoằng Huy Ðiện là cung điện của các bà thái hậu, do đó cũng là danh xưng của các bà.
[7] Naidaijin: một chức quan kế bậc tam công.
[8] Dajodaijin: quan chức tối cao trong triều đình Nhật cho tới thời vua Minh Trị, tương đương với chức tướng quốc.
[9] Suzaku In, tên hiệu của vua Suzaku sau khi nhường ngôi cho vua Murakami để làm thái thượng hoàng.
[10] Bushi, thường nói nôm na là “samurai.”
[11] Sadaijin: tương đương với tả thừa tướng.
[12] Udaijin: tương đương với hữu thừa tướng.
[13] Dainagon: tương đương với á tướng.
[14] Shonagon: tương đương với thượng thư lang.
[15] Gen Pei To Kitsu, tức là Minamoto, Taira, Fujiwara và Tachibana.
[16] Quốc Phân Tự: Kokubunji, một hình thức chùa “quốc doanh” làm nơi nương tựa tinh thần cho nhân dân.
[17] Ngày 26/2/1936, một nhóm sĩ quan lục quân trẻ, kéo khoảng 1.500 lính đánh chiếm phủ thủ tướng, giết vài bộ trường, làm đảo chính. Ba ngày sau thì vụ này dẹp xong không đổ thêm máu nữa.
[18] GNP (Gross National Product): tổng sản phẩm (lượng) quốc dân.
[19] Xóm Nagata, Nagata-cho, là khu tụ tập các cơ quan chính phủ trung ương Nhật Bản. Nói Nagata-cho là nói trung tâm chính trị của Nhật Bản.
[20] Bả n do NXB Chính Trị Quốc Gia ấn hành viết “đá cầu lông,” nay sửa lại là “đá cầ u.”
[21] Việt Nam ta chịu ảnh hưởng lớn của cả hai nước này, nên đáng đứng hàng thứ ba chăng.
[22] Ca dao Việt Nam có câu: “Quan văn tam phẩm đã sang, Quan võ nhất phẩm còn mang gươm hầu!” cũng là thuộc phạm trù này chăng
Chương III : Minamoto Yoritomo
- Người sáng chế ra cấu trúc quyền lực hai tầng
“Chính quyền kỳ lạ” chưa hề thấy
Minamoto Yoritomo sinh năm 1147 mất năm 1199, sau khi bị ngã ngựa nhân đi xem cầu dịp cuối năm trước đó, năm 1198. Tính tuổi đếm, ông thọ 53 tuổi. Thời ấy như vậy không phải là chết yểu vì đó là tuổi thọ trung bình.
Minamoto Yoritomo đã để lại trong lịch sử và dân tộc tính Nhật Bản một dấu ấn rất lớn. Nhất là nếu xét ảnh hưởng đối với Nhật Bản ngày nay, thì dấu ấn đó càng sâu đậm.
Công lao lớn nhất của Minamoto Yoritomo là sáng lập ra “phủ chúa” (“mạc phủ[1]“) làm nền tảng cho chính quyền “võ gia” (tức là “samurai”). Ðể đạt được mục đích này, ông đã phát minh ra một phương thức kỳ diệu. Nghĩa là, ông đã khéo léo sáng chế ra một “cấu trúc quyền lực hai tầng,” triển khai ra toàn quốc nền chính trị “võ gia” trong khi đó vẫn duy trì chế độ luật lệnh cũ sẵn có từ thời Nara.
Nói Minamoto Yoritomo là nói người đã được phong Chinh Di Ðại Tướng Quân, đã lập ra “mạc phủ” Kamakura, đã nắm quyền thống trị thực sự Nhật Bản. Ðiều này mọi người đều biết rõ.
Vậy, Chinh Di Ðại Tướng Quân mà Minamoto Yoritomo đã nhiệm chức là gì và “mạc phủ” do ông lập ra, là gì? Quyền lực bởi đó Yoritomo thống trị Nhật Bản có cơ sở pháp lý như thế nào? Nói cách khác, ông đã được ai đứng trên lập trường nào trao cho quyền hạn
gì? Nghi thức và lập pháp ra làm sao? Lạ lùng thay là những chi tiết này lại ít ai biết tới.
Nói Yoritomo làm Chinh Di Ðại Tướng Quân, mở ra mạc phủ, người ta thường nghĩ ngay tới mạc phủ gần ngày nay nhất, tức là mạc phủ Tokugawa thời Edo[2] (1603-1867). Do đó, người ta tưởng tượng ngay rằng mạc phủ do Yoritomo lập ra thời Kamakura là cơ cấu thống trị giống như mạc phủ Tokugawa vậy.
Tuy nhiên, cũng gọi là mạc phủ, song cơ cấu do Yoritomo lập ra ở Kamakura khác xa với mạc phủ Tokugawa cả về tổ chức lẫn chức năng. Từ nguồn gốc của quyền lực, từ cấu trúc thống trị tới con mắt nhìn vào đó của thế gian, tất cả đều khác nhau lắm. Mạc phủ do Yoritomo lập ra chưa từng có cho tới lúc đó, và như vậy với cảm giác của chúng ta ngày nay, thì đó quả là một “chính quyền kỳ lạ.” Song, chính đó là chỗ tiềm tàng tính sáng tạo đáng sợ của ông ta.
Trải qua trước đó là thời đại Heian khá dài. Vua Kanmu thiên đô từ kinh thành Nagaoka sang kinh thành Heian năm 794. Từ đó, nếu kể khi Minamoto Yoritomo nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân lập ra mạc phủ Kamakura năm 1192, cũng là lúc thời đại Heian chấm dứt và thời đại Kamakura bắt đầu, thì thời đại Heian đã kéo dài 398 năm.
Thành phố Tokyo đã trở thành trung tâm hành chính, tức là đã bắt đầu có chức năng của thủ đô, là kể từ khi mạc phủ Tokugawa được mở ra ở thành Edo năm 1603. Nếu tính liên tục thì năm 2002, Tokyo sẽ phá kỷ lục của kinh thành Heian để trở thành đô thị có chức năng thủ đô lâu đời nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với thời gian lâu như vậy, đô thị thường trở nên quá đông dân cư, hết nơi này đến nơi khác sinh ra tình trạng bất hợp lý. Vì vậy, cuộc thảo luận vấn đề dời đô đã diễn ra gần đây ở Nhật Bản, là chuyện đương nhiên. Trong cuộc thảo luận này, sự kiện Kamakura của Yoritomo tuy có chức năng của thủ đô, song trung tâm văn hóa và kinh tế vẫn còn là Kyoto, đã được đem ra tham khảo.
Kinh thành Heian đóng vai trò kinh đô, và như thế đã tạo ra một thời đại có hệ thống hẳn hoi, tức là “thời đại Heian,” một thời gian dài ngang với từ khi Tokugawa Ieyasu lập ra mạc phủ ở thành Edo cho tới Thành phố Tokyo ngày nay.
Dĩ nhiên, trong 398 năm này đã có biết bao lần quyền lực được luân chuyển, bao nhiêu đổi thay rồi. Thời kỳ đầu của thời đại Heian thì ít nhiều vẫn còn ảnh hưởng tàn dư của thể chế quốc gia luật lệnh thời Nara. Cái thể chế lúc đó hãy còn là tập quyền trung ương với vua làm trung tâm. Nhưng dần dần thể chế này băng hoại, để đến khoảng giữa thời kỳ Heian, thì cả nước thành những trang viên, trang ấp do các nhóm quý tộc chia nhau cai quản.
Thể chế quốc gia luật lệnh của thời đại Nara, là rập y theo khuôn mẫu của nhà Ðường bên Trung Hoa. Do đó, thể chế tập quyền trung ương được tổ chức nề nếp ngăn nắp, gọi là “nhị quan bát tỉnh[3].”
Nhị quan gồm có Thần Kỳ quan, tức là quan tôn giáo lo việc tế lễ, và Thái Chính quan tức là quan lo việc chính trị, tương đương với thủ tướng ngày nay. Dưới quyền chỉ huy của Thái chính quan có tám bộ (gọi là “tỉnh”), với các chức quan đại thần như là Dajodaijin, Sadaijin, Udaijin, Naidaijin, v.v., và các chức phó đại thần như Dainagon, Chunagon, Shonagon, v.v. Chế độ quan chức thật là chỉnh tề. Chế độ địa phương cũng được chỉnh đốn, xếp đặt gọn gàng.
Ðồng thời, phép “ban điền thu thụ” được thực thi.Theo phép này thì tất cả đất trồng trọt
đều thuộc sở hữu nhà nước. Mỗi người dân được cho mượn một khoảnh nhất định. Phép tắc như vậy trên thực tế đã được thực thi bao lâu và trên quy mô bao lớn, còn là vấn đề nghi vấn. Song, thực sự là chế độ như vậy đã được nỗ lực áp dụng một thời kỳ nhất định. Nghĩa là, thể chế của triều đình nhà Ðường đã được du nhập y nguyên, được tổ chức quy củ để xác lập chế độ tập quyền trung ương.
Ðến thời đại Heian, thì thể chế trên dần dần băng hoại, chế độ trang viên, trang ấp sinh ra và quyền thống trị trang viên của bọn quý tộc trở nên mạnh mẽ. Ðến nỗi, quyền lực trung ương không còn có ảnh hưởng tới những trang viên này, tức là lãnh địa của bọn quý tộc nữa, khiến phát sinh ra cấu trúc phân quyền địa phương. Ngoài ra, đất đai của chùa chiền, của đền đài, do nhà vua hoặc quý tộc tặng cho, cũng chiếm diện tích khá lớn. Quản lý những lãnh địa của quý tộc hay đất đai của đền chùa này, là đám võ sĩ (samurai) ở địa phương. Ðó chính là những quản gia kiêm vệ sĩ.
Tóm lại, ở thời Heian thì giới quý tộc xem võ sĩ samurai là lớp người ti tiện. Quý tộc thường chỉ sinh hoạt ở kinh đô, như Hikaru Genji đã nói đến ở Chương II. Mà nếu họ có nhậm chức quan địa phương đi chăng nữa, họ cũng chẳng làm gì thật sự cả. Việc bắt nông dân hay đám nô bộc lao động gia tăng hoa màu để thu thuế (“niên cống”) là công việc của võ sĩ samurai. Công việc của võ sĩ là dùng bạo lực đàn áp nông dân, thay cho giới người quý tộc không muốn nhúng tay vào việc này. Vì vậy, trong thời kỳ giai cấp võ sĩ samurai mới hình thành như vậy, họ thường bị gọi là “bọn thầy chùa sát sinh.”
Tuy nhiên, ai đã được trao cho việc làm bạo lực như vậy, cũng dần dần mạnh lên rồi độc lập. Giai cấp võ sĩ thời đại Heian không phải là ngoại lệ. Họ trở nên mạnh, qua việc đè nén nông dân ở hiện trường, trực tiếp quản lý sản xuất. Cùng với thời đại, họ mạnh lên, biết bớt xén niên cống đóng cho quý tộc, và nhờ đó có thể tự lập được về mặt kinh tế. Võ sĩ samurai tự lập được như vậy quay ra đánh lẫn nhau để mở rộng thế lực. Trong một thời gian dài, giới quý tộc đã lợi dụng bọn võ sĩ samurai trong cuộc tranh giành này để duy trì quyền lực của mình trên thế cân bằng. Song, tới cuối thời đại Heian, người ta đã thấy xuất hiện những “cột trụ võ sĩ,” tức là những người lôi kéo được đông đảo võ sĩ thần phục mình. Ðó là những võ tướng, những sứ quân, như Genji, như Heike vậy.
Yoritomo xuất hiện
Quý tộc nước nào cũng dẻo dai, bền bỉ. Nhất là quý tộc thời đại Heian lại càng dai dẳng, không dễ gì tiêu diệt họ được. Họ khiến bọn võ sĩ đánh lẫn nhau để duy trì quyền uy của mình. Vì vậy đã có loạn lớn. Năm 1147, tức là năm Minamoto Yoritomo ra đời chính là lúc bắt đầu của thời kỳ tao loạn này.
Cha và ông nội Yoritomo, tức là Yoshitomo và Tameyoshi đã chia thành hai phe bạn và thù, đối địch với nhau trong cơn loạn năm 1156. Ðám quý tộc thuộc dòng họ Fujiwara, tuy lúc đó chỉ là làm cảnh, song đã nghiễm nhiên ngồi trên hai phe. Với bọn quý tộc, nếu không có sự ủng hộ của giới võ sĩ samurai, họ không thể đánh nhau được. Mặt khác, đám võ sĩ thì không có đủ uy quyền đứng làm thủ lãnh. Nói cách khác, võ sĩ samurai thì dùng quý tộc làm cảnh, quý tộc thì lợi dùng samurai làm bộ đội chiến đấu.
Minamoto Yoritomo thuộc dòng chính của họ Seiwa Genji. Họ này xuất phát từ con vua Seiwa, được phong tên họ là Minamoto. Trong hàng võ gia, họ này là danh giá nhất. Yoritomo sinh ra trong dòng chính của họ này, cho nên năm mới 12, 13 tuổi đã được phong quan tước là “Tùng ngũ vị hạ nội tàng nhân[4].”
Tùng ngũ vị hạ là tước vị thấp nhất trong hàng quan được vào chầu vua. Nhưng, ngay sau đó, năm 1159 lại có loạn Heiji. Cha Yoritomo, tức là Yoshitomo, đã thua Taira no Kiyomori. Yoritomo đã bị bắt giải về Kyoto và sắp bị chém thì được ni cô Ikenozenni, người vợ thứ của Taira no Kiyomori lúc đó đã xuất gia, xin cho khỏi chết. Sau đó Yoritomo bị đày ra đất Izu.
Sau đó khoảng 20 năm, tức là cho tới năm 33 tuổi, ông bị quản thúc dưới quyền quan địa phương. Trong khoảng thời gian này, hình như ông vẫn không ngừng thu thập tin tức, tìm hiểu tình thế. Sau này, từ một nơi chỉ đáng gọi là vùng quê hẻo lánh của nước Nhật, tức là Kamakura, ông đã trở thành một con người tinh tường tin tức, chính là vì đã có năng khiếu từ thời bị lưu đày vậy.
Taira no Kiyomori nổi loạn Heiji, nắm được quyền bính, nên tầng lớp võ sĩ, cho đến lúc đó vẫn bị coi là giai cấp thấp hèn, thì nay trở nên mạnh, và ngay trong việc chính trị, cũng bày tỏ được ý kiến mạnh bạo. Năm 1167, Kiyomori đã leo lên tới quan chức tối cao, tức là Dajodaijin. Tuy nhiên, chỉ ba tháng sau, ông từ chức để đi tu, song trên thực tế vẫn nắm thực quyền.
Taira no Kiyomori là con người hào phóng lỗi lạc, giống như võ tướng Oda Nobunaga sau này, nên đã có tư tưởng cải cách. Vì thế, nên ông đã bị các thế lực cũ, đại biểu là pháp hoàng Go-Shirakawa, phản đối kịch liệt. Cái quan hệ giữa Taira no Kiyomori và pháp hoàng[5] Go-Shirakawa này cũng tương tự như quan hệ giữa Oda Nobunaga và mạc tướng (Shogun) Ashikaga Yoshiaki vậy.
Thế rồi, thời toàn thịnh của Heike kéo dài được 10 năm. Vào khoảng năm 1180 (niên hiệu Trị Thừa năm thứ tư) thì cả nước Nhật Bản bi nạn đói hoành hành. Trận đói này làm một yếu tố quan trọng trong cuộc phân tranh Genpei[6]. Nhân trận đói này, lòng dân phẫn uất trước quyền cai trị của Heike, và loạn lạc bùng ra tứ phương. Việc Minamoto Yoritomo đã khởi quân chống lại nhà Heike, không phải là duy nhất. Trong tình trạng đói kém đó, những đám phản loạn tương tự đã phát sinh ra ở khắp nơi.
Tháng 4 năm 1180, Yorimoto đã được mật chiếu chinh thảo họ Taira của vua Mochihito. Tháng 8, ông dương cờ phản ở Izu. Trong trận đánh với các tướng của Heike như bọn Oba Kagechika ở Ishibashiyama, thuộc Sagami, nay là thị trấn Odawara, tỉnh Kanagawa, ông bị thua, suýt bị bắt, song đã thoát nạn nhờ ẩn náu trong hang ở Sugiyama. Ngày hôm sau, quân Heike lùng soát hang động, ông sắp bị bắt thì may được tướng của Heike là Kajiwara Kagetoki vì tình mà tha cho chạy thoát[7]. Cảnh này đời sau thường được ca ngợi trong những màn kịch cổ.
Thoát nạn, Yoritomo theo đường biển thoát sang đất Awa (nay là địa phận tỉnh Chiba). Ở đây, nhờ được sự tiếp viện của các tướng như Kazusanosuke Hirotsuke hoặc Chibanosuke Tsunetane của dòng họ Miura, lãnh chúa[8] vùng Joso Kaso (nay cũng thuộc tỉnh Chiba), ông đánh ngược lên chiếm các vùng đất Kanto[9]. Trong khi đó, tình trạng xã hội trở nên vô cùng bất ổn vì trận đói hoành hành. Tập thể võ sĩ samurai hạ cấp do Heike thống suất đã tan rã.
Trong khi Yoritomo đánh lên phía bắc, thì tháng 10 cùng năm đó đã có trận đánh ở Fujikawa. Viên đại tướng tổng chỉ huy quân chinh phạt Yoritomo, là Taira no Koremori, mặc dầu trong tay có đại quân, mà nửa đêm chỉ vì nghe thấy tiếng vỗ cánh bay của đàn vịt trời, bỗng kinh hồn bỏ chạy về mất. Theo sách Sơn Hoè Ký (Sankaiki) thì viên tướng này
“nghe thấy tiếng vỗ cánh của bầy vịt trời, tưởng lầm là bị địch đánh úp ban đêm.” Tuy nhiên, về mặt số lượng thì quân Taira đông hơn nhiều, nên hẳn phải có nguyên nhân khác nữa làm cho viên tướng này khiếp sợ. Có lẽ đây là vì đám võ sĩ hạ cấp thuộc hạ thiếu ăn bất mãn nên dám làm loạn bất cứ lúc nào.
Thêm nữa cái bất hạnh cho phe Heike là năm 1181, Kiyomori đã chết vì bị cảm sốt.
Yoritomo thắng trận Fujikawa, nhưng sau đó hầu như không ra trận nữa. Những trận đánh chinh thảo Heike sau này là do Minamoto Yoshinaka ở Kiso. Từ Kiso khởi binh, Yoshinaka đã phá quân Heike ở đèo Gurikara, rồi men đường Hokuriku đánh tới kinh đô Kyoto. Ông quét sạch quân Heike sau khi đoàn quân này đã mất chủ soái Kiyomori, rồi lên làm Chinh Di Ðại Tướng Quân. Nắm được quyền bính ở kinh đô, thanh thế Yoshinaka lớn lắm, đến nỗi người đời đó đã gọi ông là “tướng quân mặt trời mọc.” Thế nhưng, một mặt ông bị sự đối lập của phe muốn bảo tồn quyền lực của quý tộc ở kinh đô, một mặt quân đội của ông cũng gây nhiều nhũng nhiễu làm mất lòng dân, có lẽ vì lương thực không đủ để nuôi quân.
Tháng 10 năm 1183, Yoritomo được sắc phong tổng lĩnh binh quyền khu vực miền Ðông. Yoshinaka không bằng lòng việc này, đã quản thúc pháp hoàng Go-Shirakawa. Do đó, pháp hoàng đã cho Yoritomo mật chiếu chinh phạt Yoshinaka.
Ðược mật chiếu, Yoritomo phái hai em là Noritomo và Yoshitsune đi đánh Yoshinaka. Yoshitsune đã phá Yoshinaka ở Ujikawa, kéo quân vào kinh thành Kyoto. Sau đó, ông đuổi quân Heike ở Ichinotani, nay là thành phố Kobe, thuộc tỉnh Hyogo, bao vây địch quân ở Dannoura hơn một năm mới phá tan được. Như thế là cuộc phân tranh Gempei chấm dứt, và từ đó quyền độc tài quân sự bởi họ Minamoto đã được thực hiện.
“Chinh di đại tướng quân” chỉ là một chức tư lệnh quân đội
Trong khoảng thời gian cuộc chinh phạt diễn ra như trên, thì Yoritomo làm gì? Ông đóng quân ở Kamakura, giữ vững quyền cai quản miền Kanto. Chẳng hạn, ông đem quân quét sạch vùng đất của họ Satake, nay là tỉnh Ibaraki, vốn cũng thuộc dòng họ Genji, lúc đó mưu toan độc lập. Ấy đại để ông chỉ có chiến công như vậy thôi, chứ không có những chiến công hiển hách như Yoshitsune. Như vậy kể cũng lạ đối với một võ tướng đã bình định được thiên hạ như Yoritomo.
Yoshitsune sau khi chinh phạt xong Yoshinaka, chiếm được kinh đô Kyoto rồi thì tiếp tục đánh tới bờ biển phía tây, quét sạch họ Heike. Song, như vậy sao tránh khỏi giữa Yoshitsune và Yoritomo, hoặc giữa Yoshitsune và pháp hoàng Go-shirakawa có sự bất hòa. Yoritomo chỉ chờ như vậy để xua quân thảo phạt các em mình. Thêm nữa, Yoritomo lại chinh phạt luôn cả Fujiwara Yasuhira, lãnh chúa đã được bốn đời của đất Hiraizumi, thuộc địa phương Oshu, vì đã che dấu Yoshitsune khi ông này bị lùng bắt đã chốn sang đất ấy. Tóm lại, Yoritomo đã dùng võ lực trong thế chờ đợi an nhàn, nên đã dễ dàng đắc thắng, chiếm được quyền chi phối toàn nước Nhật. Thật là khôn ngoan, song không được quần chúng hâm mộ.
Bây giờ, ta thử tìm hiểu xem Yoritomo lúc ấy chính thức giữ địa vị gì? Ta sẽ thấy vô cùng thú vị.
Như đã nói ở trên, lúc 12, 13 tuổi, Yoritomo đã được phong tước Tùng ngũ vị hạ, rồi lãnh chức Hyoe no Suke, tức là chỉ huy phó của một đội bảo vệ, ngày nay tương đương
với vụ phó ở cơ quan trung ương. Tuổi mới 12, 13 cho nên đây chỉ là chức vụ tượng trưng. Sau đó, vì loạn Heiji, Yoritomo đã bị cách khỏi chức vụ này và bị đày ra miền Ðông.
Sau khi dẹp xong họ Heike, Yoritomo đã được đền đáp công lao như thế nào? Ông đã được pháp hoàng Go-Shirakawa ban cho “quyền sa thải” ở miền Ðông. Theo ngôn ngữ ngày nay, thì quyền này tương đương với quyền của một tỉnh trưởng. Nói cách khác, Yoritomo đã nắm được quyền nội chính của miền đông nước Nhật. Năm 1184 (niên hiệu Nguyên lịch nguyên niên), dẹp xong Yoshinaka, và năm sau (niên hiệu Văn trị nguyên niên) thì diệt xong họ Heike. Tháng 11 năm đó, Yoritomo được lãnh quyền chỉ định các quan trấn thủ, quan cảnh vệ các châu quận toàn quốc. Như thế ông đã tạo ra được một cơ chế khiến samurai trong cả nước đã mặc nhiên phải trở thành thuộc hạ của ông. Nghĩa là, ông mới chỉ nắm được quyền quân sự và quyền cảnh sát trên toàn quốc, chứ chưa hẳn đã được giao phó toàn quyền cai trị. Hơn thế nữa, người trao quyền như vậy cho Yoritomo lại chỉ là pháp hoàng Go-Shirakawa (một ông vua đã thoái vị đi tu), nên sự việc này không có cơ sở pháp lý nào cả.
Trong khoảng thời gian ngắn trước sau những diễn biến trên, Yoritomo đã đặt ra ở Kamakura cái gọi là “sở công văn” và “sở vấn chú[10].” Hai sở này thật ra chỉ là “sở tư,” “xí nghiệp tư” để quản lý tài sản riêng của Yoritomo mà thôi. Mặc dầu có quy mô lớn hơn, chúng không khác gì những cơ cấu tương tự đã được giới quý tộc lập ra để quản lý trang viên của họ.
Tuy nhiên, nhờ nắm được thực quyền trong tay, Yoritomo đã đưa được người quý tộc của phe phái mình vào địa vị trọng yếu. Chẳng hạn, ông đã đề nghị thành công cho Kujo Kanezane vào chức Nairan, quan chức tương đương với “chuẩn quan bạch[11]” có quyền duyệt xét mọi sắc sớ trước khi tâu vua, nghĩa là, ông đã đưa được vây cánh của mình vào địa vị quyết đoán chương trình nghị sự để thao túng triều đình.
Khoảng 5, 6 năm sau, tức là vào năm 1190, Yoritomo mới lần đầu tiên được yết kiến pháp hoàng Go-Shirakawa và được phong Gon Dainagon U-Konoe Taisho (Quyền Ðại Nạp Ngôn Hữu Cận Vệ Ðại Tướng). Chức đó, sau này Oda Nobunaga cũng giữ lâu năm, chỉ là chỉ huy trưởng cảnh sát trấn giữ cung vua, tương đương với một bộ trưởng thường. So với Taira Kiyomori đã lên tới Dajodaijin (tướng quốc) thì chức vị của Yoritomo hãy còn khiêm nhượng lắm, song dù sao như vậy ông cũng đã lên tới địa vị đáng nể trong thể chế luật lệnh đương thời.
Thế nhưng, ngay năm sau, ông từ chức đó. Như vậy là trong thể chế luật lệnh ông đã trở thành vô vị vô quan. Năm 1192, ông được phong Chinh Di Ðại Tường Quân và lập ra “mạc phủ” ở Kamakura.
Vậy thì Chinh Di Ðại Tướng Quân là gì? Thói thường, nghe Chinh Di Ðại Tướng Quân, người ta nghĩ ngay rằng đó là quan chức tố cao của mạc phủ, đương nhiên có quyền cai trị thiên hạ. Nhưng đó là kể từ sau nhà mạc phủ Tokugawa. Chứ thời Yoritomo nhậm chức đó thì không phải như vậy.
Không phải Yoritomo là người đầu tiên nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân. Ðầu tiên là Otomo Otomaro. Ông này được phong chức đó đúng năm kinh đô Heian được lập ra, tức là năm 794.
Thời đó, miền đông Nhật Bản, tức là từ vùng Kanto tới vùng Tohoku ngày nay, còn có người Ezo chưa chịu thần phục triều đình Yamato, cư ngụ. Theo nhân chủng học, thì trong
đám người này có lẽ có người thuộc dân tộc Ainu. Tuy nhiên, thời ấy, tất cả những người ở miền đông không chịu tuân theo triều đình Yamato, đều bị gọi là Ezo. Cũng như vậy, những người ở miền nam Kyushu thời đó không chịu thần phục triều đình Yamato, thì gọi là Kumaso.
Chinh Di Ðại Tướng Quân là chức quan đánh dẹp người Ezo, đối lại với chức quan đánh dẹp miền nam là Trấn Tây Ðại Tướng Quân. Nói cách khác, Chinh Di Ðại Tướng Quân là tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, chẳng qua là một chức võ quan lâm thời.
Người thứ hai nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân, tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, là Sakanoue no Tamuramaro, người đã khai khẩn vùng Tohoku, biến vùng đất giá lạnh đó thành ruộng cấy lúa được.
Người thứ ba là Fun’yano Watamaro, không nổi tiếng lắm. Từ đó, vùng Tohoku đã đặt dưới quyền cai trị của triều đình Yamato, nên chức Chinh Di Ðại Tướng Quân bị bỏ đi.
Rồi một thời gian sau, Yoshinaka vào kinh đô, thành Chinh Di Ðại Tướng Quân như đã kể trên. Ðúng ra, người ta cho rằng chính Yoshinaka đã tự phong cho mình chức đó. Thế rồi, sau khi Yoshinaka mất, chức này lại bị bỏ trống tám năm nữa. Ðến năm 1192 mới lại thấy Minamoto Yoritomo thụ phong chức này.
Xem như trên, ta thấy rằng chức võ quan lâm thời tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, Chinh Di Ðại Tướng Quân, chỉ là một quan chức nhỏ, nhất thời trong thể chế luật lệnh. Thế nhưng, Minamoto Yoritomo đã lợi dùng quyền chỉ định và sa thải các tư lệnh địa phương mà trước kia pháp hoàng Go-Shirakawa đã ban cho ông bằng một bức thư riêng, khiến samurai toàn quốc phải nghe theo chỉ thị của mình sau khi được phong tổng tư lệnh quân đội miền Ðông.
Tóm lại, cái cơ sở pháp lý cho Yoritomo nắm quyền thống trị toàn quốc thật là kỳ lạ. Bề ngoài là thể chế luật lệnh, thực chất là cơ chế “mạc phủ”
Thêm nữa, cái khôn ngoan đáng sợ của Minamoto Yoritomo là giữ nguyên thể chế quan lại “nhị quan bát tỉnh,” không đụng chạm gì đến các quan chức ở kinh đô từ Dajodaijin, Sa-Udaijin trở xuống.
Cấu trúc hai tầng về quyền hạn, quyền lực: Ðây mới là điểm sáng tạo độc đáo, đồng thời là điểm đáng ngại của Yoritomo.
Tổng tư lệnh quân đội miền Ðông (Chinh Di Ðại Tướng Quân) không những đã chỉ nắm quyền quân sự của quân đội miền Ðông, mà còn lần lượt đặt ra và phong thêm nhiều quan chức khác nữa. Ðây là những “quan chức ngoài luật lệnh,” tức là những quan chức không có quy định trong luật lệnh. Người ta nói, người Nhật quen xử sự theo hai cách: “vỏ ngoài (hình thức)” và “mặt trong (thực chất).” Yoritomo biết phân biệt thể chế luật lệnh (hình thức) và cơ chế mạc phủ (thực chất), làm thành một cấu trúc quyền lực hai tầng, không phải đã không có liên quan mật thiết với điều đó.
Tư tưởng “dịch tính (hoặc dịch thế) cách mạng” phát sinh ra ở Trung Hoa thời cổ xưa, như đã nói ở trên, coi thiên tử là người nhận thiên mệnh (mệnh trời) trị thiên hạ. Nhưng nếu đức cạn khiến sinh ra trong nhà một kẻ thất đức, thì họ này không còn tư cách làm thiên tử nữa, và một họ khác có đức hơn sẽ nhận thiên mệnh lập ra dòng vua khác, nghĩa là đổi đời, đổi họ vậy. Ðây là tư tưởng chính trị nhìn nhận cách mạng. Tư tưởng này lan ra
khắp vùng đông châu Á: Trung Hoa thì đương nhiên, cả Mông Cổ, Hàn Quốc (và Việt Nam nữa), đâu đâu cũng có nhiều lần thay đổi triều vua. Ở châu Âu hay Ấn Ðộ cũng vậy, hể có thay đổi người nắm quyền lực thì có thay đổi triều vua.
Thế nhưng, duy có Nhật Bản là nước “vạn thế nhất hệ (muôn đời một dòng họ).” Ở đây, kể từ Thái tử Shotoku, người Nhật đã thấm nhuần khái niệm một người có thể tin một lúc nhiều tôn giáo, cho nên sau khi Ðạo Phật đã truyền vào rồi mà Ðạo Thần (tức là Shinto, Thần đạo) vẫn sống còn. Lại thêm có Yoritomo nghĩ ra phương pháp thành lập chính quyền samurai trong lúc vẫn duy trì triều đình với thể chế luật lệnh giữ nguyên vẹn. Với hai việc như vậy, người ta thấy rằng cái tuyệt đối, cái duy nhất, cả về tinh thần lẫn về chính trị, đều không còn ở xứ này nữa. Có chăng chỉ còn loại người biết thực tế, biết thỏa hiệp khéo léo, mà thôi.
Ðúng ra, “mạc phủ” thời Kamakura không phải đã cai trị được đất đai cả nước Nhật Bản. Mạc phủ Kamakura với tư cách tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, tuy đã thu hút được samurai trên toàn quốc vào dưới trướng của mình, song trên thực tế, đất đai do samurai cai quản mới chỉ được một nửa trên toàn quốc. Một nửa còn lại là trang viên của quý tộc hay của đền chùa. Những nơi này vì không thuộc quyền quản lý của samurai, nên quyền hành của bộ tổng tư lệnh quân đội miền Ðông không ảnh hưởng tới được.
Thêm nữa, mạc phủ Kamakura cũng không có quyền chỉ định các quan chức của thể chế luật lệnh, từ Dajodaijin trở xuống. Quyền này vẫn là thuộc triều đình ở Kyoto. Duy, các quan chức như vậy trên thực chất đều không có quyền hành gì tương xứng cả.
Triều đình có quyền cai trị đất đai và quyền phong quan cai trị, song mạc phủ Kamakura lại có võ lực, nên khi cần có thể bắt giữ lưu đày quý tộc hay hoàng tộc. Việc đó đã xẩy ra sau chính biến Thừa Cửu năm 1221, khi quan phụ chính Hojo Yoshitoki và người con kế nghiệp là Hojo Yasutoki hành sử quyền đó.
Yoritomo còn học thêm được một bài học sau cái thất bại của Taira no Kiyomori. Ông đã tách chức năng thủ đô đem ra Kamakura, một nơi xa hẳn kinh đô để tránh ảnh hưởng của bè phái và quyền lợi. Ông đã, bằng sự cách ly về địa lý và hình thái của hai đô thị, thực sự cho người ta cảm thấy rõ rệt cái cấu trúc hai tầng của quyền lực, một hình thức và một thực chất.
Từ đó cho tới thời Minh Trị, triều đình nước này luôn luôn đóng ở kinh đô, song trung tâm hành chính thì đổi chỗ từ nơi này sang nơi khác. Nhờ thế, thể chế chính trị có thể đổi khác, song văn hóa vẫn được kế thừa. Yoritomo, vì có tính đa nghi, nên đã cảm thấy cần cách ly công khanh với võ sĩ samurai phần vì sợ sức thẩm thấu văn hóa của triều đình và công khanh vào võ sĩ samurai, phần vì e ngại sức mạnh của lòng hâm mộ của võ sĩ samurai đối với văn hóa công khanh.
Minamoto Yoshitomo đã tránh không đối đầu toàn diện với thể chế cũ, và bằng một thủ đoạn hiện thực khéo léo đã lập ra một chính quyền trong tình trạng mập mờ về mặt pháp lý. Có thể nói, ông đã đả phá cái quan niệm thường thức là “một nước chỉ có một chính phủ.”
Tuy nhiên, thấy làm như vậy được thì hết người này tới người khác bắt chước làm theo. Có người sẽ nghĩ rằng: Nếu những quan chức như Dajodaijin hay Sa-Yudaijin mà chỉ có danh không có thực quyền cũng được, thì ngay Chinh Di Ðại Tướng Quân, tức là tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, cũng có thể đôn lên làm vì để cho kẻ dưới nắm lấy thực quyền
chứ gì?
Thực hành điều đó chính là vợ Yoritomo, tức là Hojo Masako và người cháu ruột tên là Hojo Yasutoki. Khi con cháu Yoritomo tranh giành sát hại lẫn nhau không còn ai nữa, thì hai người này bèn lựa trong hàng ngũ công khanh ở kinh đô một người xứng đáng để đôn lên làm tướng shogun, còn thực quyền thì giao cho nhân vật đứng ngay dưới shogun, gọi là Chấp quyền (“phụ chính”) do dòng họ Hojo nắm giữ. Nghĩa là một người chỉ tương đương với chức tham mưu hoặc chánh văn phòng của bộ tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, đã nắm được thực quyền, thao túng bộ tổng tư lệnh này vậy.
Bắt đầu truyền thống “thực quyền thuộc kẻ dưới”
Sự việc trên vừa đúng là cái mặt trái của hình tượng quý phái kiểu Hikaru Genji đã nói ở chương trước. Nó còn có ảnh hưởng tới hình dạng cơ cấu quyền lực của Nhật Bản ngày nay nữa. Trong xã hội Nhật Bản bây giờ, thì thủ tướng hay bộ trưởng các bộ không nắm thực quyền bằng một giám đốc trực thuộc, hay đúng hơn, có nhiều trường hợp không bằng một vụ trưởng. Không phải chỉ có thế, cái suy nghĩ cơ bản là, người ngồi trên thì không nên “chi li” quá, không nên tỉ mỉ quá. Người có trách nhiệm tối cao chỉ nên ngồi làm tượng trưng, còn thực quyền thì trao cho các cấp thực thi ở dưới. Như thế mới là cách làm việc đúng.
Chính phủ Nhật Bản ngày nay đã kế thừa trung thực truyền thống ấy. Bộ trưởng chỉ đọc cái gì quan liêu (công chức) đã viết ra thôi. Nếu đọc sai thì bị chê là “bậy.”
Chẳng hạn, thời nội các Kaifu[12] đã xẩy ra “vụ tê-ta” như sau. Ðảng đối lập đặt vấn đề “nên cải cách thuế tiêu thụ.” Họ lý luận rằng những mặt hàng như thực phẩm thì nên áp dụng thuế suất nhẹ.
Lúc ấy, Thủ tướng Kaifu, được đám quan liêu (công chức) Bộ Kho bạc đưa cho tờ ghi chép viết rằng: “sẽ mạnh dạn xem lại thuế tiêu thụ[13],” song không biết có phải cố ý hay không, ông đã đọc sai thành: “sẽ (có những) xem lại mạnh dạn thuế tiêu thụ[14].” Nghĩa là, ông đã nói sai chữ “tê” thành chữ “ta”, nên mới gọi là “vụ tê-ta.”
Cùng là một tiếng Nhật (omoikiru), song nói “omoikitte” (ô-môi-kít-tê, thể tiến hành hiện tại) hay nói “omoikitta” (ô-môi-kít-ta, thể quá khứ), thì ý nghĩa khác nhau nhiều lắm. Ðám công chức Bộ Kho bạc viết “sẽ mạnh dạn xem lại thuế tiêu thụ” là ý nói “nên sửa lại thuế tiêu thụ hay không là vấn đề còn lưỡng lự, song xin hứa sẽ mạnh dạn xem để sửa lại.” Cũng có thể hiểu là sẽ xem lại song không hẳn sẽ có cải cách lớn. Song, như Thủ tướng Kaifu nói “sẽ xem lại mạnh dạn…” thì như vậy nghĩa là “sẽ làm những cải cách mạnh dạn.”
Ðám công chức Bộ Kho bạc nổi giận. Một người trong đám họ dám nói: Một tên thủ tướng mà dám đọc sai câu viết của cơ quan chủ quản, là ý gì?
Ðúng ra, y định nói “một tên quan lại” song đã buột miệng ra thành “một tên thủ tướng.” Ðây chẳng qua là cái cảm nghĩ thường ngày của một cán bộ cao cấp đã ngẫu nhiên vuột ra không kiềm chế được.
Ở Nhật, không cứ gì đám quan liêu Bộ Kho bạc, mà ngay ở các xí nghiệp cũng vậy, có rất nhiều khi người ta muốn xổ ra “một tên tổng giám đốc!”
Dù là thủ tướng, nhưng cũng phải để cho ý kiến của chuyên gia thuộc hạ được thông
qua. Ở xí nghiệp cũng vậy, tổ chức càng lớn thì người ngồi trên chóp bu càng nên nghe theo ý kiến của cấp dưới sau khi những người này đã nghiên cứu kỹ càng rồi. Ðiều này là chuyện đương nhiên. Không làm ngược lại cấp dưới:“Chí lý! Tụi bay đã làm tốt lắm. Tao sẽ đọc y hệt như vậy. Hiểu rồi. Hiểu rồi.” Nói như vậy mới đáng gọi là thái độ của kẻ cả, của người làm lớn, được trọng vọng ở Nhật Bản vậy.
Nhờ Minamoto Yoritomo sáng lập ra chế độ thao túng chính trị bằng cách đẻ ra rất nhiều “quan chức ngoại lệ,” nên một tiền lệ đã hình thành, theo đó cơ cấu thượng tầng được bảo tồn trên hình thức, nhưng thực quyền đã được chuyển giao cho cơ cấu hạ tầng. Kết quả là đám quý tộc sống dựa vào thể chế luật lệnh ở kinh đô vẫn duy trì được tư thế danh gia thế phiệt. Nhờ vậy mà đã chỉ có rất ít máu chảy, một sự phân công nghiệp vụ đã hình thành: Võ sĩ samurai thì đảm đương quân sự chính trị, còn quý tộc thì đảm đương văn hóa.
Cũng vì vậy mà nền văn hóa do quý tộc ở kinh đô đảm đương đã thiếu sinh khí, thiếu thực cảm sinh hoạt. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng nó có hiệu quả giữ được nhân tài bảo hộ văn hóa.
Phải chờ đến 300 năm sau, tức là tới hậu bán của thời Muromachi mới thấy tầng lớp võ sĩ samurai bắt đầu sáng tạo ra văn hóa mới. Lúc ấy, võ sĩ samurai lớp trên của nhà mạc phủ Ashikaga, tức là hàng quận thú, thái thú thì lần lần quý tộc hóa, nên bị đám lãnh chúa mới nổi lên dần dần chiếm đoạt mất thực quyền. Ðến thời võ tướng Oda Nobunaga thì quý tộc Heian suy đồi đến nỗi không còn năng lực đảm đương văn hóa nữa. Sang tới xã hội ổn định của thời Tokugawa thì văn hóa quý tộc Heian lại phục hưng. Do đó, những nghề nghiệp như công nghệ cổ truyền ở vùng quanh kinh đô đã hưng thịnh lên nhờ tiếp nhận thêm kỹ thuật sản xuất mới.
Nếu những người có tiền bạc, có sức mạnh, có thực quyền đứng ra xúc tiến hoạt động văn hóa như ở Anh, ở Pháp, thì hạng người võ biền như Nobunaga, như Hideyoshi, cũng có thể đã làm bén rễ ở Nhật Bản những văn hóa đồ sộ từ lâu rồi.
Những công trình kiến trúc như thành Azuchi, thành Ozaka, cung Jurakudai[15], đều đã làm cho các nhà truyền giáo đạo Cơ đốc kinh ngạc và thán phục, bởi vì thời đó chúng đồ sộ, tráng lệ hơn những thành quách, cung điện của Tây Âu. Thế nhưng, quý tộc Nhật Bản ở kinh đô thời đó, vừa không có thực quyền, vừa không có tiền, nên đã phải đi tìm cái đẹp trong những loại hình nhỏ bé, ai ai cũng có thể làm ra được.
Minamoto Yoritomo, với sự xây dựng cấu trúc quyền lực có thực chất, tránh xung đột quyết liệt với thế lực bảo thủ bảo cựu, đã mặc nhiên lưu lại ở Nhật Bản một cấu tạo văn hóa gồm hai loại hình khác nhau từ người đảm đương đến hình thái. Ðó là văn hóa công khanh (quý tộc) và văn hóa võ gia (samurai).
Dù chỉ với ý nghĩa rằng đó là người đã lần đầu tiên lập ra nền chính trị võ gia, xã hội võ sĩ, thì Minamoto Yoritomo cũng đáng là người vô cùng quan trọng trong lịch sử Nhật Bản. Cũng không thể bỏ qua sự thật là ông cũng đã tách rời hẳn quyền hành chính khỏi quyền tôn giáo. Nghĩa là theo thể chế luật lệnh thì phải có “nhị quan,” với “quan tôn giáo” là một, song mạc phủ Kamakura đã không đặt chức quan tôn giáo này. Ở điểm này, ông cũng là nhà cải cách rất lớn.
Yoritomo mở ra nền chính trị “võ gia”
Minamoto Yoritomo, với tư cách một “cột trụ võ sĩ,” là một chính khách đồng thời là võ tướng đã gây dựng nên nền chính trị võ gia. Ông hầu như chỉ ở Kamakura, chứ ít khi ra chiến trường. Cả đời ông chỉ vào kinh có hai lần.
Là võ tướng sáng lập ra chính quyền, song Yoritomo không có những truyền thuyết hùng tráng. Cho nên ngay thời nay, sự hâm mộ ông cũng nhạt nhẽo. Trái lại, các em ông, những người đã thực sự chiến đấu, nhất là Yoshitsune thì có rất nhiều đề tài để nói đến và rất được người ta hâm mộ. Thế nhưng, nếu nhìn vào sự thực rằng, sau khi đã định Kamakura làm đất đóng mạc phủ, ông giữ vững ở đó, nuôi dưỡng thực lực trong lúc sai khiến người khác, để sau này triển khai nền chính trị võ gia mới mẻ, thì ta thấy chính Yoritomo mới thật là nhân vật lớn. Một nhân vật lớn như vậy lại có thêm tính nghi kỵ và lòng tàn nhẫn nữa. Ông đã giết hai em, là Noritomo và Yoshitsune, cũng như nhiều người họ hàng thân thích khác nữa.
Kết quả là Yoritomo có rất ít con cháu và thân thích. Ðến đời thứ ba thì máu mủ ruột thịt bị đứt đoạn. Thêm nữa, ông đã tru diệt nhiều công thần đã đóng góp vào sự nghiệp xây dựng mạc phủ Kamakura. Ðó cũng là thêm một lý do khiến cho họ Hojo đã thành phụ chính, tức là nắm được quyền chấp chính vậy.
Là một nhân vật lịch sử, Yoritomo tính tình mờ ám, âm hiểm. Ðó là điểm giống những bậc anh hùng đã lập ra vương triều trên khắp thế giới. Có lẽ tính tình đa nghi, âm hiểm chính là điều kiện để duy trì quyền lực lâu dài chăng.
Yoritomo nắm được quyền lực, lập ra mạc phủ ở Kamakura. Ông sát hại các tướng đã thực sự chiến đấu thành công như Yoshitsune. Sự việc này đã uất tích thành lòng thương tiếc kẻ anh hùng bạc mệnh, hay như Yoshikawa Eiji[16] nói “anh hùng hoại diệt[17]” vậy. Xem như vậy thì cái bản chất của người Nhật hay ca tụng những người nỗ lực mà không thành công, có lẽ cũng bắt nguồn từ ảnh hưởng của Yoritomo đối với nền văn hóa Nhật Bản.
Sau Yoshitsune còn có nhiều “anh hùng hoại diệt” trong lịch sử Nhật Bản. Ðiển hình là Sanada Yukimura và các nghĩa sĩ Ako (Ako Roshi) trong tích Chushingura. Nhất là những nghĩa sĩ này, sau khi trả được thù cho chúa rồi thì đều phải tự mổ bụng, và dòng họ Asano, chúa của họ , cũng không phục hưng được. Nghĩa là, họ đã làm cho mọi người càng thêm bất hạnh. Ðúng là những “anh hùng hoại diệt.”
Minamoto Yoritomo đã làm nên sự nghiệp vĩ đại, mà từ xưa đến nay ít được người ta hâm mộ. Vì vậy mà bậc anh hùng hoại diệt như Yoshitsune mới sinh ra.
Còn một điểm nữa không thể bỏ qua được đối với vai trò lịch sử của Yoritomo, là ảnh hưởng lớn ông đã để lại đối với quan niệm giai cấp của Nhật Bản. Như đã nói ở đầu chương, ở thời Heian, võ sĩ samurai bị gọi là bọn “thầy chùa sát sinh.” Ðám võ sĩ như vậy, sau khi đã nắm được quyền lực, đã hoàn thành sự nghiệp “hạ khắc thượng[18]” rồi, đã không tự mình trở thành quý tộc, mà trái lại đã để nguyên triều đình và công khanh. Nói cách khác họ đã phân tách rõ rệt “địa vị” và “quyền lực” vậy.
Sự việc này tương tự như tư tưởng “cánh mạng vinh dự[19]” ở Anh hay tư tưởng độc lập của Mỹ, tức là tư tưởng cách mạng theo đó những người nắm hiện trường sản xuất, giữ quyền chính trị. Nếu coi võ sĩ samurai đương thời là những người kinh doanh nông trại,
thì sự tương đồng vừa nói không phải là vô căn cứ.
Nakagawa Yatsuhiro viết rằng: Trong bộ luật điển “Go-Seibai (Joei) Shikimoku[20]” của thời Kamakura có tư tưởng giống như bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ. Nếu chỉ nhìn vào sự kiện là hiện thực đã được phản ánh trong cơ cấu thống trị, thì lời viết này cũng có phần chí lý; nghĩa là, muốn triệt để phản ánh hiện thực, thì nên bảo lưu toàn bộ trạng thái phi hiện thực của hình thức cũ. Cái khôn ngoan có tính cách Nhật Bản đó đã sinh ra từ Minamoto Yoritomo.
Người nắm quyền lực lớn Hojo Masako xuất hiện
Nhìn từ Yoritomo thì chuyện sau đây là dông dài. Nhưng không thể không nói sơ qua về Hojo Masako, vợ Yoritomo.
Khi Yoritomo bị Heike bắt, đày ra Izu, thì người giám thị ông, là Hojo Tokimasa, trông ông có tương lai nên đã đem con gái gả cho. Ðó là Masako. Thật ra, theo sách Gempei Seisuiki thì chính Masako đã theo Yorimoto mặc dầu bi cha phản đối. Song có lẽ vì nhiệm vụ, sợ bị Heike nhòm ngỏ, nên bề ngoài đã phải làm như vậy chăng. Cho rằng vì yêu Yoritomo nên Masako đã chạy theo chàng, thì sự kiện Tokimasa phản đối là không đúng sự thật, xét quan hệ giữa Yoritomo và Tokimasa sau này.
Nhật Bản là nước có truyền thống vợ chồng khác họ, cho nên Masako không thành Minamoto Masako mà vẫn là Hojo Masako. Bà Masako này đã bắt đầu hoạt động và được gọi là “Nữ tướng shogun” là kể từ sau khi Yorimoto mất.
Khi Yoritomo còn sống, bà đã ra lệnh cho thủ hạ đốt nhà vợ bé của Yoritomo. Ngay Yoritomo cũng không ngăn nổi việc ấy, thì đủ biết bà là người vợ không vừa, song lúc đó bà chưa ra mặt làm chính trị.
Chỉ có một lần trong sinh thời Yoritomo, bà đã làm chính trị. Ðó là năm 1195, nhân Yoritomo vào kinh để làm lễ ở chùa Todai-ji, Masako cũng đồng hành. Bà đã gặp bà ái phi của pháp hoàng Go-Shirakawa (bà này sau khi pháp hoàng mất rồi, vẫn nắm quyền hành ngấm ngầm), bày kế đưa con gái trưởng của bà và Yoritomo, là Ohime vào làm vợ vua Go-Toba. Taira Kiyomori cũng đã tìm cách kết hợp công khanh với võ sĩ song không thành.
Tiếc rằng Ohime đã mất năm 1197, nên kế hoạch không thành. Sau đó, cũng còn nhiều kế hoạch khác nữa, song năm 1199 Yoritomo mất và Masako xuất gia đi tu. Thật ra, sau đây mới là thời kỳ Masako hoạt động mạnh.
Trước nhất, cùng với cha là Hojo Tokimasa, bà đã đưa con trai của Yoritomo và bà, tên là Yoriie lên làm mạc tướng. Bố vợ Yori’ie tức là họ Hiki dần dần có thế lực, nên hai bên, một bên là họ Hojo bên kia là họ Hiki, đã đối lập với nhau kịch liệt.
Lấy cớ để tránh sự độc tài của mạc tướng, bà đã lập ra chế độ “hợp nghị” gồm có 13 người, kể cả cha là Hojo Tokimasa, em là Yoshitoki, và những người khác như Oe Hiromoto, Hiki Yoshikazu, tức là những người có thế lực lớn. Bằng cách này, Masako đã đoạt được quyền của con trai, là mạc tướng Yoriie, người mà vợ nói sao cũng nghe vậy. Nghĩa là bà đã tước cái quyền ngoài luật của mạc tường bằng một nội quy của 13 người bất kể luật lệnh đã có. Một lần hình thức và thực chất đã được tách riêng ra rồi, thì quyền
lực sẽ được phân tán vô hạn định xuống hạ tầng. Masako là người đầu tiên thực hành điều này.
Năm 1203 khi Yoriie mắc bệnh nặng thì bà chia đôi quyền hành ra cho con trai của Yoriie, tức là Kazuhata và con trai thứ của mình, là Sanetomo. Việc này làm phẫn nộ Hiki Yoshikazu, tức là cha ruột của người con dâu bị Masako ghét, tức là mẹ đẻ của Kazuhata. Masako chỉ chờ có thế để kết hợp với gia đình cha ruột của mình tức là họ Hojo, tiêu diệt dòng họ Hiki.
Tiếp theo, bà giết luôn cả cháu nội của mình (Kazuhata), bắt con trai trưởng là Yoriie lúc ấy đã khỏi bệnh, xuất gia đi tu, rồi giam lỏng ở chùa Tu thiền tự (Shuzenji). Việc này về sau đã trở thành cốt truyện của bản kịch nổi tiếng “Sự tích Tu Thiền Tự” của Okamoto Kido (1872-1939). Bà cho con thứ là Sanetomo lên làm mạc tướng, cho cha là Tokimasa làm phụ chính. Nghĩa là bà yêu quyền hành hơn con cháu, hoặc là bà coi họ hàng mình trọng hơn cả chăng.
Thêm nữa, bà mưu đồ với người vú nuôi thượng hoàng Go-Toba, là Fujiwara Kenshi, (tước Khanh nhị vị[21]), hứa hẹn với nhau sẽ đưa hoàng tử Yorihito, con thượng hoàng Go-Toba lên làm mạc tường kế vị Sanetomo. Nghĩa là hai bà xúc tiến vấn đề kết hợp giữa triều đình và mạc phủ vậy.
Vì vậy mà tuy đã xuất gia đi tu, song Masako đã được phong tước “Tùng nhị vị.” Bà được gọi là “Nữ mạc tướng,” chính là vì bà đã có tước vị ngang hàng với chồng làm Chinh Di Ðại Tướng Quân[22] vậy.
Thời ấy việc phụ nữ mưu đồ với nhau là chuyện thường, nhưng trong số những phụ nữ như vậy thì Masako là người thành công nhất, đáng mặt là thủy tổ của “bà mẹ ngoáo ộp.”
Sách Gukansho có câu viết mỉa mai rằng: “Con gái Tokimasa, mẹ Sanetomo và Yoriie có sống sót mới có đời nay!” Rồi cùng với bà Khanh nhị vị có thế lực to lớn ở kinh đô, thì sách viết: “Nhờ có đàn bà tô điểm cho, thì nước Nhật mới thành.” Ý nói nước Nhật phải nhờ nữ giới giúp cho thì nền chính trị mới được hoàn chỉnh.
Masako đòi được một hoàng tử từ kinh đô hạ mình xuống làm rể mình, song sự thế đổi thay khiến điều đó bị khước từ. Kết cục, thượng hoàng Go-Toba đã đề cử Yoritsune, một người trong dòng họ Minamoto bà con xa của Yoritomo lên làm mạc tướng, tức là khác với lời hứa. Yoritsune lúc đó mới lên 2 tuổi, nên quyền hành đã do Masako và cha ruột là Hojo Tokimasa nắm giữ.
Sau khi Tokimasa mất thì em Masako tức là Yoshitoki lên làm phụ chính. Sau đó, lại là con Yoshitoki lên làm phụ chính. Cứ như vậy, người họ Hojo liên tiếp lên làm phụ chính nắm giữ thực quyền.
Hoạt động nổi bật nhất của Hojo Masako là lúc thượng hoàng Go-Toba bực mình với quyền thế của Kamakura, đã khởi loạn Jokyu năm 1221.
Masako diễn thuyết kêu gọi võ sĩ samurai: “Chớ quên ơn của họ Minamoto. Chớ theo vua, hãy theo mạc phủ.” rồi gửi quân vào kinh đô bắt tất cả từ thượng hoàng Go-Toba trở xuống, đem đày ra hải đảo. Sự việc này đã làm cho quyền thế mạc phủ không thể lay chuyển được nữa. Thực quyền như vậy đã vào tay Masako và dòng họ Hojo. Ðó là hình ảnh Masako đã được lưu truyền lại.
Mặc dù nói là Hojo Masako đã nắm giữ thực quyền ghê gớm, song Masako đã thực sự lèo lái chính trị, hay cha bà (Tokimasa) và em bà (Yoshitoki), hay cháu bà (Yasutoki) đã nắm quyền ấy, thì hãy còn là một nghi vấn. Duy, có một điều chắc chắn là, vì có Masako nên Tokimasa hay Yasutoki mới chiếm được vị trí trung tâm của quyền lực. Lại nữa, cứ nhìn vào tư thế của ba đời phụ chính từ Tokimasa qua Yoshitoki tới Yasutoki, rồi chuyện âm mưu với bà Khanh nhị vị, rồi diễn thuyết khi có loạn Jokyu, người ta có cảm tưởng rằng quả thật Masako là vai chính. Không còn nghi ngờ gì nữa là sau khi Yoritomo chết, người đàn bà này đã nắm quyền lớn, đã có quan hệ tới lịch sử nước Nhật vậy.
Quan chức ngoài luật lệnh đã sinh ra cấu trúc hai tầng
Ở đây, điều quan trọng là tại sao Masako đã có thể làm như vậy được?
Ðó là vì chính Yoritomo, với tư cách tổng tư lệnh quân đội miền Ðông (Chinh Di Ðại Tướng Quân), tức là một quan chức đứng ngoài quy định của bộ luật lệnh Ðại Bảo[23], đã chế ra một phương pháp nắm quyền chính trị bất thường bằng cách tự xưng mình là “cột trụ của samurai” toàn quốc. Cái phương pháp bất thường này lại được Masako phát triển thêm một bước nữa, đưa quyền hành của mạc tướng xuống hàng chánh văn phòng, tức là phụ chính. Nghĩa là, mặc dù quyền hành vốn dĩ thuộc vua và dưới vua còn có “nhị quan bát tỉnh” nữa, song cơ chế này vẫn được giữ nguyên vẹn và thực quyền đã được trao vào tay tổng tư lệnh quân đội miền Ðông qua bộ tư lệnh của người ấy, gọi là “mạc phủ,” làm thành một chính phủ thực chất (de facto). Thế rồi, chánh văn phòng bộ tư lệnh lại nắm lấy thực quyền bằng cách đưa một đứa bé mới hai tuổi vào địa vị tổng tư lệnh quân đội miền Ðông để hình thức hóa địa vị này đi. Làm cho sự việc này có thể xẩy ra được không ai khác hơn là chính Minamoto Yoritomo vậy.
Ðiều trên đã ảnh hưởng lớn tới lịch sử Nhật Bản, đã biến thành truyền thống là chánh văn phòng lại nắm thực quyền hơn bộ trưởng mà không ai coi sự việc ấy là kỳ lạ nữa. Không cứ gì các cơ quan chính phủ đâu, cả xí nghiệp tư nhân cũng vậy, những câu nói cửa miệng như: “Ông tổng giám đốc thì dẫu có nói cũng chẳng hiểu đâu! Phải nói với ông phó nọ, ông phó kia cơ!” hoặc “Không, ông phó đó cũng chẳng hiểu đâu mà chính phải nói với ông trưởng phòng tổng giám đốc ngồi bên cạnh kia!” không còn ai coi là kỳ lạ nữa.
Minaamoto Yoritomo là người đã mở màn cho lịch sử “Cấu trúc quyền lực hai tầng” kiểu Nhật Bản. Sau đó Masako cùng những người của họ Hojo đã phát triển cấu trúc đó thêm một bước nữa. Với ý nghĩa này, Hojo Masako cũng là một diễn viên phụ không thể nào quên được vậy.
[1] Mạc phủ: Bakufu. Mạc phủ vốn chỉ là chỗ quây màn, dựng lều làm bản doanh tại trận tiền của một tướng lãnh. Song, ở Nhật Bản, từ mạc phủ được dùng để chỉ cơ chế quyền lực chính trị toàn quốc đứng đầu bởi một vị tướng (trong sách này thường viết là mạc tướng, hoặc tướng shogun hoặc shogun) được vua phong cho, thường là Chinh Di Ðại Tướng Quân. Ở Nhật Bản trong thời kỳ có mạc phủ, Nhật hoàng thực chất chỉ là làm vì, mà tướng quân shogun mới thực sự thống trị toàn quốc như là một ông vua. Vì thế, có
nhiều sách do người phương Tây viết về Nhật Bản thời kỳ có mạc phủ, mạc tướng thường được dịch là King (vua), trong khi đó Nhật hoàng dịch là Emperor (hoàng đế), mặc dù chỉ là một vị hoàng đế vô quyền.
[2] Edo, là nói thời kỳ ngót 300 năm (từ 1603 tới 1867) dòng chúa Tokugawa mở mạc phủ ờ thành Edo (tức Tokyo ngày nay) tiếm quyền cai trị nước Nhật của Nhật hoàng.
[3] Nhị quan bát tỉnh, tức là chế độ gồm có hai chức quan và tám “tỉnh”, tức là tám bộ. Hai chức quan là “thần kỳ quan,” trông coi vấn đề tế lễ, và “thái chính quan,” đảm đương việc trị nước. Tám “tỉnh” gồm có Trung Vụ tỉnh (lo việc chiếu sớ, nhân sự, hộ tịch, tô thuế,…), Thức Bộ tỉnh (nghi thức, điển lễ, tặng thưởng,…), Trị Bộ tỉnh (hôn lễ, tang tế, ngoại giao,…), Dân Bộ tỉnh (dân chính, tài chính, thuế khóa,…), Binh Bộ tỉnh (quân chính, binh mã, binh khí,…), Hình Bộ tỉnh (tư pháp), Ðại Tàng tỉnh (kho bạc) và Cung Nội tỉnh (việc cung đình).
[4] Quan tước chia làm 8 “vị”. Mỗi “vị” còn chia ra Chính và Tùng, Thượng và Hạ.Tùng Ngũ Vị Hạ là tước vị phong cho đích tử của công hầu khi tới tuổi thành niên. Thời xưa, tuổi thành niên thường thấp hơn thời nay. Nội tàng nhân là một chức quan coi kho của vua.
[5] Thái thượng hoàng đã đi tu. Trong bản NXB CTQG lời chú này để ở sau trang này. [6] Cuộc phân tranh giữa họ Minamoto và họ Taira.
[7] Kiểu Quan Công tha Tào Tháo ở Hoa Dung Tiểu Lộ chăng?
[8] Lãnh chúa là từ gọi chung những chúa tể hoặc sứ quân cai trị một vùng đất nhỏ, một tiểu quốc.
[9] Kanto, là khu vực gồm Thành Phố Tokyo và sáu tỉnh bao quanh, tức là Ibaraki, Tochigi, Gunma, Saitama, Chiba và Kanagawa.
[10] Sở công văn là cơ quan tương với văn phòng hành chánh, và sở vấn chú là tòa án. Ðặt ra những công sở như vậy là chứng tỏ đã nắm được quyền cai trị chính thức.
[11] Quan bạch, là chức quan được phép xem trước sớ sắc rồi mới tâu vua. Tên quan chức này là từ sách Hán Thư (truyện Hoắc Quang): “chư sự giai tiên quan bạch quang, nhiên hậu tấu ngự thiên tử,” nghĩa là mọi sự việc đều được xem trước cho rõ, rồi sau đó mới tâu lên thiên tử.
[12] Nội các của thủ tướng Kaifu, từ 8/10/1989 tới 5/11/1991.
[13] Việc xem lại (sửa lại) thuế tiêu thụ, sẽ được làm một cách mạnh dạn. Nghĩa là chưa hứa sửa chữa gì cả.
[14] Sẽ có những xem lại (sửa lại) mạnh dạn cho thuế tiêu thụ. Rõ ràng là hứa sẽ có những cải cách mạnh dạn về thuế tiêu thụ. Bản NXB CTQG không có 2 từ trong ngoặc “(có những).”
[15] Cũng gọi là Jurakutei.
[16] Một nhà tiểu thuyết lớn, chuyên viết tiểu thuyết lịch sử.
[17] Nguyên văn tiếng Nhật là Hametsu no Eiyu, đọc âm chữ Nho là Anh hùng Phá diệt.
[18] Hạ khắc thượng (Gekokujo), tức là kẻ dưới khắc phục người trên.
[19] Cánh mạng vinh dự (Glorious Revolution): Sự kiện lịch sử Anh theo đó khi vua James II độc đoán định cho cựu giáo phục hưng, những lãnh tụ quốc hội cầu cứu công chúa Mary theo tân giáo và quận công William năm 1688. Năm sau, Mary II và WIlliam III lên ngôi vua, ban hành Hiến chương nhân quyền (Bill of Rights).
[20] Luật điển nói ở đây là của niên hiệu Joei (Trinh Vĩnh, năm 1233) gồm có 51 điều. [21] Tước gồm có tám vị. Thường ra, tam vị trở lên là hàng Công, Khanh.
[22] Chinh di đại tướng quân là “chức vị”, trong khi đó “Tùng nhị vị” là tước vị. Chẳng hạn, trong quân đội, một đại úy trung đội trưởng, thì đại úy là tước vị còn trung đội trường là chức vị.
[23] Ðại Bảo luật lệnh, soạn ra năm Ðại Bảo nguyên niên (701), gồm 6 quyển luật và 11 quyển lệnh.
Chương IV : Oda Nobunaga
- Người anh hùng bị phủ nhận của lịch sử Nhật Bản
Thời chiến quốc, thời kỳ đổi mới kỹ thuật lớn
Oda Nobunaga là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Nhật Bản. Thời nay, giới trẻ vẫn còn coi nhân vật này là “bảnh,” là “tuyệt” ở chỗ đó là một người cải cách có lối sống “phá thiên hoang[1]” trong thời chiến quốc[2] Nhật Bản.
Cũng như những nhân vật lịch sử nổi tiếng khác, hình ảnh Oda Nobunaga như được lưu truyền trong truyền thuyết, trong kịch bản, nếu có phần khác với sự thực là điều khó tránh khỏi được. Tuy nhiên, vì cuộc đời và hành động của Nobunaga đã khiến ông dễ trở thành vai chính của truyện kể cũng như kịch bản, nên cái “thực ảnh” và cái “hư ảnh” của ông khác nhau tương đối ít chăng. Chỉ có một điểm khác xa, là người ta thường nói Nobunaga có tính nóng nẩy cục cằn, song thật ra ông là người chịu nhịn, nhẫn nại.
Quả thật Nobunaga là con người có tình cảm thất thường, lời nói và hành động cũng nghiêm khắc. Song nếu nhìn hành động suốt cuộc đời ông, ta mới thấy ông là người bền chí, đa mưu túc kế, hiểu biết tinh tường và nói chuyện lý thú. Những điều này rất quan trọng cho việc nhận xét nhân vật Oda Nobunaga.
Oda Nobunaga sinh năm 1534, đúng là lúc thời “chiến quốc” vừa chuyển từ giai đoạn tranh giải địa phương (nửa đầu) sang giai đoạn tranh giải toàn quốc (nửa cuối). Nên biết thêm rằng, chín năm sau thì súng nòng thép được truyền tới Nhật Bản và 15 năm sau thì Francisco Xavier[3] đặt chân lên đất Nhật Bản.
Nobunaga sinh ra đúng thời nhà mạc phủ Ashikaga đã suy đồi, toàn nước Nhật lâm vào thời loạn “hạ khắc thượng.” Từ giữa thế kỷ thứ XV, kể từ sau loạn Onin, toàn quốc Nhật Bản đã lâm vào cảnh loạn ly tứ tung, khắp nơi xẩy ra những cuộc va chạm nhỏ. Tuy nhiên, kỹ thuật tiến bộ hơn và nền kinh tế cũng phát triển hơn. Thời kỳ Oda Nobunaga sống là thế kỷ thứ XVI, ở Nhật gọi là “thời chiến quốc,” song ở bên châu Âu thì thời kỳ đó gần trùng với “thời Phục Hưng (Renaissance)”. Mới nghe hai tên gọi này người ta mường tượng ra hai cảnh xã hội hoàn toàn khác nhau, song thực ra chúng lại rất giống nhau. Thời đó đã có những cải cách kỹ thuật ở khắp nơi trên thế giới, có nhiều phát hiện mới về địa
lý[4], và cải cách tư tưởng cũng tiến bộ. Nghĩa là thời cận đại đã manh nha. Gần 500 năm trước đó, từ đời Ðường mạt sang đời Tống, khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã phát triển ở Trung Hoa. Chúng được truyền sang Tây Âu và Nhật Bản dưới dạng thức đã hoàn thành để được đưa vào thực dụng.
Thế kỷ thứ XV, một trong những kỹ thuật mới được ứng dụng ở Nhât Bản là kỹ thuật phát triển đất đai, bằng cách tát nước khỏi những đồng lầy để phân ra thành đất trồng trọt và ao hồ. Kết quả là diện tích trồng trọt tăng lên, sản lượng nông nghiệp gia tăng. Mặt khác, ao hồ thì nuôi cá, thả sen. Nhờ đó, thức ăn được phong phú hơn, tình trạng dinh dưỡng được cải thiện hơn.
Lại nữa, những vùng đất cằn cỗi cũng được dẫn nước vào, biến thành đất trồng trọt. Kết quả là ở mỗi vùng đất đều được trồng trọt hoa mầu thích hợp, xúc tiến phương thức đất nào hoa mầu nấy. Nhờ vậy đã thấy có những hoa mầu trước đó xa lạ đối với Nhật Bản, như trà, vừng (mè), khoai lang, hạt cải. Chẳng bao lâu sau, người ta thấy xuất hiện bông (gòn) và đậu. Thật ra trà và vừng là những hoa mầu đã có ở Nhật từ lâu, như đã thấy lưu giữ trong Shosoin[5], song nhờ kết quả khai thác đất đai, những hoa mầu này đã được sản xuất ra rất nhiều.
Ðến thế kỷ XVI thì năng suất thu hoạch càng tăng, chỉ một người canh tác cũng thừa nuôi được cả gia đình. Do đó, sốngười không làm gì cũng sống được, tăng vọt lên. Những người trước kia gọi là “samurai địa phương,” tức là giai cấp địa chủ, dần dần biến thành võ sĩ samurai chuyên nghiệp. Họ là những người mà sử sách sau này gọi là “hào trưởng.”
Tuy nói thế, nhưng ở tiền bán thế kỷ XVI tức là nửa đầu của thời chiến quốc thì những hào trưởng này vẫn chưa thể bỏ nông nghiệp được. Họ còn sống ở nông thôn, kinh doanh quản lý sở đất của mình, cũng có khi tự mình canh tác đồng thời thu sưu thuế và giữ việc trị an thôn xóm.
Ở thế kỷ XX, thì những nước phát triển giầu có lại không tăng dân số, trong khi những nước đang phát triển lại có dân số tăng vọt. Thế nhưng một định luật phổ biến trong lịch sử là nếu cuộc sống được phong túc hơn thì dân số tăng lên. Nhờ khai thác đất đai và tiến bộ kỹ thuật nên năng suất sản xuất đã tăng lên, và như vậy đã làm cho dân số Nhật Bản thời chiến quốc tăng nhiều.
Ðại khái, kể từ lúc hết loạn Onin (năm 1477) cho tới trận đánh Sekigahara[6] (năm 1600), tức là trong khoảng hơn 120 năm, Nhật Bản đã tăng dân số gấp đôi và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) gấp ba.
Ở khắp nơi, các hào trưởng xuất hiện và cùng với bọn thủ hạ của họ, làm thành những nhóm gọi là “đảng con cháu gia đình.” Ðám người này sống nhờ vào sản xuất thặng dư, làm thành một giai cấp trung gian mới. Thường ngày họ tụ tập thành vài chục người vừa làm nông nghiệp vừa lo việc quản lý đất đai và trị an. Họ là những tập thể khác hẳn với những võ sĩ quản lý nông trại, trang ấp của giới quý tộc sống ở kinh đô, như đã nói ở những chương trước. Họ kết hợp nhiều nhóm lại với nhau để một mặt chống lại kẻ địch bên ngoài, một mặt tranh giành lẫn nhau để chiếm đoạt quyền cai quản đất đai.
Vì vậy, trong giai đoạn đầu của thời chiến quốc, từ cuối thế kỷ thứ XV tới khoảng những năm 30 của thế kỷ thứ XVI hay là lúc Oda Nobunaga sinh ra, ở Nhật Bản đã có nhiều trận tranh giành, nhỏ là cỡ thôn xóm, lớn cũng không hơn cỡ quận huyện. Từ thắng lợi qua những trận đánh như vậy, hoặc qua hôn nhân hay nhận con nuôi, dần dần người ta
thấy xuất hiện những hào trưởng có thế lực lớn.
Sử sách Nhật kể lại những trận đánh liên quan tới việc tranh đoạt quyền chúa của mạc phủ Ashikaga, cũng chỉ thấy nói quy mô của trận đánh là khoảng bốn, năm ngàn người. Những trận đánh xẩy ra ở khắp nơi nói ở đoạn trên thì nhỏ hơn, thông thường chỉ với quy mô vài trăm người. Ðó là những trận đánh do các hào trưởng cầm đầu thôn xóm, chỉ huy động nổi vài trăm tráng đinh nông dân là cùng. Tướng dẫn đầu và quân lính như vậy chỉ là những người nửa nông dân nửa bộ đội.
Xem như vậy, chức năng của hào trưởng là vừa kinh doanh nông nghiệp vừa bảo vệ xóm làng. Do đó, nếu người cha chết yểu rồi mà người con hãy còn nhỏ thì người gia thần trưởng lão hoặc người chú trở thành người đỡ đầu nắm giữ thực quyền. Nói cách khác, kẻ có thực lực đã vươn lên được và như thế sinh ra trạng thái “hạ khác thượng.”
Bởi thế, những kẻ làm nên như vậy thường là có năng lực, lại khéo kinh doanh nông địa, nên họ càng làm tăng thêm hoa lợi, mở mang thêm ruộng đất, sản xuất hoa mầu mới, khéo lưu thông hoa mầu mới này để làm tăng thế lực của mình. Với thể lực gia tăng như vậy, họ chiếm đoạt thêm đất đai bên cạnh.
Ðến khi Oda Nobunaga sinh ra thì thực sự mới thành hình những thế lực đáng gọi là nước (tiểu quốc). Họ Hojo ở Sagami, họ Takeda ở Kai, họ Imagawa ở Tsuruga, họ Miyoshi ở Awa, họ Ouchi ở Suo v.v..
Họ Oda của Nobunaga cũng là một thế lực mới nổi dậy như trên.
Thằng đại ngốc thống nhất vùng Owari
Oda Nobunaga sinh ra trong gia đình bầy tôi của Oda Yamatonokami, ông này lại là bầy tôi giữ chức phụ tá cho thái thú châu Owari, là họ Shiba. Như vậy, họ Oda làm bầy tôi cho bầy tôi của họ Shiba, nghĩa là chẳng lấy gì làm danh giá.
Song cha Nobunaga, tức là Oda Nobuhide lại là nhân vật khá bản lĩnh. Ông mở hà cảng (cảng sông) ở nơi bản quán Tsushima, rồi khai thác mở rộng đất canh nông. Tiền làm ra từ đó ông đem mua chuộc các hào trưởng xung quanh để lấy vây cánh. Rồi ông đã được nâng lên hàng đội trưởng samurai của bốn quận thuộc châu Owari hạ, tức là làm chức lớn nhất trong hàng con cháu Oda Yamatonokami. Vùng Owari hạ ngày nay bao gồm từ thành phố Nagoya tới bán đảo Chita nghĩa là chẳng lớn là bao. Nobuhide có lãnh địa ở đó và giữ địa vị tương tự như tổ trưởng của các hào trưởng vậy.
Năm 1551 Nobuhide đột nhiên qua đời.
Nobunaga là con thứ ba của Nobuhide. Hai người anh đều là con vợ lẽ ở địa vị kém nên Nobunaga có triển vọng được nối nghiệp cha. Thế nhưng chưa chắc gì Nobunaga đã được nối nghiệp. Thời ấy chưa có lệ cho con lớn thừa kế. Vả chăng, người em cùng mẹ của Nobunaga tên là Nobuyuki lại ở thành Suemori cùng với cha. Nghĩa là khi cha là Nobuhide mất, Nobunaga có được thừa hưởng gia tài hay không còn là chuyện bấp bênh. Chức đội trưởng samurai của bốn quận vùng Owari hạ, Nobunaga có kế nghiệp được không, lại càng không chắc chắn lắm. Số là, khi cha còn sống, Nobunaga vẫn bị cha gọi là “thằng đại ngốc.”
Quả có thế, tuy là con một lãnh chúa trong tay có mấy thành, nhưng Nobunaga chỉ mặc áo ngắn, bụng thắt một sợi dây thừng đeo lủng lẳng một bầu nước, lưng khoác túi đựng đá
lửa và vài vật linh tinh, cưỡi ngựa chạy nhông ngoài đồng như một tên khùng. Ðiều này đã thấy viết trong sách “Truyền ký về Nobunaga” và nhiều sách khác. Nói theo lối thời nay nghĩa là, con ông tổng giám đốc công ty mà tóc nhuộm vàng, cưỡi mô-tô chạy nhông nhông ngoài đường…
Khi cha chết, Nobunaga lúc ấy 18 tuổi, đã tới đám tang cũng ăn mặc kỳ cục như thường ngày, vốc một nắm nhang bột, ném vào bài vị cha. So với thế thì người em nhỏ hơn một tuổi là Nobuyuki đã ăn mặc chỉnh tề, làm lễ theo đúng nghi thức.
Thời đó, 18 tuổi là đã thành niên được ba năm, nghĩa là đã hoàn toàn trưởng thành rồi. Thời nay có thể coi như tương đương với người đã tốt nghiệp đại học được 5, 6 năm, nghĩa là đã tới tuổi gần ba chục rồi. Một đứa con trai như vậy mà đến đám tang cha lại ăn mặc cẩu thả, ném bột nhang vào bài vị cha, thì dẫu có bị thiên hạ đàm tiếu là “con cái đâu mà kỳ cục vậy” cũng là chuyện đương nhiên. Do đó, vấn đề chọn người thừa kế tất nhiên đã trở thành đề tài tranh luận dữ dội trong gia đình Oda vậy.
Từ thủa niên thiếu, Nobunaga đã bị nhiều người không ưa. Cha Nobuhide yêu người em, Nobuyuki, đến nỗi cho ở cùng thành Suemori với mình. Trong khi đó, Nobunaga thì cho bọn Hirate Masahide phò tá đóng giữ thành Nagoya.
Bọn Shibata Katsu’ie, Hayashi Michikatsu, tức là những trọng thần đời đời của họ Oda, cũng phần đông ủng hộ Nobuyuki.
Hơn thế nữa, chỉ hai năm sau khi cha chết, Nobunaga đã bắt người lão thần tên là Hirate Masahide do cha chỉ định làm phụ tá cho mình, phải mổ bụng. Do đó trong trận đánh với em, Nobunaga đã không được tới hai chục phần trăm thủ hạ theo mình. Sách “Truyền ký về Nobunaga” viết rằng phe ủng hộ Nobunaga chỉ có bảy trăm người, còn phe ủng hộ Nobuyuki là bảy ngàn người. Cho dù số bảy ngàn người nói như vậy là quá đáng đi chăng nữa, thì sự kiện phe Nobuyuki đông hơn cũng là điều chắc chắn.
Thế nhưng, khi nhập cuộc thì Nobuyuki trọng lễ nghi, chỉ lo bàn tính dình dang chứ không thấy ra quân. Các tướng thì mỗi người một ý kiến nên hành động không thống nhất.
Trong khi đó, hai tướng Shibata Katsu’ie và Hayashi Michikatsu sốt ruột, xông ra đối đầu với Nobunaga. Nobunaga dẫn khoảng bảy trăm quân, tự mình đi đầu xung trận đâm chết em của Hayashi Michikatsu là Mitsuharu. Shibata Katsu’ie giật mình trước khí thế của quân Nobunaga, đã rút lui, và Nobunaga đã đoạt được thắng lợi.
Ðến đây, ta thấy rõ cái suy nghĩ của Nobunaga về quân sự, quân đội. Ông không như đám hào trưởng trông cậy vào quân đội xuất thân từ nông dân. Nòng cốt của quân đội ông là lính đánh thuê ăn tiền, được ông chỉ huy nghiêm khắc.
Cái lập trường trên được thấy rõ rồi, thì mặt khác người ta e Nobunaga có nguy cơ bị ám sát. Một bộ hạ trung tín của Nobunaga là Sasa Narimasa cũng là một trong những người đã mưu toan ám hại ông.
Sasa Narimasa đã đồng mưu với ngôi chùa có cửa quan[7] mà Nobunaga đã bắt phải dẹp bỏ đi, bện rơm thành một con rắn lớn dìm xuống ao, làm cho dân quê kinh sợ la lên: “có rắn lớn xuất hiện.” Họ nghĩ, thế nào Nobunaga cũng đến xem vì ông vốn có tính tò mò. Lúc ấy, họ chèo thuyền đưa ra giữa ao, đợi cho Nobunaga cúi đầu nhìn xuống đáy ao thì chém tới, làm cho ông ngã xuống ao; như thế chắc chắn sẽ giết được. Mưu mô là như vậy, song Nobunaga lại không làm như thế. Vừa tới nơi, ông liền cởi quần áo ra, ở trần
nhẩy ùm xuống ao để tự mình xác nhận là không có rắn lớn ở đâu cả. Thế là mưu mô của Narimasa cũng thành vô ích.
Mọi chuyện như vậy xong, Nobunaga đã được kế nghiệp cha. Ông nghĩ là phải lập ra quân đội riêng của mình. Nếu nhờ các hào trưởng chọn tráng đinh trong lãnh địa của họ cho nhập ngũ, thì quân đội như vậy không thể chiến đấu như ý muốn của ông được. Ông muốn lập một quân đội không cần đông người, nhưng có sức dẻo dai có thể di chuyển thần tốc theo ý muốn của ông. Oda Nobunaga là người Nhật hiếm có, đã nghĩ ra những chiến lược, chiến thuật với sáng kiến về thời gian hơn là sáng kiến về không gian. Sau khi chiếm được quyền cai quản lãnh địa của cha để lại rồi, ông lần lượt tiêu diệt bà con thân thích thuộc họ Oda ở xung quanh mình. Ðánh chiếm lãnh địa của họ cũng có, xúi giục họ đánh lẫn nhau rồi ám sát kẻ thắng cũng có, phần lớn là dùng mưu mô xảo quyệt thôn tính họ. Khôn khéo nhất là ông đã xui thái thú Shiba và phụ tá thái thú Oda Yamatonokami đánh lẫn nhau, rồi diệt luôn cả hai. Thế là ông đã thống nhất được quá nửa bán đảo Owari lúc mới 24 tuổi.
Trong suốt tám năm trời kể từ khi cha chết, Nobunaga chỉ lo thanh toán các hào trưởng trong vùng Owari. Thế rồi, hầu như vừa thanh toán xong vùng Owari thì xảy ra trận đánh nổi tiếng là trận Okehazama.
Trận Okehazama không phải là đánh úp
Trận Okehazama đã diễn ra năm 1560; tính tuổi đếm lúc ấy Nobunaga được 27 tuổi. Thời ấy tuổi 27 tương đương với giữa lứa tuổi 30, nghĩa là lúc con người đang trên đà phát triển; Nobunaga lúc đó hẳn là sung sức lắm.
Trận Okehazama có ấn tượng mãnh liệt nên đã được viết thành nhiều truyện. Nội dung thường được kể lại, có thể tóm lược như sau. Ðể đối lại đại quân ba vạn người của tướng Imagawa Yoshimoto, Oda Nobunaga với vẻn vẹn hai ngàn người đã xông tới, rồi nhằm lúc trung quân Imagawa Yoshimoto đang tránh mưa rào ở nơi cùng địa, đã đột kích vào, chém chủ tướng Yoshimoto. Mất ý chí chiến đấu, quân Imagawa tan rã phải rút lui. Tuy nhiên, trên thực tế trận này không phải là đánh úp. Mọi hành động của quân Nobunaga đều được phía Imagawa thấy rõ hết.
Ðiểm trọng yếu là, trong khi quân Imagawa tiến hành dọc theo tuyến đường dài, thì bị Nobunaga tấn công vào ngang hông. Xét địa hình và trạng thái đường lộ thời ấy thì ba vạn quân Imagawa phải xếp hàng dài trên 22 kilômét. Như vậy nếu bị đánh vào ngang hông thì sẽ yếu lắm. Do đó, phía Imagawa cũng đã chia quân phòng hờ hai bên trái và phải.
Thế nhưng, bị mưa rào nên gió đổi chiều. Nhằm đúng lúc đó, Nobunaga đã từ đầu gió đánh xuống và đã đoạt thắng lợi. Ðây là vì với đi quân của riêng mình, ông đã có thể đoán ngay, quyết định ngay và như thế đã nắm được lúc gió đổi chiều.
Có hai điểm người ta hay hiểu lầm về trận đánh Okehazama.
Thứ nhất, người ta dễ có thể tưởng tượng rằng Nobunaga nửa đêm đột nhiên thức dậy, vừa ngâm thơ vừa múa bài Atsumori: “Năm mươi năm đời người ta, nếu so trong thiên hạ thì chỉ như một giấc mơ…” rồi nhẩy phóc lên lưng ngựa phóng từ thành Kiyosu, lúc ấy là thành chính của ông, nhằm lúc địch quân không phòng bị, đánh úp mà được thắng lợi. Thế nhưng, sự thật không thể là như vậy được. Bởi vì, Nobunaga xuất quân khỏi thành Kiyosu
là hồi hai giờ sáng, nhưng tới Okehazama là lúc một giờ hay hai giờ chiều. Như thế, từ thành tới trận địa là khoảng 12 tiếng đồng hồ, nhưng khoảng cách này chỉ bằng quãng đường đi bốn, năm tiếng đồng hồ mà thôi. Trong khoảng thời gian này, ông đã ghé lại làm lễ ở đền Atsuta, chờ bộ hạ tụ tập lại đó. Ông đi vòng quanh mấy ải quan, thu nạp hết quân đội để tập trung lực lượng vào trận quyết chiến này. Ðến gần trưa, ông mới phát hiện được trung quân của Imagawa, ông bèn cho quân vào một ải gần đó chờ thời cơ. Những chuyển động vừa kể hẳn phe Imagawa cũng thấy rõ cả. Khu Okehazama này từ tám năm trước đã là lãnh địa của Imagawa, có thành quách, có ải quan của phe Imagawa. Thế nhưng may thay bỗng có mưa rào. Nobunaga đã đoán sẽ có mưa rào vì ngày hôm trước đã có mưa rào rồi, mà theo câu tục ngữ địa phương thì hẳn có “mưa rào ba ngày liền.” Ở chỗ này, điều quan trọng là Nobunaga đã nhận được báo cáo rằng “trung quân của Yoshimoto giữ nguyên đội hình, đang nghỉ ngơi trong thung lũng Okehazama.” Nobunaga đã ban thưởng công đầu cho Yanada Hirotada (Masatsuna), người đã đem thông tin này về.
Ðiểm thứ hai là sức thống suất của quân Nobunaga với sự kiện họ đã di chuyển liên tục, từ đông sang tây, trong hơn 12 tiếng đồng hồ. Quân Imagawa mặc dù nhìn thấy quân Nobunaga di chuyển như vậy mà không đối phó lại được. Ðó là vì họ vốn là quân đội liên hợp của nhiều hào trưởng, không thể ra lệnh một tiếng mà làm chuyển động ngay được. Ðương nhiên, phe Imagawa cũng nghĩ tương tự về quân Nobunaga, nên đã không cho rằng địch quân có thể tấn công toàn lực một cách bất ngờ như vậy. Do đó, sợ toàn quân bị rối loạn nên họ đã không gọi quân tiên phong trở lại, họ cũng không tìm cách để cho chủ tướng Yoshimoto thoát được ra vùng an toàn. Nghĩa là, tổ chức cứng ngắc của quân đội liên hợp hào trưởng, thì không thể tùy cơ ứng biến được. Từ đó, họ đâm ra đoán sai là có thể cầm cự bằng lực lượng năm ngàn người của trung quân dù có bị đánh vào bên hông.
Vì ấn tượng mãnh liệt của trận Okehazama theo truyền thuyết, nên hể nói đến Oda Nobunaga là nhiều người cho đó là võ tướng dụng binh thần tốc, giỏi đánh úp. Thế nhưng, thật ra với quân số ít mà nhờ đánh úp nên thắng được đại quân, thì trong đời Nobunaga cũng chỉ có hai lần. Một lần là trận Okehazama vừa kể, lần thứ hai là trận đánh với Ozaka Honganji năm 1576. Lúc đó ải Tennoji bi một vạn mấy ngàn quân nổi loạn bao vây. Nobunaga đã thống suất bốn ngàn quân phá trùng vây vào cứu bọn Akechi Mitsuhide cố thủ trong ải này. Chính Nobunaga cũng bị thương. Sở dĩ ông dám liều mạng như vậy là vì ông đoán rằng quân nổi loạn không nhất thống nên có thể thắng được.
Thành công lớn, song không lập lại cách làm như vậy. Ðây là điểm chứng tỏ lý trí đáng phục của nhân vật Oda Nobunaga. Người thường hễ thành công rồi thì hay làm đi làm lại cùng một phương thức. Trận Okehazama, Nobunaga đã dùng đoản binh mà thắng được đại quân, thì lần sau cũng lại áp dụng chiến pháp đó chăng? Nhưng không, Nobunaga đã không hề lập lại cái kinh nghiệm thắng của mình.
Trong những trận đánh sau, với mười lần xuất quân ra Mino, đánh Anegawa hay Nagashino, lần nào Nobunaga cũng điều động quân số nhiều hơn địch. Ðể được quân số đông hơn, ông đã không quản ngại khó khăn, không tiếc tiền, thậm chí không ngại mất thể diện. Chẳng hạn, trong trận đánh Anegawa, để đối lại 15 ngàn quân liên hợp Asakura
Arai, Nobunaga đã có tới 29 ngàn quân của riêng mình rồi; thế mà ông còn cầu cứu thêm viện binh của Tokugawa Yeyasu ở Mikawa, để có tổng số quân lên tới 34 ngàn người, mới đánh trận. Trong trận Nagashino cũng vậy, để đối lại hơn mười ngàn quân Takeda, Nobunaga đã điều động hơn 30 ngàn quân.
Ðiều động nhiều quân thì vừa mất thời gian vừa tốn tiền. Vì thế, cho đến lúc Nobunaga kéo được quân đội cứu viện, thì phe mình đã nhiều lần bị mất ải quan trước rồi. Ấy thế mà ông vẫn không hoảng hốt, không hấp tấp, vẫn bài binh bố trận đàng hoàng. Nhập trận, ông để cho địch tấn công trước, rồi sau khi chặn được đợt tấn công của địch rồi ông mới phản công mãnh liệt. Nghĩa là ông chuyên áp dụng chiến thuật “thắng sau.” Ðúng là chiến thuật cần có sức chịu đựng, có niềm tin bền bỉ.
Nhìn suốt cuộc đời Nobunaga, thì trận Okehazama là ngoại lệ của ngoại lệ, một chiến trận trái ngược với sở thích của Nobunaga. Mặc dầu vậy, chiến thắng đó thật là ngoạn mục. Nhờ chiến thắng Okehazama, Nobunaga đã cất được mối lo âu về phía đông, lôi kéo được Tokugawa Yeyasu (thời đó còn gọi là Matsudaira Motoyasu) bỏ phe Imagawa nhập phe mình, để ông yên tâm đánh dẹp miền “đàng trên[8],” hướng vào cách châu Mino, Ise, Omi rồi Kyoto. Sư lựa chọn như vậy cho thấy Nobunaga đã có con mắt chiến lược tinh tường. Thế nhưng, nói về chiến thuật và tác chiến thì Nobunaga chưa hẳn đã là tay giỏi. Chỉ một châu Mino mà ông đã mất bảy năm mới lấy xong. Trong khoảng thời gian đó, ông đã phải động binh tới mười lần, hầu hết bị thua.
Tuy nhiên, bỏ ra bảy năm với mười lần ra quân chỉ để chiếm Mino, đủ chứng tỏ cái chí bền bỉ, cái chân giá trị của Nobunaga vậy.
Phương sách “phân ly binh nông” thể hiện nhu cầu thời đại
Vậy một người vụng về chiến thuật và tác chiến như vậy, lại đã hoàn thành được tới 70 phần trăm cái chủ trương chính trị “thiên hạ bố võ[9],” là tại sao?
Ðiều thứ nhất Nobunaga đã thực hiện, là trả tiền cho binh sĩ. Nói cách khác, ông đã áp dụng đường lối “tách rời binh nông,” tức là tách quân lính ra khỏi nông dân.
Tuy nhiên, nếu chỉ coi hiện tượng “tách rời binh nông” là sự kiện một loại lính nhà nghề, không làm nông nghiệp nữa, đã xuất hiện, thì phải nói họ Asakura ở vùng Hokuriku đã thực hiện đầu tiên. Như kể trên, nhờ năng suất nông nghiệp cao lên, nên có một loại võ sĩ samurai không cần canh tác ruộng đất mà cũng có ăn. Họ không cần tự mình đứng ra quản lý đất đai nữa, mà có thể trao công tác này cho quản gia. Còn bản thân họ thì sống ở thành thị, bên cạnh chúa, tham gia vào hoạt động xã giao, bàn luận việc chính trị.
Nhờ kinh tế phát triển mà binh và nông đã tự nhiên tách rời nhau ra, là hình thức đã phát sinh ở vùng kinh kỳ, vùng Etsuzen từ trước thời Nobunaga, song sự việc đó không có ý nghĩa chính trị quân sự đáng kể nào cả. Ngược lại, vì có thêm nhiều gia thần ở địa vị cao tụ tập xung quanh, sinh ra thói họp hành bàn bạc làm cho việc nước chỉ thêm dềnh dang hơn mà thôi.
Cơ chế “tách rời binh nông” của Nobunaga thì trái ngược hẳn. Nó đã được thực hiện từ hàng võ sĩ hạ cấp trở lên. Nghĩa là, ông đã lập ra một đội quân trả lương. Ðiều này làm cho quân đội của Nobunaga khác hẳn các quân đội khác. Ðây là điểm xuất phát của nhiều cải cách khác nữa.
Thời chiến quốc tuy nói là đời “hạ khắc thượng,” song không hề thấy một võ sĩ vô danh tiểu tốt, một nhân vật với lai lịch không rõ rệt nào, lại có thể trở thành một đại võ tướng được. Hàng thái thú, quận thú, lại càng không thấy có như vậy. Những người như Hojo Soun, Saito Dosan, Matsunaga Hisahide tuy xuất xứ không rõ rệt song đều là những
quận thú đáng nể cả. Phương pháp của họ là, trước hết đóng vai sư trà đạo[10] hay thương gia để được gần gũi gia đình thái thú. Từ đó họ tìm cách làm thân với con gái, rồi vào ở rể nhà thái thú. Hoặc, họ làm thân với vị gia thần trưởng lão, rồi tìm cách lật đổ thái thú đi.
Tuy nhiên, trong đám gia thần của Nobunaga thì không ít người lai lịch xuất xứ không rõ rệt, đã trở thành đại tướng. Bọn Hashiba (sau này đổi tên là Toyotomi) Hideyoshi, Akechi Mitsuhide, Takigawa Kazumasu đều là như vậy cả.
Tại sao việc này lại chỉ xẩy ra ở dòng họ Oda, chứ không xẩy ra ở các dòng họ khác? Muốn hiểu rõ điều này, cần phải xét chế độ quân binh thời đó. Như đã kể trên, trước khi Nobunaga xuất hiện, quân binh là do các hào trưởng chiêu mộ tráng đinh trong thôn xóm họ, rồi tự họ đứng làm đội trưởng. Những đội binh như vậy tụ tập lại thành quân đội lớn. Chẳng hạn, quân đội của Shibata Katsuie là gồm những tráng đinh trong lãnh địa của ông tụ tập lại mà thành.
Vì thế, những người không có lãnh địa thì không có gia thần, hoặc nếu có cũng chỉ có hai, ba người, bởi vì tiền lương hoặc thóc gạo chủ cấp cho chỉ có thể nuôi được một sốngười ít ỏi. Tiêu chuẩn thời đó là cứ chỉ huy năm binh lính thì được cấp bổng lộc một năm là 100 hộc lúa (mỗi hộc khoảng 180 lít). Như thế, muốn chỉ huy một đi quân 500 người thì phải có lãnh địa đủ cung cấp một vạn hộc lúa.
Miyamoto Musashi[11] hình như có tham chiến trong trận Sekigahara. Ông đã được mướn vì có võ nghệ siêu quần. Song dù cho là bậc kiếm hào, nhưng chỉ với tài cá nhân như vậy, thì cao lắm cũng chỉ được bổng lộc 100 hộc lúa. Ấy là chưa kể, ông đã tham gia vào phe chiến bại, cho nên chẳng được chức tước gì cả. Ngay cả nếu tham gia vào phe thắng đi chăng nữa, rồi lập công hai lần ba lượt, thì cũng chỉ được bổng lộc 300 hộc là cùng. Thủ hạ chỉ có 15 người.
Thế nhưng Nobunaga có nhiều lính thuê bằng tiền, không có quan hệ gì với lãnh địa cả. Có đội trưởng không có lãnh địa, nhưng đã có tiền thuê hàng mấy chục, mấy trăm lính.
Tuy nhiên, thời đó dùng lính thuê bằng tiền, thường là vất vả và bị mang tiếng. Ðó là vì, thời ấy những người lương thiện thì đều phải thuộc một tổ chức nào đó. Cho nên, binh lính thuê bằng tiền như vậy chỉ là những thành phần lưu lạc giang hồ, hành khất, du thủ du thực.
Nông dân thì thuộc vào xóm làng, thày chùa thuộc vào chùa chiền, đạo từ thuộc vào đền miếu, mỗi người đều có tổ chức riêng biệt. Người đi buôn cũng phải thuộc vào một tập thể, gọi là “za (tổ buôn)” mới làm ăn được. Buôn bán lén lút bị cấm, và là tội phạm. Nghĩa là thời trung cổ như vậy ai ai cũng phải thuộc vào một tập thể nào đó. Cho nên nếu không thuộc vào một đoàn thể, tập thể nào cả thì bị coi là “du thủ du thực (ruronin)”, tương tự như người vô gia cư (homeless) ngày nay vậy. Còn tệ hơn thế nữa, tên gọi đó gần đồng nghĩa với người tội phạm.
Thời Nobunaga dân số tăng vọt lên, nên phát sinh ra nhiều ruronin. Hàng hóa lưu thông nhiều, nên chỉ những thương nhân thuộc những đoàn thể chính thống không thôi, thì không đủ giải quyết. Do đó, dù cấm mấy cũng không ngăn chặn được những người buôn bán lén lút. Ngay như Hideyoshi cũng đã có một thời bán kim khâu, rõ ràng là buôn bán lén lút, buôn lậu.
Binh lính do Oda Nobunaga thuê là những người như vậy. Nhân cách thì xấu, đánh
trận thì yếu. Bởi thế, mặc dầu Nobunaga đánh ra Mino với số quân đông gấp ba mà vẫn bị thua nhiều lần. Ðiều này là chuyện đương nhiên. Thời đó, binh sĩ, nhất là đám hạ sĩ quan, liều chết ngoài chiến trận chẳng phải vì trung thành với chủ, cũng chẳng phải vì sợ bị thần phạt. Họ chỉ sợ khi trở về làng bị bà con xỉa xói: “Thằng ấy bỏ chạy trước. Nó là thằng hèn. Vì nó bỏ chạy nên mọi người bị khổ lây.” Nói cách khác, chỉ vì muốn lên mặt với bà con lối xóm nên họ đã đánh trận chối chết. Thế nhưng, binh sĩ đánh thuê cho Nobunaga chẳng có tập thể, chẳng có cộng đồng nào để trở về cả, cho nên có tiền ở trong thành thì ăn to nói lớn, song ra trận thì hể thấy nguy là bỏ chạy trước. Cái khuynh hướng này tiếp diễn cho tới trận Nagashino.
Trận Nagashino là trận Nobunaga dùng súng (súng nòng thép) bắn tan quân Takeda, thế mà quân Nobunaga cũng giảm đi mất bốn ngàn người, không phải vì bị thương hay tử trận, mà vì đã bỏ chạy trước khi lâm trận. Ấy đấy, họ là những binh lính thiếu tin cậy như vậy đó.
Chiến thuật mới là “chơi xấu”
Nobunaga thuê toàn hạng lính yếu hèn như vậy cho nên thua trận luôn. Ðến nỗi các gia thần đã phải phàn nàn rằng “Sao tiểu chủ lại làm việc khờ dại như vậy? Sao không để bọn tôi đem quân nông dân từ lãnh địa ra đánh trận thay cho?” Cái lý do lớn nhất Nobunaga bị gọi là “thằng đại ngu,” là như vậy. Thế nhưng Nobunaga tin tưởng rằng quân đội yếu nhất Nhật Bản của ông lại có thể chinh phục thiên hạ được. Bởi vì mỗi trận đánh thì họ yếu thật, song họ đánh lúc nào cũng được và đánh mãi cũng được. Lính nông dân mạnh thật. Nhưng lúc mùa màng họ phải về quê gặt hái, cầy cấy. Nếu cả hai bên địch ra đều là lính nông dân cả, thì đến lúc mùa màng hai bên tự nhiên phải ngưng chiến. Thế nhưng, lính do Nobunaga bỏ tiền nuôi, thì không gặt cũng không cấy lúa. Nhằm lúc bên địch chỉ còn vài chục người giữ ải thôi, thì với một ngàn, hai ngàn quân bao vây, thế nào ông cũng thắng dù là với quân đội yếu hèn.
Như thế, ông chiếm được một, hai, ba quan ải hay thành trì, thì vừa đúng lúc việc canh tác xong, lính nông dân trở lại chiến trường. Nobunaga lại thua, bỏ chạy. Một số tử trận có, bỏ trốn có, nên quân số giảm đi. Nhưng, đem tiền ra mua chuộc thì bọn người du thủ du thực, khất thực lại tụ tập tới và quân số lại tăng ngay.
Thế nhưng, phía lính nông dân thì không như vậy được. Họ còn phải nuôi cả gia đình sống sót của người đã tử trận nữa. Thậm chí, nếu ngay trong lúc mùa màng mà cũng bị động viên nữa, thì nông dân chịu không nổi. Do đó, họ nghĩ rằng thà chịu cho Nogunaga cai trị còn hơn. Thế rồi, họ chịu bị “thuyết hòa” và dần dần chịu thần phục Nobunaga.
Nobunaga dùng tiền thuê lính nên dù bộ đội yếu hèn cũng có thể đánh dẳng dai, đánh mãi không chán. Kẻ địch của Nobunaga đều chịu thua vì sự dẳng dai này. Chẳng hạn, Asai Nagamasa là một võ tướng giỏi, thành Kotani của ông được coi như vững không thể hạ được. Quân mạnh và đoàn kết chặt chẽ. Ông nghĩ rằng chỉ cần cố thủ trong thành là sẽ thắng, hay ít nhất cũng không thua. Ông cho rằng phe tấn công sẽ phải lui trước khi mùa gặt tới và ông đã chỉ chuẩn bị lương thực dựa vào ý nghĩ đó mà thôi. Thế nhưng binh của Nobunaga là binh lãnh lương nên họ không triệt thoái. Họ xây thành phụ bên cạnh thành Kotani để canh chừng, bao vây lương thực. Ðó là chiến thuật của Nobunaga. Asai Nagamasa vì không thấy Nobunaga chịu đường đường đối chọi với quân mình mà chỉ
dằng dai bao vây lương thực, đã gọi Nobunaga là “đồ hèn,” rồi chết.
Nói chung, những chiến lược chiến thuật gia giỏi đều thoạt đầu là đồ hèn cả. Bởi vì họ đã phá vỡ cái thường thức từ trước, nên bị gọi là đồ hèn. Trong trận Gempei, họ Minamoto đã thắng trận hải chiến là nhờ Minamoto Yoshitsune bắn chết người lái thuyền. Cho đến thời ấy, phàm đánh thuyền, người ta chỉ bắn chết võ sĩ samurai tức là thành viên chiến đấu, chứ cả hai bên đều tránh không bắn chết lái thuyền vì đó không phải là thành viên chiến đấu. Bởi nếu làm như vậy, sau này ngư dân lái thuyền sẽ không chịu đầu quân nữa, và thủy quân sẽ không thành được.
Yoshitsune vốn là người miền Ðông, không nghĩ xa tới tương lai thủy quân, nên đã phá lệ cũ, nhằm bắn người lái thuyền trước nhất. Người lái thuyền không mặc giáp trụ, nên bị trúng tên thì bị thương nặng không lái thuyền được nữa. Vì vậy, họ sợ bỏ chạy hết, khiến đoàn thuyền của Heike không xoay xở được. Các tướng Heike đã thốt lên “Yoshitsune là đồ hèn!” mà chết đi.
Về chiến lược, hay trên mặt kinh doanh cũng thế, người đầu tiên nghĩ ra phương pháp mới đều là phá bỏ cái cũ, cái thường thức đi. Như vậy, cũng có thể coi đó là hèn, hay ít lắm cũng là chơi xấu. Tuy nhiên, chính ở đó mới có tính sáng tạo. Nobunaga là người giầu tính sáng tạo, tuyệt đối tin tưởng vào con mắt tiên kiến của mình. Ông không hề sờn chí vì một hay hai lần thất bại. Ngược lại, ông dẳng dai đối phó làm cho địch thủ phải ngán. Ngay từ đầu, ông đã tiên liệu sự thất bại và lời chê bai của người đời vậy.
Cơ chế thị trường tự do “chợ vui, tổ buôn vui” đã làm đổi nền kinh tế
Ðiều thứ hai cần suy nghĩ về đường lối chiến tranh và chính trị của Nobunaga, là nguồn gốc tài chính. Ðiểm này tất cả các tiểu thuyết hoặc sử sách từ trước tới nay đều bỏ qua không bàn tới.
Nếu đã dùng tiền để thuê lính đánh trận, đương nhiên Nobunaga cần có rất nhiều tiền. Tiền đó lấy ở đâu ra? Dĩ nhiên nếu lãnh địa tăng lên thì lúa gạo hoa màu thu được cũng nhiều, bán đi hẳn được nhiều tiền hơn. Thế nhưng, tiền như vậy vẫn chưa đủ. Vì vậy, Nobunaga đã nghĩ ra cơ chế “chợ vui, tổ buôn vui.”
Theo lịch sử ghi chép, thì Nobunaga lần đầu tiên áp dụng cơ chế “chợ vui, tổ buôn vui” ở chợ Kano, là năm 1568 sau khi chiếm xong đất Mino. Ðương nhiên, khi đã thành văn như vậy nghĩa là chế độ đã hoàn thành, và như vậy hẳn đã phải có một thời gian thử nghiệm trước đó rồi. Hẳn là một mẫu hình của cơ chế “chợ vui, tổ buôn vui” đã phải được áp dụng ở vùng Owari từ trước đó mấy năm rồi.
Trước đó, khắp nơi có cửa quan và các tổ buôn. Hàng hóa muốn được lưu thông thì phải đóng thuế (thuế thông hành) cho đền chùa hay hào trưởng mỗi khi qua cửa quan. Thương nhân thì tổ chức thành tổ, thành nhóm, nộp tiền vận chuyển, hoặc cho đền chùa hay cho quý tộc ở kinh đô.
Nobunaga đã bãi bỏ cửa quan và tổ buôn đi. Thoạt mới nhìn thì tưởng làm như vậy không thu được thuế nên tiền không vào nữa. Nhưng Nobunaga đã dám làm. Ðương nhiên, những đền chùa hoặc quý tộc có thu nhập từ những cửa quan đều phản đối. Về sau, Nobunaga đốt chùa Hieizan, chùa Ishiyama-Honganji hay đánh nhau với shogun Ashikaga, cũng đều là vì vấn đề bãi bỏ cửa quan và tổ buôn này.
Nói theo lối ngày nay, thì bãi bỏ cửa quan và tổ buôn là một hình thức giảm bớt quy chế, luật lệ. Ðương nhiên, những người thuộc thể chế cũ phản đối, song kinh tế tự do phát triển, thì sinh ra sức mạnh kinh tế lớn. Nhất là đối với Nobunaga, ông cần có tiền nuôi quân đội, thì sự tự do hóa làm cho kinh phí lưu thông giảm bớt đi, ông có thể bán đắt sản vật vùng Owari để mua rẻ súng ống. Cái đó mới quan trọng.
Xưa nay, có cửa quan hay có tổ buôn thì có tiền vào nhất thời, song thực tế là tốn kém hơn. Nhất là đối với Nobunaga, ông phải mua nhiều quân trang quân cụ nên chính ông là người mua nhiều nhất. Vậy, để cho hàng hóa lưu thông dễ dàng, kinh phí lưu thông rẻ đi là điều cần thiết đối với ông. Ông biết rằng nếu kinh tế phát đạt, thì nhờ thế nguồn thu nhập của ông cũng sẽ tăng lên.
Cho dù thu nhập tài chính nhất thời có giảm đi, song cứ tự do hóa để cho kinh tế phát triển, là chính sách kinh tế mà tổng thống Mỹ Reagan (gọi là Reaganomics) đã áp dụng. Chính sách như vậy Nobunaga đã nghĩ ra từ thế kỷ thứ XVI và đã áp dụng thành công, thì quả thật Nobunaga là một bậc thiên tài.
Ðường lối “chợ vui, tổ buôn vui” làm cho kinh tế phát triển, thì tiền “thuế” thâu được nhiều. Rồi với tiền đó, lại thuê thêm lính, mở rộng lãnh địa hơn, tức là lại có cơ sở thu thuế được nhiều hơn nữa. Như vậy là đã tạo ra được cái “vòng thiện.” Ðồng thời đã thay đổi được tổ chức.
Sự thay đổi tổ chức và sự xuất hiện của “binh gia” chuyên nghiệp
Quân đội vốn do các hào trưởng mộ tập từ xóm làng dắt tới. Người dắt tới như vậy đương nhiên có tiếng nói quan trọng. Họ trở thành một tập thể gia thần với quyền lợi cá nhân của họ được coi là ưu tiên. Cái gọi là “24 tướng lĩnh của Takeda” chính là bọn hào trưởng cai trị các địa phương của châu Koshu mà Takeda làm chúa.
Nobunaga đã bắt đầu dùng lính thuê. Các hào trưởng, gia thần của ông lấy thế làm bất mãn, và do đó đã liên tiếp xẩy ra những vụ âm mưu ám sát ông. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì người cha đã sáng lập ra công ty, rồi người con kế nghiệp làm ông chủ đời thứ hai, song ông chủ đời thứ hai này đã xuất hiện trong bộ quần “gin” áo blu-dông da, ưu đãi bọn du thủ du thực và bọn người làm mướn. Ðương nhiên, các nhân viên kỳ cựu từ đời cha sáng lập, phải thì thầm với nhau rằng: “Không thể để như vậy được! Phải đổi người em lên làm tổng giám đốc.” Thế nhưng, ông tổng giám đốc trẻ tuổi đời thứ hai lại có nhiều sáng kiến làm cho công ty phát đạt. Không những thế, ông cắt bỏ những mặt hàng cũ, bắt đầu những mặt doanh thương mới. Nhân viên thì ông không chú trọng tới bằng cấp, thâm niên nữa, mà để cho mọi người thi đua tự do. Nếu trước kia, công ty lợi dụng mối quan hệ tốt với các cơ quan nhà nước để bán sản phẩm với giá đắt, thì nay ông bỏ lối làm ăn đó đi, quay sang bán rẻ để thu hút khách hàng từ quảng đại quần chúng. Ông phế bỏ những đại lý cũ đi, mà bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Hơn thế nữa, với các cấp chủ nhiệm, trưởng phòng và các nhân viên êlít xuất thân từ các đại học danh tiếng, thì ông tuyên bố: “Tụi bay chớ có chõ mõm vào. Tao làm việc với đám nhân viên cưng mới tuyển kia.” Thực tế, ông đã dùng toàn những nhân viên ít học, mới mướn. Ngay cả Toyotomi Hideyoshi (sau này thay ông làm chúa thiên hạ) đã từng buôn lậu, tức là phần tử đáng lẽ đã bị gạn lọc ra khỏi xã hội coi trọng học lực, song cũng được ông trọng dụng. Ông lần lượt đưa những người như vậy vào để triệt để cải cách tổ chức.
Trong trận Nagashino năm 1575, Nobunaga, năm ấy 42 tuổi, đã dàn ba ngàn tay súng bắn tan đội quân khét tiếng là vô địch của Takeda. Truyện này đã trở nên quá nổi tiếng. Nhưng tại sao ông đã làm được như vậy? Hay nói đúng hơn, tại sao những lãnh chúa khác lại không làm được như vậy?
Bảo rằng Nobunaga có con mắt tiên kiến nên đã biết súng là một võ khí lợi hại, thì không đúng hẳn. Thời ấy, hầu hết các lãnh chúa đều biết súng là võ khí lợi hại cả. Ngay như họ Mori thì từ 20 năm trước đó, đã ghi lại rằng binh sĩ bị thương nhiều nhất vì bị súng bắn. Tuy nhiên, sử dụng súng một cách tập trung triệt để như Nobunaga thì chưa ai biết làm, cũng chưa ai làm được, trước đó cả. Lý do là họ không có căn bản tài chính để mua nổi ba ngàn khẩu súng.
Lính tráng thời ấy là do các hào trưởng dắt tới, cho nên võ khí, lương thực đều phải tự túc. Hào trưởng thì cưỡi ngựa mặc giáp trụ. Lính nông dân kha khá một chút mới có súng vác theo. Vì thế, súng tuy có thật song tính theo đơn vị bộ đội của mỗi thôn xóm thì số súng chỉ chiếm khoảng 5 tới 10 phần trăm. Như vậy, muốn lập một đội súng thì phải gom mấy tay súng của thôn A, cộng với vài tay súng của thôn B, thêm vào đó dăm cây súng của thôn C, v.v.. Chừng đó, người hào trưởng thôn A sẽ kêu lên: “Không thể dắt thằng đó của tôi đi được.” Hào trưởng thôn C thì nói: “Người thôn khác tới đây đâu được!” v.v..
Thế nhưng, Nobunaga thì tự bỏ tiền ra mua súng phát cho lính, lính cũng do chính mính bỏ tiền ra thuê. Vì vậy chỉ riêng họ Oda đã lập ra được đội quân bắn súng. Còn đám tướng sĩ cưỡi ngựa trước kia thì bị gạt lui xuống hậu trường. Nói cách khác, đám người mới tuyển chỉ có học lực trung học thì được ưu đãi, còn nhóm êlít tốt nghiệp đại học thì bị cho ngồi chơi xơi nước. Ðương nhiên, bọn ngồi chơi xơi nước này phản ứng. Nhưng Nobunaga không sợ, không chùn, đã quyết tâm làm và làm được.
“Rải võ ra khắp thiên hạ” và ý thức “quốc gia”
Cái đáng phục của Nobunaga là ông đã sáng tạo ra một loạt cơ chế mới, từ tổ chức, tài chính, nhân sự tới chiến lược chiến thuật. Nhờ đó, xã hội đã đổi hẳn bộ mặt. Nói cách khác, đường lối của Nobunaga đã gây ra một luồng biến đổi từ xã hội trung cổ sang xã hội cận đại, xã hội hiện đại, về mọi mặt, từ tài chính, kinh tế, tới quân sự.
Tất nhiên, các thế lực thủ cựu đều phản đối, và vì thế, các vụ âm mưu ám sát Nobunaga đã xẩy ra không dứt. Vụ Akechi Mitsuhide được nổi tiếng vì đã thành công, song trước đó đã có biết bao nhiêu vụ âm mưu ám sát ông rồi. Như đã nói, ngay từ khi còn ở Owari đã có nhiều vụ âm mưu như vậy, cho tới khi ông vào kinh đô thì những vụ đó tiếp diễn liên tục. Asai Nagamasa lấy em gái ông, tên là O-Ichi, đã đồng lõa với họ Asakura làm loạn. Mạc chúa Ashikaga Yoshiaki, vốn được Nobunaga đôn lên địa vị đó, đã chống lại ông ba lần. Matsunaga Hisahide, thì dù biết chẳng làm nên cơm cháo gì, cũng đã dương cờ phản hai lần. Gia thần có ảnh hưởng lớn là Araki Murashige ở vùng Settsu cũng làm phản. Nghĩa là, vì Nobunaga đã thực hiện cải cách, không nhìn nhận những quyền đã có, nên đám gia thần có ảnh hưởng từ trước đã phản kháng liên tục. Nhưng Nobunaga không sờn lòng, cứ tiếp tục đường lối cải cách của mình.
Kết quả cải cách của Nogunaga đã để gì lại cho lịch sử Nhật Bản? Trước hết với phiêu ngữ “Rải võ ra khắp thiên hạ,” ông đã thống nhất được một nửa nước Nhật. Chính vì có Oda Nobunaga, mà sau này mới có Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Yeyasu, những
người đã thống nhất được Nhật Bản. Chính Nobunaga là người đã sáng lập ra nước Nhật tập quyền trung ương kiểu hiện đại.
Thời mạc phủ Ashikaga trước đó, rồi thời mạc phủ Kamakura trước nữa, đều đã nhìn nhận sự phân quyền của quý tộc, của đền chùa và của samurai có lãnh địa. Tình trạng phân quyền như vậy đã được duy trì cho tới khi Nobunaga hô hào “rải võ ra khắp thiên hạ,” nâng tầng lớp võ sĩ samurai lên thành thế lực chính trị duy nhất trong thể chế tập quyền trung ương mà chế độ luật lệnh thời cổ đã hướng tới.
Nhật Bản là nước từ xưa đã được thống nhất về mặt lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, cả đến tín ngưỡng và tập quán. Song về mặt chính trị, thì cái ý thức quốc gia coi Nhật Bản là một nước duy nhất, càng ngày càng trở nên mỏng manh hơn, kể từ thời cổ tới sau thời đại Nara. Nhận thức điều đó rõ ràng và làm sống lại ý thức quốc gia chính là Nobunaga vậy.
Nếu Nobunaga không tỏ ý muốn thống nhất thiên hạ mạnh mẽ như vậy, thì Nhật Bản có thể đã trở thành một liên bang giống như Ðức, Italia hay Ấn Ðộ. Người Nhật từ xưa vẫn có ý thức mạnh mẽ coi đất nước Nhật là một “thiên hạ”, song cái ý thức rằng “bởi đây là một nước nên mỗi người đều phải phục tùng một chính phủ, phải chấp nhận một chính quyền chung” như người Nhật ngày nay quan niệm về chế độ tập quyền trung ương, thì đã mất đi mất rồi. Chủ trương như vậy và bằng hành động của chính mình làm sống lại chế độ đó, chính là Nobunaga với đường lối cải cách và tập quyền của ông vậy.
Nếu Nobunaga sống thêm mười năm nữa, thì nước Nhật sẽ ra sao? Ðó không phải chỉ là một cái “nếu của lịch sử,” mà thực ra nó làm cho người ta tưởng tượng được xa hơn nhiều. Bởi vì Nobunaga đã vẽ ra được hình ảnh nước Nhật sau khi ông thống nhất được thiên hạ.
Thời kỳ chiến quốc có nhiều võ tướng tài ba. Takeda Shingen, Uesugi Kenshin, Mori Motonari đều là những võ tướng tài ba cả. Thế nhưng, chỉ có hai người đã làm sáng tỏ được vấn đề “sau khi thống nhất được thiên hạ rồi thì trị nước ra làm sao?” Ðó là Oda Nobunaga và Tokugawa Yeyasu. Võ tướng, lãnh chúa thời chiến quốc mà lại có cái nhìn tổng quan như vậy thì quả là hai người này xuất sắc hơn cả.
Trong hai người, thì Nobunaga, với tư tưởng “rải võ ra khắp thiên hạ,” đã có kế hoạch rõ rệt là thực hiện quyền thống trị toàn quốc bời tầng lớp võ sĩ được thâu tóm lại, với chính ông đứng ở thượng đỉnh, để lập ra một vương chế tuyệt đối, tức là một chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối. Trước hết, ông chủ trương rằng, tôn giáo chỉ nên dừng lại ở trong tâm người ta. Nói cách khác, đó là một hình thức phân tách chính trị khỏi tôn giáo. Vì thế, chính Nobunaga đã không trở thành một nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời ông cũng không can thiệp vào vấn đề tín ngưỡng. Thứ nhì, ông nghĩ rằng vua (thiên hoàng) và công khanh thì chỉ nên chăm lo mặt nghi lễ, văn hóa. Còn quyền chính trị thế tục thì hoàn toàn phải do tầng lớp võ sĩ samurai nắm giữ. Hơn thế nữa, ông không chấp nhận sự phân quyền cho địa phương, mà chủ trương lập ra một chính phủ tập quyền trung ương, một vương quyền tuyệt đối vậy.
Nobunaga không hề giấu giếm cái tư tưởng như vậy. Vì thế, ông không cho kẻ địch đã đầu hàng được quyền tự trị. Về điểm này, thì Hideyoshi nối tiếp sự nghiệp của Nobunaga, đã bị sa đọa nên đã nhìn nhận Mori, Uesugi, chứ nếu là Nobunaga thì ông đã tiêu diệt những người này đi rồi. Ðó là vì ông phải làm như thế mới xác lập được vương quyền tuyệt đối vậy.
Viễn tượng về một vương quyền tuyệt đối đầu tiên trong lịch sử thế giới
Cái đáng sợ của Nobunaga là ông không để a tới cái lợi trước mắt, mà kiên trì theo đuổi niềm tin của mình. Khi phong đất cho gia thần, ông cũng không cho họ quyền tự trị. Chẳng hạn, khi phong đất Etsuzen cho Shibata Katsuie, ông bảo phải phục tùng mệnh lệnh của ông, cấm không cho nằm ngủ duỗi chân về phía ông[12].
Không những thế, Nobunaga hình như đã có chủ ý trong việc phân công các gia thần của mình vào công tác trấn giữ các địa phương. Chẳng hạn, ông phong cho Hideyoshi làm Hashiba Etsuzen no Kami (thái thú châu Etsuzen, nay là phía bắc đảo Kyushu), Akechi Mitsuhide làm Koreto Hyuga no Kami (thái thú châu Hyuga, nay là tỉnh Miyazaki, phía nam đảo Kyushu). Lại nữa, Niwa Nagahide được ông phong cho họ Koreto và cho trấn giữ miền tây. Ðại để, ông để cho ba thủ hạ thân tín này cai quản đảo Kyushu. Một mặt, ông để cho Shibata Katsuie trấn giữ hai châu Dewa và Etsugo, Takigawa Kazumasu thì cho giữ châu Kita-Kanto, rồi Tokugawa Yeyasu thì hình như định giao cho giữ châu Mutsu rộng 1 triệu 600 ngàn hộc. Nghĩa là ông đã phân công cho bọn Tokugawa trấn giữ toàn quốc, và định thâu tóm quyền quản lý trực tiếp về trung ương. Ông đã có ý định rõ rệt như vậy.
Ðồng thời, Nobunaga tuy xuất thân từ vùng Owari, nhưng đã đóng đô ở thành Gifu, rồi lại đổi sang ở thành Azuchi, và nếu còn sống, hẳn ông đã đổi sang ở thành Ozaka. Các võ tướng lãnh chúa thời chiến quốc thường bám chặt lấy nơi quê quán. Chẳng hạn, Takeda Shingen cố thủ Kaitsutsujigasaki, Uesugi Kenshin không rời khỏi Kasugayama. Trong khi đó, Nobunaga lần lần đổi sang ở nơi tiện lợi hơn. Bởi vì ông coi việc thực hiện một vương chế tuyệt đối trên toàn quốc Nhật Bản là mục tiêu của mình, nên không câu nệ tính địa phương của nơi đóng bản doanh.
Thời ấy, vua Tây Ban Nha Felippe II và nữ hoàng Anh quốc Elizabeth I cũng đang xây dựng vương chế tuyệt đối nhưng không có tính cách triệt để như thể chế Nobunaga định lập ra. Phải chờ đến khoảng một trăm năm sau một vương chế như vậy mới thành hình dưới thời vua Pháp Louis XIV. Nếu Nobunaga thực hiện xong việc “rải võ ra khắp thiên hạ,” thì ở Nhật Bản đã xuất hiện một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối đầu tiên trên thế giới vậy.
Những người như thế nào đã sống trên thế giới thời đó? Thế giới lúc đó đã có nhiều người đáng chú ý. Nga hoàng Ivan IV, người đã cải cách nước Nga, sinh trước Nobunaga bốn năm và mất sau Nobunaga hai năm. Vua Felippe II, người đã lập ra hạm đi vô địch của Tây Ban Nha, thì sinh trước Nobunaga bảy năm và sống thêm 16 năm nữa sau khi Nobunaga đã mất. Nữ hoàng Anh Elizabeth I hơn Nobunaga một tuổi song sau này mới hoạt động mạnh. Họ đều là người cùng thời với Nobunaga. Có thể nói Nobunaga đã có ý thức thống nhất Nhật Bản sớm sủa không thua kém gì các bậc đế vương châu Âu vậy.
Bởi thế, nếu Nobunaga sống thêm 10 năm nữa, thì Nhật Bản hẳn đã trở thành một nước có nền quân chủ chuyên chế tuyệt đối, đã có chính sách trọng thương[13] và như vậy đã phát triển kinh tế, kỹ thuật. Thế nhưng sau khi Nobunaga mất đi, thì Nhật Bản có thể đã bị ngoại bang xâm lược.
Ðối lại, Tokugawa Yeyasu đã áp dụng chính sách bế môn tỏa cảng, giữ cho Nhật Bản khỏi bị ngoại xâm. Song, ông đã làm cho Nhật Bản trở thành một nước không có gì hấp
dẫn cả. Nếu Oda Nobunaga sống, thì chắc chắn ông đã làm Nhật Bản thành một nước sinh động hơn, náo nhiệt hơn. Lịch sử Nhật Bản hẳn đã đổi khác đi nhiều. Với ý nghĩa này, Nobunaga còn có thể coi là một phần “lịch sử Nhật Bản đã bị phủ nhận”.
Tuy nhiên, Nobunaga là người đầu tiên tỏ rõ ý chí thống nhất và lập ra một chính thể tập quyền trung ương ở Nhật Bản, sau khi nước này đã bị phân hóa kể từ thời trung cổ. Ðồng thời, ông đã để lại “thần thoại” chứng minh rằng nước Nhật có thể cải cách được. Vì vậy, mặc dù đường lối “rải võ ra khắp thiên hạ,” của ông đã chỉ mới hoàn thành nửa chừng, song những gì ông để lại cho Nhật Bản quả là lớn lao.
[1] Thiên hoang là chỉ lúc thiên hạ còn hỗn độn chưa mở mang. Phá thiên hoang là chỉ việc làm có tính cách khai thiên lập địa, chưa từng có.
[2] Thời chiến quốc Nhật Bản là kể từ loạn Onin (1467-1477) cho tới lúc Oda Nobunaga đứng ra thống nhất thiên hạ (1582). Khác với thời chiến quốc Trung Hoa (403- 221 trước công nguyên).
[3] Francisco Xavier (1506-1552) là giáo sĩ Cơ đốc thuộc dòng Tên (Jésuites) đầu tiên đặt chân lên đất Nhật. Ông là người đầu tiên đã dùng mẫu tự La-tinh phiên âm tiếng Nhật. Tương truyền rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes, cũng thuộc dòng Tên, đã tham khảo công trình của Xavier trong việc hoàn thành phương pháp viết tiếng Việt bằng mẫu tự La-tinh năm 1651. Cho nên, chỉ nêu tên Alexandre de Rhodes trong sự nghiệp La-tinh hóa Việt ngữ là thiếu sót!
[4] Chẳng hạn Christopher Columbus đã tìm ra châu Mỹ vào cuối thế kỷ thứ XV (1492). Ở Việt Nam, nhân vật này hay được gọi là Christophe Colombe, tức là đọc theo tiếng Pháp. Thật ra, ông là người Italia, nên đáng lẽ phải gọi ông bằng tên tiếng Italia, tức là Cristoforo Colombo. Cách đọc ở đây, Christopher Columbus, là theo tiếng Mỹ (Anh).
[5] Shosoin là một viện bảo tàng lập ra ở Nara vào thế kỷ thứ VIII để tàng trữ hơn ch ín ngàn bảo vật của thiên hoàng Shomu (701-756).
[6] Trận đánh quyết định giữa hai phe, một bên là Ishida Mitsunari và một bên là Tokugawa Yeyasu. Tất cả các lãnh chúa thời đó đều đã về phe với một trong hai võ tướng này. Phe Tokugawa đã thắng trận và do đó Tokugawa Yeyasu đã lên làm chúa lập ra mạc phủ Tokugawa kéo dài gần 300 năm ở Edo (Tokyo ngày nay).
[7] Cửa quan là nơi kiểm soát người đi lại và hàng hóa lưu thông, vừa có trách nhiệm về trị an vừa để thâu thuế đường và thuế chợ.
[8] Miền “đàng trên” là dịch chữ Kamigata. Kamigata là tên gọi miền đất gồm có kinh đô Kyoto và những châu quận quanh đó, tương tự như xưa kia ở VN ta gọi “đàng trong” là vùng đất quanh nơi chúa Nguyễn cai quản.
[9] Thiên hạ bố võ, nghĩa là “rải võ ra khắp thiên hạ,” tức là rải nền chính trị võ gia (samurai) ra khắp thiên hạ. Ðây là chủ trương chính trị của Nobunaga. Ông đã lấy bốn chữ này khắc vào dấu, ấn cũng như in vào cờ, xí của quân đội của ông.
[10] Thời chiến quốc Nhật Bản, “trà đạo” phần lớn là do các nhà sư truyền bá. Sư Nhật
Bản lấy vợ được.
[11] Miyamoto Musashi thường được coi là kiếm khách võ nghệ siêu quần, binh pháp tinh thông, có một không hai trong lịch sử samurai Nhật Bản.
[12] Người Nhật khi tôn kính ai, chịu ơn ai, thì hay tỏ thái độ đó bằng cách không duỗi chân về phía người ấy trong khi nằm ngủ.
[13] Chủ nghĩa trọng thương (mercantilism) là chủ trương kinh tế coi trọng thương mại của các nước châu Âu từ khoảng giữa thế kỷ XV sang tới giữa thế kỷ XVIII. Chủ trương này là nhà nước bảo hộ và can thiệp vào mậu dịch với mục đích làm giầu bằng cán cân mậu dịch có lợi cho mình.
Chương V : Ishida Mitsunari
Người sáng tạo loại hình “Kế hoạch kiểu Nhật”
Thủy tổ của loại hình kế hoạch do công chức bậc trung thảo ra
Ðể làm người thứ năm trong “Mười hai người lập ra nước Nhật,” tôi muốn chọn Ishida Mitsunari. Sự chọn lựa này hẳn sẽ có nhiều người cho là bất ngờ, bởi vì nó đã bỏ qua rất nhiều nhân vật vương bá nổi tiếng trong lịch sử của Nhật Bản. Tuy nhiên, đây không phải là cố ý làm một sự bất ngờ, mà chính là vì nhân vật Ishida Mitsunari đã để lại một ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với Nhật Bản và người Nhật ngày nay.
Bản thân tôi, Sakaiya Taichi, đã nghĩ tới tổ chức Hội chợ Thế giới[1] là khi tôi mới là công chức tại bộ Thương nghiệp Quốc tế và Công nghiệp được hơn ba năm, lúc đó tôi 28 tuổi. Trước hết, tôi đã tìm hiểu Ishida Mitsunari như là một tiền lệ về xây dựng một dự án khổng lồ. Nếu không có tiền lệ của Ishida Mitsunari, thì một gã tổ trưởng 28 tuổi đầu như tôi, chắc chẳng bao giờ dám mơ màng tới việc liều lĩnh vận động tổ chức một Hội chợ Thế giới cả.
Trong lịch sử cận đại của Nhật Bản, đã có biết bao nhiêu kế hoạch khổng lồ. Chẳng hạn những kế hoạch siêu khổng lồ như cuộc Duy tân Minh Trị, cuộc Xây dựng nước bù nhìn “Mãn Châu,” cuộc Chiến tranh Thái bình dương. Thời hậu chiến thì có việc Xây dựng tuyến đường sắt siêu cao tốc Shinkansen[2], việc Tổ chức Thế vận hội Tokyo năm 1964, việc xây dựng hệ thống thủy lợi Aichi Yosui, việc tát cạn phá Hachiro-gata, tuy trình độ lớn nhỏ có thể khác nhau ít nhiều, song tựu trung đều đáng được gọi là những kế hoạch khổng lồ.
Kế hoạch thống nhất thiên hạ nói trong chương trước đã do một nhà độc tài có cá tính mãnh liệt, Oda Nobunaga, dùng quyền lực, sáng kiến và khả năng hành động của mình khởi đầu. Sau đó tới Toyotomi Hideyoshi tiếp tục sự nghiệp, rồi tới Tokugawa Ieyasu hoàn thành công trình. Ba người tuy thuộc loại hình nhân vật khác nhau, song đều là những bậc thiên tài, những nhà độc tài và những lãnh tụ của tổ chức cả.
Thế nhưng, rất khó có thể đưa ra một nhân vật độc tài nói là đã làm nên kế hoạch Duy tân Minh Trị. Xuất hiện trên khán đài Duy tân Minh Trị là rất nhiều nhân vật nổi tiếng, như Saigo Takamori, Kido Takayoshi, Okubo Toshimichi, Sakamoto Ryoma, v.v.. Phải chăng họ là những người ở địa vị có thể điều khiển được hàng chục ngàn quân? Phải chăng họ là những người có quyền lực độc tài, có thể xuất ra hàng chục ngàn lượng vàng?
Không, hoàn toàn không. Thời đó, những kẻ sĩ bậc trung xuất thân từ hai miền Satsuma và Choshu[3], những nhà hoạt động vô danh đã tụ tập lại, chủ trương rằng “cần phải cải cách Nhật Bàn,” “dòng thời đại đang dần dần đổi hướng,” v.v.. Cứ như thế, cái bầu không khí toàn thể đã sôi động lên. Rồi rốt cục, mạc phủ Tokugawa cùng các phiên chúa đã không thể ngăn chặn được cao trào khí thế đang dâng lên như vậy được nữa. Ðấy, cái đặc trưng lớn lao của cuộc Duy tân Minh Trị là như vậy.
Cũng vậy, nếu nhìn vào quá trình Nhật Bản đã dấn thân vào tấn bi kịch chiến tranh Thái bình dương từ điểm phát hỏa là “nước Mãn Châu” tới cuộc chiến Nhật-Hoa rồi chiến trận Thái bình dương đại quy mô, người ta không thể quy trách nhiệm đó vào một vị thủ tướng, một viên đại tướng nào cả. Ngược lại, chính thủ tướng cũng như đại tướng lục quân thời ấy đều đã lên tiếng “phản đối,” “phản đối,” nhưng rồi vẫn bị lôi kéo vào tấn bi kịch đó. Thật ra, chính những sĩ quan trẻ tuổi hàng trung tá, thiếu tá của lục quân, những công chức thuộc phe cải cách hàng cục trưởng, vụ trưởng của các cơ quan trung ương nhà nước, đã thực sự thúc đẩy và xúc tiến vụ việc này. Chính là hàng võ quan và văn quan bậc trung đã thực sự điều khiển, lèo lái thời đại vậy.
Một hiện tượng tương tự đã tiếp tục diễn ra trong thời hậu chiến. Việc kiến thiết tuyến đường sắt siêu cao tốc Shinkansen là do ai quyết định? Quả có Kỹ sư trưởng Shima Hideo là người đã tận tụy về mặt kỹ thuật[4], song chẳng phải chỉ có một kỹ thuật gia mà có thể làm nên công trình đồ sộ này. Cũng chẳng phải vì cuộc vận động của toàn dân mà thành được. Thật ra, chính những công chức bậc trung, một cách vô tư không ai bảo ai, đã nghĩ tới việc cho chạy một kiểu tầu tiện lợi thích hợp với thời đại trên tuyến đường Tokaido (tuyến giữa Tokyo và Osaka). Rồi từ ý nghĩ đó chính họ đã vận động kiến thiết tuyến đường sắt siêu cao tốc Shinkansen vậy. Câu chuyện là như vậy.
Ðến như công trình thủy lợi Aichi Yosui hoặc công trình lấp cạn phá Hachiro Gata, thì những sự nghiệp lớn lao này thực sự đã bắt đầu từ những cuộc vận động của những người vô danh tiểu tốt. Nghị viên quốc hội đã chỉ bắt đầu hành động, là sau khi bầu không khí thực hiện kế hoạch đã dâng lên tới cao trào do cuộc vận động mà dân chúng địa phương đã phát động mà thôi.
Tóm lại, Nhật Bản là nước mà chính “những người không phải là những ông lớn” đã làm nên những kế hoạch to lớn vậy. “Ông lớn” nói ở đây là những người có quyền thế lớn, có địa vị cao, có tiền bạc nhiều. Ở Nhật Bản, thì kể từ mạc chúa Tokugawa Ieyasu về sau, những “ông lớn” như vậy, không hề bắt tay vào những kế hoạch khổng lồ nữa.
Chính vì nhận thức được như vậy, mà tuy chỉ là một tổ trưởng mới 28 tuổi, tôi đã mạnh dạn nghĩ và tin tưởng rằng: “Nếu khéo vận động, thì không chừng có thể mở ra ở Nhật Bản được một Hội chợ Thế giới. Với quy mô lớn gấp 20 lần Thế vận hội Tokyo, đây sẽ là một sự nghiệp kinh thiên động địa.”
Vậy thì, những “ông không lớn” đã soạn thảo và xúc tiến những kế hoạch kiểu Nhật Bản là bắt đầu từ bao giờ, từ ai? Ngược dòng lịch sử, người ta thế nào cũng tìm thấy được căn nguyên là thời Chiến quốc Nhật bản, và thế nào cũng đụng phải nhân vật Ishida Mitsunari[5].
Cho đến thời bấy giờ, tất cả những kế hoạch lớn, kể từ thời Nara, thời Heian, đều là do những bậc có quyền thế lớn, có thực lực lớn, chủ trì. Thời Chiến quốc thì Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi đều là những bậc thiên tài khác thường có quyền lực lớn trong tay,
lãnh đạo những kế hoạch lớn. Ngay cả những đối thủ của họ, tức là những người đã thua họ, cũng đều là những thủ trưởng biết tự mình quy hoạch, tự mình tổ chức phe đảng của mình để tranh giành hơn thua.
Duy chỉ có trận đánh Sekigahara[6] thì xem ra khác hẳn. Lúc đó, mạc chúa Tokugawa Ieyasu, với cá tính cương cường, đã xuất hiện ở vị thế trung tâm của phe Ðông. Song, thật ra, từ trước đó, ở vị trí cao nhất trong năm chức “đại lão,” tức là hàng lương đống, hàng cột trụ của thiên hạ lúc đó, ông đã giữ trong tay quyền chính trị độc tài rồi, nghĩa là ông đâu có cần phải đánh một trận thư hùng nữa. Chính phe Tây, tức là phe phản Tokugawa, mới cần phải hoạch định và thực hiện một trận thư hùng như vậy. Thế nhưng, trong phe Tây lại không có ai đáng mặt đứng ra làm minh chủ.
Người được tôn làm đại tướng tổng chỉ huy của phe Tây là Mori Terumoto. Là cháu đích tôn của Mori Motonari, thống lãnh 12 châu quận miền trung bộ Nhật Bản thời đó, ăn lộc 1 triệu 200 ngàn hộc, Mori Terumoto quả xứng đáng là kình phùng địch thủ của Tokugawa Ieyasu. Song le, Mori Terumoto đã chỉ tham gia chiến dịch phản Tokugawa sau khi Ishida Mitsunari đã khởi hấn rồi. Lại nữa, ông không hề đánh một trận nào cả, cũng không tích cực ra chỉ thị, mệnh lệnh nào cả. Rồi sau khi phe Tây thua trận rồi, ông chỉ còn biết chuộc tội bằng cách cắt hai phần ba đất dâng cho Ieyasu để cầu hòa và khẩn xin Ieyasu tha chết cho. Ôi! Có đại tướng tổng chỉ huy nào tệ đến như vậy không? Thật là “tướng tổng chỉ huy mướn,” với tư thế “chân trước chân sau!”
Vai phó tổng tư lệnh là Ukita Hide’ie. Mới 27 tuổi, có nhân cách tốt, lại là con nuôi chúa Toyotomi Hideyoshi, ông luôn luôn giữ lòng trung nghĩa với dòng chúa Toyotomi. Thế nhưng, ông cũng chẳng phải là đã tự đứng ra vận động cho trận thư hùng này. Lại nữa, ngay trước khi cử sự, trong nhà lại có chuyện xích mích, khiến ông không thể dốc toàn lực cho chiến dịch được.
Thật ra nhân vật chủ mưu, người đã viết kịch bản, đã bài trí sân khấu, đã phân công vai diễn, rồi đã mở màn vở kịch khổng lồ này, chính là Ishida Mitsunari.
Vậy thì, Ishida Mitsunari là người thế nào?
Ngày nay, ta đều biết Ishida Mitsunari là kẻ đã gây ra trận đánh Sekigahara. Người đời nhìn ông như một người vốn lo sợ Tokugawa Ieyasu sẽ tiếm ngôi của dòng chúa Toyotomi, nên đã hô hào, cổ động mọi thế lực đứng dậy đánh đổ Tokugawa Ieyasu. Nhưng đây là chỉ là sự nhận thức sau sự việc. Nếu không có trận đánh Sekigahara, thì hỏi ngày nay người ta sẽ biết về nhân vật Ishida Mitsunari này được bao nhiêu?
Nếu chúng ta tháo gỡ hết đồ trang sức, lau chùi sạch phấn son của kế hoạch khổng lồ, của trận thư hùng Sekigahara đi, chúng ta sẽ thấy hiện ra hình ảnh Ishida Mitsunari khác hẳn, nhỏ đi hẳn. Nghĩa là, mặc dầu Ishida Mitsunari đã lưu lại tên trong lịch sử với vai trò là người viết kịch bản và tạo dựng nên tấn kịch trận đánh Sekigahara, nhưng nếu ta lột bỏ cái vỏ ngoài như vậy đi, tháo gỡ những định kiến, thiên kiến về ông đi, rồi nhìn kỹ cái vị trí mà ông đã được đặt vào, nhìn cái tài sức của ông trong việc hoạch định sáng tạo, thì ta sẽ thấy một sự thực khác xa.
Vận không may và vụng đánh trận
Ishida Mitsunari sinh năm 1560 (niên hiệu Vĩnh Lộc năm thứ ba) tại thôn Ishida, đất Omi, nay thuộc tỉnh Shiga. Gia cơ là phú nông, nhưng lúc nhỏ, ông vào ở chùa để học lễ
giáo. Thời đó, con nhà nông giàu thường đến ở chùa vừa để học chữ vừa để học phép tắc lễ giáo. Nói cách khác, ông thuộc loại con nhà gia giáo, có học hành đàng hoàng.
Vừa lúc đó thì Hashiba (sau đổi thành Toyotomi) Hideyoshi được chúa Oda Nobunaga phong làm lãnh chúa đất Omi, trấn thủ thành Nagahama. Nhờ có duyên với chúa Hideyoshi này, năm 15 tuổi, ông đã được vời ra làm tiểu đồng. Ðó là năm 1574 (niên hiệu Thiên chính năm thứ hai), tức là ngay sau khi Hideyoshi đến trấn thủ thành Nagahama.
Thời đó, các bậc thái thú lãnh chúa đều nuôi ở bên mình những tiểu đồng, một là để xách kiếm và hầu hạ việc vặt, hai là để dạy bảo khuôn phép võ sĩ samurai, đồng thời cho nhớ mặt những người hầu cận ra vào dưới trướng. Những tiểu đồng như vậy thường là người họ hàng thân thích của thái thú, hoặc là con cháu của các gia thần thân tín. Kato Kiyomasa và Fukushima Masanori cũng là tiểu đồng như vậy. Hai người này là họ hàng thân thích của Hideyoshi, nên khi Hideyoshi làm lớn, thì mẹ ông đã dắt họ tới thành Nagahama. Còn nhiều người khác thì đã được chiêu mộ ở lãnh địa Omi. Mitsunari cũng là một phần tử đã được chiêu mộ như vậy. Nói về kết quả thì đây là niềm may cho Mitsunari, song trên thực tế, được chọn làm tiểu đồng chưa hẳn là đã được hứa hẹn gì về tương lai cả, vì đó mới chỉ là một người được sung vào trong số hàng mấy chục người như vậy.
Mitsunari đã tỏ ra xuất sắc là trong vụ biến loạn chùa Honnoji[7] năm 1583, khi Toyotomi Hideyoshi đánh bại Shibata Katsu’ie ở gò Shizugaoka. Từ Ogaki tới gò Shizugaoka đường trường hơn 50 kilômét, ông đã mang quân bản bộ chạy đi trước, dọc đường đã chu đáo chuẩn bị lương thực, củi đuốc cho đại quân của Hideyoshi theo sau. Với công đó, năm sau, tức là khi Hideyoshi đã thu phục được giang sơn, ông liền được phong lãnh chúa ở Mizukuchi cũng thuộc đất Omi, ăn lộc 40 ngàn hộc. Lúc ấy, Mitsunari mới có 25 tuổi, nên có thuyết nghi ngờ rằng bổng lộc như vậy là quá cao, song sự thực hư ra sao thì không rõ. Duy có điều chắc chắn là thời gian đó, Mitsunari được trao cho giữ việc quân nhu, hậu cần. Ông đã tỏ ra xuất sắc trong công tác như vậy. Năm sau, 1585, tức là năm mà vọng lâu của thành Osaka hoàn thành, Hideyoshi lãnh chức Phụ chính cho vua, thì 12 gia thần của Hideyoshi được triều đình phong tước Tùng Ngũ Vị Hạ, tức là được ra vào triều kiến vua. Mitsunari là một trong 12 người đó, ông được lãnh chức Trị bộ Thiếu phó. Ðây là một quan chức không lấy gì làm cao cho lắm của một bộ tương đương với Bộ Nội vụ ngày nay. Theo tiêu chuẩn ngày nay, thì chức này tương đương với hàng vụ trưởng tổng vụ của một cơ quan trung ương.
Có điều lạ là, từ đó tới 15 năm sau, quyền thế của Mitsunari ngày càng lớn, lãnh địa thì ngày càng rộng ra, nhưng quan tước thì hoàn toàn không thay đổi. Không phải riêng gì Mitsunari, tất cả những lãnh chúa gia thần của Hideyoshi cũng đều như vậy cả. Có lẽ là sau khi Hideyoshi thâu tóm được thiên hạ rồi, thì sự quan tâm tới quan tước đã giảm đi chăng?
Khỏi cần nói, Ishida Mitsunari là võ tướng samurai, lại đồng thời là lãnh chúa. Dĩ nhiên là ông có nhiều gia thần, bộ hạ, quân phải nuôi dưỡng. Ðương nhiên là ông đã cùng ra trận nhiều lần với Toyotomi Hideyoshi. Nhưng không thấy nói ông chiến thắng ở trận tiền. Nói trắng ra, ông chỉ đóng vai tướng chỉ huy ở trận tiền là lần đánh thành Odagawa, rồi lần công hãm hai thành Tatebayashi và thành Shinobi của họ Hojo. Thế nhưng, với thành Shinobi, ông đã mưu toan đánh thủy công, nhưng đã thất bại.
Khi xẩy ra vụ biến ở chùa Honnoji, thì lúc đó Toyotomi Hideyoshi đang đánh thủy
công thành Takamatsu ở đất Bichu. Ông cho đắp đê đập, rồi tháo nước sông Ashimorikawa dìm thành xuống dưới mặt nước. Thời Chiến quốc, ở Nhật Bản chỉ có hai loại thành. Một là sơn thành, tức là thành xây trên sườn núi để ngăn địch, hai là thành xây trong đồng sâu hoặc đồng lầy và chỉ có một đường độc đạo dẫn vào thành. Ngoài con đường này ra, thì cả người lẫn ngựa đều phải lội bì bõm tới ngang hông, không sao tiến lên được. Thành loại này như vậy cũng lại rất khó hạ. Thành Takamatsu được xây trong đầm lầy, nên đã không có ai tấn công cả. Nhưng Hideyoshi đã để mắt tới mực thấp của thành, nên đã chặn sông Ashimorikawa lại, dìm thành xuống nước. Ðộ cao của con đê ông cho xây lên là 8 m, cho nên đúng ra chỉ có tầng trệt của thành là bị chìm dưới nước mà thôi. Lính giữ thành tất cả đều phải chèo lên tầng lầu, khiến thành bị chật ních. Lương thực, đạn dược đều bị thấm nước, ẩm ướt dùng không được nữa. Củi đuốc cũng hết, cơm không nấu được, khiến binh sĩ vô cùng cực khổ. Thật là một chiến lược có hiệu quả.
Ở Nhật Bản, Toyotomi Hideyoshi là người đầu tiên dùng chiến thuật thủy công. Theo sách “Sử ký” Tư Mã Thiên, thì chiến thuật như vậy đã thấy có từ thời Xuân Thu chiến Quốc bên Trung Hoa. Ðó là chuyện cả hai nghìn năm về trước. Tương truyền rằng Kuroda Kanbei Takadaka đã đọc sách đó, học được chiến thuật thủy công, và đã hiến kế này cho Hideyoshi.
Hideyoshi sau khi thành công trận đó, đã quen mui, lại dùng chiến thuật thủy công đó đối với những nơi khác, như Mino và Kii. Tất nhiên, trong thời gian này, với tư cách là tiểu đồng cho Hideyoshi, Mitsunari hẵn đã học hỏi được phép thủy công đó, nên đã mưu toan đánh thành Shinobi như vậy.
Thế nhưng, ở đây ta mới thấy cái vận may của Hideyoshi và cái vận xui của Mitsunari đã hiện ra rõ rệt. Khi Hideyoshi đánh thủy công thành Takamatsu thì trời đổ mưa lớn và chỉ trong khoảnh khắc là thành chìm ngập trong nước. Tướng giữ thành, Shimizu Muneharu, đã bắt buộc phải mổ bụng cầu hòa nộp thành cho Hideyoshi. Hơn nữa, sự kiện chiến thắng này đã đạt được đúng lúc vụ biến loạn Honnoji xảy ra, quả đã là một vận may lớn cho Hideyoshi.
Khi Mitsunari đánh thủy công thành Shinobi thì, cũng địa hình như vậy, cũng là mùa mưa dầm, nhưng mưa lại to quá làm vỡ cả đê. Vì thế, quanh thành đã trở thành đồng lầy, không còn tiến công được nữa. Mãi về sau, khi thành chủ chốt là thành Odagawa bị hạ rồi, thì thành Shinobi mới chịu thương lượng rồi mở cửa quy hàng. Vụ này đã tượng trưng cho cái vận xui xẻo ám ảnh Mitsunari suốt đời vậy.
Tóm lại, Mitsunari tiếp tục không lập được võ công nào cả cho tới thời kỳ cuối cùng của chúa Hideyoshi. Ðiều này là nguyên nhân làm cho các tướng giỏi đánh trận như bọn Kato Kiyomasa, Fukushima Masanori khinh miệt ông. Trong chiến trận, Mitsunari chuyên lo việc quân nhu hậu cần, còn trong thời bình ông chuyên tâm vào việc biên thảo luật lệnh, phép tắc. Nhờ chuyên tâm với chế độ quan liêu như vậy, ông dần dần đã được sự trọng vọng của mọi người.
Năm 1592, khi xẩy ra vụ việc lớn nhất đồng thời cũng là tệ nhất đối với chúa Hideyoshi, tức là vụ xâm lăng Triều Tiên, Mitsunari được chỉ định làm “quan chấp chính tàu thuyền.” Vấn đề điều động tàu bè để chuyên chở binh lương là công tác trọng yếu. Hideyoshi đã giao phó cho Mitsunari trọng trách này. Ít lâu sau khi khai chiến, ông đã cùng bọn Masuda Nagamori và Otani Yoshitsugu đổ bộ lên Triều Tiên.
Nhờ có công về nội trị như kể trên, năm 1595, ông được phong chức trấn thủ thành Sawayama, gần Omi. Thành đó ở ngay gần phía nam thành Hikone ngày nay, làm thành một vị trí trọng yếu trong việc trấn giữ đất Omi. Lãnh địa ấy của ông chỉ có 194 ngàn hộc thôi, nhưng ngoài ra, ông còn kiêm nhiệm cả chức quản lý lãnh địa trực thuộc chúa Hideyoshi. Hơn thế nữa ông vẫn còn được giữ công tác chỉ đạo việc đạc điền, và chia cắt lãnh địa.
Năm quan Ðại lão và năm quan Chấp chính
Trong những năm cuối đời của mình, chúa Hideyoshi đã đặt ra năm quan Chấp chính thường trực để làm ổn định tổ chức hành chính. Cho đến bấy giờ, mỗi khi có vấn đề, thì mới đặt quan Chấp chính để giải quyết. Sợ sau khi qua đời, không làm được như vậy, nên Hideyoshi đã quyết định đặt ra những quan Chấp chính thường trực về hành chính.
Năm quan Chấp chính này chỉ làm thành cơ quan hành pháp, chứ không phải là cơ quan làm quyết định (decision making). Hideyoshi đã đặt lên trên nữa một cơ quan làm quyết định gồm có năm quan Ðại lão. Ðứng đầu năm vị đại lão, là Tokugawa Ieyasu, thứ đến là Maeda Toshi’ie, Ukita Hide’ie, Uesugi Kagekatsu và cuối cùng là Mori Terumoto. Vị nào cũng đều có lãnh địa rộng trên 500 ngàn hộc, vị nào cũng là những võ tướng có chiến công hiển hách cả. Nếu là công ty, thì đó là Hội đồng Thường vụ do Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tokugawa Ieyasu chủ trì. Nếu là chính phủ, thì năm vị đại lão là năm bộ trưởng, còn năm quan chấp hành là năm thứ trưởng thường trực vậy.
Trong năm Ðại lão, thì Tokugawa Ieyasu có lãnh địa 2 triệu 400 ngàn hộc. Nghĩa là lớn hơn cả lãnh địa của chúa Toyotomi Hideyoshi, lúc ấy chỉ còn là 2 triệu 200 ngàn hộc. Ðây là vì Hideyoshi đã chia cho bọn gia thần của mình là Kato Kiyomasa, Fukushima Masanori, Konishi Yukinaga, Ishida Mitsunari, Masuda Nagamori, mỗi người trên dưới 200 ngàn hộc rồi, nên lãnh địa của ông bị nhỏ đi.
Sau Tokugawa Ieyasu, đến Mori Terumoto và Uesugi Kagekatsu, mỗi người đều có lãnh địa từ 1 triệu 100 ngàn tới 1 triệu 200 ngàn hộc. Về vai vế thì người đứng thứ nhì trong năm quan Ðại lão là Maeda Toshi’ie, với quan chức là Dainagon (xem chú 35, Chương II), so với quan chức của Ieyasu là Naidaijin (xem chú 31, Chương I), nhưng lãnh địa của ông lại chỉ có 900 ngàn hộc, nghĩa là chỉ bằng khoảng 1/3 đất của Ieyasu mà thôi. Ngồi ghế cuối trong năm quan Ðại lão là Ukita Hide’ie, mới 25 tuổi, được phong đất Bizen Mimasaka chỉ có 574 ngàn hộc, là con nuôi rất được chúa Hideyoshi cưng, đã lãnh chức tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Triều Tiên.
Nghĩa là, nói theo tổ chức một đại công ty kinh doanh ngày nay, thì chúa Toyotomi Hideyoshi là chủ tịch sáng lập ra đại công ty, thứ đến là đại cổ đông phó chủ tịch Tokugawa Ieyasu. Sau đó là quản trị viên thường trực Maeda Toshi‘ie, bạn cố tri đồng thời trợ tá của chủ tịch Toyotomi Hideyoshi. Mori và Uesugi vốn là chủ tịch các công ty đã bị thôn tính hợp nhất, nay được đãi ngộ với chức vụ quản trị viên thường vụ của đại công ty. Cuối cùng là quản trị viên thường vụ Ukita Hide’ie, vốn là chủ tịch đời thứ hai của công ty hạng trung đã sớm bị thôn tính hợp nhất và nay trở thành con nuôi của đương kim chủ tịch của đại công ty.
Tổ chức là như trên, chỉ là xếp thứ tự năm lãnh chúa có thế lực, chứ trên thực tế, hội đồng thường vụ không hề quy định phương thức nghị quyết, không ấn định lịch làm việc định kỳ nào cả.
Ðối lại, thì tổ Chấp Chính Thường trực năm người lại là một tổ chức chặt chẽ quy định rõ rệt cả tới phương thức nghị quyết. Chủ nhiệm tổ Chấp Chính Thường trực là Maeda Gen’i. Ông này là thày chùa, song lại là quan Chấp chính của kinh đô Kyoto. Ông tinh tường các vấn đề quý tộc và đền chùa, đảm đương việc hành chính của kinh đô. Theo ngôn ngữ thời nay thì chức vị của ông là bộ trưởng đối ngoại và giao tiếp với các cơ quan công quyền. Kế đến là Asano Nagamasa (cũng có thuyết cho rằng ông này mới là chủ nhiệm của tổ Chấp chính thường vụ). Ông là bà con với bà One, chính thê của chúa Toyotomi Hideyoshi, nên đã theo Hideyoshi từ thuở Hideyoshi hãy còn ở lứa tuổi 20. Ông có tài khéo léo điều chỉnh nhân sự, và với mối quan hệ mật thiết với chúa Hideyoshi từ thời hàn vi ở Owari, ông có thể được coi là bộ trưởng nhân sự. Nhân vật đứng thứ ba là Masuda Nagamori. Sinh năm 1545, lúc nhậm chức Chấp chính thì ông đã 54 tuổi. Ông hiểu tinh thông về luật pháp, phụ trách chỉ huy các hoạt động hành chính và tư pháp. Ông còn có tài về xây dựng nữa, nên đáng được gọi là bộ trưởng tổng vụ. Người thứ tư trong hàng ngũ năm quan Chấp chính là Ishida Mitsunari. Ông cùng với Asano và Maeda, có tài toàn ban, nên đã đảm đương từ việc thanh tra các lãnh chúa tới chiến lược chính trị. Có thể nói khu vực công tác của ông là trưởng phòng chủ tịch công ty và bộ trưởng kế hoạch. Người thứ năm là Natsuka Masa’ie. Ông này vốn là gia thần phụ trách vấn đề tài chính và kế toán dưới trướng của lãnh chúa Niwa Nagahide. Sau khi Niwa Nagahide qua đời thì chúa Hideyoshi vời ông tới cho phụ trách bộ phận tài chính.
Cả năm người trên, nếu nói theo cách tổ chức của một công ty kinh doanh thì đều được coi là hàng quản trị viên trơn, mỗi người phụ trách một bộ phận của công ty. Nói về bổng lộc, thì cao nhất là Asano và Masuda với hơn 200 ngàn hộc, Ishida 194 ngàn hộc, còn Maeda và Natsuka chỉ có 50 ngàn hộc. Nghĩa là so với hàng Ðại lão, thì nhóm người này cách một khoảng quá xa. Vì thế, có thuyết nói rằng giữa hàng Ðại lão và hàng Chấp Chính, còn có một hàng nữa gọi là “Trung lão”. Có khá nhiều sách bàn về điểm này, song tất cả đều là những trước thuật của hậu thế, chứ không có sách sử đương thời nào giúp xác định được điều đó. Tuy nhiên, sự kiện một giả thuyết Trung lão như vậy đã được nêu ra, đủ cho thấy cái cảm giác xa cách quá lớn giữa năm quan Ðại lão và năm quan Chấp chính vậy.
Còn Tokugawa Ieyasu thì vốn là xui gia của Oda Nobunaga và như vậy có thể coi như có vai vế anh em với Nobunaga, chúa của Toyotomi Hideyoshi. Bởi vì con gái Nobunaga là vợ của trưởng nam của Ieyasu. Không phải là hạng người thiên tài như Nobunaga, song bản tính thận trọng, tiến hành mọi việc bằng từng bước vững chắc, ông đã bị Hideyoshi, vốn là gia thần của Nobunaga, vượt lên trước trong sự nghiệp thống nhất thiên hạ, song trong trận đánh với Hideyoshi ở Komaki để yểm hộ Oda Nobuo, con thứ của Nobunaga, Ieyasu đã không thua. Trong trận đánh ở Nagakute trước kia với Hideyoshi (lúc đó còn gọi là Hashiba Hideyoshi) thì ngược lại ông đã đại thắng. Và bây giờ thì ông đã trở thành đại lãnh chúa chiếm giữ tám châu quận vùng Kanto rộng 2 triệu 540 ngàn hộc. Có thể nói rằng Ieyasu vốn cũng là chủ tịch một công ty lớn khác, đã hợp nhất trên cơ sở bình quyền với Công ty Toyotomi, nên ở trong công ty mới này, ông là cổ đông lớn nhất và vì vậy đã trở thành phó chủ tịch công ty. Xem như vậy, thì hạng Ishida Mitsunari đâu có đáng để cho ông đếm xỉa tới.
Mưu đồ vĩ đại
Tháng 8 năm 1598, chủ tịch sáng lập công ty Toyotomi Hideyoshi qua đời. Con trai
ông là Hideyori lúc ấy mới lên sáu tuổi. Mẫu thân đứa nhỏ, công chúa Yodo, chỉ là vợ lẽ của người quá cố. Trong khi đó thì người vợ cả, tức bà chúa Kita No Mandokoro, hãy còn kiện khang. Những nhân vật có vai vế của công ty thì hãy còn ra vào đông đảo. Tình hình nội bộ của công ty như vậy trở nên khá phức tạp.
Trong tình huống ấy, Ishida Mitsunari, một cổ đông không đáng kể chỉ có địa vị là hàng thứ tư trong năm quan chấp chính, nhưng nhờ có quan hệ nhân sự đã xây đắp được với tư cách là người thân cận của Hideyoshi, đã quyết tâm đứng lên bảo vệ gia sản cho chủ. Ðối thủ của ông là người có đầy thực quyền Tokugawa Ieyasu. Chưa có tiền lệ nào như vậy trong lịch sử Nhật Bản. Mà kể cả trong lịch sử thế giới nữa, cũng ít thấy có âm mưu lớn như vậy. Quả là một “Mưu đồ vĩ đại.”
Ishida Mitsunari đã mưu toan và thực hiện được kế hoạch này, chứng tỏ rằng một kẻ không ở địa vị cao, không có thực quyền lắm, vẫn có thể làm nên những kế hoạch khổng lồ. Sự kiện này đã để lại ảnh hưởng vô cùng to lớn trong lịch sử Nhật Bản kể từ sau đó.
Vậy, trong 754 ngày, kể từ sau khi Hideyoshi qua đời cho tới trận thư hùng Sekigahara, hỏi Ishida Mitsunari đã dùng phương pháp nào, đã hành động ra sao để vạch ra kế hoạch?
Ishida Mitsunari đã suy nghĩ đường đi nước bước, làm sao ngăn chặn không cho Tokugawa Ieyasu tiếm đoạt cơ nghiệp của Toyotomi Hideyoshi.
Ðiều trước nhất Mitsunari nghĩ ra là phải làm sao tìm cho được một người có thể đối địch với Ieyasu, rồi kết hợp mọi thế lực phản Tokugawa lại dưới trướng của người ấy làm thế quân bình. Như vậy thì mọi người đều nghĩ ra rằng người có thể đối địch được với Tokugawa Ieyasu không thể là ai khác hơn người bạn cố tri của Hideyoshi. Ðó là Maeda Toshi’ie. Cho nên Mitsunari đã tìm đến Maeda Toshi’ie. Ông này cũng nghĩ rằng chính Hideyoshi đã gửi gắm con côi cho ông, nhờ cậy ông sau này phò đứa con thơ lên. Nay, ngay sau khi Hideyoshi vừa qua đời, đã thấy Ieyasu âm mưu tiếm đoạt thiên hạ, cho nên ông cũng cảm thấy cần phải ngăn chặn ý đồ ấy. Nghĩa là ông đã nhất trí với Ishida Mitsunari. Do đó, Maeda Toshi’ie đã lên tiếng kêu gọi kết hợp những người thuộc phái trung thành với Toyotomi Hideyoshi, những người muốn duy trì địa vị của dòng họ Toyotomi.
Tokugawa Ieyasu hẳn đã nghĩ rằng, một cậu bé sáu tuổi chẳng có thực lực gì cả, thì làm sao có thể hứa hẹn sau này sẽ phó thác cả thiên hạ cho cậu ta được, bởi làm như vậy có khác gì tư hữu hóa thiên hạ? Chính ông phải tự mình đứng ra trị thiên hạ mới xong. Thế nhưng, với MaedaToshi’ie và Ishida Mitsunari, thì đây chẳng qua là cái dã tâm muốn chiếm đoạt thiên hạ của họ Toyotomi mà thôi. Xem sự kiện sau này, quả nhiên Ieyasu đã coi thiên hạ như của riêng của mình, thì đủ thấy cái suy nghĩ của hai người này là chí lý.
Ieyasu quả có ý muốn chiếm đoạt thiên hạ. Muốn làm được như vậy, ông đã từng bước phá bỏ những “di mệnh” của Hideyoshi đi. Một trong những di mệnh đó là, các lãnh chúa không được kết bè kết đảng với nhau. Kết bè kết đảng thì thế nào cũng sinh loạn. Vì thế, ông cấm không cho các lãnh chúa kết duyên thân thích với nhau. Ieyasu biết rõ di mệnh như vậy nhưng ông vẫn hứa hẹn gả con gái nuôi cho Date Masamune và Fukushima Masanori. Ông còn đem lãnh địa 2 triệu 200 ngàn hộc của họ Toyotomi cắt ra ban thưởng cho các tướng có công trong trận xâm lược Triều Tiên.
Ishida Mitsunari đã phản đối mãnh liệt việc này. Ông đã tố cáo với Maeda Toshi’ie
việc Ieyasu làm bậy. Toshi’ie nghe chuyện cũng phẫn nộ, nên đã bằng lòng vào phe đồng minh ngăn chặn Ieyasu. Sự kiện này xẩy ra khoảng nửa năm sau khi chúa Hideyoshi mất.
Nhờ có sự kêu gọi của người chủ xướng có thực lực, nên hai quan Ðại lão là Ukita Hide’ie và Uesugi Kagekatsu cũng phụ họa theo. Còn một quan Ðại lão nữa là Mori Terumoto, thì hãy còn dè dặt nhìn trái nhìn phải, nhưng “nếu cả ba ông đã nhất trí rồi, thì mỗ cũng tuân theo.” Sứ giả của bốn người này đã mang thư kháng nghị do Ishida Mitsunari và Masuda Nagamori thảo ra, từ thành Ozaka tới dinh thự của Ieyasu ở dưới thành Fushimi.
Các lãnh chúa đang tập trung ở thành Fushimi đều hết sức kinh ngạc, rồi ồn ào bàn tán là hẳn sắp diễn ra một trận đánh giữa phe Tokugawa và phe phản Tokugawa. Ông nào ông ấy lập tức điều động quân của mình. Có nhiều người đã vội vàng đã gọi thêm 300, 500 quân từ lãnh địa tới. Ieyasu cũng tức khắc gọi vài ngàn quân từ thành Edo tới.
Trong tình huống này, thế nào cũng có người đứng ra dàn xếp, nói rằng “Nếu đánh nhau lúc này ở Fushimi thì nguy lắm.” Thời đó, các lãnh chúa đều hoặc ở Ozaka, hoặc ở Fushimi nhưng binh lính thì chỉ có ít. Nếu đánh nhau ở những nơi này, thì sẽ là một trận chém giết lẫn nhau giữa các cấp tư lệnh, và như vậy sự thiệt hại về người của hàng võ sĩ cao cấp sẽ rất lớn.
Cãi nhau một hồi thì cuối cùng đi đến sự thỏa hiệp là Ieyasu phải viết thư tạ lỗi. Như thế là xong. Cho đến đây, Mitsunari cùng các lãnh chúa khác trung thành với dòng họ Toyotomi, đều coi là mưu toan của họ đã thành công bởi lẽ họ đã ngăn chặn được Tokugawa Ieyasu.
Nếu tình trạng này kéo dài thêm mười năm nữa, và nếu họ Toyotomi giữ được địa vị trên thế quân bình, chờ cho Hideyori trưởng thành, thì cơ nghiệp của họ Toyotomi có thể duy trì được. Nhưng, bất hạnh thay là Maeda Toshi’ie, điểm nương tựa của Hideyori, đã bị bệnh chết vào tháng ba nhuận năm sau. Ông này bị bệnh suy nhược thân thể, ngay từ lúc sự thỏa hiệp giữa ông và Ieyasu thành lập, thì mặt ông đã hiện ra tử tướng rồi. Có lẽ ông bị ung thư dạ dầy, và chẳng cần phải là thày thuốc ai cũng nhìn thấy cái vẻ suy nhược của ông. Ðương nhiên là Ieyasu và các lãnh chúa khác đều đã đoán trước được cái chết này của Toshi’ie.
Con trai Toshi’ie là Toshinaga lên nối nghiệp cha, song ông này thì chưa hề có uy quyền của một vị quan Ðại lão. Vi thế, cái tổ chức năm bậc Ðại lão đã không thể phát huy được chức năng của mình nữa.
Ieyasu thấy thời cơ đã tới, thừa lúc Mitsunari tới phúng họ Maeda nhân cái chết của Toshi’ie, sai bọn Kato Kiyomasa, Kuroda Nagamasa, gồm bảy lãnh chúa ít tuổi, chặn đánh Mitsunari trên đường về. Mitsunari cũng có nhiều người ủng hộ. Nhờ thế, bọn Konishi Yukinaga, Ukita Hide’ie, Satake Yoshinobu đã cho quân hộ vệ Mitsunari. Nhưng bọn bảy lãnh chúa ít tuổi, e ngại việc giao chiến ngay trong thành phố nên đã đòi phải trao Mitsunari cho họ. Ieyasu nghĩ rằng, nếu thiên hạ loạn lạc, thì phe Tokugawa sẽ nắm được thiên hạ nhờ thế ưu việt hơn về vũ lực.
Không ai dè Mitsunari trong lúc quẫn trí lại đã chạy ngay vào dinh của Ieyasu ở thành Fushimi. Ðến thế thì Ieyasu không thể nào giết được nữa. Cực chẳng đã, Ieyasu bảo: “Thôi, ngươi hãy nghỉ hưu, về lãnh địa của mình là thành Sawayama mà ở ẩn.” Rồi cho quân hộ tống Mitsunari về thành Sawayama. Kẻ chướng tai gai mắt như vậy đã loại xong,
lần này thì Ieyasu được lợi thế tuyệt đối. Ông bèn thực hiện tất cả những cuộc hôn nhân mà trước đây ông đã phải xin lỗi rồi hủy đi.
Phương pháp làm kế hoạch của Mitsunari
Thường ra, câu chuyện đến đây là chấm hết. Maeda Toshi’ie, người đáng tin cậy đã mất, trong khi đó thì kẻ đáng ghét Ieyasu nay đã nghiễm nhiên làm chủ thiên hạ. Bản thân mình thì bị đổi về địa phương xa và giáng cấp. Ieyasu được tha hồ chuyên quyền về nhân sự. Ôi, hận thay, hận thay. Kết thúc như vậy là chuyện thường tình.
Song, đàng này, Ishida Mitsunari lại không chịu như vậy. Từ đây trở đi mới chính là lúc Mitsunari thực sự khởi đầu cuộc vận động vĩ đại của mình.
Người có thực lực có thể nhờ cậy được thì không có ai. Bản thân mình thì nghỉ hưu. Quanh mình là bọn ám sát được thiên hạ công nhận[8]. Kẻ kình địch thì quá lớn. Trong hoàn cảnh khó khăn này, làm sao đưa thiên hạ vào một trận thư hùng để đập tan mưu đồ của Ieyasu được?
Nghĩ nát óc, Ishida Mitsunari đã tìm ra một mưu kế, một cái “bả” để chiêu dụ, gồm có ba yếu tố. Trước nhất là “hãy vì họ Toyotomi,” để hô hào các lãnh chúa trước kia đã tôn thờ chúa Hideyoshi. Ðây là dương cao ngọn cờ đại nghĩa mà không ai có thể phản đối được. Cụ thể là nói: “Ông hẳn có lòng trung nghĩa với chúa Hideyoshi. Vậy, ủng hộ cậu Hideyori để sau này đưa cậu lên làm chủ, ngăn cản mưu đồ của Tokugawa Ieyasu, là đúng.”
Thời đó là loạn chiến quốc, nên dĩ nhiên không có lãnh chúa nào chịu hành động cho chính nghĩa như vậy. Ông nào cũng chỉ hành động vì sự an toàn và lợi ích của cá nhân.
Nói chung, cái động cơ hành động của con người ta chỉ có ba loại: một là lòng yêu thương thuần túy, hai là danh lợi ti tiện, và ba là sự khiếp sợ bắt nguồn từ bản thân yếu đuối.
Nói là hành động vì “lòng yêu thương,” thì có vẻ như chuyện lý tưởng. Nhưng, quả thật con người ta thực sự có hành động bởi tín ngưỡng tôn giáo, bởi niềm tin chính trị, bởi tình yêu thương, bởi tình yêu quê hương xứ sở, nghĩa là những tình yêu thuần túy. Ở con người quả có một bộ phận khiến người ta hành động vì thiện tính như vậy.
Gần đây, có không ít bài viết trên báo chí, cho rằng con người ta không hành động vì tình yêu hay ý thích. Chẳng hạn, báo chí thường viết rằng, khi người ta ủng hộ tiền bạc cho chính trị gia, thì người ta trông chờ được bù lại bằng lợi ích, bằng quyền lợi thiết thực. Nhưng thực tế cho thấy, phần đông những người ủng hộ tiền bạc như vậy, là do họ quý mến chính trị gia đó. Cũng tựa hồ như những người hâm mộ của đội bóng chày “Người Khổng Lồ,” hay những người ủng hộ đô vật sumo Ðại Vô địch Takanohana[9], không hề trông chờ được một lợi ích gì, mà chỉ ủng hộ, bởi vì họ thích như vậy. Thế thôi. Ðây là bản tính của con người. Danh chính ngôn thuận, chính nghĩa, đại nghĩa, nói rộng ra chẳng qua là thuộc phạm trù “yêu thương.”
Tuy nhiên, nếu chỉ có thế thôi, thì không thể động viên được nhiều người. Vì thế, mới có sự dụ dỗ người ta bằng yếu tố thứ hai, tức là bằng “danh lợi.” Nghĩa là hứa cho địa vị, cho quyền lực, cho tiền bạc, cho quyền lợi, bởi phần đông người ta hành động vì bả danh lợi như vậy. Cái chỗ đê tiện này cũng lại là một phần của bản tính con người ta. Vì vậy, trong bầu cử, cũng như trong tôn giáo, thế nào cũng có cái phần dụ dỗ vì danh lợi này.
Yếu tố thứ ba, “khiếp sợ,” tức là đe dọa “nếu không nghe, sẽ đánh,” hoặc “sẽ bắt giam,” và cuối cùng “sẽ giết.” Ngay như người hành động vì “yêu thương” cũng không muốn bị giết. Vì thế, nếu nghe thấy nói “sẽ giết,” người ta sẽ van lạy “xin nghe theo,” “xin tha mạng cho.” Ðó là thường tình. Ðó là cái nhược điểm của người ta. Bị đe dọa là “sẽ giết,” mà vẫn vì chính nghĩa, vì tình yêu hoặc niềm tin mà vẫn hi sinh, thì đó mới quả là người can đảm, người đáng phục.
Trong ba yếu tố chiêu dụ trên, nếu hỏi cái nào mạnh nhất, thì, đáng tiếc thay, “khiếp sợ” là số một, sau đó mới tới “danh lợi” và sau rốt mới là “tình yêu.”
Tôn giáo thuyết giảng tình thương yêu của Thần, chiêu dụ người ta quay về với chính nghĩa và chân lý của Thần. Thế nhưng, nếu muốn có thêm tín đồ, muốn có sự gắn bó mật thiết hơn nữa của tín đồ, thì tôn giáo bắt đầu dùng tới cái mồi lợi lộc. Nghĩa là dùng tới những mồi ngon như “Nếu thờ Thần này, thì sẽ buôn bán phát tài, gia đình được an ổn,” để dụ dỗ thêm tín đồ. Nếu vẫn chưa thấy tín đồ tăng thêm, thì lần này tôn giáo dùng đến biện pháp làm khiếp sợ, như ám thị rằng “Nếu không thờ Thần này, thì chết sẽ phải xuống âm phủ, sẽ bị vua Diêm Vương lấy kìm rút mất lưỡi,” chẳng hạn. Con người ta khi còn sống thì không thể nào biết được thân mình sẽ ra sao sau cái chết. Vì thế, cái sợ hãi, cái khiếp đảm của người ta, là duy tâm, là có tính cách quan niệm. Nếu như đe dọa thế mà vẫn chưa đủ, thì dùng đến tòa án tôn giáo giết quách đi. Những chuyện như đốt chết những mụ phù thủy giữa chợ (thời Trung cổ bên châu Âu), tàn sát người khác đạo, có phải là hiếm đâu. Tôn giáo mà kết hợp với uy quyền, dùng mồi lợi lộc, dùng sự đe dọa, thì phải nói là một sự sa đọa, không hơn không kém.
Trong hiện thực của giới chính trị, thì bởi vì chính trị vốn không có cái hào nháng, cái quyến rũ có tính cách duy tâm, có tính cách quan niệm, như tôn giáo, nên thủ đoạn của chính trị chủ yếu là dụ dỗ bằng danh lợi và đe dọa.
Bởi thế, dù đem chính nghĩa, đại nghĩa ra thuyết dụ, cũng chẳng bao giờ lay chuyển được võ tướng samurai thời chiến quốc cả. Ấy thế nhưng, cái kỳ cục của con người ta là, chính mình thì không tin vào chính nghĩa, đại nghĩa, song người ta lại cho rằng, hẳn phải có nhiều người bị lay chuyển bởi chính nghĩa, đại nghĩa, nghĩa là, người ta cho rằng phía có chính nghĩa hẳn sẽ được nhiều người về hùa, tụ tập lại. Nói cách khác, đó là sự quá tin người. Ishida Mitsunari trước nhất đã biết lợi dụng cái điểm tâm lý này.
Nói “Hãy vì họ Toyotomi,” hoặc “Hãy đền đáp lại ân nghĩa của chúa Hideyoshi,” là dương ngọn cờ đại nghĩa, là khiến người ta phải đánh giá quá mức cái thực lực của phái phản Tokugawa vậy.
Thế nhưng, chẳng phải chỉ có vậy đã đủ để lôi cuốn được đông đảo người ta đâu, bởi vì các võ sĩ samurai thời Chiến quốc đâu có dễ dụ như vậy. Vì thế, thứ đến cần phải có hoạt động tuyên truyền quảng cáo nữa.
Nói đến tuyên truyền quảng cáo, thì bất luận thời đại nào, hoạt động này cũng tốn tiền tốn sức lắm. Với bổng lộc vẻn vẹn chỉ có 194 ngàn hộc, Mitsunari chẳng có nhiều tiền và người để dùng. Nếu còn làm quan Chấp chính của thiên hạ, thì Mitsunari cũng có thể tiêu dùng được phần nào cái kho tiền của thành Ozaka, nhưng nay thì ông đã bị bắt nghỉ hưu về ở ẩn ở nơi quê nhà rồi, thì việc đó không làm được nữa. Vậy, ông phải đi tìm một nguồn tài trợ.
Phải là người rất trung nghĩa đối với chúa Hideyoshi, phải là người chất phác trung
thực, mới chịu làm nguồn tài trợ như vậy. Nếu vậy, chỉ có Ukita Hide’ie. Người tốt, tiếng tăm tốt, và với gia tài 570 ngàn hộc của xứ Bizen Mimasaka, ông cũng lại có tài lực đáng kể nữa.
Mitsunari đã nương tựa vào họ Ukita, đã bòn rút được khá nhiều tiền và mượn được khá nhiều tay chân của Hide’ie. Ông đã vận động đây đó, dụ dỗ người ta bằng chiêu bài hãy vì họ Toyotomi, hãy giúp ấu chúa Hideyori. Trong cuộc vận động này, ông đã tiêu xài khá tốn kém, mua chuộc cũng nhiều.
Các võ tướng samurai thì bàn tán rằng “Xem ra chẳng phải chỉ có một mình Mitsunari,” “Thằng cha ấy làm gì có tiền mà tiêu xài như vậy,” “Nó hẳn phải có người tài trợ.” Nghĩa là một tin đồn đã lan ra rằng “Kế hoạch Ishida Mitsunari hẳn phải được nhiều nhóm, nhiều doanh gia yểm trợ, ủng hộ.” Ðó chính là bầu không khí, kiểu suy nghĩ, cái tâm trạng quần chúng mà Mitsunari mong đợi vậy. Ông lợi dụng tình thế này, đã bòn rút được khá nhiều tiền bạc của những thương gia hai mang ở Sakai và kinh đô.
Mitsunari còn nghĩ ra một phương pháp kỳ diệu nữa. Bởi vì nếu chỉ có chính nghĩa và bầu không khí không thôi, thì không có hiệu quả mấy. Ông cần có yếu tố thứ ba nữa: đó là mạng lưới nhân sự, nguồn nhân tài. Thế nhưng, ở địa vị quan Chấp chính hàng thứ tư, nếu ông có trực tiếp kêu gọi những nhân vật ở hàng Ðại lão, thì cũng chẳng có hiệu quả gì. Ngày còn mồ ma Maeda Toshi’ie, ông này chỉ cần nói lên một lời là được việc. Nhưng nay làm gì có vị lãnh chúa nào, có thực lực, dám đứng ra phất cờ tiên phong. Ông bèn khởi sự lập mạng lưới nhân sự không gồm lãnh chúa, mà gồm Gia lão, tức là gia thần cột trụ của lãnh chúa, những người thực sự làm việc dưới trướng của lãnh chúa.
Chẳng hạn, khi cần tiếp cận Ukita Hide’ie, thì ông không trực tiếp liên hệ với Hide’ie, mà đã thuyết phục gia thần có thực lực của Hide’ie, là Akashi Sobe Teruzumi. Tương tự, với họ Uesugi thì không phải với chủ nhân, mà với người thuộc hạ có thực lực của chủ nhân, tức là Naoe Yamashiro no Kami Kanetsugu, mà ông đã nối tay. Với họ Mori, thì ông bắt liên lạc với cố vấn ngoại giao, là Ekei (Huệ Khuê), nhà sư trụ trì chùa Ankokuji (An Quốc Tự). Nghĩa là với những dòng lãnh chúa lớn, ông đã bắt tay được với hàng gia thần hoặc ở địa vị trọng trách hoặc tương đương như vậy.
Mitsunari tuy chỉ là một quan Chấp chính bậc thấp nhưng lại là gia thần trực thuộc chúa Hideyoshi, nay nếu trực tiếp thuyết phục Hide’ie, thì lời thuyết phục đó sẽ là lời “van xin,” và như vậy nếu có sự phản đối trong hàng gia thần của Hide’ie, thì bị “bẽ mặt.” Vì thế, ông đã thuyết dụ nhân vật thứ hai, Akashi Sobe, rồi khiến ông này vận động nội bộ trong họ Ukita. Ðến với họ Uesugi, thì ông nói “Ngài Ukita Hide’ie đã đồng ý rồi” để thuyết phục Naoe Yamashiro no Kami. Rồi tới họ Mori thì ông thuyết phục nhà sư Huệ Khuê. Nói cách khác, ông hoạt động với hàng quan liêu (công chức) trung gian, lập ra mạng lưới nhân sự của những người thực sự làm việc. Cách làm của ông đã có hiệu quả, khiến đã làm lan rộng ra một bầu không khí phản Tokugawa giữa các lãnh chúa. Họ liên lạc với nhau, hỏi han nhau và thậm chí trở thành mạnh dạn, liều lĩnh.
Trước hết là họ Uesugi đã khởi sự hành động. Ðương chủ của họ Uesugi, Kagekatsu, chỉ là con nuôi của đời trước, Kenshin, nhưng được thừa kế. Vì thế, muốn cho bọn gia thần tâm phục mình, ông cần phải đóng vai trò giống hệt như cha nuôi.
Ông nói: “Dưỡng phụ Kenshin là người trọng nghĩa, được người đời gọi là nghĩa tướng. Mỗ nay cũng phải như vậy, mới gây được sự đoàn kết trong hàng gia thần. Việc
này, không kể thành bại, mỗ phải lên tiếng trách cái sai lầm của Ngài Tokugawa, mới được.” Niên hiệu Chokei năm thừ năm (1600), mùa Xuân, ông đã trở về Aizu Wakamatsu chuẩn bị chiến tranh. Mitsunari bèn liên lạc với Nao’e Yamashiro no Kami, gia thần của lãnh chúa Uesugi, bảo cho ông này biết là chủ của ông ta đã quyết tâm hỏi tội Tokugawa Ieyasu. Lúc ấy, Ieyasu tự coi như đã được thiên hạ rồi, bèn thống suất bọn lãnh chúa dưới trướng - thật ra đó chỉ là đám gia thần cũ của chúa Hideyoshi, nay theo Ieyasu - kéo quân đi chinh phạt họ Uesugi.
Trong khi đó, Mitsunari đã bàn với quan Chấp chính Hình bộ Thiếu phó đã nghỉ hưu, Otani Yoshitsugu, cùng thông đồng với nhà sư Huệ Khuê để lung lạc lãnh chúa Mori Terumoto, nổi tiếng là người ở ẩn thận trọng. Họ hứa sẽ tôn ông lên làm tổng tư lệnh để mời ông ra. Nếu trận đánh thắng lợi, thì họ sẽ để ông làm đại diện cho ấu chúa Toyotomi Hideyori, nắm quyền cai trị thiên hạ. Nghĩa là họ đã dùng mồi ngon nhử Mori. Nói xấu, thì đó là mánh lới lừa bịp, cái bẫy của Mitsunari vậy.
Dùng Mori Terumoto làm tổng chỉ huy để chống lại Tokugawa Ieyasu
Tóm lại, thứ nhất là dương cờ chính nghĩa, thứ hai là khéo che đậy bằng người tài trợ, thứ ba là dùng mạng lưới những thành phần thực quyền để lung lạc các lãnh chúa lớn. Rồi thứ tư là kiếm một nhân vật tượng trưng để đôn lên làm tổng tư lệnh. Nghĩa là ở bên trên Ukita Hide’ie, tức là người tài trợ cho kế hoạch, còn có một nhân vật tượng trưng, một cái bung xung nữa. Ðó là tổng tư lệnh Mori Terumoto.
Cái cấu trúc trên thật là tuyệt diệu. Nghĩa là, tuy Mitsunari chú ý cả tới những điểm tỉ mỉ, song thực tế là ông đã xây dựng một cấu trúc gồm hư cấu nọ che phủ hư cấu kia. Chính nghĩa, đại nghĩa là một hư cấu. Ðưa Mori Terumoto ra làm tổng tư lệnh, chỉ là mượn danh nghĩa, cũng là một hư cấu nữa.
Tuy nhiên, cái tình hình nội bộ như vậy, đã không được loan truyền chính xác ra ngoài. Với điện thoại và truyền hình được phổ cập như ngày nay, thì hẳn cái trò bịp bợm trên còn được thổi phồng lên thành một hư cấu vĩ đại hơn nhiều.
Vì vậy, phần lớn các lãnh chúa đều không nắm được thông tin chính xác. Với họ, họ chỉ thấy rằng hai bậc Ðại lão là Ukita và Uesugi đã bắt tay nhau rồi, và cái ông thận trọng Mori cũng đã về hùa rồi. Thế rồi một tin đồn được loan truyền mau lẹ, là “Xem chừng phen này chắc ăn cờ rồi. Nếu không vậy thì đời nào một người thận trọng như Mori lại chịu về hùa.” Dĩ nhiên là Mitsunari đã nhúng tay vào việc loan truyền tin đồn này.
“Ngài Mori chịu đứng ra làm tổng tư lệnh, thì hẳn phải có triển vọng thắng cả trăm phần trăm. Nói về bề rộng của lãnh thổ, thì tuy Tokugawa Ieyasu có tới 2 triệu 540 ngàn hộc thật, song cả Uesugi, Ukita và Mori cộng lại thì lớn hơn. Chưa kể, lấy thành Ozaka làm căn bản để tôn ấu chúa Hideyori lên, thì chính nghĩa đã minh bạch lắm. Như thế này thì ăn đứt rồi.” Ấy, câu chuyện như vậy đã được truyền miệng rộng ra.
Vì thế, các võ tướng samura trấn giữ các lãnh địa xa, không có đủ thông tin, bèn lần lượt từ khắp nơi kéo quân tới thành Ozaka.
Chẳng hạn, lãnh chúa bảy quận phía đông xứ Hizen là Nabeshima Naoshige, một người đa mưu túc trí, vốn chẳng có ân nghĩa gì với họ Toyotomi cả, song đã kéo đại quân tám ngàn người tới thành Ozaka. Con trai của Chosokabe Motochika, là Morichika, lãnh chúa đất Tosa, cũng là người chẳng phải đã được Hideyoshi đãi ngộ gì. Ngược lại, trong
lúc ông đang tự sức mình toan thôn tính cả đảo Shikoku thì bị Hideyoshi can thiệp vào, khiến phải thu mình lại trong mảnh đất Tosa nhỏ hẹp. Thế mà nghe nói chính nghĩa có lẽ thắng, đã kéo quân tới thành Ozaka. Chẳng bao lâu, thành Ozaka đã có quân tới đóng chật ních.
Tokugawa Ieyasu cũng phải giật mình té ngửa ra. Thoạt kỳ thủy, ông cho rằng chỉ có một thiểu số như bọn Otani Yoshitsugu, bạn thân của Ishida Mitsunari, tỏ ý bất mãn. Ông chỉ vung tay áo giáp là quét sạch. Nhưng dè đâu, đến lúc chợt tỉnh ra, thì một lực lượng lớn hơn cả lực lượng dưới trướng mình, đã tụ tập tại thành Ozaka rồi.
Cho đến đây, thì chiến lược, kế hoạch của Mitsurari đã thành công lớn. Mưu lược của Ishida Mitsunari trong chiến dịch chia đôi thiên hạ, đã tiến hành vô cùng thuận lợi. Trong lịch sử Nhật Bản cho đến lúc ấy, chưa hề có danh tác nào như vậy. Cách làm của Mitsunari đã để lại ảnh hưởng vô cùng lớn lao cho tới ngày nay đối với phương pháp dự thảo kế hoạch, dự án. Ðó là nguyên mẫu cho loại hình kế hoạch gọi là “hạ ý thượng đạt[10]” kiểu Nhật Bản vậy.
Nhưng tiếc thay, vở kịch dựa trên danh tác như vậy, đã được trình diễn một cách vụng về. Tới lúc sắp diễn ra trận thư hùng ở Sekigahara, tức là lúc vở kịch sắp được trình diễn trên sân khấu, thì hết trục trặc nọ tới thất bại kia nối đuôi nhau xuất hiện một cách bất ngờ.
Kịch hay, diễn dở
Bị Ishida Mitsunari kích động, binh lực tụ tập tại Ozaka đã lên tới 160 ngàn người. Ðể đối lại, binh lực của Tokugawa chỉ là non 80 ngàn người. Trên số lượng thì như vậy phe Tây có ưu thế tuyệt đối.
Tuy nhiên, các tướng vốn thiếu thông tin khi tụ tập tại thành Ozaka thì thấy thông tin lan tràn. Họ được những thông tin này mới lần lần nhìn ra sự thực.
“Quý huynh tại sao tới thành Ozaka này như vậy?”
“Thú thật ngu đệ cũng không hiểu tại sao. Thấy chư huynh kéo quân đến, nên ngu đệ cũng đến.”
“Vậy huynh định giao chiến với Tokugawa chăng?”
“Không đánh thì tốt hơn. Ðánh thì mệt lắm. Cái gì chứ ngài Tokugawa quả là địch thủ đáng sợ.”
Toàn những cuộc đối thoại mù mờ kiểu này mà thôi. Những tướng thực sự muốn đánh thì ít. Chưa kể họ cũng chẳng biết ai là tổng chỉ huy, ai là minh chủ, kế sách ra sao và sự phân công là như thế nào. Ngay cả Mori Terumoto, người đã kéo quân vào thành Ozaka với tư cách tổng chỉ huy, cũng không có chiến lược gì và thái độ thì lừng chừng. Vì thế, các tướng ai cũng giữ thái độ chờ xem ai là người ra tay trước.
Nếu là kế hoạch thời nay, thì chỉ cần chút ít tiền là người ta bắt tay vào việc ngay trong bầu không khí “làm đi! làm đi!.” Chứ thời đó, nếu thất bại là ba họ bị chu di. Hơn nữa, ủng hộ cả hai bên, hoặc đứng trung lập cũng bị coi là kẻ địch. Nghĩa là, dù có nói: “Tôi không về phe với Tokugawa hoặc Toyotomi. Tôi ngồi im re ở đây. Xin bỏ qua cho tôi,” cũng không được. Cũng có người đã giữ trung lập, nhưng sau đó đã bị phe thắng (Tokugawa) giết đi, hoặc bị tước mất lãnh địa. Tóm lại, đó là thời đại ai nấy đều phải đứng hẳn về một phe, phải nghiêm chỉnh chọn lấy một bên mà về hùa.
Vì thế, các tướng dần dần đâm ra lo ngại, “liệu như thế này có xong không?” Họ bắt đầu hoài nghi rằng: “Không chừng bọn ta đã bị Ishida Mitsunari chơi một vố rồi!” Quả thật, Mitsunari vốn đã bị cho về vườn ở thành Sawayama. Bản thân ông chỉ có gia tài 194 ngàn hộc, nghĩa là chỉ có thể thống lãnh được sáu ngàn quân. Như vậy, ông làm sao thắng được binh lực 2 triệu 540 ngàn hộc của Tokugawa? Mitsunara nén lòng giữ im lặng, song mọi người chẳng ai chịu động binh cả.
Ðến lúc sắp đánh trận Sekigahara thì các tướng đều chân trong chân ngoài, ai cũng thấy cần phải bắt tay với ai đó ở phe Tokugawa. Thậm chí, đến như Mori Terumoto, đóng vai tổng đại tướng, mà còn sai Yoshikawa Hiro’ie bắt tay hữu nghị với Tokugawa, thì còn gì tệ bằng?
Nguyên nhân cái thất bại của Ishida Mitsunari chính là cái mỹ học, cái ý thức đẹp của ông. Ông muốn đường đường chính chính tỉ thí trên võ đài. Chứ nếu chỉ là với mục đích đả đảo Tokugawa, thì đúng ra ông nên đánh du kích. Lúc ấy, Uesugi Kagekatsu đã về chuẩn bị chiến tranh ở đất Aizu, và Tokugawa đã thống suất hơn một trăm lãnh chúa đem quân đội chinh phạt rồi. Vậy nếu Mitsunari đừng nghĩ đến đánh một trận thư hùng kiểu Sekigahara, mà quay ra triển khai đánh du kích, làm rối loạn toàn quốc lên, thì có lẽ làm cho Tokugawa lo sợ hơn. Thế nhưng, với tư cách quan Chấp chính của thiên hạ, ông muốn chính danh kế thừa nền chính trị chính thống của chúa Toyotomi, thì làm sao có thể đánh du kích, tức là đánh lén được. Ðó là cái mỹ học, cái ý thức đẹp của Mitsunari vậy. Mitsunari đã làm một sai lầm, là đã coi hình thức trọng hơn hiệu quả. Ðúng là cái khí tiết văn trị[11] của hàng quan liêu[12], chứ không phải là cái bản lĩnh đánh bạc của ông chủ kinh doanh, của con buôn.
Nếu Ishida Mitsunari áp dụng chiến thuật du kích và chiến thuật cố thủ thành trì, thì chắc hẳn Tokugawa Ieyasu cũng phải ngán. Song, như thế thì Mitsunari cũng chẳng thể thắng được. Rốt cục, lại chỉ làm trở lại thời kỳ chiến quốc mà thôi. Rồi, biết đâu chẳng có nhân vật thứ ba xuất hiện?
Một lý do nữa cho sự thất bại của Mitsunari, là địa vị của ông dở dang, lửng lơ quá. Muốn làm chuyện xoay vần trời đất, mà chỉ đứng hàng thứ tư trong năm chức quan Chấp chính, tức là cũng tựa hồ như một chức quản trị viên trơn của một đại công ty, thì quả là địa vị thấp kém quá. Mà nếu dấu mình đi, chỉ hoạt động nơi hậu trường, thì ngược lại, lại quá l liễu. Nghĩa là sẽ bị người ta nghĩ rằng “Mitsunari có tham vọng.”
Với 194 ngàn hộc mà muốn làm sự nghiệp lớn, thì thiếu tiền, thiếu người. Vì thế, ông đã viết ra cốt truyện, song không tự mình đứng làm trung tâm của vở kịch được. Cái mưu toan sơ khởi của ông là chỉ viết cốt truyện, rồi để cho Ukita Hide’ie và Mori Terumoto nắm phần diễn xuất và trình bày. Vì thế, lúc đầu ông đã ở lại đất Omi mà không bước chân tới thành Ozaka nghĩa là ông đã biết tự kiềm chế mình vậy.
Thế nhưng, Mori Terumoto đóng vai chính lại ngồi lì ở thành Ozaka không chịu nhúc nhích. Vì thế, Ukita Hide’ie mới phải khởi sự trước, bằng cách nhân lúc Tokugawa đi vắng, kéo quân đội đánh úp thành Fushimi. Ðại quân vây xong thành Fushimi nhưng không tướng nào chịu ra tay cả. Súng đại bác thì có bắn, song không có ai xung phong đột kích cả. Nghĩa là không ai muốn bị mang tiếng là kẻ đã xông xáo trước nhất, nếu vạn nhất bị thua. Ba quân chỉ reo hò ầm ĩ, song không có ai tiến đánh cả.
Chịu không nổi, Mitsunari mới kéo quân bản bộ từ thành Sawayama tiến ra. Có vài võ
tướng khí thế đã đánh được thành, song sau đó làm gì, đi đâu, thì không thấy quyết gì cả. Nghĩa là về hình thức thì tướng tổng tư lệnh là Mori Terumoto, song tướng chỉ huy chiến trường lại là Ukita Hide’ie, và tướng tham mưu bày mưu đặt kế lại là Ishida Mitsunari, tức là toàn thể tổ chức là một cấu trúc ba tầng.
Rốt cục, quân phe Tây đã chia làm ba đường. Ukita Hide’ie kéo quân chủ lực đánh từ Ise lên Owari. Ðạo quân thứ hai do Ishida Mitsunari làm tư lệnh, đánh và hạ xong thành Otsu ở Shiga, rồi kéo quân ra Sekigahara ở Gifu. Ðạo thứ ba do Otani Yoshitsugu làm tư lệnh, đi đường Hokuriku. Vậy mà chẳng tiến được bao nhiêu. Chẳng bao lâu, Ieyasu đã thống suất đại quân Ðông chinh trở về, trước nhất đánh úp lấy thành Gifu của cháu nội chúa Nobunaga.
Thế là bị Tokugawa chọn mất chiến trường dự định rồi. Ông quả là sáng suốt, đã không lầm lẫn trong việc chĩa ngay mũi dùi vào trung quân của Ishida Mitsunari. Bị quân chủ lực của Ieyasu nhằm đánh, Ishida Mitsunara bèn vội vàng truyền hịch gọi cánh quân của Ukita Hide’ie lúc ấy đang tiến về Ise, quay đầu trở lại. Song, phó tướng là Nabeshima Naoshige, lấy cớ là binh sĩ đã mệt và không đủ lương thực, nên không chịu nhúc nhích. Tướng thống lĩnh cánh quân tiến theo đường Hokuriku là Otani Yoshitsugu thì đã kịp thời quay đầu trở lại, song các bộ tướng thì vịn vào lý do này lý do khác không chịu trở về. Một võ tướng 50 ngàn hộc, thân lại bệnh tật, nên ông không đủ sức cưỡng bách chư tướng nghe theo ý mình.
Dần dà, tình trạng không thống nhất trong nội bộ phe Tây đã lộ ra, khiến các tướng trở nên hoang mang, và bắt đầu thương lượng với phe địch, rằng “Mỗ đã tham gia chiến dịch mà thật ra không hiểu mô tê gì cả. Bản thân mỗ không có ý định chống đối lại phe Tokugawa.” Những thư tín tương tự còn lưu lại tới ngày nay rất nhiều.
Tất nhiên, hẳn cũng đã có những vụ thương lượng tương tự trái ngược lại. Hẳn cũng đã có những thư tín của các tướng dưới trướng Tokugawa rằng “Mỗ tuy theo Tokugawa, song không phải vì thế mà đã quên ân nghĩa của họ Toyotomi.” Tiếc rằng, những thư tín này đã bị vội vàng đốt đi, nên ngày nay không phát hiện ra được.
Trong trận Sekigahara tuy phe Tây đã có thế ưu việt áp đảo, song bọn Obayakawa, Ogawa thì làm phản, tổng tư lệnh Mori Terumoto thì ngồi lì trong thành Ozaka không chịu nhúc nhích, anh em Yoshikawa Hiro’ie ra trận thay thế lại quyết chỉ đứng bàng quan.
Thế là, cái mưu đồ của Ishida Mitsunari đã kết thúc kiểu “kịch hay, diễn dở.” Kế hoạch khổng lồ Sekigawara có chủ tướng (Mori Terumoto) và tham mưu (Ishida Mitsunari) khác nhau. Chủ tướng thì vừa không có nhiệt tình vừa không có tài quyết đoán. Tham mưu thì tiền và tay chân không có đủ. Vì thế nên kế hoạch đã kết liễu kiểu “kịch hay, diễn dở” vậy. Tuy nhiên, cách sắp xếp, chuẩn bị kế hoạch thì tuyệt diệu, nên đã để lại trong lịch sử hậu thế một ảnh hưởng lớn lao.
Việc thực hiện cuộc Duy Tân thời Minh Trị, việc xây dựng “nước Mãn Châu,” việc kiến thiết tuyến đường sắt Siêu Cao Tốc Shinkansen, rồi việc tổ chức Hội chợ Thế Giới tại Nhật Bản của chúng tôi, tất cả đều đã dập theo đúng khuôn mẫu của Ishida Mitsunari. Cách thức làm việc của Ishida Mitsunari đã được thuật lại tỉ mỉ trong tiểu thuyết “Mưu đồ vĩ đại,” và cho thấy rằng phương pháp làm kế hoạch của Ishida Mitsunari hiện nay cũng vẫn được các xí nghiệp, các doanh nghiệp và các đoàn thể công cộng trên toàn quốc Nhật Bản áp dụng.
Vậy, ai muốn lập ra và xúc tiến một kế hoạch khổng lồ, hãy học hỏi cách làm việc của Ishida Mitsunari, hãy tìm hiểu tại sao Mitsunari thất bại. Ishida Mitsunari đã tự mình viết ra một kế hoạch khổng lồ kiểu Nhật Bản và đã chính mình thực thi kế hoạch đó. Mặt thành công của kế hoạch, cũng như mặt thất bại của kế hoạch, đều đáng cho người ta tham khảo.
Nhật Bản là một quốc gia do hàng công chức bậc trung của nhà nước, hàng nhân viên bậc trung của các xí nghiệp tư nhân, làm cho hoạt động. Nói khác đi, “những ông không lớn” mới thật sự quy hoạch và thực hiện những kế hoạch khổng lồ kiểu Nhật Bản vậy. Với tư cách là người đã sáng chế ra phương pháp làm kế hoạch như vậy, Ishida Mitsunari xứng đáng làm một trong “Mười hai người lập ra nước Nhật” của ngày nay vậy.
[1] Hội Chợ Thế Giới hoặc Triển lãm Thế giới (International Exposition, thường viết tắt là EXPO) lần đầu tiên mở ở Luân Ðôn năm 1865. Năm 1928, hiệp ước về Hội chợ Thế giới được ký kết ở Paris. Nhật Bản gia nhập hiệp ước năm 1965, và năm 1970 đã đứng ra tổ chứ Hội chợ Thế giới lần đầu tiên ở châu Á, gọi là EXPO’70, Osaka.
[2] Hệ thống đường sắt nhanh nhất thế giới trên đường ray khổ hẹp (1,435 m), thường gọi nôm na là “tuyến đường sắt viên đạn.” Năm 1964 tốc độ đạt được đã là hơn 200 km/h. Hiện nay (năm 2003), tốc độ là hơn 300 km/h.
[3] Hai miền này thường được gọi ghép lại là Satcho. Miền Satsuma nay thuộc tỉnh Kagoshima trên đảo Kyushu, còn miền Choshu (cũng gọi là Nagato) nay thuộc tỉnh Yamaguchi trên đảo Honshu.
[4] Hàng mấy chục năm trước khi Nhật Bản bắt tay vào xây dựng tuyến đường sắt siêu cao tốc Shinkansen này, Kỹ sư trưởng Shima Hideo, lúc đó còn là một kỹ sư trẻ tuổi, đã thầm lặng tính toán vẽ ra kế hoạch tổng thể cho một hệ thống đường sắt mà ông gọi là Ðường Sắt Viên Ðạn (Dangan Tetsudo), rồi tiếp tục thuyết phục cấp trên thực hiện tuyến đường sắt này. Về sau, khi kế hoạch bước vào giai đoạn thực thi, thì chính ông, với tư cách Kỹ sư trưởng của Hệ thống Ðường sắt Quốc doanh Nhật Bản, đã trực tiếp lãnh trách nhiệm về mặt kỹ thuật.
[5] Người đất Omi, làm võ tướng samurai thời Azuchi Momoyama, có tài về mặt kinh tế, tài chính được chúa Toyotomi Hideyoshi tin dùng, phong cho làm lãnh chúa cai quản thành Sawayama, ăn lộc 19 ngàn hộc. Sau này, sau khi chúa Toyotomi Hideyoshi mất, đã mưu toan lật đổ chúa Tokugawa Ieyasu, song bị thua trận ở Sekigahara (xem lời chú dưới), nên bị xử trảm ở Kyoto. 1560-1600.
[6] Trận đánh quyết định ngày 15/9/1600 giữa hai phe Ðông và Tây ở Nhật Bản thời đó. Phe Ðông do chúa Tokugawa Ieyasu dẫn đầu, phe Tây do lãnh chúa Ishida Mitsunari cầm đầu. Sau trận đánh này, chúa Tokugawa Ieyasu thống nhất được thiên hạ, lập ra mạc phủ ở Edo (Tokyo ngày nay) năm 1603, dựng nên dòng chúa Tokugawa kéo dài 15 đời, 265 năm, cho tới cuộc Duy tân Minh Trị năm 1867.
[7] Vụ biến loạn chùa Honnoji xảy ra năm 1582 (niên hiệu Thiên Chính năm thứ 10). Chúa Oda Nobunaga đem quân đội cứu viện Toyotomi Hideyoshi, lúc đó đang bao vây thành Bichu Takamatsu, nửa đường còn đóng quân ở chùa Honnoji thì bị Akechi
Mitsuhide, một bộ tướng đã được Oda Nobunaga cho đi tiên phong, làm phản đem quân từ thành Tanba Kameyama trở lại đánh úp chùa Honnôji, sát hại chúa Nobunaga.
[8] “…bọn ám sát được thiên hạ công nhận,” là nói những thích khách chuyên nghiệp võ nghệ cao cường, có công lực khác thường, biết dùng đủ loại ám khí, thường gọi là Ninja. Xưa mỗi lãnh chúa Nhật Bản đều nuôi ở dưới trướng những Ninja như vậy, dùng để dò la tin tức các địch thủ của mình, và khi cần thì sai thủ tiêu địch thủ đi.
[9] Bóng chày môn thể thao thịnh hành nhất và được ưa chuộng nhất tại Nhật Bản. Sumo, môn đánh vật truyền thống, là môn thể thao được trân trọng nhất của Nhật Bản. Ðội bóng chày Người Khổng Lồ là đội bóng chày chuyên nghiệp, đóng căn cứ tại Tokyo, có lịch sử lâu đời nhất đồng thời cũng có thành tích chói lọi nhất Nhật Bản, nổi tiếng có những người hâm mộ cuồng nhiệt. Còn đô vật sumo gọi là Ðại Vô Ðịch là đô vật hàng tối cao, thường được mọi người rất trọng vọng. Ðô vật Takanohana là một Ðại Vô Ðịch trẻ tuổi có thành tích sáng chói nhất trong lịch sử sumo Nhật Bản.
[10] Hạ ý thượng đạt, nghĩa là ý người dưới được đề đạt lên người trên. Nói cách khác, những dự án, kế hoạch khổng lồ kiểu Nhật Bản, chẳng qua là sáng kiến của những người cấp dưới, tức là những người thực sự việc làm, những người biết việc, viết ra, soạn thảo ra. Nhiên hậu, nội dung kế hoạch mới được giải thích để thuyết phục cấp trên, rồi được đưa ra thực thi, như thế là cụ thể hóa cái ý muốn thực hiện kế hoạch đó của những người cấp dưới vậy. Nói chung, những người ăn trên ngồi trốc ở Nhật Bản thường chủ trương an thân, an phận, sao cho thời gian mình ngồi giữ ghế ăn trên ngồi trốc đó được vô sự cho tới lúc mình hết nhiệm vụ. Họ không muốn liều lĩnh, không muốn đánh liều, không muốn thử vận. Vì thế, những người ở cấp dưới, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao, dù có sáng kiến, dù có khả năng thực hiện, song vì không có quyền hành, không có quyền quyết định trong tay, nên đã phải dùng tới những thủ đoạn, những phương pháp mà Ishida Mitsunari đã áp dụng vậy.
[11] Trị bằng văn, bằng pháp luật.
[12] Tức là nhà nước chính qui, chính thống
Chương VI : Tokugawa Ieyasu
Cải cách với “ý chí tăng trưởng”
Từ “con tin” trở thành “đại chúa tể”
Nhân vật Tokugawa Ieyasu là một tồn tại quá ư nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản, nên tài liệu ghi chép và giai thoại về ông nhiều vô kể. Song, một mặt vì ông đã được tô son điểm phấn bởi quá nhiều truyền thuyết và thần thoại, nên có một khoảng cách rất xa giữa cái “thực ảnh” và cái “hư ảnh” về ông.
Trước khi xem cái ảnh hưởng có tính cách đương đại của những truyền thuyết và thần thoại về Ieyasu, chúng ta hãy nhắc lại một cách hết sức vắn tắt cuộc đời ông căn cứ vào những sự thực lịch sử.
Ông sinh năm 1542, (niên hiệu Tenbun thứ 11), với ấu danh[1] là Matsudaira Takechiyo và mất năm 1616, (niên hiệu Genna thứ hai), hưởng thọ 75 tuổi. Nếu muốn đổi thành cảm giác tuổi tác của thời đại tuổi thọ 80 như ngày nay, thì người ta phải thêm vào tuổi thời chiến quốc hai phần mười rồi cộng với ba năm nữa. Thí dụ, thời chiến quốc tuổi
"""