🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Xứ Cát - Frank Herbert Ebooks Nhóm Zalo Giới thiệu Một thời điểm rất xa trong tương lai... Từ đời này sang đời khác, người Fremen trên hành tinh sa mạc lưu truyền lời tiên tri về một đấng cứu tinh sẽ dẫn dắt họ giành lấy tự do đích thực... Từ thế hệ này sang thế hệ khác, những nữ phù thủy Bene Gesserit mỏi mòn chờ đợi sự xuất hiện của một B.G. nam giới duy nhất, người có thể vượt qua mọi giới hạn không gian - thời gian... Là Lisal al-Gaib của người Fremen, là Kwisatz Haderach của học viện Bene Gesserit, chàng công tước trẻ tuổi Paul Atreides đã làm tất cả những gì có thể để thay đổi định mệnh đó. Cha bị giết chết, mẹ bị cho là kẻ phản bội, gia tộc bị tàn sát, bản thân bị săn đuổi đến đường cùng, Paul đơn độc dấn thân vào một cuộc phiêu lưu sinh tử, không hề biết rằng mỗi hành động của mình sẽ góp phần quyết định vận mệnh của cả thiên hà. Sa mạc Arrakis khắc nghiệt tưởng như sẽ là nơi chôn vùi vĩnh viễn vinh quang của gia tộc Atreides, nhưng hóa ra lại thành điểm khởi đầu cho một huyền thoại mới... Là một trong những cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng bán chạy nhất mọi thời đại, Xứ Cát không chỉ là lựa chọn đối với những tín đồ của Chúa nhẫn, Chiến tranh giữa các vì sao... mà còn chinh phục độc giả đủ mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp và sở thích bởi sự đa dạng và phức tạp của con người và không gian trong truyện, bởi sự tinh tế trong xây dựng tâm lý, bởi sự hấp dẫn, căng thẳng và bất ngờ của cốt truyện, bởi sự độc đáo và thú vị của khối lượng kiến thức khổng lồ cũng như bởi sự hấp dẫn trong những tư tưởng về tôn giáo, về tự do, về tình yêu, về sự sống và cái chết... Ngay sau khi ra đời, Xứ Cát đã nhanh chóng được giới phê bình nhiệt liệt chào đón, được trao giải Nebula dành cho tiểu thuyết khoa học giả tưởng hay nhất năm 1965, rồi năm sau lại đoạt giải Hugo. Xứ Cát đã được bán hàng triệu bản và trở thành tiểu thuyết khoa học giả tưởng bán chạy nhất mọi thời đại. Cũng như J.J. Tolkien đã tạo ra cả một vũ trụ riêng, hoàn toàn khác biệt - Middleworld - cho Lord of the Ringđồ sộ của ông, Frank Herbert khai sinh cả một vũ trụ mênh mông, kỳ vĩ của riêng mình - Dune Universe - làm bối cảnh cho loạt truyện lừng danh Xứ Cát. Vũ trụ đó quá rộng lớn không thể nào tóm gọn trong khuôn khổ một bài viết, và thậm chí bản thuật ngữ mà chính ông cung cấp cho độc giả ở cuối Xứ Cát cũng còn xa mới gọi là đủ để có được một hình dung tạm gọi là khái quát về nó. Đọc Xứ Cát đòi hỏi một niềm đam mê thực sự, cũng như một cam kết nghiêm túc và lòng kiên nhẫn. Bạn đọc biết tiếng Anh có thể (và cần phải) tham khảo các nguồn như Wikipedia hầu tìm hiểu sâu hơn về Vũ trụ Dune, lĩnh hội và hân thưởng đầy đủ hơn kích thước đồ sộ và mức độ tinh vi khó lường của nó. Xứ Cát đích thực là một tác phẩm kinh điển của văn chương khoa học giả tưởng, và, về thực chất, là một cuốn sách kinh điển của văn chương. - “Một trong những tượng đài tiểu thuyết khoa học giả tưởng hiện đại” - Chicago Tribune - “Nơi đây có thứ dành cho tất cả những ai yêu thích tiểu thuyết khoa học giả tưởng” - Publishers Weekly - “Độc nhất vô nhị... không chỉ có thể sánh nổi, ngoại trừ Chúa nhẫn” - Arthur C. Clarke - “Mạnh mẽ, hấp dẫn, và tài tình bậc nhất” - Robert A. Heinlein Những lời ca ngợi dành cho DUNE CHRONICLES DUNE “Một trong những tượng đài tiểu thuyết khoa học giả tưởng hiện đại.” - Chicago Tribune “Không gì sánh nổi, ngoại trừ Chúa nhẫn.” - Arthur C. Clarke DUNE MESSIAH “Sáng chói... Có tất cả những gì Xứ Cát có, và có lẽ còn nhiều hơn nữa.” - Galaxy Magazine CHILDREN OF DUNE “Sự kiện lớn.” - Los Angeles Times “Nơi đây có thứ dành cho tất cả những ai yêu thích khoa học giả tưởng.” - Publishers Weekly GOD EMPEROR OF DUNE “Thức ăn bổ dưỡng... Món ăn đậm men say.” - Los Angeles Times “Chuyến viếng thăm thứ tư tới Arrakis xa xôi, hấp dẫn đến từng giây phút không khác gì ba lần trước... và hợp thời đến từng chi tiết.” - Time HERETICS OF DUNE “Một phần vĩ đại của công trình tưởng tượng... ma lực không thể phủ nhận.” - Los Angeles Herald Examiner “Cuốn hút và thú vị... Mỗi chi tiết đều hấp dẫn, nhưng lại được che giấu dưới sự bí ẩn và chủ nghĩa thần bí.” - The Milwaukee Journal “Chinh phục lòng người... sự bổ sung giá trị cho seri có sức sống bền bỉ và được yêu thích một cách xứng đáng này.” - The New York Times “Bức tranh toàn cảnh về một xã hội ngoài hành tinh hoàn thiện và chi tiết hơn bất kỳ tác giả nào trong lĩnh vực này từng dựng được... Một câu chuyện lôi cuốn vừa bởi hành động vừa bởi tầm nhìn triết học.” - Washington Post Book World Đôi lời giới thiệu về tác giả Franklin Patrick Herbert, Jr. là nhà văn khoa học giả tưởng lừng danh người Mỹ, vừa được giới phê bình ca ngợi vừa rất thành công về mặt doanh thu. Ông sinh ngày 8/10/1920 ở Tacoma, bang Washington. Ông bắt đầu làm báo ngay từ năm 19 tuổi và theo đuổi công việc này gần trọn cuộc đời. Ngoài làm báo, chụp ảnh, phát thanh viên, Herbert còn làm cả những nghề như thợ lặn bắt hàu, chuyên viên hướng dẫn kỹ năng sống sót trong rừng rậm, những nghề không mấy liên quan đến văn chương. Tuy nhiên, dẫu cho cái tiểu sử “cần lao, thực tế, gần-mặt-đất” này có thể khiến nhiều người liên tưởng đến trường hợp Raymond Carver - cũng chật vật đủ nghề để sống còn: gác cổng, thợ cưa... - song có lẽ không có gì khác nhau đến vậy giữa thế giới văn chương của hai tác gia đều cùng kiệt xuất đó. Cũng lạ - tuy nghĩ kỹ thì không lạ - rằng một con người từng lăn lộn với cõi thực tại như vậy rồi ra sẽ sống chết với một thế giới hoàn toàn khác, do chính mình tạo ra, một cách trọn vẹn đến vậy. Năm 1947, Frank Herbert gửi truyện ngắn khoa học giả tưởng đầu tiên của mình là Looking for Something cho tạp chí Startling Stories. Sự nghiệp tiểu thuyết của ông khởi đầu với việc ấn hành cuốn Rồng ở biển (The Dragon in the Sea) năm 1955. Cuốn sách đã tiên báo những cuộc xung đột trên toàn cầu trong việc tiêu thụ và sản xuất dầu lửa. Herbert bắt đầu nghiên cứu để viết Xứ Cát năm 1959. Thời gian này, ông “chịu ơn” Beverly, người vợ tâm đầu ý hợp đã tận tụy gánh vác trách nhiệm là lao động chính nuôi gia đình trong suốt thập niên 1960 để ông có thể dành thời gian và tâm lực cho viết lách. Về sau, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Herbert cho biết ý tưởng về cuốn tiểu thuyết hình thành vào thời gian ông được tòa soạn giao viết một bài nói về những cồn cát ở Oregon Dunes gần Florence, bang Oregon, nhưng rốt cuộc ông đâm ra mê đắm vào đề tài đó và thu thập quá nhiều tư liệu so với mức cần thiết cho một bài báo. Dù ông không hoàn thành bài báo này nhưng chính nó là hạt nhân cho những ý tưởng rồi ra sẽ dẫn tới Xứ Cát. Herbert dành gần mười năm nghiên cứu và viết mới hoàn thành Xứ Cát, quá lâu so với truyện khoa học giả tưởng “thị trường” thời đó. Đầu tiên tác phẩm được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Analog, chia thành hai phần (Dune World - Thế giới Xứ Cát và Prophet of Dune - Nhà tiên tri Xứ Cát) vào năm 1963 và 1965. Tuy nhiên, khi Herbert nghĩ đến việc xuất bản thành sách, thử thách mà Xứ Cát phải vượt qua mới thật cam go: bị gần hai mươi nhà xuất bản từ chối trước khi cuối cùng có một nhà xuất bản nhỏ “liều” chấp nhận! Năm 1972, Herbert thôi làm báo mà dành trọn thời gian cho văn chương. Trong thập niên 1970 và 80, ông giành được thành công đáng kể về thương mại. Ông viết nhiều sách, đồng thời quảng bá các ý tưởng của mình về sinh thái học và triết học. Ông viết tiếp bộ trường thiên Xứ Cát và một loạt tác phẩm đáng kể khác như The Dosadi Experiment, The Godmakers, The White Plague, The Jesus Incident và The Lazarus Effect... Herbert qua đời ngày 11/2/1986 do một cơn tắc mạch phổi trong khi đang hồi phục sau một ca mổ ung thư tuyến tụy, thọ 65 tuổi. Frank Herbert dùng tiểu thuyết khoa học giả tưởng để khai phá những ý tưởng phức tạp của mình xoay quanh triết học, tôn giáo, tâm lý học, chính trị và sinh thái học, và chính vì đọc sách của ông, nhiều người đã trở nên hứng thú với các lĩnh vực này. Nỗi thôi thúc sâu xa trong tác phẩm của Herbert chính là mối quan tâm đối với vấn đề sự sống còn và tiến hóa của con người. Herbert có lẽ là nhà văn khoa học giả tưởng đầu tiên quảng bá những ý tưởng sâu sắc về sinh thái và vấn đề tư duy có hệ thống. Ông nhấn mạnh rằng con người cần phải biết suy nghĩ vừa có hệ thống vừa dài hạn. Ông cũng là một trong những người tiên phong trong việc hình dung viễn cảnh những khả năng phát triển hết sức mạnh mẽ của loài người, với những loại cá nhân đầy năng lực và cũng đầy ghê gớm như Mentat và Bene Gesserit. Đối với ông, nhân loại là một kho chứa những khả năng hầu như vô tận, cả tốt lẫn xấu, và sáng tác của ông là một cuộc hành trình vô tận hầu thấu hiểu nó. Rất nhiều độc giả đâm ra hâm mộ Herbert đến độ có thể gọi là cuồng tín, coi ông như một chuyên gia có thẩm quyền tối hậu trong những vấn đề ông tâm đắc. Sự sùng bái đó khiến Herbert đôi khi tự hỏi phải chăng ông đang trở thành một thứ thần tượng, điều mà bản thân ông kiên quyết chống - như ta thấy trong Xứ Cát, cái viễn cảnh mình sẽ trở thành thần tượng tuyệt đối của một dân tộc, dù mình có muốn hay không, sẽ là nỗi ám ảnh và cơn ác mộng khôn nguôi đối với nhân vật chính như thế nào. Xứ Cát là một công trình đồ sộ đến nỗi dường như cuộc đời và tâm lực của một con người là không thể đủ cho nó. Cho nên, hơn mười năm sau khi ông mất, con trai ông, Brian Herbert và một tác giả khác là Kevin Anderson, đã bắt tay kế tục sự nghiệp của ông. Một phần dựa vào các ghi chú, đề cương, bản thảo rời rạc của ông để lại, họ đã viết thêm những cuốn khác bổ sung vào trường thiên Xứ Cát, mở rộng và khai phá thêm nữa cái thế giới xa xăm và bí ẩn, vừa giống vừa khác biệt đó. Người dịch Đôi lời của dịch giả Xứ Cát (Dune) là một cuốn sách hấp dẫn, đồng thời uyên áo và phức tạp. Đọc Xứ Cát có nghĩa là tự thách thức mình thám hiểm một thế giới, một vũ trụ mới mẻ, bí ẩn, thu hút, kỳ tuyệt, cuộc phiêu lưu sẽ đem lại niềm vui sướng và thỏa mãn lớn lao cho những ai đủ nhẫn nại theo nó đến cùng. Bộ tiểu thuyết trường thiên Xứ Cát, hay Dune saga như sách báo nước ngoài vẫn gọi, lấy bối cảnh một thời rất xa trong tương lai và diễn ra trong hơn một ngàn năm, động chạm đến những vấn đề cốt tử như sự sống còn của loài người, sự tiến hóa, sinh thái, và sự giao thoa giữa tôn giáo, chính trị và quyền lực. Thể loại khoa học giả tưởng vẫn thường bị một số người trong giới học thuật-phê bình hàn lâm coi là “genre literature”, hiểu theo nghĩa nào đó là văn chương hạng hai, không đủ tư cách ngồi chung chiếu với “great literature”, văn chương “lớn” hay “nghiêm túc”. Tuy nhiên, ở Xứ Cát, tầm cỡ, chiều sâu, mức độ phức tạp của những chiêm nghiệm siêu hình và tư duy mang tính bản thể luận về con người và vũ trụ, những mối băn khoăn và dự tưởng vừa hào sảng vừa đầy lo âu về tương lai nhân loại, và nhiều, nhiều nữa, tất cả khiến cho người dịch không thể không hoài nghi vào cung cách phân loại võ đoán và nông cạn của các nhà hàn lâm tự phong kia. Cũng như J.J. Tolkien đã tạo ra cả một vũ trụ riêng, hoàn toàn khác biệt - Middleworld - cho Lord of the Ring đồ sộ của ông, Frank Herbert khai sinh cả một vũ trụ mênh mông, kỳ vĩ của riêng mình - Dune Universe - làm bối cảnh cho loạt truyện lừng danh Xứ Cát. Vũ trụ đó quá rộng lớn không thể nào tóm gọn trong khuôn khổ một bài viết, và thậm chí bản thuật ngữ mà chính ông cung cấp cho độc giả ở cuối Xứ Cát cũng còn xa mới gọi là đủ để có được một hình dung tạm gọi là khái quát về nó. Đọc Xứ Cát đòi hỏi một niềm đam mê thực sự, cũng như một cam kết nghiêm túc và lòng kiên nhẫn. Bạn đọc biết ngoại ngữ có thể (và cần phải) tham khảo các nguồn như Wikipedia hầu tìm hiểu sâu hơn về Vũ trụ Dune, lĩnh hội và hân thưởng đầy đủ hơn kích thước đồ sộ và mức độ tinh vi khó lường của nó. Xứ Cát đích thực là một tác phẩm kinh điển của văn chương khoa học giả tưởng, và, trên thực chất, là một cuốn sách kinh điển của văn chương. Bạn đã làm một việc rất đáng làm khi quyết định bắt đầu đọc cuốn sách này, dù chỉ là để biết trí tưởng tượng của con người có thể giàu có và rộng lớn đến đâu, và con người có thể làm được những gì một khi đã quyết liệt thực hiện đến cùng dự án sáng tạo “không giống ai” của mình, với niềm đam mê khôn cùng, ý thức sáng rõ về vị trí của mình trong thế giới, và với lòng quả cảm. Tôi muốn tỏ lòng cám ơn chân thành đến vợ yêu quý của tôi, người đã luôn hỗ trợ tôi về mặt tinh thần, cũng như tất cả các biên tập viên đã hết sức hết lòng làm việc để cùng tôi mang lại bản Xứ Cát bằng tiếng Việt tốt nhất trong khả năng có thể. Người dịch Quyển Một XỨ CÁT Frank Herbert .1. Lúc khởi đầu là thời điểm cần phải cực kỳ cẩn trọng, sao cho mọi cán cân đều chính xác. Điều này mỗi nữ tu của dòng Bene Gesserit đều biết. Do vậy, để bắt đầu nghiên cứu về cuộc đời Muad’Dib, trước hết hãy cẩn trọng đặt Người vào đúng thời đại của Người: sinh vào năm 57 dưới thời trị vì của Hoàng đế Padishah Shaddam Đệ Tứ. Và hãy đặc biệt cẩn trọng đặt Muad’Dib vào đúng nơi vốn là xứ sở của Người: hành tinh Arrakis. Chớ bị đánh lừa bởi việc Người ra đời ở Caladan và sống mười lăm năm đầu đời ở đây. Arrakis, hành tinh được biết đến dưới cái tên Xứ Cát, mãi mãi là mảnh đất quê hương Người. - trích “Sách về Muad’Dib” của Công chúa Irulan Trong tuần lễ trước khi họ khởi hành đi Arrakis, khi tình trạng nhốn nháo lăng xăng đã trở nên điên cuồng đến mức gần như không chịu nổi, một bà già đến thăm mẹ của cậu bé tên Paul. Đó là một đêm ấm áp ở lâu đài Caladan; cái đống đá cổ xưa từng là nơi cư ngụ của suốt hai mươi sáu thế hệ gia đình Asteides mang cảm giác toát mồ hôi lạnh mà nó thường có mỗi khi tiết trời thay đổi. Bà lão được dẫn vào theo cửa phụ, đi dọc hành lang có mái vòm kế bên phòng Paul, và được phép đứng ngắm cậu bé một lát trong khi cậu nằm trên giường. Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn treo móc sát sàn nhà, cậu bé đang thức nhìn thấy bóng một người đàn bà to lớn đứng ở cửa phòng cậu, trước mẹ cậu một bước. Bà lão giống hệt một bóng ma phù thủy - mớ tóc như đám mạng nhện rối nùi, mũ trùm đầu che kín khuôn mặt, cặp mắt như hai viên kim cương lấp lánh. “Thằng bé có hơi nhỏ con so với tuổi của nó không, Jessica?” bà lão hỏi. Giọng bà ta khò khè, đặc giọng mũi, giống hệt tiếng đàn baliset lạc điệu. Mẹ Paul trả lời bằng giọng trầm êm ái: “Người nhà Atreides vốn trưởng thành muộn so với chúng bạn, thưa Mẹ Chí tôn.” “Ta có nghe thế, có nghe thế,” bà lão khò khè. “Nhưng thằng bé cũng mười lăm tuổi rồi.” “Vâng, thưa Đức bà.” “Nó đang thức và nghe chúng ta nói chuyện,” bà lão nói. “Thằng ranh con quỷ quyệt.” Bà ta cười tủm tỉm. “Nhưng người của hoàng tộc cần phải quỷ quyệt. Nếu nó thực sự là Kwisatz Haderach... ừm...” Nằm giữa hai cái bóng hắt lên giường, Paul khẽ ti hí mắt. Hai hình bầu dục sáng quắc - đôi mắt của bà lão - dường như giãn ra và bừng sáng khi nhìn chằm chằm vào cậu bé. “Ngủ ngon nhé, thằng ranh con quỷ quyệt,” bà lão nói. “Ngày mai ngươi sẽ phải huy động tất cả khả năng ngươi có để gặp gom jabbar của ta đấy.” Rồi bà ta quay đi, đẩy mẹ cậu bé ra ngoài và đóng sập cửa lại. Paul nằm không ngủ, băn khoăn: Gom jabbar là cái gì vậy? Trong tất cả sự xáo trộn diễn ra suốt thời kỳ biến động này, bà lão là điều kỳ lạ nhất cậu từng thấy. Mẹ Chí tôn. Lại còn cái kiểu bà ta gọi Jessica mẹ cậu như gọi một người hầu gái bình thường chứ không đúng với địa vị của bà - một Lệnh bà Bene Gesserit, tì thiếp của Công tước và là mẹ của người thừa kế tước Công. Liệu gom jabbar có phải là một cái gì đó ở Arrakis mà ta phải biết trước khi gia đình ta đến đó không? cậu thầm hỏi. Cậu nói to những từ lạ lùng của bà ta: Gom jabbar... Kwisatz Haderach. Có quá nhiều thứ phải học. Arrakis là một hành tinh khác Caladan đến nỗi trí óc Paul quay cuồng với những kiến thức mới.Arrakis - Xứ Cát - Hành tinh Sa mạc. Thufir Hawat, Thủ lĩnh đội Sát thủ của cha cậu giải thích: kẻ thù không đội trời chung của họ, bọn Harkonnen, đã sống ở Arrakis tám mươi năm, chiếm giữ hành tinh này làm bán thái ấp, ký hợp đồng với Công ty CHOAM để khai thác melange, loại hương dược có khả năng duy trì tuổi thọ. Bây giờ bọn Harkonnen đã ra đi nhường chỗ cho Gia tộc Atreides đến tiếp quản Arrakis làm thái ấp - đấy có vẻ như một chiến thắng của Công tước Leto. Tuy nhiên, Hawat đã nói, cái sự có vẻ này chứa đựng hiểm họa chết người, vì Công tước Leto là người được các Đại Gia tộc trong Landsraad ái mộ. “Một người được ái mộ sẽ làm dấy lên lòng ghen tị của những kẻ có quyền lực,” Hawat nói. Arrakis - Xứ cát - Hành tinh Sa mạc. Paul thiếp đi, mơ thấy một cái hang ở Arrakeen, những con người yên lặng di chuyển vòng quanh cậu trong ánh sáng lờ mờ của những quả đèn cầu. Không khí thật trang nghiêm và khi lắng nghe một âm thanh yếu ớt - tiếng nước chảy tí tách - tí tách - tí tách, cậu cảm thấy nơi đây giống như thánh đường vậy. Ngay cả khi chìm trong giấc mơ, Paul vẫn biết cậu sẽ nhớ về nó khi tỉnh giấc. Cậu luôn nhớ những giấc mơ là điềm báo. Giấc mơ tan dần. Paul tỉnh giấc, nhận ra mình đang nằm trên giường ấm nệm êm - suy nghĩ... suy nghĩ. Ở lâu đài Caladan này, cậu không có trò chơi hay bạn cùng lứa tuổi, nên có lẽ khi phải tạm biệt nó thì cũng chẳng đáng buồn. Bác sĩ Yueh, thầy giáo của cậu, đã nói bóng gió rằng hệ thống giai cấp faufreluches ở Arrakis không được duy trì nghiêm ngặt. Hành tinh này che chở cho những người sống ở rìa sa mạc vốn không có vị caid hoặc bashar nào cai quản: cái giống người sống vật vờ trên cát gọi là Fremen, không được thống kê theo Bộ Điều tra Dân số Hoàng gia. Arrakis - Xứ Cát - Hành tinh Sa mạc. Paul cảm nhận được sự căng thẳng của chính mình, bèn quyết định thực hành một trong những bài tập thân-trí mà mẹ đã dạy cậu. Ba hơi thở nhanh khởi đầu các phản ứng: cậu chìm vào nhận thức được thả trôi... tập trung vào ý thức... giãn nở động mạch chủ... tránh sự phân tâm của ý thức... ý thức theo lựa chọn... máu được làm giàu và nhanh chóng tràn đầy các vùng quá tải... người ta không chỉ dựa vào bản năng để giành được tự do - an toàn - thức ăn... ý thức động vật không vượt ra ngoài khoảnh khắc hiện tại cũng không vươn đến cái ý nghĩ rằng nạn nhân của nó có thể bị tuyệt chủng... con vật hủy diệt mà không tạo sinh... lạc thú của con vật gần với cấp độ cảm giác mà tránh những gì dựa trên tri giác... con người cần một mạng lưới nền để qua đó nhìn thấy vũ trụ của y... ý thức tập trung theo lựa chọn, điều này tạo thành mạng lưới của mi... tính chỉnh thể của thể xác theo dòng máu-thần kinh phù hợp với nhận thức sâu xa nhất về các nhu cầu của tế bào... mọi sự vật/tế bào/thực thể đều vô thường... hãy nỗ lực đạt tới dòng chảy thường hằng ở bên trong... Bài học ấy cứ chuyển vần, chuyển vần, vần chuyển mãi trong nhận thức được thả trôi của Paul. Khi bình minh hắt ánh vàng vào ngưỡng cửa sổ phòng Paul, cậu có thể cảm nhận được nó qua mí mắt đang khép của mình, cậu mở mắt, nghe thấy tiếng ồn ào hối hả đã trở lại trong lâu đài, nhìn thấy những xà nhà trang trí hoa văn quen thuộc trên trần phòng ngủ. Cửa phòng mở ra và mẹ cậu ngó vào trong, mái tóc màu đồng được cột lên đỉnh đầu bằng một sợi ruy băng màu đen, khuôn mặt hình trái xoan vô cảm và đôi mắt xanh nghiêm nghị. “Con dậy rồi à,” nàng nói. “Con ngủ ngon chứ?” “Ngon ạ.” Cậu quan sát chiều cao của mẹ, nhận thấy một chút căng thẳng toát ra từ hai vai khi mẹ chọn quần áo cho cậu từ các giá để đồ trong phòng. Người khác thì hẳn đã không nhận ra sự căng thẳng này, nhưng mẹ đã huấn luyện cậu theo Phương pháp Bene Gesserit - quan sát từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Mẹ quay lại, mang cho cậu chiếc áo lễ phục. Chiếc áo có phù hiệu chim ưng Atreides màu đỏ trên túi ngực. “Mặc quần áo nhanh lên,” nàng nói. “Mẹ Chí tôn đang chờ.” “Con từng mơ thấy bà ấy rồi,” Paul nói. “Bà ấy là ai vậy?” “Bà là cô giáo của mẹ ở trường Bene Gesserit. Bây giờ, bà là Người Nói Sự thật của Hoàng đế. Paul này...” Nàng ngập ngừng. “Con phải kể với bà ấy về các giấc mơ của con.” “Con sẽ kể. Có phải vì bà ấy mà chúng ta chiếm được Arrakis không?” “Chúng ta không chiếm Arrakis.” Jessica khẽ phủi bụi trên một chiếc quần, treo nó cùng áo vest lên giá quần áo cạnh giường. “Đừng để Mẹ Chí tôn phải chờ.” Paul ngồi dậy, ôm đầu gối. “Gom jabbar là cái gì vậy?” Lại một lần nữa, nhờ sự huấn luyện của mẹ, Paul nhận thấy rõ ràng sự ngắc ngứ hầu như vô hình của mẹ, một dấu hiệu lo lắng mà cậu cảm thấy dường như là nỗi sợ hãi. Jessica tiến về phía cửa sổ, kéo rộng tấm rèm, đăm đăm nhìn vượt qua vườn cây ăn quả bên sông về phía núi Syubi. “Con sẽ biết về... gom jabbar, chẳng lâu nữa đâu,” nàng nói. Cậu nhận thấy nỗi sợ hãi trong giọng mẹ và tự hỏi tại sao. Jessica nói mà không quay đầu lại. “Mẹ Chí tôn đang đợi trong phòng khách. Con hãy nhanh lên.” Mẹ Chí tôn Gaius Helen Mohiam ngồi trên chiếc ghế trang trí bằng thảm nhìn hai mẹ con cậu bé tiến lại gần. Cửa sổ ở hai bên trái phải của bà nhìn xuống khúc quanh phía Nam của dòng sông và những vùng đất nông nghiệp màu mỡ do gia đình Atreides sở hữu, nhưng Mẹ Chí tôn chẳng ngó ngàng gì đến khung cảnh ấy. Sáng nay bà ta đã cảm thấy tuổi già của mình, nên bà ta bực bội không ít. Bà ta quy trách nhiệm cho chuyện du hành không gian và việc hợp tác cùng cái Hiệp hội Không gian đáng nguyền rủa với cái kiểu lén lén lút lút của họ. Nhưng đây là sứ mạng đòi hỏi đích thân một Bene Gesserit Thấu thị phải quan tâm tới. Ngay cả Người Nói Sự thật của Hoàng đế Padishah cũng không thể trốn tránh trách nhiệm đó khi nghĩa vụ yêu cầu. Quỷ tha ma bắt cái đồ Jessica ấy! Mẹ Chí tôn nghĩ. Giá như nó sinh cho chúng ta một đứa con gái theo đúng mệnh lệnh thì đâu đến nỗi! Còn cách chiếc ghế ba bước chân thì Jessica dừng lại, khẽ nhún đầu gối cúi chào, tay trái chạm nhẹ vào mép váy. Paul hơi cúi người theo đúng kiểu học được từ thầy dạy khiêu vũ của cậu - cách chào được sử dụng “khi không chắc chắn về vai vế của người khác.” Những sắc thái trong cách chào hỏi của Paul không qua khỏi mắt Mẹ Chí tôn. Bà nói: “Nó là người thận trọng đấy, Jessica ạ.” Jessica đưa tay nắm vai Paul, siết chặt. Trong khoảng thời gian một nhịp tim, gan bàn tay nàng run lên vì sợ hãi. Rồi nàng cố gắng tự chủ. “Cháu nó được dạy dỗ như thế, thưa Đức bà.” Mẹ sợ cái gì nhỉ? Paul tự hỏi. Bà lão quan sát Paul bằng một cái nhìn thâu tóm tất cả trong khoảnh khắc: khuôn mặt trái xoan giống Jessica, nhưng xương cốt mạnh mẽ... mái tóc: thừa hưởng màu đen nhánh của Công tước nhưng lông mày lại giống ông ngoại, người không thể gọi tên ra, và cái mũi mỏng khinh khỉnh kia; hình dáng đôi mắt xanh lục luôn nhìn trực diện: giống hệt Lão Công tước, người ông nội quá cố. Hừ, từng có một người hiểu rõ sức mạnh của vẻ anh minh dũng lược, ngay cả khi đã chết, Mẹ Chí tôn nghĩ. “Dạy dỗ là một chuyện,” bà ta nói, “còn tố chất lại là chuyện khác. Rồi chúng ta sẽ thấy.” Đôi mắt già nua của bà ta phóng một cái nhìn hà khắc vào Jessica. “Hãy để chúng ta lại với nhau. Ta ra lệnh cho ngươi thực tập phép thiền định bình an.” Jessica thả tay khỏi vai Paul. “Bẩm Mẹ Chí tôn, con...” “Này Jessica, ngươi biết đó là mệnh lệnh phải thực hiện.” Paul ngước nhìn mẹ, bối rối. Jessica vươn thẳng người. “Thưa vâng... tất nhiên rồi.” Paul lại nhìn Mẹ Chí tôn. Cử chỉ lễ phép và nỗi kính sợ thấy rõ của mẹ cậu đối với bà lão này nhắc nhở cậu phải cẩn thận. Thế nhưng cậu vẫn thấy vừa lo lắng vừa giận dữ trước nỗi sợ hãi mà cậu có cảm giác đang tỏa ra từ mẹ. “Paul...” Jessica hít thở sâu. “... thử thách mà con sắp nhận này... nó rất quan trọng đối với mẹ.” “Thử thách ư?” Cậu ngước nhìn mẹ. “Hãy nhớ rằng con là con trai Công tước,” Jessica nói. Nàng xoay người sải bước ra khỏi phòng trong tiếng váy sột soạt khô khốc. Cánh cửa đóng chặt lại sau lưng nàng. Paul đối diện với bà lão, kiềm chế sự giận dữ. “Ai dám đuổi Lệnh bà Jessica như thể bà là một người hầu gái?” Một cái cười khẩy nơi khóe miệng nhăn nheo: “Lệnh bà Jessica từng là hầu gái của ta trong suốt mười bốn năm ở trường, cậu nhóc ạ.” Bà ta gật đầu. “Và cũng là cô hầu tốt nữa. Giờ thì ngươi lại đây!” Mệnh lệnh đưa ra nhanh chóng và bất ngờ như một nhát roi quất vào cậu. Chưa kịp nghĩ gì thì Paul nhận ra mình đã tuân theo nó. Dùng Giọng nói để điều khiển mình, cậu nghĩ. Cậu dừng lại khi bà ta ra hiệu, đứng cạnh đầu gối bà ta. “Thấy cái này không?” bà ta hỏi. Bà ta nhấc từ những nếp gấp áo choàng lên một hộp kim loại hình lập phương màu xanh lục mỗi cạnh chừng mười lăm phân. Bà ta xoay chiếc hộp và Paul nhìn thấy một mặt đã mở sẵn - tối om và đáng sợ một cách kỳ lạ. Không có chút ánh sáng nào lọt vào khoảng tối đen mở hoác đó. “Đút tay phải vào trong hộp,” bà ta ra lệnh. Nỗi sợ hãi vụt xuyên qua Paul. Cậu định lùi lại, nhưng bà lão nói: “Ngươi vâng lời mẹ như thế này đấy hả?” Cậu nhìn lên đôi mắt sáng quắc như mắt chim. Chầm chậm, cảm thấy sự ép buộc và không tài nào cưỡng lại được, Paul đút tay vào trong hộp. Đầu tiên cậu cảm thấy lạnh khi bóng tối phủ quanh tay cậu, rồi chất kim loại trơn tuột áp vào các ngón tay và một cảm giác kiến bò như thể tay cậu tê dại. Khuôn mặt bà lão toát lên vẻ hung tợn như của loài thú dữ. Bà ta nhấc tay phải ra khỏi cái hộp và gí sát bàn tay vào một bên cổ Paul. Cậu nhìn thấy ánh kim loại ở tay bà ta và định quay đầu về phía nó. “Đứng yên đấy!” bà ta cáu kỉnh. Lại dùng Giọng nói! Cậu chuyển sự chú ý quay trở lại khuôn mặt bà ta. “Ta giữ gom jabbar ở cổ ngươi,” bà ta nói. “Gom jabbar, kẻ thù siêu việt. Nó là cái kim có một giọt thuốc độc ở mũi. Ái chà chà! Chớ có lùi lại kẻo ngươi sẽ cảm thấy chất độc đấy.” Paul cố gắng nuốt nước bọt trong cổ họng khô khốc. Cậu không thể rời mắt khỏi khuôn mặt già nua nhăn nheo, đôi mắt lấp lánh, bộ nướu nhợt nhạt bao quanh hàm răng kim loại màu bạc lóe sáng khi bà ta nói. “Con trai của Công tước hẳn phải biết về chất độc,” bà ta nói. “Cái kiểu của thời đại chúng ta là thế, phải không nào? Musky, để đầu độc đồ uống của ngươi. Aumas, để đầu độc thức ăn của ngươi. Chất độc phát tác nhanh, chất độc phát tác chậm và loại phát tác trung bình. Còn đây là loại mới dành cho ngươi: gom jabbar. Nó chỉ dùng để giết thú vật.” Niềm kiêu hãnh đã chiến thắng nỗi sợ hãi của Paul. “Bà dám ám chỉ con trai Công tước là một con vật sao?” cậu hỏi. “Thì cứ coi như ta cho rằng ngươi có thể là con người,” bà ta nói. “Đứng yên! Ta cảnh cáo trước là đừng có cố gắng giật lùi lại. Ta già rồi nhưng tay ta vẫn có thể đâm cái kim này vào cổ ngươi trước khi ngươi thoát khỏi ta đấy.” “Bà là ai?” cậu thì thầm. “Làm thế nào bà lừa được mẹ tôi bỏ tôi lại một mình với bà? Có phải bà thuộc bọn Harkonnen không?” “Bọn Harkonnen? Chúa ơi, ồ không! Giờ thì im lặng nào.” Một ngón tay khô héo chạm vào cổ cậu và cậu cố gắng kiềm chế sự thôi thúc mạnh mẽ muốn lao ra ngoài. “Tốt,” bà ta nói. “Ngươi đã vượt qua thử thách thứ nhất. Bây giờ đến phần còn lại: nếu rút tay ra khỏi hộp, ngươi sẽ chết. Đây là quy tắc duy nhất. Giữ nguyên tay trong hộp thì sống. Rút ra thì chết.” Paul hít một hơi thở sâu để kiềm chế cơn run. “Nếu ta gọi ra ngoài kia, chỉ trong vài giây bọn người hầu sẽ xông vào và bà sẽchết.” “Bọn người hầu sẽ không qua được mẹ ngươi đang đứng canh gác ngoài cửa. Cứ tin thế đi. Mẹ ngươi đã vượt qua thử thách này. Bây giờ đến lượt ngươi. Hãy lấy đó làm vinh dự. Chúng ta hiếm khi thực hiện thử thách này với một cậu bé.” Tính hiếu kỳ làm nỗi sợ hãi của Paul giảm xuống mức có thể kiểm soát được. Cậu nhận ra sự thật trong giọng bà lão, không thể phủ nhận sự thật ấy. Nếu mẹ cậu đứng canh gác ở phía ngoài... nếu đây thực sự là một thử thách... Và dù cho nó là gì đi nữa thì cậu cũng biết mình đã vướng vào nó, đã bị bàn tay đặt ở cổ khống chế: cái gom jabbar. Cậu nhớ lại cách đối phó ghi trong Kinh cầu nguyện Chống Nỗi sợ mà mẹ đã dạy ngoài những nghi thức Bene Gesserit. “Ta không được sợ hãi. Sợ hãi giết chết tâm trí. Sợ hãi là cái chết nhỏ mang đến sự phá hủy hoàn toàn. Ta sẽ đối mặt với nỗi sợ. Ta sẽ để nó đi khắp người ta và xuyên qua ta. Rồi khi nó đã đi qua, ta sẽ xoay con mắt bên trong để nhìn đường đi của nó. Ở những nơi nỗi sợ đi qua chẳng còn gì cả. Chỉ còn lại chính ta.” Cậu cảm thấy điềm tĩnh trở lại, liền nói: “Tiếp tục đi, bà lão.” “Bà lão!” bà ta cáu kỉnh. “Ngươi can đảm đấy, không thể phủ nhận điều đó. Được thôi, rồi chúng ta sẽ thấy, sirra.” Bà ta cúi sát người, hạ giọng xuống gần như chỉ còn là tiếng thì thầm. “Ngươi sẽ cảm thấy đau đớn ở bàn tay đút trong chiếc hộp này. Đau đớn. Nhưng! Chỉ cần ngươi rút tay ra là ta sẽ đâm gom jabbar vào cổ ngươi - cái chết sẽ đến mau lẹ như đầu rơi dưới lưỡi rìu đao phủ. Hễ ngươi rút tay ra là gom jabbar sẽ đâm vào ngươi. Hiểu không?” “Cái gì ở trong hộp vậy?” “Sự đau đớn.” Cậu thấy cảm giác ran ran ở tay tăng dần, mím nhẹ môi. Thế này mà là thử thách sao? cậu tự hỏi. Cảm giác ran ran trở thành cơn ngứa. Bà lão nói: “Ngươi đã nghe kể về những con vật tự cắn đứt chân mình để thoát khỏi bẫy rồi chứ? Đó là mánh lới của loài vật. Con người thì sẽ ở nguyên trong bẫy, chịu đựng nỗi đau, giả chết để có thể giết kẻ đặt bẫy và thủ tiêu mối đe dọa cho đồng loại hắn.” Sự ngứa ngáy biến thành cảm giác bỏng rát mơ hồ. “Tại sao bà làm việc này?” cậu hỏi. “Để xác định liệu ngươi có phải con người không. Im lặng đi.” Paul nắm chặt tay trái thành một quả đấm khi cái cảm giác bỏng rát tăng lên ở tay phải. Nó từ từ tăng lên: nóng dần, nóng dần, nóng... nóng dần lên. Cậu cảm thấy móng tay của bàn tay đang tự do bấm vào gan bàn tay đau nhói. Cậu cố gắng gập các ngón tay phải đang bị thiêu đốt lại, nhưng chúng không cử động được. “Nóng quá,” cậu thì thầm. “Im lặng!” Cơn đau lan đến tận cánh tay. Mồ hôi toát ra trên trán cậu. Mọi đường gân thớ thịt kêu gào cậu rút tay ra khỏi cái hố nóng bỏng... nhưng... còn gom jabbar. Không quay đầu lại, cậu cố gắng đưa mắt nhìn cây kim khủng khiếp treo lơ lửng bên cổ. Cậu cảm thấy mình đang thở hổn hển bèn cố gắng thở chậm lại nhưng không thể. Đau! Thế giới của cậu trở nên trống rỗng ngoại trừ bàn tay đang đắm chìm trong nỗi đau đớn cực độ, cái khuôn mặt già nua cách cậu vài phân đang nhìn chòng chọc vào cậu. Hai môi cậu khô nứt đến nỗi khó mà tách được chúng ra. Nóng như thiêu! Nóng như thiêu! Cậu tưởng như có thể cảm thấy được làn da quắn lại sém đen trên bàn tay quằn quại đau đớn kia, lớp thịt giòn tan rồi rơi xuống cho đến khi chỉ còn trơ lại những cái xương đen như than. Nó đã dừng lại! Như thể một cái công tắc được tắt đi, cơn đau đã dừng lại. Paul cảm thấy tay phải run lên, mồi hôi đầm đìa khắp người. “Đủ rồi,” bà lão lầm bầm. “Kull wahad! Chưa từng có đứa con gái nào chịu đựng được đến mức này. Ta đã thực sự mong ngươi thua cuộc.” Bà ta ngả người ra phía sau, rút gom jabbar ra khỏi cổ cậu. “Rút tay ra khỏi hộp rồi nhìn đi, cậu bé.” Cậu nén cơn run do nỗi đau gây ra, nhìn chằm chằm vào khoảng không tối om nơi bàn tay cậu dường như tự nó muốn tiếp tục ở yên trong đó. Ký ức về nỗi đau đớn ngăn chặn mọi cử động. Lý trí bảo cậu rằng khi rút ra khỏi hộp thì tay cậu chỉ còn là cái chỏm cụt đen thui. “Làm đi!” bà ta cáu kỉnh. Cậu giật tay ra khỏi hộp, nhìn trân trối vào nó đầy kinh ngạc. Không có một dấu vết nào. Không có dấu hiệu của sự đau đớn trên da thịt. Cậu đưa tay lên, xoay xoay, gập các ngón tay lại. “Đau đớn do phản ứng của thần kinh,” bà nói. “Ta không thể đi loanh quanh gây thương tật cho những người tiềm năng. Dẫu vậy, có những người sẵn sàng trả giá để biết được bí mật của chiếc hộp này.” Bà ta đút nhanh nó vào những nếp gấp áo choàng. “Nhưng còn cơn đau...” cậu nói. “Cơn đau,” bà ta khịt mũi. “Một con người có thể không thèm đếm xỉa đến bất cứ dây thần kinh nào trong cơ thể.” Paul thấy tay trái đau nhức bèn duỗi các ngón tay nãy giờ nắm chặt, rồi nhìn bốn vết lằn đỏ như máu ở những chỗ móng tay bấm vào gan bàn tay. Cậu thả tay xuống, nhìn bà lão: “Bà từng làm việc này với mẹ tôi à?” “Ngươi đã bao giờ sàng cát qua một cái giần chưa?” bà ta hỏi. Câu hỏi đột ngột lạc ra ngoài chủ đề của bà lão khiến đầu óc cậu choáng váng, đẩy nó lên một nhận thức cao hơn. Sàng cát qua giần. Cậu gật đầu. “Bene Gesserit chúng ta sàng lọc mọi người để tìm ra những con người thực thụ.” Cậu đưa tay phải lên, hồi tưởng về cơn đau. “Và tất cả chỉ có thế thôi sao - sự đau đớn?” “Ta đã quan sát ngươi trong cơn đau, cậu bé ạ. Đau đớn chỉ đơn thuần là cái trục của bài thử thách này. Mẹ ngươi đã chỉ cho ngươi những cách thức quan sát của chúng ta. Ta nhận thấy ở ngươi dấu hiệu sự dạy dỗ của mẹ ngươi. Thử thách của chúng ta là cơn khủng hoảng và khả năng quan sát.” Cậu thấy sự xác quyết trong giọng bà ta, liền nói: “Đó là sự thật!” Bà ta nhìn cậu chăm chăm. Nó cảm nhận được sự thật! Nó có thể là người đó không? Nó có thể thực sự là người đó sao?Bà ta thôi kích động, tự nhắc nhở mình: “Hy vọng làm mờ khả năng quan sát.” “Ngươi biết khi nào người ta tin vào những điều họ nói,” bà ta nói. “Tôi biết.” Trong giọng nói của cậu toát ra sự hài hòa của năng lực được xác nhận qua thử thách lặp đi lặp lại. Bà ta nhận thấy điều đó, liền nói: “Có lẽ ngươi là Kwisatz Haderach. Ngồi xuống đi, anh bạn nhỏ, ngồi bên chân ta đây này.” “Tôi thích đứng hơn.” “Mẹ ngươi đã từng ngồi bên chân ta.” “Tôi không phải là mẹ tôi.” “Ngươi không ưa bọn ta, nhỉ?” Bà ta nhìn về phía cửa, gọi với ra ngoài: “Jessica!” Cánh cửa bật mở và Jessica đứng đó nhìn trừng trừng vào phòng. Vẻ cứng rắn tan chảy khi nàng nhìn thấy Paul. Nàng gượng cười. “Jessica, đã có lúc nào ngươi ngừng ghét ta chưa?” bà lão hỏi. “Con vừa yêu vừa ghét Mẹ,” Jessica nói. “Ghét - là vì những đau đớn mà con không bao giờ quên. Yêu - là...” “Chỉ là điều sơ đẳng,” bà lão nói, nhưng giọng bà thật nhẹ nhàng. “Giờ ngươi có thể vào được rồi, nhưng giữ im lặng đấy. Đóng cửa lại và lưu ý không để ai làm gián đoạn chúng ta.” Jessica bước vào phòng, đóng cửa lại rồi đứng quay lưng về phía cửa. Con trai ta còn sống, nàng nghĩ. Con trai ta còn sống và là... con người. Ta biết nó là người... nhưng... nó còn sống. Giờ thì ta có thể tiếp tục sống rồi. Cánh cửa tì vào lưng nàng có vẻ rắn chắc và có thực. Mọi thứ trong phòng thật gần gũi và ép mạnh vào các giác quan của nàng. Con trai ta vẫn sống. Paul nhìn mẹ. Mẹ đã nói sự thật. Cậu muốn rời khỏi đây một mình và suy nghĩ thông suốt về trải nghiệm này, nhưng cậu biết nếu chưa được phép thì cậu không thể đi được. Bà lão này có quyền lực đối với cậu. Họ đã nói sự thật. Mẹ cậu đã trải qua thử thách này. Chắc hẳn nó phải có mục đích kinh khủng... cơn đau và nỗi sợ hãi thật khủng khiếp. Cậu hiểu những mục đích kinh khủng. Chúng nhằm đến những điều hầu như bất khả. Chúng là cái không thể thiếu của chính chúng. Paul cảm thấy mình đã bị tiêm nhiễm cái mục đích kinh khủng này. Nhưng cậu vẫn chưa hiểu cái mục đích kinh khủng này là gì. “Một ngày nào đó, cậu bé ạ,” bà lão nói, “ngay cả ngươi cũng có thể phải đứng ngoài cửa như thế. Việc này cần phải làm nhiều đấy.” Paul nhìn xuống bàn tay đã nếm trải nỗi đau, rồi ngước nhìn Mẹ Chí tôn. Trong giọng nói của bà chứa đựng một sự khác biệt so với bất cứ giọng nói nào khác cậu từng nghe. Những từ ngữ có đường viền sáng rực. Chúng thật sắc sảo. Cậu cảm thấy bất cứ câu hỏi nào cậu có thể đặt ra cho bà sẽ đều đem lại một câu trả lời có khả năng nâng cậu lên khỏi thế giới thể xác mà hướng về một cái gì đó vĩ đại hơn. “Tại sao bà thử thách để tìm con người?” cậu hỏi. “Để ngươi được tự do.” “Tự do ư?” “Đã có thời con người chuyển giao sự tư duy của họ sang máy móc với hy vọng điều đó cho họ tự do. Nhưng nó lại chỉ cho phép những người khác cùng với máy móc biến họ thành nô lệ.” “Ngươi không được tạo ra một cỗ máy giống như trí óc con người,” Paul trích dẫn. “Trích thẳng từ Thánh chiến Butler và Kinh thánh Toàn Nhân loại Màu Cam,” bà lão nói. “Nhưng Kinh thánh Màu Cam lẽ ra phải nói là: ‘Ngươi không được tạo ra một cỗ máy giả mạo trí óc loài người.’ Người đã nghiên cứu vị Mentat phục vụ Gia tộc ngươi chưa?” “Tôi đã học hỏi cùng Thufir Hawat.” “Cuộc Nổi dậy Lớn đã lấy đi một chỗ dựa,” bà ta nói. “Điều đó bắt buộc trí tuệ loài người phải phát triển. Trường học được mở ra để đào tạo năng lực của loài người.” “Có phải các trường Bene Gesserit không?” Bà lão gật đầu. “Trong số các ngôi trường cổ xưa này, chúng ta còn giữ lại được hai trường chính: Bene Gesserit và Hiệp hội Không gian. Hiệp hội, theo chúng ta nghĩ, chú trọng vào toán học gần như thuần túy. Bene Gesserit thì thực hiện một chức năng khác.” “Chính trị,” cậu bé nói. “Kull wahad!” bà lão nói. Bà ta nghiêm khắc liếc nhìn Jessica. “Con không nói với nó, thưa Mẹ Chí tôn,” Jessica nói. Mẹ Chí tôn chuyển sự chú ý sang Paul. “Chỉ bằng rất ít manh mối mà ngươi đã đoán được thì giỏi đấy,” bà ta nói. “Đúng là chính trị. Trường Bene Gesserit nguyên thủy được dẫn dắt bởi những người vốn nhận ra rằng cần phải có một sợi chỉ xuyên suốt trong các vấn đề của loài người. Họ thấy không thể có được sự xuyên suốt như vậy nếu không tách biệt loài người với loài vật - nhằm mục đích gây giống.” Lời nói của bà lão đột nhiên mất đi sự sắc sảo đặc biệt đối với Paul. Cậu cảm thấy một sự xúc phạm đối với cái mà mẹ cậu gọi là bản năng công chính của cậu. Không phải là Mẹ Chí tôn nói dối cậu. Hiển nhiên là bà ta tin vào những điều mình nói. Nó là một cái gì đó sâu xa hơn, một cái gì đó ràng buộc với mục đích kinh khủng của cậu. Cậu nói: “Nhưng mẹ tôi bảo nhiều Bene Gesserit của các trường không biết gì về tổ tông của họ.” “Các dòng giống di truyền luôn được ghi lại trong hồ sơ của chúng ta,” bà ta nói. “Mẹ ngươi biết rằng hoặc cô ta thuộc dòng dõi Bene Gesserit hoặc dòng giống của cô ta tự nó có thể được thừa nhận.” “Thế tại sao mẹ tôi không biết cha mẹ mình là ai?” “Một số người biết... Nhiều người không biết. Chẳng hạn, bọn ta lẽ ra đã từng muốn cho cô ta giao phối với một người họ hàng gần để đạt được một số đặc tính di truyền trội. Bọn ta có nhiều lý do.” Lại một lần nữa, Paul cảm thấy sự xúc phạm đối với sự công chính. Cậu nói: “Chính bà đã thực hiện việc đó nhiều lần.” Mẹ Chí tôn nhìn cậu chăm chăm, tự hỏi: Có phải ta nghe thấy sự chỉ trích trong giọng nó không? “Chúng ta mang một gánh nặng lớn,” bà ta nói. Paul cảm thấy cậu đang càng lúc càng vượt ra khỏi cú sốc của bài thử thách. Cậu chĩa cái nhìn chằm chằm đầy dò xét vào bà ta mà nói: “Bà nói có thể tôi là... Kwisatz Haderach. Đó là gì vậy, một gom jabbar mang dạng người sao?” “Paul,” Jessica nói. “Con không được nói giọng đó với...” “Ta sẽ xử lý việc này, Jessica,” bà lão nói. “Nào, cậu bé, ngươi muốn biết về thuốc của Người Nói Sự thật phải không?” “Bà uống thuốc này để nâng cao năng lực phát hiện lời nói dối,” cậu nói. “Mẹ tôi nói vậy.” “Ngươi đã bao giờ thấy trạng thái xuất thần truy sự thật chưa?” Cậu bé lắc đầu. “Chưa.” “Đây là loại thuốc nguy hiểm,” bà ta nói, “nhưng nó giúp nhìn thấu bên trong. Khi một Người Nói Sự thật uống thuốc này, cô ta có thể nhìn thấy nhiều chỗ trong ký ức của cô ta - trong ký ức của thân xác cô ta. Bọn ta nhìn thấu suốt rất nhiều con đường trong quá khứ... nhưng chỉ là những con đường của đàn bà.” Giọng bà ta đượm buồn. “Thế đó, có một nơi mà không Người Nói Sự thật nào thấy được. Bọn ta bị nơi ấy cự tuyệt, bị nó làm cho khiếp sợ. Người ta nói sẽ có ngày có một người đàn ông đến và nhờ thuốc này mà tìm ra con mắt bên trong của y. Người đó sẽ nhìn thấy nơi mà bọn ta không thể tới - trong cả quá khứ của đàn ông lẫn đàn bà.” “Kwisatz Haderach của bà phải không?” “Đúng, người có thể ở nhiều nơi cùng một lúc: chính là Kwisatz Haderach. Rất nhiều đàn ông đã thử thuốc này... rất nhiều, nhưng không ai thành công cả.” “Họ đã thử và thất bại, tất cả bọn họ sao?” “Ồ, không.” Bà ta lắc đầu. “Họ đã thử và đã chết.” .2. Cố hiểu Muad’Dib mà không hiểu các kẻ thù không đội trời chung của Người, nhà Harkonnen, thì cũng chẳng khác gì cố thấy Sự thật mà không biết gì về Dối trá. Đó chính là cố nhìn thấy Ánh sáng mà không biết gì về Bóng tối. Điều đó là không thể. - trích “Sách về Muad’Dib” của Công chúa Irulan Đó là một quả địa cầu chạm nổi, một phần chìm trong bóng tối, quay tròn dưới lực đẩy của một bàn tay mập mạp đeo đầy nhẫn sáng chóe. Quả cầu nằm trên cái giá lệch đặt ở một bức tường trong căn phòng không cửa sổ nơi những bức tường còn lại phô ra một tác phẩm chắp vá gồm những cuộn giấy sặc sỡ, sách phim, băng và cuộn phim. Ánh sáng từ những quả cầu vàng treo trong các trường nâng di động tràn ngập căn phòng. Một cái bàn hình ellipsoid có mặt bằng gỗ elacca hóa thạch màu hồng ngọc bích kê ở chính giữa phòng. Những chiếc ghế có dây treo hình con giun quây quanh bàn, hai chiếc đã có người ngồi. Người thứ nhất là chàng thanh niên tóc sẫm màu cỡ mười sáu tuổi, khuôn mặt tròn với đôi mắt u sầu. Còn lại là một người đàn ông mảnh khảnh, vóc thấp, khuôn mặt mang nét đàn bà. Cả chàng thanh niên và người đàn ông đều nhìn chăm chăm vào quả cầu và vào người đàn ông xoay quả cầu đang đứng khuất một nửa trong bóng tối. Từ bên cạnh quả cầu phát ra tiếng cười khùng khục. Một giọng nam trầm vang lên nối theo tiếng cười: “Nó đây, Piter - cái bẫy người lớn nhất trong lịch sử. Và gã Công tước đang từ từ chui đầu vào rọ. Đây chẳng phải một chiêu tuyệt diệu mà ta, Nam tước Vladimir Harkonnen, tạo ra sao?” “Chắc chắn rồi, thưa Nam tước,” người đàn ông nói. Anh ta có chất giọng nam cao du dương, êm ái. Bàn tay múp míp hạ xuống quả cầu, giữ cho nó ngừng xoay. Giờ thì mọi con mắt trong phòng có thể tập trung vào bề mặt bất động đó và nhận ra nó thuộc kiểu cầu được sản xuất cho những nhà sưu tập giàu sang hoặc các Thống đốc hành tinh của Đế quốc. Nó mang dấu ấn của ngành thủ công Đế quốc. Các đường kinh độ và vĩ độ được khảm bằng dây bạch kim mảnh như sợi tóc. Những điểm địa cực được dát kim cương thượng hạng màu trắng sữa. Bàn tay múp míp di chuyển, lần theo những chi tiết trên bề mặt quả cầu. “Xin mời các vị quan sát,” giọng nam trầm cất lên. “Quan sát kỹ vào, Piter, cả cháu nữa, Feyd-Rautha, cháu yêu quý của ta: từ 60 độ Bắc đến 70 độ Nam - những đường lượn sóng tinh xảo này. Còn màu sắc của chúng: không gợi cho các vị nhớ đến những viên kẹo caramen ngọt ngào sao? Và không nơi nào các vị nhìn thấy màu xanh của hồ, sông hay biển. Còn những điểm địa cực đáng yêu này - quá nhỏ. Ai có thể nhầm lẫn về nơi này được chứ? Arrakis! Thực sự là có một không hai. Bối cảnh tuyệt vời cho một chiến thắng vô song.” Piter mỉm cười. “Và thử nghĩ xem, thưa Nam tước: Hoàng đế Padishah tin rằng ông ta đã trao hành tinh hương dược của ngài cho Công tước. Thật chua xót làm sao.” “Đó không phải một lời tuyên bố vô lý đâu,” Nam tước cất giọng trầm trầm. “Ngươi nói điều này để làm rối trí Feyd-Rautha trẻ tuổi, nhưng không cần phải làm cháu ta rối trí đâu.” Chàng trai có bộ mặt u sầu cựa quậy trong ghế, vuốt phẳng một nếp nhăn trên chiếc áo bó màu đen đang mặc. Cậu ngồi thẳng lên khi nghe thấy một tiếng gõ dè dặt vọng ra từ cánh cửa ở bức tường sau lưng. Piter đứng lên khỏi ghế, bước ngang qua căn phòng tiến về phía cửa, mở hé ra chỉ đủ rộng để nhận một cuộn thư. Anh ta đóng cửa, trải cuộn thư ra đọc lướt qua. Anh ta cười khùng khục. Cười thêm lần nữa. “Sao hả?” Nam tước hỏi. “Thằng ngốc trả lời chúng ta, thưa Nam tước!” “Một gã Atreides có bao giờ từ chối cơ hội bày tỏ thái độ thiện chí không?” Nam tước hỏi. “Thế ông ta nói gì?” “Ông ta thật quá bất lịch sự, thưa Nam tước. Gọi ngài là ‘Harkonnen’ - không ‘Đức ông và Anh họ kính mến,’ không tước vị, không gì cả.” “Đó là một cái tên hay,” Nam tước gầm gừ, giọng ngài lộ rõ sự nôn nóng. “Thế ngài Leto thân mến nói gì?” “Ông ta nói: ‘Đề nghị gặp mặt của ngài bị từ chối. Tôi vẫn thường xuyên gặp phải sự phản trắc của ngài, điều này thì ai cũng biết.’ ” “Còn gì nữa?” Nam tước hỏi. “Ông ta nói: ‘Luật kanly vẫn có những người hâm mộ trong Đế chế.’ Ông ta ký tên: ‘Công tước Leto của Arrakis.’ ” Piter bật cười. “Của Arrakis! Úi chà chà! Nghe hay quá nhỉ!” “Im đi, Piter,” Nam tước nói, và tiếng cười ngưng bặt như thể bị tắt bằng một cái công tắc. “Kanly hả?” Nam tước hỏi. “Mối thù truyền kiếp, hử? Hắn dùng cái từ cổ hay ho quá giàu truyền thống này để bảo đảm ta hiểu đúng ý hắn đây.” “Ngài đã đưa ra động thái hòa bình,” Piter nói. “Các nghi thức đã được tuân thủ.” “Đối với một Mentat thì ngươi nói nhiều quá đấy, Piter ạ,” Nam tước nói. Rồi ngài nghĩ: Ta phải sớm thủ tiêu tên này thôi. Hắn hầu như không còn ích lợi gì nữa rồi. Nam tước đưa mắt về phía bên kia căn phòng, nhìn chằm chằm tay sát thủ Mentat của mình, thấy cái đặc điểm mà ai cũng chú ý đến đầu tiên ở anh ta: đôi mắt, đôi mắt ti hí u tối chỉ một màu xanh da trời, đôi mắt không có chút màu trắng nào. Một nụ cười toe toét bất chợt hiện lên trên khuôn mặt Piter. Nó giống như một cái mặt nạ đang nhăn nhó bên dưới đôi mắt trông như hai cái lỗ. “Nhưng, thưa Nam tước! Chưa từng có sự trả thù nào đẹp hơn thế. Chỉ cần xem cái kế hoạch lừa đảo tinh vi nhất này: buộc Leto đổi Caladan lấy Xứ Cát - và không có lựa chọn nào khác vì Hoàng đế ra lệnh như thế. Ngài thật khôi hài lắm Nam tước ạ!” Bằng giọng lạnh lùng, Nam tước nói: “Ngươi có cái mồm giảo hoạt lắm Piter ạ.” “Nhưng tôi đang sung sướng, thưa Nam tước. Trong khi ngài... ngài bị chạm lòng ghen tị.” “Piter!” “Ái chà chà, Nam tước! Chẳng phải thật đáng tiếc khi ngài không có khả năng tự nghĩ ra kế hoạch tuyệt vời này sao?” “Một ngày nào đó ta sẽ bóp chết ngươi, Piter.” “Chắc chắn rồi, thưa Nam tước. Enfin! Nhưng một hành động tử tế thì không bao giờ uổng phí, phải không?” “Ngươi vừa nhai verite hay semuta đấy à, Piter?” “Sự thật mà không gây sợ hãi thì khiến ngài Nam tước ngạc nhiên,” Piter nói. Khuôn mặt anh ta cau lại thành bức biếm họa một cái mặt nạ đang nhăn nhó. “A ha! Nhưng ngài thấy đó, thưa Nam tước, là một Mentat thì tôi biết khi nào ngài sẽ cử đao phủ tới. Chừng nào tôi vẫn có ích thì ngài sẽ còn hoãn việc đó lại. Hành động sớm hơn sẽ lãng phí và tôi vẫn còn có ích lắm. Tôi biết ngài đã học được gì từ hành tinh Xứ Cát xinh đẹp kia - không lãng phí. Đúng thế không, Nam tước?” Nam tước vẫn nhìn Piter chăm chăm. Feyd-Rautha ngọ nguậy trên ghế. Những tên khờ suốt ngày cãi lộn này! cậu nghĩ. Ông bác của ta cứ lần nào nói chuyện với Mentat của bác ấy là y như rằng lại cãi nhau. Họ tưởng ta không có gì để làm ngoài việc nghe họ cãi nhau chắc? “Feyd,” Nam tước nói. “Khi mời cháu đến đây, bác đã dặn cháu hãy lắng nghe và học hỏi. Cháu đang học hỏi đấy chứ?” “Vâng ạ, thưa Bá phụ,” Feyd cẩn thận giữ giọng khúm núm. “Đôi khi ta thấy kinh ngạc về Piter,” Nam tước nói. “Ta gây ra sự đau đớn vì cần thiết phải làm như vậy, nhưng anh ta... ta thề là anh ta cảm thấy hết sức thích thú với điều đó. Về phía ta, ta cảm thấy tội nghiệp cho ngài Công tước Leto đáng thương. Bác sĩ Yueh sẽ sớm phản bội ông ta thôi, và điều đó sẽ khiến cả dòng họ Atreides diệt vong. Nhưng chắc chắn Leto sẽ biết bàn tay ai đã điều khiển tay bác sĩ dễ bảo này... và việc biết được chuyện đó sẽ là một điều khủng khiếp.” “Vậy tại sao ngài không ra lệnh cho tay bác sĩ đâm một nhát dao vào giữa các dẻ xương sườn của ông ta, một cách lặng lẽ và hiệu quả?” Piter hỏi. “Ngài nói đến sự thương hại, nhưng...” “Công tước phải biết khi ta kết thúc cuộc đời hắn,” Nam tước nói. “Và các Đại gia tộc khác cũng phải biết chuyện này. Điều đó sẽ khiến bọn chúng chùn lại. Ta sẽ có thêm một chút không gian để hành động. Hoàn cảnh buộc ta làm như vậy, nhưng đâu nhất thiết là ta thích thế.” “Không gian để hành động,” Piter châm chọc. “Hoàng đế đã để mắt đến ngài rồi, thưa Nam tước. Ngài hành động quá liều lĩnh. Một ngày nào đó Hoàng đế sẽ phái một hoặc hai lữ đoàn Sardaukar xuống Giedi Prime này và thế là ngài Nam tước Valadimir Harkonnen tiêu đời.” “Ngươi thích nhìn cảnh đó lắm, phải không, Piter?” Nam tước hỏi. “Ngươi thích nhìn Quân đoàn Sardaukar cướp bóc các thành phố của ta và vơ vét lâu đài này. Ngươi thực sự thích thế lắm.” “Nam tước có cần phải hỏi không?” Piter thì thầm. “Lẽ ra ngươi nên là một Bashar của Quân đoàn,” Nam tước nói. “Ngươi quá hứng thú với máu me, đau đớn. Có thể ta đã quá vội khi hứa hẹn về chiến lợi phẩm của Arrakis.” Piter bước năm bước õng ẹo đến là kỳ khôi vào trong phòng, đứng khựng lại sau Feyd-Rautha. Căn phòng chìm trong bầu không khí căng thẳng ngột ngạt, và chàng trai trẻ ngước nhìn Piter với nét cau mày lo lắng. “Chớ có đùa với Piter, Nam tước ạ,” Piter nói. “Ngài đã hứa trao Lệnh bà Jessica cho tôi. Ngài đã hứa trao cô ấy cho tôi.” “Để làm gì, Piter?” Nam tước hỏi. “Để hành hạ à?” Piter nhìn ngài chăm chăm, kéo dài sự im lặng. Feyd-Rautha dịch chiếc ghế treo của mình sang một bên, nói: “Thưa Bá phụ, cháu có phải ở lại không? Bá phụ nói người sẽ...” “Feyd-Rautha yêu quý của ta sốt ruột rồi,” Nam tước nói. Ngài di chuyển trong vùng tối cạnh quả cầu. “Hãy kiên nhẫn, Feyd.” Rồi ngài lại hướng sự chú ý về phía vị Mentat. “Thế còn Tiểu Công tước, cậu bé Paul thì sao, hở Piter thân mến?” “Cái bẫy sẽ mang nó đến cho ngài, thưa Nam tước,” Piter nói khẽ. “Đó không phải câu hỏi của ta,” Nam tước nói. “Ngươi nhớ lại đi, ngươi đã tiên đoán mụ phù thủy Bene Gesserit này sẽ sinh cho Công tước một đứa con gái. Ngươi sai rồi, nhỉ, Mentat?” “Tôi không hay phạm sai lầm, thưa Nam tước,” Piter nói, và lần đầu tiên trong giọng anh ta toát lên sự sợ hãi. “Cho tôi nói thế này: Tôi không hay phạm sai lầm. Chính ngài cũng biết các Bene Gesserit hầu như chỉ sinh toàn con gái. Ngay cả Hoàng hậu cũng chỉ sinh con gái.” “Thưa Bá phụ,” Feyd-Rautha nói, “Bá phụ đã nói ở đây có thứ quan trọng dành cho cháu...” “Nghe thằng cháu của ta kìa,” Nam tước nói. “Nó khao khát được cai trị lãnh địa nam tước của ta, thế nhưng đến chính mình nó còn chưa điều khiển được.” Nam tước cựa quậy bên cạnh quả cầu, một cái bóng giữa những cái bóng. “Sao hả, Feyd-Rautha Harkonnen, ta triệu cháu đến đây là hy vọng dạy cho cháu một chút khôn ngoan. Cháu đã quan sát Mentat tài giỏi của chúng ta chưa? Lẽ ra cháu phải học được một điều gì đó từ cuộc tranh cãi này mới phải.” “Nhưng, thưa Bá phụ...” “Một Mentat rất có năng lực, Piter, cháu sẽ nói thế phải không, Feyd?” “Vâng, nhưng...” “Chà chà! Quả thực là nhưng! Nhưng anh ta dùng quá nhiều hương dược, ăn nó cứ như ăn kẹo vậy. Nhìn mắt anh ta xem! Có lẽ anh ta xuất thân từ bọn công nhân Arrakeen cũng nên. Có năng lực, Piter, nhưng anh ta vẫn dễ xúc động, dễ đùng đùng nổi giận. Có năng lực, Piter, nhưng anh ta vẫn có thể phạm sai lầm.” Piter khẽ nói, giọng ảm đạm: “Có phải ngài gọi tôi đến đây để làm giảm năng lực của tôi bằng sự chỉ trích không, Nam tước?” “Làm giảm năng lực của ngươi á? Ngươi biết ta quá mà, Piter. Ta chỉ muốn cho cháu ta biết những hạn chế của Mentat thôi.” “Ngài đang đào tạo người thay thế tôi đấy à?” Piter hỏi. “Thay thế ngươi? Tại sao chứ, Piter, ta có thể tìm ở đâu ra một Mentat khác xảo quyệt và nham hiểm như ngươi đây?” “Ở chính cái chỗ ngài tìm thấy tôi ấy, Nam tước ạ.” “Có thể ta sẽ tìm ở đó,” Nam tước trầm ngâm. “Thời gian gần đây dường như ngươi có chút dao động. Và ngươi ăn hương dược mới khiếp làm sao!” “Những sở thích của tôi quá tốn kém phải không, Nam tước? Ngài cảm thấy khó chịu về chúng phải không?” “Piter thân mến, sở thích của ngươi trói buộc ngươi vào ta. Làm sao ta khó chịu với chúng được? Ta chỉ muốn cháu ta quan sát điều này ở ngươi thôi.” “Thì tôi đang để lộ ra đấy thôi,” Piter nói. “Tôi sẽ nhảy múa chứ? Tôi sẽ trình diễn những chức năng khác nhau của tôi cho Feyd Rautha xuất chúng...” “Đúng thế,” Nam tước nói. “Ngươi đang để lộ ra. Giờ thì im lặng đi.” Ngài liếc Feyd-Rautha, chú ý đôi môi thằng cháu, nét đầy đặn và cái vẻ trề ra của nó, một đặc điểm di truyền của dòng họ Harkonnen, bây giờ hơi mím lại thích thú. “Đây là một Mentat, Feyd ạ. Nó được đào tạo và huấn luyện để thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Tuy nhiên ta không thể bỏ qua sự thật là nó được bọc trong thân thể con người. Một hạn chế nghiêm trọng, thế đấy. Đôi khi ta nghĩ người cổ đại với những cỗ máy biết tư duy của họ đã có được ý kiến đúng đắn đấy.” “Chúng chỉ là đồ chơi so với tôi,” Piter hầm hè. “Ngài, chính ngài, Nam tước, có thể làm tốt hơn những cỗ máy đó.” “Có thể,” Nam tước nói. “Chà, thế đấy...” Ngài hít một hơi thật sâu rồi thở phì ra. “Bây giờ, Piter, hãy phác thảo cho cháu ta những nét chính trong chiến dịch chống Gia tộc Atreides của chúng ta. Hãy làm chức năng của một Mentat đi, xin mời.” “Nam tước, tôi đã cảnh báo ngài không nên phó thác thông tin này cho một người quá trẻ như vậy. Những quan sát của tôi về...” “Ta là kẻ phán xét chuyện này,” Nam tước nói. “Ta ra lệnh cho ngươi, Mentat. Hãy thực hiện một trong những chức năng của ngươi.” “Thì đành vậy,” Piter nói. Anh ta duỗi thẳng người, lấy dáng vẻ nghiêm trang kỳ cục - như thể một chiếc mặt nạ khác, nhưng lần này nó che kín toàn bộ thân thể anh ta. “Vài hôm nữa, khi tới Ngày Chuẩn, toàn bộ gia đình Công tước Leto sẽ lên tàu của Hiệp hội Không gian để đến Arrakis. Tàu của Hiệp hội sẽ thả họ xuống thành phố Arrakeen chứ không phải ở thành phố Carthag của chúng ta. Chắc hẳn Mentat của Công tước, Thufir Hawat, sẽ kết luận một cách hợp lý rằng ở Arrakeen thì dễ tự vệ hơn.” “Nghe cho cẩn thận đấy, Feyd,” Nam tước nói. “Hãy quan sát những kế hoạch trong kế hoạch trong kế hoạch.” Feyd-Rautha gật đầu, nghĩ: Thế này mới đúng chứ. Cuối cùng thì lão quái vật cũng cho mình biết những chuyện bí mật. Chắc hẳn ông ta thực sự có ý định để mình làm người thừa kế. “Có một số khả năng rất ít cơ hội xảy ra,” Piter nói. “Tôi nói ngắn gọn là Gia tộc Atreides sẽ đến Arrakis. Tuy nhiên chúng ta không được bỏ qua khả năng Công tước đã ký hợp đồng với Hiệp hội để đưa ông ta đến một nơi an toàn nằm ngoài Hệ thống. Trong hoàn cảnh tương tự, những Gia tộc khác đã làm phản, mang theo nguyên tử cùng tấm chắn của gia đình rồi lẩn trốn bên ngoài Đế quốc.” “Công tước là người quá kiêu ngạo nên sẽ không làm thế,” Nam tước nói. “Nó là một khả năng,” Piter nói. “Tuy nhiên kết quả cuối cùng dành cho bọn ta vẫn sẽ như vậy.” “Không, không như vậy được!” Nam tước gầm gừ. “Ta phải cho hắn ta chết và dòng dõi của hắn ta tuyệt diệt.” “Khả năng đó cao đấy,” Piter nói. “Khi một Gia tộc sắp làm phản, chúng ắt sẽ để lộ ra những sự chuẩn bị nào đó. Gã Công tước này xem ra chẳng làm gì như thế cả.” “Thì thế,” Nam tước thở dài. “Nói tiếp đi, Piter.” “Ở Arrakeen,” Piter nói, “Công tước và gia đình sẽ ở tại Phủ Thống sứ, dạo gần đây nơi này là nhà của vợ chồng Bá tước Fenring.” “Ngài Đại sứ Cho Bọn Buôn lậu,” Nam tước cười tủm tỉm. “Đại sứ cho cái gì cơ?” Feyd-Rautha hỏi. “Bác của anh đùa đấy,” Piter nói. “Ông ấy gọi Bá tước Fenring là Đại sứ Cho Bọn Buôn lậu, ám chỉ việc Hoàng đế quan tâm đến các hoạt động buôn lậu ở Arrakis.” Feyd-Rautha hướng cái nhìn chằm chằm khó hiểu vào ông bác. “Tại sao?” “Đừng ngu ngốc như thế, Feyd,” Nam tước cáu kỉnh. “Chừng nào Hiệp hội còn thực sự nằm ngoài tầm kiểm soát của Hoàng đế thì làm sao mà khác được cơ chứ? Nếu không thì bọn gián điệp và sát thủ có thể đi đây đi đó bằng cách nào hả?” Miệng Feyd-Rautha mấp máy không thành tiếng “Ô-ô-ô.” “Chúng ta đã thu xếp mấy trò nghi binh ở Phủ Thống sứ,” Piter nói. “Sẽ có một vụ mưu sát người thừa kế Atreides - một vụ mưu sát có thể thành công.” “Piter,” Nam tước nói giọng trầm sâu, “ngươi ám chỉ...” “Tôi ám chỉ đến những rủi ro có thể xảy ra,” Piter nói. “Và vụ mưu sát phải có vẻ hợp lý.” “Chà! Nhưng thằng bé có tấm thân non trẻ dễ thương làm sao,” Nam tước nói. “Tất nhiên, thằng bé còn có khả năng nguy hiểm hơn cha nó... với những thứ đã được bà mẹ phù thủy kia dạy dỗ. Mụ đàn bà đáng nguyền rủa! Nào, thôi được rồi, tiếp tục đi Piter.” “Hawat sẽ đoán được chúng ta đã gài gián điệp vào chỗ ông ta,” Piter nói. “Kẻ tình nghi hiển nhiên là bác sĩ Yueh, gã này đúng là gián điệp của chúng ta thật. Nhưng Hawat mới điều tra ra tay bác sĩ của chúng ta đã tốt nghiệp trường Suk với hàm Tối thượng Y pháp - được cho là đủ an toàn để phụng sự thậm chí cả Hoàng đế. Tối thượng Y pháp được đánh giá cực cao. Người ta cho rằng không thể phế bỏ công phu tối thượng này trừ phi giết chết chính chủ thể. Tuy nhiên, như có người từng nhận xét, nếu được cho đúng cái đòn bẩy cần thiết, ta có thể dịch chuyển cả một hành tinh. Chúng ta đã tìm ra cái đòn bẩy dịch chuyển được tay bác sĩ.” “Bằng cách nào?” Feyd-Rautha hỏi. Cậu thấy đây là một chủ đề hấp dẫn. Tất cả mọi người đều biết không thể nào phế bỏ được Tối thượng Y pháp! “Để lúc khác,” Nam tước nói. “Tiếp tục đi, Piter.” “Thay vì dùng Yueh,” Piter nói, “chúng ta sẽ lôi một kẻ khả nghi vô cùng đáng chú ý chắn ngang đường Hawat. Chính sự liều lĩnh của kẻ khả nghi này sẽ khiến Hawat chú ý đến cô ta.” “Cô ta?” Feyd-Rautha hỏi. “Chính là Lệnh bà Jessica,” Nam tước nói. “Điều đó chẳng tuyệt vời sao?” Piter hỏi. “Tâm trí Hawat sẽ bị vụ này choán ngợp đến nỗi làm suy yếu chức năng Mentat của ông ta. Thậm chí ông ta còn có thể tìm cách giết Lệnh bà Jessica nữa.” Piter cau mày, rồi tiếp tục: “Nhưng tôi không nghĩ ông ta sẽ được phép làm việc này.” “Ngươi không muốn y giết Jessica, nhỉ?” Nam tước hỏi. “Đừng làm tôi rối trí,” Piter nói. “Trong lúc Hawat bận rộn với Lệnh bà Jessica, chúng ta sẽ đẩy sự chú ý của y đi xa hơn nữa bằng các cuộc nổi loạn ở vài thành phố có quân đội đồn trú và những chỗ kiểu như thế. Những cuộc nổi loạn này sẽ bị đàn áp. Công tước sẽ phải tin rằng ông ta đang được an toàn. Sau đó, khi thời cơ chín muồi, chúng ta sẽ đánh tín hiệu cho Yueh và tiến vào với lực lượng chủ lực của chúng ta... chà...” “Tiếp tục đi, nói hết cho cháu ta đi,” Nam tước nói. “Chúng ta sẽ tiến vào với sự tăng cường từ hai quân đoàn Sardaukar cải trang mặc đồng phục Harkonnen.” “Sardaukar!” Feyd-Rautha thì thào. Tâm trí cậu tập trung vào đội quân đáng sợ của Hoàng đế, những kẻ giết người không ghê tay, những tên lính cuồng tín của Hoàng đế Padishah. “Cháu thấy ta tin tưởng cháu như thế nào rồi đấy, Feyd,” Nam tước nói. “Không một chút xíu thông tin nào trong này được phép lọt đến tai Đại Gia tộc khác, nếu không Landsraad có thể liên minh chống lại Hoàng gia và chừng đó sẽ hỗn loạn.” “Điểm chính là thế này,” Piter nói, “khi gia tộc Harkonnen bị lợi dụng để làm những công việc bẩn thỉu cho Hoàng gia, chúng ta đã giành được một lợi thế đích thực. Đó là một lợi thế nguy hiểm, chắc chắn như vậy, nhưng nếu sử dụng một cách cẩn trọng, nó sẽ mang lại cho Gia tộc Harkonnen nhiều của cải hơn bất cứ Gia tộc nào khác trong Đế quốc.” “Cháu không thể hình dung được sự giàu sang đó lớn đến mức nào đâu, Feyd ạ,” Nam tước nói. “Nó vượt quá sức tưởng tượng ngông cuồng nhất của cháu. Đầu tiên, chúng ta sẽ có một chức giám đốc không thể bãi miễn trong công ty CHOAM.” Feyd-Rauth gật đầu. Giàu sang chính là vấn đề. CHOAM là chìa khóa dẫn đến sự giàu sang, mỗi Gia tộc có dòng dõi quý tộc đều hốt từ các két bạc của công ty bất cứ thứ gì có thể hốt được nhờ quyền lực của giám đốc. Những giám đốc CHOAM này - họ là bằng chứng thực tế cho quyền lực chính trị trong Đế quốc - tùy theo sự thăng trầm của số phiếu bầu mà có thể nay về tay gia tộc này mai về tay gia tộc khác thuộc Landsraad trong khi nó tự cân bằng với Hoàng đế và những người ủng hộ ông ta. “Có thể Công tước Leto sẽ cố chạy trốn đến chỗ lũ cặn bã Fremen mới nổi dọc rìa sa mạc,” Piter nói. “Hoặc có thể ông ta cố gắng gửi gia đình đến cái chỗ tưởng là an toàn đó. Nhưng con đường đó bị một mật vụ của Hoàng đế - nhà sinh thái học hành tinh - chặn lại. Có lẽ ngài nhớ ông ta đấy - Kynes.” “Feyd nhớ ông ta,” Nam tước nói. “Trình bày tiếp đi.” “Ngài nhỏ dãi không được duyên dáng lắm, thưa Nam tước,” Piter nói. “Trình bày tiếp đi, ta ra lệnh cho ngươi!” Nam tước gầm lên. Piter nhún vai. “Nếu mọi chuyện diễn ra theo đúng kế hoạch,” anh ta nói, “Gia tộc Harkonnen sẽ có một thái ấp phụ ở Arrakis trong một Năm Chuẩn. Bác của anh sẽ được ban thái ấp đó. Đại diện cá nhân của ông ấy sẽ cai trị Arrakis.” “Lại thêm nhiều lợi nhuận,” Feyd-Rautha nói. “Quả thực thế,” Nam tước nói. Và ngài nghĩ: Thế cũng công bằng thôi. Chúng ta là những người đã thuần phục Arrakis... ngoại trừ mấy tên Fremen lai giống ẩn trốn ở rìa sa mạc... và dăm tay buôn lậu dễ bảo bám lấy cái hành tinh này cũng chặt gần như bọn công nhân bản địa. “Và các Đại gia tộc sẽ biết ngài Nam tước đã tiêu diệt Atreides,” Piter nói. “Họ sẽ biết điều đó.” “Họ sẽ biết,” Nam tước thì thào. “Điều thú vị nhất,” Piter nói, “là Công tước cũng sẽ biết. Bây giờ chắc ông ta đã biết rồi. Có thể ông ta đã ngửi ra cái bẫy.” “Đúng là Công tước có biết,” Nam tước nói, giọng thoáng buồn. “Hắn không thể không biết... thật đáng tiếc.” Nam tước lùi ra xa khỏi quả cầu Arrakis. Khi ngài hiện ra từ bóng tối, hình dáng ngài lớn phổng lên - béo ục ịch, béo vô biên. Và với những chỗ phình rất khó thấy bên dưới các nếp gấp của bộ áo choàng sẫm màu, có thể nhận ra toàn bộ khối mỡ này được nâng lên một phần nhờ bộ dây treo di động gắn vào thịt ngài. Trọng lượng thực tế của ngài có thể đến hai trăm ki lô gam Chuẩn, nhưng đôi chân lại không thể mang quá năm chục kí. “Ta đói rồi,” Nam tước nói giọng trầm sâu, ngài lấy bàn tay đeo đầy nhẫn cọ cọ cặp môi trề, nhìn chằm chằm Feyd-Rautha qua cặp mắt sùm sụp mỡ. “Bảo chúng nó mang thức ăn ra đây, cháu yêu. Chúng ta sẽ ăn trước khi nghỉ ngơi.” .3. Thánh Alia Con Dao đã nói: “Mẹ Chí tôn phải kết hợp những mưu chước quyến rũ của một kỹ nữ hạng sang với sự uy nghiêm không thể động tới của một thánh nữ đồng trinh, duy trì các thuộc tính đó ở thế thường xuyên căng thẳng chừng nào sức mạnh tuổi trẻ của Người còn kham được. Bởi khi tuổi xuân và nhan sắc đã qua, Người sẽ nhận ra rằng cái nơi-ở-giữa đó, từng một thời bị sự căng thẳng chiếm lĩnh, nay đã trở thành suối nguồn của sự khéo léo và thủ đoạn.” - trích “Muad’Dib, Ghi chú gia đình” của Công chúa Irulan “Sao hả, Jessica, ngươi vừa lẩm bẩm cái gì thế?” Mẹ Chí tôn hỏi. Đó là trước lúc hoàng hôn tại lâu đài Caladan vào ngày thử thách cậu bé Paul. Hai người đàn bà ở một mình trong phòng khách của Jessica còn Paul đợi tại Buồng Thiền định cách âm ở kế bên. Jessica đứng dối diện với cửa sổ phía Nam. Nàng nhìn nhưng cũng lại không nhìn thấy hoàng hôn đang phủ màu sắc lên cánh đồng và dòng sông. Nàng nghe nhưng cũng lại không nghe thấy câu hỏi của Mẹ Chí tôn. Đã từng có một thử thách khác - rất nhiều năm về trước. Một cô bé gầy nhom có mái tóc màu đồng, cơ thể bị hành hạ bởi những cơn đầy hơi của tuổi dậy thì, bước vào phòng làm việc của Mẹ Chí tôn Gaius Helen Mohiam, Tổng quản Tối cao của trường Bene Gesserit ở Wallach IX. Jessica nhìn xuống bàn tay phải, gập ngón tay, hồi tưởng lại cơn đau, nỗi kinh hoàng, sự tức giận. “Paul tội nghiệp,” nàng thì thầm. “Ta đang hỏi ngươi đấy, Jessica!” Giọng bà lão cáu gắt, riết róng. “Sao cơ? À...” Jessica bứt sự chú ý ra khỏi quá khứ, quay về phía Mẹ Chí tôn lúc này đang ngồi quay lưng vào bức tường đá nằm giữa hai cửa sổ hướng Tây. “Mẹ Chí tôn muốn con nói gì ạ?” “Ta muốn ngươi nói cái gì à? Ta muốn ngươi nói cái gì à?” Giọng nói già nua mang âm điệu nhại lại một cách tàn nhẫn. “Thì con đã có một đứa con trai!” Jessica nổi cáu. Nàng biết nàng bị bà ta chủ tâm khích cho giận dữ thế này. “Người ta đã bảo ngươi chỉ sinh con gái cho nhà Atreides.” “Nó rất có ý nghĩa đối với ông ấy,” Jessica biện hộ. “Và ngươi, với cái thói tự phụ của mình, lại cho rằng ngươi có thể sinh hạ được Kwisatz Haderach!” Jessica hất cằm lên. “Con cảm thấy có khả năng.” “Ngươi chỉ nghĩ đến chuyện Công tước mong mỏi có con trai,” bà lão cáu kỉnh. “Mà mong mỏi của ông ta thì chẳng liên quan gì đến chuyện này hết. Một đứa con gái dòng họ Atreides thì đã có thể cưới người thừa kế của dòng họ Harkonnen và hàn gắn mối bất hòa. Ngươi đã làm cho vấn đề trở nên phức tạp vô phương cứu chữa. Giờ thì có lẽ chúng ta sẽ mất cả hai dòng máu.” “Không phải Mẹ không bao giờ sai,” Jessica nói. Nàng bất chấp cái nhìn chòng chọc từ đôi mắt già nua. Ngay sau đó, bà lão lầu bầu: “Cái gì đã làm thì cũng là đã làm rồi.” “Con đã thề sẽ không bao giờ hối hận về quyết định của mình,” Jessica nói. “Cao quý quá nhỉ,” Mẹ Chí tôn châm chọc. “Không hối hận. Chúng ta sẽ thấy khi ngươi là một kẻ chạy trốn bị người ta treo giá cái đầu và mọi bàn tay con người quay ra chống lại ngươi, săn lùng mạng sống của ngươi và của con ngươi.” Jessica tái cả người. “Không có lựa chọn nào khác sao?” “Lựa chọn khác? Một Bene Gesserit mà cũng hỏi vậy sao?” “Con chỉ hỏi về những gì Mẹ Chí tôn nhìn thấy trong tương lai bằng năng lực ưu việt của người.” “Ta nhìn thấy trong tương lai những cái ta đã nhìn thấy trong quá khứ. Ngươi biết rõ những phi vụ của chúng ta thường theo khuôn mẫu nào mà, Jessica. Dòng giống loài người biết rõ tỷ lệ chết và lo sợ sự di truyền sẽ bị ngừng lại. Nó nằm trong dòng máu - sự thôi thúc trộn lẫn các giống di truyền mà không trù tính trước. Đế quốc, công ty CHOAM, tất cả các Đại gia tộc, họ chỉ là những mẩu nhỏ nổi lềnh bềnh trên đường đi của dòng chảy đó.” “CHOAM,” Jessica lẩm bẩm. “Con cho là họ đã quyết định cách chia lại chiến lợi phẩm ở Arrakis rồi.” “CHOAM có là gì ngoài cái chong chóng gió trong thời đại chúng ta đâu,” bà lão nói. “Giờ đây Hoàng đế và bạn bè của ông ta đang nắm giữ 59,65% số phiếu bầu cho chức giám đốc của CHOAM. Họ chắc chắn ngửi thấy mùi lợi nhuận, và có thể khi những người khác cũng ngửi thấy các lợi nhuận đó thì sức mạnh biểu quyết của ông ta sẽ tăng lên. Đó là mẫu hình lịch sử, con ạ.” “Đó chắc chắn là cái con cần bây giờ đấy,” Jessica nói. “Xét lại lịch sử.” “Đừng khôi hài nữa, con gái! Ngươi cũng biết rõ như ta những thế lực nào bao quanh chúng ta. Chúng ta có một nền văn minh tam điểm: Hoàng gia được giữ cân bằng với Liên minh các Đại Gia tộc Landsraad, và giữa họ là Hiệp hội với sự độc quyền đáng nguyền rủa trong việc vận chuyển liên hành tinh. Trong chính trị, thế kiềng ba chân là loại cấu trúc lỏng lẻo nhất. Chẳng cần tính đến sự phức tạp của nền văn hóa thương mại phong kiến vốn quay lưng lại với hầu hết mọi ngành khoa học thì nó cũng đủ tệ lắm rồi.” Jessica chua chát nói: “Những mẩu nhỏ trên đường đi của dòng chảy - và đây là một mẩu, là Công tước Leto, còn mẩu nữa là con trai ông ấy, mẩu nữa là...” “Ôi, im ngay đi, con gái. Khi bước vào chuyện này, ngươi đã biết rõ mình sẽ phải đi trên cái lằn ranh mỏng manh như thế nào.” “ ‘Con là Bene Gesserit: Con chỉ tồn tại để phụng sự,’ ” Jessica trích dẫn. “Chính xác,” bà lão nói. “Và bây giờ tất cả những gì chúng ta có thể hy vọng là ngăn không để chuyện này bùng lên thành đám cháy hủy diệt tất cả, cứu vãn những gì còn cứu được từ những dòng máu chính yếu.” Jessica nhắm mắt, cảm giác những giọt lệ đang ứa ra dưới hàng mi. Nàng nén nỗi run sợ bên trong, nỗi run sợ bên ngoài, hơi thở không đều, mạch đập rời rạc, gan bàn tay đẫm mồ hôi. Ngay sau đó, nàng nói: “Con sẽ trả giá cho sai lầm của chính mình.” “Và con trai ngươi sẽ trả giá cùng ngươi.” “Con sẽ bảo vệ nó bằng tất cả khả năng của mình.” “Bảo vệ!” bà lão cáu kỉnh. “Ngươi biết rõ như thế là mềm yếu! Cứ chăm chăm bảo vệ con trai ngươi đi, Jessica, rồi thì nó sẽ chẳng đủ khôn lớn để mà hoàn thành bất kỳ sứ mệnh nào.” Jessica quay đi, nhìn bóng tối dày đặc bên ngoài cửa sổ. “Cái hành tinh Arrakis này, có thật là nó kinh khủng đến thế không?” “Đủ tệ, nhưng không phải quá tệ. Missionaria Protectiva đã có mặt ở đó và phần nào làm nó dịu đi.” Mẹ Chí tôn đứng dậy, vuốt thẳng một nếp áo. “Gọi thằng bé vào đây. Ta phải đi ngay.” “Mẹ phải đi ngay sao?” Giọng bà lão nhẹ nhàng. “Jessica, con gái, ta ước gì có thể thế chỗ con và gánh lấy nỗi đau khổ cho con. Nhưng mỗi chúng ta phải đi trên con đường của chính mình.” “Con biết.” “Con thân thiết với ta như bất cứ đứa con gái nào của ta, nhưng ta không thể cho phép điều đó làm cản trở công việc.” “Con hiểu... sự cần thiết.” “Những cái con làm, Jessica, và tại sao con làm như vậy - chúng ta đều hiểu. Nhưng vì muốn tốt cho con nên ta buộc lòng phải nói với con rằng ít có cơ hội con trai con sẽ trở thành Bene Gesserit Toàn Thống. Con không được cho phép mình hy vọng quá nhiều.” Jessica gạt những giọt lệ nơi khóe mắt. Đó là một cử chỉ giận dữ. “Mẹ làm con cảm thấy mình lại giống như một đứa trẻ vậy - ôn lại bài học đầu tiên.” Nàng buộc mình thốt ra: “‘Loài người không bao giờ được phục tùng loài vật.’ ” Một tiếng nấc khan làm cả người nàng run lên. Nàng nói nhỏ: “Con đã từng rất cô độc.” “Nó nên là một trong những thử thách,” bà lão nói. “Hầu hết con người luôn luôn cô độc. Giờ thì gọi thằng bé đến đây đi. Nó đã có một ngày dài đầy sợ hãi. Nhưng nó đã có thời gian để suy nghĩ và nhớ lại, giờ ta phải hỏi những câu hỏi khác về những giấc mơ của nó.” Jessica gật đầu, đi về phía Phòng Thiền định, mở cửa ra. “Paul, vào đây con.” Paul bước vào với vẻ chậm chạp bướng bỉnh. Cậu nhìn mẹ chòng chọc như thể mẹ là một người xa lạ. Đôi mắt cậu tràn ngập ánh nhìn cảnh giác khi cậu liếc Mẹ Chí tôn, nhưng lần này cậu gật đầu chào bà, kiểu gật đầu đối với người ngang hàng. Cậu nghe thấy tiếng mẹ đóng cánh cửa sau lưng mình. “Chàng trai,” bà lão nói, “chúng ta quay trở về với chuyện những giấc mơ nào.” “Bà muốn gì?” “Đêm nào ngươi cũng mơ phải không?” “Không phải những giấc mơ đáng nhớ. Tôi có thể nhớ mọi giấc mơ, nhưng có cái đáng nhớ có cái không.” “Làm sao ngươi biết được sự khác nhau đó?” “Tôi biết thế thôi.” Bà lão liếc nhìn Jessica, rồi quay lại Paul. “Thế tối hôm qua ngươi đã mơ thấy gì? Nó có đáng nhớ không?” “Có.” Paul nhắm mắt. “Tôi mơ thấy một cái hang lớn... và nước... một cô gái ở đó - rất gầy, có đôi mắt to. Mắt của cô ấy chỉ có một màu xanh nước biển, không có chút màu trắng nào. Tôi nói chuyện với cô ấy và kể cho cô ấy nghe về bà, về cuộc gặp Mẹ Chí tôn ở Caladan.” Paul mở mắt. “Và những chuyện ngươi kể cho cô gái lạ mặt này về cuộc gặp gỡ với ta, hôm nay chúng có xảy ra không?” Paul suy nghĩ, rồi nói: “Có. Tôi nói với cô gái ấy rằng bà đã đến và đóng một con dấu của sự xa lạ lên người tôi.” “Con dấu của sự xa lạ,” bà lão thì thào, một lần nữa liếc nhanh về phía Jessica, rồi lại hướng sự chú ý vào Paul. “Bây giờ hãy nói thật cho ta biết, Paul, ngươi có thường mơ về những chuyện mà sau này sẽ xảy ra đúng như trong mơ không?” “Có. Và trước đây tôi đã mơ thấy cô gái đó rồi.” “Ồ? Ngươi biết cô ta à?” “Tôi sẽ biết cô ấy.” “Kể cho ta về cô ấy đi.” Một lần nữa, Paul nhắm mắt. “Chúng tôi ở trong một nơi chật hẹp được che chắn bằng những tảng đá lớn. Nó gần như tối thui, nhưng nóng nực và qua khe hở giữa những tảng đá, tôi có thể nhìn thấy những dải cát ở bên ngoài. Chúng tôi đang... chờ đợi điều gì đó... chờ cho tôi đi gặp vài người. Cô ấy sợ hãi nhưng cố giấu không để tôi biết, còn tôi thì thấy phấn khích. Cô ấy nói: ‘Kể em nghe về nước của hành tinh quê hương anh đi, Usul.’ ” Paul mở mắt. “Điều đó chẳng lạ sao? Quê hương tôi là Caladan. Tôi chưa từng nghe đến một hành tinh nào có tên là Usul cả.” “Giấc mơ còn gì nữa không?” Jessica giục. “Còn. Nhưng có thể cô ấy gọi tôi là Usul,” Paul nói. “Tôi mới chợt nghĩ ra điều này.” Lại một lần nữa, cậu nhắm mắt. “Cô ấy bảo tôi kể về nước. Tôi nắm tay cô ấy. Tôi nói tôi sẽ đọc một bài thơ cho cô ấy. Và tôi đọc thơ, nhưng tôi phải giải thích vài từ ngữ - ví dụ như bãi biển, sóng, rong biển và mòng biển.” “Bài thơ nào?” Mẹ Chí tôn hỏi. Paul mở mắt. “Nó chỉ là một trong những bài thơ mà Gurney Halleck thường ngâm trong lúc buồn.” Sau lưng Paul, Jessica bắt đầu ngâm: “Ta nhớ làn khói mặn mà từ ngọn lửa nơi bãi biển Nhớ bóng mát dưới những cây thông - Vững chãi, thẳng tắp... và bất động - Lũ mòng biển đậu trên chỏm đất, Màu trắng trên xanh... Ngọn gió xuyên qua những cây thông Chao đưa những cái bóng; Lũ mòng biển sải cánh Bay lên Bầu trời ngợp tiếng rít. Và ta nghe tiếng gió Thổi qua bãi biển Và sóng vỗ, Rồi ta thấy ngọn lửa của chúng ta Đã làm rong biển kia cháy sém.” “Chính là bài thơ đó,” Paul nói. Bà lão nhìn Paul chằm chằm, rồi nói: “Chàng trai, với tư cách là Tổng quản trường Bene Gesserit, ta đang tìm kiếm Kwisatz Haderach, người đàn ông quả thật có thể trở thành một thành viên của chúng ta. Mẹ ngươi nhìn thấy khả năng này ở ngươi, nhưng cô ta nhìn với con mắt của người mẹ. Có thể ta cũng nhìn thấy, nhưng không nhiều hơn.” Bà ta im lặng và Paul nhận ra bà ta muốn cậu nói. Cậu chờ bà ta mở miệng. Ngay sau đó, bà ta nói: “Tùy ý ngươi thôi. Ngươi là người có năng lực; điều này ta công nhận.” “Bây giờ tôi đi được rồi chứ?” cậu bé hỏi. “Con không muốn nghe xem Mẹ Chí tôn có thể kể gì cho con về Kwisatz Haderach sao?” Jessica hỏi. “Bà ấy nói những người thử nó đều đã chết.” “Nhưng ta có thể giúp ngươi bằng một vài gợi ý về lý do khiến họ thất bại,” Mẹ Chí tôn nói. Bà ta nói là vài gợi ý, Paul nghĩ. Bà ta không thực sự biết bất cứ điều gì. Cậu nói: “Vậy thì bà gợi ý đi.” “Để rồi chịu họa vì ta sao?” Bà ta nở nụ cười châm biếm, những nếp nhăn chồng chéo trên khuôn mặt già nua. “Rất tốt: ‘Cái đề ra luật lệ.’ ” Cậu kinh ngạc: bà ta đang nói về những điều quá sơ đẳng đến mức như sự căng thẳng bên trong nghĩa. Bà ta tưởng mẹ cậu chẳng dạy được gì cho cậu sao? “Đó là gợi ý ư?” cậu hỏi. “Chúng ta không ở đây để lời qua tiếng lại hay tranh cãi về nghĩa của chúng,” bà lão nói. “Cây liễu thuận theo gió mà lớn lên để rồi đến một ngày nó phát triển thành nhiều cây liễu - một bức tường cản gió. Đó là mục đích của cây liễu.” Paul nhìn bà ta chằm chằm. Bà ta nói mục đích và cậu cảm thấy cái từ đó đập mạnh vào cậu, lại làm cậu bị tiêm nhiễm cái mục đích kinh khủng. Cậu bất thình lình nổi giận với bà ta: mụ phù thủy già xấu xí ngu ngốc với cái miệng toàn những lời nhạt thếch. “Bà nghĩ tôi có thể là vị Kwisatz Haderach đó,” cậu nói. “Bà nói về tôi, nhưng bà chẳng nói một lời nào về chuyện chúng ta có thể làm gì để giúp cha tôi. Tôi đã nghe bà nói chuyện với mẹ tôi. Bà nói như thể cha tôi đã chết. Thật may, ông ấy chưa chết!” “Nếu có thể làm được gì cho ông ấy thì bọn ta đã làm rồi,” bà lão làu bàu. “Ngươi thì bọn ta có thể cứu được. Không chắc lắm nhưng có thể. Còn cha ngươi thì, không gì cứu được. Khi ngươi học được cách chấp nhận điều đó như một thực tế, ấy là ngươi đã học được một bài học Bene Gesserit thực sư.” Paul nhận ra những lời nói này khiến mẹ cậu choáng váng như thế nào. Cậu giận dữ nhìn bà lão. Sao bà ta có thể nói một điều như thế về cha cậu cơ chứ? Cái gì khiến bà ta chắc chắn như thế? Tâm trí cậu sôi sục cảm giác oán giận. Mẹ Chí tôn nhìn Jessica. “Ngươi đã dạy dỗ nó theo Phương pháp - ta nhận ra dấu hiệu của điều đó. Nếu ở vào địa vị ngươi thì ta cũng làm thế, mặc cho quỷ sứ tha mấy cái Luật kia đi.” Jessica gật đầu. “Giờ thì ta cảnh báo ngươi,” bà lão nói, “phớt lờ trình tự đào tạo thông thường đi. Sự an toàn của thằng bé phụ thuộc vào Giọng nói. Nó đã có một khởi đầu tốt với Giọng nói, nhưng cả hai ta đều biết nó cần nhiều hơn thế... cần ghê gớm.” Bà ta lại gần Paul, nhìn cậu chằm chằm. “Tạm biệt, con người trẻ tuổi. Ta hy vọng cậu làm được điều đó. Nhưng nếu cậu không làm được - tốt thôi, bọn ta sẽ vẫn thành công.” Bà ta lại nhìn Jessica. Họ trao cho nhau một thoáng nhìn thấu hiểu. Rồi bà lão bước nhanh ra khỏi phòng, áo choàng kêu sột soạt, không liếc mắt lại thêm một lần nào nữa. Căn phòng và những chủ nhân của nó đã bị bỏ ra ngoài suy nghĩ của bà ta. Nhưng Jessica đã thoáng nhìn thấy gương mặt Mẹ Chí tôn khi bà ta quay đi. Có nước mắt trên gò má nhăn nheo. Những giọt nước mắt ấy gây xao xuyến hơn bất cứ lời nói hay dấu hiệu gì được trao đổi giữa hai người trong ngày hôm nay. .4. Các người đã biết ở Caladan Muad’Dib không có bạn chơi cùng lứa tuổi. Nguy hiểm quá lớn. Nhưng Muad’Dib lại có những vị thầy đồng thời là người bạn tuyệt vời. Đó là Gurney Halleck, một chiến binh - người hát rong. Các người sẽ hát một số bài hát của Gurney trong khi đọc tiếp cuốn sách này. Đó là Thufir Hawat, vị Mentat già nua Thủ lĩnh Sát thủ, người khiến cả Hoàng đế Padishah cũng phải khiếp sợ trong lòng. Đó là Duncan Idaho, Kiếm sư xuất thân từ gia tộc Ginaz; Bác sĩ Wellington Yueh, một cái tên bị bôi đen vì sự phản bội nhưng sáng ngời kiến thức; Lệnh bà Jessica, người đã dạy dỗ con trai mình theo Phương pháp Bene Gesserit, và - tất nhiên - Công tước Leto, người mà từ lâu những phẩm chất làm cha của ông đã không được người ta biết tới. - trích “Chuyện thời thơ ấu của Muad’Dib” của Công chúa Irulan Thufir Hawat lẻn vào phòng tập luyện của lâu đài Caladan, đóng cửa thật khẽ. Ông đứng đó một lát, cảm thấy mình già nua, mệt mỏi và dạn dày vì bão táp. Vết chém ở chân trái mà ông dính phải hồi còn phục vụ Lão Công tước trở nên đau nhức. Đến giờ là ba thế hệ rồi, ông nghĩ. Ông nhìn chằm chằm khắp căn phòng rộng rãi sáng sủa tràn ngập ánh nắng ban trưa tuôn xuống qua những ô cửa sổ trên trần, thấy cậu bé ngồi quay lưng ra cửa, mải mê với đống giấy tờ và bản đồ trải la liệt khắp mặt bàn hình chữ L. Không biết ta đã phải nhắc cậu bé không được ngồi quay lưng ra cửa bao nhiêu lần rồi? Hawat hắng giọng. Paul vẫn cắm cúi nghiên nghiên cứu cứu. Một bóng mây bay qua khung cửa sổ trên trần. Hawat lại hắng giọng. Paul vươn thẳng người, nói mà không quay lại: “Ta biết rồi. Ta đang quay lưng ra cửa.” Hawat nén cười, sải bước ngang qua căn phòng. Paul ngước nhìn ông già tóc hoa râm đứng ở góc bàn. Đôi mắt Hawat tựa hai hồ nước lấp lánh tinh anh trên khuôn mặt u tối và hằn sâu những nếp nhăn của ông. “Ta nghe thấy tiếng thầy đi dọc hành lang,” Paul nói. “Ta cũng nghe thấy tiếng thầy mở cửa.” “Những âm thanh ấy người khác cũng có thể giả được.” “Ta phân biệt được.” Cậu bé có khả năng đó, Hawat nghĩ. Tất nhiên bà mẹ phù thủy của cậu dạy dỗ cậu rất cẩn thận. Ta băn khoăn không biết cái trường học quý báu của cô ta nghĩ gì về chuyện này? Có thể đó là nguyên nhân khiến họ cử vị Tổng quản Tối cao già nua đến đây - vụt roi để khép Lệnh bà Jessica yêu quý của chúng ta vào khuôn phép. Hawat kéo chiếc ghế bên cạnh Paul về phía mình, ngồi xuống quay mặt ra cửa. Ông làm việc đó một cách có chủ ý, ngả lưng ra phía sau và quan sát căn phòng. Ông đột nhiên cảm thấy nó trở thành một nơi kỳ quặc, một chốn xa lạ vì hầu hết đồ đạc đều đã được chuyển đến Arrakis. Còn lại một cái bàn tập luyện, tấm gương chắn với các lăng kính pha lê đứng lặng yên, cái hình nộm làm mục tiêu bên cạnh nó được độn và vá víu, trông như người bộ binh già khọm bị thương tật và bầm dập trong chiến trận. Ấy là ta đó, Hawat nghĩ. “Thufir, thầy đang nghĩ gì vậy?” Paul hỏi. Hawat nhìn cậu bé. “Ta đang nghĩ là tất cả chúng ta sẽ sớm rời khỏi đây và có lẽ không bao giờ còn trông thấy nơi này nữa.” “Điều đó làm thầy buồn sao?” “Buồn ư? Vớ vẩn! Chia tay người thân mới đáng phải buồn. Nơi ở chỉ là nơi ở.” Ông liếc nhìn những tấm bản đồ trên bàn. “Arrakis chỉ là một nơi ở khác.” “Có phải cha ta bảo thầy đến kiểm tra ta không?” Hawat cau mặt - cậu bé quả là có con mắt quan sát. Ông gật đầu. “Con nghĩ rằng nếu ông ấy thân chinh đến thì sẽ hay hơn, nhưng con phải biết là ông ấy rất bận. Ông ấy sẽ đến sau.” “Ta đang nghiên cứu những cơn bão ở Arrakis.” “Những cơn bão. Ta hiểu.” “Xem chừng chúng khá nguy hiểm.” “Dùng từ ấy thì nhẹ quá đấy: nguy hiểm. Những cơn bão đó mạnh dần lên trên suốt sáu, bảy ngàn cây số đồng bằng, hút bất cứ thứ gì tăng thêm sức công phá - lực coriolis, các cơn bão khác, bất cứ thứ gì mang trong nó dù chỉ một chút xíu năng lượng. Chúng có thể di chuyển với tốc độ 700km/giờ, cuốn theo bất cứ cái gì lơi lỏng trên đường đi của chúng - cát, bụi, mọi thứ. Chúng có thể róc thịt khỏi xương và chẻ xương thành từng mảnh vụn.” “Tại sao họ không có hệ thống điều khiển thời tiết?” “Arrakis có nhiều vấn đề phức tạp, giá cả thì cao hơn, rồi còn chuyện bảo trì và những thứ tương tự nữa. Bọn Hiệp hội muốn bán hệ thống điều khiển vệ tinh với giá cắt cổ trong khi Gia tộc của phụ thân con lại không thuộc hàng những gia tộc cực giàu. Con biết điều đó mà.” “Thầy đã nhìn thấy người Fremen bao giờ chưa?” Hôm nay trí óc của thằng bé hoạt động như tên bắn vậy, Hawat nghĩ. “Rất có thể ta đã nhìn thấy họ,” ông nói. “Khó mà phân biệt được họ với những người sống ở địa hào và vùng đầm lầy. Tất cả bọn họ đều mặc áo choàng rộng thùng thình. Ở khoảng cách gần, người họ bốc mùi đến thấu trời. Cái mùi đó tỏa ra từ những bộ quần áo họ mặc - có tên là ‘sa phục’ - chúng giữ lại nước từ chính cơ thể họ.” Paul nuốt nước bọt, đột ngột nhận ra miệng mình ẩm ướt và nhớ đến một giấc mơ về cơn khát. Cậu cảm thấy buồn trước việc những người đó có lẽ quá thiếu nước đến độ họ phải tái chế hơi ẩm của cơ thể mình. “Nước ở đó phải quý lắm,” cậu nói. Hawat gật đầu, nghĩ: Có thể ta đang làm điều đó, giải thích rõ ràng cho cậu bé về tầm quan trọng của hành tinh này với vai trò là một kẻ thù. Thật điên rồ nếu dấn bước đến đó mà không ghi nhớ lời cảnh báo này trong tâm trí. Paul nhìn lên ô cửa trên trần, biết rằng trời đã bắt đầu mưa. Cậu thấy sự ướt át đang lan tỏa trên lớp siêu kính màu xám. “Nước”, cậu nói. “Con sẽ được biết về mối quan tâm sâu sắc đối với nước,” Hawat nói. “Với tư cách con trai Công tước, con sẽ không bao giờ thiếu nước, nhưng con sẽ thấy sức ép của sự khát ở khắp xung quanh con.” Paul đưa lưỡi liếm môi, nhớ lại cái ngày cách đây một tuần và cuộc thử thách của Mẹ Chí tôn. Cả bà ta cũng đã nói về sự đói nước. “Ngươi sẽ biết về những bình nguyên tang tóc,” bà ta nói, “về những sa mạc trơ trụi, những vùng đất hoang nơi không có gì sống được ngoài hương dược và loài sâu cát. Ngươi sẽ đổi màu hốc mắt để giảm bớt ánh chói chang của mặt trời. Nơi trú ẩn sẽ có nghĩa là một cái lỗ kín gió và khuất tầm nhìn. Ngươi sẽ phải đi bộ chứ không có tàu chim, không xe mặt đất hay cũng không có con vật nào cho ngươi cưỡi”. Và Paul bị lôi cuốn vì giọng nói của bà ta - trầm bổng và run run - hơn là vì những lời bà ta nói. “Khi ngươi sống trên Arrakis,” bà ta nói, “khala, đất đai trơ trụi. Các vầng trăng sẽ là bạn ngươi, mặt trời là kẻ thù của ngươi.” Paul cảm thấy mẹ đã rời khỏi vị trí gác cửa đến bên cậu. Nàng nhìn Mẹ Chí tôn hỏi: “Mẹ không thấy chút hy vọng nào sao, thưa Mẹ Chí tôn?” “Cho người cha thì không.” Và bà lão vẫy tay ra hiệu cho Jessica im lặng, rồi nhìn xuống Paul. “Hãy khắc ghi điều này vào trí nhớ, hỡi chàng trai: Một thế giới được chống đỡ bằng bốn thứ...” Bà ta giơ bốn ngón tay có những đốt to sụ lên, “... hiểu biết của kẻ thông thái, công lý của kẻ vĩ đại, lời cầu nguyện của kẻ công chính và chí can trường của kẻ dũng. Nhưng tất cả những thứ đó chẳng là gì...” Bà ta gập các ngón tay lại thành quả đấm, “... nếu không có một người trị vì biết thuật cai trị. Hãy lấy điều đó làm khoa học về truyền thống của ngươi!” Một tuần lễ đã qua kể từ ngày gặp Mẹ Chí tôn. Mãi đến bây giờ cậu mới bắt đầu hiểu đầy đủ ý nghĩa điều bà ta nói. Lúc này, ngồi trong phòng tập luyện cùng Thufir Hawat, Paul cảm thấy một nỗi sợ đến nhói tim. Cậu nhìn vẻ mặt nghiêm trang rối bời của vị Mentat. “Con đã để tâm trí đi đâu vậy?” Hawat hỏi. “Thầy đã gặp Mẹ Chí tôn chưa?” “Người Nói Sự thật, cái mụ phù thủy đến từ Đế quốc á?” Mắt Hawat sinh động hẳn lên vì thích thú. “Ta đã gặp mụ rồi.” “Bà ta...” Paul ngập ngừng, nhận ra mình không thể kể cho Hawat nghe về cuộc thử thách. Sự ức chế quá sâu sắc. “Sao hả? Bà ta đã làm gì?” Paul hít hai hơi thở sâu. “Bà ta nói một chuyện.” Cậu nhắm mắt, cố nhớ lại những lời Mẹ Chí tôn nói, và khi cậu lên tiếng, giọng cậu bất giác nhuốm phần nào giọng điệu của bà lão: “‘Ngươi, Paul Atreides, hậu duệ của các vị quân vương, con trai một Công tước, ngươi phải học cách cai trị. Đó là điều mà chưa một tổ tiên nào của ngươi từng học.’ ” Paul mở mắt, nói: “Câu nói đó khiến ta nổi giận, và ta bảo rằng cha ta cai trị cả một hành tinh. Vậy là bà ta nói: ‘Ông ta đang đánh mất nó’. Ta liền nói cha ta sắp có một hành tinh giàu có hơn. Thì bà ta nói: ‘Ông ta cũng sẽ mất nốt nó.’ Vậy là ta muốn chạy đi cảnh báo cho cha, nhưng bà ta liền nói cha ta đã được cảnh báo rồi - từ thầy, từ mẹ ta, từ nhiều người.” “Đúng vậy,” Hawat lẩm bẩm. “Thế tại sao chúng ta lại đi?” Paul hỏi. “Bởi Hoàng đế ra lệnh vậy. Và bởi vì vẫn còn hy vọng, cho dù mụ gián điệp-phù thủy kia có nói gì đi nữa. Cái nguồn suối thông thái già khọm ấy còn phun ra cái gì khác không?” Paul nhìn xuống bàn tay phải của cậu đang siết lại thành nắm đấm dưới bàn. Chậm rãi, cậu ra lệnh cho các cơ thư giãn. Bà ta đã điều khiển ta bằng cách nào đó, cậu nghĩ. Bằng cách nào? “Bà ta bảo ta nói cho bà ta nghe cai trị nghĩa là gì,” Paul nói. “Và ta nói cai trị nghĩa là ra lệnh. Bà ta liền nói, có những cái ta đã học nhưng bây giờ cần phải quên đi.” Ở điểm ấy thì mụ ta nói đúng lắm, Hawat nghĩ. Ông gật đầu ra hiệu cho Paul tiếp tục. “Bà ta nói một nhà cai trị phải học cách thuyết phục chứ không phải ép buộc. Bà ta nói, nhà cai trị phải bày bàn cà phê ngon nhất để thu hút những người giỏi nhất.” “Mụ ta cho rằng cha của con đã thu hút những người như Duncan và Gurney bằng cách nào chứ?” Hawat hỏi. Paul nhún vai. “Thế rồi bà ta nói một nhà cai trị tốt phải học được ngôn ngữ của thế giới của anh ta, mà mỗi thế giới thì có một ngôn ngữ khác nhau. Ta cho rằng ý bà ta là người ta không nói tiếng Galach trên Arrakis, nhưng bà ta lại nói khác hẳn. Bà ta nói bà ta muốn nhắc đến ngôn ngữ của đá và những thứ đang phát triển, cái ngôn ngữ mà nếu chỉ dùng tai thì sẽ không nghe thấy được. Ta liền nói đó là cái mà bác sĩ Yueh gọi là Bí ẩn của Sự sống.” Hawat cười tủm tỉm. “Nói thế có hợp ý bà ta không?” “Ta nghĩ bà ta điên rồi. Bà ta nói bí ẩn của sự sống không phải một bài toán cần giải, mà là một thực tại cần trải nghiệm. Ta liền nhắc lại Luật Thứ nhất của Mentat cho bà ta nghe: ‘Không thể thấu hiểu một quá trình bằng cách bắt nó ngừng lại. Sự thấu hiểu phải di động cùng dòng chảy của quá trình đó, phải hòa vào nó và chảy cùng nó.’ Hình như câu nói đã làm bà ta hài lòng.” Có vẻ như cậu ta đang vượt qua được điều đó, Hawat nghĩ, nhưng mụ phù thủy già kia đã khiến cậu ta khiếp sợ. Tại sao mụ ta làm thế? “Thufir này,” Paul nói, “liệu Arrakis có tệ như bà ta nói không?” “Làm gì có chuyện tệ đến thế,” Hawat nói và gượng cười. “Đám Fremen kia chẳng hạn; cái dân sa mạc sống ngoài vòng pháp luật ấy. Chỉ cần phân tích sơ bộ thôi ta cũng có thể cho con biết, những người ấy đông hơn, đông hơn rất nhiều so với Đế quốc thường nghĩ. Người ta sống ở đấy, con ạ: rất nhiều người, và...” Hawat đặt một ngón tay gân guốc lên bên cạnh mắt, “... họ căm thù bọn Harkonnen đến tận xương tủy. Con không được hở một lời nào về chuyện này đâu đấy nhé, cậu bé. Ta nói cho con chỉ vì ta là trợ thủ cho cha con thôi.” “Cha đã nói với ta về Salusa Secundus,” Paul nói. “Thầy biết không, Thufir, nó nghe rất giống Arrakis... có thể không tệ đến mức ấy, nhưng rất giống.” “Chúng ta không thực sự biết Salusa Secundus hiện nay ra sao,” Hawat nói. “Chúng ta chỉ biết về tình hình của nó từ lâu lắm rồi... gần như biết. Song những gì ta biết... về điểm ấy thì con nói đúng.” “Người Fremen sẽ giúp chúng ta chứ?” “Cũng có thể.” Hawat đứng dậy. “Hôm nay ta lên đường đến Arrakis. Trong lúc đó thì con hãy bảo trọng vì một lão già vốn yêu quý con, được chứ hả? Hãy đến đây như một cậu bé ngoan và ngồi quay mặt ra cửa đi nào. Không phải ta nghĩ có mối nguy hiểm nào đó trong lâu đài này; đó chẳng qua chỉ là một thói quen mà ta muốn con phải tập dần.” Paul đứng dậy, đi vòng qua chiếc bàn. “Thầy đi hôm nay sao?” “Hôm nay, còn con sẽ đi vào ngày mai. Lần gặp gỡ tiếp theo của thầy trò ta sẽ là tại mảnh đất trên thế giới mới của con.” Ông nắm chặt bắp tay phải của Paul. “Hãy để tay dao của con thật uyển chuyển, nhé? Còn tấm khiên của con thật chắc chắn.” Ông thả tay, vỗ nhẹ vào vai Paul rồi xoay người đi nhanh ra cửa. “Thufir!” Paul gọi. Hawat quay lại, đứng ở ngưỡng cửa mở. “Đừng ngồi quay lưng ra bất kỳ cánh cửa nào,” Paul nói. Một nụ cười rạng rỡ bừng lên trên khuôn mặt già nua nhăn nheo. “Ta sẽ không ngồi như vậy đâu, cậu bé. Cứ tin đi.” Và ông đi ra, khẽ khàng khép cánh cửa lại sau lưng. Paul ngồi xuống chỗ Hawat vừa ngồi, sắp xếp đống giấy tờ. Ở đây thêm một ngày nữa, cậu nghĩ. Cậu nhìn quanh phòng.Chúng ta đang ra đi. Ý nghĩ về sự ra đi đột ngột hiện lên rõ mồn một hơn bao giờ hết. Cậu hồi tưởng lại một câu chuyện khác mà bà lão đã nói về việc thế giới là tổng hòa của nhiều thứ - con người, cát bụi, những thứ đang phát triển, những mặt trăng, những con nước, những mặt trời - cái tổng không ai biết, được gọi là tự nhiên, một bản tổng kết mơ hồ không có chút cảm thức nào về hiện tại. Cậu tự hỏi: Hiện tại là cái gì? Cánh cửa trước mặt Paul mở bung ra và một người đàn ông xấu xí lặc lè bước vào, tay bê cả lô vũ khí. “Này, Gurney Halleck,” Paul gọi, “Thầy là thầy giáo mới dạy về vũ khí đấy à?” Halleck đá một gót chân đóng cánh cửa lại. “Ta biết con thích ta đến để chơi game hơn,” ông nói. Ông quét mắt khắp phòng, nhận thấy người của Hawat đã đến đây và đã kiểm tra kỹ lưỡng để bảo đảm nó an toàn đối với người thừa kế của Công tước. Những ký hiệu mã hóa tinh vi nhan nhản xung quanh. Paul quan sát người đàn ông xấu xí đang lắc lư kia lùi lại, mang theo đống vũ khí nặng trĩu chuyển hướng về phía bàn tập luyện, cậu nhìn cây đàn baliset chín dây đeo trên vai Gurney với chiếc móng gảy cài vào những dây đàn gần đầu cần phím. Halleck thả vũ khí xuống bàn tập, xếp chúng thẳng hàng - nào kiếm mỏng, dao găm, đoản kiếm hai lưỡi, súng bắn phi tiêu, thắt lưng đeo khiên. Vết sẹo ở quai hàm do bị quất roi nho mực nhăn nhúm lại khi ông xoay cổ, ném một nụ cười ngang qua phòng. “Vậy là con thậm chí còn không chào ta đấy, đồ tiểu quỷ,” Halleck nói. “Mà con đã cắm cái ngạnh nào vào lão già Hawat thế? Lúc ở hành lang, ông ta phóng qua ta cứ như một người đang chạy đến đám tang của kẻ thù vậy.” Paul toét miệng cười. Trong tất cả số cận vệ của cha mình, cậu thích Gurney Halleck nhất, hiểu được tính tình và sự tinh quái của ông, sự hài hước của ông, và nghĩ về ông với tư cách một người bạn hơn là một thanh kiếm được thuê. Halleck tháo cây đàn baliset ra khỏi vai rồi bắt đầu gảy. “Nếu ngươi không nói, thế nghĩa là ngươi không nói,” ông thốt lên. Paul đứng dậy, tiến lên phía trước, kêu to: “Được rồi, Gurney, có phải chúng ta đang chuẩn bị chơi nhạc trong giờ học chiến đấu không?” “Hôm nay mà nói thế với người lớn tuổi thì thật hỗn xược đấy,” Halleck nói. Ông thử một dây trên nhạc cụ, gật đầu. “Duncan Idaho đâu?” Paul hỏi. “Chẳng phải anh ta có nhiệm vụ dạy ta về các loại vũ khí sao?” “Duncan đã dẫn đầu đoàn người đi Arrakis đợt hai rồi,” Halleck nói. “Con chỉ còn lại có mỗi lão già Gurney tội nghiệp vừa chinh chiến trở về và đang háo hức được chơi nhạc này thôi.” Ông gảy một dây đàn khác, lắng nghe, mỉm cười. “Và hội đồng đã quyết định rằng con là một chiến binh tồi nên tốt nhất chúng ta sẽ dạy con chơi nhạc để con không phí phạm cả đời mình.” “Vậy thì tốt hơn có lẽ thầy nên hát tặng ta một bài,” Paul nói. “Ta muốn biết chắc làm thế nào ta không phí phạm cả đời mình.” “Ha-ha-ha!” Gurney cười to và phổ nhạc bài “Các cô gái Galacia,” chiếc móng gảy ẩn hiện lờ mờ trên các dây đàn khi ông hát: “Ôi-i-i-i, các cô gái Galacia Sẽ làm thế vì ngọc, Còn Arrakeen vì nước! Nhưng nếu bạn muốn đàn bà Như lửa ngùn ngụt cháy Thử một nường con gái Caladan xem!” “Cái tay xấu xí thế kia cùng với móng gảy mà chơi được như thế thì cũng không tệ,” Paul nói, “nhưng nếu mẹ ta nghe thầy hát một bài tục tĩu như thế trong lâu đài, bà ấy sẽ găm tai thầy lên tường bên ngoài để trang trí đấy.” Gurney kéo tai trái lên. “Dùng cái này mà trang trí thì cũng xấu nốt, nó đã bị thâm tím quá nhiều do phải kề vào lỗ khóa lắng nghe một cậu bé mà ta quen biết luyện tập vài bài hát lạ trên cây baliset của mình.” “Vì thế mà thầy đã quên mất tìm thấy cát trên giường mình là thế nào,” Paul nói. Cậu kéo một chiếc thắt lưng đeo tấm chắn từ trên bàn, cài chặt quanh eo. “Nào, giao đấu thôi!” Halleck mở to mắt làm ra vẻ ngạc nhiên. “Ái chà chà! Chính bàn tay xấu xa của con khiêu chiến đấy nhé! Hôm nay thì tự bảo vệ mình đi, cậu bé - bảo vệ mình đi.” Ông chộp lấy thanh kiếm mỏng, chém vào không khí. “Ta là quỷ sứ, chiến đấu để trả thù đây!” Paul nâng thanh kiếm lên, uốn cong bằng cả hai tay, đứng theo thế aguile, một chân đặt lên trước. Cậu để tư thế của mình ra bộ uy nghiêm nhại theo bác sĩ Yueh. “Cha ta cử đến cho ta một tay dạy về vũ khí mới đần độn làm sao chứ,” Paul nói. “Tay Gurney Halleck đần độn này đã quên béng bài học đầu tiên cho một người giao chiến được trang bị vũ khí và tấm chắn bảo vệ rồi.” Paul bấm đánh tách chiếc nút lực nơi thắt lưng, cảm thấy trên trán và sau lưng mình cái gờn gợn ran ran của trường bảo vệ, những âm thanh bên ngoài trở nên vô âm sắc, cái vô âm sắc đặc trưng khi bị lọc qua tấm chắn. “Trong cuộc giao chiến có dùng tấm chắn, để phòng thủ người ta di chuyển nhanh, để tấn công người ta di chuyển chậm,” Paul nói. “Đòn công trực diện có mục đích duy nhất là nhử đối phương hành động sai lầm, lừa hắn vào đòn công hiểm. Tấm chắn gạt được cú đánh nhanh, dính phải đoản kiếm chậm.” Paul chộp thanh kiếm mỏng, ra một đòn nhử nhanh rồi rụt kiếm về để thọc một nhát chậm nhưng đúng lúc vào chỗ hớ hênh trên tấm chắn của đối phương. Halleck quan sát hành động của cậu, xoay người đúng vào phút chót để mũi kiếm cùn sượt qua ngực ông. “Nhanh lắm, giỏi lắm,” ông nói. “Nhưng con đã để lộ người quá nhiều, coi chừng bị một cú phản đòn lén lút bằng một lưỡi dao con đấy.” Paul lùi lại, thất vọng. “Lẽ ra ta phải đét đít con vì sự bất cẩn đó,” Halleck nói. Ông nhấc một thanh đoản kiếm tuốt trần ở trên bàn, giơ nó lên. “Nếu trong tay kẻ thù, cái này có thể làm con đổ máu đấy! Con là một học trò xuất sắc, không ai vượt qua được, nhưng ta đã cảnh cáo con là dù có đấu chơi đi nữa con cũng không được để một ai trong đội bảo vệ của con nắm cái chết trong tay hắn.” “Chắc hôm nay ta không có tâm trạng chiến đấu,” Paul nói. “Tâm trạng?” Giọng Halleck để lộ sự giận dữ ngay cả khi đã qua bộ lọc của tấm chắn. “Tâm trạng thì liên quan quái gì chứ? Con chiến đấu khi cần phải chiến đấu, tâm trạng tâm triết chẳng là cái gì hết! Tâm trạng là thứ chỉ dành cho những kẻ đáng khinh đang làm tình hoặc chơi baliset mà thôi. Nó không dành cho chiến đấu.” “Ta xin lỗi, Gurney.” “Con không thực sự hối lỗi!” Halleck kích hoạt tấm chắn của mình, cúi xuống, tay trái chìa đoản kiếm hai lưỡi ra phía trước, tay phải giơ cao thanh kiếm mỏng. “Giờ thì ta nói con hãy tự vệ đi, nói thật đấy!” Ông nhảy vọt sang một bên, sau đó tiến lên phía trước, giận dữ tấn công dồn dập. Paul ngả về phía sau, đỡ đòn. Cậu cảm thấy trường bảo vệ kêu răng rắc khi đường viền hai tấm chắn chạm nhau rồi đẩy nhau ra, có cảm giác ran ran khi dòng điện tiếp xúc dọc theo da cậu. Cái gì đã nhiễm vào Gurney vậy? Cậu tự hỏi. Ông ấy không giả bộ đánh như thế! Paul lắc tay trái, thả con dao găm đựng trong chiếc bao ở cổ tay rơi vào lòng bàn tay. “Con thấy phải cần thêm một lưỡi dao nữa, hả?” Halleck làu bàu. Đây có phải sự phản bội không? Paul tự hỏi. Gurney thì chắc chắn không! Họ đánh nhau khắp quanh phòng - đâm và đỡ, nhử và phản công đòn nhử. Không khí trong những màn bong bóng bảo vệ trở nên nặng mùi bởi nhu cầu hít thở của hai người đã khiến sự trao đổi chậm chạp dọc mép rào chắn không kịp bổ sung không khí. Sau mỗi lần va chạm mới của các tấm chắn, mùi ôzôn càng thêm nồng nặc. Paul tiếp tục lùi lại, nhưng lúc này cậu chủ ý rút lui về phía bàn tập. Nếu nhử được ông ấy lại gần bàn, ta sẽ trình diễn cho ông ấy xem một đòn gài bẫy, Paul nghĩ. Thêm một bước nữa nào, Gurney. Halleck tiến một bước. Paul hướng gươm đỡ phía dưới, xoay người, nhìn thấy thanh kiếm mỏng của Halleck chạm vào mép bàn. Paul ném người sang một bên, thọc gươm lên cao và lia dao găm qua đường viền cổ áo của Halleck. Paul dừng mũi dao khi nó chỉ cách động mạch cổ của Halleck vỏn vẹn hai xăng ti mét. “Đây là cái thầy tìm kiếm phải không?” Paul thì thầm. “Nhìn xuống đi, cậu bé,” Gurney hổn hển. Paul làm theo, thấy thanh đoản kiếm hai lưỡi của Halleck đâm dưới mép bàn, mũi dao gần như chạm vào háng Paul. “Lẽ ra chúng ta đã chết cùng nhau,” Halleck nói. “Nhưng ta thừa nhận là khi bị dồn ép thì con đánh có tốt hơn một chút. Dường như con bắt đầu có tâm trạng rồi đấy.” Và ông toét miệng cười như chó sói, vết sẹo vì roi nho mực lồi lên dọc quai hàm. “Xem cái cách thầy xông vào ta kìa,” Paul nói. “Thầy thực sự muốn lấy máu ta sao?” Halleck thu thanh đoản kiếm hai lưỡi lại, đứng thẳng lên. “Nếu con đánh dưới khả năng của mình một chút thôi thì ta đã rạch cho con một đường đẹp mắt, một vết sẹo mà con sẽ nhớ đời. Ta sẽ không để đứa học trò ta cưng nhất thất bại trước tên Harkonnen đầu tiên tình cờ xuất hiện đâu.” Paul cho tấm chắn của mình ngừng hoạt động, tựa vào bàn, nín thở. “Ta đáng bị như thế, Gurney ạ. Nhưng nếu thầy làm đau ta thì cha ta sẽ nổi giận đó. Ta sẽ không để thầy bị trừng phạt vì lỗi của ta.” “Về chuyện đó thì cả ta cũng có lỗi,” Halleck nói. “Và con không cần bận tâm về một hai cái sẹo lĩnh phải khi tập luyện. May cho con là con có rất ít sẹo. Còn về cha con, Công tước sẽ chỉ trừng phạt ta nếu ta không thể làm cho con trở thành một chiến sĩ hạng nhất. Và lẽ ra ta đã thất bại nếu không giải thích được cho con sự sai trái trong cái thứ tâm trạng mà con vừa đột ngột có được kia”. Paul thẳng người lên, đút trả dao găm vào chiếc bao ở cổ tay. “Ở đây chúng ta không hẳn là chỉ đánh chơi đâu,” Halleck nói. Paul gật đầu. Cậu cảm thấy ngạc nhiên trước sự nghiêm trang ít thấy trong cung cách của Halleck và vẻ tập trung đầy cảnh tỉnh ở ông. Cậu nhìn vết sẹo vì roi nho mực màu củ cải trên quai hàm ông, nhớ lại câu chuyện kể rằng vết sẹo đó do Rabban Thú dữ ở một khu nô lệ Harkonnen trên hành tinh Giedi Prime để lại. Và đột nhiên Paul thấy xấu hổ vì đã nghi ngờ Halleck dù chỉ trong một khoảnh khắc. Rồi Paul chợt nảy ra ý nghĩ rằng vết sẹo của Halleck đã được tạo ra kèm theo sự đau đớn - một sự đau đớn có lẽ cũng dữ dội như nỗi đau do Mẹ Chí tôn gây ra. Cậu gạt ý nghĩ này sang một bên; nó làm thế giới của họ trở nên lạnh lẽo. “Con nghĩ hôm nay con muốn chơi vài trò vui,” Paul nói. “Thời gian gần đây toàn thấy những chuyện quan trọng.” Halleck quay đi để giấu cảm xúc của mình. Đôi mắt ông bùng cháy một điều gì đó. Có một nỗi đau trong ông - giống như một vết bỏng, tất cả những gì còn lại của một quá khứ đã mất nào đó mà Thời gian đã tước khỏi ông. Cậu bé này phải gánh lấy tuổi trưởng thành sớm biết bao, Halleck nghĩ. Cậu phải đọc quá sớm cái bản mẫu đó trong tâm trí, bản giao kèo về sự cẩn trọng tàn bạo đó, để điền điều cần thiết vào dòng cần thiết: “Hãy liệt kê họ hàng thân thiết nhất của bạn.” Halleck nói mà không quay đầu lại: “Ta cảm nhận được trò vui trong con, cậu bé, và ta không thích gì hơn là được tham gia trò vui đó. Nhưng không thể chơi thêm hơn nữa. Ngày mai chúng ta đi Arrakis rồi. Arrakis là có thật. Bọn Harkonnen là có thật.” Paul giữ thẳng đứng thanh kiếm mỏng, cho lưỡi kiếm chạm vào trán. Halleck quay người, nhận ra kiểu chào, liền gật đầu đáp lại. Ông ra hiệu về phía người nộm dùng để luyện tập. “Bây giờ chúng ta sẽ luyện để nâng cao khả năng chọn thời điểm của con. Hãy để ta xem con đánh nhau với cái vật nguy hiểm này. Ta sẽ điều khiển nó từ đằng kia, ở chỗ ta có thể nhìn bao quát trận đánh. Và ta báo trước cho con biết, hôm nay ta sẽ thử những đòn phản công mới đấy. Nếu là kẻ thù thực sự thì sẽ không cảnh báo cho con như thế này đâu.” Paul kéo căng ngón chân để làm thư giãn các cơ. Cậu cảm thấy nghiêm túc hơn khi bất ngờ nhận ra cuộc sống của mình đã trở nên đầy ắp những thay đổi mau lẹ. Cậu đi về phía người nộm, ấn mũi kiếm vào cái nút trên ngực nó và cảm nhận được trường bảo vệ đẩy lưỡi kiếm của cậu ra. “En garde!” Halleck hô to, và người nộm tấn công dồn dập. Paul kích hoạt tấm chắn bảo vệ, tránh đòn và phản công. Halleck vừa quan sát vừa dùng tay thao tác trên bộ điều khiển. Trí óc ông như chia ra làm hai: nửa này tỉnh táo nghĩ ra những chiêu thức cần thiết cho trận đấu tập, nửa kia lan man trong tiếng vo vo như của lũ ruồi. Ta là một cây ăn quả được uốn nắn tốt, ông nghĩ. Đầy những cảm xúc và khả năng được trui rèn cẩn thận, tất cả được ghép lên mình ta - và ta cứ mang chúng mãi để ai đó đến mà hái chúng. Vì lý do nào đó, ông nhớ lại em gái mình, khuôn mặt tinh nghịch của bà hiện rõ mồn một trong tâm trí ông. Nhưng giờ đây bà đã chết, trong một nhà nghỉ dành cho quân đội Harkonnen. Xưa kia bà yêu hoa păng xê... hay hoa cúc nhỉ? Ông không nhớ được. Ông cảm thấy buồn bực vì không nhớ được. Paul đỡ một đòn tạt chậm của tên người nộm, vung tay trái ra đòn entretisser. Cái đồ quỷ nhỏ sáng dạ này! Halleck vừa chăm chú theo dõi những cử động đan xen của tay cậu bé vừa nghĩ. Cậu ta đã tự mình rèn luyện và nghiên cứu. Đây không phải phong cách của Duncan, và chắc chắn không phải do mình dạy. Ý nghĩ này chỉ làm tăng thêm nỗi buồn trong lòng Halleck. Mình nhiễm tâm trạng rồi, ông nghĩ. Và ông bắt đầu tự hỏi về Paul, liệu cậu bé có bao giờ lắng nghe một cách đầy sợ hãi cái gối mình giần giật trong đêm tối hay không. “Nếu những điều ước là cá thì ai cũng đều quăng lưới,” ông lẩm bẩm. Đó là cách nói của mẹ ông và ông luôn dùng đến nó mỗi khi cảm thấy cái màn đen của ngày mai bao phủ lên người mình. Rồi ông nghĩ, câu này nghe mới kỳ quặc làm sao nếu đem đến một hành tinh vốn chưa bao giờ biết đến biển cả hay cá mú. .5. YUEH (yü), Wellington (welling-tun), 10.082 - 10.191 Năm Chuẩn; bác sĩ trường Suk (tốt nghiệp 10.112 Năm Chuẩn), vợ: Wanna Marcus, Bene Gesserit (10.092 - 10.186? Năm Chuẩn), chủ yếu được nhắc tới với tư cách kẻ phản bội Công tước Leto Atreides (Xem: Tiểu sử, Phụ lục VII [Tối thượng Y pháp] và Kẻ phản bội). - trích “Từ điển Muad’Dib” của Công chúa Irulan Mặc dù nghe thấy bác sĩ Yueh đi vào phòng tập, nhận ra bước chân thong thả cứng nhắc của ông ta, Paul vẫn duỗi người nằm sấp trên chiếc bàn tập luyện nơi người xoa bóp đã để cậu lại. Cậu cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm sau buổi tập cường độ cao với Gurney Halleck. “Trông con có vẻ thoải mái,” Yueh nói bằng chất giọng cao, bình thản của ông. Paul ngẩng đầu, thấy cái dáng cứng đơ của người đàn ông đứng cách cậu vài bước, liếc nhìn bộ quần áo màu đen nhàu nhĩ, cái đầu vuông vức với đôi môi đỏ tía và bộ ria rủ xuống, hình xăm kim cương của Tối thượng Y pháp trên trán ông, mái tóc đen dài giắt vào chiếc vòng bạc của Trường Suk đeo nơi vai trái. “Con sẽ rất vui nếu biết hôm nay chúng ta không có thì giờ học hành như thường lệ,” Yueh nói. “Cha con sẽ đến ngay bây giờ.” Paul ngồi dậy. “Tuy nhiên, ta đã thu xếp để con xem một cuốn sách phim và học một vài bài trên đường đến Arrakis.” “Ồ.” Paul bắt đầu mặc quần áo. Cậu cảm thấy phấn khích vì cha cậu đang tới. Từ khi Hoàng đế hạ lệnh tiếp quản thái ấp Arrakis, hai cha con có quá ít thời gian ở bên nhau. Yueh vừa đi về phía chiếc bàn hình chữ L vừa nghĩ: Mấy tháng gần đây thằng bé mới lớn nhanh làm sao. Thật lãng phí. Ôi, một sự lãng phí đáng buồn. Ông tự nhắc nhở mình: Ta không được dao động. Ta làm việc này là để đảm bảo Wanna của ta không bị lũ Harkonnen độc ác hành hạ nữa. Paul đến ngồi cùng ông ở bàn, cài cúc áo vest. “Con sẽ học gì trên đường đi?” “À-à-à-à, những dạng sống kiểu trái đất ở Arrakis. Có vẻ như hành tinh này đã mở rộng tay tiếp nhận một số dạng sống kiểu trái đất. Không rõ bằng cách nào. Khi đến đó, ta phải tìm nhà sinh thái học hành tinh - tiến sĩ Kynes - và đề nghị được giúp ông ta nghiên cứu.” Và Yueh nghĩ: Ta đang nói gì vậy? Ta chơi trò giả nhân giả nghĩa ngay với chính mình sao. “Sẽ có gì đó về người Fremen chứ?” Paul hỏi. “Người Fremen?” Yueh gõ gõ ngón tay lên bàn, bắt gặp ánh mắt Paul đang nhìn chằm chằm vào hành động bồn chồn đó, liền rút tay lại. “Có lẽ thầy nắm được điều gì đó về toàn bộ dân cư Arrakeen,” Paul nói. “Có chứ, chắc chắn rồi,” Yueh nói. “Về dân cư, họ thường được chia ra làm hai loại: người Fremen là một nhóm, còn nhóm kia gồm những người sống trong địa hào, vùng đầm lầy, và khu đất trũng. Có vài cuộc hôn nhân khác chủng tộc, ta nghe nói thế. Đàn bà vùng đầm lầy và khu đất trũng thích lấy chồng người Fremen; còn đàn ông xứ họ thích lấy vợ là người Fremen. Họ có một câu nói: ‘Lịch lãm đến từ thành phố; thông thái đến từ sa mạc.’ ” “Thầy có ảnh của họ không?” “Ta sẽ xem có thể cho con biết được gì nào. Đặc điểm thú vị nhất, tất nhiên là mắt họ - toàn màu xanh nước biển, không có chút màu trắng nào.” “Do đột biến à?” “Không phải; nó liên quan đến sự bão hòa chất melange trong máu họ.” “Hẳn người Fremen phải gan dạ lắm mới sống ở rìa sa mạc.” “Theo thông tin thu thập được, họ làm thơ tặng những con dao của mình,” Yueh nói. “Đàn bà hung dữ chẳng khác gì đàn ông. Thậm chí bọn trẻ Fremen cũng dữ tợn và nguy hiểm. Con sẽ không được phép giao tiếp với họ đâu, ta dám nói như thế.” Paul chằm chằm nhìn Yueh, tìm thấy trong đôi lời kể sơ sài về người Fremen đó một sức mạnh ngôn từ đã thu hút toàn bộ sự chú ý của cậu. Nếu thu phục được giống dân này làm đồng minh thì hay biết mấy! “Thế còn sâu thì sao?” Paul hỏi. “Cái gì?”