"100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục và công cuộc cải cách giáo dục Việt Nam hiện nay 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục và công cuộc cải cách giáo dục Việt Nam hiện nay Ebooks Nhóm Zalo ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI • • • TRƯỜNG ĐẠi HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VÃN • * • ■ I uu INnlVI ĐÔNG KINH NGHĨẠ THỤC VÀ CÔNG CUỘC ' CẢI CÁCH GIÁO DỤC ở VIỆT NAM HIỆN NAY ■ ■ > > n 1 1 “ • # - Jz » . J — — — |||»|' -* j-nn NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 100 nAm đông kinh nghĩa thục VÀ CÔNG cuộc CẢI CÁCH GIÁO DỤC ở VIỆT NAM HIỆN NAY ĐẠI HOC QUỐC <;IA HẢ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 100 NĂM ĐỐNG KINH NGHĨA THỤCm VÀ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC ■ ■ ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHÀ XUẤT BẢN ĐAI HOC QUỐC GIA HÀ NÔI Tổ chức bản thảo: GS. ĐINH XUÂN LÂM GS.TS. NGUYỄN VẢN KHÁNH PGS.TS. LÂM BÁ NAM PGS.TS. PHẠM XANH TS. TRẦN VẢN LA LỜI GIỚI THIỆU Nhân dịp ki niệm 100 năm thành lập trường Đônj, Kinh nghĩa thục tại Hà Nội (1907-2007), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã tổ chức Hội thảo khoa học “100 năm Đông Kinh ngliĩa thục và công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay”. Đông đảo cán bộ nghiên cứu và giảng dạy trong và ngoài trường đã nhiệt liệt hưởng ứng và gửi vể ban tổ chức hội thảo các bài viết theo hai chủ đề: - Đông Kinh nghĩa thục và những cải cách giáo dục trong lịch sử. - Cóng cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Trong lịch sử vãn hoá - giáo dục của nước ta, trường Đông Kinh nghĩa thục có một vị trí đặc biệt quan trọng và có ảnh hưởng sâu rộng với tư cách là một ngôi trường kiểu mới đầu thế kí XX, là điểm son sáng chói của nền giáo dục Việt Nam, hơn thế nữa là một cuộc vận động văn hoá - tư tưởng, chính trị quan trọng trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ta hổi đầu thế kỉ. Một hiện tượng vô cùng độc đáo trong đời sống chính trị, văn hoá, giáo dục cúa nhân dân ta lúc này là cùng trong một thời kì, dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa được thực dân Pháp đẩy mạnh từ sau khi phong trào đấu tranh vũ trang dưới ngọn cờ Cần Vương đã bị dập tắt trong máu lửa và sắt thép - đây là đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất - cơ cấu kinh tê cũng như cơ cấu xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển tuy mới bắt đầu, nhưng vẫn tạo ra cơ sở vật chất cần thiết bên trong, đê tạo điều kiện cho các trào lưu tư tưởng mới - tư tưởng mới đây là tư tưởng tư sản, từ bên ngoài tràn vào. Cũng do đặc điểm xã hội Việt Nam lúc này phân hoá chưa thuần thục nên đứng ra đảm nhận việc tiếp nhận trào lưu tư tưởng mới lại là bộ phận sĩ phu yêu nước có xu hướng tiến bộ đã nhận thức được sự phá sản thảm hại 5 của văn minh học thuật phong kiến Nho giáo nên hãng hái đứng ra tiếp nhận văn minh học thuật mới (tư sản) từ phương Tây sang qua hai con đường Trung Quốc và Nhật Bản. Mục đích của các sĩ phu yêu nước tiến bộ lúc này là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" tiến lên dân giàu, nước mạnh để đi tới tự cường, tự lập. Điểu đó giải thích sự xuất hiện gần như cùng thời từ trong Nam ra ngoài Bắc một loạt các nghĩa thục, nơi sớm nơi muộn, nơi nhiều nơi ít, nhưng hầu như nơi nào cũng có, nơi ảnh hưởng rộng, nơi ảnh hưởng hẹp, nhưng tất cả đều chung một mục tiêu giáo dục truyền bá tư tưởng mới, bổi dưỡng và đề cao tinh thần yêu nước, gây một phong trào sâu rộng trong nhân dân, nằm chung trong xu thế cải cách vãn hoá, đổi mới tư tưởng thời đó. Tất nhiên Hà Nội với truyền thống lâu dài trong lịch sử, với tư cách ihủ phú Liên bang Đông Dương thời thuộc Pháp, đã có vị trí quan trọng hàng đầu trong phong trào, vì vậy trường Đỏng Kinh nghĩa thục với những hoạt động sôi nổi phong phú nhiều mặt đã có vai trò to lớn. ảnh hưởng sâu rộng, là đỉnh cao cùa phong trào cả nước thời đó. Cho nên không phái chi có Việt Nam kỉ niệm 100 năm thành lập Đông Kinh nghĩa ihục mà nước ngoài cũng tổ chức hội thảo khoa học về ngôi trường lịch sử dó của Việt Nam. Hội thảo khoa học về Đông Kinh nghĩa thục tổ chức tại Aix-en - Provence (Pháp) vào đầu tháng 5-2007, với sự tham gia của các nhà khoa học, giáo dục Việt Nam và nhiều nước trên thế giới là một dẫn chứng. Một điều nữa cũng cần được nêu lên - đây cũng là một nét mới trong tư duy khoa học - đó là nghiên cứu lịch sử không chí với mục đích tôn vinh, tất nhiên tôn vinh cái anh hùng, cái cao đẹp trong lịch sứ dân tộc đê gây một lòng tự hào chính đáng đối với nhân dân, đối với dân tộc là cần thiết, nhưng còn có một yêu cầu nữa còn quan trọng hơn là học tập, rút ra những bài học lịch sử. Chủ đề 2 của Hội thảo kí niệm 100 năm thành lập trường Đông Kinh nghĩa thục tại Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhăn văn, Đại học Quốc gia Hà Nội là từ Đông Kinh nghĩa thục đầu thế kỉ XX liên hệ đốn công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sờ đó rút ra những bài học về xây dựng mô hình xã hội học tập, về quản lí giáo dục, về xã 6 hội hoá giáo dục, về cải cách giáo dục. Thiết tưởng đó là những công việc cấp thiết đổ đưa giáo dục Việt Nam phát triển lên một trình độ mới, khả dĩ đáp ứng những yêu cầu to lớn của Việt Nam trong thời kì hội nhập và phát triển. Đó cũng là mong muốn to lớn và nguyện vọng thiết tha của ban biên tập “ /00 năm Dóng Kinli nghĩa thục và công cuộc cải cách giáo dục ớ Việt Nam hiện nay" khi chuyển Ki yếu hội tháo này tới bạn đọc thân mến trong và ngoài nước. Hà Nội, tháng 6-2008 GS. Đinh Xuân Lâm 7 100 NĂM DỒNG KINH NGHĨA THỤC VÀ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC ở VIỆT NAM HIỆN NAY ■ ■ ■ ■ GS.TS. Nguyễn Vãn Khánh Cách đây 100 năm, phong trào Duy tân ờ Việt Nam nói chung, trường Đông Kinh nghĩa thục ờ Hà Nội nói riêng đã xuất hiện như là kết quả giao thoa và tích hợp của hai nền văn hoá Đông - Tây và được coi là một trong những phong trào cải cách lớn của Việt Nam ở đầu thế ki XX. Vào thời điểm đó, xã hội Việt Nam bắt đầu diễn ra những biến đổi rất quan trọng dưới tác động của công cuộc thực dân hoá của Pháp, một "nền thực dân nước đôi" như cách nói của hai nhà Việt Nam học người Pháp p. Brocheux và D. Hémery. Cùng với những chuyên biến trong kinh tế - xã hội, sự tiếp xúc và tác động của các trào lưu dân chủ tư sản từ ngoài dội vào đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện khuynh hướng cải cách ở Việt Nam mà biểu hiện tập trung nhất là phong trào Duy tân (1905-1908). Cuộc vận động Duy tân diễn ra trên nhiều lĩnh vực: từ chấn hưng thực nghiệp, phát triển kinh tế đến mở mang văn hóa, đổi mới giáo dục, xóa bó các hú tục lạc hậu trong lối sống. Khởi phát từ Quảng Nam, phong trào Duy tân đã nhanh chóng lan rộng ra cả nước với sự xuất hiện hàng loạt công ti, hội buôn như Hợp thương Diên Phong ở Quảng Nam, công ti Liên Thành buôn nước mắm ở Phan Thiết, Triêu Dương thương quán ử Nghệ An... Bên cạnh đó, hoạt động mờ trường dạy học theo tinh thần giáo dục phương Tây cũng diễn ra khá sôi nổi với sự tham gia tích cực của các sĩ phu tiến bộ. Hàng loạt trường học Duy tân xuất hiện ở Trung Kì. Tại các trường này, ngoài chữ quốc ngữ Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN: Diễn văn khai mạc Hội thảo khoa học:“ÍOO nâm Đồng Kinh nghĩa thục và công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay". 8 và chữ Pháp, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam, học sinh được học toán, địa lí và các môn khoa học tự nhiên, thể dục... Xuất phát từ thành thị và các trường học, phong trào Duy tân chuyển dẩn và lan rộng đến các vùng nông thôn với các hoạt động diễn thuyết, cổ động dân quyền, đổi mới phong tục như để răng trắng, cắt tóc ngắn, ăn mặc theo kiểu cháu Âu. Tại Nam Kì, phong trào Duy tán gắn liền với tên tuổi của Trần Chánh Chiếu, một nhà kinh tài có thế lực và có ảnh hưởng lớn trong giới doanh nhân. Ông ta từng vận động thanh thiếu niên, và có nhiều hoạt động đê ủng hộ về tài chính cho phong trào Đông du của Phan Bội Châu. Để thực hiện mục đích trên, ông đã thành lập Minh Tán khách sạn ở Mĩ Tho, Nam Trung khácli sạn ở Sài Gòn. Bên cạnh đó, Trần Chánh Chiếu còn đứng ra làm chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn được in bằng chữ quốc ngữ. Cùng với tờ Nống cổ min đàm, tờ báo này đã tập trung tuyên truvền, cổ suý phát triển cổng thương nghiệp, vận động nhân dân xóa bỏ cờ bạc, thuốc phiện; giảm các nghi thức cưới xin, ma chay; kêu gọi báo vệ quyền lợi kinh tế cho người Việt Nam; kêu gọi đồng bào hợp quần, tương thán tương ái. Trong bôi cảnh nói trên, tháng 3-1907 Đông Kinh nghĩa thục được thành lập tại Hà Nội (theo mô hình trường Khánh ứng nghĩa thục ở Nhật Bản) và nhanh chóng trở thành trung tâm của phong trào Duy tân ở các tỉnh phía Bắc. Tại trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội và các trường học duy tân ở các tinh, học sinh không phải đóng học phí. được ở nội trú miễn phí và còn được chu cấp sách vờ để học tập. Ngoài chương trình học chính khoá, các trường còn có nhiều hoạt động ngoại khoá như tổ chức diễn thuyết, bình văn, xuất bản sách báo... Những hoạt động nói trên, nhất là sự xuất hiện và hoạt động của tè Đăng cổ tùng báo - cơ quan ngôn luận cúa trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội đã góp phần khích lộ lòng yêu nước, truyền thụ những quan điểm, tư tưởng và lối sống mới, đồng thời cổ suý cho phong trào chấn hưng kinh tế, phát triển công thương nghiệp dân tộc. Rõ ràng, hoạt động duy tân đã mang tính cách mạng và gắn liền với mục tiêu giải phóng dân tộc. Đó chính là lí do giải thích vì sao đến cuối năm 1907, tức là chỉ 9 sau 9 tháng tồn tại, Đông Kinh nghĩa thục bị coi là một “lò phiến loạn” ở Bắc Kì và đã bị chính quyền Đông Dương ra lệnh đóng cửa. Mặc dù thời gian tồn tại không dài, nhưng Đông Kinh nghĩa thục đã đê lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn hoá và giáo dục nước nhà. Nhân dịp 100 năm của trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội, hôm nay Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức hội thảo khoa học "100 năm Đỏng Kinh nghĩa thục và công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay", nhằm quy tụ các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực hướng tới hai chủ để chính sau đây: 1. Trên cơ sở bố sung những lư liệu mới, tiến hành đánh giá đầy đủ và khách quan hơn về những đóng góp và vai trò cùa Đông Kinh nghĩa thục trong phong trào hiện đại hoá văn hoá - giáo dục và trong sự nghiệp giái phóng dân tộc Việt Nam đầu thế ki XX. 2. Từ kinh nghiệm của trường Đông Kinh nghĩa thục và phong trào Đông Kinh nghĩa thục đầu thế ki XX, trở lại đánh giá thực trạng của nền giáo dục nước nhà, đê từ đó gợi mở con đường chấn hưng giáo dục đất nước trong bối cảnh toàn cẩu hoá hiện nay. Thay mặt Ban Giám hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vãn, tôi xin nhiệt liệt chào mừng và cám ơn các vị khách quý, các nhà khoa học ờ trong và ngoài trường đã tham gia viết bài và nhiệt tình tới tham dự cuộc hội tháo hôm nay. Hi vọng rằng hội thảo sẽ cung cấp nhiều tư liệu khoa học xác thực đê không những bổ sung thêm những nhận thức mới về phong trào Đỏng Kinh nghĩa thục đầu thế ki XX, mà còn góp phần đề xuất những ý tường nhầm phát triển giáo dục, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 10 _________________ Phần thứ nhất_________________ ĐỎNG KINH NGHĨA THỤC VÀ NHŨNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC TRONG LỊCH sử 11 NHÌN LẠI HAI cuộc CẢl CÁCH GIÁO DỤC (1906 VÀ 1917) ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX TS. Phan Trọng Báu' Trong quá trình tổ chức và xác lập nền giáo dục ở Việt Nam, người Pháp đã tiến hành hai cuộc cải cách giáo dục quan trọng vào năm 1906 và 1917 nhằm từng bước xoá bỏ nền giáo dục Nho giáo đi đến độc chiếm “vũ khí tinh thần” này để xây dựng nền giáo dục duy nhất trẽn toàn quốc, dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp, phục vụ lợi ích cho chủ nghĩa thực dân Pháp. Trước khi tìm hiểu hai cuộc cải cách giáo dục, hãy có một cái nhìn khái quát về tình hình giáo dục trước đó. I. Giáo dục Việt Nam từ Pháp xâm lược đến đầu thê kỉ XX Không chờ đến khi chiếm xong toàn bộ Nam Kì mà ngay sau khi đánh chiếm Đại đồn Chí Hoà vào 25 tháng 2 nãm 1861, tháng 9 nãm ấy, đô đốc Charner đã ký Nghị định thành lập trường Adran (Bá Đa Lộc) để dạy tiếng Pháp cho người Việt và dạy tiếng Việt cho người Pháp. Đây chỉ là một cơ sở đào tạo nhân viên phục vụ quân đội viễn chinh và chiếm đóng của thực dân Pháp, giáo dục chưa mang tính rộng rãi đúng với nghĩa của nó, còn ở các làng người ta vẫn học chữ Hán. Nãm 1864. đổ đốc Dc Lagrandière cho tổ chức một số trirờng tiểu học ở các tính đê dạy quốc ngữ và dạy toán, nhưng sô học sinh vẫn rất ít. Người ta chưa thích nghi với chữ quốc ngữ và chữ Pháp, trừ một số làng theo đạo Thiên Chúa thì số học sinh có khá hơn, cho nên sau 6, 7 năm mò mẫm người ta chi mới tổ chức được ở Nam Kì 58 trường học (trong đó có 2 trường của Giáo hội) với 1368 học sinh. Viện Sử học 13 Từ năm 1868 đến năm 1858 là thời kì thực dân Pháp mờ rộng chiến tranh xâm lược ra toàn quốc, và cuối cùng đã buộc triều đình Huế phái kí hoà ước công nhận quyển đô hộ của họ trên toàn bộ đất nước ta. Giai đoạn này, giáo dục cũng chỉ mới mở rộng ở Nam Kì, còn ở Bắc Kì và Trung Kì chưa tổ chức được gì. Ỏ Nam Kì có ba loại trường: trường cấp 1, cấp 2, cấp 3. Trường tính là trường dạy cả ba cấp. Cấp 1 (sơ học) học 3 năm gồm tiếng Pháp, 4 phép tính, cách đo lường, chữ Hán chí học đến một mức độ nhất định, chữ quốc ngữ học đù để biết đọc, biết viết. Cấp 2 (tiểu học): học 3 năm, tiếng Pháp bao gồm tập đọc, tập viết, ngữ pháp, tập đôi thoại. Môn toán học phân số, quy tắc tam suất, chiết khấu, hình học sơ giải, vẽ kĩ thuật. Học sinh bắt đầu học lịch sử và địa lí Việt Nam, chữ quốc ngữ và chữ Hán vẫn tiếp tục học. Cuối cấp này có kì thi lấy Bằng sơ học (Brevet élé ’mentaire) và được lên cấp 3. Cấp 3 (trung học): học 4 nãm, chương trình như cấp 2 nhưng được mở rộng và nâng cao hơn. ngoài ra còn một số môn mới như thiên văn, sinh vật, địa chất. Tát cá những môn này đểu học bằng chữ Pháp. Chữ Hán, phải học thêm Tứ thư, lịch sử địa lí Việt Nam, ngoài ra còn phải tập làm phú, vãn sách. Cuối cấp này có kì thi lấy Bằng cao đẳng (Brevet superieur). Ở Bấc Kì, cho đến năm 1900 người Pháp đã tổ chức được một số trường học chữ Pháp và chữ quốc ngữ, mà họ thường gọi là Trường Pháp - Việt, ở Hà Nội có 15 trường tiểu học, 1 trường trung học, Hải Phòng 5 trường, Nam Định 4 trường. Ngoài ra, họ đã bắt đầu với tới những vùng biên giới Việt - Trung, mở trường ờ Cao Bằng, Lạng Sơn, Đồng Đăng, Na Sầm, Thất Khê. Năm 1892, họ còn tổ chức lớp học tiếng Pháp ban đêm ở Đông Hưng, Móng Cái cho một số công chức người Việt và người Hoa. ở Trung Kì, mãi đến năm 1894, Toàn quyền Rousseau mới cho mở trường Quốc học Huế nhằm đào tạo con em tầng lớp trên của triều đình thành những quan cai trị có cả “cựu học” và “tân học”. Ngoài ra còn một sô trường Pháp - Việt khác ở Thanh Hoá, Vinh, Hội An, Nha Trang... 14 Tóm lại. cho đến năm 1905, hệ thống giáo dục ở Việt Nam tồn tại dưới ba hình thức khác nhau: - ơ Nam Kì. đa sô các tống xã đều có trường tiểu học Pháp - Việt dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ, chữ Hán hầu như bãi bỏ. - ơ Bắc Kì và nhất là Trung Kì, sô trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ còn rất ít ỏi. các trường chữ Hán vẫn tổn tại khắp nơi. Như vậy, ba kì với ba chế độ giáo dục khác nhau đã làm cho người Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc theo dõi và chi đạo. Do đó, việc liến hành cái cách giáo dục là rất bức thiết, hơn nữa những thất bại và thành công trong tổ chức và điều hành giáo dục gần nửa thế kỉ qua cũng là những kinh nghiệm lớn để cho họ tiến hành công việc hệ trọng này. II. Cải cách giáo dục lần thứ nhất (1906) - (ỉiáo dục Pháp - Việt và Nho giáo cùng tổn tại Cuộc cái cách giáo dục lần thứ nhất do toàn quyền p. Beau khởi xướng và chí đạo sẽ tác động vào những đối tượng chính sau đây: - Hệ thống trường Pháp - Việt. - Hệ thông trường dạy chữ Hán của giáo dục Nho giáo. - Hệ thông các trường chuyên nghiệp. 1. Hệ í hông các trường Pháp - Việt được tổ chức lại gồm hai bậc: tiêu học và trung học a. Bậc tiểu học Pháp - Việt gồm những trường có 4 lớp: lớp tư, lớp ba, lứp nhì và lớp nhất. Cuối bậc có kì thi lấy bằng tiểu học Pháp - Việt. Chương trình học hầu hết bằng tiếng Pháp (gồm 14 môn, như học thuộc lòng, lịch sử, địa dư, toán, cách trí...) và được dạy ngay từ lớp tư là lớp đầu tiên. Tiếng Việt chi có 6 môn, như: chính tả, luận, học thuộc lòng... Chữ Hán chỉ mang nội dung luân lí, không dạy khoa học. b. Bậc trung học dạy học sinh sau khi tốt nghiệp tiểu học và thi đỗ vào trung học. Bậc này học 5 năm chia làm hai giai đoạn: trung học đệ nhất cấp và trung học đệ nhị cấp. Trung học đệ nhất cấp học 4 năm, trong thời gian này học sinh nhằm sẩn đê chọn ngành mình sẽ học khi lên đệ nhị cấp - cấp này chí học có 1 năm chia làm hai han: 15 Ban Văn học học thêm một ít chương trình năm thứ nhất của tú tài Pháp (chú yếu là vãn học Pháp), ngoài ra còn học tiếng Việt và tiếng Hán. Ban Khoa học chia làm ba ngành: nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp đào tạo nhân viên cho các ngành kinh tế. Ngoài ra, học sinh ban Khoa học còn có thể thi vào lớp sư phạm hoặc pháp chính1. 2. Hệ thống trường chữ Hán. Hệ thống các trường chữ Hán nằm trong nén giáo dục Nho giáo được chia làm ba bậc: âu học, tiểu học và trung học a. Bậc ấu học có ba loại trường: - Trường 1 năm cho những làng xa xôi hẻo lánh chỉ dạy chữ quốc ngữ, không dạy chữ Hán và chữ Pháp. - Trường 2 năm dạy quốc ngữ và chữ Hán. - Trường 5 năm dạy cả ba thứ chữ quốc ngữ, chữ Hán và chữ Pháp. Ở hai loại trường 2 năm và 3 năm, chữ Hán không bắt buộc nhưng chữ Pháp thì bắt buộc. Sau khi học xong bậc ấu học sẽ có một kì thi gọi là “hạch tuyển”, người đậu sẽ được cấp bằng tuyển sinh2. ' Chương trình trung học gồm: Tiếng Pháp (Tảp làm văn: tả người, tả đổ vật, tả cảnh, viết thư, báo cáo, phân tích phương ngôn vé luân 10; Tiếng Việt; Địa dư 5 xứ Đông Duơng, cưdản, kinh tế... Toán: (đại số, lương giác); Kế toán, Kĩ thuật (Chế biến nông phẩm, sơn mài, gốm, in, ép dẩu, luyện kim); Sư phạm (phương pháp sư phạm, thực tập ỏ các trường tiểu học); Hành chính: mỗi tuần 1 giờ về nghiệp vụ hành chính (Programme de I'enseignement franco indigene Hà Nội 1910) 2 Chương trinh trường ấu học (trường 3 năm) Năm thứ nhất: Hpc từ vựng và tập nói chuyện: tập đọc, tập viết, toán, vẽ. Năm thứ hai: Cách trí, viết tập, luận, toán, địa dư. Chính sự nước Pháp, luân lí: phải tôn kính vua và biết ơn nước Pháp Năm thứ ba: Chữ Pháp và chữ Quốc ngữ như lớp tư tuởng Pháp Việt (14 môn bằng chữ Pháp và 5 môn bằng tiếng Việt), chữ Hán hoc trong sách Mạnh Tử chính văn. Chương trình thi tuyển sinh: a. Thi viết: Chính là kiêm tâp viết (bằng quốc ngữ). - Toán: 4 phép tinh và đo lường. - Bài thi tình nguyên: Dịch Hán - Quốc ngữ. b. Vấn đáp: - Tập đoc về phong tục, luân lí hoặc cách trí. - Toán - Đọc và dịch Việt - Hán đọc tiếng Pháp (tình nguyện). 16 b. Bậc tiểu học: Các trường tiểu học học 2 năm ở các phù huyện do các giáo thụ, huấn đạo chịu trách nhiệm. Chương trình dạy cũng gồm các môn của ba thứ chữ. nhưng chữ quốc ngữ vẫn chiếm nhiều giờ hơn: 15 giờ mỗi tuần và dạy các môn chù yếu như toán, luận, cách trí, sử. địa, vệ sinh, luân lí... Chừ Hán chiếm ti lệ quan trọng sau chữ quốc ngữ, mỗi tuần 10 giờ, chương trình khá nặng vì bao gồm các sách Tứ thư (trừ Trung dung) đã được san định lại, ngoài ra còn các sách khác như Chính biên toát yếu, Luật lệ toát yểu, Việt sử tổng Vịnh, An Nam sơ học sử lược, Pháp lan túy sử lược, Nam quốc địa dư, Đông, Dương chính trị v.v... Chữ Pháp tuy có ít hơn hai loại chữ trên một ít, nhưng mỗi tuần vẫn chiếm đến gần 10 giờ, chủ yếu tập trung vào hai môn chính: tập đọc, tập làm vãn (5 giờ 45) và tập đôi thoại (3 giờ 45). Cuối năm thứ hai, học sinh có một kì thi (hạch khóa) để lấy bằng khóa sinh, người đậu được miễn sưu dịch 3 nãm và được học lên trung học\ c. Bậc trung học: Trường trung học 3 năm thường mở ở các tỉnh lị do đốc học phụ trách, học sinh được cấp học bổng. Chương trình học vẫn gồm cả ba thứ chữ nhưng chữ quốc ngữ và chữ Pháp được dạy nhiéu hơn chữ Hán. Chữ quốc ngữ chiếm nhiều thời gian nhất, mỗi tuần 16 giờ, các môn học cũng như ở bậc tiểu học, nhưng có nâng cao. Chữ Pháp ở đây lại chiếm nhiều thời gian hơn chữ Hán, 12 giờ mỗi tuần, irừ 1 giờ học toán, còn tập trung thời gian vào học làm văn, học đọc và học dịch. 3 Các môn thi khóa sinh 1. Thi viết: - Quốc ngữ: một bài luận và 2 bài toán. - Chữ Hán: Môt bài về truyện hoặc lịch sử Việt Nam. - Chứ Pháp: Một bài dịch Pháp - Việt; một bài dịch Việt - Pháp; một bài chính tả. 2. Thi vấn đáp: - Quốc ngữ Trà lời câu hỏi về các mòn cách tri hoặc vệ sinh, địa dư, lịch sử, hành chính. - Chữ Hán: Đọc và dịch một bài chữ Hán ra chữ Pháp. - Chữ Pháp: Đọc và trả lời những câu hỏi của thầy giáo (về cá nhân hoặc quan hệ xã hội) (Programmes d études des écoles Tiểu hoc. Hả Nôi. 1916. tr.11). ĐAI HỌC QUÕC GIA HA NỌI TRUNG TÂM THÒNG TIN THƯ VIẼN I 17 ' ~-Ị ^ . ---------------- ----------------------------- --------- - ........ - -Ị Chữ Hán tuy chỉ có 7 giờ mỗi tuần, nhưng chương trình vẫn nặng vì ngoài các sách Kinh Tlii, Kinh Thư, Kinli Lễ, còn phải tập làm phú, sớ, tấu. Học hết trung học, học sinh phải qua một kì thi, người đậu được cấp bằng thí sinh, được miễn sưu dịch 1 năm và được đi thi Hương. d. Cái cách thi Hương Trong những năm trước, nhà cầm quyền Pháp cũng đã đưa thêm chữ Pháp vào chương trình thi Hương. Lần này đi đôi với việc cải cách giáo dục ở hệ thông trường chữ Hán, họ cũng tiến hành luôn cả việc cải cách thi Hương, v ề hình thức và nghi lễ vẫn như cũ nhưng nội dung có thay đổi. - Trường nhất: văn sách viết bằng chữ Hán gồm 5 bài. - Trường nhì: luận chữ Việt. - Trường ba: dịch một bài chữ Pháp ra chữ quốc ngữ và một bài chữ Hán sang chữ Pháp. - Kì Phúc hạch đê chọn cử nhân. Thí sinh phải làm một bài luận chữ Hán, một bài luận chữ Việt và một bài dịch chữ Pháp sang chữ Hán, tùy theo số điểm cao thấp mà định cử nhân hoặc tú tài. Về thi Hội. trong chương trình cái cách lần này chưa thấy nói đến, nhưng theo một chuyên gia về cải cách giáo dục lúc đó thì “kì thi đế chọn tiến sĩ sẽ sửa đổi lại cho thích hợp với những cải cách đề ra trong kì thi Hương cho đến lúc sự phát triển cứa nến giáo dục đại học cho phép chuyển hóa thành một kì sát hạch có mục đích đánh giá những thí sinh qua những công trình ihực sự cơ bản và mang dấu ấn cá nhân”4. e. Sách giáo khoa Thời kì đầu mới chiếm đóng, vì chưa kịp chuẩn bị nên người Pháp phải cho học sinh dùng tờ Gia Định báo làm sách tập đọc, sau đó lại mang sách từ Pháp sang, nhưng vì không hợp với trình độ học sinh nên kết quả rất hạn chế. 4 CL.E. Maitre. L ’enseignement indigene dans rindochine annamte. Hà Nôi.1907. tr.10. 18 Cho đến những nãm 80 của thế kì XIX, Trương Vĩnh Ký và một sô người Pháp của cơ quan học chính Nam Kì đã biên soạn được một sô sách giáo khoa đê dạy trong các trường tiểu học do Trần Văn Thông, Đỗ Thận biên soạn (Cai trị lễ phép, Âu học luân lí) hoặc dịch từ sách tiêng Pháp cúa Lebris (Ân học bị thể), Breamcr (Nông học tập dọc). Gourdon (Vô cơ vật loại)... Lần này, họ dự định bổ sung vào sách Quốc ngữ một sô như tập đọc. toán, cách trí, vệ sinh... Sách chữ Hán có những cuốn như Âu học giáo khoa, Âu học luận ngữ, Mạnh Tử chính văn... còn sách chữ Pháp thì chủ yếu vẫn là những cuốn đã dùng ở Nam Kì từ cuối thế kỉ XIX như Conversations francaises et annamites (Đối thoại Pháp - Annam). Petit coins de geographic de la Basse Cochinchine (Sơ lược về địa dư xứ Nam Kì)... cùa Trương Vĩnh Ký. Ngoài ra, theo chương trình cải cách này ở một số tính lị và thủ phù các xứ cũng sẽ tổ chức nhữrm trường nữ học riêng từ sơ học đến tiểu học và cao đảng tiêu học. Ngoài chương trình như các trường tiểu học và trung học nhằm đào tạo các nữ giáo viên, trường còn có những môn dành riêng cho nữ sinh như khâu vá. nâu ăn, gia chánh (thêu, đan, làm bánh trái...). Trường dạy nghề ngoài những trường đã có từ trước, đào tạo công nhân cho các ngành nông nghiệp (chăn nuôi, làm vườn, tơ tàm), thú cống nghiệp và mĩ nghệ, công nghiệp châu Âu (cơ khí, điện...), công nghiệp "bán xứ” (mộc, rèn, sơn mài, dệt...), lần này chưa có gì thay đổi. Nhìn chung, cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất có những điểm nổi bật sau đây: - Nếu như trước kia từ P.Bert đến P.Doumer chỉ mới có một vài quy chế cho việc học chữ Pháp và chữ quốc ngữ mang tính chất chắp vá, từng phần thì cuộc cái cách lần này mang tính toàn diện hơn, tác động đến cả hai hệ thống giáo dục Nho giáo và Pháp - Việt, nhưng vẫn chưa triệt đê. Trước kia. nếu như hai nền giáo dục Pháp - Việt và Nho giáo tồn tại hầu như biệt lập với nhau thì cuộc cải cách lần này thực dân Pháp 19 vẫn để tồn tại song song, nhimg cô làm cho hai nền giáo dục này xích lại gần nhau hơn mà sự khác nhau đó “sẽ chi như giáo dục cổ điển và giáo dục hiện đại ở Pháp”. Do đó, ta thấy ờ các trường ấu học, tiểu học và trung học của giáo dục Nho giáo, chương trình là chữ Pháp, chữ quốc ngữ, và chính phần chữ Pháp của các trường này cũng lấy trong sách giáo khoa của trường Pháp - Việt. Học sinh sau khi học xong trường ấu học không nhất thiết phải theo học trường tiểu học và trung học đế đi thi Hương, mà còn có thể học trường tiểu học Pháp - Việt đê’ thi vào các trường trung học Pháp - Việt. Như vậy, tuy cải cách lần này chưa triệt để, nhưng nền giáo dục cùa thực dân đã xâm nhập mạnh mẽ vào nền giáo dục Nho giáo cổ truvền, sẽ tạo điều kiện để xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục này khi cần thiết. - Chất lượng giáo dục sau cải cách lần thứ nhất không đáp ứng được những yêu cầu mà người Pháp đã đề ra. Với cải cách giáo dục lần thứ nhất, người Pháp hi vọng trong một thời gian ngắn có thể đào tạo được một số viên chức giúp việc và công nhân kĩ thuật, đó là hướng của các trường Pháp - Việt. Đối với giáo dục Nho giáo, sẽ có được một tầng lớp quan lại tuy vẫn lấy cựu học làm chính, nhưng đã có ít nhiều tân học có thể làm cầu nối giữa nhân dán và “Nhà nước bảo hộ”. Tuy nhiên, với 14 môn dạy bằng tiếng Pháp trên tổng số 20 môn ngay từ những lớp đầu tiên của bậc tiểu học các trường Pháp - Việt cũng đủ thấy sự mô phỏng hầu như hoàn toàn theo chương trình bậc tiểu học ở Pháp. Nó đã gây ra nhiều khó khăn về thầy giáo, sách giáo khoa, tổ chức cơ sở vật chất, do đó chất lượng và hiệu quả không thể cao. Đôi vói nội dung giáng dạy chừ quốc ngữ và chừ Pháp ở hệ thống trường chữ Hán với định hướng nói trên, người la đã tập trung học nhiều về luật pháp, đơn từ, phong tục v.v. .. nghĩa là những môn “đầu vị” cho việc cai trị ở phủ, huyện. Riêng thi Hội chưa có gì thay đổi, thí sinh vẫn phải trình bày những vấn đề “kinh bang tế thế”. Song trên thực tế, mặc dầu đã được học 8 nãm với cả ba thứ chữ Pháp, quốc ngữ, Hán, các thí sinh vẫn tỏ ra “cựu học không dày mà tân học cũng mỏng” . Báo Nam Phong hồi bấy giờ sau khi công bố một số bài vãn thi Hội của mấy ông tiến sĩ tân khoa, đã mỉa mai: 20 “Quốc văn như vậy, Hán văn cũng rưa rứa như vậy. Đó là cái tinh hoi cúa nhân tài nước Đại Nam ta đấy”5. Do đó, dù công cuộc cải cách giáo dục cúa Toàn quyền Beau đã cỏ dung hòa hai nền giáo dục Phíp - Việt và Nho giáo, nhưng kết quả rõ ràng là không thể đáp ứng được những yêu cầu mong muôn. Đó là nguyên nhân cơ bản để người ta phải tiến hành cải cách giáo dục một lần nữa. III. Cải cách giáo dục lần thứ hai: Xóa bỏ nền giáo dục Nho giáo, xác lập và cùng cô nền giáo dục Việt Nam (1917-1929) Chương trình cải cách giáo dục lần thứ nhất của Toàn quyền Beau là thời kì quá độ trên chặng đường phát triển cùa nển giáo dục nước ta lúc đó. Sự tồn tại song song hai nền giáo dục là một việc hất đắc dĩ, khi chưa có điều kiện để xóa bỏ nền giáo dục Nho giáo, hơn nữa kết quả đào tạo cùa nền giáo dục mới cải cách không đáp ứng được yêu cầu đề ra. Cũng cần phái nói thêm là sự tồn tại cùng một lúc hai nền giáo dục đã làm tăng trưởng mâu thuần giữa những người “cựu học” và “tân học” ngay trong một thế hệ học sinh”, “một bên thì không ngìmg quay về với quá khứ, âm thầm chông đối những cải cách có nguồn gốc phương Tây, một bên dựa trên quá khứ nhưng lại hướng tới và chuẩn bị cho những đổi mới của đất nước6. Đương nhiên những mâu thuẫn này là khổng có lợi cho nền thống trị của ihực dân Pháp. 5 Nam Phong, số 24, tháng 6-1919, tr.445. Đầu đề văn sách bài 1: Việc chánh trị bảy giờ càng khó. Trung Kì, Bắc Kì tinh thê khác nhau, nên sửa sang những điều gì trước? Một ông đậu tiến sĩ thứ tư đã trả lời là cần sửa đổi việc giáo dục mà ý kiến cũng chỉ đến mức: Cứ y theo chương trình học mới, nhưng xin dich thêm những lời huấn du của Liệt thánh bản triều đê’ ban cho mà hoc, lại mỗi tuấn học một tháng có một ngày giảng thuyết... làm cho ai cũng biết “tôn quân thân thượng" mà mọi đường lợi ích càng thêm. Một ông khác đâu tiến sĩ thứ 7 trả lời đai ý: ở Trung Kì phải khuyến khích nghề nông và khai hoang, ở Bắc Ki phải chú ý nghề buôn bán, lập thương hội và hàng xuất khẩu. 6 De I'enseignement traditioneel annamite à I'enseignement franco - indigene - Hà Nội, 1931, tr 10. 21 Lúc này Thế chiến Ihứ nhất lại sắp kết thúc, Pháp có nhiều triển vọng thắng trận nhưng tổn thất về người và của vẫn rất nhiều, họ phải chuẩn bị cho một đợt khai thác lớn ở thuộc địa, nhất là Việt Nam, đê bù đắp cho những thiệt hại do chiến tranh gây ra. Việc mở rộng kinh tế đòi hỏi phải có thêm công nhân, nhất là công nhân kĩ thuật và nhiều nhân viên giúp việc có trình độ chuyên môn vững vàng. Trong bối cánh đó, thực dân Pháp thấy không thể cho tổn tại nền giáo dục “bản xứ” với những thể chế của nó. Sau khoa thi Hương cuối cùng ở Bắc Kì nãm 1915, ở Trung Kì năm 1918 cùng với khoa thi Hội và thi Đình vào đầu năm 1919, ngày 14-6-1919 Khái Định kí Dụ bãi bỏ tất cả các trường học chữ Hán cùng với hệ thông quản lí từ triều đình đến cơ sờ, chi còn lại hai trường trực thuộc Nam triều trôn danh nghĩa, là trường Hậu bổ và Quốc Tử Giám (nhưng vài nãm sau cũng bị bãi bỏ). Ngày 21-12-1917, Toàn quyổn Sarraut kí nghị định ban hành bộ "Học chính tổng quy” (Règlement general de rinstruction publique) và đến tháng 3-1918 Sarraut lại gửi thông tư cho các tinh giải thích rõ thêm một số nội dung cần thiết. Bộ Học quy của Sarraut chia làm 7 chương, 558 điều, mỗi chương lại chia thành từng mục lớn nhò, có những vấn đề chính sau đây: /. Vê tổ chức, bộ Học quy xác dinh: công việc giáo dục ở Việt Nam chủ yếu dạy phổ thông và thực nghiệp. Các trường học chia làm trường Pháp chuyên dạy học sinh người Pháp Iheo chương trình “chính quốc”, trường Pháp - Việt chuyên dạy người Việt chương trình “bản xứ”. Toàn bộ nền giáo dục chia làm ba cấp: Đệ nhất cấp: Tiểu học. Đệ nhị cấp: Trung học. Đệ tam cấp: Cao đẳng và đại học. Ngoài ra còn các trường thực nghiệp, tức là các trường dạy nghề tương ứng với bậc tiểu học và trung học. a. Hệ tiểu học Hệ tiểu học hao gồm các trường của đệ nhất cấp và chia làm hai loại: 22 - Trường tiêu học bị thể (còn gọi là kiêm bị) có 5 lớp: Đổng ấu, dự bị, sơ đẳng, lớp nhì và lớp nhất. Các trường này thường mở ờ tinh lỵ và huyện lị, dạy học trò đi thi lây bằng tốt nghiệp tiểu học. - Trường sơ đẳng tiêu học là những trường chi có 2 hoặc 3 lớp dưới, chú yếu mở ở các làng xã hoặc 2, 3 xã chung nhau một trường. Các trường này dạy chú yếu bằng quốc ngữ, còn các trường bị thể thì lên đến lớp 3 mới bắt đầu dạy chữ Pháp. Chương trình học gồm các mòn: tiếng Pháp, tập đọc, toán, luân lí, vệ sinh, cách trí, thú công... b. Hệ truníỊ liọc Trung học chia làm hai loại: cao đẳng tiểu học và trung học. Theo chương trình cũ thì trung học chi có cao đảng tiểu học và sau đó là một năm chuyên ngành. Nhưng trong cải cách của A. Sarraut lại có cả hệ cao đẳng hoặc đại học. do đó phái có thêm một bậc trung học nữa để đi thi lấy bằng tú tài. Bậc trung học được chia làm hai: - Cao đẳng tiểu học 4: đệ nhất, độ nhị, đệ tam và đệ tứ nicn, cuối năm thứ tư học sinh được đi thi để lấy bằng cao đẳng tiểu học (còn gọi là bàng thành chung hay “dip lôm”). - Trung học có 2 năm kết thúc bằng kì thi lấy bằng tú tài. Đây chí là bằng tú tài “bản xứ” không có giá trị như “tú tài Tây”. Toàn bộ các irường tiêu học và trung học đều nằm trong hệ thống trường Pháp - Việt. c. Hệ thực nghiệp Học thực nghiệp ớ bậc tiêu học gồm những trường dạy nghé mộc, nề, rèn, trường gia chánh (école ménagère), trường canh nông, trường mĩ thuật công nghiệp và mĩ nghệ, ơ bậc trung học có các trường thực nghiệm bị thể, nghĩa là dạy toàn khóa chớ không chỉ dạy sơ lược như ở đệ nhất cấp. Như vậy, sau khi tốt nghiệp trung học hệ phổ thông, học sinh sẽ thi vào các trường cao đẳng, còn hệ thực nghiệp thì tùy tính chất của từng loại trường và số năm học sẽ tương ứng với tiểu học hoặc trung học, sau khi tốt nghiệp sẽ làm việc ở các cơ sở sản xuất. íl. Hệ cao đẳng Về nguyên tắc tổ chức, các Trường Cao đẳng Đông Dương sẽ họp tại thành Viện Đại học Đông Dương, nhưng vì các trường Cao đẳng 23 chưa mớ hết nên trong Học quy này Sarraut cũng chí nói những nét khái quát mà thôi. - Trường Sĩ hoạn ở Hà Nội và Trường Hậu bổ ở Huế là những irường chuyên đào tạo quan lại, theo quy chế này sẽ ngừng hoạt động và tổ chức lại, trực thuộc Giám đốc Đại học Đông Dương quản lí. - Trường Y học Đông Dương, Trường Thú y tiếp tục học. - Trường Công chính sẽ trực thuộc vào Giám đốc Đại học Đông Dương. - Bỏ các lớp dạy Luật (Cours de droit) đặt ra ngày 29-3-1910. e. Các khoa thi Theo Học quy mới này. các khoa thi sẽ chia làm hai loại. 1/ Loại thi theo chương trình “bản xứ” gồm thi tốt nghiệp tiểu học, thi tốt nghiệp trung học gồm Cao đảng tiểu học và Trung học (Tú tài). 2/ Loại thi theo chương trình Pháp có bằng sơ học (Brevet élémentaire), bằng cao đẳng (Brevet supérieur) và bằng Tú tài Tây. Thi tốt nghiệp các trường Cao đẳng có quv chế riêng. 2. Vấn đê dạy chữ Pháp, chữ quốc ngữ và chữ Hán Đây là một vấn đề làm tốn nhiều giấy mực nhất không chỉ từ khi người Pháp tổ chức ra những trường học đầu tiên ở Nam Kì (1861) mà lúc này vẫn là một vấn đề được tháo luận nhiều ở những tờ báo lớn như Trung Bắc tân văn, Nam Phong... Cuối cùng, việc dạy tiếng Pháp được quy định như sau: Điều 134 của Học quy viết: “Về nguycn tắc, tất cả các môn học ở bậc tiểu học phái dùng chữ Pháp làm phương tiện giảng dạy”, nhưng thực tế việc làm đó gặp nhiều khó khăn và đã ihất bại từ cuộc cải cách lần trước. Do đó, trong Thông tư ngày 20-3-1918, Sarraut lại nói là tiếng Pháp bắt đầu dạy từ lứp ba, nghĩa là sau khi học trò đã đọc thông viết thạo tiếng mẹ đẻ, vả lại việc này cũng phù hợp với những trường cơ đẳng tiểu học của các làng xã chi dạy vài năm, rồi học trò lại trở về đi cày chớ không phải dạy 5 năm như những trường tiểu học bị thể. Việc dạy chữ Pháp có liên quan mật thiết với dạy chữ quốc ngữ và ngược lại. Ỏ đây, vấn đề quyết định là nội dung giảng dạy chớ không phải dạy tiêng Pháp hay tiếng Việt. Người Pháp sẽ không bao giờ cho dùng tiếng Pháp đê truyền bá tư tưởng cách mạng chông lại họ và dĩ nhiên tiêng Việt phái là “cỗ xe đê chở tư tưởng Pháp... những bước tiến từ khi người Pháp sang cai trị nói lên đầv đủ vế hòa bình, an ninh, về sự khai ihác những tài nguyên thiên nhiên, về sự phát triển giáo dục, V tế, tóm lại là sự nghiệp của người Pháp ở Đỏng Dương7. Chỉ riêng nội dung giảng dạy tiếng Việt ở bậc tiểu học cũng phải như vậy. Học tiếng Việt còn giúp cho học tiếng Pháp được dễ dàng hơn. Vì “Học tiêng Pháp, nhớ được tiếng Pháp khó nhất là những tiếng trừu tượng... Trước khi học đến những tiếng ấy, ta hãy nên dùng cái tiếng thường mẹ ru vú hát của đứa trỏ mà dạy cho nó hiểu biết qua loa mấy điểu cốt yếu thì đến khi học đến chữ Tây nó mới hiểu được rõ nghĩa*. Phạm Quỳnh cũng đã nhất trí với ý kiến trên và nói thêm: “Biết nói tiếng Pháp hơi đúng đã phài là có Pháp học chưa?. Cái Pháp học ấy dùng ngay bằng tiếng An Nam há chẳng phải là dỗ hiểu hưn ư?”9. Như vậy, việc dạy chữ quốc ngữ phải hướng vào những nội dung phục vụ cho lợi ích của người Pháp. Đôi với việc dạy chữ Hán trong các trường sơ đẳng tiểu học Pháp - Việt thì không phải là môn bắt buộc, nhưng những trường nào muôn dạy chữ Hán phải có sự thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh, hội đổng kì mục xã và hiệu trường. Thầy giáo chữ Hán phái dạy tại trường, mỗi tuần 1 giờ 30 phút vào sáng thứ 5. Hiệu trưởng phải chịu trách nhiệm về nội dung, không được vắng mật trong các buổi sáng thứ 5 và phải giám sát thái độ giảng dạy của giáo vicn (!). Đói với trường tiểu học kiêm bị thì phải có ý kiến của Thống sứ hoặc Khâm sứ sau khi đã tham khảo Hội đồng hàng tinh rồi mới ra quyết định đưa chữ Hán thành môn học chính thức, tuy vậy cũng chi đối với hai lớp cuối cấp mà thôi. Như vậy, với việc ban hành những quy chế mới, Sarraut đã xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho giáo, xác lập một nền giáo dục mới phục vụ cho công việc khai thác thuộc địa. ' La diữuson de I’enseignament en Ixdochine. Revue Indochinoise, 1925. tr.171-172. 8 Trung Bắc tân vân, sô 209, năm 1919. 9 Phạm Quỳnh, Mấy bài diễn thuyết ỏ Paris, Hà Nội, 1923. 25 IV. Một sô bổ sung sau cai cách giáo dục lán thứ hai Nếu như cải cách giáo dục lần thứ nhất phải sau 4 nãm (1910) mới bắt đầu thực hiện thì việc thi hành những quy chê mới lần này được xúc tiến khá tích cực. Một là do tình hình chính trị tương đối ổn định, hai là về tổ chức và giảng dạy, họ đã tích lũy được một số kinh nghiệm, thất bại cũng như ihành công, cho nên lần này họ làm có trọng điếm, rút kinh nghiệm và bố suns một sô nội dung nhằm hoàn thiện dần những cải cách đã đề ra. 1. Mở rộng bậc tiểu học Một trong những việc phải làm gấp theo kế hoạch của các viên toàn quyền kế vị Sarraut là mở rộng giáo dục tiểu học, chủ yếu là các làng xã, trước hết đê tuycn iruyền về việc “nước Pháp rất chú ý đến truyền thống hiếu học của dàn An Nam”, hai là để đối phó với những bất mãn có thể xảy ra trong nhân dân khi hàng loạt học sinh trường chữ Hán của các thôn xóm phái nghi học sau khi chú trương cải cách giáo dục của Sarraut được thực hiện. Năm 1923, Merlin thay Sarraut, bãi bỏ quy định học tiếng Pháp từ lớp sơ đẳng mà chí bắt buộc dạy ở hai lớp nhì và lớp nhất thôi. Tuy vậy, nếu là trường tiêu học kiêm bị thì số giờ học tiếng Pháp vẩn chiếm một tỉ lệ nhất định. Merlin còn quy định sau khi học song 3 năm học sơ đẳng, học sinh phái thi sơ học yếu lược rồi mới được lên lớp trên. Nhưng những lớp này (lớp nhì và lớp nhất) phải học hoàn toàn bang tiếng Pháp cho nên phần nhiều học sinh nông thôn không theo được. Để tránh chỗ bất hợp lí này, nám 1927, lại có nghị định mở thêm lớp nhì đệ nhất (Cours moyen première année) làm lớp chuyển tiếp giữa sơ đẳng và lớp nhì (iệ nhị (moyen deuxième année). Như vậy, với kì thi Sơ học yếu lược một số học sinh đã bị rơi rụng đi, rồi với việc dạy bằng tiếng Pháp ở các lớp trên cùa bậc tiểu học, số lượng học sinh lên đến lớp nhất còn lại rất ít. Chi lấy năm 1925 là năm chưa tổ chức lớp nhì đệ nhất cũng có thể chứng minh dược điều này. Niên khóa 1924 - 1925, tổng số học sinh ở Việt Nam là 187.000 (sô tròn). 90.000 = 48% 54.500 = 29% 26 Lớp đồng ấu Lớp dự bị Lớp sơ đẳng 25.500=14% Lớp nhì và lớp nhất 17.000 = 9% Qua số liệu trcn, ta thấy cứ lên mỗi lớp thì sô học sinh vơi đi xấp xí một nửa. Cứ 100 em học sinh vào lớp đồng âu thì 48 em lên lớp dự bị, 29 em lên lớp sơ đẳng, 14 cm lên lớp nhì và đến lớp nhất chí còn 9 em"’. Kế hoạch của Merlin chưa dem lại kết quả như mong muốn, và ở nhiều huyện, tinh nhất là Bắc Kì và Trung Kì trường học chữ Hán mọc lên. Bởi vậy iháng 12-1926. Toàn quyền Đông Dương lại kí Nghị định thành lập một loại trường học mới gọi là trường phổ cập giáo dục. Loại trường này do các làng xã chịu trách nhiệm về trường lớp, tuyển dụng giáo viên, lương và các chi phí khác, Nha Học chính chỉ chịu trách nhiệm chi đạo chuycn môn. Chương trinh chi dạy từ 1 đến 3 năm nên hết sức đơn gián nhưng lại đễ áp dụng vào cuộc sống, bao gồm: tập đọc, tập viết, toán, cách tính, vệ sinh, luân lí v.v... Việc tuyển dụng giáo viên cũng dễ dàng hơn. Những người có bằng sơ liọc yếu lược, bằng khoá sinh chi cần làm đơn và tờ cam đoan tuân theo luật lệ của làng xã trong việc dạy dỗ con em là có thê dự tuyên. Tiền lương cũng do sự thoả thuận giữa thầy giáo và hương lí, cũng có thể là tiền mặt cũng có thể là ruộng đất cho gia đình giáo viên cày cấy thu hoa lợi. Việc bồi dưỡng đê nâng cao trình độ giáo viên cũng được tiến hành đều đặn hàng năm vào dịp hè do cơ quan Học chính tỉnh chịu trách nhiệm. Chính sách khuyến khích mớ loại trường phổ cập đã đem lại những kết quả khả quan hơn trước, ở Bắc Kì, riêng năm học 1929-1930 đã có thêm 35 trường, nâng tổng số từ 800 trường lên 835 trường với 27.627 học sinh. Học sinh nữ cũng tăng từ 965 em năm học 1928-1929 lên 1.322 năm học 1929-1930. Ở hầu hết các tỉnh đổng '° Số giờ hoc tiếng Pháp ở 3 lớp dưới bâc tiểu học: Bắc Kì Trung Ki Nam Kì Đống ấu 5 giờ 5 giờ 5 giờ 30 Dự bị 7,30 giờ 5 giờ 7,45 giờ Sơ đẳng 9 giờ 10 giờ 8,45 giờ Tổng số giờ học mỗi tuẩn là 27,3 giờ 27 bằng và trung du đều có Irường, nhiều nhất là Hải Dương có 151 trường với 4.871 học sinh. ít nhất là Bắc Giang có 16 trường và 560 học sinh. Ngay tinh miền núi Hà Giang trước đáy chưa có trường mà đến 1930 đã mở được 11 trường 236 học sinh, Cao Bằng 2 trường 53 học sinh". ở Trung Kì, số trường “phổ cập giáo dục” cũng phát triển khá nhanh. Nếu như tháng 7-1919 là khi bắt đáu tiến hành cải cách giáo dục, các trường chữ Hán bị bãi bỏ, ở Trung Kì, số trường dạy chữ quốc ngữ còn rất ít thì đến nãm 1930 ở đây đã có 826 trường, suýt soát với Bắc Kì, tính nhiều nhất là Thanh Hoá với 124 trường, phổ biến là trên dưới 50 trường, nhưng cũng có tinh như Quảng Nam 95 trường, Quảng Ngãi 80 trường. Riêng Nam Kì, giáo dục tiểu học đã phát triển khá đổng đều, nên chi tổ chức lớp “bổ trợ dự bị” (Cours auxilliaires préparatoires), ở các làng xã chưa có điều kiện mở trường học, nay cũng đã có 32 lớp với 1.584 học sinh trong các tính Bà Rịa, Thù Dầu Một, Long Xuyên và Châu Đốc12. 2. Phát triển giáo dục vùng dân tộc ít người Đi đôi với việc mở rộng giáo dục bậc tiểu học, giáo dục vùng dân tộc ít người cũng được chú ý hơn trước, nhưng tuỳ tình hình thực tế từng địa phương mà nhà cầm quyển Pháp đã tổ chức mô hình giáo dục thích hợp. Ở Nam Kì, dân tộc Khơ-me sống xen kẽ với người Việt trong các tỉnh Bạc Liêu, Châu Đốc, Tây Ninh... nhưng họ vẫn giữ được tiếng nói, phong tục và từ lâu đời họ đã có những trường học - nhà chùa do sư sãi chịu trách nhiệm vừa dạy chữ, vừa giáng về lí thuyết Phật giáo. Ở những vùng này, người Pháp vẫn cho giữ nguyên trường học - nhà chùa, nhưng có dạv thêm chương trình của Nha Học chính, giáo viên đều phải có bằng sơ học yếu lược và được gửi đi đào tạo ở Phnôm-pênh, Căm pôì (Căm-pu-chia). Cho đến năm 1930, nhờ phái 11 La pénétration scolaire dans les pays annamites (Tonkin - Annam - Cochinchine), HN, 1931, tr.10. Nam Kì chỉ cỏn 115 làng chưa có trường học trẽn tổng số 1.419 làng. Tài liêu đã dẫn tr. 10. 28 triêr trường học - nhà chùa, một loai trường truyền thông của vùng dân tộc Khơ-me Nam Kì, đã có tới 6.111 học sinh, trong đó có 3 trường nội rú cho 113 học sinh11. Việc tổ chức giáo dục cho các dân tộc ít người ớ Trung Kì và Bắc Kì gập nhiều khó khăn vì học sinh chưa quen ở nội trú. Tuy vậy, sau 2 nãm vận động, đến năm 1929 và nhất là nãm 1930, ở các tính miền núi Trung Kì đã có 3 trường ở các tinh Kon Tum, Plâycu, Buôn Ma Thuột cho 229 học sinh các dàn tộc Gia-rai, Ba-na, Sê-đăng và Ê-đê. Ở Bắc Kì, các dân tộc ít người sống phân tán hơn nên có đến 7 trường nội trú (Cao Bằng 2 trường, Bắc Cạn, Hoà Bình, Lai Châu, Thái Nguyên, Yên Bái) cho 261 học sinh các dân tộc Mường, Thái, Tày, Dao. Việc đào tạo giáo viên, biên soạn các sách giáo khoa cũnR được quan tâm và có những biện pháp thiết thực. Ở các trường sư phạm Hà Nội và Huê có “Ban Sư phạm Miền núi”, ờ một số tinh Bắc Trung Kì, người ta cấp học bổng và khuyến khích học sinh người miền núi về học ở các trường tiểu học kiêm bị và cao đẳng tiểu học đê trở về dạy cho các trường địa phương. Một sô sách tập đọc Việt, Tày, Pháp ở Bắc Kì, học vần bằng tiếng Gia rai và Ba-na ở Trung Kì cũng được biên soạn và phát hành. Đến năm học 1929-1930, sô học sinh miền núi đã có: - Bắc Kì: 18.855 (4.572 học sinh người Việt). - Trung Kì: 2.556 (1.179 học sinh người Việt). - Nam Kì: 6.111 học sinh người Khơ-me14. 3. Tăng cường chương trình bậc trung học Theo Nghị định ngày 16-12-1924, sau hai năm học ở bậc trung học, học sinh sẽ có trình độ cao hơn phần thứ nhất tú tài Pháp, nhưng lại chưa ngang với tú tài toàn phần cho nên học sinh chưa được thi vào các trường cao đẳng bcn Pháp. Theo quy chế này, bằng tú tài “bản xứ” dược nâng lên hơn tú tài phần thứ nhất, nhưng vẫn chưa bằng tú tài toàn phần. Do vậy, ngày 23-12-1927, Toàn quyền Đông Dương lại kí '3 D I P. La penetration scolaire dans les minorités elhniues, Hà Nội, 1931, tr. 18. 14 Tài liệu đã dẫn, các trang 8, 12 29 Nghị định (ăng thêm bậc trung học một năm nữa là 3 năm và học sinh sẽ được đi thi lấy bằng tú tài “bản xứ” phần thứ hai, chưa chia thành hai ban vãn học và khoa học, nhưng lại có giá trị tương đương tú tài Plìáp15. Nội dung của tú tài “bán xứ” gần như rập mẫu của chương trình chính quốc. Tiêng Pháp là môn học chính cùa khoa học xã hội, gồm lịch sứ vãn học Pháp, các trường phái vãn học từ thời Phục Hưng (thế kí XV-XVII) đến thế ki XVIII và đương đại, trích đoạn thơ văn các tác gia tiêu biểu từ thế ki XV đến đương đại, trích đoạn thơ văn các tác gia tiêu biểu từ thế ki XV đến đương đại, tập làm văn nghị luận về các tác phẩm đã học cũng như về luân lí, đạo đức. Môn lịch sử học kĩ về sự di dân của người da trắng sang châu Mĩ. châu Đại Dương và Nam Phi, sự hình thành các đế quốc lớn, uy tín của người Pháp trên thê giới... Triết học là môn mới mẻ về những nội dung như các khái niệm cơ bàn về lôgic học, đạo đức học; triết học đại cương với các vấn đề không gian, thời gian: tám lí học thực nghiệm; ngôn ngữ học đại cương; những khái niệm vé xã hội học, mĩ học... Ngoài ra, họ còn bổ sung vào chương trình vãn, sứ, triết môn “Có học Viễn Đỏng”, trong đó Văn học nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam; Lịch sử ngoài phần Viễn Đông còn có những thời kì lớn tủa lịch sử Đỏng Dương trên cơ sở những nền nghệ thuật tiêu biếu (Chăm, Khơ-me, Hán - Việt); Triết học chú ý đến triết học so sánh Socrate và Khổng Tử, Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Về khoa học tự nhiên, ngoài toán, lí, hoá còn có động vật học. thực vật học, địa chất học, chuyến động học, tĩnh học, vũ trụ học... Do đó, dưa môn “Cổ học Viễn Dồng” càng làm cho chương trình trung học vốn đã nặng nề và khó càng trở nên nặng nề và khó hơn cả bậc trung học Pháp. 4. Củng cố giáo dục cao đẳng và dav nghề Sau khi chính đốn giáo dục ớ bậc tiểu học và trung học, bậc cao đẳng được xác định cụ thể về mục đích nội dung đào tạo và ngôn ngữ 15 Mãi đến tháng 11-1942. nhà cẩm quyến Pháp mới cho chia bằng Tú tài "bản xứ' thành hai ban Triết học vả Toán hoc. 30 giáng dạy, đương nhiên tiếng Pháp là chuyên ngữ chính, do đó ngay cả trong những trường dạy về kĩ thuật như Bưu điện, Nóng lâm, Giao thông công chính... văn học Pháp cũng rất được chú trọng. Nó chiếm nhiều hơn hoặc tương đương với khoa Văn học của trường Cao đắng Đông Dương. Tuv nhiên, nói đến củng cô bậc cao đảng, vấn đề quan trọng hàng đầu là klìẳtììị (ÍỊnlì tư tướìiỊỊ của qiai cấp thống trị, cùa chủ nghĩa (tế (/HOC. Nêu như ở chương trình trung học. học sinh phái học sự bành trướng của người da trắng, sự hình thành các đế quốc lớn về thuộc địa... thì chương trình Lịcli sử thế giới cúa Trường Cao đắng Sư pham. học sinh phái học cụ the hơn sự hình thành thuộc địa cúa Pháp ở châu Phi, cùa Anh ở châu Á và châu Đại Dương. Với lịch sử Pháp, họ đã cắt xén khá nhiều, nhất là lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp đầu thê ki XIX. Khi nói đến sự kiện 1871 thì chi nhấn mạnh chiến tranh Pháp - Phổ, việc cắt hai tinh Alsace và Lorraine cho Phố mà không hề có lấy một dòng nói về Còng xã Pari. Những sự kiện “rung chuyển thê giới” như Cách mạng tháng Mười Nga thì càng bị bưng bít và bị xuyên tạc đi đến mức độ người ta chi biết là cuộc nội chiến Nga mà phần thắng lợi thuộc về Đảng Bỏn-sê-vích. Cũng vậy, khi dạy lịch sử văn minh phương Tây ở trường Cao học Đông Dương thì họ luôn nhàn mạnh đến vai trò nước Pháp trong công cuộc phát triển văn minh phương Tây. Còn đối với lịch sử văn minh phưưng Đông thì họ dạy khá kĩ văn minh An Độ, Trung Quốc và nhấn mạnh ảnh hưởng của hai ncn văn minh này đến Đông Dương, còn văn minh Việt Nam thì không có vãn minh bản địa, tất cả những nền văn hoá nối tiếng như Hoà Bìnli, Đòng Sơn, nền văn học dân tộc thời Lí, Trấn. Lc ... đéu mang tính ngoại lai. Sau 4 năm cúng cố bậc cao đảng và mở thêm một số trường dạy nghề, đến năm 1929, sỏ sinh viên ở các trường cao đẳng đã tăng lên đến 551 người, còn các trường chuyên nghiệp đã vươn đến các tinh miền núi như Sơn La, Cao Bằng... Những trường loại này tập trung nhiều ở Bắc Kì và Nam Kì là hai địa phương có nhiều điểm khai thác, Trung Kì chí có một trường Kĩ nghệ thực hành ở Huế, tổng cộng cả ba kì là 1.569 học sinh. 31 Giai đoạn này người ta cũng không dùng những sách giáo khoa cũ (đa sô là sách dịch lừ tiếng Pháp) mà đã biên soạn được một bộ sách giáo khoa mới chủ yếu dùng cho các trường sơ đẳng và tiểu học bị thê như Quốc văn, Toán Plìáp, Cách trí, Sử kí, Địa dư... Pháp vãn dộc bán (Livre unique de Francais). Tổng số sách đã lên đến 25 cuốn. Ngoài ra còn có tạp chí Sư phạm như Học báo (Bắc Kì và Trung Kì), Sư phạm học khoá (Nam Trung Kì và Nam Kì), có cả phần chuyên môn và nghiệp vụ quân lí giáo dục giúp cho cơ sở có tài liệu tham khảo. Từ 1930 vể sau, người Pháp còn bổ sung một sô nội dung từ tiểu học đến đại học và dạy nghề nhằm hoàn chinh và hiện đại hoá nền giáo dục Việt Nam lúc đó. Tuy nhiên, đến đây, mỏ hình giáo dục Sarraut-Merỉin đã có thể làm cơ sờ cho những bước đi vững chắc ở giai đoạn sau. Nhìn qua hai cuộc cải cách giáo dục của người Pháp tiến hành trên đất nước ta nãm 1906 và năm 1917 ta thấy: Với cải cách giáo dục lần thứ nhất, nền giáo dục Việt Nam chỉ phát triển cầm chừng, nó vẫn bị giáo dục Nho giáo “níu áo”. Còn với cải cách giáo dục lần thứ hai, nhà cầm quyền Pháp đã làm dược hai việc lớn là xoú bỏ nền giáo dục Nho giáo và củng cố, mở rộng nền giáo dục Việt Nam. Xoá bỏ nền giáo dục Nho giáo là một việc làm cần thiết và phù hợp với sự phát triển của xã hội, vì sau đó Iígười ta còn có kê hoạch cúng cô' và mở rộng lừng bước nền giáo dục Việt Nam bằng những hình thức phù hợp đê’ cải tạo nền giáo dục với ba ngôn ngữ Pháp - Hán - quốc ngữ, bằng một nền giáo dục duy nhất dạy bằng chữ Pháp, chữ quốc ngữ chi là thứ yếu. Biện pháp tăng cường học tiếng Pháp hằng cách mở rộng thêm lớp nhì đệ nhất ở bậc tiêu học đã tỏ ra có hiệu quả, vì từ lớp này trở đi học sinh đã làm quen dần với tiếng Pháp đê lên đến cao đẳng tiểu học và trung học có thể sử dụng tương đối thành thạo tiếng Pháp. Sau khi bậc trung học được cung cấp, người ta đã có thể tổ chức một số trường cao đẳng (mà trước đó mới ở trình độ trung cấp) như Cao đẳng Sư phạm, Nông Lâm, Công chính... Những trường này, về tuyển sinh đã được nâng cao lừ cao đảng tiểu học lên tú tài phần thứ nhất; những người có bằng tú tài toàn phần được miễn thi. Thời gian học ớ các 32 trường đều được kéo dài thC'm ít nhất là 1 năm, nội dung học được tăng cường và như vậy đã có diêu kiện đê nâng cao chất lượng nghề nghiệp sau khi ra trường. Nhược điểm cúa công cuộc cãi cách lần thứ hai nàv là thời gian học ticu học và trung học quá dài (13 năm), một người muốn học xong cao đắng phái mất 15, 16 năm, có ngành gần 20 năm (Y. Dược). Do đó, ti lệ học sinh đi học cũng chi chiếm trên dưới 1% tổng dân số'6. Chương trình trung học quá nặng nổ, đồng thời, cũng bị “Pháp hoá” cao độ làm cho người ta thấy tiếng mẹ đc chỉ là một ngoại ngữ, một ngoại ngữ bị coi thường, bị rỏ rúng từ cấu tạo chương trình đến nội dung học tập. còn tiếng Pháp mới là ngôn ngữ chính. Những nhược điếm này người ta không cần quan tâm khắc phục khi mà nền giáo dục chi có mục đích phục vụ cho quyền lợi của chữ nghĩa thực dân Pháp hơn là cho quáng đại quần chúng nhàn dân. 16 Tham khảo: Phan Trọng Báu, Giáo dục Việt Nam thời Cận đại, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006, tr. 172, 173. TIẾNG TRỌNG CẢI GÁCH GIÁO DỤC ĐIỂM TỪ PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC CỒN VANG VỌNG PGS.TS. Lê Thanh Bình' "Đông Kinh nghĩa thục, trỏng giục vang trcri, Hô duy tán khắp giáo, khoa, văn- xã; Trọng ỊỊÌƠO tlnừnig quốc tế, đấ y kinli- tài, Phát cờ yêu nước, trống vọng ngàn năm ” (Tiếng trống Đỏng Kinh nghĩa thục) Đông Kinh nghĩa thục là một trường học sau đã trờ thành một phong trào yêu nước đầu thê kỉ XX. Lực lượng đầu tàu của phong trào này là nhóm các danh sĩ Bắc Hà có nền táng văn hóa Nho học nhưng đầu óc canh tân. Họ muôn kết hợp tinh hoa Nho học với thành tựu tiến bộ tư tưởng phương Tây, nhằm giáo dục, quảng bá, thúc đáy các tư tường Khai sáng về giáo dục, vãn hóa, văn minh, đào tạo con người mới theo gương các nước phát triển và thúc đẩy ý thức yêu nước, độc lập tự cường, giái phóng dân tộc khỏi ách thống trị thực dân Pháp. 1. Phong trào là một hồi tròng gióng lên bát đầu từ vân đề cải cách giáo dục, phát triến thành cuộc vận động duy tàn vì dân, vì nước 1.1. Bức tranh tổng quát vê phong trào Đỏng Kinh nghĩa thục Trong những năm 1905-1906 hai nhà Duy tân Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã từng qua Nhật, được tai nghe mắt thấy sự trỗi dậy của nước Nhật “đồng văn”, “đồng châu”, “đồng chủng” nhờ áp dụng chú trương chiến lược đúng đắn “thoát Á, nhập Âu”, canh tân trong ' Đai hoc KHXH&NV, TP. Hố Chi Minh. 34 nhiéu lĩnh vực- trong đó có giáo dục, đào tạo. Hai cụ rất ấn tượng đôi với tấm gương nhà tư tưởng canh tân Yukichi Fukuzawa mở trường Khánh ứng nghĩa thục (Keio- Gijuku). Trường có cả ba cấp: tiêu học, trung học, đại học theo chiều dọc: còn chiều có xu hướng phát triển thành Viện đa ngành nhiều khoa. Tiếp thu tư vấn cua các cụ Phan, với tâm lòng “Uu thời, mần thê'” cộng với nhiệt huyết đôi với đất nước, đổng hào...một nhóm sì phu Bắc Hà đã đứng ra chu xướng một hình thức hoạt động cách mạng mới mẻ, góp một bài học kinh nghiệm trong con đường dản đến thành công cúa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam sau này. Dưới hình thức là một trường tư thục công khai- phỏng theo mô hình trường Khánh ứng nghĩa thục nói trên, trường do nhà canh tân Nhật Bán Phúc Trạch Dụ Cát (Yukichi Fukuzawa) sáng lập năm 1856, trường Đông Kinh nghĩa thục ra đời tại Hà Nội (từ 3-1907- 11-1907) rồi lan rộng sang các địa phương khác. Thục trưởng Lương Văn Can cùng đồng chí là những nhà giáo dục cách tân, những sĩ phu tâm huyết chú trương bỏ giáo dục kiêu cũ, thực hiện cải cách giáo dục, bổi dưỡng dân trí thông qua bôn ban chính trong trường là: Ban Giáo dục, Ban Tài chính. Ban c ổ động, Ban Tu thư. Trường cổ ba chủ trương lớn: cải cách nội dung đào tạo. hướng vào các chú đề là bồi dưỡng lòng yêu nước, tự chú, tự hào dân tộc, phê phán các tư tưởng Nho học lỗi thời, hài trừ thói hư tật xấu người Việt Nam; ứng dụng, quảng bá phương pháp dạy và học mới mỏ: học nhiều môn hiện đại (với định hướng tiếp thu vãn minh Tây phương, bảo tổn bán sắc văn hóa. đé cao chú nghĩa yêu nước; trọng sản xuất kinh doanh, chấn hưng kinh tế...), kết hợp giữa thuyết trình với thảo luận dân chú giữa thầy và trò, nam nữ bình đẳng theo học...; licn hiệp, úng hộ các phong trào Việt Nam yêu nước khác thời đó. Ngoài các giáo trình, tài liệu do giảng viên tự soạn, trường còn dùng sách, báo. tư liệu của các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền..., sách báo ngoại quốc tiến bộ Tân văn, Tân thư của các nhà cải cách như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi (Trung Quốc), Yukichi Fukuzawa (Nhật Bản) v.v... Giáo trình chủ yếu được viết, biên soạn, chú giải bằng chữ quốc ngữ, môn tự nhicn mới tham khảo giáo khoa Pháp, còn môn xã hội thì giao cho 35 giảng viên trường tự soạn. Nếu xéi từ góc độ phong trào trào vận động duy tân xã hội, có thể nói rằng Đông Kinh nghĩa thục chú trọng vào ba mặl chú yếu là: Giáo dân (giáo dục. nâng cao dân trí); Tân dân (làm cho dân đối mới về tư tường- văn hóa), Dưỡng dân (Làm cho dân giàu có. lự cường, nãng động, thực tiễn). Mỏ hình Đông Kinh nghĩa thục từ Hà Nội, tỏa ra các tính miền Bắc. phát triển thành phong trào, lan rộng tới các tinh miền Trung (Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Yên. Phan Thiết...), đến tận Sài Gòn trong suốt thời gian tồn tại phong trào và các giai đoạn sau này. Lo sợ ánh hường của phong trào đến sự thống trị. cuối năm 1907, thực dân Pháp đóng cửa Đông Kinh nghĩa thục, năm 1908 đã đàn áp, bắt tù đày hầu hết các lãnh tụ, yếu nhân của phong trào. Tuy chính thức chỉ tồn tại trong thời gian ngắn (1907). nhưna Đông Kinh nghĩa ihục là một phát hiện mới về thời gian, dùng sách lược tổ chức hoạt động công khai, đấu tranh trực diện bằng các hình thức giáo dục, văn hóa- tư tưởng... phục vụ cho đấu tranh võ trang lâu dài với ké thù; là sự diễn tập trong quá trình tìm tòi con đường cứu nước. Đó cũng là một nhánh đi tiến đến việc hội thông với con đường cách mạng đúng đắn, bài bản, hiệu qua sau này- nhờ kết tinh, rút kinh nghiệm từ Đông Kinh nghĩa thục và các nhánh đi khác. 1.2. Khái lược tổ chức, nội dung hoạt động cụ thể của Đóng Kinh nghĩa thục 1.2.1. Về tổ chức Trường có bốn ban lớn. Trước hết là Han Giáo dục. Giảng viên Hán học gồm các vị Nguyẻn Quyền. Vũ Trác, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Đào Nguyên Phổ...Ban Việt văn và Pháp văn có Nguyễn Vãn Vĩnh, Phạm Duy Tôn, Bùi Đình Tá, Nguyễn Bá Học đảm trách và có thêm hai nữ giáo viên dạy quốc ngữ cùng Pháp ngữ cho nữ sinh. Ban Sử địa, toán do Trần Đình Đức, Phan Đình Đôi chú trì. Thứ hai là Ban Tu tliư (Trước tác). Ban này gồm hai bộ phận là biên soạn và dịch thuật có nhiệm vụ biên soạn các giáo trình, tư liệu giảng dạy, học tập cho các thầy trò. Lực lượng nòng cốt là Lương Vãn Can, Nguyễn Hữu Cầu, Lê Đại. Chính hai chí sĩ Phan Châu Trinh và 36 Ngó Đức Kê cũng tham gia, nhất là cụ Ngô Đức Kế rất tích cực trong ban nàv. Các ấn phẩm chính là Quốc dàn (tộc bân (được in và tái hán nhiêu lần tới hàng vạn hàn mới đu cho nhu cầu), Văn minh tân học sách, Nam quốc (lịa dư, Nam quốc ỊỊÍai sự, Luân li giáo khoa thư, Quốc văn tỊĨáo klìoa thư. Nguỏn sách dịch chủ yếu là Tân văn, Tân tlnr cùa Trung Quốc. Nhật Bán. Ngoài ra, các tác phẩm của nhiều danh sĩ như Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh. Nguyễn Thượng Hiền đều dược dùng làm tài liệu giảng dạy. Trường có thir viện lớn, có ca hộp thư góp ý cho việc giảng dạy. Thứ ba là Ban Tài chính phụ trách chi, thu của trường; tổ chức quyên góp quỹ lừ nguồn các nhà háo tâm, gia đình phụ huynh học sinh ủng hộ và đóng góp của hội viên sáng lập trường. Thứ tư là Ban cố dộng chuyên tổ chức các buổi diễn thuyết, hình vãn. hội họp để gây ảnh hưởng rộng lớn, tiếng vang, nâng uv tín. vai trò cho Đông Kinh nghĩa thục. Trường còn biết dùng hai tờ báo có tiếng lúc đó - tờ Đãng cổ tùng báo và Đại Việt tân báo làm cơ quan ngôn luận cho mình. 1.2.2. Nội dung hoạt (lộtiỊỊ Suốt đêm trường của chính sách cai trị ngu dân thâm độc do thực dân Pháp và tay sai áp đặt, cộng thêm sự trì trệ, lạc hậu của chê độ khoa cử phong kiến, nếp sống xã hội tù đọng khép kín với nhiều hủ tục nặng nề của nền sản xuất nhỏ đình đốn thi sự xuất hiện Đông Kinh nghĩa thục là một hồi trống đón làn gió mới, trong lành. Trong từng lĩnh vực cơ bản, nhạy cảm nhất cúa xã hội. Đông Kinh nghĩa thục đều có những đường lỏi, chú trưcmg, đề ra kê hoạch, hiện pháp hành động cụ thê. a. Vê giáo dục, tư tưà/iỉỊ- văn hóa, Đônẹ Kinh ngliĩa thục có cúc chủ trươìĩg: - Chú trương chỏng cựu học (nền giáo dục cũ) với các giáo lí cũ Nho học lỗi thời can trở đất nước phát triển. Tờ Đăng cổ tùng báo ra ngày 27-6-1907 vạch rõ: Bao nhiêu cái khố sở, nhục nhằn ở nước Nam ta cũng vì cái dốt mà ra cả”. Dốt vì nén cựu học đò nặng tư tưởng lại bị thực dân Pháp lợi dụng đc trị. Do đó các chí sĩ đề ra giải pháp: 37 Mớ trường khai hoá nền dân trí, dấy phong trào chống nền giáo dục cũ hú lậu vì nó là “ké thù của tiến bộ và vãn minh”. - Chông bọn hủ nho và chế độ khoa cử hư danh, xa rời cuộc sống. Đỗ Chân Thiết mía mai tả các thí sinh chạy theo khoa cử giống như: người tù, ké trộm, chuột trong hang, mèo ăn vụng, tôm nháy cáng, giun co ro. Đó là những ké “trói gà không chặt, dài lưng tổn vải”, cô làm quan đê có mũ cao, áo dài, vinh thân phì gia, thoát li các hoạt động ihực tiễn; coi nhẹ kinh doanh, công thương, sản xuất lưu thông... - Chỏng chữ Hán, thúc đấy học và phổ biến chữ quốc ngữ. Chính Phan Châu Trinh từng nói: “Không bỏ chữ Hán không cứu được nước Nam”. Do chữ quốc ngữ nhiéu ưu điếm hơn chữ Hán, các chí sĩ chủ trương đưa chừ quốc ngữ thay cho chữ Hán làm ngồn ngữ viết chính thức để phố cập cho mọi người học tập dẻ dàng, đoạn tuyệt được giai đoạn cựu học, bước vào thời kì mới. Các nhà duy tân nhận rõ: “Chữ quốc ngữ là hổn trong nước” và kêu gọi: “Người trong nước nên đi học lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên đê trong một thời gian vài Iháng, đàn bà trẻ em đều biết chữ và người ta có thể dùng chữ quốc ngữ đê ghi chép việc đời xưa, chép việc đời nay. Đó thực là bước đầu tiên đe mở mang trí khôn vậy” (Dần theo Chương Thâu- phần Tài liệu tham kháo). Sau một ihời gian, kết quả rất khả quan: thói quen dùng quốc ngữ dần phát triển rộng rãi; văn xuôi và ngôn ngữ viết trên sách báo có những bước tiến; giao lưu vãn hóa với nước ngoài cùng hoạt động dịch thuật tài liệu, sách báo nước ngoài (kê cả của phương Tây) đã làm đời sống tư tường, vãn hóa thông thoáng hơn trước năm 1907. Vốn từ Việt cũng được bổ sung từ mới, làm phong phú, giàu có, hiện đại thêm tiếng Việt bởi các từ du nhập phương Tây như: cách mạng, nghi tntờniỊ, dân chủ, họp quần, óc cạnh tranli, kinli tê... Các sách sứ cũ cũng được biên soạn lại theo tinh thần mới, ngôn ngữ mới nên việc diễn đạt hiện đại hơn, đơn gián, dề hiếu hơn. làm cho công chúng dễ tiếp thu hơn. - Thúc đẩy việc dạy. học, thi cứ theo phương pháp mới. Trước tiên, trường chủ trương thầy trò ăn mặc. tác phong tân thời, noi theo 38 hình mẫu cụ Phan Châu Trinh mặc comlê, thắt cavát như người Âu; bỏ húi tó, cắt tóc nsắn. Thầv không giáng lối thầy đọc, trò chép, mà mở mang tranh luận, tháy hay nêu vấn để thời sự từ sách báo đe cả lớp cùng tháo luận, phát hiếu chính kiên. Giáo trình nội dung tiến bộ, bổ ích. học trò nam nữ có thè cùng ngồi nghe thầy giảng, binh đẳng trong Iranh luận. Các phương pháp sư phạm hiệu quả, kê cả kiểu mới được áp dụng như: giảng sách, diễn thuyết, đọc báo, hình văn, thảo luận nhóm nhỏ và nhóm lớn, tọa đàm. đóng kịch phân vai... Trường đổ nghị sửa đổi phép thi. bỏ học vãn biền ngẫu, bổ khuyết thèm phẩn câu hỏi thi đề tài quốc ngữ, toán; loại những kiểu đánh giá mang tính hình thức đê’ chú trọng vào thực chất. Trong thi cứ. phần câu hỏi đã khơi gợi, hướng cho học sinh lự do tư tưởng, độc lập suy nghĩ (Ví dụ ihước đo thực học không phái là thông tỏ điên chương mà phái có kiến thức nền tảng rộng - cá xã hội. tự nhicn; có tầm nhìn xa; biết ngoại ngữ- trước hết là Pháp ngữ...). Trước đây trong mòn sử. vãn..., nội dung thường chứa đựng sự kiện, tác phâim của Việt Nam. Trung Quốc, nay trường bổ sung thêm phần phương Tây. Tóm lại, trường chú trương sửa đối đê những điều học sinh học và thi không trái ngược, không xa rời giữa học với thực tế phải làm, phái xử lí trong cuộc sống. - Đề cao tính nhân bán. phát huy sáng tạo trong dạy và học. Quan điếm nhà trường dứt khoát thầy không phái là quan tòa, thám phán mà là những vị cỏ vấn nhiệt Ihành. học vân sâu rộng, đạo đức gương mẫu. Thầy phái lịch sự. tôn trọng nhân cách trò, truyền 'giảng được những gì mà người Việt chân chính, hiểu đạo nghĩa phải hành động đôi với Tổ quốc, đồng bào. - Coi trọng vai trò quáng bá tri thức, nâng cao uy tín trường, thúc dấy vận động duy tân cứa báo chí. Cuốn “Văn minh tân học sách"- được coi là thê hiện cương lĩnh của Đông Kinh nghĩa thục, đã nêu rõ vai trò báo chí của các nước Âu, MT, Nhật, Trung đối với dân chủ, tiến bộ xã hội. Từ đó hô hào nước ta mở nhiéu tờ báo với những chú bút có năng lực, giàu tâm huyết đê thông qua ngôn luận đả phá được đầu óc bảo thủ, trì trệ cúa hủ nho và những nsười lạc hậu; đưa tri thức khoa 39 học, văn hóa mới, tư tường tự cường, cạnh tranh... đến mọi người Việt- từ quan đến dân. già. trẻ. các tầng lớp dân cư. - Đề cao lòng yêu nước, tự tôn dân tộc. Thông qua các môn học lịch sứ. địa lí và các hoạt độne khác, Đông Kinh nghĩa thục dần dấy lên phoníỉ trào vận động, nhấn mạnh lòng ycu nước, truyền thống anh hùng của dân tộc, ngầm kêu gọi người Việt ủng hộ, tham gia các hoạt động chông Pháp, giành độc lập đất nước. Nhiều bài học, bài giáng được diễn tả dưới hình thức thơ lục bát dân gian cho dỗ nhớ, dỗ đi vào lòng người, dỗ quáng bá rộng rãi. Các chú đé chính là: biếu dương thành tựu dựng nước, giữ nước của cha ỏng, lên án ách thống trị thực dán Pháp, tô cáo tội ác của thực dân và đầu óc hú bại của quan lại, hủ nho, kêu gọi mọi người đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết. - Giáo dục sơ đảng (xu hướng phổ ihóng) và giáo dục chuyên môn. Mặc dù mới ở mức độ khai phá, nhưng Đông Kinh ngĩa thục đã có V thức phàn luồng giáo dục phổ cập (các chương trình sơ trung) cho quảng dại người dân và giáo dục chuyên sâu cho những người có nhu cầu học nghề, phục vụ phát triển sán xuất trong xã hội. Có thể nói lần dầu tiên trong lịch sử giáo dục nước ta, Đổng Kinh nghĩa thục đã từ hò việc đổng nhất ý niệm giáo dục và thi cử trong chê độ cũ. trường đã có bước tiến lớn là tách rời ihi cử ra khỏi giáo dục. Trong cuốn "Quốc dân dộc bán " đã nói rõ: “Khoa cừ và nhà trường là hai cái đối lập nhau... Thiêu niên chúng ta phải ra sức học cái hữu dụng, chớ đê’ cái học khoa cứ phá hỏng chí hướng cúa mình. Những người giàu có nên cho con em ra nước ngoài vào học các trường thực nghiệp đê khuếch trương nghề nghiệp của mình, như thố vinh quang hơn cái học khoa cử vạn lần”. Quan niệm mới chính là một cuộc cách mạng mới về tư tưởng, vì Đông Kinh nghĩa thục cho rằng: Học không chí nhằm đỗ đạt, làm quan mà mục đích chính dê làm người hữu dụng. Nhà trường đã chuyên từ học chế xưa chuyên phục vụ cho số ít sang nền giáo dục phổ cập cho đa số dân chúng, đồng thời chú ý đào tạo “cán bộ chuyên môn cho các ngành nghề, lĩnh vực”. Đông Kinh nghĩa thục còn phân định rõ khoa học phổ thông và khoa học chuyên môn- chuyên ngành. Tác phẩm “Quốc dàn độc bán " luận giải: Khoa học phổ thòng là khoa học chung mà sĩ, nông, công, thương đều cần đến. Khoa học chuyên môn 40 thì chi dành cho các chuyên gia của hôn giới sĩ, nông, công thương nổi trên. Muốn đi sâu vào chuyên môn. trước hốt phải học phổ thông đã. b. \ ê mặt xũ hội, tập tục, liếp sông Đông Kinh nghĩa thục chông tư tưởng thiên mệnh, các tín điều bào thú. trì trệ của Nho gia và các hú tục xã hội. Chỏng ở đáy là áp dụng đòi với các hủ nho cổ tư tướng họp hòi cô chấp, tự cao, tầm nhìn hạn chế, cô thú trong tín điều Nho giáo, tự huyẻn hoặc hay bất hợp tác với Pháp bằng cách ở án. buông xuôi theo “Thiên mệnh”. Chính những người này cũng là nguyên nhàn làm cho nước yếu. dân hèn. báo thù. chống sự ticn hộ cải cách. Các nhà hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục đã lên án mạnh mẽ cách ăn mặc, đầu tóc, tư duy, lôi tiếp xúc quan hệ, thói bài bạc, ưa tĩnh nhàn... của hủ nho nệ cổ và một bộ phận dân chúng đểu không hợp với khoa học, văn minh, cẩn thay đổi nhanh mới tương thích với thời đại mới và góp được sức cho các phong trào yêu nước lúc đó. Hãy nghe một bài thơ chỏng hú tục, thói xấu được phổ biến như sau: "... Bò lìíỊlìé cờ bạc tham dám, Bó iiiỊhề dại cliợ, khôn nhà bây láu, Bó tranh phi, bó li sự cùn, ... Điều tục lụy, diêu chi cũtiỊỊ (lôi, Dối cho rồi, các tliói bấy hiu (Thanh Lãng. Ban lược dồ văn học Việt Nam, NXB Trình bày, Sài Gòn, 1967 tr. 95) c. Về kinh tế Giáo dân đế dân nâng cao dân trí. tân dân để dân bỏ hú tục, có nhận thức mới, dám cải tạo xã hội; nhưng muốn nước mạnh phải dưỡng dân- đó cũng là mục tiêu của phong trào. Dưỡng cho dân giàu là thúc đẩy dân chúng mở mang công thương nghiệp, đi vào kinh doanh sán xuất, thương mại đc kinh tế phát triển, của cải xã hội dồi dào. Về lí luận, Đông Kinh nghĩa thục phân tích rõ những nguyên nhân làm kinh tế đất nước trì trệ. kém cỏi, chi ra việc cần loại bỏ tư duy cũ: “Trọng nông, ức thương”, đồng thời chính các nhà sáng lập. vận động phong trào còn trực tiếp đi đẩu trong hoạt động mở hiệu 41 buôn, công ti công nghiệp; lập đốn điền, lập các “nóng hội”, hô hào dùng hàng nội hóa... đe chấn hưng kinh tế. Cụ Đỗ Chân Thiết mở hiệu buôn “Đổng Lợi Tế” chuyên buôn bán hàng nội hóa và hiệu thuốc bắc “Tụy Phương” gần ga Hàng cỏ. Cụ còn chung vốn với cụ Phương Sơn lập hội đi các tính thu mua gạo về bán ở Hà Nội. Cụ Nguyễn Quyền và Hoàng Tăng Bí cho ra đời công ti "Đỏng Thành Xương” buôn bán tạp hóa ở phố Hàng Gai. Phong trào lập hội kinh doanh lan rộng ra khắp nước. Nhiều hiệu buôn nổi lên như: Hưng Lợi Tế (Hưng Yên), Sơn Thọ (Việt Trì), Phương Lâu (Thanh Hóa), Triêu dương thương quán (Nghệ An). Liên Thành (Quảng Nam), Minh Tân khách sạn (Sài Gòn), Hiệu thuốc “Từ bình đường” (Bôn Tre), Tân Hợp Long (Long Xuyên) v.v... Một số người còn bỏ tâm sức đi thăm dò khai thác mỏ hay lập đồn điền, lập trại trổng cây lương thực. Ví dụ đồn điền ờ châu Yên Tập (Hưng Hóa), Mỹ Đức (Hà Đông). Tuy không thành công lớn nhưng phong trào đã chứng tỏ đầu óc tư duy mới, dám nghĩ, dám làm, mở ra được những hướng mới trong thực tiền sản xuất, kinh doanh. d. Việc phối hợp với phong trào yên nước khác Các lãnh tụ và thành viên cốt cán Đông Kinh nghĩa ihục đều coi các hoạt động công khai của phong trào chi là sách lược tạm thời, họ không áo tưởng vào háo tâm cúa Pháp. Họ muốn kết hợp cái cách với bạo động; úng hộ liên kết chặt với Phan Bội Châu, tổ chức Duy tân Hội, phong trào Đông Du và tán thành chú trương bạo động đánh Pháp cùa cụ Phan; có lúc, có nơi đã tổ chức tập quân sự, trữ dấu vũ khí. Họ kính trọng nhưng liên hệ không chặt với cụ Phan Châu Trinh và có tiếp xúc với cụ Đé Thám, giúp đỡ khởi nghĩa Yên Thê v.v... Tóm lại, Đống Kinh nghĩa thục là một cuộc vận động động duy tân yêu nước, một phong trào sổi nổi tập trung vào những vấn đề xã hội nhạy cám là cái cách giáo dục, nâng cao dân trí, đổi mới nhận thức vãn hóa- tư tưởng, làm tâm điếm cho các hoạt động canh tân khác và cá hoạt động chính trị, bạo động, trù bị võ trang bí mật... Tư tưởng xuyên suốt là cách mạng dân tộc - chống Pháp, dân chú - bài phong kiến, nhằm giái phóng dân tộc, hướng đến xây dựns xã hội tư bản theo kiêu châu Âu. 42 1.3. Phong trào Đỏng Kình nghĩa thục ở Hà Tĩnh Thời đó, ớ Hà Tĩnh, dường sá đi lại không thuận tiện bằng Nghệ An; hay việc lai kinh vào Huê cũng khó khăn bởi giao thông đường hộ chưa hoàn bị. xa xôi. còn di bằng dường thúy thì không phổ hiến và tàu thuyền không đám bảo, nên buôn hán. giao thưưng kcm, dân nghèo rất đông, dàn trí tháp... Nhưnsz Hà Tĩnh là quo hương cúa nhiều danh thần, tướng lĩnh kiệt xuất, là nơi có cuộc khởi nghĩa chông Pháp do chí sĩ Phan Đình Phùng lãnh đạo... Khi tiếng súng của cụ Phan Đình Phùng và người cận tướng tài ba Cao Thắng cùng nghĩa quân đã tát, vùng đất này bề ngoài im ắng, nhưng mọi người đều hun đúc cho mình một ngọn lửa yêu nước luôn âm i trong lòng chí đợi dịp là hùng cháy. Nằm sát với Nghệ An- nơi có nhũng nhà duv tán đi vé như Phan Bội Châu. Đặng Nguyên Cẩn. Ngô Đức Kè.... lại gián tiếp, trực tiếp được nhiều đổng chí. môn đệ và học trò của họ quảng bá, tố chức các hoạt động ycu nước, nên khi mô hình Đông Kinh nghĩa thục lan đến xứ Nghệ thì gần như ngay lập tức cũng được Hà Tĩnh hưởng ứng. Tại Hà Tĩnh trước năm 1907, sỏ trường sơ học toàn tinh có thê đếm được trên đầu ngón tay, là vùng đất có nhiều nhà Nho, quan lại trí sĩ ớ đó đông, dân hiếu học, các bậc túc nho có ý thức bồi dưỡng cho dân trí ở địa phương nên tồn tại các lớp học tại gia khá nhiều. Hoạt động kinh tế đầu tiên của phong trào Đông Kinh nghĩa thục tại xứ Nghệ là Tricu dương thương quán của Nghệ An mở chi nhánh ở Hà Tinh ngay năm 1907 đè thực hiện việc chấn hưng kinh té. Trước đó, cá Nghệ An, Hà Tinh bắt đầu hình Ihành các Hội tương tế, tạo mối liên hệ giữa quần chúng yêu nước với các tổ chức cơ sở của cụ Phan Bội Châu (như tổ chức Duy tân Hội), sau đó hoạt động yêu nước ờ Hà Tĩnh dần có màu sắc riêng (chủ yếu hình thành dưới hình thức hoạt động kinh tế, văn hóa- giáo dục, tirơng trợ nhau vì mục tiêu chung cứu nước cứu nòi ncn hưởng ứng Đông Kinh nghĩa thục rất nhiệt tình, hãng hái, sáng tạo). Dựa theo mô hình Hà Nội, phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Tĩnh cũng lập Trường Phong Phú tại huyện Thạch Hà. Không chi phục 43 vụ nhu cầu trong huyện, trường này còn thu hút cả con em huyện khác từ Can Lộc, Kì Anh. Đức Thọ, cấm Xuyên... đôn học. Đặc biệt Tri phú huyện Thạch Hà là cụ Lê Thiếp cũng cho con trai cá là Lc Thiêm học ở đây. Trường này kéo dài hoạt động đến tận năm 1912 mới đóng cứa (dù ờ Hà Nội và lân cận các trường bị đóng cửa ngay cuối năm 1907). Ngoài các giáo trình mang từ Hà Nội, Vinh vào, nhiều nho S1 trong (rường còn chú động sáng tác văn thơ phục vụ việc giảng dạv tuyên truyền phong trào. Ong Trương Ngọc Trác- một thầy giáo nổ tiếng của Trườnẹ Phong Phú, đã làm một bài diễn ca hô hào mọi người học chữ quốc ngữ nhir sau: "... Ngoài tứ phương front* dúnli biêu tình, Đều nam nữ bình quyền rứa cả, Việc gia thất xin chủng chớ vội, Man vê quê nhận dạy học hành, Một hai năm cácli mệnh hoàn tliủnli, Chàng với thiếp sẽ vẻ lo liệu... " ; Có nho sĩ còn viết bài chí rõ tiềm nâng giao thương Hà Tĩnh Vỉ các vùng xung quanh nếu khắc phục được trở ngại giao thông đi lại mạnh dạn phát huy được chú trương “Dưỡng dân” của Đông Kinh nghĩa thục. Bài thơ khuyết danh sau đây khá thú vị: "ĐườtìỊị vô xứ Ni>liệ quanlì quanh, Tri cu dương thương quán theo tliùnli Đông Kinh, Hù Tĩnh muốn học cho nlianli, Ngại dưỜMi cách trở, xa xôi các vùng, Muôn vô mail Quàng Bình, Qucing Trị... Dem hồ tiêu, muối, gồ... di buôn, Vải Đức Thọ, cá Cẩm Xuyên ... lỉùng hùng trao đổi, nhiều tiền di(ỡnẹ dân, Làm sao tiện dường di xuôi ngiíực? Quyết chấn hưng thương mãi, một sổ người hiểu biết, đi thec phong trào Đỏng Kinh nghĩa thục hăng hái đã hợp lực mớ các hiệi 44 buôn tạp hóa, vái vóc. hương liệu, thuốc Bắc và cả thuốc Nam. Nổi tiếng là hiệu buôn Mộng Hanh buôn tơ, lụa, (ở Chợ Trổ, Can Lộc) của chí sĩ Lê Văn Huân, cửa hàng Đỏng Thái (Đức Thọ), các cửa hàng tại chợ Cồn, chợ Huyện (Can Lộc), chợ Ngạn (Thạch Hà), chợ Đình (Nghi Xuân), chợ Voi (Kì Anh), chợ Vực (Cẩm Xuyên...Nhiều trí giá giỏi Đông V đã mở các hiệu thuốc Bắc, thuốc Nam ở các huyện lị Thạch Hà, Hương Sơn, Nghi Xuân v.v... Ông Lê Võ mạnh dạn lập trang trại ở Cộng Khánh, Nghi Xuân. Các Hội tương tế còn mớ các lớp dạy chữ quốc ngữ phạm vi nhó. đặt tại các gia đình có uy tín để khai dân trí, vận động xuất dương du học. Nhìn chung, nho sĩ Hà Tĩnh biết kết hợp hoạt động giáo dục văn hóa công khai, phát triển kinh tế với hoạt động chính trị bí mật, úng hộ các đồng chí cùa cụ Phan Bội Châu như Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, Lê Văn Huân. . ngầm tích trữ tiền bạc, khí giới, tuyển mộ những người quật cường đế sẵn sàng khi cán sẽ đi theo cụ Phan Bội Châu. Ảnh hưởng cùa Đông Kinh nghĩa thục đã tác động dến vị tri phú Lê Thiếp trong công cuộc mờ đường từ Hà Tĩnh đi Đèo Ngang, đấy mạnh giao thương kinh tế và khuyên khích con cái học chữ quốc ngữ, tham gia dạy các lớp học gia đình để đế giúp dân v.v... Ông Lê Thiếp (1868- 1908) xuất thân từ gia đình khoa bảng, tướng lĩnh, phát tích ở làng Mỹ Duệ. cám Xuyên (Hà Tĩnh) thuộc chi Đỏ Thắng Bá Lc Cảnh sắc, cùng một gốc, một tổ với các chi Lê Mậu, Lê Bá. Lê Văn. Năm 1522. Doãn Lộc hầu Lê Mậu Doãn được lệnh vua Lê Chiêu Tông mang quân cùng các chi họ trên vào trấn thú Quáng Trị, nên sau này cả họ bám trụ, phát triển ở vùng Triệu Phong, nay thuộc Bích La, Triệu Đông. Triệu Phong. Quảng Trị. Do có điếu kiện học hành, giao thiệp, có nhiệt tâm, lại am hiểu hai vùng quê Hà Tĩnh, Quảng Trị nên ông Lê Thiếp sớm có đầu óc linh hoạt, thực tiễn, tư duy mứi mẻ. Làm tri phú Thạch Hà được 4 năm, khoảng giữa năm 1907, tiếp thu lư tưởng “dưỡng dân”, chấn hưng kinh tế, mở rộng giao thương từ sách báo, trước tác của các lãnh tụ Đông Kinh nghĩa thục, ỏng sớm nhận rõ: Đất Hà Tĩnh là vùng địa linh nhân kiệt, nhưng cách xa cô đô Huế, bị ngăn cách bởi địa hình rừng núi hiểm trở, nhất là cách Đèo Ngang, sông Gianh, phá Tam Giang v.v... Ông Lê Thiếp và 45 một số quan lại đồng liêu, kẽ sĩ Hà Tĩnh rất tâm đắc với những phân tích và quan điểm mới được thể hiện trong “Quốc dân dộc hán” của Đông Kinh nghĩa thục: “Nước giàu thì giao thông, thông tin càng hoàn bị, mà nước càng văn minh. Vì sao vậy? Vận chuyên thuận lợi, tin tức nhanh chóng thì thương nghiệp, còng nghiệp tiến bộ vượt bậc. Vả lại, xa xôi nghìn dặm. sáng đi chiều đã đến nơi, người lưu luyến quê hương cũng muốn đi nơi này nơi nọ. Những vùng hẻo lánh, người thưa thớt cũng biến ihành đất giàu có, phồn vinh. Nhữns kè không có nghề nghiệp dần dần trở nên sung túc, nhữns kẻ ngu dốt, hú lậu cũng mở rộng được kiến văn. Người tứ xứ quy lại, chung sống với nhau thì ngôn ngữ, phong tục cả nước mới có thể thống nhất. Giao thông, thống tin quan hệ đến xã hội như thê đấy” (Dẫn theo Chương Thâu: Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cái cách vân hóa dầu thê kí XX, NXB Văn hóa Thông tin, H. 1997). Tri phủ Lê Thiếp hiểu rõ đổ các tỉnh tăng cường giao thương buôn bán và những kẻ thức giả tiêu biểu giữa các vùng có điều kiện gặp gỡ, đàm luận với nhau dẻ dàng thì khàu quan trọng là giao thông phải thuận lợi. Lúc đó đường từ Hà Tĩnh vào Quảng Bình còn sơ lược, nhiều đoạn hư hỏng, chắp vá, chạy qua núi đổi, đèo dốc, thiếu háo trì. bị xuống cấp do mưa nắng, lụt lội... Vì vậy, ỏng đề xuất với triều đình xin đứng ra thống suất quân lính, dân phu hoàn thiện, nâng cấp, khai mở con đường từ Hà Tĩnh vào Huế, trước hết là đến Đèo Ngang. Được vua Thành Thái đổng ý và các vị quan lại đứng đầu Hà Tĩnh úng hộ, còng trình hoàn chính, khai mở quy mỏ đường từ nam tính thành qua huyện lị Thạch Hà, nòi với các huyện Cẩm Xuyên, Kì Anh đến Đèo Ngang lập tức được khẩn trương tiến hành. Hơn nửa năm ông Lê Thiếp cùng binh lính, dân phu lao động cật lực giữa những vùng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, điều kiện ăn uống thiếu thốn... Đến đầu năm 1908 thì con đường cơ bản hoàn ihành, ngày nay chính là đoạn quốc lộ số 1 chạy qua Hà Tĩnh - với những đoạn đường được cái tạo, nâng cấp từ con đường được hình thành cách đây 100 năm trước. Cũng vào mùa xuân 1908, tuần phủ Hà Tĩnh cho mời ông Lè Thiếp về tỉnh lị để báo công và nhận sắc phong triều đình thăng ông lên chức án sát. v ề đến nửa đirờng thì viên quan tận tâm, tận lực vì việc công Lê Thiếp bị sốt rét nặng rồi mất. Sau khi cha mất một thời gian, người con trưởng là Lê Thiêm (1896 - 1972) 46 cũng rời Trường Phong Phú ở nhà tự học tiếp, giúp mẹ cùng các em sinh sống và trau dổi thêm nghé thuốc Nam. Tiếp thu chí hướng của Trường Phong Phú và các tư tướng dưỡng dân, tiến bộ của người cha, ỏng Lê Thiêm lúc hơn 17 tuổi đã mạnh dạn mở hiệu tạo hóa và bốc thuốc chữa bệnh Đông Bích Hiên ở Thạch Hà. Khi Trường Phong Phú chấm dứt hoạt động (1912), sau đó ít lâu, ông Lê Thiêm cùng các bạn khác đã mở các lớp học quốc ngữ và kiến thức mở rộng theo mô hình tại gia. Huyện Hương Sơn có cha con ông Võ Tá Lương, Đức Thọ có gia đình Phan Đình Chương mò' lớp thu được nhiều kết quả. Tại huyện Thạch Hà, không chí thời gian đó mà thời gian sau này, có nhiều học trò đã qua tay ông Lê Thiẽm. có người trở thành những người có danh vọng, đức cao vọng trọng, khi gặp ông Lê Thiêm lúc sinh thời đều kính cẩn chào thầy. Mô hình đó được duy trì ờ nhiều vùng, huyện khác và sau này vào thời kì Mặl trận bình dân (1936-1939) hay sau năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám thành công, việc dạy bình dân học vụ lại được chính các cụ và con cháu các cụ tham gia tích cực. 2. Tiêng tròng cải cách giáo dục từ Đông Kinh nghía thục vẫn vang vọng, giục giã, là bài học kinh nghiệm chơ công cuộc cải cách giáo dục hỏm nay Đã 100 năm trôi qua. nhưng trong bôi cảnh hôm nay đất nước ta đang đẩy mạnh cải cách giáo dục. thì thiết nghĩ rằng nhiều bài học kinh nghiệm từ phong trào Đông Kinh nghĩa thục vẫn có ý nghĩa sâu sắc. Đo là: + Phải thống nhất cao trong toàn xã hội về tư tưởng coi trọng giáo dục thật sự, nhất là vào những thời điểm đất nước cần chuẩn bị nguồn lực mới cho canh tân. Ngay từ nãm 1907, cuốn “Văn minh tân liọc sách ” - được coi là thê hiện cương lĩnh chính trị của phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã thống nhất nhận thức: “Tinh trạng dã man hay văn minh một quốc gia là do trình độ dân trí quyết định. Vì thế, muốn tiến lên vãn minh thì phải mở mang dân trí đc càng vãn minh thì dân trí càng phải cao... Văn minh và dân trí hai đằng cùng làm, nhân quà tương tác lẫn nhau”. Trong bối cảnh hiện đại, muốn đất mrớc canh tân 47 thoát khỏi nghèo nàn. lạc hậu. mọi ngành, mọi người cần đưa các chú trương chính sách của Đáng, Nhà nước về giáo dục vào thực tế cuộc sống, thực hiện triệt để, làm sao để nâng cao dân trí và có đội ngũ lao động chất lượng cao được đào tạo bài bản, mới có thê cạnh tranh với các nước được và phát triển quốc gia một cách bền vững. + Giáo dục và tư tưởng, văn hóa luôn có mối liên hệ hữu cơ, sâu sắc. Hiểu rõ môi quan hệ hữu cơ đó, Đỏng Kinh nghĩa thục đột phá từ cái cách giáo dục, rồi lổng ghép ba mặt đó với nhau, tạo thành một phong trào sâu rộng vận động dán tộc yêu nước, thực hiện giáo dân, tân dân, dưỡng dân nhằm mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc. Đường lối pliong trào tập trung vào: “Mở tân giới, xoay nghề tân học, Đón tân trào, di/ng cuộc tân dân; Tán thư, tân báo, tân vân... " Ngày nay, thế và lực nước ta đều mạnh, trong sự nghiệp cải cách giáo dục, chuán hị cho nguồn nhân lực, Đáng, Nhà nước đã và đang những có định hướng tư tưởng chí đạo sáng suốt. Nhưng ngành chức năng cần chủ động biến tư tưởng chỉ đạo trên thành triết lí sinh động một chú thuyết triết học tư tưởng rõ ràng về cải cách giáo dục (Lãnh đạo Nhật Bán khi nói về sự thất bại cuộc cải cách giáo dục năm 1982 cúa họ đã chỉ rõ nguyên nhân là cải cách nửa vời vì thiếu một chù thuyết). Cần lổng ghép với chú trương “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đế “Tân học” (ví dụ việc xây dựng mô hình đào tạo tiêu chuẩn quốc tế) phát huy vững chắc trên nền tảng tốt đẹp của văn hóa Việt Nam; phát động toàn xã hội “dựng cuộc tân dan”, đưa ra các giá trị mới phù hợp thời đại, lừ bó triệt đc thỏi xấu mua bán bằng cấp, phấn đấu dạt thực học, thực tài. Ngành giáo dục, đào tạo cần có chiến lược cụ thể. ỉộ trình thực hiện cải cách giáo dục, gắn chặt với chiến lược tổng thể phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội đất nước, không nên chạy theo giải quyết các sự việc thiên về hiện tượng, mà phái tập trung vào các vấn đề gốc rễ, trong đó có việc tổng kết tình hình sử dụng tài chính và hiệu qua các đề án ngành giáo dục- đào tạo (Hiện Bộ GD-ĐT trong nhiệm vụ giai đoạn 2007-2010 đã đưa ra 5 48 nhóm giái pháp trọng tâm và 41 giái pháp, kế hoạch chi tiết). Xưa chú trọng tiếp thu tri thức nhãn loại qua “Tân thư, tân báo, tân vãn...”, nay cần mớ rộng, đa dạng, đa phương hóa các hình thức tiếp xúc, giao lưu hợp tác quốc tế mạnh hơn cho ngành giáo dục đào tạo, nhà quản lí, nhà giáo, sinh viên trực tiếp, aián liếp và bằng các phương tiện khoa học kĩ thuật hiện đại. Xin được đưa ra mục tiêu có tính triết lí cho giáo dục hiện đại là: “Dạy và học thànli nạười Việt Nam liùiii> mạnh, dẳng cấp quốc tế, cạnh tranh hiệu quá troiìíỊ liội nhập, phát triển bên vững" và phương châm, nội dung, kê hoạch dào tạo cho đầu ra cụ thê là: ' Học lỊÌói toán (liệu, cliươiii’ trình quác tế, nên văn hóa Việt, tliạo ngoại nIỊIĨ, linh CÒIÌÍỊ nghệ, acini’ thành tầm quốc tế". + Đỏng Kinh nghĩa thục học lập mỏ hình Khánh ứng nghĩa thục từ cuộc vận động Duy tàn Nhật Bán. tiếp thu các tư tưởng dân chủ tư sán Au Tây về giáo dục và các mật xã hội liên quan, nhằm giải quyết các vân đề quốc kế dân sinh, độc lập. tự cường dân tộc. Đó là một bài học quý giá về học hỏi, hợp tác. phát triển. Các nhà cái cách, lãnh đạo phong trào Đỏng Kinh nghĩa thục đều là những người tài giỏi, tâm huyết, biết tổ chức. Quan điểm của họ là: “Không phải người hiền tài thì không thể làm tròn nhiệm vu, không tuyên chọn thì không tìm được người thích đáng” (Dẫn theo bán dịch "Quốc dàn (lộc bản ” cùa Chương Thâu). Chính vì vạy, trong sự nghiệp cải cách giáo dục hôm nay ván phái gắn chặt với quốc tê và hợp với sự phát tricn lâu dài của quốc gia. Cần phai có cơ chế hợp lí để lựa chọn mọi cấp lãnh đạo giáo dục và thầy tâm huyết, đúng tầm, đủ năng lực, uy tín trong, ngoài nước. Phái cương quyết chống bệnh hình thức, bệnh thành tích; riêng đào tạo bậc Đại học trớ lên khôrm the theo hình ông mà phái theo hình chóp, nhữns người không đạt trình độ phải cho xuống lớp, học lại... báo đàm chất lượng đúng yêu cầu. không thực hiện ưu tiên, ưu đãi, tuyển cứ. + “Quốc (lân dộc bán một trong các trước tác quan trọng của Đỏng Kinh nghĩa thục đã tháng thắn vạch rõ khuyết điêm của việc học trước năm 1907, tức là lôi học khoa cử lỗi thời kiểu phong kiến của người Việt chí nhằm: “Học chủ yếu là học văn chương đê ra làm quan mà thôi”. Các nhà canh tân thời đó khuyến nghị: Có ba cái cần học là 49 học vệ sinh tức phương pháp đê thân thê khoe mạnh: học trị sinh: học cách sản xuất thức ăn. áo quần, ctìa cải vật chất, cách quán lí sán nghiệp...; học làm người, làm quốc dân- tức học cách tự kiềm chê và cách đôi xử với quốc gia, xã hội. Đó là cách học hữu dụng. Đáng chú ý là các vị chú xướng phong trào xuất thân Nho học nhưnỉỉ biết gạn đục khơi trong, phát huy những tư tưởng phù hợp của người quân tử, bậc lúc nho chân chính, vượt khỏi tẩm nhìn thủ cựu, đoàn kết với lực lượng trí thức Tây học (Nguyễn Vãn Vĩnh), biết hợp tác với tư sản dân tộc (Bạch Thái Bưởi) đê thúc đẩy phona trào toàn diện, vững chắc. Công cuộc cải cách giáo dục chúng ta đang tiến hành đã ở những năm đầu thế ki XXI, vì thê nội dung của giáo dục cần hiện đại, giá trị ứng dụng thực tiễn tốt, có hiệu quá kinh tê - xã hội cao; giáo dục đào tạo cần có sự tham gia của doanh nghiệp bằng các hình thức như doanh nghiệp liên kết chặt với các trường Đại học bằng cách đặt hàng, hợp đồng các đề tài. tài trợ cho sinh viên giỏi và họ được ưu tiên lấy về làm việc khi sinh viên học xong: khuyến khích doanh nghiệp đầu tư tài chính, vật chất cho mọi cấp học và có thê cho phép cơ sở đào tạo mang tên doanh nghiệp tâm huyết đó nếu sự ủng hộ tài chính đạt mức nào đó. Các trường đại học nên mời các doanh nghiệp thành đạt, giỏi về nói chuyện tại trường đổ truyền đạt kiến thức thực tế cho sinh viên và thầy giáo v.v... + Giai đoạn Đông Kinh nghĩa thục, các sĩ phu phát hiện chuẩn giáo dục hổi đó sai, vì “Lĩnh vực giáo dục thì những môn học và cần nhớ ấy là sách Tàu..., chi là lời nói cổ nhân; những thứ ta trọng thi chí là kinh nghĩa, thơ ngũ ngón, biền ngẫu tứ lục, trong khi ử các nước Âu Tây thì chú trọng các môn khoa học” (Dẫn theo "Văn minh lân học sách” - bản dịch của Chương Thâu - sđd). Ngày nay cũng vậy, vì sự phát triển nhanh, bền vững, lâu dài của dân tộc, ngành chức năng, trường đại học, các cơ sở giáo dục, đào tạo nước ta không nên bỏ công quá nhiều để tự biên soạn giáo trình, có thể tổ chức dịch những giáo trình, tài liệu giáo dục các trường danh tiếng the giới có bề dày lâu đời được thực tê kiểm chứng để dùng. Như vậy, không chi giáo trình mà các quy trình trong cải cách giáo dục càng tiêu chuẩn hóa cụ thê càng tốt: vé chính sách, mục tiêu, đánh giá chát lượng. 50 người dạy. học viên, phương pháp dạy và nghiên cứu, phòng học và phương tiện học cụ v.v... + Khi đất nước hàng ngàn năm quen dùng chữ Hán, chữ Nỏm không thuận tiện nhưng thành nếp. còn chữ quốc ngữ còn mới mẻ. thế mà Đông Kinh nshĩa thục dám mạnh dạn để nghị bó chữ Hán, dùng quốc ngữ thay the, đó là một sáng kiến lớn lao. dũng cám. Quanh ta hiện nay, Nhật ngày càng khuyên khích dùna tiếng Anh trong trường đại học. Các nước trong khối ASEAN, nhất là Singapore, Philipine trong từng nội bộ gia đình có thê tùy nghi sứ dụng bất kì ngôn ngữ nào nhung trong giáo dục- đào tạo, trong thủ tục hành chính, sinh hoạt xã hội... thì quy định dứt khoát dùng tiếng Anh. Vì thế đê góp phần thúc đáy sự phát triển mọi mặt xã hội, nên chăng Việt Nam cần có chính sách tăng cường hơn nữa việc dùng tiếng Anh. trước hết là trong giáo dục, đào tạo đê tiếp cận dẻ, thẳng, hội nhập với thế giới trực tiếp hơn, sâu rộng hơn, hiệu quả hơn trong bối cảnh nước ta đã là thành viên WTO. + Đông Kinh nghĩa thục là một hồi trống kêu gọi cải cách giáo dục, duy tân nhiều mặt đê dân giàu nước mạnh, hoàn thành sứ mạng lúc đó là giái phỏng dân tộc. Họ biết dùng báo chí đổ làm công tác quan hệ công chúng (Public Relations) cho tổ chức mình phát huy, triển dương các hoạt động trong công chúng. Ngày nay, chúng ta sống trong thời dại kinh tế trí thức, xã hội thông tin- báo chí bùng nổ, đội ngũ báo chí hùng hậu. Vì the lại cần phát huy hiệu quả thê mạnh này trong quang bá, vận động, tổ chức làm sao đê báo chí làm cho tiếng trống vé cái cách giáo dục, duy tân đất nước rền vang hơn, vang vọng, mạnh hơn. Tiếng trống đó pluii thúc giục toàn xã hội, mọi người Việt ờ hất cứ đâu (kể cả người Việt sinh sống ở nước ngoài) chung lòng, chung sức tham gia đáy mạnh sự nghiệp cái cách giáo dục tiến hẳn lên những bước mới thật đột phá, thật cao, vững chắc, lâu dài. 51 Tài liệu tham khảo 1. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), Đai cương lịch sử Việt Nam, T. 2, NXB Giảo due. H., 2005 2 Hà Minh Hổng, Lịch sử Việt Nam cận đại (1858- 1975), NXB Đai hoc Quốc gia TP. Hổ Chí Minh. 2005. 3. Chương Thâu, Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách Việt Nam đầu thế kỉ XX, NXB Văn hóa- Thống tin, H., 1997. 4. Đại Nam nhất thống chí (quyển 13- viết vể Hà Tĩnh), Văn hóa tùng thư, Sài Gòn 1965 5. Vũ Ngoe Khánh. Tim hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, NXB Giáo dục, H., 1985. 6. Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh nghĩa thục, NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1968. 7 Đinh Trần Dương, Nghệ Tĩnh với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong 30 nảm đầu thế kỉXX, NXB Chính trị Quốc gia, H., 2000. 8. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), Tàn thư và xã hội Việt Nam cuối thế kì XIX, đầu thê kiXX, NXB Chính trị Quốc gia, H., 1997. 9. Karnow, Stanley. Vietnam: history, New York- Vicking, 1983. 52 CHỮ QUỐC NGỮ, ĐỔNG KINH NGHĨA THỤC VÀ VẤN DỂ CẢI CÁCH CHỮ VIỆT TRONG THẾ KỈ XX TS. Nguyễn Chí Công' Ngay từ khi chuẩn bị phổ biến tri thức canh tân và chấn hưng đất nước, các vị lãnh đạo Đỏng Kinh nghĩa thục (ĐKNT) đã lựa chọn đúng đắn và phát huv nhiều phương tiện cũ mới khác nhau. Một trong các phương tiện đặc sắc nhát chính là chữ Quốc ngữ (CQN), các vị đã soạn sách dạy đọc viết và sử dụng thứ chữ từng bị coi là “của Tây” đê phục vụ hữu hiệu cho người Việt Nam, nhất là giới bình dân ở miền Bấc. Bài viết sau đâv đánh giá công lao to lớn đó và chỉ ra rằng quá trình cải cách và tiêu chuấn hoá CQN của con cháu đã thể hiện những hước tiếp cùa tư duy đổi mới liên tục, mang lại những kết quả có ý nghĩa rất cơ bản cho cuộc hội nhập thế giới trong ki nguyên thông tin. Nguồn gôc chữ quốc ngừ' CQN là một công trình tập thể khởi đầu từ gần 4 thê ki trước, trong đó nổi lên vai trò quan trọng của nhiều linh mục người Âu như Francesco de Pina (1585-1625), Gaspar de Amaral (1594-1646), Antonio Barbosa (1594-1647), Alexandre de Rhodes (1591 -1660)2, với sự hợp tác của các trợ giáng và nho sinh tín hữu ở cả hai miền Bắc Nam, đáng tiếc chỉ được ghi lại tên thánh chứ không đầy đủ tên họ Việt (vì sợ khùng bố đạo Kitô ngày đó?). Trước khi đến Việt Nam vào năm 1615, Hội truyền giáo Dòng Tên’ (S.c. de Propaganda Fide) có TB tiêu chuẳn hoả CNTT Việt Nam. ' Xem thêm bài “Lược sử chữ quốc ngữ’, http://donqtac.net • Xem thêm bài “Alexandre de Rhodes", Đông Tỉnh, http://donqtac.net ' Do Giảo hoàng thành lâp vào nâm 1541. Xem thêm bài “Dòng Tên” , c. Nguyễn, http://donqtac.net 53 nghiên cứu nhiều năm về ngữ âm tiếng Nhật và đã xuất bản các từ điển liên quan4. Alexandre de Rhodes trở vế Roma khi các linh mục nói trên không còn nữa. Dựa trên kết quá của cả nhóm, ông đã biên tập, bổ sung phần Latinh và cho in 'Từ điển Việt-Bồ-Latinh"5 năm 1651 mà bài diễn giáng vắn tắt về tiếng Đàng Ngoài trong từ điển này có thể coi như tài liệu khảo cứu ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên. Một cuốn sách khác cũng in ở Roma, "Phép giảng tám ngàv cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào Đạo Thánh Đức Chúa Trời"6, có lẽ là giáo trình íhứ nhất viết bằng CQN, phán ánh tiếng Việt giữa thế kỉ XVII dưới dạng còn khó đọc. Sau khi CQN ra đời, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chữ Nôm và chữ Hán vẫn là phương tiện truyền giáo chủ yếu trong khoáng 200 năm. Trong bàn thảo 'Từ điển Việt-Latinlì" viết xong nãm 1772 với những lựa chọn và cải tiến của giám mục Pháp Pigneau dc Béhaine (Bá Đa Lộc) - được giám mục Taberd7 biên tập và đem in ở Ân Độ năm 1838 - tự dạng CQN dã định hình gần như hiện nay, nhưng đến giữa thế kỉ XIX, dường như CQN vẫn chưa ra khỏi phạm vi giới linh mục Kitỏ giáo. Thực dân Pháp xâm lược và bát đầu khai thác Việt Nam* • Năm 1858, thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng và sau đó là Sài Gòn (1859). Năm 1862, chúng chiếm được ba tính miền Đông của 4 "Dictionnarium Latino- Lusilanum ac Japonicum ex Ambrosii Calepini volumine depromptum", Amacusa, 1595; và "Vocabulario da Lingoa de Japam com a declaracã em Portuguez", Nangasaqui, 1603. A. Rhodes: "Dictionnarium annamiticum. lusitanum et latinum", Roma, s.c. de Propaganda Fide, 1651. ” A. Rhodes: "Catechismus pro ijs, quyvolunt suscipere Baptismum, in octo dies divisus", Roma, s.c. de Propaganda Fide, 1651. Nam Việt-Dương Hiêp Tư vi, "Dictionarium anamitico-latinum" primitus inceptum ab P. J. Pigneaux, episcopo adranensi, vicario apostolico Cocincinae &c ; dein absoiutum et editum a I. L. Taberd, episcopo isauropolitano, vicario apostolico Cocincinae. Serampore, Ex Typis J. c. Marshman, 1838. 8 “1885: le tournant colonial de la R publique. Jules Ferry contre Georges Clemenceau, et autres affontements parlementaires sur la conquête coloniale", NXB La Découverte, 4-2006. 54 Nam Bộ. năm 1867, chiếm nốt ba tinh niicn Tây, cử Thông sứ cai trị Nam Kì thuộc địa. • Tháng 12-1873, Pháp chiếm Hà Nội lần thứ nhất. Tháng 9-1876, tại Hội nghị Địa lí tại Bruxelles (Bi), 5 đê quốc gồm Pháp, Đức, Áo - Hung, Ý, Nga bát đầu vạch hiên giới thuộc địa trên bán đồ thế giới. Nhóm họp Đại hội Berlin trong 1 tháng (từ 13-6 đến 13-7-1878) để chia chác thuộc địa. K-li - Phái đoàn Phan Thanh Giản trinh uỷ nhièm thư để điều đình với Pháp trên tàu Duperré Ngày 28-7-1862 hồi 15 giờ Mỏt bèn là Phan Thanh Giản, Thương thư bô Binh, gần 70 tuổi, và Thương thư bỏ Hình, trên 80 tuổi, cả hai râu đều bac trắng Mòt bèn là Thuỷ sư đò đốc Chamer và Đai tá Palanca uỷ nhiêm thư boc giấy kim nhũ, đăt trong một cái hôp sơn son thiếp vàng, lót lua đỏ. • Tháng 4-1882, Pháp chiếm Hà Nội lẩn thứ hai và Pháp giành quyền báo hộ ở Trung Bộ, Rắc Bộ (25-8-1883), bổ nhiệm Thống sứ Trung-Bắc Kì là P.R. Lemaire. đến 1885 thay bằng P.R. de Courcy. • Trong một năm các quan đại thần Huế lập rồi giết 3 vua trước khi Hàm Nghi lên ngôi (7-1884). Từ 15-11-1884 đến 26-2-1885, Đại hội Berlin lần 2 họp dài hơn 2 tháng chia chác lại thuộc địa. • Ngày 5-7-1885, vua Hàm Nghi đánh úp Pháp không xong, vào rừng kêu gọi Cần vương. • Năm 1886, GS Paul Bert cựu Bộ trưởng Giáo dục thay P.R. de Courcy làm Thòng sứTrung-Bắc Kì. 55 • Tháng 10-1887, Pháp lập Liên bang Đông Dương. Bắt đầu khai mó than lộ thiên ở Hòn Gai. • Năm 1888, Toàn quyền Đông Dương E.Richaud bãl Hàm Nghi đày đi Algérie, ép vua Đồng Khánh nhượng đất Hà Nội, Hải Phòne, Đà Nẵng. • Năm 1889. Pháp độc quyền thuốc phiện, muôi và rượu ở Đông Dương. Thành Thái lên ngôi lúc 10 tuổi. • Năm 1891, GS J.-L. de Lanessan (phái ôn hoà) làm Toàn quyền Đông Dương (đến 1894). • Năm 1893, Hội nghị Bangkok họp ngày 3-10-1893 phân các vùng ảnh hường của Anh, Pháp ở Viễn Đông: Pháp sáp nhập Lào vào Liên bang Đông Dương, Anh chiếm Thái Lan. • Ngày 30-5-1894, Pháp thành lập Bộ Thuộc địa. Nãm 1895, cử P.A. Rousseau làm Toàn quyền Đòng Dương. • Nãm 1897, Paul Doumer làm Toàn quyền Đông Dương, lập đồn điển cao su, xây cầu Long Biên và đường xe lứa xuyên Việt. • Năm 1902, Paul Beau làm Toàn quyền Đông Dương, chú trọng giáo dục, y tế. • Tháng 3-1907, thành lập Trường ĐKNT, mới đến tháng 12 đã bị Pháp đóng cửa. Vua Thành Thái bị phế truất (9-1907), Pháp đưa Duy Tân lên ngôi lúc 8 tuổi. • Năm 1908, Toàn quyền Đông Dương A. Klubukovvski (phái bảo thú) đàn áp tàn bạo ĐKNT và yêu cầu Nhật trục xuất những người tham gia Đỏng Du. Phong trào Duy tân nổ ra ở Trung Kì... Quá trình phổ biến chữ quốc ngữ thời Pháp thuộc Sau khi chiếm Việt Nam, Pháp thấy chữ quốc ngữ trở nên cần thiết cho việc thay nền hành chính nhà Nguyễn dựa trên chữ Hán và đã dần dần quy định hằng nhiéu ván hàn để đặt nó vào vị trí thứ hai sau tiêng Pháp4 như sau: ' Văn khô Pháp: cõng vàn của Thống sứ Nam Ki, rối Toàn quyền Đỏng Dương và các quan chức khác ngoài Bỏ trưởng. 1861-1911 Ref. FR C A O M GGI B 220. 56 • Ngày 14-11-1874, Đỏ đốc Hài quân-Thống soái Nam Kì Francois Krantz kí nghị định mở Trường Chasseloup-Laubat (ten Bộ trướng Hái quàn Pháp) ờ Sài Gòn đế dạy liếng Pháp và chữ quốc ngữ cho con em cùa quan chức người Pháp và người Việt đang cai trị Nam Kì. • Ngày 6-4-1878, Đô đốc Hải quân-Thống soái Nam Kì Louis Lafont ra nghị định sô 82 bắt buộc các công văn, thư từ hành chính phải viết bằng chữ quốc ngữ thay vì chữ Hán hay chữ Nôm. • Ngày 17-3-1879, Louis Lafont thiết lập Sở Học chánh Nam Kì và đặt chương trình giáo dục hệ Pháp-Việt đầu tiên ở Nam Kì. • Ngày 18-11-1896, Toàn quyền Đông Dương Paul Armand Rousseau kí nghị định mớ Trường Quốc học Huế ở Trung Kì. • Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer kí sắc luật đưa chữ quốc ngữ vào các kì thi, nhưng mãi 11 năm sau (1909) mới được áp dụng. • Ngày 27-4-1904, Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ra nghị định thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp-Việt ở Bắc Kì. 57 • Tháng 5-1906, dụ của vua Thành Thái về tổ chức giáo dục hệ 3 cấp cho bán xứ được một nghị định của Paul Beau phê chuẩn: ở cấp I, học sinh học cả chữ Hán và chữ quốc ngữ; lên cấp II chi còn học chữ Hán, chữ quốc ngữ và một phần tiếng Pháp không bắt buộc; đến cấp III thì cá ba thứ chữ đều bắt buộc học như nhau. Tư tưưnịỉ và hành động của Đòng Kinh nghĩa thục Khi thực dân Pháp mới sang, thái độ tự nhiên của đa số những người yêu nước Việt Nam là chống đối hoặc bất hợp tác và từ căm thù đi đốn tẩy chay mọi biểu hiện văn hoá phương Tây. Dù Tổ quốc bị phong kiến Trung Quốc xâm lược nhiều lần, triều Huế vẫn coi văn minh Hoa Hạ là mẫu mực. Những người cực đoan còn kết luận đơn gián Tây là giông dã man vì không đổng văn (cùng theo Nho giáo) và đổng chủng (cùng da vàng) với ta, quên rằng nếu thế thì Phật cũng mọi rợ. Nhiều người chỉ phiến diện đánh giá vãn minh Pháp qua hành động hại nước của lũ tay sai thực dân, xem nhẹ cổng lao phố biến tri thức cửa Trương Vĩnh Ký. Huỳnh Tịnh Của và các học giả khác. Tư liệu10 cho biết rằng cụ Nguyễn Đình Chiểu không dùng các sản phấm công nghiệp Pháp, thậm chí còn cấm con cháu và người nhà dùng xà phòng; cụ nghè Nguyễn Ngọc Liên bắt gia dinh tiếp tục búi tó và không dùng máy khâu để may áo quần; năm 1886 cụ á nguycn Phạm Ngọc Chất, tri phú Tĩnh Gia (Thanh Hoá) chi đốt đèn dầu lạc đê đọc sách ban tối, đến tận nãm 1891 cụ nghè Đặng Hữu Dương, án sát Hà Nội và cụ phó báng Nguyễn Âu Chuyên, bỏ chánh Bắc Ninh dự tiệc Tây về vẫn lên án khiêu vũ khơi động tình dục bất chính (trong khi cô đầu, thuốc phiện được cho là cao sang!) v.v... Nhắc như thế đế thấy những tư tướng và hành động ngay đầu thê ki XX của các vị lãnh đạo phong trào ĐKNT là tiến bộ và dũng cám trước số đông thú cựu. Các sĩ phu thức thời này không chi chống thực dân Pháp mà còn chỏng triều đình bù nhìn và sự mê tín ngu dốt. Các cụ nêu tấm gương chói lọi về chí tự chủ tự cường nhằm đưa đất nước 10 Đặng Hữu Thụ: "Làng Hành Thiện thời Tây học cho đến năm 1954". Paris 1999. 58 tiến lòn. với ý thức tiếp ihu thành tựu phương Tây, chống phong kiến nhưng gìn giữ những tinh hoa vãn hoá cùa Việt Nam. Những nét chú yếu vé tư tưởng tiên phong và hành động thiết thực đổi mới xã hội của ĐKNT bao gồm: Tìm tòi. phân tích và đánh giá các nguyên nhân chủ quan, khách quan đang làm yếu hèn giông nòi, trì trệ đất nước. Mớ cửa thông ra quốc tế. chọn lọc các tiến bộ bên ngoài và những truyền thống tốt đẹp của Việt Nam. Đi ngược các chính sách nau dân và phán động. Kêu gọi cải cách dân chù liên lục, không nóng vội “đốt cháy các giai đoạn lịch sử”. Chú trọng phát triển C ỏ n2 nghiệp, thương mại đi đôi với phát triển con người. Ưu tiên thực nghiệp, thực học và phê phán lối học khoa cử giáo điều. Khời xướng xã hội hoá giáo dục. Mở các trường tư thục kiêu mới đê tự thực hiện chương trình giáo dục với nội dung thực tiễn phù hợp từng lứa tuổi và tầng lớp người, gắn với mục tiêu “nâng cao dân trí, bổi dưỡng nhân tài”. Chú trương tôn trọng pháp quyền và bình đảng nam nữ. Mưu cầu các thành tựu vật chất, khoa học và nghệ thuật của ta sẽ làm dân tộc trường tồn bất diệt. Nêu rõ lịch sử giành độc lập, báo vệ và chấn hưng đất nước của tổ tiên và các dân tộc để làm tấm gương noi theo, v.v... Các vị sáng lập trường ĐKNT đã tiến hành đầy đủ mọi khâu chuẩn bị và thậm chí bắt đầu mở lớp ngay sau Tết, 2 tháng trước khi thực dân Pháp đồng ý cấp giấy phép hoạt động. Các vị chủ động lợi dụng việc Toàn quyén Đông Dương khi đó là Paul Beau đã khá quan tâm đến giáo dục nhằm đào tạo thêm các viên chức bản xứ. Nếu chi tuyển dụng viên chức từ chính quốc thì sẽ rất khó khăn và tốn kém (số viên chức người Pháp ở Đòng Dương năm 1906 đã là 4390 người). Paul Beau sau khi nhận nhiệm vụ đã lập ra Nha Học chính Đông Dương (cuối năm 1903), rồi Đại học Đông Dương (giữa năm 1906) “có nhiệm vụ phổ biến ở Viễn Đông, chú yếu thông qua tiếng Pháp, những kiến thức và phương pháp của châu Âu” 11. Phái thực dân bảo thú đã chí trích ngay kế hoạch này, coi đó là một sai lầm tày trời . Tuy nhiên, những hoạt động cùa Paul Beau và một số người tiền nhiệm ôn hoà, mặc dù có mục tiêu đào tạo tay sai củng cô ách đỏ hộ, nhưng thực chất cũng lại làm cho nhiều nhà nho trẻ thức tinh và thấy có thời cơ thực hiện chân hirng vãn hoá dân tộc cho rộng rãi nhân dân. Những áng thơ văn và sách giáo khoa cùa ĐKNT, bên cạnh việc cung cấp nhiều hiểu biết thực tế mới mẻ, lại còn khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước và căm thù giặc ấp ủ trong dân ta. Vai trò chữ quốc ngữ trong Đỏng Kinh nghía thục Cuối thế kí XIX, đế quốc Pháp đã hoàn thành cuộc xâm lăng của mình và bắt đầu ổ ạt khai thác tài nguyên trên toàn bộ cõi Đông Dương. CQN thực tế đã ra đời từ rất lâu, nhưng bấy giờ mới bắt đầu được sử dụng chính thức tại Việt Nam dưới sự thông trị và áp đặt của chính quycn thực dân. Là thứ chữ dề học nhất, CQN đã nhanh chóng thay thê chữ Nỏm, vượt ra khỏi khu vực quan lại, tìm đến các tầng lớp xã hội có mức sống cao, thòng qua văn chương báo chí, trước hết ở Nam Kì. Vần chi được đứng dưới chữ Pháp và chữ Hán, còn phải mất vài chục năm sau thì CQN mới thực sự lan toả từ giới trí thức và thị dãn sang đại đa sô đồng bào ta. 11 Trích Điều 1 Nghị định 1514A ngày 16-5-1906 về việc thành lập Đai học Đống Dương (Vàn khố Pháp). 60 ì chú cai 5 /7 s c r ỉ ct c (fẲ 4 /i .£ ym m .4> " 'I A) Ấ 4i ,v- 7 chư.' cvtn 6 Cl XI M 6 .£ t x> V- .O ' 44 , ' t l ’ "Vail fsaroCj 7 Jò |, \, v.v. 63 VẤN DỂ GIÁO DỤC QUỐC DẬN TRONG ĐUỪNG LÕI DUY TẮN cửu NƯỚC CỦA ĐỐNG kin h n gh ĩa th ụ cm Nguyễn Đại Đồng Cách đây 100 nãm. các nhà sáng lập Đ ôns Kinh nghĩa thục (ĐKNT) khi quyết định đường lỏi duy tàn cứu nước cúa tổ chức này đã lựa chọn giáo dục quốc dân (GDQD) là một nội dung quan trọng trong các biện pháp đấu tranh công khai hợp pháp nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là giái phóng nước nhà khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. 1. Điếm xuất phát của tư tương giáo dục quòc dàn Khi đề xuất tư tưởng GDQD, các nhà sáng lập ĐKNT đã cân cứ vào những nhận thức sau đây: 1- Nước ta sờ dĩ mất vào tay thực dân Pháp là do dỏng đáo dân ta chưa nhất tề chống xâm lược mà coi đó là việc cùa triều đình vua quan; 2 - Chi khi nào toàn dân đều yêu nước và một lòng đứng lên chống ngoại xâm thì nước ta mới có cơ thoát khỏi ách cai trị của giặc Pháp; 3 - Muốn như vậy, trước hết phái thức tỉnh quốc dân, dạy cho họ biết mình có quyền lợi và nghĩa vụ gì đối với đất nước, nghĩa là tiến hành giáo dục quốc dân. Quốc (lân độc bán (sách giáo khoa chính của ĐKNT) viết: “Dân nước ta không có quyền chính trị. Dân ta không biết nước là gì. nghe ai bàn việc nước thì bịt tai bỏ chạy. Than ôi, không gì lo hơn mất nước. Dân nước văn minh xem việc nước như việc nhà. Nước mạnh thì dân mừng, yếu thì dân lo. Hãy làm cho nước ta ngày càng văn minh, kế ấy là của nước, cũng là của bán thân ta”. Hái ngoại huyết thư cúa Phan Bội Châu phân tích hai lí do làm ta mất nước: Nhà nghiên cứu Lích sử Hà Nội. 64 Một là vua. sự dân chắiìíỊ biết. Hai là quan chẳníỊ thiết IỊÌ dân. Ba là dân chi biết dàn. Mặc quán với quốc, mặc thần với ai. Đúng vậy, khi người dân không được hưởng bất cứ quyền lợi gì thì họ cũng chẳng quan tâm đến sự an nguy của Tổ quốc, như thế thì sao không mất nước vào tay quân xâm lược hùng mạnh? Suy cho tới cùng, nguyên nhân sâu xa khiên ta thua Pháp là do dân trí thấp. Trong hàng nghìn năm dưới chê độ phong kiến, người dân chưa bao giờ được học những tri thức tỏi thiểu như chữ viết, các thường thức về đời sông, nói gì đến kiến thức chính trị, quvển lợi và nghĩa vụ của dân đỏi với nước nhà. Nói cách khác, sự lạc hậu về văn hóa giáo dục đã dẫn đến lạc hậu về tư tưởng, làm cho dân ngu nước yếu. Tấm gương Nhật Bản cho thày tuy lúc dầu họ cũng lạc hậu như ta, nhưng do coi trọng giáo dục quốc dân và tiếp thu văn minh phương Tây nên dân trí nâng cao rất nhanh; nhờ thế cuộc Duy tân Minh Trị tiên hành thuận lợi, Nhật nhanh chóng hùng mạnh, chẳng những không bị nước ngoài xâm chiếm mà còn đánh thắng các nước lớn khác, trở thành cường quốc mạnh nhất châu Á. Tỉ lệ biết chữ của dân Nhật vào giữa thế ki XIX là 30%, trong nam giới là 50% \ còn ở nước ta có lõ chưa đạt 1%. Quốc dân dộc bàn so sánh: “Nước Nhật chi có 43 huvện mà có 26.824 trường ticu học. Nước ta hơn 30 tính, hơn 500 huyện mà chưa nghe ai nói tới mở trường. Than ôi! Chẳng phải là đáng giận lãm sao ?” Giáo dục Nhặt phát triển cao như thế là nhờ có đường loi đúng. Một thí dụ: khi được Trung Quốc bổi thường 200 triệu lạng bạc (do Nhật tháng cuộc chic'll tranh 1894), vua Nhật ra lệnh dùng toàn bộ sô tiền này vào việc xây dựng trường học, sao cho không vùng hẻo lánh nào không có trường học, phần lớn dân được phổ cập giáo dục tiểu học. Nhờ dân trí cao nên người Nhật dễ dàng đồng tâm nhất trí bỏ nền giáo dục khoa cử Nho giáo, chuyển sang học văn minh phương Tây, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ’ Theo “Phúc ông lư truyện": NXB Thế giới, Hà Nội, 2005. 65 Các sĩ phu ĐKNT hiểu được việc cần làm trước tiên là nâng cao dân trí. Văn minh tân học sách (sách có tính chất cương lĩnh của ĐKNT) viết: muốn nước mình cũng văn minh và giàu mạnh như Nhật Bản, thì ta “phải nhờ có một chú nghĩa lớn ... là chú nghĩa mở trí khôn cho nhân dân”. 2. Nội dung tư tưửng giáo dục quốc dân của ĐKNT Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, ĐKNT bắt tay xây dựng một nền giáo dục hoàn toàn mới nhằm thực hiện mục tiêu chính trị giải phóng dân tộc ta ra khói ách xâm lược. Đây thực sự là một cuộc cách mạng giáo dục trên tất cả các lĩnli vực: dối tượng và mục tiêu giáo (lục, nội dung giáo dục và phương pháp qiáo dục. Các nhà sáng lập ĐKNT chủ trương: để nâng cao dân trí thì phải dạv dân học; song không thể áp dụng cách dạy và học trong nén giáo dục Nho giáo tồn tại hàng nghìn nãm qua ở ta. Trong nền cựu học, người đi học không phái đê trau dồi các kiến thức có ích cho sự phát triển cá nhân và xã hội, mà chí học thuộc lòng một mớ kiến thức vãn, sứ, triết học Trung Quốc có từ mấy nghìn nãm trước, không đổi mới theo tiến trình lịch sử, vô ích cho việc nâng cao dân trí, mớ mang nước nhà. Học chỉ cốt đê đi thi, vì nếu thi đỗ thì có danh vọng (khoa danh), kiểu giáo dục ấy chỉ đào tạo một nhúm nhỏ người làm quan mà thôi. Quốc dân độc bán viết: “Nền giáo dục cùa nước ta (trước đây) đặt đạo đức lên đầu, định phân trên dưới, xem trí nâng là thứ yếu, cho nên không nói đến giáo dục quốc dân ... chí ai có chí làm công khanh đại phu mới học”. Nghĩa là nền cựu học trước hết dạy mọi người thứ “đạo đức” tuân thủ trật tự Nho giáo nhàm duy trì chính quyển phong kiến, tộc quyền, thần quyền và phu quyền (quyền của đàn ông), chứ không dạy họ các tri thức có ích cho bản thân họ và cho xã hội, ngược lại còn kìm hãm sự phát triển của cá nhân và xã hội. Dân chiếm số đông nhất lại không được học nên suốt đời ngu dốt. chỉ biết làm nô lệ. Một giáo sư ĐKNT viết: “Nước Nam ta bây giờ dốt tệ lắm... Bao nhiêu khổ sở nhục nhằn ở nước Nam ta cũng vì cái dốt mà ra cả”. Trong Bài hát nối về sự ăn uống có đoạn: 66 N íịii s a o ngu t h ế là Ill’ll, Ni>án sao níỊÓn vậy, ngán cho dán mình. Xin ai cũng quyết tình bỏ din. Gương văn minli chém / Có khôn mới dứng dược trong cõi dời." Hình thức thư ca thê lục bát này đã có tác dụng rất lớn trong việc phổ cập các thường thức mọi mặt cho đông đảo quán chúng có trình độ văn hóa thấp. Nhiều hài thơ ca đó được bà con ta truvén miệng nhớ tới thế hệ hiện nay. 3. Suy nghĩ về giáo dục quốc dân trong thời đại hiện nay Đc xuất tư tướng giáo dục quốc dân là một bước tiến lớn trên con đường phát triển nền giáo dục nước ta, thực chất là một cuộc cách mạng giáo dục. Điểm tiến bộ nổi bật nhất trong tư tường GDQD là dổi mới dối nỉựng ỊỊÌáo dục: từ chỗ chi giáo dục một số ít người chuyển sang giáo dục phổ cập cho đại chúng nhân dân. Quốc dán độc bán viết: “Muốn làm cho cá nước vãn minh thì phái có giáo dục phố cập, tức là cá nirớc không một người nào không được đi học. Không thê không cho con cm chúng la được nhận một nền giáo dục hợp pháp. I ỉ ọc là để có ích cho bán thân mình và cho quốc gia, xã hội”. Quan niệm trên của ĐKNT hoàn toàn phù hợp với định nghĩa giáo dục thời nay: giáo dục là quá trình học tập vì sự phát triển của cá nhân và xã hội thông qua việc truyền đạt tri thức, thực hành tri thức ... Hệ thõng giáo dục phố cập bắt buộc và giáo dục cộng đồng hiện được cá thế giới coi trọng phát triển chính là hệ thống giáo dục quốc dân của ĐKNT. Hệ thống đó đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện mục tiêu hiện đại hóa một quốc gia. Hiện nay, Việt Nam ta mới thực hiện giáo dục phổ cập lớp 7. Chúng ta nhất thiết phái tiến tới phổ cập giáo dục phổ thông trung học. Tỉ lệ dân biết chữ và tí lệ tré em được hưởng giáo dục phổ cập là tiêu chuẩn đánh giá trình độ văn minh, hiện đại cùa một quốc gia. Một nước có nhiéu nhà khoa học giói mà đa sô dân vẫn mù chữ hoặc không được hưởng giáo dục phổ cập thì 71 nước đó khó mà tiến lên văn minh hiện đại được. Ấn Độ là một thí dụ điển hình. Phương thức dạy học miễn phí của ĐKNT gợi ý chúng ta nên cô gắng giảm tới mức tôi thiếu mọi chi phí của người dân khi học ở các cấp giáo dục phổ cập bắt buộc, trước hết là nông dân. Từ năm nay, Trung Quốc đã thi hành chính sách miễn tất cả các “tạp phí” cho con em nông dân học tiếu học, toàn bộ sách giáo khoa đều phát không cho họ. Học giả Chương Thâu nhận xét: Lần đầu tiên trong lịch sử, ĐKNT đã thành công tách rời thi cứ ra khỏi giáo dục - một vấn đề hiện nay vẫn còn nóng hối tính thời sự. Rõ ràng, chi có nền giáo dục quốc dân mới thực hiện được việc đó. Học viên Trường ĐKNT đi học không cần thi cử nhưne người ta vẫn say sưa học, vì học là có lợi cho mình, cho nước. Từ đó suy ra phải chăng chúng ta có thê đặt vấn đề bỏ thi cử ở các bậc giáo dục phổ cập? So sánh tư tưởng giáo dục quốc dân do các yếu nhân ĐKNT đề xuất cách đây 100 năm với tư tưởng giáo dục hiện đại, chúng ta càng thấy tổ tiên ta thật là sáng suốt, nhìn xa trông rộng. Tự hào vì các bậc tiền bối của mình, chúng ta càng quyết tâm tiến trên con đường đáy mạnh sự nghiệp phổ cập giáo dục toàn dân cúa Nhà nước ta. 72 Hồ CHÍ MINH KHỞI OẦU XÂY DỤNG NỀN GIÁO DỤC QUỐC DÃN VIỆT NAM PGS. Lê Mậu Hãn' 1. Người Việt Nam rất hiếu học. Trong mọi tầng lớp xã hội Việt Nam, người sĩ phu chiếm vị trí hàng đầu. Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Có con cháu học giỏi, thành tài là một vinh hạnh lớn đối với ông bà, cha mẹ. Cho nên dù nghèo khó đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm cách cho con cái được học hành đến nơi đến chôn. Nguyễn Ái Quốc đã từng nói: “Nửa bụng chữ bằng một hũ vàng” là một câu tục ngữ biểu hiện nhiệt tình ham muôn có học thức của dán tộc An Nam” 1. Học đê biết, trước hết đê biết làm người - biết trọng đạo lí làm người, có ý chí độc lập và khát vọng tự do là bán sắc cao đẹp. dòng chú lưu xuyên suốt trong nguồn giá trị tư tưởng văn hoá truyền thông của dân tộc Việt Nam. Bàn về giá trị của bản sắc văn hoá đó, Lê Duẩn đã nhấn mạnh: “Có lẽ do biết coi trọng đạo lí làm người và biết làm người mà dân tộc Việt Nam ta đã đấu tranh tồn tại được và trưởng thành nên một dân tộc độc lập, một quốc gia độc lập”. Đạo lí làm người đó đã hun đúc nên dân tộc Việt Nam và tạo cho dàn tộc ta một sức sông mãnh liệt và cũng nhờ thế mà ngày nay chúng ta mới có được những trang lịch sử vỏ cùng oanh liệt và vẻ vang”2. Tìr khi đến xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã tìm mọi cách để chà đạp nền tư tưởng văn hoá truyền thống của ta, thực hiện chính sách ngu dân - một trong những phương pháp độc ác để đễ bề cai trị chúng ta. Họ đã bó hệ thống giáo dục cũ, lập ra một hệ thống trường học mới nhằm phục vụ chính sách thông trị nô dịch của họ đối với ta. Ở bậc Trường ĐHKHXHNV, Đ H Q G HN. ' Hố Chí Minh: Toàn tập, NXB CTQG. H. 1995, Tâp 1, tr. 398. 2 Lẽ Duẩn: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ỏ Việt Nam, NXB ST. H. 1976, Tập 1, tr. 168. 73 giáo dục sơ đẳng, thực dân Pháp đã lập ra một số rất ít ỏi trường học. Mục đích của các trường học đó là gì ? Nguyễn Ái Quốc vạch rõ: “Trường học lập ra không phái để giáo dục cho thanh niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển lư tướng cho họ. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tuv phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ sô cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược - người ta gieo rắc một nền giáo dục đổi bại, xào trá và nguv hiểm hơn cả sự dốt nát nữa. vì một nền giáo dục... chí dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên vêu một Tổ quốc không phái là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh ré nguồn gốc dòng giống mình... Nói tóm lại, trường học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó”3. Còn ở bậc cao đẳng, đại học thì như thế nào? Chúng ta biết vào đầu thế ki XX, Toàn quyển p. Bcau kí nghị định thành lập Trường Đại học Đông Dương (16-6-1906). Trường đại học đó như thê nào? Các bài diễn văn chính thức và những lớp tuyên truyền ấm ĩ xung quanh trường này có thê sánh với các trường đại học to nhất ở châu Âu! Thực tê năm 1906 không tuyến sinh, không khai giảng được. Đến cuối mới khai giảng được với sỏ sinh viên rất ít ỏi và cũng chí dạy dược một năm rồi bị ngừng lại. Đến nãm 1928 mới bất đầu mở trường trở lại. Tháng 3-1924, Thống đốc Nam Kì vốn là “bỏ đỡ đầu cho các trường Xoócbon Annammit” ấy đã thú nhận rằng hàng năm ông ấy đã “chăm lo đến sự tiến bộ cúa cả dân tộc An Nam; mở trường y khoa và trường đại học ấy rất tốt đò sau này người An Nam có thể thay thê người Pháp trong các chức vụ thứ yếu của công sở”4. Mở Trường Đại học Đông Dưưng còn để lấy cớ ngăn cấm người An Nam xuất dương du học. Chính Albert Sarraut. nguyên Toàn quyền Đông Dương đã nói rõ chính sách bao vây tinh thần ấy bằng những lời sau đây: “Đê cho lớp thượng lưu trí thức được đào tạo ở nước ngoài thoát khỏi vòng kiềm toả của chúng ta, chịu ánh hướng văn hoá và chính trị của nước ' 4 Hổ Chi Minh Toàn tập, Sđd, Tâp 1, tr. 399, tr 400. 74 khác, thì thật là một điều nguy hiểm vô cùng. Những người trí thức đó trớ về nước đã đưa hết tài năng cùa họ đê tuyên truyền vận động chống lại chúng ti' là những người báo hộ đã ngăn cấm không cho họ học tập”". Chi nhảc lại một sỏ điều trên của Nguyễn Ái Quốc nói về nền giáo dục cứa Pháp ở Việt Nam thực sự là một nền giáo dục nô dịch, chứ không phái nén học ván nhăm mớ mang trí tuệ, phát triển tư tưởng cho người Việt Nam, càng không phái như có người đã ngộ nhận hay cô ý minh chứng trường đại học cùa Pháp ở Đông Dương đã đào tạo cho Việt Nam những lãnh tụ cách mạng xuất sắc! Nhân đây xin nhắc lại tóm tắt một máu chuyện về việc Nguyễn An Ninh được mời gặp Thòng dốc Nam Kì là Cognacq và tên mật thám Arnoux sau khi Nguyễn An Ninh đã diễn thuyết về lí tướng cúa thanh niên An Nam (Idéal de la ieunesse Annamite) đêm 15-1-1923 tại Hội khuycn học Nam Kì. Cognacq nói với Nguyễn An Ninh: Anh đã nói về một nhà triết học. một ông thông thái, một nhà thư, một anh hoạ sĩ, hoặc giả một danh ca... Nguyền An Ninh nói lại: Ong Thống đốc đã đê ý đến những điểu tỏi đã nói ihuần luý tri thức... Coịịtuicq nói giọng sác bén và trực đoán: Khõng cần phái có tri thức ở trong nước này. Nước này quá là đơn gián. Nếu anh muốn làm tri thức, thì mời anh hãy sang Moscou. Anh sẽ được biết rằng những hạt giông mà anh định gieo trong nước này sẽ không bao giờ mọc mầm được. Và anh sẽ biết ràng với bất cứ ở đâu. nơi nào mà anh sẽ đi đến. anh sẽ phải gặp đến người của chúng tôi. Arnoux (phụ hoạ đê kích động cơn phẫn nộ cùa Cognacq): Thanh niên thực sự không nên nói đến Tổ quốc, không ncn nói đến chủ nghĩa ycu nước. Có phải chăng đây là tư tưởng cộng sản... Cognacq nói tiếp: Từ nay trớ đi. anh không được diễn thuyết hay tụ họp ớ đâu và kể cả ở Hội khuyến học Nam Kì. Hổ Chí Minh Toàn tập, Sđd, Tập 1, tr 401. 75 Arnou.x: Vâng, vâng. Nó sẽ phải bị đóng cửa...6. Phải đóng cửa Hội khuyên học Nam Kì, cấm phổ biến tri thức nhân loại, cũng như đã dóng cửa Trường Đông Kinh nghía thục tháng 12-1907 vốn !à bản chất chính sách nô dịch Vịêt Nam của thực dân Pháp. 2. Để báo vệ và phát triển đạo lí làm người, ý chí độc lập và khát vọng tự do của mình, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đứng dậy đấu tranh bàng mọi phương thức quăn sự, chính trị, tư tưởng, văn hoá... khác nhau: người trước ngã. người sau kế tiếp. Trong bối cảnh chung đó của đất nước, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã dấn thân đi đến nhiều quốc gia trên thế giới, nghiên cứu, học hỏi đê tìm một giải pháp cứu nước phù hợp với nhu cầu tiến hoá dân tộc và xu thế của thời đại, thực hiện một khát vọng nóng bòng của Người là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập. dân ta được hoàn toàn tự do, đổng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai c ũ n g d ư ợ c h ọ c h à n h . Kế thừa và phát triển nguồn giá trị tư tưởng vãn hoà và giữ gìn đạo lí làm người, ý chí độc lập và khát vọng tự do của dàn tộc, tiếp thu và tổng hoà biện chứng nguồn giá trị ttr tưởng văn hoá truyền thống của dân tộc với tinh hoa tư tưởng văn hoá của nhân loại, Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cóng một hệ thống quan điểm cách mạng khoa học, toàn diện và sáng tạo mang tầm vóc một học thuyết giải phóng và phát triển vì độc lập, tự do cúa dân tộc Việt Nam. Cùng với chú nghĩa Mác - Lênin, học thuyết cách mạng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng kim chi nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dựa trên nền táng tư tưởng đó, Đảng Cộng sàn Việt Nam đã xây dựng và phát triển cương lĩnh, chiến lược, các chú trương và chính sách đế tổ chức lãnh đạp cuộc đấu tranh giải phóng và phát triển dân tộc qua từng chặng đường lịch sử cụ thể. Thực hiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Mặt trận Việt Minh đã chuẩn bị lực lượng tiến lên Tổng khởi nghĩa dân tộc tháng 8-1945. Ngay trong đêm trước của cuộc Tổng khởi nghĩa, Hồ Chí Minh đã chủ trì Quốc dán đại hội họp ờ Tân Trào, đã nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đáng, hiệu triệu toàn dân đứng lên giành chính 6 Nguyễn An Ninh, NXB Trẻ, 1996, tr. 477. 76 quvền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập. Cách mạnii tháng Tám thành công trong cả nước. Nước Việt Nam Dân chú Cộng hoà ra đời. Ngày 2-9-1945, Chính phù lâm thời nước Việt Nam Dân chú Cộng hoà trịnh trọng tuyên bô với thè giới: “Nước Việt Nam có quyền hưàiìg tự do và dộc lập và sự thật (tã trờ thành một nước tự do và dộc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam qmểt dem tất cá tinli thần vù lực lượng, tính mạng \'ù của cái đế giữ vừng quyền tự do và dộc lập ấy"1. Đế báo vệ độc lập tự đo vừa mới giành được, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điểu hành Chính phủ triển khai hoạt động trên tất cả các mặt chính trị. ngoại giao, quân sự. kinh tế, tài chính, văn hoá giáo dục... Xây dựng nền giáo dục quốc dân, phát triển giáo dục phổ thông, đào tạo nhân tài, trước hết là chỏng nạn mù chữ là một nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Chú tịch Hổ Chí Minh đã điều hành Chính phú triển khai hoạt động trên tất cả các mặt chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, văn hoá giáo dục... Xây dựng nền giáo dục quốc dân, phát triển giáo dục phổ thông, đào tạo nhân tài, trước hết là chông nạn mù chữ là một nhiệm vụ cấp bách của Chính phú. Chù tịch Hồ Chí Minh nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, Người đã đề nghị Chính phú mở một chiến dịch chống nạn mù chữ với phương châm: những người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ. Bình dân học vụ đã trớ thành một phong trào quần chúng sỏi nổi và rộng khắp. Chí trong vòng một nãm kể từ sau khi phát động chông nạn mù chữ, chúng ta đã mở được 75 805 lớp bình dán học vụ vói 97 664 người tham gia dạy và hơn 2,5 triệu hoc viên đã tham gia học. Tiếp đến những năm kháng chiến gian khổ, phong trào bình dân học vụ vẫn được mở rộng. Tính đến cuối 1950 có 7 500 thôn thuộc 150 xã trong 84 huyện của 19 tinh đã hoàn thành xoá nạn mù chữ và đến năm 1952 có khoảng 14 triệu người đã thoát khỏi nạn mù chữ. Các lớp bố túc văn hoá cũng được tổ chức đê nâng cao trình độ học văn hoá cho nhân dán và cán bộ các cơ quan đoàn thể. Phong irào bình dàn học vụ đã đạt được những thành Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Báo Cứu quốc, sô 36 ngày 5-9-1945. 77 tựu lớn. Cùng với cuộc đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, Chú tịch Hồ Chí Minh đã quyết định cho khai giảng các trường từ phổ thông đốn cao đẳng, đại học, đồng thời chuán bị chương trình cải cách giáo dục và từng hước xây dựng nền giáo dục mới của dân tộc. Chù tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng hệ giáo dục phổ thông thành một nền giáo dục đại chúng và đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển thê hệ trẻ Việt Nam thành những công dân hữu ích của một nước độc lập tự do. Trong thư gửi cho các em học sinh nhân ngày khai trường tháng 9-1945, Chú tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Non sông Việt Nam có trử nên iươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em . Tất cả các cấp học sau khai giáng đã được dạy và học tốt với ý thức phụng sự Tố quóc, phục vụ nhán dán. Năm học 1945-1946 ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã mờ được 51 954 trường tiểu học với 206 784 học sinh và 25 trường trung học với 7 514 học sinh. Tiếp theo trong thời gian kháng chiến toàn quốc, các trường phổ thông không chỉ được tiếp tục dạy và học ở trong các vùng tự do mà còn được tổ chức trong các vùng căn cứ du kích ở Bình Trị Thiên, ở Nam Bộ... Đến năm 1953, trong các vùng tự do đã có 769 640 học sinh và đến năm 1956 đã có trcn 1 132 146 học sinh đã đến học các cấp học phố thông. Ớ bậc cao đẳng và đại học. chúng ta đã làm chủ các trường của Đại học Đống Dương đặt ớ Hà Nội. Trước yêu cầu đào tạo nhân tài để phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, Chú tịch Hồ Chí Minh đã quyết định cho khai giảng ngay các trường đại học và cao đẳng vào ngàv 15-11-1945 gồm các Trường Đại học Y khoa. Dược khoa, Nha khoa và các Trường Cao đẳng Khoa học, Cao đẳng Mĩ thuật, Cao đẳng Canh nông, Cao đẳng Thú y đê đón sinh viên trở lại trường học tập. Đặc biệt với tầm nhìn đúng đắn về vai trò của khoa học xã hội và nhân vãn trong đời sống xã hội của một quốc gia độc lập tự do. x Hồ Chi Minh: Toàn tập, Sđd, Tâp 4, tr.33. 78 ngày 10-10-1945, Chú tịch Hổ Chí Minh đã trực tiếp kí sắc lệnh số 45/SL thành lập Trường Đại học Văn khoa ở Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) do một học giá cách mạng có vòn tri ihức uyên bác về văn hoá có, kim, Đỏng. Tây - Đặng Thai Mai làm giám đốc. Đại học Văn khoa Hà Nội có nhiệm vụ đào tạo giáo sư văn học (tức là khoa học xã hội và nhân văn) cho các trường trung học và nghiên cứu phát triển nền văn học Việt Nam cho xứng đáng với một nước độc lập, để tiến kịp các nước tiên tiến trên toàn cầu. Đại học Văn khoa Hà Nội có các chuyên khoa Triết học, Việt học. Hán học, Sứ học, Địa lí. Trường đào tạo sinh viên ớ bậc đại học được cấp băng cao học và đào tạo để thi lấy bằng văn khoa bác sĩ (Tiến sĩ). Quyết dinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc thành lập Đại học Văn khoa theo sắc lệnh SỐ43/SL ngày 10-10-1945 là một sự kiện trọng đại đánh dấu một mốc son lịch sử ra dời cùa Trường Đại học Khoa học Xã hội vù Nhân vân dầu tiên (lia nước Việt Na nì độc lập. tự do - một cơ sở dào tạo nhản tài mang tám vóc lịch sử một trường dại học mang tên Hồ Chí Minh, một nhà văn hoá lớn - văn hoá Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minli mà từ rất sớm “từ Nguyễn Ái Quốc díĩ tod ra một thứ vân htìú, không phải văn hoá châu Âu mà có lẽ lù một nền văn hoá tương lai” đã cảm hoá o. Manjenxtam để ông hạ bút viết điều đó trên báo Ognio (Liên Xô) số 3 ngày 9-12-1923. Chắc chắn rằng, các thế hệ giáo sư, cô giáo, thầy giáo, cán bộ, nhân viên, sinh viên dã qua, hôm nay và mai sau rất vinh hạnh và tự hào dược lủm việc, nghiên cứu và học tập diửri mái trường mang ý nghĩa lịch sử là Trường Đại học nhân văn Hồ Chí Minh. Ngày 15-11-1945, tại cơ sở đại học số nhà 19 Lê Thánh Tông, Hà Nội, lễ khai giảng khoá học đầu tiên của các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam dưới chê độ dân chú cộng hoà đã được tổ chức. Chú tịch Hồ Chí Minh đã đến chú toạ buổi lễ khai giảng. Các quan khách quốc tế ở Hà Nội cũng đã đến dự. Đại học Việt Nam khai giảng ngày 15-11-1945 gồm có các ban (trường) Y khoa, Khoa học, Văn khoa, Chính trị xã hội và Mĩ thuật. 79 Khai giáng các trirờng đại học và cao đẳng ở Hà Nội trong đó có Đại học Vãn khoa là một dịp đê các giáo sư và sinh viên tỏ rõ cho thế giới biết rằng trong thời giờ quan trọng này của tiền đồ Tổ quốc “í/â/í tộc Việt Nam, ngoài công cuộc đẩu tranh bằng xương máu trên chiến địa cũng nỗ lực tham gia vào công cuộc liến triển vân hoú nhân loại. Chúng tôi muôn rằng nền dại học mới này là một lực lưọìig mạnh trong những lực lượng chiên đâu của dân tộc Việt Nam. Chímẹ tỏi muốn nỏ là một thành lnỹ (lê trường kì kháng cliiêh phục vụ lioàn toàn lãnh thổ vả giói phóng tinlì thần cho dân tộc. Cliúng tói là một dân tộc có nghìn năm lịch sử dộc lập vù tự gáy nên một nền văn minh đặc sắc ven bể Thái Bình Dươiiq này”9. Với ý nghĩa đó, lễ khai giâní> cúc trường dụi học và cao dẳng à Hà Nội ngày 15-11-1945 lủ một mốc son lịch sử đánh dấu sự ra dời của nền dại học dân tộc của nước Việt Nam độc lập. tự do. Ngay sau lễ khai giảng, các trường đại học và cao đẳng đã đi vào hoạt động. Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục Vũ Đình Hoè tại phiên họp Hội đồng Chính phú ngày 21-11-1945, tất cả các trường đại học và cao đẳng có 1149 sinh viên chính thức và 270 sinh viên dự thính, trong đó Đại học Văn khoa có 253 sinh viên chính thức. Tháng 12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tất cả các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội đều phái di chuyển đến các vùng tự do và phải chuycn hướng về tổ chức và phương thức đào tạo cho phù hợp với hoàn cánh kháng chiến... Đánh giá về tổ chức hoạt động cua nền giáo dục dân tộc của nước Việt Nam ngay trong bước khới đầu cùa nước Việt Nam Dàn chú Cộng hoà. Chú tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta dã làm được nhiều việc về giáo dục, làm hơn hẳn người Pháp” "’. 3. Nền giáo dục quốc dân Việt Nam ngay từ năm đầu của nền cộng hoà dân chú dã có một sự biến đổi khá toàn diện về tính chất và tố chức. Phong trào bình dân học vụ đã tổ chức được hàng chục ngàn lớp học và hàng triệu người đến lớp học tập. Ờ các bậc từ tiểu học đến ' Nguyễn Văn Huyên: Diễn văn đọc tai buổi lễ khai giảng các trường đại hoc Việt Nam ngày 15-11-1945. Xem báo Nhân dân ngày 31-12-2001. 10 Biên bản Hội đồng Chính phủ TTLT Quốc gia III. Hà Nội. 80 trung học, hàng vạn học sinh dã nô nức đến trường với ý thức học đế làm người, làm chủ đất nước, học đê làm cho non sổng Việt Nam trở nên tươi đẹp, sánh vai với các nước lớn trên toàn cầu theo lời dạy của Chù tịch Hồ Chí Minh. Sinh viên đến học ở các trường đại học và cao đảng với ý thức sâu sắc giáo dục là một mặt trận cúa sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, coi các trường đại học và cao đẳng là một lực lượng mạnh để phôi hợp với các chiến sĩ trên trận tuyến quân sự, là một thành luv để trường kì kháng chiến và sẽ tiến bước trên các lĩnh vực khoa học, trước hết là khoa học nhân văn cùng sánh vai với các nước tiên tiến trên toàn câu, xứng danh với một dân tộc có ngàn năm văn hiến. Nén giáo dục quốc dàn của nước Việt Nam Dân chú Cộng hoà phải được xây dựng và phát triển vì sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc cao cá. Chính vì vậy, ngàv 10-8-1946. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh sô 146/S1, đặt những nguyên tắc cơ bán cùa nền giáo dục mới. sắc lệnh nêu rõ: “Nền giáo dục của nước Việt Nam Dân chù Cộng hoà là nền giáo dục duy nhất, đặt trên ha nguyên tấc căn bản: đại chúng hoá, dân tộc hoá, khoa học hoá và theo tôn chí phụng sự lí tưởng quốc gia và dân chú” ". Vé hệ thông tổ chức, sau bậc giáo dục ấu trĩ (dạy cho các em dưới bảy tuổi) nền giáo dục mới được tổ chức thành ba cấp học. Đệ nhất cấp là bậc hoc cơ bán, một bậc học cưỡng bức. Học sinh học trong 4 năm, học xong sẽ qua mộl kì thi đê được cấp bằng giáo dục cơ bản. Đệ nhị cấp gổm ngành học tổng quát đê vào các ban đại học hoặc các trường cao đảng. Độ tam cấp là bậc đại học. Bậc này gồm có các ban (trường): văn khoa, khoa học, pháp lí và các trường cao đẳng, thời gian học ít nhất hệ 3 năm. Sinh viên tốt nghiệp được cấp bằng đại học sĩ hoặc bằng bác sĩ (tiến sĩ). Còn các ngành sư phạm có nhiệm vụ đào tạo giáo viên cho các bậc học: sư phạm sơ cấp, sư phạm trung cấp và sư phạm cao cấp. 11 Viêt Nam dân quốc Công báo, số 314, ngày 24-8-1946. 81 """