🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Xứ Đông Dương - Paul Doumer Ebooks Nhóm Zalo Paul Doumer xuất thân trong một gia đình lao động. Trước khi sang Đông Dương làm Toàn quyền, ông đã từng giữ chức vụ Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ Pháp. Năm 1897, sau khi ông được bổ nhiệm toàn quyền Đông Dương, chính sách thuộc địa của Pháp chuyển sang một bước ngoặt mới. Paul Doumer là một nhà cai trị độc tài nhưng đã mang lại nhiều thay đổi sâu sắc ngay từ khi mới nhậm chức. Ông thiết lập bộ máy nhà nước bảo hộ và xây dựng cơ sở hạ tầng kiên cố tại Việt Nam. Dưới thời Doumer, hạ tầng cơ sở tại Đông Dương được kiến thiết mới ồ ạt, nhưng người dân thuộc địa đã phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng để phục vụ cho việc này. Cầu Doumer (cầu Long Biên ngày nay) nối hai bờ sông Hồng, một trong những công trình lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, là sản phẩm của thời kỳ ấy. Sau khi trở về Pháp, ông tiếp tục tham gia chính trường. Ông đắc cử Tổng thống Cộng hòa Pháp năm 1931, bị ám sát năm 1932. Tương truyền khi ông chết, nhà nước Pháp định đưa thi hài ông táng trong điện Panthéon, nhưng vợ ông không đồng ý. Bà nói: “Cả đời ông ấy đã hy sinh cho nước Pháp, còn bây giờ ông ấy là của tôi”. Bà để ông yên nghỉ trong khu vườn mộ gia đình, bên cạnh bốn người con trai, cả bốn đều là quân nhân, hy sinh trong Thế chiến thứ nhất. Henri Lamagat, tác giả cuốn Souvernirs d’un vieux Journalistre Indochinois nhận xét Paul Doumer là “một nhân vật vĩ đại của nước Pháp và của thuộc địa Pháp, liêm khiết và không chút vụ lợi.” Những công trình đường sắt mà Paul Doumer khởi tạo trên đất Việt Nam hơn 100 năm qua, đến nay vẫn còn có giá trị lớn trong nền kinh tế nước ta. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Paul Doumer (1857-1932) là một nhân vật để lại dấu ấn khá rõ nét trong lịch sử cận đại Việt Nam dưới thời thực dân Pháp đô hộ. Tuy chỉ làm Toàn quyền Đông Dương 5 năm nhưng ông đã thực hiện nhiều cải cách với chủ trương biến chế độ Bảo hộ Pháp ở Đông Dương thành chế độ “trực trị”, xây dựng chính quyền trung ương tập quyền cao độ nhằm xóa bỏ chủ quyền và nền độc lập của các quốc gia Đông Dương. Ông cũng là viên quan thực dân cai trị đã thực thi chính sách sưu thuế hà khắc để xây dựng hạ tầng cơ sở cho xứ Đông Dương – đặc biệt cây cầu Long Biên nổi tiếng ở Hà Nội gắn liền với tên tuổi của ông – nhằm phục vụ cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên thuộc địa, và biến các nước thuộc địa thành một thị trường, tiền đồn cho Pháp ở vùng Viễn Đông. Sau khi trở về Pháp, trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1931, ông được đa số phiếu bầu và trở thành Tổng thống Pháp. Thế nhưng, chưa kịp làm gì trên cương vị người đứng đầu nhà nước thì ngày 16 tháng Năm năm 1932, trong khi tham gia hội chợ sách của các nhà văn cựu chiến binh, ông bị một phần tử quá khích người Nga ám sát bằng hai phát đạn, trở thành vị Tổng thống xấu số trong lịch sử cận đại nước Pháp. Cuốn hồi ký này có nội dung khá phong phú, sinh động về đất nước, con người, văn hóa, phong tục tập quán của ba nước Đông Dương là Việt Nam, Lào, Campuchia thời đầu thế kỷ XX, được viết bằng ngôn ngữ văn học hấp dẫn. Tuy nhiên, bạn đọc cũng nên lưu ý, một số chi tiết được trình bày, diễn giải qua con mắt của một người châu Âu, một viên quan cai trị thực dân, nên khó tránh khỏi tính chất chủ quan, phiến diện, không đúng với thực tế. Mặc dù vậy, đây vẫn là một nguồn tư liệu hữu ích cho những ai quan tâm về lịch sử, dân tộc học hay đất nước học liên quan đến ba nước Đông Dương thời thuộc Pháp. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! Hà Nội, tháng 12 năm 2015 Nhà xuất bản Thế Giới AVANT – PROPOS Indochine française est un livre exceptionnel et unique sur la région qui porte le même nom, parce que son auteur est M. Joseph Athanase Paul Doumer, Gouverneur général de l’Indochine française (1896-1902) et Président de la République française (1931-1932). Il rédigea ce livre en 1903, soit un an après l’achèvement de son mandat en Indochine. C’est pour cette raison que nous pouvons croire que ce qu’il écrivit est sincère et reconstitue de façon vivante le contexte de cette époque. Ce livre est doté d’un beau style spirituel, accompagné d’illustrations sur le Tonkin, l’Annam, la Cochinchine, le Cambodge et le Laos. Issu d’une famille modeste, Paul Doumer, diplômé en Mathématiques, puis en Droit devint expert en finance. Il fut nommé Ministre des Finances dans le gouvernement de Léon Bourgeois en 1895. À la suite du décès de l’ancien Gouverneur général de l’Indochine, Armand Rousseau, qui succomba de la dysenterie, le gouvernement proposa ce poste à Paul Doumer qui l’accepta. Il n’avait alors que 38 ans et il dut laisser à Paris ses 5 jeunes fils. Quatre d’entre eux moururent pour la France pendant la Grande Guerre. Pendant le mandat de Paul Doumer, de beaux édifices furent bâtis au Vietnam, parmi lesquels il convient de citer l’École française d’Extrême-Orient ou encore le Collège Paul-Bert qui mettait fin aux études en Chine des élèves indochinois. Après un séjour à Dalat en 1901, il décida de faire de cette ville un centre de repos pour les Français résidant en Indochine ; des financements furent notamment accordés au docteur Yersin pour la création d’un premier sanatorium. Il accorda aussi beaucoup d’importance aux infrastructures. Outre le chemin de fer Transindochinois, il laissa trois ponts dans trois régions : le pont Long Biên (soit le pont Paul Doumer), le pont Trang Tien et le pont ferroviaire Binh Loi à Saigon. Fils d’un poseur de rails, il fit construire il y a plus d’un siècle un chemin de fer encore indispensable à l’économie du Vietnam d’aujourd’hui. Je me réjouis de la publication en vietnamien de cette œuvre par la société d’édition Alpha Books. Paul Doumer se serait certainement réjoui lui-même de cette publication alors que les relations franco-vietnamiennes sont actuellement en plein développement et promettent tant. Je suis convaincu que ce livre exceptionnel offrira aux lecteurs vietnamiens la chance de redécouvrir l’histoire du Vietnam sous un nouvel angle, celui d’un grand homme de la France, intègre et désintéressé. A l’occasion du nouvel an, je voudrais adresser mes meilleurs vœux à la société d’édition Alpha Books et aux lecteurs de tout le pays ! Bonne lecture! S.E. Jean-Noël Poirier Ambassadeur de France au Vietnam LỜI TỰA Xứ Đông Dương (Indo-chine Française) có lẽ là cuốn hồi ký độc nhất vô nhị về vùng đất có cùng tên gọi này vì tác giả của nó đã từng là Toàn quyền Đông Dương (1897-1902) và Tổng thống Cộng hòa Pháp (1931-1932), ông Joseph Athanase Paul Doumer. Ông viết cuốn sách vào năm 1903, một năm ngay sau khi kết thúc nhiệm kỳ Toàn quyền Đông Dương. Với lý do đó, chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng, những gì ông viết ra đây là chân thực và tái hiện sinh động, rõ ràng nhất bối cảnh lúc bấy giờ. Nội dung cuốn sách được thể hiện bằng một lối văn phong đẹp đẽ đầy trí tuệ, cùng với những hình minh họa về cả ba Kỳ (Bắc, Trung, Nam) và hai quốc gia Cao Miên và Ai Lao. Xuất thân trong gia đình lao động, ông tốt nghiệp cử nhân Toán học, sau đó lấy thêm bằng Luật rồi trở thành chuyên gia tài chính. Năm 1895, ông là Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ Thủ tướng Léon Bourgeois. Do Toàn quyền Đông Dương Armand Rousseau qua đời vì bệnh kiết lị, Chính phủ Pháp đề nghị ông sang kế nhiệm và ông đã nhận lời. Lúc đó, Doumer mới 38 tuổi, để lại năm người con đang học tập tại Paris. Sau này trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, bốn người con của ông đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ nước Pháp. Dưới thời Toàn quyền Paul Doumer, có rất nhiều công trình quý giá được thiết lập tại Việt Nam, như Viện Viễn đông Bác cổ, Trường Cao đẳng Hà Nội và chấm dứt việc học sinh Đông Dương qua Trung Quốc học. Năm 1901, Doumer đã đến Đà Lạt rồi quyết định chọn nơi đây là đô thị nghỉ dưỡng cho người Pháp tại Đông Dương, và tài trợ cho bác sĩ Yersin xúc tiến việc thành lập thành phố Đà Lạt tại đây. Ngoài ra, ông còn là người rất chú trọng công tác xây dựng các công trình hạ tầng. Cùng với đường sắt xuyên Việt, ông còn để lại ba cây cầu ở ba miền là cầu Doumer (cầu Long Biên ngày nay), cầu Tràng Tiền, và cầu Bình Lợi dành cho xe lửa ở Sài Gòn. Là con của một công nhân hỏa xa, những công trình đường sắt mà ông Doumer đã cho tạo dựng trên đất Việt Nam cách đây hơn 100 năm, đến nay hẳn vẫn còn giá trị trong nền kinh tế Việt Nam. Tôi rất lấy làm sung sướng về việc Alpha Books cho dịch ra tiếng Việt và ấn hành cuốn Hồi ký Xứ Đông Dương. Nói theo tâm linh của người Việt Nam, chắc hẳn ông Doumer sẽ ngậm cười nơi chín suối vì cuốn hồi ký của ông được trở lại Việt Nam vào thời điểm mà quan hệ Pháp-Việt đang có những bước phát triển mới đầy hứa hẹn. Tôi cũng tin tưởng rằng độc giả Việt Nam không những không thất vọng khi có cuốn sách trên tay, mà còn tận hưởng những giây phút tuyệt vời bên những trang sách của Paul Doumer, hiểu thêm về lịch sử Việt Nam qua một góc nhìn khác lạ hơn, góc nhìn của một nhân vật vĩ đại của nước Pháp, liêm khiết và không chút vụ lợi. Nhân dịp năm mới, tôi xin gửi tới Alpha Books cùng với độc giả gần xa của các bạn những lời chúc đầy niềm tin và hạnh phúc. Ngài Jean-Noël Poirier Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền nước Cộng hòa Pháp tại Việt Nam HỒI KÝ XỨ ĐÔNG DƯƠNG1 CUỐN SÁCH TÁI HIỆN MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN MỚI MẺ Các bạn đang cầm trong tay cuốn sách do Alpha Books xuất bản, với nhan đề gợi lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động và bi thương mà Việt Nam và các nước láng giềng đã trải qua: Xứ Đông Dương, được dịch nguyên bản từ tiếng Pháp: L’Indo-Chine française. Tác giả cuốn sách là một trong những người dấn thân và là yếu nhân góp phần tạo ra giai đoạn lịch sử nói trên; đó là ông Joseph Athanase Paul Doumer, từng là Toàn quyền Đông Dương (1897-1902), sau này là Tổng thống Cộng hòa Pháp (1931-1932). Cuốn sách thuộc thể loại hồi ký đúng như tên gọi và tác giả cũng khẳng định trong Lời mở đầu: “Người ta yêu cầu tôi sắp xếp lại các ký ức của mình, đặc biệt dành cho giới trẻ, cho những con người sẽ là công dân, những người lính của ngày mai”. Nhưng đọc hết cuốn sách, bạn sẽ thấy nội dung của nó rất hấp dẫn, vượt xa khỏi thể loại hồi ký vì trước tiên, cuốn sách đã tạo cho tác giả một cơ hội lý tưởng để đưa ra những nhận xét, đánh giá, thậm chí cả lời khuyên mang đậm nhãn quan chiến lược về nhiều lĩnh vực của một chính trị gia, một nhà quản lý đầy kinh nghiệm và có nhận thức sâu sắc về thời cuộc. Ngay ở Lời mở đầu, tác giả đã phân tích tường tận bối cảnh – có thể nói rất phức tạp – dẫn đến việc ông được bổ nhiệm Toàn quyền Đông Dương. Đó là cuộc tranh cãi quyết liệt, chia rẽ sâu sắc chính giới Pháp liên quan đến câu hỏi liệu hệ thống thuộc địa Pháp nói chung và xứ Đông Dương nói riêng có lợi ích gì đối với chính quốc không trong khi nước Pháp luôn phải trợ cấp cho xứ sở này? Bản thân ông Doumer là một trong những người ủng hộ nhiệt thành nhất sự gắn bó của Pháp với hệ thống thuộc địa. Nhưng ông lại là ứng cử viên lý tưởng được mọi phe phái chấp nhận. Trên thực tế, Paul Doumer, người rất am hiểu về Đông Dương vì đã từng là báo cáo viên về ngân sách cho các xứ thuộc địa tại Nghị viện Pháp, được cả giới chính trị lẫn thuộc địa nhìn nhận là “người cần có tại đó” và “không thể không [được] trao chính quyền Đông Dương” để cứu vãn thuộc địa và xây dựng nên một bộ máy thống trị của Pháp phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa lần nhứ nhất tại Đông Dương. Chương I - Từ Paris đến Sài Gòn ghi lại hành trình đi nhậm chức của ông. Ở mỗi xứ sở ông dừng chân, từ Ai Cập đến Singapour qua Ấn Độ, Ceylan, tác giả đều đưa ra những đánh giá mang tính chất địa-chính trị vào cuối thế kỷ XIX. Chúng ta cùng đọc những dòng ông viết về Ai Cập: “Điều tạo ra giá trị muôn đời của Ai Cập không nằm ở bản thân đất nước này, dù nó lớn tới đâu, mà nằm ở vị trí tuyệt vời của Ai Cập, nơi tỏa ra các con đường tới các châu lục cổ là châu Âu, châu Á và châu Phi’’. Đã từng là Đại sứ tại Singapour, tôi rất ấn tượng trước tầm nhìn của ông về vị trí chiến lược của quốc đảo này và sau hơn một thế kỷ nó vẫn giữ nguyên giá trị. “Singapour là một trong những cảng tàu bè qua lại nhiều nhất để tới các vùng biển Viễn Đông. Mọi tuyến đường biển đều phải qua đây: châu Âu đi Trung Quốc, Nhật Bản, Sibérie, Đông Dương và Xiêm La. Người ta thấy tầm quan trọng về thương mại và chiến lược của địa điểm này, “cái rốn” của hành tinh. Như mọi người nghĩ, người Anh không để cho nước khác nghĩ tới chuyện chiếm Singapour. Vì thế họ sở hữu gần như mọi điểm giao cắt trên thế giới và giám sát các tuyến hàng hải. Họ muốn làm chủ mặt biển và họ coi Singapour là một trong những cách hữu hiệu để đạt được mục đích đó”. Các chương II, III, IV, V, VI với tiêu đề là những địa danh, lần lượt là: Tổng quan về Đông Dương, Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Cao Miên và Ai Lao, vừa được viết theo lối hành văn hồi ký, vừa chứa đựng những kiến thức về lịch sử, địa lý, thiên nhiên, con người, văn hóa của xứ Đông Dương. “Bây giờ là lúc cần đưa ra một khái niệm chính xác hơn về Đông Dương, điều kiện tự nhiên của nó ra sao, chính trị và kinh tế ở đó vào năm 1897 thế nào, và những thay đổi gì đã diễn ra tại đó, tiếp theo là phải gợi lại từng sự kiện và nhen lại ấn tượng mà tôi đã trải nghiệm khi gặp gỡ, khi tiếp xúc với Đông Dương lần đầu”. Qua những trang sách này, bạn đọc sẽ thấy tác giả là một người quan sát rất tinh tế và có khả năng dẫn chuyện hết sức cuốn hút. Dõi theo ngòi bút của ông, ta có cảm giác được du ngoạn qua các vùng miền khác nhau mang bản sắc riêng và đầy sống động cũng như khuyết tật của Xứ Đông Dương cuối thế kỷ XIX. Chương VII được đặt tên một cách kiêu hãnh “Sự trỗi dậy của Đông Dương” là bản tổng kết về sứ mệnh Toàn quyền Đông Dương của tác giả. Theo đó ông tự nhận đã tạo ra “một nền hòa bình vững chắc”, “một bộ máy chính trị và hành chính hợp lý, nền tài chính vững mạnh, cùng một hệ thống giao thông cơ bản”. Trong hồi ký, Doumer viết: “Vài tuần sau khi tới nơi, khi đã có cái nhìn khái quát về vùng đất này cũng như làm quen với những con người sẽ là cộng sự của tôi trong công cuộc tổ chức và phát triển thuộc địa, tôi đã gửi một báo cáo tổng thể tóm lược lại tình hình sở tại, đồng thời chỉ rõ những biện pháp thích hợp”. Đó là chương trình bảy điểm được chính phủ Pháp chấp thuận và ông đã quyết tâm thực hiện trong năm năm với trọng trách Toàn quyền Đông Dương. Trước khi rời Đông Dương, Paul Doumer đã nói một cách hào hùng: “Trong năm năm vừa qua, chính quyền trung ương tại Đông Dương đã hoàn thành trọn vẹn bổn phận cai quản một thuộc địa quan trọng… Trong năm năm, Đông Dương đã tồn tại và lao động bằng một tinh thần duy nhất… Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi nữa, chúng ta sẽ có thể giới thiệu xứ sở này với thế giới bằng niềm tự hào khiêm tốn. Xứ sở này đã trở nên cường thịnh rồi, nhưng không hề nghỉ ngơi mà ngược lại đang hào hứng lao động, đang mạnh mẽ đi tới một tương lai xán lạn”. Cuốn sách được viết dưới con mắt của một Toàn quyền nhằm tự khẳng định rằng mình đã “hoàn thành trọng trách lớn lao…[ở] Đông Dương tốt hơn bất kỳ ai khác” “với niềm tự hào phụng sự nước Pháp”. Hơn thế nữa con người này có một quyết tâm sắt đá là phải thành công trong việc biến xứ sở này thành tiền đồn của Pháp tại Viễn Đông. “Ngay từ đầu, tôi đã cho rằng sự hiện diện của nước Cộng hòa Pháp tại Đông Dương không chỉ vì sứ mệnh tổ chức và quản lý thuộc địa, mà nước Pháp còn phải hành động trong khuôn khổ những phương tiện có trong tay để chính sự phát triển của thuộc địa truyền thêm sức mạnh, từ đó tăng cường danh tiếng, quyền lực và hành động của nước Pháp tại Viễn Đông”. Như vậy, lẽ đương nhiên nó chứa đựng nhiều sự kiện, nhiều đánh giá mang nặng tính chủ quan, không trùng khớp với lịch sử mà chúng ta từng biết và không phù hợp với cách nhìn của Việt Nam về cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất tại Đông Đương. Điều đáng lưu ý với bạn đọc là cuốn sách truyền tải rất nhiều thông tin về xứ Đông Dương, nhất là về một giai đoạn lịch sử mang tính bước ngoặt về nhận thức trong xã hội Việt Nam lúc đó. Những năm tháng này cùng với những sự kiện diễn ra mang đậm dấu ấn lịch sử cần được nghiên cứu một cách thấu đáo, khách quan, tránh những thành kiến và phê phán một chiều. Lịch sử vốn là một bộ môn khoa học nghiên cứu, đánh giá những sự kiện đã xảy ra. Lịch sử phải chấp nhận cách nhìn đa chiều sự kiện thì nó mới là nó và mới hấp dẫn, thúc đẩy thế hệ trẻ tự tìm hiểu và yêu lịch sử, nhất là lịch sử nước mình. Do nghề nghiệp và đồng thời có những năm tháng tu nghiệp tại Pháp, tôi rất quan tâm đến lịch sử nước nhà, đặc biệt những giai đoạn mà Việt Nam có thể tận dụng để thoát khỏi nền tư tưởng Nho giáo, hòa nhập vào xu thế phát triển hiện đại dựa trên khoa học, giáo dục, pháp luật và dân chủ. Đọc hồi ký Xứ Đông Dương của Paul Doumer, tôi lại liên tưởng đến những đánh giá rất khách quan của ông Lý Quang Diệu về chủ nghĩa thực dân Anh cũng như Pháp tại châu Á trong Hồi ký của ông, đồng thời cũng liên tưởng đến phương cách Singapour tận dụng những gì có thể chấp nhận được mà chủ nghĩa thực dân đã tạo ra nhằm hỗ trợ thêm cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền và dân chủ theo kiểu Singapour. Đó là tiếng Anh, hệ thống luật pháp, tòa án, hệ thống giáo dục, nền quản trị quốc gia. Cuốn sách Xứ Đông Dương do Alpha Books ấn hành đáng đọc, nhưng hãy đọc nó theo mối quan tâm, hay tư cách riêng của từng người và với một cách nhìn lịch sử. Bạn sẽ bị lôi cuốn bởi cách viết của tác giả; đặc biệt, bạn sẽ được khám phá và tìm thấy nhiều điều mới mẻ mà bạn chưa từng đọc được trước đó về giai đoạn lịch sử này của đất nước Việt Nam. PGS. TS. Dương Văn Quảng2 ĐỌC XỨ ĐÔNG DƯƠNG HỒI KÝ CỦA PAUL DOUMER Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857. Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Sau ông làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Ông bị một phần tử quá khích người Nga ám sát năm 1932. Cuốn hồi ký Xứ Đông Dương là cuốn sách viết riêng về giai đoạn ông ở Đông Dương. Là con của một công nhân đường sắt, Paul có một tuổi thơ vất vả, 12 tuổi đã phải tự mình kiếm sống bằng nghề thợ khắc. Nhưng ông là một người rất có nghị lực và ý chí học tập. Năm 20 tuổi, ông đỗ cử nhân toán rồi sau đó đỗ cử nhân luật và trở thành một chuyên gia trong lĩnh vực tài chính. Ông tham gia đảng cấp tiến và từ nhà báo trở thành nghị sĩ của đảng cấp tiến. Ông cũng có mối quan hệ rộng với các tập đoàn tài chính, công nghiệp lớn của Pháp. Năm 1895, ông là Bộ trưởng Tài chính Pháp. Năm 1897, sau khi Toàn quyền Đông Dương Armand Rousseau bị bệnh chết ở thuộc địa, chính phủ Pháp cử Paul Doumer sang tiếp tục công việc của Armand. Từ đấy Đông Dương chuyển sang một bước ngoặt lớn. Paul là một Toàn quyền vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn. Ông ép triều đình nhà Nguyễn phải đóng cửa Nha Kinh lược sứ để tập trung quyền lực vào tay Toàn quyền. Ông muốn Bắc Kỳ và Trung Kỳ phải chuyển sang chế độ trực trị chứ không phải chế độ bảo hộ. Ông dứt khoát chia Đông Dương ra làm năm xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên – với chiến lược chia để trị. Dưới thời Doumer, hạ tầng cơ sở của Đông Dương được xây dựng, kiến thiết ào ạt. Ông muốn biến Đông Dương thành thị trường tiêu thụ của công nghiệp Pháp, đồng thời muốn khai thác triệt để tài nguyên từ Đông Dương. Muốn thế phải có bến cảng, đường xá, cầu cống… Chính trong thời gian này, cầu Doumer – sau này đổi tên thành cầu Long Biên, được xây dựng. Cây cầu này được coi là một kỳ quan của Đông Dương thời ấy. Cũng thời gian này Doumer còn cho xây dựng cầu Thành Thái (tức cầu Tràng Tiền) bắc qua sông Hương ở Huế và cầu Bình Lợi bắc qua sông Sài Gòn. Ông xây dựng cảng Hải Phòng, thiết kế xây dựng đường sắt Đông Dương nối với Vân Nam. Tuyến đường sắt này mãi đến 1937 mới hoàn thành. Ông nhiệt tình với việc xây dựng đến nỗi báo chí Pháp mỉa mai ông là người theo chủ nghĩa đường sắt. Ông cũng chính là người đã ủng hộ và hậu thuẫn công việc nghiên cứu của Yersin, đồng ý xây dựng thành phố Đà Lạt và đưa cây cao su vào trồng, hình thành nên những đồn điền cao su tạo hàng hóa xuất khẩu. Dưới thời cai trị của Paul Doumer, Hà Nội là thành phố châu Á đầu tiên có điện. Công bằng mà nói, ông đã làm được rất nhiều việc cho xứ Đông Dương. Ông là một nhà cai trị, một nhà kinh tế giỏi, nhưng trước hết ông là một người yêu nước chân chính. Ông yêu nước Pháp - tổ quốc ông với tình yêu nước nồng nàn. Trong Thế chiến thứ nhất, ông có năm con thì bốn người gia nhập quân đội và hy sinh cho tổ quốc. Với lòng yêu nước nhiệt thành ấy, khi làm Toàn quyền Đông Dương, ông muốn lá cờ tam tài của nước Pháp phải được bay cao ở châu Á, làm rạng danh cho đất nước. Do vậy, ông muốn Đông Dương thuộc địa của Pháp phải được phồn vinh – phồn vinh để phục vụ nước Pháp. Ông muốn Đông Dương phát triển – phát triển để trở thành thị trường cho nền công nghiệp Pháp. Ông biết công cuộc chinh phục đã xong và bây giờ là lúc phải khai thác thuộc địa. Muốn khai thác hiệu quả thì phải hiện đại hóa xứ Đông Dương, biến nó thành mảnh đất thực sự của người Pháp. Để làm thế thì phải trực trị, không cho An Nam thống nhất, mà chia thành ba phần tách khỏi nhau. Để thực hiện được mưu đồ ấy, thực hiện kế hoạch ấy thì phải có tiền, tức là phải khai thác, bóc lột thuộc địa và người dân phải đóng góp, phải chịu sưu cao thuế nặng. Paul Doumer là một tay thực dân chính cống, ông hành động hoàn toàn vì lợi ích của nước Pháp. Nhưng ông là một nhà kinh tế có tài và có tầm nhìn. Chính do vậy, người Pháp có lợi nhưng xứ thuộc địa cũng được hiện đại hóa, Tây phương hóa. Một đất nước theo kiểu Tây phương được công nghiệp hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa đã manh nha hình thành. *** Những cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam của người Trung Quốc, người Pháp, người Mỹ… xưa nay không ít. Lẽ dĩ nhiên, là sách của đối phương nên cách nhìn bao giờ cũng đối nghịch với quan điểm của chúng ta. Tuy nhiên, nếu biết so sánh đối chiếu, nếu phê phán có chọn lọc thì đó sẽ là một nguồn tài liệu đáng quý, giúp ta nhìn nhận sự việc được khách quan hơn. Viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, các nhà sử học của Việt Nam cũng từng sử dụng những nguồn tư liệu của phương Tây khá hiệu quả. Cụ Hoàng Xuân Hãn lúc viết cuốn Lý Thường Kiệt cũng dùng khá nhiều tài liệu của Trung Quốc. Do vậy cuốn Xứ Đông Dương của Paul Doumer đối với chúng ta là một tài liệu tham khảo rất đáng quý. Thời điểm Pháp xâm chiếm nước ta, những cuốn sách của các tướng lĩnh Pháp là một nguồn tài liệu tham khảo về quân sự. Riêng cuốn Xứ Đông Dương, theo tôi, còn quý hơn vì nó là một cuốn sách có thể nói là hiếm hoi, của người Pháp viết về thời kỳ xây dựng thuộc địa, thời kỳ kinh tế thuộc địa. Nói chung, cuốn hồi ký có ích rất nhiều cho những nhà sử học, dân tộc học, Việt Nam học, nghiên cứu văn học… nhất là những ai quan tâm tới giai đoạn người Pháp bắt đầu xây dựng Đông Dương để khai thác thuộc địa. Vì là một cuốn hồi ký nên cuốn sách khá hấp dẫn. Tôi đã đọc nó, say mê như đọc một cuốn tiểu thuyết. Tác giả, với lối hành văn đẹp đẽ giàu hình ảnh, đã khắc họa khá chân thực và sinh động chân dung của vua Thành Thái, vua Norodom, tổng đốc Trần Bá Lộc… cũng như giúp cho độc giả dễ dàng hình dung bối cảnh Đông Dương ngày ấy, địa hình, khí hậu, sản vật và con người. Nhận xét, từ những năm đầu thế kỷ XX, của vị toàn quyền Đông Dương về người Việt, rằng: Người An Nam chắc chắn là tộc người ưu trội so với các dân tộc xung quanh.... Người An Nam thông minh, cần cù và dũng cảm”... cũng đồng quan điểm với rất nhiều nhận định của thế giới sau này khi đánh giá về năng lực, khả năng học hỏi, lòng quả cảm của người Việt. Chắc chắn nó có phần nào sự vô tư trong đó. Tháng 12 năm 2015 Nhà văn - Dịch giả Nguyễn Xuân Khánh LỜI NÓI ĐẦU Trong năm năm mà tôi trải qua trên cương vị người đứng đầu chính quyền xứ Đông Dương, chúng ta đã có thể đem tới cho xứ thuộc địa tại châu Á này một nền hòa bình vững chắc mà nó chưa từng được hưởng, một bộ máy chính trị và hành chính hợp lý, nền tài chính vững mạnh, cùng một hệ thống giao thông cơ bản. Bắt nguồn từ đó, nền kinh tế đã phát triển vượt trên mọi kỳ vọng. Tương tự như vậy, trong cuộc xung đột trường kỳ về ảnh hưởng và lợi ích tại Viễn Đông, nước Cộng hòa Pháp đã được đặt vào vị thế để thực hiện vai trò và hưởng phần lợi ích của mình. Có lẽ cũng không phải là quá chủ quan khi tin rằng làm được điều này chính là phụng sự tổ quốc một cách hữu ích. Và đây sẽ là một điều mà người ta không dễ dàng tha thứ! Nhất là khi tôi lại bất nhã tới mức từ xứ sở đó quay trở về, tránh khỏi cái chết đã nhiều lần gần kề gang tấc, để về lại vị trí của tôi tại Nghị viện, không đòi hỏi gì, không phàn nàn gì. Kể từ đó đã một năm trôi qua, thời gian này đã không bị phí hoài. Bằng cách khiêm tốn làm việc, tôi đã thành công để những thành quả phụng sự trước đây ở một miền đất xa xôi rơi vào quên lãng. Chắc người ta nghĩ rằng dù thế nào tôi cũng sẽ không lật lại một kết cục đáng mừng đến thế. Những trang sách sau đây vì thế không dành cho những người ít nhiều cảm thấy bất bình với chương lịch sử thuộc địa tôi đã viết trên đất Á châu; chúng cũng không nhằm thổi bùng những ghen tị và hiềm khích đã lắng xuống hay tiêu tan hẳn. Tốt hơn hết là nên bỏ qua một số chuyện, quên đi những sự kiện, quên đi những con người, chứ những hành động của chúng ta, cảm xúc của chúng ta, niềm vui và sự tự hào, nỗi buồn và sự phẫn nộ, thảy đều không đáng để nhắc đi nhắc lại, vì cội nguồn duy nhất của chúng đều chỉ là tình yêu nồng cháy dành cho tổ quốc mà thôi. Mặt khác, tôi được yêu cầu sắp xếp lại các ký ức của mình đặc biệt dành cho giới trẻ, cho những con người sẽ là những công dân, những người lính của ngày mai. Tôi sẽ làm như vậy một cách không màu mè, không khoa trương, theo sự may mắn của trí nhớ. Dẫu vậy, tôi vẫn hy vọng từ toàn bộ câu chuyện tôi thuật lại sẽ hiện lên một góc nhìn đủ chính xác về xứ Đông Dương tươi đẹp của chúng ta, một ý tưởng đủ đúng đắn về bản chất công cuộc thuộc địa hóa, nền cai trị của một đế quốc rộng lớn. Độc giả đã được cảnh báo rồi: họ không thể đòi hỏi ở cuốn sách này nhiều hơn những gì nó đã hứa, và là những gì nó không thể cung cấp. Thế nên tốt nhất là đặt dấu chấm hết cho những dòng mào đầu này tại đây. Nếu tôi chưa làm thế, nếu tôi vẫn lùi thêm khoảnh khắc bắt đầu nói về chủ đề của mình, thì đó là vì tôi cảm thấy cũng nên nói một chút về bối cảnh mà tôi được bổ nhiệm làm Toàn quyền tại Đông Dương. Việc này kể ra cũng đã khá lâu rồi, từ tháng Mười hai năm 1896; nhưng vào thời điểm ấy nó đã gây ít nhiều xôn xao, dù chẳng có lý do để ồn ào đến thế. Trước đó, tôi đã từng quan tâm đến Đông Dương nói chung với cương vị người chuẩn bị báo cáo ngân sách đã dành cho các thuộc địa, và nhất là vào năm 1895, về các giải pháp cứu trợ tạm thời cho tình hình tài chính Bắc Kỳ mà tôi phải trình trước Hạ viện nhân danh Ủy ban Ngân sách. Vào dịp này, tôi đã thực hiện một nghiên cứu về các xứ Bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ của chúng ta. Nghiên cứu đó dẫn đến chỗ tôi đã bày tỏ không chính thức quan điểm của mình, với cả Bộ trưởng lẫn Ủy ban ngân sách, về những khó khăn chúng ta đang phải xoay xở và những giải pháp thiết yếu cho những khó khăn đó. Phải chăng việc này đã khiến người ta nghĩ đến chuyện cử tôi làm Toàn quyền ở Đông Dương? Có thể lắm. Dù sao chăng nữa, năm 1895, tôi mang máng vào khoảng tháng Tám hay tháng Chín, ngài Chautemps3 Bộ trưởng Thuộc địa đã ngỏ lời với tôi. Ngài Armand Rousseau4Toàn quyền Đông Dương khi đó là ứng cử viên cho một ghế Thượng Nghị sĩ của Finistère5, và ông đã bày tỏ nguyện vọng quay về Pháp sau cuộc bầu cử. Tôi không từ chối, cũng không nhận lời đề nghị được đưa ra ngay, mà định sẽ tham khảo ý kiến bạn bè khi đề nghị đó trở thành chính thức. Trong lúc đó, nội các do ngài Ribot6đứng đầu, mà ngài Chautemps là một thành viên, đã đệ đơn từ chức sau kết quả bỏ phiếu không thuận lợi tại Hạ viện. Trong nội các Bourgeois7lên thay thế sau đó, tôi được giao nắm Bộ Tài chính. Ngài Armand Rousseau sau khi về Pháp đã muốn giữ nguyên các chức vụ của mình, và một dự án cho vay để cứu vãn tình hình tài chính Bắc Kỳ được chuẩn bị. Tôi đã phải tích cực tập trung vào đó, cả trong việc nhất trí dự án tại Hội đồng Bộ trưởng trong những điều kiện mà tôi cho là chấp nhận được, lẫn trong việc tìm kiếm sự ủng hộ tại Hạ viện. Armand Rousseau (1835-1896) Nỗ lực phải bỏ ra cho việc này chứng tỏ tôi đã không sai lầm khi bảo lưu yêu cầu của chúng tôi tại Nghị viện trong những giới hạn hẹp hơn mức ngài Toàn quyền và ngài Bộ trưởng Thuộc địa, vị đồng nghiệp Guieysse8của tôi, mong muốn. Ngài Armand Rousseau, ngay từ đầu đã có phần buồn phiền khi phải chứng kiến khoản tiền ông muốn được cấp giảm đáng kể, đã tới trao đổi với tôi về việc này và đề nghị tôi đưa ra bằng chứng cho sự tự tin của tôi: Sở Kiểm tra Tài chính Đông Dương đã được thành lập vào năm trước, theo cái cách mà ngài Toàn quyền hoàn toàn không hay biết và có vẻ như đã đặt toàn quyền dưới quyền giám hộ của nó. Ngài Rousseau quyết liệt bày tỏ rằng cần đưa mọi thứ về lại đúng chỗ, và việc kiểm tra tài chính cần được thực hiện đối với các cơ quan công quyền, nhân danh và đại diện Toàn quyền chứ không phải ngoài sự kiểm soát của Toàn quyền, và thậm chí có lúc chống lại Toàn quyền. Câu trả lời thật dễ dàng: tôi rất vui mừng bày tỏ với ngài Rousseau sự tin tưởng tuyệt đối, và chính tôi cũng vô cùng căm ghét bất kỳ thứ gì có biểu hiện của sự vô tổ chức trong chính quyền để không tiêu hủy mất nguyên do khả dĩ của nó khi người ta báo cho tôi. Sắc lệnh tổ chức Sở Kiểm tra Tài chính lập tức được điều chỉnh. Ngài Armand Rousseau lên đường đi Đông Dương, và đã không trở về nữa. Ngày 10 tháng Mười hai năm 1896, bức điện khẩn báo tin ông qua đời đến Bộ Thuộc địa. Tôi biết tin qua một người bạn, vị đồng nghiệp của tôi, ông Camille Krantz9, người cũng thân thiết với Armand Rousseau. Chúng tôi vẫn hay nói chuyện với nhau về ngài Toàn quyền, về trách nhiệm nặng nề của ông cũng như lòng can đảm ông thể hiện trong việc thực thi trách nhiệm đó. Cái chết của ông làm cả hai chúng tôi cùng cảm thấy thương tiếc, đau buồn. Hơn nữa, tại Nghị viện, tin dữ này quả là một nỗi kinh hoàng thực sự. Bắc Kỳ không được ưa thích tại đây. Cuộc chinh phục đã phải trả giá bằng quá nhiều máu và tiền bạc. Vùng đất này vẫn chưa được bình định hoàn toàn, và ngoài những chi phí quân sự, nơi này vẫn định kỳ đòi hỏi những hy sinh về tài chính từ chính quốc. Những trận chiến và bệnh tật tiếp tục cướp mất người của chúng ta. Và đây, lại thêm một Toàn quyền mới qua đời, chỉ sau ít tháng nhậm chức tại Đông Dương! Cái tên Armand Rousseau gia nhập vào danh sách những người tiền nhiệm của ông, Richaud10 và Paul Bert11, những nạn nhân của thuộc địa này giống như ông. Tại cùng phiên họp của Hạ viện nơi tin buồn được công bố, tôi đã viết cho tờ báo Paris tôi cộng tác một bài cáo phó mà tôi sẽ trích ra đây vài dòng. Đến nay tôi cũng sẽ không thay đổi chút nào cái quan điểm mà tôi đưa ra khi đó. Tôi đã viết: “Tất cả những ai đã quen biết ngài Rousseau đều thương tiếc ngài, một con người chính trực và nhân hậu, một nhà cai trị tích cực và cẩn trọng. Tựu chung lại, ngài đã ra đi quá sớm, nhưng vinh quang thay một cuộc đời của lao động đầy thành quả, hòa hợp và thanh thản, bất chấp những biến cố ngài đã trải qua. Là kỹ sư hay chính khách, Nghị sĩ, Tổng trưởng hay Toàn quyền, ngài Rousseau vẫn luôn trước sau như một; ngài luôn tiến thẳng về phía trước, trong tâm trí không hề có chỗ cho sự phức tạp quanh co, xa lạ với những toan tính, không thể nhân nhượng những đề xuất vì lợi ích cá nhân. Con người có trí tuệ mẫn tiệp này trước hết là một người can đảm, theo nghĩa cao nhất của từ này. Người ta có thể trao cho ngài những sứ mệnh phức tạp nhất với niềm tin chắc chắn rằng ít nhất ngài cũng sẽ hoàn tất nó trong danh dự. Không ai, dù là đối thủ hay kẻ thù, từng nghĩ tới việc nghi ngờ sự trung thực của ngài. Hẳn ngài đã chứng kiến cái chết lại gần mà không hề nuối tiếc hay sợ hãi. Bất chấp những sứ mệnh tốt đẹp ngài còn có thể hoàn thành, bất chấp những điều ngài còn có thể phụng sự cho đất nước mình, thậm chí bất chấp cả những mối liên hệ thân thương ràng buộc ngài với thế giới này, ngài hẳn đã kiêu hãnh đón nhận một đoạn kết quang vinh không kém gì cái chết của người lính trên chiến trường. Thật ít người trong những năm tháng mà chúng ta đang sống lại có niềm vinh quang và kiêu hãnh được chết vì tổ quốc như thế! Và chính vì sự thịnh vượng, sự vĩ đại của tổ quốc mà ngài Rousseau tận lực tại Đông Dương. Vào thời điểm thế giới già nua đang mơ ngủ của Viễn Đông bừng tỉnh giấc và chuyển mình, nơi các quốc gia Âu châu đang tìm kiếm thuộc địa tranh đua nhau để tới được trước những nơi còn trống, nơi các quốc gia này gắng sức giành lấy phần của mình trên một miền đất mênh mông đang dâng mình cho những ai cần cù nhất, Bắc Kỳ đối với đất nước chúng ta là một căn cứ không gì sánh được cho những hoạt động chính trị và thương mại. Chính nhờ ngài mà chúng ta mới có thể đến được miền nam Trung Hoa. Các tuyến đường sắt tại Bắc Kỳ, nếu bản thân chúng có giá trị nào đó cho những vùng đất chúng chạy qua, thì chúng có giá trị lớn nhất trong vai trò là phương tiện để thâm nhập vào Trung Hoa. Chúng có thể mở ra cánh cửa xứ sở này, ít nhất là một phần, cho hàng hóa và ảnh hưởng của nước Pháp…” Ngay sau cái chết của Armand Rousseau, người ta đã bận bịu với việc tìm người kế nhiệm, và tại Điện Bourbon12, nhiều người tiếp cận tôi và nói với tôi bằng nhiều cách khác nhau: “Ông là người cần có mặt tại đó.” Những gì tôi đã viết, đã nói và làm trước đây cho xứ Đông Dương đã tạo nên trạng thái tâm lý này. Thời gian tôi công tác tại Bộ Tài chính, nơi tôi đã phải trải qua những thời điểm khó khăn, cũng đủ để mọi người tin tôi sẽ hành động tích cực, nếu cần thiết, để thực hiện những điều hữu ích tại châu Á. Một trong những người mà lời nói có sức nặng nhất với tôi, một người vừa là bạn trong chính giới vừa là bạn ngoài đời, người tôi đánh giá cao về trí tuệ và tính cách tế nhị cũng như tâm hồn chính trực và sự bình tĩnh, đã nói với tôi bằng những lời mà tôi còn nhớ gần như nguyên văn: “Chúng tôi không thể không trao chính quyền xứ Đông Dương cho anh và anh không được từ chối. Anh hội đủ những tố chất cần có để thành công, và anh đã sẵn sàng hơn ai hết để đảm trách một nhiệm vụ như thế. Tại đó, anh sẽ phụng sự đất nước chúng ta một cách kiên quyết, không do dự và không bối rối, với sự yên tâm mà không phải lúc nào chúng ta cũng có trong các cuộc tranh đấu chính trị nội bộ. Chính anh cũng đã vài lần nói với tôi như thế: những thái độ, những biện pháp mà người ta buộc phải thực hiện do tinh thần đảng phái, do cố kết chính trị, không khỏi làm lương tâm anh trăn trở. Liệu chúng ta có thể đoan chắc đã không tự làm chính mình mù quáng và không làm điều có hại cho nước Pháp hay không? Ở đó, những nỗi lo ngại như thế không thể tồn tại; bổn phận thật đơn giản, con đường thật thẳng.” Cùng ngày, Chính phủ, hay ít nhất là Bộ trưởng Thuộc địa thông báo với tôi ý định trao cho tôi chức vụ Toàn quyền tại Đông Dương. Ngài Chautemps tới gặp tôi, nhắc lại cuộc trò chuyện giữa chúng tôi hồi năm trước: “Chắc ngài cũng rõ”, ông nói với tôi, “tôi không thể có động thái này với ngài mà không bàn trước cùng các đồng nghiệp của tôi trong nội các. Ngài André Lebon13, người hiện tại nắm giữ Bộ Thuộc địa, và hồi đó phụ trách Bộ Thương mại, cũng biết việc này. Hồi đó ngài ấy đã nhất trí với tôi về vấn đề liên quan tới ngài, và hiện vẫn nhất trí… Lúc này liệu ngài có sẵn sàng đảm trách chính quyền Đông Dương không nếu lời đề nghị được đưa ra với ngài?” Tôi nói với ngài Chautemps rằng trước khi đưa ra cho ông câu trả lời, dù là có điều kiện, tôi cần phải cân nhắc, trao đổi với gia đình và vài người bạn mà tôi nghĩ mình rất cần sự tán thành của họ. Mặt khác, tình hình chính trị đã khác so với năm 1895; sự chia rẽ giữa những người phe cộng hòa trở nên sâu sắc hơn, và tôi tự hỏi liệu tôi có thể chấp nhận để những người đã tranh đấu với tôi vì quyền lực, mà chính tôi cũng đã từng tranh đấu với họ, bổ nhiệm tôi không. Quả thực, cuộc tranh đấu giữa phái cấp tiến và phái ôn hòa từ vài tháng trước đó đã trở nên rất quyết liệt. Những câu hỏi liên tiếp về vấn đề Panama, về các tuyến đường sắt phía nam, vẫn còn nguyên đó; và sự quyết liệt một số người nhắm vào các chính trị gia bị coi là can dự vào những vụ việc này đã thổi bùng lên những cơn phẫn nộ hoàn toàn lý giải được. Trong những tuần cuối cùng của nội các Bourgeois, cuộc tranh đấu diễn ra liên tục. Nó diễn ra tại Thượng viện trong mọi chủ đề bàn thảo, và thậm chí cả bên ngoài chủ đề; và tại đó các bộ thường xuyên lâm vào cảnh thiểu số. Ở Hạ viện, nơi đa số vẫn ủng hộ nội các – một đa số khá yếu ớt và bấp bênh – việc đưa ra bàn thảo dự luật về thuế thu nhập trở thành dịp để người ta ra đòn với nhau. Trong số những đối thủ dữ dội nhất của chúng tôi, và cũng là khôn khéo nhất, những người đã chiến đấu với chúng tôi trên bục diễn thuyết, ngoài các hành lang của Hạ viện và Thượng viện, cũng như tại Điện Élysée14, tôi có thể kể ra các ngài Poincaré15, Delombre16, Cochery17, André Lebon, Étienne18, Thomson, Méline19, Krantz, Emmanuel Arène20, Barthou21, Leygues22… Những bối cảnh đặc thù và những chất vấn cá nhân, vẫn diễn ra hầu như liên tục, đã tùy tiện vạch ra một đường ranh giới giữa hai phe trong nội bộ những người cộng hòa. Nhưng cho dù chính trị hiện thời chia rẽ chúng tôi, cho dù chúng tôi tranh cãi về các ý tưởng, về các giải pháp mà chúng tôi tin là đúng, giữa chúng tôi vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp. Ngay hôm sau cái ngày mà nội các trong đó có tôi sụp đổ, tôi ăn tối cùng với các ngài Poincaré, André Lebon và Barthou tại nhà hàng Marmite, và trong lòng chúng tôi hầu như đã quên hết những lời qua tiếng lại ở Nghị viện, đến mức dành cho nhau những lời lẽ thân tình và cùng nâng cốc vì niềm tin chung của chúng tôi vào sự lớn mạnh của tổ quốc và sự trường tồn của chính quyền cộng hòa. Mối quan hệ thân mật này cho phép chúng tôi – cho dù chúng tôi có đang nắm quyền lực, thuộc phe đa số hay thuộc phe đối lập – cùng nhau bàn bạc về các vấn đề của nước Pháp. Nếu đúng như người ta nói rằng mối quan hệ giữa các chính khách ngày nay không còn như trước thì sự thay đổi về cung cách này không có nghĩa là một tiến bộ. Với bối cảnh như vào năm 1896, cũng không có gì lạ khi nội các của Méline đã nghĩ rằng có thể tin tưởng giao phó cho một thành viên phe cộng hòa đối lập, một người có vẻ đặc biệt phù hợp, những chức trách mà người ta không thể quy cho một tính chất chính trị nào dù là rất nhỏ. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng về phần mình, dù là bất kỳ lúc nào Méline cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc đẩy khỏi Nghị viện một đối thủ khó chịu. Về phần tôi, những cân nhắc về đảng phái có thể khiến tôi do dự đã bị những người bạn trong chính giới và bạn ngoài đời mà tôi hỏi ý kiến bác bỏ. Những người tôi đã trao đổi, đã hỏi ý kiến ngay từ đầu, hoặc vì vị trí quyền lực của họ và những vấn đề họ nắm giữ, hoặc vì tình bạn gắn bó họ với tôi và mối quan hệ thân tình giữa chúng tôi, gồm có các ngài Léon Bourgeois23, Brisson24, Fernand Faure25, Berteaux26, Maruéjouls27. Còn có nhiều người khác mà hoàn cảnh và nhiều khi là sự tình cờ xui khiến tôi tới hỏi ý kiến họ. Quan điểm của tất cả, ngoại trừ một người, là tôi cần đảm trách chính quyền Đông Dương. Người bạn đưa ra ý kiến khác không hề có động cơ nào ngoài sự lo lắng thân tình đã khiến ông thấy quan ngại cho triển vọng về một thời gian lưu trú kéo dài ở nơi khí hậu có tiếng là nguy hiểm chết người cùng sự lao lực không thể tránh khỏi. Ý kiến này đã không thể ảnh hưởng tới quyết định cần đưa ra. Và cũng chính vì cái chết của Armand Rousseau, xảy ra sau cái chết của nhiều người tiền nhiệm khác, đã cho thấy chức trách này không phải là không nguy hiểm, nhiều cân nhắc thứ yếu khác mờ nhạt dần và việc từ chối trở nên khó khăn. Lúc bấy giờ, tôi đã để ý thấy những lý do phản đối về mặt chính trị mà tự tôi đưa ra đã bị những người bạn bác bỏ như thế nào: “Chính trị chẳng có liên quan gì”, một người trong số họ bảo tôi, “đến việc bổ nhiệm Toàn quyền Đông Dương cả, và được lựa chọn bởi một bộ đặc biệt không có cảm tình với anh là một điều rất đáng tự hào cho anh. Việc anh nhận lời sẽ không ai chỉ trích được, và không thể bị chỉ trích.” Và vì tôi tỏ ra hơi do dự, người đối thoại với tôi nói thêm: “Anh có biết tại Bộ của ngài Charles Dupuy28 chúng ta đã cùng nhau gây ra sự chống đối đến mức nào không? Đấy! Nhưng nếu ông ấy nghĩ rằng cần phải đề nghị tôi đảm nhiệm một sứ mệnh ở hải ngoại, tôi không tin mình có quyền từ chối.” Một người bạn khác, người mà tôi đã tâm sự cùng trước nhất, nói với tôi: “Tất nhiên, nhiều người trong đảng chúng ta sẽ tiếc nếu anh ra đi. Sẽ có những người nói ‘anh phản bội’. Với những người đó, đừng băn khoăn gì cả! Đó là những kẻ ngu ngốc luôn nhắc đi nhắc lại đúng một câu mỗi khi tôi không làm những gì họ muốn; những kẻ đó không đáng quan tâm. Có những người khác sẽ nghĩ chúng tôi sẽ thiếu anh; cái này thì đúng, nhưng không đến mức như họ nghĩ đâu; chúng ta cũng không có khả năng hành động hiệu quả đến mức như họ hình dung…” Bên cạnh đó, tôi được biết ngài Tổng thống nước Cộng hòa, người vẫn luôn dành cho tôi nhiều ủng hộ, mong muốn các cuộc thương thảo đang diễn ra đi đến thành công. Ông đã tế nhị cho tôi hay cảm nghĩ của mình về vấn đề này; ông tin tưởng tôi sẽ làm được một công cuộc hữu ích cho nước nhà tại Viễn Đông. Tôi quyết định nhận lời. Vài ngày sau, ngày 26 tháng Mười hai, Hội đồng Bộ trưởng nhất trí chính thức bổ nhiệm tôi, và tôi nhận được một bức điện từ ngài Bộ trưởng Thuộc địa mời tôi tới văn phòng của ông vào ngày hôm sau. Hai bên lập tức hoàn toàn nhất trí: tôi sẽ lên đường với cùng quyền hạn như người tiền nhiệm, còn về phần các thay đổi dự kiến và các vấn đề còn dang dở, tôi sẽ nghiên cứu và đưa các đề xuất nếu cần. Cùng ngày, tôi tới gặp Tổng thống nước Cộng hòa và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; tôi báo tin cho bạn bè, và sắc lệnh bổ nhiệm tôi được ký và gửi đăng công báo. Phản ứng trên báo chí và trong một phần công chúng rất khác với những gì tôi trông đợi. Tôi đã nghĩ rằng sẽ có một sự dửng dưng gần như bao trùm, với vài lời chúc mừng và dăm lời chỉ trích lẻ tẻ. Ngược lại, việc bổ nhiệm này lại được nhìn nhận như một sự kiện. Tôi không ngờ rằng mình đã có được vị trí trong chính trường mà người ta trao cho tôi, và việc tôi bất ngờ lên đường lại đã gây nên một sự thất vọng và bực bội. Thật chẳng ích gì mà mất công nhắc lại những lời lẽ ngớ ngẩn đã được tung ra về việc này, vì những lý do ti tiện hay thấp hèn mà một số đối thủ đã gán cho việc tôi chấp nhận đảm trách một chính quyền thuộc địa. Người ta còn đi xa tới mức nói đến những khoản lương cao bổng hậu của chức vụ Toàn quyền Đông Dương, về sở thích và nhu cầu tiền bạc của tôi. Tôi tin rằng tính cách và cuộc sống gia đình của tôi, vốn rất giản dị và luôn được tôi duy trì, cũng đủ để đáp trả những lời lẽ lố bịch kiểu đó, mà tôi cũng không muốn mất công kể ra ở đây. Mong muốn được hành động, được phụng sự đất nước mình một cách hiệu quả hơn trong lúc người ta không thể làm được như vậy khi công việc và hành động bị trì trệ bởi một bộ máy chính trị và Nghị viện thiếu lành mạnh, bởi những động cơ phù phiếm; khao khát được thực hiện một công cuộc hữu ích, có thể là đồ sộ, cơ hội để có khả năng hiến dâng cuộc đời cho nước Pháp… chẳng lẽ tất cả những điều này không đủ để giải thích quyết tâm lên đường của tôi sao? Dẫu vậy, có một điều thực sự làm tôi xúc động trong việc bổ nhiệm tôi; đó là sự thất vọng và bất bình rất chân thành của đa số bạn bè chính giới của tôi, trong nước chứ không phải trong Nghị viện. Họ đã gắn bó với tôi, kỳ vọng vào tôi nhiều hơn tôi tưởng và tôi không khỏi cảm thấy có phần tự phụ. Trước làn sóng dư luận này, có những yếu đuối, những bất lực mà tôi những tưởng rằng một số người không thể chịu đựng được. Với chúng, tôi đã trải qua vài giờ đầy cay đắng và tâm trí bất an; tôi tự hỏi liệu tôi đã thực sự cân nhắc mọi đường trước khi đi đến quyết định, liệu tôi đã nhìn nhận được chính xác trách nhiệm của mình hay chưa. Trong một chuyến đi dài trên biển, tôi cần phải tĩnh tâm và hồi tưởng lại để sắp xếp mọi việc cho rành mạch, lấy lại tâm trí hoàn toàn yên ổn. Lúc ngài Rousseau vừa qua đời, dường như ai ai cũng đồng quan điểm rằng tôi có thể hoàn thành trọng trách lớn lao ông để lại ở Đông Dương tốt hơn bất kỳ ai khác. Chẳng phải trong việc đón nhận trọng trách ấy có một bổn phận ái quốc vượt lên mọi lợi ích đảng phái hay sao? Đó là những gì tôi đã tin ngay từ đầu, và cũng là điều mà suy ngẫm và thực tế đã xác nhận là đúng. Anizy-le-Château29, ngày 13 tháng Tám năm 1903 Chương I TỪ PARIS TỚI SÀI GÒN Lên đường. Ông Armand Rousseau qua đời vào ngày 10 tháng Mười Hai năm 1896 tại Hà Nội. Tôi được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Dương ngày 27 tháng Mười Hai và rời nước Pháp ngày 17 tháng Một năm 1897. Người ta tự hỏi rằng thời gian 20 ngày là thế nào đối với một vị Toàn quyền trước khi lên đường nhậm chức khi ông chỉ cần để ngỏ cửa cho khách khứa đến thăm. Người Pháp vốn nổi tiếng là những người không thích đi khai hóa ở các xứ thuộc địa. Thực ra, từ lâu họ đã có những cách thức thực dân hóa đặc biệt. Có thể thấy rõ điều này trong quy cách tổ chức chính trị và hành chính ở các thuộc địa cũ của chúng ta. Thậm chí ngày nay cũng hiếm có người thông minh và tài trí nào tự sang thuộc địa để khai khẩn, kinh doanh và dòng vốn chảy ra nước ngoài rất dè dặt. Nhưng người muốn ứng cử vào các chức vụ ở thuộc địa thì có hàng quân đoàn. Trong khoảng từ ngày 1 tới ngày 15 tháng Một, tôi nhận được số đơn xin sang Đông Dương nhiều tới mức toàn bộ số công chức hiện tại ở đó nếu nhân với ba, bốn bận gia hạn hợp đồng nữa thì cũng chưa chắc đã nhiều bằng. Về số lượng thì quá dư thừa như thế, song tôi không chắc chất lượng bao giờ cũng được bảo đảm. Nhưng điều đó không quan trọng lắm với tôi vì tôi không phải lựa chọn gì. Tôi chỉ lấy người trong văn phòng của mình đi theo, số bổ sung từ bên ngoài rất ít. Đông Dương có thể thiếu tiền hay thiếu tổ chức chứ không thiếu những viên công chức. Có lẽ cần phải giảm số người đi hơn là tuyển dụng thêm những người mới. Bên cạnh đám đầu đơn cầu cạnh vô tích sự và cánh ô dù của họ vẫn có một số người đáng để ý. Thứ nhất là các nhà công nghiệp, các thương gia và các nhà tư bản tiền tệ có mối làm ăn ở thuộc địa. Thứ hai là những người đã từng định cư ở thuộc địa hay những người đang định cư ở thuộc địa nhưng về Pháp nghỉ ngơi hoặc dưỡng bệnh. Cuối cùng là một số ít ỏi những người mới chớm có ý định sang Đông Dương thử làm nông nghiệp hoặc công nghiệp nhưng hầu hết đều thiếu phương tiện. Khỏi cần kể ra những kẻ huyên thuyên về những chuyện không ai hiểu được và các doanh nhân mà tài năng nhiều hơn dấn vốn và sẵn sàng nhận những công trình to lớn – họ là những kẻ quấy rầy lúc nào cũng lăng xăng khắp chốn. Tốt hay xấu, đáng để ý, vô dụng hay tẻ nhạt thì những cuộc viếng thăm này cũng đã làm tôi mất rất nhiều thời gian, và 20 ngày thậm chí thêm cả 20 đêm trôi qua rất nhanh. Trong thời gian đó, tôi chỉ dành ra được vài giờ để thu thập một số tài liệu cần thiết để nghiên cứu trên đường đi và chuẩn bị hành trang. Khi có gia đình, có con nhỏ, không ai xa rời nước Pháp nhiều năm mà không có sự chuẩn bị trước và những vấn đề riêng phải giải quyết. Tôi luôn luôn lưỡng lự, mà lưỡng lự là phải, không biết có nên đưa các con sang thuộc địa không.Giả dụ muốn sang thì các con tôi phải tráng kiện và có sức khỏe tốt. Lại còn phải tính tới chuyện học tập sao cho ra học tập của chúng; thậm chí khi đã có các trường đủ điều kiện học tập thì khí hậu lại không cho phép chúng học tập. Sức khỏe của các con tôi luôn luôn tốt nên không làm tôi phải bận tâm. Nhưng năm con trai tôi đang ở tuổi đòi hỏi sự học tập không thể bị gián đoạn quá dài, nếu không sẽ lỡ các kỳ thi. Phải xa các con là nỗi đau lòng thật sự đối với vợ chồng tôi. Người ta chia tay bạn bè còn thấy bịn rịn luyến tiếc sâu sắc. Nhưng mặc dù bọn trẻ rất đỗi thân thương, tôi cũng không muốn mang tất cả chúng đi theo mình, vì chúng đã tạo thành một phần của đất nước Pháp mà tôi hằng muốn gìn giữ những mối liên hệ chặt chẽ. Các con tôi là phần của riêng vợ chồng tôi, chừng nào chúng chưa trưởng thành thì chia ly là không hợp lẽ tự nhiên, và sẽ không sao chịu nổi. Chúng tôi đã phải lên tàu ở Marseille vào Chủ nhật ngày 17 tháng Một năm 1897 nên phải rời Paris vào sáng ngày 16. Tối 15 có một bữa tiệc lớn và sang trọng do giới báo chí thuộc địa tổ chức. Tất cả giới thực dân30 ở Paris có mặt trong bữa tiệc và dành cho tôi sự chào đón nồng nhiệt; nhưng các chính trị gia thì không có mấy người. Chính trị ngoảnh mặt với tôi nhưng các thuộc địa mỉm cười với tôi. Báo chí chính quốc nơi tôi sắp xa rời đối xử với tôi một cách cay nghiệt; báo chí thuộc địa tôi sắp tiếp cận chan hòa thiện cảm với tôi. Nghĩ kỹ về chuyện này tôi thấy chẳng có gì đáng phàn nàn, và theo lời mách bảo của những người tốt bụng thì hai thái độ trái ngược nhau đó cùng bắt nguồn từ một tình cảm không phải là bất lợi cho tôi. Tôi phải đọc một bài phát biểu tại bữa tiệc đó; than ôi, không phải lúc nào người ta cũng có quyền im lặng. Tôi không nhớ chính xác mình đã nói những gì nhưng chắc chắn tôi không nói gì về chương trình mình sắp thực hiện. Nói ra sẽ là sớm vì tôi vẫn chưa liên lạc với Đông Dương, và như thế sẽ nguy hiểm. Công bố những dự định, đặc biệt là những vấn đề tế nhị, chỉ làm nghiêm trọng thêm những khó khăn vốn đã luôn rất lớn trong quá trình thực hiện. Tuy vậy, tôi vẫn có thể nói rằng tôi sẽ chỉ có kế hoạch dứt khoát sau khi đến tận nơi nghiên cứu và làm quen với cuộc sống và con người ở đó. Tôi lặng lẽ bỏ qua việc thể hiện những cử chỉ thân tình, dù là những cử chỉ khiến tôi cảm động nhất, mà mọi người dành cho tôi lúc lên đường. Nhưng tôi ghi nhớ và biết ơn tấm chân tình của những người ấy. Đó là những món nợ ân tình mà tôi sẽ cố gắng tìm cơ hội đền đáp. Và đây Marseille, thành phố vui vẻ, năng động và ồn ào, cửa ngõ của Pháp thông ra Địa Trung Hải và tới phương Đông. Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, tôi và nhiều người dân Pháp khác tới Marseilles không chỉ để lên hoặc xuống tàu. Nên đi thăm thú và khám phá thành phố hơn là chỉ đi qua. Thành phố sống nhờ cảng, hay đúng hơn, thành phố chỉ là một hải cảng. Sự giao thương của Pháp với những khu vực rộng lớn trên thế giới phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần của thành phố, vào tầm nhìn đúng đắn, vào sáng kiến và nghị lực của các chủ tàu và thương nhân, vào sự can đảm trong lao động và trong hiểm nguy của người dân ở thành phố chuyên nghề thủy thủ và phụ việc trên biển này. Ở Marseille không thiếu sự thông minh và dũng cảm; nhưng những kết quả thu được, những sự cố lặp đi lặp lại cho thấy những phẩm chất hiện tại chưa được khép vào kỷ luật đúng mức, bị sử dụng sai mục đích, một phần nguồn lực tốt bị thất thoát. Marseille là một cỗ máy khỏe nhưng ầm ĩ, thường là quá ầm ĩ, và sản lượng của nó chưa đủ. Những mâu thuẫn nội bộ, những va chạm giữa các bánh xe, đã tiêu hao đi của nó một phần đáng kể số năng lượng tiêu thụ. Vì vậy hiệu suất thấp và nền thương mại biển của chúng ta sắp đi xuống. Marseille không phải là nơi duy nhất góp phần vào và cũng không phải là nơi duy nhất bị thiệt hại vì sự đi xuống đó, nhưng nó là cảng quan trọng số một của chúng ta, và đây chính là nơi đầu tiên chúng ta phải để mắt tới khi tìm biện pháp khắc phục tình trạng tồi tệ này. Vào tháng Một năm 1897, những thứ tôi quan tâm nhất ở Marseille là những mối quan hệ của nó với Đông Dương, tình hình giao thương của nó với Đông Dương và toàn vùng Viễn Đông. Thời gian lưu lại Marseille trước khi lên tàu cho phép tôi có những cuộc đối thoại hữu ích về chủ đề mà sau này tôi tận dụng. Với những chuyến viếng thăm của các quan chức Đông Dương có mặt ở Marseille, của những người xin việc không sao tránh khỏi, với những cuộc viếng thăm dễ chịu hơn của những người quen cùng với vô số những bức điện tín đi về liên tục, giờ khởi hành tới rất nhanh. Chúng tôi lên tàu. Vợ tôi, hai con gái và tôi cùng các sĩ quan và các nhân viên trong văn phòng tôi đi theo. Chúng tôi lên con tàu hơi nước Melbourne của Hãng Vận tải biển. Trên tàu, tôi nhận được những lời chúc mừng của Tổng Tư lệnh Quân đội, Cảnh sát trưởng, các đại diện của Bộ trưởng Thuộc địa và Bộ trưởng Hải quân, các cơ quan chính quyền thành phố, và chúng tôi trao đổi những lời tạm biệt cuối cùng với những người bạn đi tới tận Marseille cùng với con trai lớn của tôi. Cho tới lúc này những bận rộn đến phát sốt của việc lên đường đã tránh cho tôi cảm giác đau lòng lúc chia ly. Trong 18 năm sống cuộc sống vợ chồng giản dị và gắn bó của chúng tôi, nơi gia đình tôi dần dần hình thành, đây là cơn biến động đau đớn đầu tiên. Chúng tôi cùng nhau rời nơi đây để đi làm việc có ích hay để chết, trường hợp nào thì cũng vì nhiệm vụ; nhưng chúng tôi đang để lại hầu hết những đứa con thân yêu của mình ở nước Pháp mà trước đây chúng chưa bao giờ phải xa chúng tôi! Khi tàu Melbourne nhổ neo và ra khỏi cảng, hoàng hôn nhường chỗ cho màn đêm. Trời tối hẳn khi tàu đi qua con đê chắn sóng, nơi những người thân yêu của chúng tôi đã lên để vẫy chào tiễn biệt chúng tôi lần cuối. Hai bên không còn nhìn thấy nhau nữa, tất cả chỉ là một khối lờ mờ; nhưng gió vẫn đưa tới bên tai chúng tôi những lời tạm biệt êm ái và buồn rầu như những tiếng nói cuối cùng của gia đình và đất nước, của tất cả những gì tốt đẹp trong thế giới này. Bờ biển Pháp mờ dần và biến mất nhưng mắt tôi vẫn chăm chăm nhìn vào điểm sáng của những chiếc đèn pha đang thấp dần xuống đường chân trời rồi biến mất. Thế là hết, chỉ còn lại biển cả mênh mông dưới bầu trời sao lấp lánh. Địa Trung Hải Trời đẹp, biển chỉ động nhẹ. Tuy nhiên, khi chúng tôi đã ra khơi, nhiều người trong đoàn của tôi đã mất dạng, và bữa ăn tối đầu tiên trên tàu hầu như chỉ còn một nửa số khách. Melbourne là một con tàu tốt và kiên cố, chịu sóng gió tốt, có thể chống chọi với thời tiết xấu nên mọi sự sang trọng bị loại bỏ, tiện nghi xoàng, tốc độ khá thấp. Nhờ có thủy thủ đoàn giỏi, con tàu chạy êm. Mọi việc đều được trù bị tốt, tôi thấy không có gì phải phàn nàn; qua mấy ngày, tôi tin rằng tàu sẽ đi tới nơi về tới chốn. Các tàu như Melbourne chỉ hoạt động một thời gian ngắn sau thời kỳ có tuyến đường biển đi Trung Hoa; sau đó, chúng được đưa vào chạy các tuyến phụ của hãng vận tải và bị thay thế bằng những con tàu lớn hơn, nhanh hơn, đắt tiền hơn, đặc biệt là những con tàu Laos, Indus, Annam và Tonkin. Khỏi phải bàn, loại tàu mới này vượt trội so với loại tàu cũ nhưng vẫn không tránh khỏi những chỉ trích. Sự xa hoa thêm vào cho loại tàu mới này có thực sự cần thiết không? Và tiện nghi thêm vào có làm cho chúng tốt hơn không? Hiển nhiên là hành khách có nhiều ý kiến khác nhau, có thể là từ ý thích riêng và từ thị hiếu của đa số. Con tàu Melbourne già nua này dù hơi chật chội nhưng tôi vẫn thấy thỏa mãn. Ông Duchâteau, Chỉ huy và là một Đại úy hải quân, là người năng động, ân cần và vồn vã. Ông có tất cả những phẩm chất của một sĩ quan hải quân chúng ta. Chỉ huy phó, ông Malaval, thuyền trưởng đường dài, hiện nay đang chỉ huy tàu trên Địa Trung Hải, là một mẫu người hoàn hảo của ngành thương mại hàng hải lâu đời và vững mạnh của chúng ta. Ông đã đi qua tất cả các vùng biển, chịu đựng mọi loại thời tiết và đặt chân lên mọi loại tàu, từ loại tầm thường nhất. Ông đã trải qua hết vụ đắm tàu này tới vụ đắm tàu khác, khi thì với đầy đủ phương tiện cứu sinh, khi thì phải dựa vào sự tháo vát và kiên trì; ông cũng là người cứu hộ táo bạo và dũng cảm. Với khả năng có thể làm mọi thứ trên tàu, từ những việc đơn giản nhất của một thủy thủ cho tới công việc của Chỉ huy trưởng, ông sẽ là người tư vấn tốt và là người cộng tác quý báu trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Ông biết rõ tuyến đường đi Trung Hoa như một dân người Paris biết rõ đường phố. Thay vì đi từ khu ngoại ô Montmartre tới quảng trường Madeleine thì ông lại làm một chuyến đi dạo từ Marseille tới Yokohama31. Các địa điểm trở nên quen thuộc với ông, cả khách đi tàu cũng vậy. Ông nhận ra các tàu từ xa theo hình dáng của chúng, và nếu một con tàu nào đó, như anh nhà quê lạc trên đại lộ lớn này của thế giới, lần đầu tiên xuất hiện trong kính ngắm của ông, ông sẽ nhìn nó chòng chọc rồi cằn nhằn, nghi ngại: “Gã khách không mời này làm cái quái gì ở đây thế?”. Kế sau ngày chúng tôi khởi hành ở Marseille, xuất hiện một con tàu chạy tuyến Trung Hoa trên biển. Đó là con tàu, được đóng y như con tàu tôi đang đi, đang từ Viễn Đông trở về. Tàu chúng tôi đi ngang qua nó ở khoảng cách vài dặm32. Con tàu này chở thi hài ông Armand Rousseau cùng với gia quyến đi theo. Tất cả chúng tôi kính cẩn ngả mũ trước người đã bỏ mình ở bên đó khi phụng sự nước Pháp – người mà tôi sắp thay thế – trước thân quyến ông ta, những người đã vui vẻ theo ông ta ra đi và hôm nay đang đau buồn trong những giọt nước mắt. Cuộc gặp gỡ trên biển cả giữa những người trở về và những người ra đi, cuộc gặp gỡ mà lá quốc kỳ được kéo lên cột buồm để chào nhau, vừa trang nghiêm lại vừa phảng phất nỗi u buồn. Tôi chỉ có thể nói: “Con người này đã phải sớm kết thúc nhiệm vụ của mình nhưng ông ấy đã có một kết thúc tốt đẹp”. Và những vần thơ bất ngờ đến với tôi. Tôi ngâm nga: Những ai đã ngã xuống cho tổ quốc trường tồn Xứng đáng được dân chúng đến bên quan tài cầu nguyện và đưa tiễn. Tên của họ làm lu mờ cả những cái tên đẹp nhất Mọi ánh hào quang xung quanh họ rồi sẽ tắt Nhưng cả dân tộc này sẽ cất lên tiếng hát Như lời mẹ ru họ yên giấc trong những nấm mồ xanh. Dù số phận không ban cho tất thảy chúng ta những cái chết yên lành, mỗi người vẫn có thể thực hiện nghĩa vụ của mình với ít nhiều hạnh phúc. Từ lúc này, nghĩa vụ của tôi là cống hiến trọn vẹn thể xác và tâm hồn của mình cho Đông Dương – cái sứ mệnh nặng nề, khó khăn nhưng rất mực thú vị và hấp dẫn mà tôi được giao phó. Đời sống chính trị của tôi trước đây, các vấn đề của nước Pháp, những cuộc đấu tranh đảng phái, tôi phải quên hết đi trong một thời gian. Và khoảng thời gian này sẽ rất dài, mà điều này là cần thiết vì có nhiều việc lớn cần phải làm. Điều kiện tiên quyết để thành công là phải có thời gian dài. Trong tất cả các vấn đề, đặc biệt là các vấn đề về thuộc địa, không thể tùy tiện đưa ra các giải pháp. Đối với các thể chế, sự tiến bộ chỉ bền vững khi chúng có thời gian gieo vào lòng đất những hạt mầm khỏe mạnh và bám rễ sâu rộng. Tôi sẽ phải làm những gì mà những người tiền nhiệm chưa thể làm được. Ít ra với lợi thế tuổi tác, tôi sẽ có thể làm việc nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn, với thời gian nhiều hơn. Một chính trị gia từng ngậm ngùi khi thấy tôi được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Dương vì ông ta có một số quyền lợi riêng cần bảo vệ ở đó nhưng biết chắc rằng tôi sẽ không nhân nhượng với những người cản trở lợi ích chung. Mấy hôm trước đó, ông ta đã cho tôi một nhận xét rằng: – Tất cả các Toàn quyền Đông Dương từ trước tới nay đều hoặc là chết ở đó hoặc bị bãi chức. Quả thực đó đúng là những cách kết thúc nhiệm vụ của họ. Bãi chức ư? Về điều này tôi không bận tâm. Còn về sức khỏe, tôi tin rằng mình có sức đề kháng tốt hơn so với các Toàn quyền khác, vì trong suốt 40 năm qua cơ thể tôi chưa hề khiến tôi phải lo lắng về bất cứ vấn đề gì. Tại sao Toàn quyền Đông Dương không trụ lâu được như Toàn quyền của Anh tại Ấn Độ hay Toàn quyền của Hà Lan tại các xứ Đông Ấn thuộc Hà Lan? Nhiệm kỳ các quan chức cấp cao của hai cường quốc thực dân Anh và Hà Lan này đều có một đặc điểm chung: các Toàn quyền được bổ nhiệm một nhiệm kỳ năm năm và nếu không bị tai nạn thì họ đều làm đủ năm năm đó. Họ không nghĩ đến việc ra đi trước khi mãn nhiệm kỳ và người ta cũng không có ý định triệu hồi họ. Họ được lựa chọn dựa theo những bảo đảm về kiến thức quản lý, sự trung thực và được chính phủ tín nhiệm. Sao lại không để những người như thế làm việc cho tới hết nhiệm kỳ với ngày kết thúc đã được ấn định trước? Giới hạn nhiệm kỳ năm năm là tốt. Khoảng thời gian này là cần thiết và vừa đủ để kết nối các biện pháp được thực thi tuần tự lại thành một chuỗi xuyên suốt, giúp người kế nhiệm có thể tiếp tục và giám sát kết quả. Tuy nhiên, nếu không thể rút ngắn lại nhiệm kỳ năm năm thì cũng không thể kéo dài nó vô thời hạn. Các chức trách của một vị Toàn quyền mang đến cho người giữ chức đó những quyền lực lớn, thậm chí là quyền lực tuyệt đối nếu vị đó có thể vượt qua được sự giám sát tuy bất lực nhưng cũng không ít phiền toái của các văn phòng ở chính quốc. Nhưng quyền lực này chỉ được duy trì nhất thời trong khi đương nhiệm bởi nếu không sẽ sinh ra lạm quyền. Khoảng thời gian năm năm mà các Toàn quyền khác đã và đang chấp nhận dường như cũng hợp lý với tôi. Vì vậy, tôi quyết tâm làm tất cả mọi thứ trong quyền hạn của mình trong thời gian năm năm ở Đông Dương. Trụ lại được và ra về đúng kỳ hạn – điều mà không một vị Toàn quyền nào khác làm được, thì đối với tôi có lẽ sẽ là một nhiệm vụ phụng sự đầu tiên cho xứ thuộc địa và nước Pháp. Trong khoảng thời gian đó của nhiệm kỳ, để triển khai được tất cả những việc cần thiết và cấp bách nhằm giải quyết vấn đề tổng thể của nó, chưa nói tới việc tổ chức Đông Dương và phát triển khu vực này lên, tôi sẽ không thể lãng phí dù chỉ một ngày. Sinh hoạt trên tàu khá thuận lợi để làm việc. Trừ những lúc tàu dừng lại ở các cảng, trên tàu tuyệt không có điều gì từ ngoại cảnh có thể quấy nhiễu hay làm phiền đến ta, hay chí ít thì số lượng những người có thể làm phiền ta chỉ giới hạn trong một con số nào đó thôi. Tôi mang theo lên tàu các loại bản đồ, sách vở, tài liệu, báo cáo nên chỉ ngồi trong phòng mình tôi cũng có thể tha hồ tìm hiểu hoặc nhớ lại tất cả những gì đã biết về một quốc gia, một khu vực trên thế giới. Càng nghiên cứu, tôi càng thấy các giải pháp hiện ra rõ hơn, sáng tỏ hơn. Các ý tưởng mới dần xuất hiện. Và tất cả những ý tưởng này sẽ phải lần lượt được cụ thể hóa ở Đông Dương khi chúng tiếp xúc với thực tế sinh động. Ngoài nhiệm vụ “nghiên cứu sách vở” mà tôi tự đặt ra cho mình như vậy, tôi cũng không bỏ qua những thông tin, những ý kiến mà mình đã thu thập được qua các cuộc trao đổi với các thủy thủ, sĩ quan, viên chức và những thực dân ở Đông Dương có mặt trên con tàu Melbourne ấy. Trên tàu tôi có các cộng sự thân cận, dự kiến sẽ tạo nên những phòng dân sự và quân sự của Phủ Toàn quyền. Có tất cả tám người. Chánh Văn phòng là ông Lucien Faure, phái viên hải quân, sĩ quan ưu tú và nhà cai trị giỏi. Gia đình ông có mối quan hệ thân hữu sâu sắc và bền chặt nhất với tôi. Sự nghiệp xuất sắc của ông khi còn đương chức Ủy viên hậu cần hải quân và quá trình ông tham gia chiến dịch 1883-1885 ở Trung Hoa dưới sự chỉ huy của Đô đốc Courbet đã khiến ông là người có thể thay tôi đảm đương những trọng trách phức tạp. Ông Holtz, Phó Ban chuyên trách các vấn đề về Đông Dương ở Bộ Thuộc địa, sẽ là Phó Chánh Văn phòng. Ông Holtz đã tham gia chiến trận ở Bắc Kỳ. Ngoài ra còn có hai tùy viên trẻ là các ông Pierre Emery và About và một thư ký là tham tá ở Bộ Tài chính, ông Sargues. Đó là toàn bộ những người trong Văn phòng của Phủ Toàn quyền. Đứng đầu phòng quân sự của Phủ Toàn quyền là Thiếu tá Nicolas, trong binh đoàn bộ binh, một sĩ quan tài ba mà danh tiếng đã được thừa nhận khắp nơi. Tôi lấy ông Nicolas từ tay ông bạn tốt của tôi là Tướng Archinard sau khi nghe Tướng Tournier, lúc đó đang là Tổng Thư ký Văn phòng Tổng thống, nguyên Chỉ huy trưởng trung đoàn nơi ông Nicolas từng phục vụ, đưa ra những nhận xét rất tốt đẹp về ông Nicolas. Phụ tá cho ông Nicolas sẽ là Đại úy bộ binh chiến đấu Lacotte và Đại úy thủy quân lục chiến Dubosc. Tiếc một điều là ông Klobs, chỉ huy pháo binh hải quân, không đi cùng chuyến với tôi sang Đông Dương được. Khi ấy ông đang làm việc tận tụy ở Bộ Thuộc địa nhưng một sự cố ngẫu nhiên đã ngăn cản ông lên đường. Vài tháng sau đó, ông qua đời ở Sudan trong tình cảnh bi thảm ra sao chúng ta chắc đều đã biết rõ. Hành trình tới Viễn Đông hiện nay đã trở nên quen thuộc. Trong những năm gần đây, những chuyến đi tới khu vực này gia tăng đáng kể, cùng với đó là những câu chuyện kể, những tác phẩm du ký của du khách. Kể thêm về chuyến đi đầu tiên của tôi tới Đông Dương cũng chẳng có gì thú vị hơn, chỉ vài lời dọc đường như thế là đủ. Chúng tôi băng qua eo biển Bonifacio33– hay “cái Mõm” theo cách gọi của những tay thủy thủ – lúc biển hơi mờ sương, đủ để làm nổi bật lên vẻ thê lương của tháp đá Sémillante34. Đúng như hình dung của mọi người, vụ đắm tàu nổi tiếng này là chủ đề chính trong mọi câu chuyện, và chúng tôi sẽ tìm kiếm trong thư viện hoặc dưới đáy những chiếc rương câu chuyện giản dị mà thương tâm của nhà văn Alphonse Daudet35. Tàu Melbourne vượt qua eo Messina36 tuyệt đẹp vào buổi trưa, dưới bầu trời quang đãng và ngập tràn ánh nắng. Bờ biển bên phía Ý và phía đảo Sicile37 hiện ra một quang cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, hoang dã, như thể ta đang sống trong một mùa xuân bất tận vậy. Đỉnh Etna38phủ tuyết trắng tinh với một chùm khói trắng mơ màng trên đỉnh. Các thành phố Messina, Reggio và 20 ngôi làng xinh đẹp nằm xoải dưới chân các ngọn núi hay bên bờ biển xanh. Trông chúng thật nhỏ bé giữa khung cảnh rộng lớn, xui ta ngậm ngùi nhận ra sự yếu đuối của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. Nhưng dẫu mang trong mình những tiềm lực phá hủy vô biên và hoang dại như làn khói trên đỉnh Etna kia đã ngầm báo, cái thiên nhiên đó vẫn lặng im để con người chế ngự nó trong khoảng giới hạn của những nhu cầu mà họ đã tạo ra. Dĩ nhiên, dù có huy động tất cả tri thức và sức mạnh của mình thì con người cũng sẽ không thể thay đổi được trật tự của các ngọn núi đang sừng sững trước mắt tôi đây. Thực ra, chúng ta sẽ bất lực mà chứng kiến một sự hủy diệt hoàn toàn và tức khắc của những gì chúng ta có thể xây dựng nên ở đây nếu chẳng may ngọn núi lửa kia thức giấc. Nhưng giống như những con kiến tí hon đang sinh sống trên trái đất khổng lồ, con người đã và đang gây dựng nên lãnh địa nhỏ bé riêng của mình. Chúng ta đã có những tuyến đường sắt chạy men theo các sườn núi, những chiếc cầu bắc qua các con sông và dòng thác rộng, những ngôi nhà để ở, những bến cảng làm chỗ trú ẩn cho những con tàu – những con tàu được làm ra để tuân theo ý muốn của các thuyền trưởng và chống lại sự hung bạo của sóng gió. Khi nào thiên nhiên hùng vĩ còn say ngủ thì khi đó con người còn làm chủ. Ở đây cũng như những nơi khác, con người đang ngự trị trên một thiên nhiên khôn ngoan đang nằm ngơi nghỉ, nhưng chỉ một cơn đỏng đảnh thất thường của nó cũng có thể tàn phá hết thảy chỉ trong một phút. Trừ những thảm họa diễn ra ở chỗ này chỗ khác, trong sự cân bằng bền bỉ của trái đất vốn đã tồn tại hàng thế kỷ và dường như sẽ còn được củng cố trong nhiều thế kỷ nữa, con người chắc chắn sẽ là kẻ thống trị, kẻ thuần dưỡng các loài sinh vật và môi trường xung quanh, dùng chúng phục vụ mình, làm cho cuộc sống dễ dàng và dễ chịu về mặt vật chất, đẹp đẽ và thú vị về mặt tinh thần. Đó là những phát minh và sáng chế mà con người đã liên tục thực hiện để có thể vươn đến ngôi vị bá chủ thế giới như hiện nay. Tôi thấy ở trước mắt mình, tại eo biển Messina này, một thí dụ trong muôn vàn thí dụ về tính ưu việt của nền văn minh vật chất hiện đại so với nền văn minh cổ đại. Đây kia, ngay gần tàu chúng tôi, ngay trước mắt tôi, hai con quái vật hung tàn mà Homer39 mô tả là cực kỳ hung mãnh, nỗi kinh hoàng cho những người đi biển thời cổ đại: Scylla và Charybdis40! Đó là hai cái tên được Homer đặt cho cho hai xoáy nước lớn mà những tàu thuyền mỏng manh thời cổ đại sợ không dám qua. Tàu chúng tôi đi qua giữa chúng mà không lệch khỏi đường đi, không bị ảnh hưởng một li bởi các dòng nước do chúng sinh ra. Người Ý đã dựng ở eo biển này nhiều đồn lũy hiện đại. Từ trên tàu, tôi thấy rất rõ mái của các đồn lũy đó. Nếu trang bị các dàn pháo xứng đáng với vị trí vững mạnh của các đồn lũy đó thì chắc chắn những người giữ eo biển này sẽ làm chủ đường qua eo trong thời gian chiến tranh. Quân địch sẽ chỉ có thể chiếm nó bằng những cuộc hành binh trên đất liền mà kết quả lại phụ thuộc vào tương quan lực lượng của bên tấn công và bên phòng thủ. Trong nhiều lần qua lại eo này, một lần tôi đã được chứng kiến các ổ pháo diễn tập bắn vào mục tiêu được kéo trên biển. Tôi thấy có vài phát đại bác không trúng mục tiêu, điều tôi chưa bao giờ thấy ở pháo binh của chúng ta. Nhưng vì tôi không biết các điều kiện của cuộc tập bắn và mục tiêu thực sự của cuộc diễn tập nên tôi không thể kết luận về hiện tượng riêng lẻ và ngẫu nhiên này. Eo Messina là một trong những cửa biển của vùng biển phía tây Địa Trung Hải. Ngày xưa người ta nói một cách quá tham vọng rằng Địa Trung Hải chỉ là một cái hồ của nước Pháp. Kể từ đó, buồn thay, chúng ta đã mất Ai Cập, nơi một thiên tài trong chủng tộc của chúng ta41 đã để lại dấu ấn sâu đậm của ông ta ở đó. Đó là sai lầm không thể tha thứ do một số người phạm phải với sự đồng lõa của nhiều người khác. Đó là kết quả của một chính sách hèn yếu, do dự, không có tầm nhìn, không có đầu óc, hành động ăn xổi ở thì, bập vào những cái nhất thời. Ai Cập đang thuộc về nước khác42, mà vị thế của chúng ta ở Constantinople, Tiểu Á và Syria cũng chưa tiến triển được chút nào. Vì vậy mà vị thế của chúng ta bị suy yếu ở vùng biển phía tây Địa Trung Hải. Nếu bản thân vùng biển này không thể gọi là cái hồ của nước Pháp thì ít ra sức mạnh của Pháp ở đó cũng là sức mạnh trội nhất. Chúng ta giữ vững vùng phía tây Địa Trung Hải nhờ có bờ biển châu Âu từ Port-Vendres đến Menton, đảo Corse, và bờ biển Algeria và Tunisia bên phía châu Phi, thêm vào đó là xưởng tàu Toulon ở phía bắc, xưởng tàu Bizerte43 ở phía nam, rồi hạm đội Địa Trung Hải và hạm đội cơ động luôn luôn sẵn sàng. Đương nhiên không chỉ có chúng ta ở phía tây Địa Trung Hải; nước Ý ở phía đông, Tây Ban Nha ở phía tây, thậm chí nước Anh đang hiện diện ở Gibraltar44, ở đảo Malta không phải là xa, cũng giữ một vị trí quan trọng ở tây Địa Trung Hải. Tuy nhiên, ta có lý do để cảm thấy rằng mình đang ở trong một vùng biển của Pháp chừng nào còn chưa vượt qua eo Messina. Rồi bờ biển Ý và Sicile lùi dần và biến mất; tàu chúng tôi chạy về phía Port Said và kênh đào Suez. Đảo Candie bên mạn tàu phô ra trước mắt chúng tôi những bờ biển khô cằn dưới ánh mặt trời thiêu đốt. Nhìn đảo này, tôi lại nhớ về đảo Crete xưa kia đã nhanh chóng thoát khỏi cuộc chiến tranh giúp họ tách khỏi Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ và mang lại cho đảo một cuộc sống mới. Chúng ta hãy tin rằng giờ đây họ đang có một chính phủ tốt, có thể duy trì hòa bình giữa các bộ tộc45 trên đảo, mang lại trật tự cho đảo và khôi phục sự thịnh vượng xưa kia rồi từ đó tiến vào nền văn minh hiện đại. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể cầu chúc cho họ khi nhớ về quá khứ của họ. Kênh đào Suez Một vệt màu vàng hiện lên trên đường chân trời mơ hồ, trong sương mù buổi sáng, giữa biển và đất liền; Ai Cập đó! Từ lâu người ta đã tìm kiếm Ai Cập để làm điểm dừng chân; không có địa hình nào lộ ra cho các thủy thủ bấu víu. Ai Cập không hiện ra trước mắt người thủy thủ với cảnh đẹp như mơ trong thơ: Ai Cập! Nàng duỗi thân mình phủ mái tóc vàng óng, Những cánh đồng dệt tấm thảm muôn màu, Những bình nguyên không ngớt nối nhau; Biển bắc nước lạnh mênh mang, biển nam cát vàng cháy nắng Đều muốn giành lấy nàng Ai Cập xinh tươi Nhưng trước hai kẻ xâm lấn kia, nàng chỉ mỉm cười. Ai Cập, “tặng phẩm của sông Nil”, cần cù và giàu có, bị mọi dân tộc ở mọi thời đại thèm khát chỉ vì muốn xem họ có gì ở phía sau những dải cát ở phía bắc cũng như phía nam, phía đông cũng như phía tây. Nếu ai biết Ai Cập và cảm thấy Ai Cập gần gũi, thì Ai Cập không phải là cảng Said, nơi dừng chân của tất cả tàu bè qua kênh này. Các con sông tạo nên các thành phố nằm dọc theo nó. Kênh Suez, một con sông nhân tạo đã tạo nên thành phố cảng Said, một thành phố cũng nhân tạo như chính con kênh đó. Said là một ngã ba, một trạm giao thông trên biển, nơi đã sẵn sàng mọi thứ để phục vụ tàu thuyền qua lại. Cái độc đáo của Said nằm ở sự đa dạng của các chủng tộc sống kề vai thích cánh bên nhau. Các chủng tộc châu Âu, Nam Âu và đặc biệt là Đông Âu, một nửa Tây Á, gần như cả châu Phi, tất cả đều có mặt ở Said. Người Pháp, người Anh và người Đức tuy số lượng ít nhưng có vị thế cao nhất; nhiều người Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Armenia, Ả Rập cũng có mặt; các nông dân Ai Cập da màu đồng; người da đen đủ loại và đủ các màu da khác; nhiều hãng buôn có uy tín và cũng không ít cơ sở mập mờ – nói tóm lại là tất cả những gì cần để khai thác các du khách, theo nghĩa hay nhất và dở nhất của từ này. Đó là Said, điểm dừng chân đầu tiên của các tàu thuyền đi Trung Hoa. Said cũng chính là cửa ngõ kênh đào Suez. Trong vài giờ tới, tàu chúng tôi sẽ từ từ tiến vào đây với tốc độ rất chậm theo quy định, giữa một sa mạc cát. Ngày nay dường như việc xẻ dải đất nối châu Phi với châu Á là điều rất tự nhiên và rất đơn giản, nhưng trong thực tế đó là chia cắt hai thế giới: thế giới châu Âu trong đó gồm cả vùng bờ biển Bắc Phi và vùng châu Á ven Địa Trung Hải với thế giới châu Á của Ấn Độ và Viễn Đông. Kênh đào Suez đã kết nối hai thế giới đó lại. Tuy nhiên đào kênh không phải là một công việc tầm thường. Người điều hành việc đào kênh phải có tầm nhìn xa trông rộng và sự bền bỉ phi thường được trợ giúp bằng nhiều ngành khoa học và nhiều phương tiện mạnh. Việc xây dựng kênh đào Suez là một chiến thắng của con người đối với thiên nhiên, và đó là một chiến thắng của nước Pháp. Một dân tộc lớn có thể có những thành công trên thế giới ở các mức độ khác nhau, và tất cả những thành công ấy góp phần vào sự vĩ đại của dân tộc đó. Việc hoàn thành kênh đào Suez đã góp phần không nhỏ cho danh tiếng của Pháp và do đó cũng là đóng góp vào sự thịnh vượng của nước Pháp. Chúng ta đang trên đường đi tới thắng lợi. Nhưng tại sao những thất bại lại cứ kéo đến, trong đó có thất bại ngay trên lĩnh vực đào kênh, lĩnh vực mà chúng ta đã thành công với kênh đào Suez? Việc từ bỏ kế hoạch đào kênh Panama46 đã gây biết bao tổn hại cho danh tiếng mà khó khăn lắm chúng ta mới gây dựng được từ việc đào kênh Suez. Đối với một quốc gia, bị đánh bại trong chiến tranh, khoanh tay nhìn các lợi ích và những quyền lợi chắc chắn nhất bị đe dọa, sa lầy trong các công trình lớn do tính toán sai về các phương tiện thực hiện hoặc tín dụng, do tổ chức kém hoặc thiếu nghị lực, lùi bước trước những mệnh lệnh và đe dọa hung tợn của đối thủ – tất cả những thứ đó đều là những thất bại thật sự, có hậu quả nguy hiểm mà, cũng như những thành công, ảnh hưởng của nó sẽ còn dai dẳng mãi, không xóa hoặc giảm thiểu đi được. Những cuộc biểu tình vô bổ, trong đó chỉ có tinh thần tự ái dân tộc và những sự phù phiếm cá nhân là được thỏa mãn, buồn thay, chẳng làm thay đổi được gì. Điều tạo ra giá trị muôn đời của Ai Cập không nằm ở bản thân đất nước này, dù nó có lớn đến đâu, mà nằm ở vị trí tuyệt vời của Ai Cập, nơi tỏa ra các con đường tới các châu lục cổ là châu Âu, châu Á và châu Phi. Với sự ra đời của kênh Suez, hiện nay thật khó mà nói Ai Cập còn hay mất lợi thế đó. Nhưng nhiều khả năng là Ai Cập sẽ không mất lợi thế đó vì kênh này nằm trên lãnh thổ Ai Cập, và như thế ai giữ Ai Cập sẽ nắm giữ kênh và ngược lại. Vì thế ta chỉ có thể tiếc cho sự mù quáng của những kẻ ủng hộ một nước Pháp vĩ đại, năng động, đóng vai trò trên thế giới do lịch sử và tài năng của nó giao phó, đã góp phần gạt giải pháp cho cuộc khủng hoảng Ai Cập do Bộ trưởng Freycinet đề xuất năm 188247. Bởi vì họ không có giải pháp kết hợp tốt nhất, nên có lẽ giải pháp tốt trên thực tế là “chiếm tay đôi” Ai Cập: những người ủng hộ Gambetta phản đối thỏa hiệp nhường thung lũng sông Nil cho quân đội Anh nhưng lại tin tưởng giao phó việc bảo vệ kênh Suez cho một sư đoàn của quân đội Pháp. Để bác giải pháp, họ gặp phải những người chống đối mọi sự can thiệp, những kẻ run sợ, những tên “bợ đỡ”, những kẻ nhỏ nhen, mà một khi làm chủ đất nước chúng sẽ biến nước Pháp thành một nước thấp kém như chúng. Nếu binh lính Pháp chiếm kênh đào Suez trong khi binh lính Anh chiếm Alexandria và Cairo thì hành động của hai bên đều không hợp thức. Như thế những người làm chủ sông Nil sẽ không còn làm chủ Ai Cập nữa, cũng như những người sở hữu kênh Suez không làm chủ kênh này nữa, và hai bên phải thỏa thuận với nhau để thiết lập một tình trạng ổn định nào đó. Lẽ ra phải như thế nhưng hiện nay kênh Suez đang phụ thuộc vào những người lính ở Cairo. Nếu kênh này hiện nay chưa hoàn toàn tuột khỏi tay chúng ta về mặt khai thác, nếu vị chủ tịch của công ty48 và những lãnh đạo chủ chốt của nó là người Pháp thì đó là vì đối thủ của chúng ta đã khôn ngoan không cố đi đến cùng bằng sức mạnh, do các dịch vụ và công trình to lớn do các kỹ sư xây dựng kênh thực hiện vẫn đang sinh lời cho con cháu họ. Tại đây những ký ức về quá khứ đã phần nào bảo đảm cho hiện tại. Liệu chúng ta có nhanh chóng kết nối tương lai với cái quá khứ vinh quang đó, có nhanh chóng khôi phục lại các truyền thống sáng kiến, kiên cường và dũng cảm không? Phải khôi phục truyền thống đó bằng mọi giá nếu chúng ta không muốn chết hoặc chấp nhận một sự suy sụp còn tồi tệ hơn cái chết. Tới cửa con kênh, tàu dừng lại một lát trước thành phố Suez. Thành phố hiện ra ở phía xa, khá duyên dáng, giữa một vành đai xanh tươi: một ốc đảo giữa sa mạc bằng phẳng bị con kênh xuyên qua với những ngọn núi khô cằn bên Biển Đỏ. Trên bờ kênh là các cơ sở của Công ty, nhà ở, trường học, bệnh viện, tất cả đều sạch đẹp và có hàng lối. Khi tàu chúng tôi đi qua, có nhiều trẻ em vừa chạy dọc bờ kênh vừa vẫy những lá cờ Pháp nho nhỏ. Thật là một cảnh tượng vui mắt khiến ta cảm thấy ấm lòng. Nhiệt độ trên Biển Đỏ vào tháng Một rất dễ chịu. Chúng ta sẽ thấy rằng vào tháng Tám thì khác hẳn. Lần này, chúng tôi đi qua Biển Đỏ trong gió mát nhưng gió mạnh dần thành dữ dội. Ngày thứ hai, biển trở nên cồn cào hơn, khó có ai muốn tin rằng đây lại là sự mở đầu trong cái hành lang dài và hẹp49 này. Ngược lại, hình như ở đây không hiếm những ngày dông tố. Phần lớn hành khách đã vắng mặt ở trên boong thượng và phòng ăn. Đêm đến, biển động dữ hơn. Tôi leo lên hành lang trước buồng lái để thư giãn và để thêm phần lịch duyệt, khiến thuyền trưởng và thuyền phó phải lên theo để canh chừng. Tôi thấy những đợt sóng dâng lên đánh vào con tàu, quật vào mũi tàu và quăng những khối nước lớn lên chỗ tôi đứng. Mặc dù có bạt che bốn phía và tôi đã cẩn thận núp mỗi khi sóng tràn lên boong quá lớn nhưng chúng tôi vẫn ướt từ đầu tới chân. Chúng tôi nhìn thấy một con tàu không thể đương đầu lại thời tiết và bắt đầu “chạy trốn”. Cách di chuyển của nó khiến thuyền trưởng của chúng tôi băn khoăn một lúc, rồi lát sau thuyền phó cũng bắt đầu khó chịu hỏi không biết họ đang làm trò gì giữa đường. Trời sáng rõ, sóng gió dịu dần nhưng tàu vẫn lắc mạnh và chúng tôi chỉ gặp lại con tàu đồng hành kia khi bỏ neo an toàn ở Djibouti. Djibouti thuở khai sinh Vịnh Tadjourah50 hoàn toàn thuộc Pháp. Ngoại trừ một vài nơi hiu quạnh và nhỏ hẹp, bờ vịnh là cả một sa mạc đá. Phía sau bờ biển không xa lắm là những dãy núi; chúng vươn lên cao, dãy nọ nối tiếp dãy kia, dãy sau cao hơn dãy trước. Sâu vào nữa là các nhánh của dãy núi Harrar51, các vùng đất cao của Abyssinie52. Phải vượt qua khoảng 200 hay 300 cây số đất đá khô cằn, qua các bộ lạc du mục thì mới tới vùng đông dân và phì nhiêu, và xa gấp đôi quãng đường đó thì tới các thung lũng cao của Abyssinie. Đường tới đó dài và hiểm trở. Tuy thế, dường như Vịnh Tadjourah sẽ là cửa ngõ tốt nhất và dễ đi nhất vào dãy núi hùng vĩ đó. Các cơ sở của chúng ta tại Djibouti sẽ không có nhiều giá trị nếu không gặp điều kiện đó. Thoạt đầu chúng ta thiết lập cơ sở ở Obok, phía bắc của vịnh này; chúng ta ở đó nhiều năm nhưng không đạt được tiến bộ gì đáng kể. Các điều kiện vật chất thiếu thốn: không có đất trồng cấy, không có dân cư, cũng không có đường đi sâu vào bên trong. Djibouti, mà chúng ta chọn sau đó, còn lâu mới là một thiên đường như lẽ ra nó phải thế. Nhưng ít ra trước khi chúng ta tới, ở đó cũng đã có vài thứ: nước, vài trăm cư dân, một cái chợ cho các đoàn lữ hành từ bên trong nội địa ra. Đó là điểm cuối của con đường từ Harrar chạy ra, gần tương đương về mặt địa hình với đường đi Zeilah của người Anh. Là nơi trú ẩn cho tàu thuyền và là hạt nhân của một cảng tương lai, Djibouti hơn hẳn Zeilah. Đường vào Djibouti không khó khăn; không rộng lắm nhưng vũng cảng Djibouti cũng đủ chỗ chứa tàu. Ngược lại, nếu muốn công sự hóa Djibouti một ngày nào đó thì việc này sẽ rất tốn kém và khó khăn. Nhưng ở đó không phải không có công sự. Chúng ta đặt cơ sở ở Djibouti là hợp lý. Trong cuộc chiến chống lại người Ý, vua Ménélick53 đã nhận thấy chúng ta là láng giềng tốt đến thế nào. Các thương nhân, không cần phải là người Pháp, có thể đưa qua Djibouti vào Ethiopie những hàng hóa nhà vua cần. Thỉnh thoảng người Ý tỏ ý nghi ngờ về việc này, những lúc như thế chúng ta phải rất kiên nhẫn để không gây nên những động thái phẫn nộ trong các sĩ quan và viên chức của họ. Những đám mây đã qua đi mà không sinh ra bão tố, và như thế tốt hơn biết bao. Nhưng vua Ménélick luôn nhớ những lợi thế thu được từ người láng giềng Pháp ở Djibouti; ông đã nghe theo cố vấn của mình yêu cầu xây dựng con đường sắt đầu tiên từ Djibouti tới Harrar và sau cùng tới Abyssinie. Các nhượng địa trao cho Công ty Đường sắt Hoàng gia phải đóng góp vào sự phát triển kinh tế cho đế quốc của nhà vua và làm giàu cho Djibouti. Không có đường xe lửa đó, cơ sở của chúng ta ở Djibouti không có tầm quan trọng nào đáng kể. Chỉ cần xem những gì vẫn diễn ra sau nhiều năm chiếm đóng bắt đầu từ 1897. Các tàu Pháp chạy tuyến Trung Hoa và Madagascar phải ghé qua Djibouti, ở đây có một khách sạn với một quán cà phê ở tầng dưới, giống kiểu “khách sạn lữ hành” ở thị trấn vùng Provence. Vài ba thương gia người Hy Lạp hay Ý có cửa hàng ở Djibouti. Từ Dinh Phó Toàn quyền, tòa nhà mang nét “thanh lịch” của một cái chuồng gà khổng lồ, nơi tọa lạc của tòa nhà hành chính và trạm bưu chính, chúng ta có thể nhìn bao quát toàn bộ Djibouti. Các đoàn du mục cùng với lạc đà hạ trại tại quảng trường đối diện với các cửa hàng, khách sạn và bưu điện. Đó không phải là những đứa trẻ da đen chân tay khẳng khiu thường kêu toáng lên: “Thuyền trưởng ơi, xin ngài một xu!” hoặc hát những điệp khúc ngớ ngẩn trong một vài bài hát nào đó – cái hình ảnh vốn mang lại cho ta ấn tượng về một thuộc địa Pháp đúng nghĩa. Trong vòng năm năm, Djibouti đã diễn ra sự lột xác hoàn toàn. Tuyến đường sắt đã tạo ra thành phố. Tuy chưa phải là một trung tâm nhộn nhịp và giàu có nhưng nó đã có dáng vẻ hứa hẹn. Sau khi hoàn thành, nếu giao thông đường sắt đáp ứng được những mong đợi ban đầu thì Djibouti sẽ trở thành một điểm giao thương, và như vậy nó sẽ đòi hỏi phải có một cảng được quy hoạch và được trang bị tương xứng. Điểm này có vị trí cận kề với một trong những tuyến đường hàng hải lớn của thế giới54. Sâu trong đất liền từ cảng vào có một số khu vực khá có lợi để lôi cuốn sự chú ý của người Pháp, đáng để chúng ta có những hy sinh cần thiết vì những lợi ích kinh tế và chính trị trong tương lai. Về phần tôi, tôi rất sung sướng được thấy Djibouti thuở khai sinh vào thời điểm tháng Một năm 1897 khi ấy, và được dõi theo sự phát triển của nó từ đó trở về sau. Ở đó có mầm mống cho cơ sở vững chắc và lâu bền của Pháp. Aden, cảng của Anh bên bờ biển bán đảo Ả Rập, nằm đối diện với vịnh Tadjourah, do đó rất gần Djibouti. Để ghé vào Aden, các tàu từ Biển Đỏ vào Ấn Độ Dương hoặc ngược lại không cần phải thay đổi hải trình của chúng. Chỉ riêng về điểm này, Aden nằm ở vị trí thuận lợi hơn so với Djibouti. Nhưng về tất cả các mặt khác Aden lại không bằng Djibouti! Ở Djibouti có nước ngầm chất lượng tốt, một vài loại hoa màu, cây trồng, và trên hết là một vùng nội địa tuy xa xôi nhưng đường sắt sẽ rút ngắn khoảng cách – khu vực này có dân cư đông đúc và sản vật đa dạng. Aden là vùng đất hoang vắng nhất mà tôi từng thấy. Không có nước, mưa cũng không; hình như mưa né tránh cái vùng núi đá vôi này. Không có cây xanh, và ở phía sau không có gì ngoài sa mạc. Dĩ nhiên, một dân tộc phải luôn nghĩ đến việc làm chủ vùng biển là điểm tựa cho hạm đội của mình. Nếu xây dựng, vũ trang và trang bị thật đầy đủ cho cảng Aden rồi đem tặng nó cho bất kỳ quốc gia nào, trừ nước Anh, thì quốc gia đó sẽ từ chối vì họ không biết làm gì với món quà đó. Ấn Độ Dương và Colombo Trên hành trình đến châu Á, lúc này chúng tôi đã ở trong vịnh Aden và Ấn Độ Dương. Quang cảnh bên bờ Biển Đỏ đã mờ dần; giờ đây là bán đảo Ả Rập và khu vực châu Phi tiếp giáp với châu Á. Cuối cùng chúng tôi rời châu Phi tại Mũi Gardafui55. Đây là vùng biển hiểm trở đối với những người lái tàu đi ngược chiều với chúng tôi. Một sai lầm rất dễ mắc trong lúc tìm chỗ cập bến có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Những vụ đắm tàu với những hậu quả bi thảm mà người ta thường nhắc đến mỗi khi đi qua đây chứng thực cho điều đó đủ mạnh để khiến các thuyền trưởng và sĩ quan phải luôn tỉnh táo. Tôi đã gặp nhiều thủy thủ thừa nhận là ngay cả trong những lúc thời tiết đẹp vẫn bị những dòng nước chảy ngang làm tàu chệch hướng; bờ biển chập chờn hiện ra trước mắt khiến họ hết sức lo ngại. Vùng đất cao Gardafui khuất dần. Ngày hôm sau, bờ biển đảo Socotra56 hiện ra ở mạn phải. Socotra nằm dưới sự cai trị của một tiểu vương Hồi giáo được Anh bảo hộ. Đảo này đã bị khai thác, nó chỉ còn để lại cho du khách những ấn tượng nghèo nàn. Rừng che phủ phần lớn đảo. Trong rừng có rất nhiều loài động vật mà con người không phải lúc nào cũng có thể chung sống với chúng được. Đặc biệt rất nhiều nhện, chúng không cam chịu bị ghê tởm như ở những chỗ khác, mà ở đây chúng còn có cả nọc độc nữa. Chỉ riêng chi tiết này cũng đủ làm những người trên tàu không muốn ghé vào Socotra. Lúc xế chiều, trước khi cập vào đảo trong một vùng biển lặng như gương và nóng như nung, tôi đã thấy nhịp sống sôi động của sinh vật ở đây, một sự náo nhiệt mà tôi chưa từng chứng kiến trong những chuyến đi của mình. Những cuộc rượt đuổi, những cuộc chiến đấu giữa các sinh vật biển này diễn ra ở trên mặt biển, bên trên cả mặt nước, vào mọi lúc và ở hàng trăm điểm cùng một lúc. Những kẻ đối đầu nhau – kẻ săn mồi và con mồi – nhảy vọt lên khỏi mặt nước, tạo ra những cú nhảy trong không khí cao đáng ngạc nhiên, lao xuống, rồi lại nhảy lên, thường là con nọ nối tiếp con kia. Có nhiều loài cá tôi chưa thấy bao giờ, điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Tôi chú ý đến một con cá tung mình lên vài ba lần. Nó dài bốn hoặc năm mét, đầu to và trông rất lạ. Nó nhảy lên khỏi mặt nước, hai cái vây giương hẳn ra như bị một kẻ thù hung tợn bám đuổi. Không thủy thủ nào trên tàu biết tên loài cá đó; không ai nhớ mình đã nhìn thấy loài cá đó chưa. Bóng tối làm khung cảnh sôi động lắng xuống, nhưng dẫu sao nó cũng đã khiến chúng tôi thấy được sự đa dạng của sự sống dưới nước, ít ra là ở các vùng biển nhiệt đới. Giống như trên mặt đất, ở dưới đó hẳn tự nhiên đã tạo ra những lực lượng sinh sôi và hủy diệt mà vùng ôn đới không có. Năm ngày lênh đênh ở giữa trời và nước, đường chân trời vắng lặng, chúng tôi đi về phía nam mà không nhìn thấy đỉnh của Mũi Comorin57. Chúng tôi tới điểm dừng chân thứ ba: cảng Colombo ở quốc đảo Ceylan58. Đúng là châu Á đây rồi, châu Á với đất đỏ, với thảm thực vật xanh dày kéo dài tới tận vùng Biển Đông59. Thiên nhiên luôn đồng nhất nhưng các chủng tộc lại quá đỗi khác nhau! Tại Ceylan có mặt tất cả các chủng người ở các nước châu Á thuộc Anh với đủ vóc dáng, màu da, ngoại hình, trang phục, tính cách và tập tục. Nhưng giữa họ vẫn có nét tương đồng như người trong một phả hệ, cùng có sự nhẹ nhàng, yếu đuối, điều này đã tạo nên một số phận chung giữa họ. Đó là các dân tộc bị chinh phục, các tộc người bị chế ngự mà ta thống trị không mấy khó khăn. Một số tộc chỉ cần sợ hãi cũng đủ bắt họ quy thuận, trong khi với các tộc khác chúng ta lại phải vuốt ve, chiều chuộng họ. Nhưng xét cho cùng, dù nắm quyền lực tuyệt đối, không phải đương đầu với ai thì tôi vẫn thích cai trị những người có sức mạnh tinh thần, có ý chí chiến đấu, có lòng tự hào hơn. Có thể như thế sẽ khó khăn hơn, nhưng chắc chắn là thú vị hơn, bởi khi đó cả người cai trị và người bị trị đều có những cảm xúc giống nhau nên họ sẽ hiểu và gần gũi nhau hơn. Người Anh và người Ấn Độ dường như không có điểm chung nào, không có gì làm họ xích lại gần nhau trong cuộc sống. Một bên là kẻ cai trị, một bên là kẻ bị trị, dường như đó là mối liên hệ duy nhất giữa họ. Nhưng ai có thể nói rằng tình hình sẽ tốt đẹp hơn nếu họ cư xử bằng vai phải lứa với nhau? Chủ nghĩa độc đoán lạnh lùng của Anh có lẽ lại thích hợp với tính cách nhút nhát và nhu nhược của người Ấn Độ. Ceylan là một đảo tách rời khỏi lục địa Ấn Độ; chính quyền đảo cũng tách khỏi chính quyền trung ương của Đế quốc Ấn Độ. Thống đốc Ceylan trực tiếp nằm dưới quyền triều đình Anh; ông ta có quân đội, có các ban, sở chuyên môn và ngân sách riêng. Đảo Ceylan khá lớn với nhiều lợi ích quan trọng nên cách tổ chức tự trị như vậy cũng là điều hợp lý. Sự phát triển của xứ này được tiến hành một cách bài bản và từng bước nhờ các công trình công cộng giúp lưu thông tài nguyên và nhờ dòng vốn của Anh giúp đất đai đem lại những vụ mùa nhanh chóng và liên tục. Các đồn điền chè rộng lớn phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ của người châu Âu khiến cho chè trở thành một sản phẩm xuất khẩu có giá trị của đảo. Nhưng nói nhỏ với nhau, chè Ceylan không ngon mà chất lượng cũng kém. Tuy nhiên, chè Ceylan đã chiếm được thị trường Anh và đang cố chinh phục các thị trường khác. Nhờ lối quảng bá thông minh và sự ưu ái của chính quốc mà chè Ceylan được chào đón ở mọi gia đình Anh. Chỉ bằng lời rao suông và giá rẻ, chè Ceylan liệu có chiếm được cảm tình của các khách hàng Pháp mà các chủ đồn điền chè vẫn thèm muốn không? Có thể lắm, nếu Đông Dương, nơi có điều kiện sản xuất ra loại chè ngon, không “thọc gậy bánh xe”. Theo truyền thuyết Cơ Đốc giáo ở châu Á, thiên đường hạ giới nằm ở Ceylan, nơi người đàn ông và người phụ nữ đầu tiên đã sống. Đỉnh núi Adam phủ bóng lên toàn đảo. Các tôn giáo khác cũng không có gì phải ghen tỵ. Trên một ngọn núi, mà có khi lại chính là ngọn núi mang tên Adam, có cả một dấu chân khổng lồ của Đức Phật. Ấy là tôi còn chưa nói tới các giáo chủ Do Thái giáo đang sống ở Colombo hay ở sâu trong nội địa. Việc hòn đảo này bao dung nhiều tôn giáo khác nhau là một nét đẹp riêng của nó. Ceylan chắc chắn là tuyệt phẩm của thiên nhiên nhiệt đới; có lẽ không nơi đâu cho thấy sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa vẻ sống động tràn trề với sự thân thiện, giữa nét dịu dàng và mạnh mẽ như ở Ceylan. Các cây lớn, sắc hoa tươi thắm, đất đỏ như son không làm người ta chán mắt. Tất cả hòa chung, kết hợp nhuần nhuyễn với con người trên đảo, những tộc người đẹp của nhân loại, họ nồng hậu mà rụt rè. Người châu Âu thả mình trong vẻ đẹp của Ceylan, trong sự quyến rũ mênh mông về chiều rộng và thăm thẳm về chiều sâu của nó. Và trong khung cảnh đó anh ta tưởng tượng ra cho mình một cuộc sống êm đềm, không phải động chân động tay mà chỉ ngồi mơ mộng, không phải gắng sức, không phải lo toan, không phải sầu não, để rồi sau rốt anh ta được hòa mình vào cái toàn thể vĩ đại và đi tới những nơi xa lạ của một thế giới khác mà không còn thấy sợ nữa. Đó là ấn tượng của một du khách, một ấn tượng nhất thời. Hoạt động và tư duy, những đặc tính của người châu Âu, sẽ nhanh chóng trỗi dậy, và những ai ở lại đảo sinh sống sẽ vận động chân tay. Cũng như với mọi nơi khác, người Anh đã mang tới đây các phong tục và thói quen của họ. Họ sống quanh vùng Colombo trong những ngôi nhà tiện nghi không khác mấy so với những ngôi nhà ở đồng quê London. Cuộc sống gia đình và sinh hoạt xã hội của họ ở đây và ở Anh chẳng khác gì nhau. Mặc dù có sự chênh lệch lớn về nhiệt độ giữa Anh và Ceylan nhưng chiếc áo đuôi tôm và thói quen mặc nó vẫn được tôn kính và được áp dụng như ở Anh. Những người ưa vận động cũng vẫn chơi các môn thể thao vào những giờ hệt như ở Anh. Thời gian dành cho thể thao cũng bất khả xâm phạm như thời gian làm việc. Vả lại, người Anh làm việc ít nhưng hiệu quả. Chưa chắc họ làm được ít việc hơn so với những người làm việc quần quật trong thời gian dài. Con tàu dừng lại ở Colombo một ngày trong một vũng tàu rộng lớn, chiếm toàn bộ cảng. Các tàu được buộc vào các phao tiêu cố định, nhờ đó mà một số lượng lớn các tàu được xếp thành hàng ở hai bên và chừa ra một lối đi rộng và thoáng ở giữa. Không có ke, không có bến, tất cả các hoạt động xếp dỡ hàng hóa, hành khách lên xuống tàu, cung ứng than và nước cho tàu đều được thực hiện bằng các tàu nhỏ đủ các cỡ như sà lan, sà lúp, thuyền… Hiển nhiên cảng này không thuận tiện hoặc phát triển bậc nhất, nhưng đối với một cảng trung chuyển hàng hóa tầm tầm như vậy thì như thế là khá tốt. Những người phu Ấn Độ nhanh nhẹn vác than đi dọc hai bên cảng; trông họ đen đúa chẳng kém gì những bao than họ đang vác. Cảng được che chắn bởi một con đê dài kiên cố. Những đợt sóng biển hung dữ xô vào bờ đê rồi vỡ òa. Nước bắn tung lên cao thành từng chùm tuyệt đẹp rồi rơi xuống mặt đê, làm chùn chân khách bộ hành. Quả là một cảnh tượng đáng chiêm ngưỡng. Bản thân con đê cũng khiến người nhìn không thể dửng dưng. Đó là một công trình vĩ đại và đẹp đẽ khiến các kỹ sư Anh có thể mở mày mở mặt. Để dựng lên được một con đê chắn sóng bất khả xâm phạm mà đối chọi giữa biển cả không cho nước tràn qua, người ta đã phải kè một cái móng bằng loại đá đặc biệt rồi mới xây lên trên. Sau đó cả khối này đã gắn kết lại một cách rắn chắc, có thể chống chịu được những đợt tấn công hung bạo nhất của sóng biển. Không lâu sau khi rời Colombo, chúng tôi vượt qua mũi phía nam của đảo Ceylan, nơi có Pointe-de-Galles, một cảng nhỏ trước đây vốn là nơi trung chuyển thư tín. Cảng này giờ đã tồi tàn hơn trước rất nhiều và có vẻ là không thể cải thiện được nữa, vì thế mà người ta mở cảng Colombo, cảng quá cảnh tổng hợp đón tàu chở thư và tất cả các tàu cần tiếp nhiên liệu dọc đường giữa Biển Đỏ và Singapour. Colombo cũng là đầu mối các tuyến nhánh chạy tới các cảng trong vịnh Bengale, các tàu ở đây trao đổi bưu phẩm với các tàu chở thư trên tuyến chính đi Trung Quốc. Từ Ceylan tới mũi Đông Bắc của đảo Sumatra không có gì lý thú. Về mùa đông như trong chuyến hành trình của chúng tôi, gió mùa đông bắc thổi đều. Thời tiết mát mẻ; các phòng trên boong tàu và các phòng ở bên trái tàu được hưởng gió rất dễ chịu. Đối với những hành khách vốn không có việc gì làm trong chuyến đi, họ đọc sách, chơi bài, ngắm những con tàu qua lại để giết thời gian. Vài con cá voi bơi qua tàu chúng tôi một quãng không xa, phá vỡ đi sự đơn điệu của một vùng biển yên tĩnh. Đây chỉ là bề mặt của một đại dương ẩn chứa những đợt sóng ngầm khiến con tàu tròng trành theo một nhịp điệu chậm rãi đến mức gần như không nhận thấy. Ngay đến những người nhạy cảm nhất cũng không cảm thấy khó chịu. Đất liền lại xuất hiện và luôn luôn ở trong tầm nhìn của chúng tôi cho tới khi tàu đến Singapour. Kìa đảo Sumatra với Mũi Achem, nơi có một ngọn hải đăng tuyệt đẹp. Nhà cửa xung quanh nó nhiều khác thường, thậm chí là so với những ngọn hải đăng ở xứ nóng, nơi chỉ có một hai ngôi nhà để những người gác hải đăng ăn ở. Vì đâu lại có những tòa nhà sang trọng này? Đó là vì người Hà Lan không làm chủ được hết mọi nơi trên đảo Sumatra, nơi có những bộ tộc man rợ đánh nhau với họ liên miên nhiều năm nay chưa phân thắng bại. Mũi Achem nằm trong vùng chưa thần phục, do đó chỉ một toán người gác ngọn hải đăng thôi là chưa đủ; cần có những người bảo vệ, một đội lính đồn trú. Chính trại lính đã làm cho nhà cửa dưới chân hải đăng đông lên. Khi chưa có quân đồn trú ở đây, ít nhất đã có một lần những người gác hải đăng bị thảm sát, thậm chí người ta nói họ đã bị ăn thịt. Điều chắc chắn là những người này đã chết, còn việc hậu sự đối với thi thể họ diễn ra như thế nào chỉ là thứ yếu. Thà bất ngờ bị giết chết ngay, trừ việc sau đó bị ăn thịt, còn hơn là chết trong sự tra tấn tàn bạo của những tộc dã man. Những tộc dã man này cho dù có không phải là những kẻ ăn thịt người đi nữa thì cũng không đáng được đếm xỉa và coi trọng nữa. Những câu chuyện mà chúng tôi không khỏi nhớ đến khi đi qua đây đã khiến Mũi Achem hoang dã nhuốm màu sát khí. Lúc này chúng tôi đang chạy một cách yên bình trong eo Malacca60 và nhìn thấy những dải đất xanh tươi, lúc thì ở bán đảo Mã Lai mạn tay trái, lúc thì ở các đảo mạn tay phải, nhưng thường thì cả hai bên đều phủ một màu xanh mướt như nhau. Thật là một bữa tiệc cảnh sắc no mắt. Biển lặng như tờ, gió mùa hầu như không còn thổi ở những chỗ được che chắn này, nhiệt độ bắt đầu cao lên. Singapour Chúng tôi tới Singapour vào buổi sáng; đây là một trong những cảng lớn của thế giới. Singapour là một trong những cảng tàu bè qua lại nhiều nhất để tới các vùng biển ở Viễn Đông. Mọi tuyến đường biển đều phải qua đây: châu Âu đi Trung Quốc, Nhật Bản, Siberia, Đông Dương và Xiêm La61. Người ta thấy tầm quan trọng về thương mại và chiến lược của địa điểm này, “cái rốn” của hành tinh. Theo tôi nghĩ, người Anh không để cho người khác nghĩ tới chuyện chiếm Singapour. Vì thế họ sở hữu gần như mọi điểm giao cắt và giám sát các tuyến hàng hải chính ở đó. Họ muốn làm chủ vùng biển này và họ đã sử dụng một trong những biện pháp hữu hiệu để đạt mục đích đó. Ngoài ra họ còn huy động một hạm đội hùng hậu và tăng cường sử dụng đường cáp ngầm dưới biển. Singapour, trạm gác trên biển và căn cứ của hạm đội Anh, được bảo vệ và bố phòng bằng các biện pháp quân sự. Khu vực đồn trú rất lớn, chưa nói tới quân số cũng rất đông. Nếu địch quân muốn đổ bộ thì nhất định sẽ phải tính tới lực lượng đồn trú này. Quân phòng thủ luôn hiện hữu ở khắp nơi. Nhất định là những kẻ tấn công phải có những đôi mắt tinh tường như mắt du khách nhưng tò mò và cảnh giác hơn. Vậy ta đánh giá sự phòng thủ của Singapour ra sao? Để đánh giá được, ta phải biết đầy đủ sự phòng thủ đó, và sự đánh giá lại phải tế nhị. Điều tôi có thể gợi ý mà không hề cường điệu là với sức mạnh của hải quân, với vị thế chủ nhân trên mặt biển, người Anh tự tin tới mức họ không thèm quan tâm đến các công sự, hầu như luôn bỏ bê chúng. Số bãi pháo ít ỏi bảo vệ Singapour và Hương Cảng62 mà chúng ta biết đã khẳng định quan điểm của châu Âu về vấn đề này. Trên cả tuyến đường biển đi Trung Hoa và so với các điểm của lục địa châu Á, Singapour là thành phố gần xích đạo nhất. Thế nhưng đây lại không phải là một trong những nơi nóng nhất như lẽ ra phải thế. Khác với hầu khắp vùng nhiệt đới này, Singapour không có mùa mưa và mùa khô xen kẽ nhau. Mỗi ngày ở đây đều nhận được một lượng mưa khá nhiều trong vài giờ, làm dịu mát đáng kể bầu không khí. Do đó, nóng bức không kéo dài và khí hậu khá dễ chịu đối với người châu Âu. Các thành phố Vọng Các63 và Sài Gòn tuy nằm xa hơn Singapour vài độ về phía bắc nhưng không thể so được với Singapour. Thành phố này sống nhờ vào vị trí nằm giữa hai thế giới, thế giới Ấn Độ và thế giới Đông Á, nhờ vào sự hội tụ trong lòng nó một sự pha trộn kỳ lạ của các quần cư tạp nham được đặt cạnh nhau mà không hòa lẫn vào nhau, nếu không nói là không biết nhau. Tất cả các tộc người chúng tôi thấy ở Colombo, từ người Sick cao lớn ở miền núi tới người Bengale mảnh khảnh ở hai bên sông Hằng, đều có mặt ở đây bên cạnh những người bản địa trên bán đảo Mã Lai. Nhưng đây là nơi đầu tiên xuất hiện tộc người đại diện cho giống da vàng: người Hoa. Họ thông minh, năng động, trung thực và có mặt ở khắp nơi. Những gì họ kiếm được ở Singapour là rất lớn, chỉ sau người Anh. Chính phủ Singapour, hay chính xác hơn là chính phủ vùng Eo Biển, dựa vào người Hoa và đối xử tốt với họ như những công dân trung thực và trung thành của Nữ hoàng Anh. Dòng người Hoa nhập cư vào các bang hay các tỉnh của Mã Lai diễn ra không ngừng. Họ là những phu phen, những người lao động tới xin việc trong các đồn điền, chủ các hãng buôn, các nhà máy. Số lượng người Hoa ngay tại Singapour cũng rất đông; họ chiếm hẳn một khu phố đông dân. Những người thông minh nhất, cần cù nhất, từng bước ngoi lên vị trí từ bán hàng rong đến chủ cửa tiệm lớn. Đôi khi họ vươn lên buôn bán với người nước ngoài, làm ăn lớn. Các hãng buôn Trung Hoa lớn và giàu có không phải là hiếm, và người ta thấy trong thành phố nhiều người Hoa có những cỗ xe ngựa bốn bánh kiểu Victoria hoặc coupé, thắng ngựa Úc rất đẹp. Đàn ông Trung Hoa bỏ áo dài và cắt bím tóc sau lưng để mặc áo dạ và đội mũ quả dưa; họ tự “văn minh hóa” mình hoàn toàn bằng cách chơi bời ở các câu lạc bộ và cá cược ở các trường đua ngựa. Những người như thế ta không đếm xỉa tới, cũng như ở Pháp không đếm xỉa tới con cái những gia đình ăn không ngồi rồi và vô tích sự, cặn bã của nền văn minh. Ở đây có người để thay thế chúng. Trung Hoa là một vườn ươm người vô tận. Con cái họ biết nhau, giúp đỡ nhau và gắn bó với nhau. Các hãng Trung Hoa không bao giờ thiếu người điều hành. Thương nhân Trung Hoa tự xây dựng được chỗ đứng, mà lại là chỗ đứng vững chắc, ở Singapour cũng như trên khắp vùng Viễn Đông trong nền thương mại của Anh mà không làm tổn hại tới nền thương mại đó. Hay đúng hơn là họ bổ khuyết cho nền thương mại Anh bằng cách làm những gì nền thương mại đó không thể hoặc không muốn làm. Nhưng trong những năm gần đây xuất hiện một đối thủ cạnh tranh cho cả thương nhân Trung Hoa và thương nhân Anh, nguy hiểm cho cả hai bên, một bên là người lao động và ham làm giàu, một bên có kỹ năng giao dịch thương mại và có vốn. Đối thủ đáng gờm đó là người Đức. Người Đức đã có những hãng to nhất ở các thuộc địa của Anh, ở Singapour cũng như ở Hương Cảng. Một quan chức cấp cao của Đế quốc Trung Hoa, nhờ trí tuệ lỗi lạc và sáng suốt mà được bổ làm Công sứ ở châu Âu, đã làm đầu óc tôi rối tung về vai trò của ba dân tộc cạnh tranh nhau trong buôn bán ở châu Á. Ông ta nói với tôi: “Các thương gia Anh chỉ thực hiện những thương vụ lớn. Họ làm việc ngắn gọn, họ ra giá chắc, không nài thêm hay bớt xén một đồng. Họ buôn bán như những ông hoàng. Người Hoa chỉ thực hiện những thương vụ vừa vừa và nhỏ. Họ tìm kiếm các cơ hội làm ăn, làm phát sinh các nhu cầu. Đó là những con người dám nghĩ dám làm, mưu mẹo nhưng trung thực. Người Đức thì làm tất cả các thương vụ, to cũng như nhỏ, và bằng mọi cách.” Tôi không cần phải chỉ ra rằng thương nhân Pháp thì không có vấn đề gì. Người tiếp chuyện với tôi không hay biết gì về họ và tôi cũng không ngạc nhiên về điều đó, bởi lẽ có quá ít thương nhân Pháp ở Viễn Đông! Thời gian tàu dừng lại ở Singapour đủ cho du khách tham quan thành phố, công viên, các hồ chứa nước và vùng nông thôn xung quanh. Thành phố là nơi diễn ra các hoạt động thương mại của người Âu và người Hoa, đồng thời cũng là nơi sinh sống của người Á. Ở đây không thiếu những điều thú vị. Trước mắt chúng tôi, thành phố toát lên vẻ nhộn nhịp và thịnh vượng thực sự. Khu người bản địa rất đông đúc, thậm chí ở một số nơi họ còn chen chúc nhau mà sống, và thường thì chỗ nào cũng bẩn thỉu nhếch nhác đến không ngờ trên xứ sở mang tiếng là đất của của người châu Âu. Người Anh hình như đã tôn trọng quá mức phong tục tập quán bản địa. Hoàn toàn có thể đặt ra một số quy tắc vệ sinh hữu ích cho tất cả mọi người mà không gây phiền hà đến ai. Không cần phải nghiên cứu lối sống của người Anh ở Singapour; tuy nhiên, ở đây mưa nhiều đã cản trở các cuộc thi đấu và các môn thể thao quen thuộc. Những ngôi nhà ở nằm rải rác xung quanh một vườn bách thảo đẹp và trong một vùng quê gần bên, cây cối um tùm và nhấp nhô làm thành một khung cảnh hoàn hảo cho thành phố. Dinh và hoa viên của Thống đốc tọa lạc cách cảng ba hoặc bốn cây số cũng ở trong khung cảnh như vậy. Dinh Thống đốc nằm trên một ngọn đồi, rộng lớn và có tỷ lệ hài hòa. Từ sân thượng, tôi thấy trải ra phong cảnh một bên là biển và các đảo, một bên là các khu vườn. Thống đốc, ngài Mitchell, người tôi mới quen khi tới Singapour, là cựu sĩ quan Hải quân Hoàng gia, sau trở thành quan chức thuộc địa và được bổ nhiệm Thống đốc khoảng ba năm nay. Ông qua đời năm 1901 khi còn đang tại nhiệm; cái chết của ông khiến ai cũng thương tiếc. Vợ ông, bà Mitchell, với vẻ tao nhã hoàn hảo, là hiện thân của sự tử tế và thân thiện. Tôi không biết bà đi đâu sau cái chết của chồng; tôi muốn rằng những dòng này sẽ mang lại cho bà những kỷ niệm cảm động và gửi tới bà lòng kính trọng của những người Pháp ở phương Đông, những người quen biết bà. Thống đốc Các Thuộc địa Eo biển64 có một người phụ tá là Phó Thống đốc hay còn gọi là Tổng thư ký. Người này giúp Thống đốc trong việc cai quản và thay quyền Thống đốc khi ông ta vắng mặt, ngoài ra còn có một Thống sứ có trách nhiệm cai trị các bang được bảo hộ trên bán đảo Mã Lai. Hai vị trí cấp cao là Thống đốc và Phó Thống đốc này do hai anh em ông Swettenham nắm giữ; cả hai đều là các quan chức thuộc địa lâu năm và có uy tín. Phó Thống đốc, Ngài Alexander Swettenham, đã tiếp tôi nhiều lần ở Singapour với thái độ hết sức thân thiết. Lúc đó ông đang là quyền Thống đốc. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, sau bữa trưa, ông mời tôi đi thăm khu vườn xung quanh Dinh. Tôi vui vẻ nhận lời. Ông vừa cười vừa nói: – Ông cho phép tôi đội mũ hề đi cùng ông nhé? Rồi ông lấy một chiếc mũ mềm bằng dạ xám, nông nhưng rộng, vui vẻ đội lên đầu. Ông giải thích với tôi rằng ông đã vài lần đánh liều đội chiếc mũ đó, bất chấp những lời chế giễu của một số đồng bào ông, mặc kệ báo chí Singapour lên tiếng chỉ trích. Ông nói thêm với vẻ ranh mãnh: – Trong khi các tờ báo bàn tán về chiếc mũ của tôi, họ sẽ không nói về những vấn đề khác. Họ cứ mải cười cợt vào những thứ mà tôi bận trên người nên không còn thời gian đâu mà soi mói vào những việc tôi đang làm nữa. Thật là một nét hài hước đẹp kiểu Ăng-lê! Cảng Singapour có cơ sở vật chất nghèo nàn, trong khi có nhiều tàu thuyền lui tới. Cầu cảng, kho hàng, lán chứa tàu, đê chắn sóng, tất cả mọi thứ đều có vẻ tạm bợ; tất cả mọi thứ trông thật tồi tàn. Điều này không cản trở việc cập bến dễ dàng và ăn than rất nhanh của các tàu thuyền. Nhân công quý giá ở Đông Á65, tức phu phen Trung Hoa, có những phương thức làm việc đáng giá. Đó là những hàng thợ thuyền nhanh nhẹn, đi sát nhau như một hàng dây, vác những bao than lên tàu rồi đi xuống, chăm chú vào công việc, không nhìn gì ngoài bàn chân người đi trước mình, không nghe gì, không để ý tới mồ hôi chảy ròng ròng trên người hay tới bụi than mù mịt trước mắt. Họ đi, luôn luôn theo cùng một kiểu, không dừng lại cho tới khi hầm tàu đầy. Sau khi xong công việc, họ tắm rửa nhanh ở trên tàu, đưa các bọc thư lên tàu và ra về. Để tới Sài Gòn đúng giờ, phải tính toán thời gian khởi hành sao cho ngược sông vào Sài Gòn lúc thủy triều cao và tàu cập bến không gặp khó khăn. Biển Đông Công tác chuẩn bị trên tàu bị kéo dài nên chúng tôi rời Singapour vào chiều muộn ngày thứ Tư, ngày 4 tháng Hai. Liệu chúng tôi có tới được cửa sông Sài Gòn vào sáng sớm ngày thứ Sáu để ngược sông trước lúc đêm xuống không? Thuyền trưởng tin rằng có thể được nhưng không chắc chắn lắm, nhất là vì thời tiết không thuận sau khi chúng tôi rời Singapour. Khi chúng tôi còn ở trong eo biển, chưa ra biển rộng, sóng đã lớn. Húc phải những lưỡi sóng ở phía trước, tàu Melbourne chồm lên bổ xuống rất dữ dội. Thế là ngay tức khắc hành khách lui về phòng của họ hoặc nằm bẹp trên những chiếc ghế phô tơi. Trên boong mọi thứ được chằng buộc cẩn thận. Tàu bị lắc mạnh trong đêm, liên tục trồi lên hụp xuống. Thật là một cảnh đẹp khi từ lan can đằng trước phòng lái nhìn ra thấy mũi tàu ngóc lên cắt các con sóng như một con ngựa bất kham chồm lên. Nhưng một con ngựa liên tục chạy kiểu này sẽ không đi được bao xa. Tàu của chúng tôi cũng giống như con ngựa đó nên không thể đi nhanh được; cứ mỗi khi mũi tàu chúi xuống đuôi nhô lên thì chân vịt lại chòi lên khỏi mặt nước và chơi vơi trong không khí, quay tít một cách ồn ào và làm cho thân tàu rung động mạnh. Những cái hôn độc địa của biển cả khiến bộ chân vịt sợ hãi cuống cuồng lên như thế, và điều đó càng khiến cho nó phải khổ sở hơn. Ngày qua rồi đêm lại mà tình hình không có gì thay đổi. Tình hình trở nên thậm tệ vào sáng thứ Sáu; các con sóng đã thành rất lớn. Bầu trời vẫn u ám và trưa hôm đó, cũng giống như ngày hôm trước, chúng tôi không thể xác định được vị trí của tàu. Thuyền trưởng ước chừng vị trí tàu theo tốc độ, lúc này đã giảm đáng kể, và giả định rằng tàu không bị các hải lưu đẩy sang phải hay sang trái của hành trình đã được vạch trên bản đồ và đã đi theo la bàn. Chuyển động hỗn loạn của tàu, những cú va đập liên tục của sóng vào bánh lái đã làm cáp lái bị đứt. Cáp lái là một dây thừng hay dây xích cho phép phòng lái ở phía trước điều khiển cần lái ở phía sau; nó gồm hai sợi chạy dọc theo hai bên tàu. Nếu cáp lái bị đứt, cần lái không còn bị giữ nữa, bản lái sẽ tự do lật đi lật lại từ bên này sang bên kia theo dòng nước, và tàu không thể điều khiển được nữa. Cáp lái của tàu Melbournebằng da; hiện nay ở những tàu tải trọng lớn người ta hầu như chỉ dùng dây xích làm cáp lái. Cần phải nhanh chóng giữ cần lái bằng dây thừng lớn để tránh thiệt hại nghiêm trọng hơn và cố gắng giữ cho tàu đi đúnghướng. Đây chính là lúc mà sự mạnh mẽ và kiến thức thực tế của thuyền trưởng Malaval chứng tỏ được giá trị của mình. Ông ra lệnh làm những việc cần thiết và hỗ trợ thực hiện. Cần lái được giữ bằng thừng; nhờ các ròng rọc gắn vào cầu và tời tạm bợ ở phía sau, người ta đã có thể tạm lái con tàu. Trong khi đó, các thủy thủ vội vàng sửa chữa cáp lái và đặt nó trở lại vị trí cũ. Tàu Melbourne lại có thể tiếp tục hành trình. Biển động không ngớt. Khi đêm xuống sóng dường như càng to hơn, càng dồn dập hơn. Và mỗi khi tàu chúc đầu xuống chân vịt lại nhô lên khỏi nước và phát ra tiếng kêu loạn xạ. Khoảng 9 giờ tối xảy ra một sự cố: cáp lái lại bị đứt. Cả tàu lại một phen náo động. Trong đêm, việc xử trí sự cố này không hề dễ dàng, phải mất một thời gian mới giữ được cần lái. Con tàu dần dần chạy ngang sóng, mỗi khi lắc dọc giảm thì lại càng ngả nghiêng thêm từ trái sang phải rồi từ phải sang trái. Có những con sóng như một con quái vật chạy về phía tàu chồm lên cao hơn tàu vài mét. Một hành khách khi ra khỏi phòng vô ý bị xô vào một cái thang và bị gãy chân. Thuyền trưởng và thuyền phó khẩn trương sửa chữa cáp lái. Có một lúc, tôi đứng hơi xa họ, sóng tràn lên boong xô ngã tôi và làm tôi lăn vào một đống dây thừng. Tôi còn chưa kịp nhận ra rằng các thủy thủ đang làm việc ở cần lái bên cạnh tôi thì họ đã nâng tôi đứng dậy một cách ân cần. Tôi thấy mình phải chú ý hơn để không làm ai phải lo lắng. Thuyền trưởng Malaval bị ngã một cú đau hơn ở chỗ các tấm ván trên boong được tháo ra để nhìn rõ cần lái hơn. Ông bị va vào cái gì đó khiến ông đau điếng, bật ra một câu chửi thề, và rồi lại tiếp tục công việc của mình. Việc lắp đặt tạm thời được thực hiện; sáu người dùng sức giữ bánh xe phía sau gắn với lái. Vấn đề không phải là làm cho con tàu giữ được hướng đi mà chỉ đơn giản là cố giữ nó sao cho sóng đánh từ phía trước tới mà không đánh ngang vào mạn tàu. Sĩ quan trực trên boong lái giờ đây không lái tàu nữa mà quan sát đường chân trời. Ở vị trí tàu của chúng tôi lúc đó nếu một con tàu khác tới thì hẳn chúng tôi sẽ không thể tránh được nó. Ngoài ra, chúng tôi còn treo đèn tín hiệu trên cột buồm để thông báo: “Chúng tôi không điều khiển được tàu”. Tất cả các tàu thấy tàu chúng tôi trên biển như vậy sẽ vội vàng tránh xa; như thế là tốt cho cả đôi bên. Với rất nhiều khó khăn và mất khá nhiều thời gian, các thủy thủ đã sửa được cáp lái và đặt nó trở lại chỗ cũ. Thế là tàu lại lái được, chúng tôi lại có thể tiếp tục hành trình. Nhưng Chỉ huy trưởng Duchateau tỏ ra bối rối: biển rất xấu; thêm nữa, ông ta không biết lúc đó tàu đã bị giạt tới đâu. Tàu chúng tôi đã bị lệch khỏi hành trình bao xa và lệch theo hướng nào? Theo la bàn, chúng tôi đã đi theo hướng mà đúng ra phải thấy ngọn hải đăng ở đảo Côn Sơn66 bên mạn trái tàu; nhưng sao giờ vẫn chưa thấy nó? Liệu có thấy nó không? Và nếu không thấy nó thì sao? Vùng đất Nam Kỳ không còn xa; sẽ có những mỏm ngầm nguy hiểm. Xét mọi mặt, thận trọng nhất vẫn là cứ chạy càng chậm càng tốt theo hướng đang chạy và điều khiển cho tàu trôi trên sóng, để cho sóng đưa đi. Nhưng như thế chúng tôi sẽ không tới được Sài Gòn vào ngày hôm sau, tức ngày thứ Bảy, mà mọi người thì chờ đợi chúng tôi từ thứ Sáu vì điện tín từ Singapour đã báo giờ tàu tới Sài Gòn. Thuyền trưởng, thuyền phó và tôi, chúng tôi họp với nhau. Tôi muốn nhậm chức càng sớm càng tốt, và tôi nghĩ rằng đã mất quá nhiều thời gian mặc dù biển đã ban tặng cho chúng tôi nhiều cảnh tuyệt đẹp. Nếu tập trung, khéo léo, và thêm một chút may mắn, chúng tôi sẽ có thể cập bến được. Trả lời câu hỏi của Chỉ huy trưởng, thuyền trưởng Malaval nói rằng có thể được.