🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Xã Hội Việt Nam Từ Thế Kỷ Xvii
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XVII Nguyễn Trọng Phấn dịch
NXB Tổng hợp TPHCM
+++++++++++++
TVE-4U.org
ebook©vctvegroup
Số hóa: Bọ Cạp
https://thuviensach.vn
Nguyễn Trọng Phấn
(1910-1996)
Quê: xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, TP. Hà Nội.
Trước năm 1945: Viên chức Sở Trước bạ và Trường Viễn Đông Bác Cổ; hội viên Hội Trí Tri và Hội Khai Trí Tiến Đức.
Từ 1945 - 1954: Chánh Văn phòng Đông phương Bác cổ học viện; Chánh Văn phòng Nha Đại học và Tổng Thư ký Ban Sử học - Bộ Giáo dục.
Từ 1954: Giáo viên trường Trung cấp Sư phạm Trung ương; tiếp quản trường Viễn Đông Bác Cổ; sau đó công tác tại Thư viện Khoa học Trung ương - nay là Viện Thông tin KHXH Việt Nam, cho đến khi nghỉ hưu.
Đôi lời về một người ẩn danh (Thay lời tựa sách)
Tôi tốt nghiệp trung học phổ thông rồi theo học Khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp đúng thời điểm chiến tranh phá hoại lan ra miền Bắc (1964 - 1965). Tốt nghiệp về nhận việc ở Viện Sử học Việt Nam (1969) thì chỉ ít lâu sau lại đi sơ tán cũng vì cuộc chiến tranh phá hoại trở nên ác liệt hơn với những trận rải bom của B52 vào lòng Thủ đô Hà Nội...
https://thuviensach.vn
Nhắc lại điều đó để tôi giải thích vì sao khi thực sự bước vào cuộc đời nghề nghiệp, mà tôi lại chưa đến khai thác tài liệu tại một trong những thư viện quý nhất khi đó là Viện Thông tin Khoa học xã hội, nơi được thừa kế kho sách vô giá của Trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp tại Hà Nội. Đương nhiên những năm sau này tôi vẫn thường xuyên đến đọc tài liệu tại đây, nhưng thời điểm ấy, tôi không còn được gặp một người là tác giả của cuốn sách mà các bạn cầm trên tay: cụ Nguyễn Trọng Phấn.
Tôi chỉ gặp cụ Phấn khi cụ đã nghỉ hưu. Một ông già khi đó đã ngoài bảy mươi, tóc râu đã bạc, lưng lại còng nhưng lúc nào cũng cắp trên tay những cuốn sách dày mà sau này khi không còn đủ sức cụ cho vào một cái bị xách bên mình. Tôi không hiểu những cuốn sách ấy cụ đang sử dụng dở dang hay mang theo chỉ là một thói quen không bỏ được. Dáng vẻ hiền từ nhưng ít nói. Tôi chỉ được mọi người giới thiệu đó là một cán bộ cũ của thư viện.
Sau này, khi tôi hoạt động nhiều trong công việc của Hội Sử học, tổ chức những sinh hoạt như phổ biến kiến thức, hội thảo kỷ niệm các sự kiện hay nhân vật lịch sử, luôn thấy vị khách lão thành ấy có mặt. Khiêm nhường ngồi ở những hàng ghế sau ít ai để ý. Nhưng với các bậc lão thành, nhất là trong giới nghiên cứu thì mọi người đều tỏ sự kính trọng khi gặp cụ. Dần dà tôi biết nhiều hơn về con người này. Hỏi chuyện cụ, nhất là liên quan đến sách vở cái gì cụ cũng am tường ẩn sau cách nói rất khiêm nhường. Hơn thế thi thoảng cụ còn đến nhà tôi, khi đó sống trong khu phố cổ. Không gặp tôi thì trò chuyện với mẹ tôi, cũng thuộc hạng người cũ của Hà Nội nhưng ít hơn cụ hơn chục tuổi. Câu chuyện giữa họ là gì tôi không rõ, nhưng mẹ tôi luôn tỏ sự tôn trọng và chỉ nói với tôi rằng ngày xưa cụ ấy thuộc hạng người “danh giá”.
Một lần tôi có dịp sang Pháp, cụ Phấn đến nhờ tôi gửi một lá thư cho bà Tiến sĩ Thu Trang - Công Thị Nghĩa, một nhà sử học Việt kiều chuyên viết về những nhân vật lịch sử thời cận đại trong đó có Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh và có sách in ở Việt Nam. Lá thư mà thực ra là một tài liệu viết về tổ chức “Hội Tam điểm” ở Việt Nam mà cụ từng là một người tham dự
https://thuviensach.vn
khá sâu sắc. Cụ viết để cung cấp thêm những hiểu biết về tổ chức này mà Tiến sĩ Thu Trang mới chỉ tiếp cận qua các nguồn tư liệu. Cụ bổ sung nhiều điều và cải chính đôi điều. Tôi biết nội dung bức thư vì chính cụ dặn đây là thư ngỏ nên cứ đọc trước rồi sẽ chuyển sau. Hẳn cụ giữ ý để tôi yên tâm mang giúp thư ra nước ngoài. Nhưng với tôi lá thư khá dài ấy là một nội dung rất bổ ích về một tổ chức hoạt động rất bí mật nhưng lại có không ít tác động vào lịch sử Việt Nam thời cận đại (Pháp thuộc). Chính cụ đã mách bảo tôi rằng trong thư viện và lưu trữ có những tài liệu cho biết Cụ Hồ khi còn trẻ đã từng đến với tổ chức này cả ở Việt Nam và ở Pháp... Sau này có người phát hiện ra tài liệu chứng minh đúng như vậy...
Sau khi tôi chuyển bức thư sang Pháp, bà Tiến sĩ Thu Trang đánh giá rất cao những thông tin cụ Phấn cung cấp và có nhờ tôi chuyển lời cảm ơn và hy vọng có dịp gặp cụ ở Việt Nam. Tôi cũng có ý định khai thác thêm những hiểu biết về cụ, nhưng công việc cứ bẵng đi theo thời gian... cho đến ngày nghe tin cụ mất.
Thú thật, cho đến lúc này, khi bản thảo của cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay được các đồng nghiệp biên soạn gửi tới tôi đọc trước, tôi được biết kỹ hơn những thông tin về nhân thân và các hoạt động nghề nghiệp của cụ Nguyễn Trọng Phấn, tôi mới hiểu hơn cái nhận xét mà mẹ tôi từng nói về cụ, một người danh giá.
Cuốn sách này rất mỏng, lại chỉ là những mẩu tư liệu sưu tầm từ những sách báo của người phương Tây viết về buổi tiếp xúc đầu tiên với đất nước và con người Việt Nam vào thế kỷ XVII. Đó mới chỉ là những bài báo rút ra từ tờ “Thanh Nghị”, sự tập hợp trách nhiệm của những trí thức có tinh thần dân tộc vào thời điểm đang đón chờ cơ hội giành độc lập cho đất nước khi chiến tranh Thế giới lần thứ II tạo ra... Đúng như phụ đề “thu nhặt tài liệu để giúp vào sự giải quyết những vấn đề quan hệ đến cuộc sinh hoạt của dân tộc Việt Nam”, cụ Nguyễn Trọng Phấn và các bạn trí thức “đồng chí” của mình đã làm mọi việc để đặt nền tảng cho một tư duy mới, điều mà
https://thuviensach.vn
ngày nay ta hay dùng, là chuẩn bị tâm thế cho công cuộc hội nhập với thế giới một khi nước nhà giành được độc lập.
Năm Việt Nam giành được độc lập, cụ Nguyễn Trọng Phấn mới 36 tuổi. Cụ Chủ tịch nước Việt Nam độc lập, giữa lúc còn phải “vật lộn” với nạn đói, nạn dốt và ngoại xâm vẫn trân trọng kế thừa cái di sản khoa học của chế độ cũ mà ấn định nhiệm vụ mới của Đông phương Bác cổ Học viện trên cơ sở kế thừa toàn bộ những thành quả nghiên cứu và con người của Trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp lập ở Đông Dương. Và cụ Nguyễn Trọng Phấn được đảm nhiệm vai trò Chánh văn phòng và Thư ký của Hội đồng cố vấn Học viện, nơi tập hợp những tên tuổi danh giá như Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giáp, Cao Xuân Huy, Nguyễn Đỗ Cung, Đặng Thai Mai, Nguyễn Thiệu Lâu, Đào Duy Anh, Nam Sơn... và cả Ngô Đình Nhu và Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (tức Cựu hoàng Bảo Đại)...
Đọc cuốn sách này hẳn các bạn đọc quan tâm nhiều hơn đến những thông tin về một vấn đề lịch sử được nêu thành tên sách Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII, nhưng riêng với tôi lại quan tâm nhiều hơn đến thế hệ những người ẩn danh như cụ Nguyễn Trọng Phấn, những người không hiếm sống quanh ta. Hoàn cảnh khiến cụ Nguyễn Trọng Phấn không thành danh như các nhà khoa học lớn, nhưng thế hệ của cụ là thế hệ “làm sống lại những đoạn “Nam sử” mà hiện nay nhiều người sao nhãng” từ cách đây hơn bảy thập kỷ. Những người không thành danh ngoài xã hội nhưng từng danh giá trong tâm khảm những người cùng thời.
Lục tìm trong những tư liệu ngổn ngang của mình, tôi kiếm được một tấm ảnh chụp chung với cụ cũng thấy Trần Quốc Vượng và bạn Lê Cường (cháu nội cụ Lê Hoan), bức ảnh chụp cách nay đã một phần tư thế kỷ nhân một cuộc hội thảo về danh nhân Chu Văn An để in vào cuốn sách này như một kỷ niệm về cụ Nguyễn Trọng Phấn (xin xem trang 188).
Cuối Thu 2015
Dương Trung Quốc
https://thuviensach.vn
LỜI THƯA!
Bạn đọc đang cầm trên tay cuốn sách Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII. Đây là tập hợp các bản dịch của nhà báo, nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng Phấn (1910 - 1996) trên Tạp chí Thanh Nghị từ năm 1941 đến năm 1945. Nội dung các bài viết mô tả xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII qua sự quan sát, ghi chép của những người phương Tây đến Việt Nam thuở đó.
Về nội dung cuốn sách, chúng tôi xin dành sự đánh giá cho bạn đọc. Dưới đây, chúng tôi muốn giới thiệu đôi dòng về tác giả của những bản dịch được đăng trên Tạp chí Thanh Nghị. Chốc đã bảy chục năm trời, tác phẩm tưởng như đã mất nhưng chúng tôi may mắn tìm được khá đầy đủ nhờ công cuộc số hóa Tạp chí Thanh Nghị của Viện Viễn Đông Bác Cổ (Cộng hòa Pháp) tại Việt Nam. Một điều trùng hợp là, cụ Nguyễn Trọng Phấn, có lẽ, là thành viên người Việt Nam cuối cùng của cơ sở khoa học này. Thọ gần 90 tuổi, gần trọn cuộc đời sống và làm việc trong thế kỷ XX, cụ Nguyễn Trọng Phấn làm một công việc thầm lặng là dịch thuật, giảng dạy địa lý một thời gian ngắn ở Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) rồi gắn bó với công tác thư viện tại ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho đến ngày nghỉ hưu nên ít người biết đến. Thậm chí, có những cuốn sách do cụ viết ra và biên soạn nhưng do hoàn cảnh lịch sử nên không đứng tên riêng. Duy nhất, cụ Nguyễn Trọng Phấn - với bút danh Thiện chân, đã tuyển dịch những tư liệu của người phương Tây viết về: Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII.
Chúng tôi, thế hệ hậu sinh chỉ làm một công việc khiêm tốn là sưu tầm và đánh máy lại để Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII đến tay bạn đọc hôm nay.
https://thuviensach.vn
Về nguyên tắc, chúng tôi tôn trọng tuyệt đối văn bản tác phẩm. Chúng tôi chỉ chỉnh sửa những quy tắc chính tả cho đúng với quy định xuất bản hiện hành. Một số chỗ, do nguyên bản mờ chữ, hoặc mất trang, chúng tôi đều có chú thích rõ ràng. Phần mất trang trong bài “Nền thương mại của xứ Đàng Ngoài ở đầu thế kỷ thứ XVII”, dù đã cố gắng liên hệ với một số nhà sưu tầm báo chí từ Bắc tới Nam, nhưng chúng tôi vẫn chưa có may mắn để tìm được, ngõ hầu bổ khuyết cho văn bản được hoàn thiện. Mong rằng, sau khi cuốn sách ra đời, các nhà sưu tầm, nghiên cứu và bạn đọc, nếu có được phần thiếu khuyết đó, xin chia sẻ giúp cho chúng tôi.
Một số chỗ, để giúp bạn đọc nắm rõ hơn, chúng tôi có đưa vào một vài chú thích. Những phần chú thích của người biên soạn chúng tôi đều có ghi cụ thể.
Do năng lực còn nhiều hạn chế, rất có thể trong quá trình sưu tầm, biên soạn và giới thiệu còn những thiếu sót, chúng tôi mong nhận được sự chỉ chính của bạn đọc gần xa.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này cùng bạn đọc!
Nhóm sưu tầm
Kiều Mai Sơn - Nguyễn Mạnh Sơn - Nguyễn Trung Thành
https://thuviensach.vn
LỜI TÒA SOẠN
Ý định chúng tôi là làm cho nhiều người chú ý đến sự tiến hóa của dân tộc Việt Nam và thu nhặt tài liệu để tả sự tiến hóa ấy. Những bài sau đây chỉ là một công việc bắt đầu: chúng tôi chọn và dịch những đoạn sách cổ ghi chép việc thực tế đời sống của dân ta ngày xưa. Phê bình những sử liệu ấy là công việc sau đây sẽ làm. Từ cuối thế kỷ XVI, người Âu châu đã sang ta và biên thuật về xã hội ta rất nhiều, bằng các thứ tiếng La Tinh, Pháp, Anh, Đức, Y Pha Nho, Bồ Đào Nha và Hòa Lan. Muốn chép sử ta một cách đầy đủ, chắc chắn không những phải dùng hết tài liệu đó mà còn phải nghiên cứu các sách vở của người Miên, Lào, Chiêm, Thái, Thổ, Mường mà nhất là những sách chữ Nho, chữ Nôm mà càng ngày càng ít người đọc và hiểu được một cách chu đáo. Công việc đó quá sức một người hay một bọn ít người; vậy chúng tôi rất hoan nghênh sự hợp tác của mọi người - Nho học hay Tây học - cùng theo đuổi với chúng tôi một mục đích là “làm sống lại” những đoạn Nam sử hiện nay nhiều người đương sao nhãng.
Tạp chí Thanh Nghị 12
https://thuviensach.vn
I. ALEXANDRE DE RHODES
Cố Alexandre de Rhodes (1591 - 1660) tới Trung kỳ năm 1624. Tháng Ba năm 1627 được cử ra lập giáo đoàn tại Bắc kỳ; tháng Năm năm 1630 thì bị chúa Trịnh Tráng đuổi ra khỏi xứ Bắc. Cố quay về Trung kỳ rồi sang Áo Môn (Ma Cao bên Tàu), đầu tháng Hai năm 1639 lại trở về Trung kỳ. Nhưng mấy năm sau chúa Nguyễn, Công Thượng vương[1], cấm đạo, cố bị bắt và bị kết án tử hình, nhưng không bị chém chỉ bị trục xuất ra khỏi xứ (tháng Bảy năm 1645). Quyển Histoire du Royaume de Tunquin trích dịch sau đây xuất bản năm 1651 tại Lyon (Pháp) bằng tiếng Pháp.
Lễ tịch điền về đời Lê[2]
Nội các tục được dân thành tâm theo ở Bắc có một tục chính là tục hàng năm vào hồi đầu xuân thì theo để khai đất và để khởi đầu việc cày bừa một cách long trọng. Cứ đầu năm, tức là vào khoảng giữa hai tiết đông chí và xuân phân - theo như lối ta tính thì vào tuần trăng non vào gần ngày mồng năm tháng Hai dương lịch nhất, đến ngày các nhà toán số đã chọn, thường thường vào mồng ba Tết, thì mọi người có chức vụ, hay tước vị trong nghề võ hay văn, đều phải mặc lễ phục, đeo ấn thụ vào cung để hộ tống vua ngự giá qua kinh thành ra tới vùng nhà quê, theo nghi tiết tôi sẽ tả theo đây.
Quân lính gọi ở khắp trong nước về, dân đi trước có thứ tự và rất đông, vì họ đến mấy nghìn người, người nào cũng đeo khí giới của đội mình, người thì cung tên, người thì thương, giáo hay súng. Theo sau là các tướng và tất cả những người quý phái, tùy theo chức phận, một phần cưỡi ngựa, một phần cưỡi voi; ngựa và voi có tới hơn ba trăm con, đều đóng yên phủ bành sang trọng, đã dạy dỗ thuần thục.
https://thuviensach.vn
Đại tướng thống lĩnh quân đội và là phó vương cầm quyền trị nước, hiệu là chúa Thanh Đô vương[3] đi sau cùng bọn quý tộc, ngồi trên một chiếc xe thấp thếp vàng, theo sau có một con voi đóng bành lộng lẫy có người dắt, khi nào chúa thích thì lại cưỡi và điều khiển đủ mọi lối khiến cho dân chúng vui thích ngắm nhìn tỏ vẻ kính cẩn và thán phục.
Đi bộ theo sau là một số đông vô kể, những ông nghè, ông cử, ông tú mặc áo dải lụa hay gấm vóc màu tím thâm, mỗi người có thẻ bài chỉ rõ chức vụ và phẩm trật của mình,
Sau cùng đến đức vua, ngồi trên một chiếc kiệu chói lọi phủ một tấm rèm quý giá thêu kim tuyến và màu xanh, màu ấy là màu riêng vua mới được dùng.
Theo hàng thứ và nghi trượng như thế, đức vua ra khỏi hoàng cung vẫn gọi là Đền, chu vi rộng bằng một tỉnh lớn, rồi qua những phố chính kinh thành, thường gọi là Kẻ Chợ, mà chảy đến một nơi đồng rộng cách kinh thành chừng gần một dặm; ở đó các quan đi hộ giá đến từ trước và dân chúng đã đợi sẵn để đón vua. Đến nơi đức vua xuống kiệu và sau khi đã khấn nguyện và rót rượu tế trời. Ngài thân cầm lấy cán một chiếc cày có vẽ màu và chạm trổ rất đẹp, cày đất vài phút và mở một luống trong cánh đồng, để dạy cho dân chúng biết rằng từ đây phải làm lụng, bỏ sự an nhàn và chăm nom đồng áng.
Đức vua cày xong rồi, thì chúa Trịnh là người quản trị nước có thế lực rất lớn và có uy quyền trên hết cả thần dân, tiến đến gần, vái vua, mình cúi rạp xuống tận đất. Rồi các hoàng thân, các võ tướng và các quan cũng làm như vậy; sau cùng thì đến lính và cả quần dân quỳ xuống mà tung hô vua.
Hàng năm về đầu xuân, đó là sự tôn kính, sự báo ơn long trọng nhất của thần dân đối với vua.
(Chương III, trang 11 -13)
Đất kinh kỳ về đầu thế kỷ XVII
https://thuviensach.vn
Điều làm cho vua xứ Bắc có thế lực khiến các vua lân cận khiếp sợ, là số dân đông vô kể ở bảy trấn dưới quyền vua cai trị, cứ xem số người thường ở Kẻ Chợ là nơi vua lập triều đình thì đủ biết. Tuy rằng kinh kỳ dài hơn sáu nghìn bộ[4], ngang cũng chừng bấy nhiêu, phố xá rộng rãi, mười hay mười hai cỗ ngựa có thể ung dung đi ngang nhau được, thế mà mỗi tháng hai kỳ - vào rằm, mồng một là ngày dân nghỉ lễ - ta thấy trong tỉnh đông người qua lại khắp mọi phố đến nỗi đi ngả nào cũng thấy vướng. Thành thử người nào cũng bị xô đẩy, bị cản, bắt buộc mất nhiều thì giờ mà chả đi được mấy bước đường.
Do đấy và căn cứ vào vài điều phỏng đoán khác, người ta thường ước dân số kinh kỳ được một triệu người. Không kể những điều khác, lại còn một điều này làm cho ta thấy số dân rất đông sống ở đây.
Người Bắc có tục ăn trầu là thứ có lợi cho sức khỏe và có vị ngon, bao giờ họ cũng giắt theo vào thắt lưng một giỏ con hay một bao đầy trầu cau, ra đường gặp bạn bè thì mở ra, rồi sau khi đã chào nhau rất lễ phép, mọi người nhận lấy một miếng trầu têm sẵn của người kia mà ăn. Vì thế trong tỉnh kẻ nào hơi khá giả thì sai đầy tớ sửa sắm thứ quà nhỏ ấy, đem biếu lẫn nhau để tỏ tình thân mật; nhưng còn thường dân vẫn ăn trầu mà không có kẻ hầu têm sẵn ở nhà, thì đã có tới năm vạn hàng bán trầu lẻ rải rác khắp kinh thành. Vậy có thể kết luận rằng số người mua đông không thể tính xuể được.
(Chương VII, trang 25 - 27)
Nhân dân và thuế má
... Trừ những người được nhà vua miễn sưu còn thi trai tráng từ mười chín đến sáu mươi tuổi đều phải đóng thuế. Chỉ có khác là dân ba tỉnh vẫn trung thành với nhà vua và xưa không theo giặc, thì đóng một số tiền đem đổi sang tiền ta vào độ hai đồng, mỗi đồng ăn sáu mươi xu (deux escus de soixante sols pièce); còn dân bốn tỉnh đã bỏ vua theo giặc thì mỗi người phải đóng nhiều gấp bốn, ấy là không kể mấy thứ thuế vua đặt ra để trừng
https://thuviensach.vn
phạt sự phiến loạn của họ. Ngoài thứ thuế thân này là thứ bọn phu thu nhẫn tâm bắt nộp không trừ một li, không phân biệt kẻ nghèo, người giàu, người có của hay kẻ chỉ làm lụng để độ thần[5], còn một thứ thuế nữa nhẹ hơn, đánh theo thổ sản, có tính cách một tặng vật do dân tự ý đem cống hiến nhà vua hơn là một thứ thuế thật, tuy rằng đến vụ thu, mỗi năm ba bốn lần, chả một ai dám tránh. Vụ thứ nhất thu vào cuối năm hay đâu năm như biếu Tết. Vụ thứ hai vào khi vua làm lễ “Vạn thọ” (sinh nhật), Vụ thứ ba vào ngày húy (giỗ) tiên vương. Vụ thứ tư vào hồi có gạo quả mới. Vì các vật cung tiến này không thu ngặt như thuế thân nên dân mỗi tỉnh, mỗi làng góp của nhau vào chung, rồi cử người xứng đáng nhất thay mặt đem tiến vua.
Hầu khắp những tỉnh, những xả trong nước - nhiều không sao kể xiết được - nộp thuế thẳng cho vua hay cho người thay mặt vua đứng ra thu, nhưng cũng có nhiều nơi nộp cho các vương hầu tướng tá và binh lính hay cho những người vua xét ra đáng thưởng và đã cấp cho vài nơi để hưởng thuế lợi, hoặc là để khen tài đức họ, thưởng công họ, hoặc là để lập thái ấp lúc họ mới sinh hoặc là để cấp dụng vào chức vụ đã giao cho họ, hoặc để ban thưởng việc gì khác: theo lệ trong nước thì quyền lợi vua đã ban cho một người, con cái hay kẻ thừa kế không được thưởng nếu nhà vua không bằng lòng cho lại. Mà ngay khi người ấy còn sống, vua cũng còn quyền thu lại của đã ban cho, như thỉnh thoảng ta đã thấy; tuy nhiên, chỉ khi nào để trừng phạt một tội lỗi gì nặng thì vua mới dùng tới cách nghiêm ngặt ấy.
(Chương VIII, trang 28 - 30)
Quân lính và tướng tá
Đức vua đã ban thành thị cho các tướng tá để đền công về những nỗi vất vả của họ, thì ngài cũng cấp vài nơi cho những lính xuất sắc để họ có lương ăn và để thưởng lòng anh dũng của họ: có khác là ngài thường cấp nhiều nơi cho một viên tướng mà chỉ cấp một nơi cho nhiều tên lính; thành thử một thị trấn không to tát gì nhiều khi cũng nuôi đủ binh lính cả một chiếc
https://thuviensach.vn
chiến thuyền; ở nơi đã cấp cho mình, bọn lính có quyền thu thuế dân vẫn nộp cho nhà vua.
Còn như đối với hạng lính không được trọng đãi như thế thì thường thường, các tướng thay mặt vua trả lương cho họ; một phần cũng vì những khoản chi phí ấy và để nuôi một số lính, nên vua mới cấp cho những viên tướng nhiều thị trấn để lấy thuế. Bởi vậy nên khi không có chiến tranh hay không phải luyện tập, lính ăn lương của tướng hoàn toàn để tướng sai khiến bắt hầu hạ mình làm công việc phu phen hay làm mọi việc công ích, như đóng thuyền, hàn thuyền, xây sửa cầu cống và những việc tương tự như thế, thành thử chả lúc nào họ nhàn rỗi và không có việc làm.
Những tướng tá lưu trú ở kinh sáng nào cũng phải vào hầu vua và dự vào buổi chầu ngài thiết ở cung để cho dân chúng có nguyện vọng gì thì dâng lên; khi đi chầu tướng nào cũng có một ít bộ hạ đi dàn trước, có thứ tự, có khí giới và mặc áo choàng màu tím thẫm; khi về, lính lại hộ vệ đến tận nhà. Được phục dịch tướng như thế là một việc vinh dự, quân cắt phiên nhau mà làm.
Khi vua ra ngoài điện hoặc để dạo chơi về thừa lâu[6]tại vùng thôn quê, hoặc để thử chiến thuyền mới sai đóng, hoặc để xem quân lính mỗi tháng hai kỳ tập bắn hay đánh vật, vì các tướng có mặt tại triều đi tùy giá, nên quân lính bao giờ cũng dự rất đông, bảnh bao trong những bộ áo hiệu như họ thường mặc để đi dàn trước long giá khiến cho nghi trượng có vẻ lộng lẫy.
Mỗi khi vua ngự về vùng thôn quê như kể trên đây, không những chỉ có toán bộ binh uy phong này đi trước hộ giá mà thôi, lại còn có cả một đội kỵ mã đã chọn lọc và hơn một trăm cỗ tượng mình phủ gấm vóc trên có các vương phi, công chúa và bọn nữ tỳ ngồi thảnh thơi trong những chiếc bành thấp đóng chắc vào lưng voi, voi khỏe có thể mang tới sáu người trong bành, ấy là chưa kể tên quản tượng cưỡi trên cổ.
Vì thế khi vua ra chứng kiến những cuộc tập binh hay đánh vật, quân lính được khuyến lệ vô cùng vì ngoài đức vua họ còn có số khán giả mỹ lệ,
https://thuviensach.vn
cao quý kia để tán thưởng sự khéo léo và giỏi giang của họ.
Về việc đánh vật có điều này tôi không thể bỏ qua được: bên nào đã bị bên địch nhanh tay hay lấy sức đánh ngã xuống đất cũng chưa kể là thua, tuy bụng hay sườn đã chạm xuống đất, có bị vật ngã ngửa vai sát đất thì mới thua hẳn.
(Chương IX, trang 31 -33)
Lễ tuyên thệ của binh lính
Tôi không thấy có gì đáng khen và lạ bằng sự quân lính xứ Bắc đông như thế, đặt dưới quyền lắm tướng như thế, hay hội họp canh gác, xếp hàng ngũ hoặc ở điện nhà vua hoặc ở vùng thôn quê luôn như thế, mà cả giữa những bữa khao, nhà vua và các tướng ban cho họ vui cũng không bao giờ ai thấy họ cãi nhau, nói khích nhau, chửi bới khinh miệt nhau mà cũng không bao giờ ai nghe thấy nói đến sự họ đâm chém nhau.
... Tuy ta có thể cho sự điềm đạm ấy là do ở bản tính họ vốn lành, nhưng cũng phải nhận là một phần lớn do ở sự họ tôn kính và sùng bái vua và tướng. Họ gọi vua là thiên tử và sùng bái vua như một đấng thiêng liêng tự trên trời xuống để cai trị họ, vì thế trước mặt ngài, không bao giờ họ làm gì khiến ngài thất ý hay phải tức giận. Sự sùng bái ấy là căn bản cái tục họ theo hàng năm như sau đây.
Vào quãng tháng Sáu nguyệt lịch[7]thường thường vào tháng Tám của ta[8] vua ban một đạo dụ truyền cho quân tướng đúng ngày đến tuyên thệ tỏ lòng trung thành với vua... Ở các công trường, ở các ngả đường chính trong kinh thành người ta thiết lập những hương án bầy biện trang hoàng vẫn để thờ thần: Ở chính giữa hương án, đã biên lời thề bằng chữ to, họ đứng dưới chân hương án cũng nom rõ; hứa sẽ trung với vua và nếu sai lời thì phải trăm nghìn thứ tai nạn... Muốn tránh sự hỗn độn vì lính đến thề rất nhiều và lễ tuyên thệ nội trong một ngày xong, người ta đặt rất nhiều hương án, mỗi hương án dành riêng cho mấy tướng và mấy đội lính, có một quan văn được cử ra thay vua để làm chủ lễ và để sau khi đã tuyên thệ rồi thì phát
https://thuviensach.vn
cho mỗi tên lính một mảnh giấy chứng nhận rằng họ đã thề và đã được nhận vào làm lính nhà vua. Tướng từng đội lên trước, long trọng thề giữ trung với nhà vua, rồi lần lượt đến quân lính, viên chủ lễ phát cho mỗi tên một mảnh giấy biên chữ khác nhau, tùy theo giọng nói lúc tên ấy tuyên thệ.
Ai nói tiếng to, rõ ràng, quả quyết thì được chữ minh nghĩa là “rõ” Ai nói nhỏ, giọng đục phải chữ bất minh nghĩa “không rõ”. Còn lại nói giọng vừa phải thì được chữ thuận nghĩa là “thường” Những mảnh giấy ấy không phải là vô giá đâu: vì mỗi người lính, đợi lễ tất, đem giấy về cho chủ tướng. (Ông nào thề xong về ngay) thì được chủ tướng phát cho một chiếc áo vua ban. Ai có chữ minh thì được hạng áo tốt và dài; ai có chữ thuận thì được áo ngắn hơn bằng vải thường; ai phải chữ bất minh thi áo vải xấu và ngắn nữa. Thành ra suốt một năm, người ta trông áo mà biết được người lính nào trung nghĩa, tận tâm và được yêu quý trong hàng ngũ của nhà vua,
(Chương X, trang 34 - 36j
Nền thương mại của xứ Đàng Ngoài ở đầu thế kỷ thứ XVII
Người xứ Bắc, gần như không thông thương gì với nước ngoài vì ba lẽ chính.
Lẽ thứ nhất vì họ không biết dùng địa bàn, không thạo nghề hàng hải; không bao giờ dám ra xa bờ hay núi quá tầm mắt, Lẽ thứ hai thuyền họ không bền được với sóng, bão, ván thuyền không đóng đinh, không có chốt mà chỉ có đai buộc, mỗi năm là phải thay một lần. Lẽ thứ ba là vua không cho dân ra nước ngoài, sợ rồi quen ở lại buôn bán làm thiệt mất thuế của vua. Nhưng hàng năm, ngài cũng phái vài chiếc thuyền buôn sang Cao Man, Xiêm La vì hai xứ này không xa Đàng Ngoài là mấy và thuyền buôn cứ theo ven bờ mà đi không phải ra khơi.
- Tuy nhiên không ra khỏi nước Nam, nước này gồm có Đàng Ngoài và Đàng Trong, bọn lái buôn bản xứ nhờ có thương cảng tiện lợi và nhiều nên buôn bán cũng lớn và lợi lãi hàng năm gấp hai, gấp ba vốn mà không phải chịu những sự bất trắc thường gặp trên mặt bể. Thật vậy, ở dọc bờ bể nước
https://thuviensach.vn
Nam dài hơn ba trăm năm mươi dặm tây, ta đếm được hơn năm mươi thương cảng, có nhiều sông con dồn nước về, và có thể chứa được mười, mười hai chiếc tàu lớn, thành ra ai đi lại trên mặt bể, đêm đêm có thể rút vào đậu trong các bến này không phải bỏ neo ở ngoài khơi và tránh được những tai nạn không hiếm gì trên mặt biển.
Về các khách thương ngoại quốc thật ra thì từ hồi nào người Nhật Bản, người Trung Hoa vẫn vào các bến nước Nam, mua lụa và gỗ trầm hương.
Người Trung Hoa bây giờ vẫn còn buôn bán, và đem sang những đồ sứ, vải, và nhiều thứ hàng giải trí và xa xỉ. Người Nhật Bản trước kia đem nhiều tiền đến để mua lụa, và đem nhiều thứ kiếm và các khí giới khác đến bán, đã hai mươi nhăm năm nay không lai vãng nữa, vì được tin rằng tuy đã có lệnh cấm đạo Gia-tô ở Nhật Bản từ năm 1614, trong gần 10 năm trời người Nhật theo đạo mỗi năm vào mùa...[9] và ba bốn lần vào các dịp khác, vẫn lấy cớ là đi buôn rồi dùng hàng ba bốn chiếc tàu sang nước (... ) [10]
https://thuviensach.vn
II. CRISTOFORO BORRI
Cố Cristoforo Borri (1585 - 1632) là một cố đạo người Ý sang Trung kỳ vào khoảng 1618 - 1621 (?); đến 1623 thì qua Goa[11] về Âu châu.
Quyển Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Giesu al Regno della Cocincina, xuất bản ở Rome bằng tiếng Ý năm 1631 là quyển sách in đầu tiên của Âu châu nói về Trung kỳ. Sách có dịch ra tiếng Pháp (bản của cố Antoine de la Croix in ở Lille năm 1631), tiếng Hòa Lan, La Tinh, Đức, Anh. Tạp chí Revue Indochinoise, năm 1908, có đem đăng lại bản dịch của cố Antoine de la Croix (chúng tôi cũng dịch đăng theo bản này).
Sách có hai phần. Phần trên nói về vị trí, khí hậu, thổ sản, tài nguyên, chính trị, thương mại của xứ Trung kỳ; dưới nói về việc truyền giáo.
Xin nhắc lại là chúng tôi chỉ mới trích dịch[12] chưa phê bình chọn lọc.
Tính tình người Trung kỳ
Người Trung kỳ không khác người Trung Hoa về màu da mặt, và người nào cũng sắc xanh nhạt, đây là nói những người ở gần bể, bởi vì những người ở tận trong đất liền cho tới đất xứ Bắc kỳ cũng trắng như người Âu châu.
Ngoài nét mặt, họ còn giống người Trung Hoa vì mũi tẹt, mắt nhỏ; về vóc người thì họ tầm thước: tôi muốn nói là họ không nhỏ bé như người Nhật Bản mà cũng không cao như người Trung Hoa. Nhưng về sức lực và dáng người thì họ vượt trên người Trung Hoa và người Nhật Bản; về can đảm và tài năng, họ đứng trước người Trung Hoa, nhưng người Nhật Bản
https://thuviensach.vn
hơn họ về một chỗ là khinh sự sống trong những lúc gian nguy và chiến trận, vì không kể gì đến thân mình, người Nhật không sợ chết bất cứ bằng cách nào.
Người Trung kỳ hiền lành và có lễ độ trong lúc nói chuyện hơn các dân tộc khác ở Đông phương và họ coi sự giận dữ là một điều ô nhục tuy họ rất tự cao. Các dân tộc Đông phương coi người Âu châu như những quân phàm tục và tự nhiên kinh sợ ta đến nỗi khi thuyền ta ghé vào đất họ, họ trốn tránh cả. Ở Trung kỳ thì trái hẳn lại: Dân Trung kỳ tranh nhau đến gần ta, hỏi ta hàng nghìn câu, mời ta ăn với họ; nói tóm lại, đối với ta, họ dùng đủ mọi điều lịch sự, nhã nhặn, thân mật. Tôi và các bạn đồng hành đã thấy như thế khi chúng tôi mới vào xứ này lần đầu và người ta có thể nói là chúng tôi đến giữa các bạn rất thân, biết nhau đã từ lâu...
Vì bản tính họ rộng rãi và phong tục dễ dàng nên họ ở với nhau rất có hòa khí, cư xử với nhau ngay thực và chân thành như anh em ruột cùng sống, cùng ở trong một nhà tuy họ chưa gặp nhau và biết nhau bao giờ. Và họ coi là một người đê hèn, nếu kẻ nào giữ lấy ăn một mình một thức gì dù bé nhỏ vụn vặt đến đâu mà không đem chia cho kẻ khác mỗi người một phần. Họ có thảo tầm hay bố thí cho kẻ nghèo, chẳng bao giờ từ chối làm phúc cho ăn mày vì họ coi như đã thiếu bổn phận nếu họ không cho, và lẽ công bằng bắt buộc họ phải giúp đỡ.
Bởi thế nên một lần có mấy người ngoại quốc bị đắm tầu bơi được vào một thương cảng Trung kỳ, không biết thổ ngữ để có thể hỏi xin những thức cần dùng, chỉ phải học có mỗi một tiếng: Doii, nghĩa là tôi đói. Bởi vì khi nghe thấy mấy người ngoại quốc than như thế và đi qua cửa nhà họ kêu đói, thì người Trung kỳ đua nhau ra ngõ, tỏ vẻ ái ngại và cho mấy người đó ăn...
Nhưng người Trung kỳ rộng rãi và sẵn lòng cho nhanh bao nhiêu thì khi ngó thấy cái gì là lạ và hiếm, lập tức họ ham muốn và nói ngay: Scin mocaii (nghĩa là cho tôi xin một vật kia). Và họ coi là một điều đại bất nhã nếu ta từ chối, không cho họ một vật, dù hiếm, dù có giá, dù ta chỉ có một
https://thuviensach.vn
bản; kẻ từ chối là một thằng bủn xỉn. Nên khi cần chỉ có thể: một là đem giấu vật mình muốn giữ lại, hai là sẵn sàng cho kẻ đã hỏi xin.
Một khách thương Bồ Đào Nha ý chừng không thích cách hành động lạ lùng ấy - mấy người thích cho được - và ngày nào cũng bị bực mình phải cho những vật đẹp mà họ thấy anh ta cầm tay, một hôm có ý kiến là anh ta cũng xử sự như họ. Định tâm thế, anh ta đến gần thuyền một chú chài nghèo khổ, để tay lên một sọt đầy cá, nói theo tiếng bản xứ Scin mocaii (cho tôi cái này); chú chài chẳng nói chẳng rằng cho luôn anh ta cả sọt cá. Anh Bồ Đào Nha đem sọt cá về, không khỏi ngạc nhiên và lạ lùng về tính hào phóng của người Trung kỳ. Thật ra thì sau này ái ngại cho chú chài, anh ta có đem trả đúng số tiền chỗ cá ấy.
Những tiếng dùng để nói chuyện, thường dùng trong cuộc xã giao hay dùng trong các lễ nghi cũng tựa như người Trung Hoa. Kẻ dưới rất kính cẩn với người trên; người ngang hàng đối với nhau rất tương kính đúng mực, chúc tụng khen ngợi nhau cũng tỉ mỉ như người Trung Hoa. Họ tôn trọng đặc biệt các bậc lão thành: trong bất cứ việc gì, ở giai cấp nào, trong trường hợp nào, họ cũng nhường người hơn tuổi và để tuổi già được ưu đẳng đối với hạng thiếu niên. Vì thế có mấy ông quan, tuy đã đến thăm chúng tôi nhiều lần ở nhà chúng tôi và đã được viên thông ngôn báo cho biết rằng có ông Cụ Đạo nhiều tuổi hơn chúng tôi nhưng không phải là bề trên chúng tôi, mấy vị quan ấy vẫn không khỏi đến chào ông Cụ Đạo trước, rồi mới chào vị bề trên ít tuổi hơn. Trong các nhà của người Trung kỳ ngồi chơi có ba cách. Cách thứ nhất, thường nhất, ở trên chiếc chiếu trải trên nền đất để tiếp những người cùng bằng vai. Cách thứ hai ở trên những dây hay chạc căng thẳng[13], trên trải chiếu mảnh hơn, mềm hơn thứ trên kia, để tiếp những khách sang hơn. Cách thứ ba ở trên một chiếc “lều”[14] cao so với mặt đất chừng hai “thước” rưỡi (2 pieds...[15] demi: 0m48) giống như cái giường, để tiếp riêng các quan lớn, các vị chủ tể trong vùng hay là các người trông coi việc tế lễ (các cố của ta vẫn được họ mời lên ngồi đấy). Đã nhã nhặn và vui tính như thế, người Trung kỳ biết trọng người ngoại quốc, để mặc cho những người vùng này sống theo lệ luật của họ, ăn vận theo ý muốn của họ.
https://thuviensach.vn
Thí dụ họ khen ngợi cách làm việc của ta, ca tụng tôn giáo của ta mà họ tự ý cho là hơn tôn giáo của họ; khác hẳn với người Trung Hoa chỉ khoe khoang xứ sở, cách làm việc và tôn giáo của mình thôi.
Y phục của người Trung kỳ
Về y phục, tôi đã nói rằng tơ lụa rất thông dụng ở Trung kỳ và tất cả mọi người đều mặc thứ hàng ấy. Chỉ còn phải nói cách họ ăn mặc ra sao.
Bắt đầu từ đàn bà thì tôi phải thú rằng tôi vẫn cho áo họ là giản tiện nhất trong vùng Ấn Độ và họ không chịu để hở một phần thân thể nào cả, trong những dạo oi nực nhất cũng vậy. Họ mặc năm sáu thứ vải mỏng, màu khác nhau, cái nọ phủ lên cái kia. Cái thứ nhất dài sát đất và họ kéo lê một cách trang trọng, đoan chính và uy nghiêm đến nỗi ta không thấy đầu bàn chân của họ. Rồi đến cái thứ hai, ngắn hơn cái thứ nhất bốn năm ngón tay; cái thứ ba ngắn hơn cái thứ hai, và cứ tiếp tục thế, cái sau phải cân xứng với cái trước. Thành ra các màu đều thấy rõ, tuy khác nhau. Ấy là thứ y phục mà đàn bà mặc từ thắt lưng xuống dưới còn thân trên thì họ phủ bằng mấy thứ... (?) (Car pour le corps ells le couvrent de certains corps de côte), giống như bàn cờ, màu sắc khác nhau; trên lại choàng một cái khăn quàng rất nhẹ mỏng trông qua còn rõ các màu sặc sỡ kia, hàm ý một xuân sắc đẹp vui, kiều diễm nhưng vẫn trang trọng và khiêm nhường.
Đàn bà để tóc xõa và tỏa lên vai, mọc dài có khi chạm đất; vì tóc càng dài, lại càng được coi là đẹp. Đầu đội nón vành to che lấp cả mặt đi, làm người đàn bà không nhìn quá ba bốn bước ra đằng trước. Những nón ấy, tùy theo địa vị của người đội, còn thêu lụa hay vàng. Sự lễ phép bắt buộc người đàn bà, khi gặp ai mà muốn chào, chỉ phải đỡ cao nón lên để người ta thấy mặt.
Đàn ông không có quần cụt và quấn cả một tấm vải, trên lại mặc thêm năm sáu cái áo (dây lưng?) dài và rộng, bằng lụa mỏng và nhiều màu, có tay to và rộng như tay áo của các cha dòng Saint Benoit; những áo này từ thắt lưng xuống đều rách và cắt vòng theo nhiều chấm lốm đốm. Thành ra
https://thuviensach.vn
khi đi chơi phố phường, họ đem khoe hết cả các màu sắc hỗn tạp ấy; giá có ngọn gió nhẹ thổi vào làm mớ áo ấy bốc lên và bay tỏa ra, thì người ta có thể nói họ là những con công đang xòe đuôi và phô trương hết các màu lông của chúng.
Đàn ông cũng nuôi tóc dài, chấm gót như đàn bà và cũng có nón. Ít người có râu, nhưng ai có thì không cắt đi bao giờ, y như người Trung Hoa cũng như họ nuôi móng tay dài; những nhà quyền quý không cắt móng tay bao giờ, giữ móng tay để tỏ ra rằng họ cao quý và để phân biệt với bọn cùng dân và các thợ thuyền không thể để móng tay dài vì vướng trong khi làm lụng...
Các văn nhân và các văn quan án mặc đứng đắn, ít lòe loẹt; trên các áo dài khác họ mặc một tấm áo dài bằng vải Damas đen; họ lại còn có một thứ khăn tế (étolle) đeo ở cổ, một thứ khăn tế bằng lụa xanh da trời khoác ở tay; (manipule) họ có chiếc mũ giống như mũ tế của các giám mục.
Cả đàn ông lẫn đàn bà tay cầm quạt, giống như quạt Âu châu, cầm để cho có vẻ hơn là vì lẽ gì khác. Trái với người Âu châu ta có tang thì bận đồ đen, họ lại bận đồ trắng. Chào ai, họ không để ý lộ đầu vì họ cho thế là vô phép và họ đồng ý với người Trung Hoa, coi sự để đầu trần không hợp với người có danh giá và rất bất kính nên muốn chiều tính họ, các cố dòng ta đã xin được phép Đức thánh Giáo hoàng Paul V của chúng ta khi làm lễ Misa ở các xứ này vẫn được đội mũ.
Sau hết, người Trung kỳ không có quần nịt, không có giầy; muốn cho gan bàn chân khỏi bị thương tổn bất quá họ chỉ dùng một miếng đế giầy bằng da, có mấy cái khuy hay mấy cái dải lụa giữ lại và buộc lên trên chân, thay cho dép, vì họ không nghĩ rằng đi chân không là trái lễ nữa (như để đầu trần). Dù đi giầy hay đi chân đất, họ cũng không ngại giá[16] chân vô ý hay cố ý vấy bùn, vì trong mỗi nhà ở bực cửa đã có sẵn một bể nước sạch để rửa chân; còn ai có dép thì khi vào nhà, bỏ ở cửa - khi ra mới lấy lại - vì trong nhà, nền đã trải chiếu rồi không còn lo bẩn chân nữa.
https://thuviensach.vn
Đã biết rõ rằng người Trung kỳ không cố chấp về hành vi của mình mà đến phải như người Trung Hoa thì khinh miệt hành vi của người ngoại quốc, nên các giáo sĩ của ta ở các xứ này không phải lo đổi kiểu áo; áo này cũng giống kiểu áo chung cho toàn cõi Ấn Độ, các vị ấy mặc một áo tu bằng những bông mỏng, kêu là Ehingon, thường thường màu xanh da trời, đi ra chỗ đông không mặc áo dài nào khác và không có áo quàng.
Tuy vậy họ không đi giầy, kiểu Âu châu và kiểu bản xứ; vì thứ trên thì không thể có được, ở đây không ai biết làm; còn kiểu dưới thì họ không dùng được vì rất bất tiện cho những người không dùng quen, làm chân đau đớn tại các khuy làm dép hẹp lại nhưng lại làm choãi những ngón chân ra, ngón nọ cách ngón kia xa quá. Nến họ thích đi chân không, lúc đầu bị đau chân luôn luôn vừa tại đất ẩm thấp, vừa tại chưa quen. Thật ra ít lâu tự nhiên cũng quen đi và chân cứng làm cho người ta không thấy khó gì cả, dù có phải đi trên những đường đầy đá hay giẫm lên gai góc nữa. Riêng tôi, tôi đi quen nên khi trở về Ma Cao, tôi phải khó nhọc mới đi được giầy lúc bấy giờ sao mà nặng và bận chân tôi thế.
(Relation de la nouvelle Mission
des Pères de la Compagnie de Jésus
au Royaume de la Cochinchine,
chương V, trang 44 - 56)
Thực phẩm của người Trung kỳ
Đồ ăn thường của người Trung kỳ là cơm; mà kể ra cũng là một sự lạ là xứ này sẵn mọi thứ thịt, cá, gia cầm, hoa quả như thế, mà thức ăn chính của dân lại là gạo, ăn ngay từ đầu bữa, rồi sau mới gắp và nếm tới các thịt thà khác, như để cho đúng lệ. Bánh mì đối với ta quan hệ mật thiết thế nào, thì gạo đối với họ cũng vậy, họ không thêm nước chấm hay chế biến khác đi, sợ rằng cho thêm bơ, muối, dầu hay đường vào thì ăn mãi sẽ ngấy. Họ đem gạo đổ vào nước thổi chín lên, nước đổ vừa đủ để gạo khỏi dính vào nồi và
https://thuviensach.vn
cơm khỏi cháy. Hột gạo còn nguyên, chỉ mềm thêm và ướt chút ít thôi. Họ lại còn nghiệm rằng không có gia vị, gạo ăn dễ tiêu; vì thế tất cả những dân tộc nào ở phương Đông ăn gạo, một ngày ít ra cũng ăn đến bốn bữa mới đủ.
Người Trung kỳ, lúc ăn ngồi sệp xuống đất, chân xếp bằng, trước mặt có một chiếc bàn tròn (mâm) cao vừa tầm với bụng, chạm trổ rất đẹp, vành thếp bạc hay mạ vàng tùy theo tư cách và tài lực từng người. Bàn không to, mỗi người theo lệ có riêng một cái, nên trong một đám tiệc có bao nhiêu khách thì có bấy nhiêu bàn, mà thường ngày ở tư thất cũng vậy, trừ khi vợ chồng, cha con ngồi chung một bàn. Ăn không cần dao, dĩa; không cần dao vì thịt đã chặt sẵn ở dưới bếp, không cần dĩa vì đã có những chiếc que (đũa) nhỏ nhẵn bóng, họ cắm giữa mấy ngón tay và dùng rất khéo và rất tài, không có gì là không gắp được. Họ cũng chả cần đến cả khăn ăn vì đã có đũa để gắp đồ ăn, tay họ không bị nhơ nhớp.
Họ mở tiệc luôn để mời bạn lân bang hàng xóm, thịt, cá đủ mọi thứ; duy chỉ thiếu cơm vì họ cho rằng cơm thì ở nhà ai chẳng có. Mà chủ nhân, dù nghèo đến đâu nếu không hiến đủ mỗi người khách một trăm món ăn, cũng chưa được coi là người phong nhã. Vì họ mời tất cả thân nhân bạn hữu, lân bang, nên một bữa tiệc cũng phải có ba, bốn, năm chục người dự, đôi khi một, hai trăm người và có một lần tôi đã đến ăn một đám có hai nghìn tân khách. Bởi thế những đám tiệc to phải tổ chức ở các làng mới đủ chỗ chứa nhiều bàn như thế. Tất ai cũng lấy làm lạ rằng mỗi bàn chứa thế nào được trăm món ăn? Thực ra thì họ tiện mía đem bó lại thành mấy từng xếp lên trên bàn, rồi lần lượt bày những món ăn có đủ sơn hào hải vị: thịt, cá, chim muông hay thú vật nuôi tại nhà hay săn bẫy được, các trái cây mùa nào thức ấy. Nếu thiếu một món gì thì chủ nhân coi như là một điều đáng trách lớn và bữa cơm hôm ấy chưa được nhận là bữa tiệc. Các ông chủ ăn trước được bọn thuộc hạ thân tín hầu bàn; khi các ông chủ đứng dậy, bọn thuộc hạ này ngồi vào bàn, có bọn nô bộc khác kém vế đứng hầu; bọn thuộc hạ thân tín ăn xong, thì bọn nô bộc kém vế này vào ăn. Vì ăn không xuể và đĩa nào cũng phải vét sạch, nên sau chót có bọn nô bộc hàng cuối cùng vào ăn la liệt, còn thừa thì bỏ bị riêng đem về cho... ? (ragasches) và bọn rửa bát...
https://thuviensach.vn
Xứ Trung kỳ không có nho và bởi vậy, không có rượu nho. Họ uống một thứ rượu cất bằng gạo có màu; có vị cay, hơi hăng, bốc chóng như hỏa tửu... Những người sang thì đem pha rượu này với một thứ rượu khác cất bằng hương mộc (? calambac), rất thơm.
... Ngày thường thì họ đem đun vào nước cho sôi rễ một thứ cỏ gọi là Chia (Trà); nước ấy gọi là nước Trà, uống rất bổ vì nó làm cho tan những hơi độc trong dạ dày và giúp cho sự tiêu hóa. Người Trung Hoa và Nhật Bản cũng uống trà; nhưng người Trung Hoa thì không dùng rễ mà dùng lá, còn người Nhật Bản thì đem tán nhỏ ra bột; nhưng công hiệu ở đâu cũng vậy...
... Ấy về việc ăn uống cũng như sự đi chân không, thói quen làm cho ta sống theo được lối sống của dân bản xứ và khi phải ăn lại những món ăn ngày xưa thấy vị nó lạ. Từ khi trở về Âu châu, tôi càng nghiệm thấy điều ấy và tôi không ao ước gì bằng lúa gạo Trung kỳ tôi đã ăn quen rồi và thích hơn tất cả phẩm vật của nước nhà người ta đem hiến tôi.
Khoa chữa bệnh của người Trung kỳ
Về các ông lương y và phép chữa bệnh, tôi phải nói rằng ở Trung kỳ có rất nhiều lương y người Bồ Đào Nha và bản xứ; và thường thường có những bệnh rất lạ và không có thuốc chữa đối với y sĩ Âu châu thì ở đây các ông lang đã biết rõ căn chứng rồi và chữa được rất dễ dàng. Đã nhiều lần các y sĩ Bồ Đào Nha đã bỏ mặc người bệnh rồi tưởng thế là đi đứt, thì khi với đến ông lang An Nam bệnh khỏi rất dễ dàng.
Phương pháp của các y sĩ An Nam là khi bước vào buồng con bệnh, họ đứng lại một lúc để cho hết sự xúc động trong khi đi đường. Đoạn họ bắt mạch rất chủ ý và cẩn thận; xong rồi họ nói rõ căn bệnh cho người ốm biết; nếu bệnh không còn chữa được, cứu được nữa thì họ nói thật; tôi không có thuốc để chữa, tỏ cho con bệnh rõ là không thể nào qua khỏi được; nếu họ đoán rằng nhờ thuốc họ mà người ốm lành mạnh được, họ sẽ bảo cho ta biết là họ có thuốc chữa ta và bao nhiêu lâu thì ta đi đứng được. Xong rồi
https://thuviensach.vn
thì họ tính tiền công, tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Cũng có khi, họ làm giấy cam kết với gia chủ. Đoạn họ kê đơn và bốc thuốc lấy, không nhờ đến bọn chế thuốc, một là để giữ kín, hết sức kín các đơn thuốc của họ, hai là họ không dám tin và nhờ người khác bốc thuốc thay họ. Nếu đúng hạn khỏi, bệnh nhân phải trả công cho thầy; nếu không khỏi thì thầy uổng công và mất tiền thuốc.
Không như thuốc ta làm cho người uống ghê tởm, “bụng mềm và dãn ra”, thuốc Nam dễ uống như nước cháo và rất bổ, uống vào không cần phải ăn cơm (?). Nên một ngày người ốm uống mấy lần như ta uống nước xuýt. Đã không trái với lẽ tự nhiên, thuốc lại còn bồi bổ những bộ phận trong người, làm tiêu các khí độc, mà không hành người ốm. Vào chỗ này có một chuyện đáng kể: Một người Bồ Đào Nha ốm, nhờ các lương y Âu châu chữa mãi không khỏi; người ta đành bỏ mặc anh ta chết đấy không đến thăm nom nữa; sau vời một ông lang bản xứ đến; ông này cam đoan chữa khỏi cho anh ta trong một kỳ hạn nhất định, nhưng căn dặn anh ta là trong lúc để ông chữa, anh ta phải kiêng khem, sự đi lại với đàn bà cấm ngặt; nếu anh ta trái lời thì không có thuốc nào chữa nữa; phải cữ đàn bà mới sống được. Hai bên đồng ý làm giao kèo và ông lang nói chắc ba mươi ngày thì khỏi. Bệnh nhân uống thuốc, vài ngày thấy khỏe khoắn và không còn sợ cái việc mà ông lang đã cấm ngặt anh ta. “Chuyện đến đấy” thì ông lang lại thăm anh ta, thấy mạch khác, bảo anh ta sửa soạn việc ma chay đi vì ông không còn hy vọng gì nữa và hết phương để cứu sống rồi; bảo anh ta đừng quên trả tiền công đã hẹn trong giao kèo vì anh ta chết không phải lỗi tự ông ta. Việc đem đến cửa quan, án ra bắt người bệnh cùng ông lang; và án tuyên rồi thì anh Bồ Đào Nha kia hấp hối.
Người Trung kỳ còn biết chích huyết nữa; nhưng họ hà tiện máu người ốm hơn ta và họ không dùng những dao chích thông thường đâu: họ có những lông ngỗng trong có lắm “kim” bằng sứ rất sắc, có cái to cái nhỏ, hình răng cưa. Khi phải mở một ống hồi huyết quản nào, họ đặt lên trên ống ấy một chiếc lông ngỗng lớn vừa bằng bể ngang huyết quản, chiếc “kim” vào nông hay sâu đúng với ý muốn. Phải phục họ là sau khi lấy đủ
https://thuviensach.vn
máu rồi, họ chẳng cần đến băng bó, vải thấm và dây buộc gì cả, chỉ đem nước bọt nhấm đầu ngón tay cái rồi đem ấn lên chỗ lỗ thủng, họ làm cho thịt trở lại nguyên chỗ, máu ngừng chảy và vết thương chóng lành. Tôi cho vì họ dùng chiếc “kim” sứ có răng nên mạch máu chóng hàn miệng và đập được ngay
Người Trung kỳ không thiếu những tay giải phẫu. Tôi chỉ muốn đem cách họ đã chữa tôi và một người bạn ra làm thí dụ.
Từ một chỗ rất cao, tôi bị ngã xuống, dạ dày đập vào một khối đá; tôi thổ huyết và ngực bị tổn thương. Uống thuốc Tây chẳng đỡ chút nào. Lúc đó có một ông lang chuyên nghề giải phẫu đến cho tôi một ít cỏ, giống như cỏ mercuriale của ta (hỏa diễm thái), một phần ông ta đem giã và đắp lên dạ dày tôi; một phần đem sắc lấy nước cho tôi uống; và một phần bảo tôi ăn sống. Vài ngày sau, tôi hoàn toàn khỏi. Muốn tự thí nghiệm lấy, tôi bắt một con gà con đem bẻ chân nó gẫy thành nhiều đoạn rồi đem cỏ ấy đắp lên những chỗ gẫy vài bữa thì con gà nguyên lành.
Một thầy dòng bạn tôi bị bọ cạp đốt - nọc bọ cạp có thể làm chết người ở xứ này - cổ họng sưng bạnh ra và chúng tôi đã nghĩ đến phép sức dấu thánh cho thầy ta thì bỗng có một ông lang ngoại khoa đến, thổi một hồ cơm với nước lã thường. Xong rồi ông ta đặt nồi cơm xuống dưới hai chân thầy dòng, lấy chăn trùm kín thầy ta để hơi cơm và khói nóng không mất đi đâu được. Hơi bốc lên đến chỗ bị thương, thì thầy dòng thấy bớt đau, cổ hết sưng và người khỏe mạnh như không bao giờ bị bệnh cả.
Còn có nhiều việc tương tự như thế, nhưng thuốc dùng ngay tại xứ ấy công hiệu hơn là đem về đây. Riêng tôi, tôi đem về một thùng nhỏ đại hoàng (rhubarbe), lúc xuống tầu còn tốt vào bực nhất nhưng sau hai năm đi đường lúc về đến Âu châu thì đại hoàng biến thể đến nỗi tôi không nhận ra được nữa. Thế mới biết các dược thảo đem từ bên ấy về đây mất hết cả linh nghiệm.
(Relation de la Cochinchine, trang 56 - 68)
https://thuviensach.vn
III. BALDINOTTI
Cố Giuliano Baldinotti (1591 - 1631), người Ý, sinh tại Postola; sang Viễn Đông truyền giáo năm 1621. Cố là người Âu châu đến Bắc kỳ đầu tiên; được chúa Trịnh Tráng trọng đãi. Cố về Áo Môn hôm 18 Aout 1626 và mất ở đấy. Cố làm tờ trình và nhân đấy cố Alexandre de Rhodes được cử sang trông nom địa phận Bắc kỳ.
Nhân dịp mấy khách thương Bố Đào Nha trù tính đáp một chiếc “galiote” sang xứ Đông Kinh - hành trình mà chưa ai đi cả - các bề trên xét rằng nên phái tôi đi với thầy Giulio Piani người Nhật Bản, sang trông nom việc rửa tội và nhân thể xem dân xứ này có sẵn sàng chịu lời Chúa hay không?
Chủ tâm như vậy, chúng tôi ở Áo Môn đi ngày 2 Février 1626; mất 36 hôm, một phần vì dò hỏi đã không được kỹ càng, hai là vì bão... Ngày 7 Mars, chúng tôi mới đến Đồng Kinh, do một con sông ăn ngược lên đất mười tám dặm. Được tin chúa (Le roi) cử bốn thuyền chiến ra bể đón và hộ vệ chúng tôi suốt dọc sông để bọn Tàu ô đã rình sẵn khỏi cướp bóc.
Đến nơi, tôi đi cùng thầy Giulio và tất cả các người Bồ Đào Nha vào bệ kiến, chúa hoan hỉ tiếp chúng tôi, khoản đãi chúng tôi, cho ăn nhiều món khác nhau và hứa giúp chúng tôi mỗi khi chúng tôi cần dùng việc gì. Khi chúng tôi kiếu từ, ngài ban cho viên thuyền trưởng và tôi nhiều y phục bản xứ rất quý giá và truyền lệnh cho chúng tôi được ở những nhà tốt nhất tại kinh đô.
Trong thời kỳ chúng tôi lưu tại Đông Kinh, ngài hậu đãi chúng tôi, sai mang các thứ giải khát cho viên thuyền trưởng và tôi hoặc ban cho chúng
https://thuviensach.vn
tôi đủ thứ tặng phẩm mỗi khi chúng tôi vào triều kiến. Ngài thường cho đòi chúng tôi vào xem các cuộc vui như đấu voi, thí ngựa hoặc đua thuyền. Ngài cưỡi voi xông vào đám quân lính rồi voi lấy vòi cướp lấy giáo gươm hay khí giới khác dâng ngài; ngựa cũng vậy, cũng biết nhặt những giáo mác đưa cho quân kỵ. Chúng tôi còn được mời xem tuồng hát và nhiều hội hè: có vài nơi cần giữ phẩm cách, tôi không đến. Ngài ưu đãi chúng tôi như vậy, hình như vì muốn thông thương với người Bồ Đào Nha đã được tiếng đồn là đem nhiều nguồn lợi bằng tàu thuyền đến xứ này.
Trong khi ở Đông Kinh, tôi hết sức khuyến bảo người Bồ Đào Nha nên làm gương tốt cho dân trong xứ. Họ nghe theo tôi, nên chúa đẹp lòng và, sẵn có ý tốt với đạo chúng ta, muốn lưu tôi lại: một vị “nội giám” và một pháp sư đã tâu ngài biết rằng tôi hiểu toán học, nên ngài sai một quan thị vời tôi vào để giảng cho ngài rõ những lẽ thuộc về thiên văn. (Vì một lần có một pháp sư đến thăm tôi, tranh luận với tôi trong ba giờ đồng hồ về giáo lý, chịu phục tôi và đã tuyên bố trước bộ hạ ông và các người Bồ Đào Nha rằng người Đông Kinh không biết nói năng, suy nghĩ và ở ăn như thú vật; pháp sư nài ép tôi ở lại để dạy dỗ chúng dân, gửi quà bánh biếu tôi và đi lại thăm tôi rất lịch thiệp). Khi quan thị đến, tôi thưa rằng: “Bề trên sai tôi đi theo người Bồ Đào Nha lượt đi cũng như lượt về, tôi phải cai quản họ và hướng dẫn họ về việc đạo, tôi không có phép ở lại đây; nhưng khi về đến Áo Môn, tôi sẽ xin phép trở lại đây và sẽ ở đây vĩnh viễn. Được như thế tôi sẽ thỏa mãn lắm vì phận sự tôi ở Đông phương không phải là để thâu nhặt bạc vàng nhưng là để dạy cho họ cần đến những việc Trời và nói cho họ hiểu đâu là vị Thượng đế chân chính đã tạo ra Trời Đất”.
Chúa rất hài lòng về những lời trình bày của tôi nên mấy hôm sau cho vị pháp sư trên kia đến vời vào chầu. Chúa ban yến cho tôi, hỏi tôi những câu hỏi về khối tròn, yêu cầu tôi sang năm lại sang, ban cho tôi một chỉ bài để được vào và ngụ khắp xứ, không phải chịu một điều khoản nào cả. Thế tử là người sẽ lên kế vị ngài cũng ban cho tôi một chỉ bài giống như thế cùng nhiều quà cáp của vương phi và của ngài...
https://thuviensach.vn
Việc lập giáo đường đang tiến hành thì có một tên Maure có đạo, hồi đi nói xấu người Bồ Đào Nha và rêu rao lên rằng người Bồ Đào Nha làm do thám cho vua Đàng Trong là thù địch của vua Đàng Ngoài và viên thuyền trưởng Bồ Đào Nha đã nhận được một món tiền to về việc ấy. Bịa đặt ra như thế, tên Maure muốn trả thù mấy người Bồ Đào Nha có hiềm khích với hắn và muốn chiếm lấy của cải chúng tôi khi chúng tôi bị trục ra khỏi xứ như quân do thám hay như quân bất lương. Chúng tôi có dâng biểu trần tình; lại được thêm một vị hoàng thân đã hiểu biết người Bồ Đào Nha ở nhiều nơi nói cho vua rõ, nên ngài không tin những điều đồn bậy. Nhưng không yên tâm chúa buộc chúng tôi thề sẽ không vào Đàng Trong và bao giờ cũng một lòng với ngài. Ngài cho đòi chúng tôi đến một ngôi chùa (pagode). Dân gian theo chúng tôi đồng lắm. Người ta đặt lên trên một chiếc hương án một bình đầy rượu và nước, lần lượt người ta lấy một chiếc xẻng và mũi một thanh mã tấu gõ vào bình. Đoạn người ta cắt tiết một con gà mái, rồi lấy mấy giọt huyết gà dập tắt lửa một tờ giấy có viết lời thề đem đốt trên hương án. Con gà mái bị chặt làm nhiều khúc. Lễ phát thệ chỉ có thế, mọi người đứng vòng quanh hương án và không làm gì khác nữa ở trong chùa. Song rồi họ chỉ vào chùa, chỉ vào bàn thờ và các cây nho thếp vàng dựng ở trên bàn thờ bảo chúng tôi thề sẽ theo đúng lời đã nguyền và uống rượu cúng...
Đoán biết trước việc sẽ xảy ra như thế nào, tôi có đem giấu được một cái tranh to của Chúa tôi đem trải ra, quỳ trước tranh tôi nói không muốn gọi danh hiệu một vị chúa nào khác Chúa cứu thế mà thề cả... Quan nội giám, đến dự lễ thay chúa, không nghe theo lời tôi;... sau cùng tôi phải yêu cầu quan nội giám cho người về tâu vua rõ ý định của chúng tôi... Chúa, minh mẫn nên hiểu chuyện và truyền cho chúng tôi cứ thề như người có đạo Cơ Đốc... Tôi xây lưng lại Chúa và nhìn vào hình Chúa mà thề rằng... nếu tôi sai lời trong sớ thì Chúa sẽ bắt tôi chết bằng nước, bằng lửa, bằng đao gươm và các thứ khổ hình khác. Thầy Giulio, viên thuyền trưởng và tất cả các người Bồ Đào Nha cùng thề như vậy... Lời thề của chúng tôi làm chúa hết nghi ngờ, ban cho chúng tôi nhiều phẩm vật cùng đồ giải khát và cho
https://thuviensach.vn
phép chúng tôi nhổ neo. Ngài đã giữ chúng tôi lại thêm vài tháng chỉ vì ngài đã sợ chúng tôi vào Nam.
... Xứ Đông Kinh gọi theo tên kinh thành là chỗ chúa đóng; ở phía Bắc, xứ ấy tiếp giáp với Trung Hoa; ở phía Nam với Đàng Trong; ở phía Tây với dân Lào (Laos); ở phía Đông với biển Đông. Đất ăn vuông ra trăm dặm; có nhiều sông và lắm đồng bằng; sản xuất ra nhiều thực phẩm như gạo, thịt, cầm thú rừng nuôi và hoa quả, đất phi nhiêu nhưng thổ sản không rẻ vì dân sự đông đúc.
Người dân... vóc đạc cao táo tợn và can đảm, bận áo dài mổ trước, dài xuống đến giữa ống chân; tóc dài và đội một chiếc mão. Họ thích nghề binh; sở trường về hạng súng nặng và súng hỏa mai, gươm và mã tấu đeo bằng dây ngang người. Họ dễ xúc động, dễ bảo, có nghĩa, vui tính... Bọn cùng dân hay ăn trộm ăn cướp: vì thế người ta khép bọn đạo tặc cũng như tội ngoại tình vào tội tử hình.
Chúa Đàng Ngoài trị vì chín nước: ba thuộc quốc phải cống ngài (vua Lào, vua Đàng Trong, và chúa Bầu[17]. Ngoài lại phải cống vua Tàu mỗi năm là ba pho tượng bằng vàng, ba pho tượng bạc. Ngài thu được chừng hai triệu bạc lợi tức.
Kinh thành ở hai mươi mốt độ (bắc vĩ tuyến); khí hậu nóng bức lắm khi nào không mưa, nhất là vào hồi tháng Sáu. Không có hào, không có lũy. Cung điện lợp ngói, tường xây đá to chạm trổ đẹp; còn nhà cửa của dân làm bằng tre, lợp rạ và không có cửa sổ. Trong thành phố có nhiều vũng nước rộng, để dập tắt lửa cho dễ khi nào có hỏa hạn. Hỏa tai phá 5, 6 nghìn nóc nhà thì 4, 5 hôm sau chỗ nhà ấy đã làm mới lại. Kinh thành chu vi 5, 6 dặm và dân cư rất đông; lập trên một con sông rộng, thuyền bè đi lại được và ăn ra bể xa mười tám dặm. Nước sông đục, nhưng dân bản xứ dùng nước ấy ăn, bởi vì không có máy nước, giếng hay bể chứa. Mỗi năm sông tràn ra khỏi triền hai lần, đầu tháng Sáu và tháng Một, làm lụt một nửa kinh thành nhưng nước lại rút ngay.
https://thuviensach.vn
IV. GIOVANNI HLIPPO DE MARINI
Cố Marini sinh tại Taggia, xứ Ligurie (Ý) năm 1608, mất tại Hạ Môn ngày 11 Juillet 1682. Nhập vào dòng Tên năm 1625 và sau đó sang Đông Dương. Cố ở Bắc kỳ 14 năm, có lẽ bắt đầu từ 1647. Cố có về Âu châu một chuyến nhưng năm 1674 lại sang Viễn Đông. Cố được bổ làm Trưởng giáo trường Hạ Môn và được cử làm giám mục Trung Hoa.
Quyển Relation nouvelle et curieuse des royaumes de Tunquin et de Lao do ông F. Le Comte dịch và in tại Paris năm 1666.
Những sản vật của xứ Bắc kỳ
Không nên lấy làm lạ khi ta thấy trong một xứ đất cát phì nhiêu và nguyên liệu phong phú như thế, dân sự biếng nhác và thiếu óc kỹ xảo. Thật ra (cũng) có rất ít người thích việc công thương, cam lòng rời bỏ quê hương để đi ra ngoài, quan sát những đất lạ, biết chiêu dụ người ngoại quốc đến xứ mình. Có sống trong sự thiếu thốn ta mới thấy cần có xảo nghệ, lo vượt qua nỗi cơ hàn, đi hết góc bể chân trời để thông thương và thu vét của cải. Còn dân này trong nước đã sẵn có thừa thãi mọi cái cần thiết nhất cho đời sống thì có cần gì đi ra xa để làm nguy cho tính mệnh và mang gian truân vất vả vào mình, cũng vì thế nên bây giờ ta mới biết xứ này.
... Người Đông Kinh đã khôn ngoan, khéo léo từ khi người Bồ Đào Nha, Hòa Lan và các nước lân cận đến buôn bán. Họ biết buôn không phải vì túng thiếu; nhưng vì lợi, vì tiền. Hơn nữa, họ cũng đủ lý trí để học rất mau nhũng lề lối, những mánh khóe trong nghề buôn để khỏi bị phỉnh gạt.
https://thuviensach.vn
Trong xứ không có xa phu; không có những xe bò xe ngựa tiện lợi, cũng không có thuyền tầu để đi lại trên mặt biển: bởi vì họ sẽ bị nghi là tự ý phá sản khi đem xuất cảng những thực phẩm, những tơ mới quay hay đã dệt, hoặc những thức hàng khác để kiếm lời. Họ chỉ bán ra vài thức hàng làm bằng đủ mọi chất dùng trang hoàng hay có công dụng riêng. Hàng nhập cảng thì có nhiều thứ trong xứ đã sẵn có như gạo, lúa mì, rau, đậu, cá, cầm thú, hoa quả đủ mọi giống và đủ các mùa vải dệt bông, lụa, tơ gỗ đủ các kiểu, kim khí đủ các loại tại các mỏ trong xứ.
Từ trước đến giờ, Quốc vương không cho khai các mỏ vàng; ngài vừa mới cho phép khai 25 hay 30 mỏ bạc một phần ở tỉnh Bao, một phần ở tỉnh Cuicanghe (Cao Bằng). Cũng có vài mỏ bạc trong địa hạt Bắc trấn vừa mới đào nhưng khi nào đức vua cho phép mới được khai. Ngài giữ các mỏ kim ngân quý giá như vậy là tại ngài sợ ngoại quốc nghe thấy thì đến xin khai và chiếm mất, sợ thần dân tranh quyền làm chủ những mỏ ấy và nổi loạn chống lại ngài.
Sắt và chì thì tha hồ khai vì ngài không lo giữ gìn như vàng bạc. Ngoài các mỏ nên kể việc mò trai. Nhưng bây giờ không còn ai mò nữa vì các vua trước đã chiếm giữ lấy cả món lợi. Ai còn muốn hy sinh tính mệnh trăm nghìn lần để làm việc khó nhọc ấy?... Về việc chài lưới tôi không thấy nơi nào sẵn cá như xứ Đông Kinh; ai ai cũng có lưới để bắt cá ăn tươi hay ướp muối.
Một nguồn lợi nữa thông thường hơn, khai thác không khó nhọc và nguy hiểm vì mọc sẵn trên đất, là núi rừng có nhiều thứ cây già hơn nghìn năm không mục nát được. Như gỗ lim (người Bồ Đào gọi là Palo Ferro, nghĩa là cọc sắt để chỉ rõ tính cách gỗ nặng hơn cả gỗ mun vì chìm xuống nước mau hơn; - sắc giống như sắt gỉ; - cứng như sắt đem búa đóng đanh tốt vào, thì một người khỏe đến đâu dùng tay không cũng không nhổ lên được, dùng kim thường nhổ cũng còn khó nhọc). Gỗ lim kỵ với sắt: lim làm han và ăn sắt gỉ chóng đến nỗi những chiếc galions dùng đinh sắt đóng những xà và
https://thuviensach.vn
rường (solives) lim vào thành tàu, sắt gỉ, những phiến gỗ ấy long ra. Nếu ta không trông nom và sửa chữa ngay thì tàu có thể vỡ ra và đắm được.
Ngoài ra còn nhiều thứ gỗ cũng tốt như lim: nhà vua không cho phép đẵn nên ta không được đóng tàu chiến đẹp bằng gỗ mun. Mun không được nhiều, và tốt như mun Mozambique - Quế (calambac, calambour) mọc ở phía nam xứ Đông Kinh, ở phía bắc xứ Đàng Trong và ở phía Nam xứ này chỗ tiếp với Chiêm Thành. Quế không nhiều và tốt như quế Tích Lan. Nhưng quế nam đắt hơn và rất được người Nhật chuộng dùng. Những người này thường nói giá Chúa Nguyễn gửi sang Nhật bán thanh quế nặng 30 livers ngài giữ trong cung thì sẽ có nhiều người đem vàng cân đánh đổi. Quế đắt thế nên có nhiều người đi kiếm. Nhưng vua cấm ngặt ai không có phép thì không được bóc mà có phép cũng phải chở qua cung vua, Quế thơm nhưng (muốn lấy quế) phải xông vào rừng sâu đầy thú ác, nước độc khí thiêng. Thú dữ còn có bề chống giữ đề phòng; chớ nước độc khí thiêng dù có đem thuốc giải trừ rất hay, không chết ở dưới chân cấy, về đến quê nhà cũng ốm liệt giường liệt chiếu.
Rừng còn có cọp, gấu, lang, hươu, hoẵng, thỏ, lợn lòi, voi, khỉ và ít nhiều tê giác. Sừng tê giác rất được chuộng dùng ở Ấn Độ và các nước lân bang Trung Hoa. Sừng tê dùng để giải độc nên ai có của cũng cố tích trữ được một cái (?) ở trong nhà nhất là tại các miền này, các dân thường có ác tục là bỏ thuốc độc hại lẫn nhau. Cũng có kẻ nói quả quyết rằng nếu giẫm phải gai chỉ cần đem tán một ít sừng tê thành bột hòa vào với nước rồi dùng nước ấy rửa chỗ đau, thì không làm nhức buốt gì, cái gai cứ tự nhiên lòi ra rất dễ dàng và chẳng đau đớn. Các vị quan Tàu chức cao và lắm của lúc thết tiệc các bạn thân, chỉ rót rượu vào chén làm bằng sừng tê để tỏ ra rằng họ sang, để khỏi sợ say vi sừng tê có tính chất giải độc.
Cũng như ở nơi khác, dân Nam muốn thử xem sừng tê có tốt hay không, đem treo thanh kiếm bằng một sợi dây rồi cầm sừng tê để gần kiếm; nếu tay chuyển sừng đi mà kiếm quay theo thi sừng tốt, nếu kiếm đứng yên thì sừng không có giá trị gì cả. Cũng có kẻ không thử thế, chỉ xem nếu trong
https://thuviensach.vn
giữa sừng có vân vàng mọc tỏa ra đến khắp ngoài rìa thi cho là sừng tốt. Nếu sừng vừa có vân vừa làm quay được thanh kiếm thì họ sẵn lòng bỏ ra mấy trăm đồng vàng mà chuốc... Người Đông Kinh, hơn người Trung Hoa còn biết dùng sừng tế làm cán gươm, chuôi dao để phòng hơi độc của thuốc giải độc mà luôn luôn họ giắt trong người.
Họ cũng nuôi dê, bò, trâu, ngựa nhiều nhưng còm, bé như ngựa Ba Lan. Ngựa mua ở các xứ lân cận vào đẹp lớn tốt hơn nhưng đã bị thiến rồi; Quốc chủ các nước này một là muốn giữ lợi, hai là sợ bán ngựa giống cho một nước một ngày kia có thể trở nên thù địch của mình, nên không muốn giống ngựa của mình có ở nước khác. Ngựa không bịt móng vì đất ở vùng quê không có đá không hại chân. Họ cũng không dùng đinh thúc ngựa nhưng cầm roi lông. Họ cho rằng cưỡi ngựa mà ngựa không có nhạc đeo, thì người cưỡi ngựa thành lố bịch, cưỡi như thế cũng không khác cưỡi bò.
Nhưng trong lúc để tang vua hay các thân quyến của vua, ai cưỡi ngựa có nhạc thì sẽ bị phạt một món tiền to.
Phong tục và tính nết người Bắc kỳ
Khí hậu lành và tốt, đất cát phì nhiêu của xứ này đáng lẽ làm cho người dân có tính tinh khoáng đạt thì hình như chỉ làm cho người họ lớn và khỏe mà thôi... Sự đè nén biến họ thành những người rụt rè sợ hãi quá đáng. Cũng như dân Ý, họ có người to, tầm thước và nhỏ. Nhưng thân hình họ cân đối, tính nết thuần thục, nét mặt đều đặn dễ trông. Người thành thị da trắng hơn là nâu; người nhà quê da vàng xanh. Họ làm việc không biết mệt nhưng không chịu được sự đói túng, quan tâm đến sự vật hiện tại (mà họ cầm giữ được; đến những chuyện nhãn tiền làm họ say mê) hơn là chuyện tương lai không ảnh hưởng gì đến thần trí họ và họ cho là xa quá, không thực hành được, Đấy là xu hướng của họ. Đấy là duyên cớ làm cho họ cẩn thận và giữ gìn trong những công chuyện có dính dáng đến quyền lợi của họ. Còn đối với những việc gì không liên can đến họ thì họ là hiện thân của sự nặng nề và sự lười biếng. Vì thế cho nên khi nào có việc công ích phải
https://thuviensach.vn
làm thì nhà vua giao phó cho những viên đốc công mẫn cán và nghiêm khắc, luôn luôn đốc thúc dân phu, mắt không dời họ lúc nào và không để họ nghỉ ngơi chốc lát.
Họ rất thông mình và có trí nhớ rất tốt, có lẽ không dân tộc nào hơn được; họ học rất dễ và dễ nhớ những điều mà người ta dạy họ.
Bản tính họ tốt, nhũn nhặn; miễn là ta tỏ tình yêu mến họ là họ đem lòng tốt trao cho ta một nụ cười, một lời nói tử tế, một sự giúp đỡ cỏn con và chút ít chứng cớ của lòng ta đối với họ là hoàn toàn thu phục được họ ngay. Họ thăm nom và chiêu đãi những người ngoại quốc, ước ao được xem những vật kỳ lạ và khi đã được xem rồi đòi xin cho kỳ được. Dáng điệu họ lễ phép; lời nói lại ôn tồn; nên khi muốn tỏ lòng biết ơn ai đã giúp đỡ, họ tỏ vẻ vui mừng và hết sức trả ơn, dù công việc có khó khăn nguy hiểm đến đâu cũng mặc.
Đàn bà hạ lưu, rất hám lợi, hăng hái theo đuổi lợi lộc, nên một công chuyện gì đã bất tiện và không hợp đối với đàn ông rồi, thì khi vào tay đàn bà trở nên bại hoại và nguy hiểm.
Họ say mê việc buôn bán, luôn luôn bàn về việc bán, mua, lâu dần thành hư thân và trơ tráo. Họ mất hết cả mực thước, điều độ và cho rằng có một công lệ đem áp dụng được vào các hàng hóa cũng như vào người. Họ chở thuyền và chở bất cứ cái gì, chở đò sang ngang cho bất cứ ai, lúc có chồng tại thuyền hay chồng đi vắng cũng vậy. Trong những trường hợp này và phải luôn luôn giao thiệp như vậy, người đàn bà có suy nghĩ không? Có lo giữ gìn danh giá không? Và có thể tránh được sự sa ngã không? Đã có người hư hỏng vì tham món tiền nhỏ, hư hỏng cả những khi không có ai yêu cầu vì họ hy vọng sẽ được chút lợi nhỏ. Thảng hoặc có người bị chồng bắt được đã ở nhà người đàn ông khác trong ít lâu, thì có khi người chồng cũng không đau đớn, vợ chồng vì thế cũng không bất hòa, người chồng mong được chút lợi ghê tởm và khốn nạn để cùng chung hưởng với vợ.
Nhưng ta chớ nên vội kết luận rằng tất cả đàn bà hạ lưu đều trụy lạc cả đâu. Chỉ những nơi nào đông người, có thuyền buôn ngoại quốc đến đậu họ
https://thuviensach.vn
mới hư hỏng thôi. Còn trong các thành thị và các làng, người (Đàng Ngoài) sống giản dị, lương thiện hơn và những chuyện tầm bậy của những kẻ dại dột thiếu hạnh kiểm không thể làm lu mờ và làm phật ý những bà mặc y phục giản dị cốt ý gìn giữ danh tiết hơn cả những đàn bà Âu châu và Đông phương. Có lẽ ta có thể trách họ để hở chân đi đất nhưng phong tục ở đây như thế, hai nữa là đất đồng bằng mềm, dễ đi không có đá.
Trừ mặt và hai bàn tay để hở, họ bận một cái áo rộng, gần giống kiểu áo thầy tu, trên cổ rất hẹp, dài từ trên vai xuống hai bàn chân; đầu đội nón không đeo mạng; vành nón rất rộng tựa như dù che nắng làm bằng lá một thứ cây mọc trong xứ, tờ nọ xếp lên tờ kia rất khéo và khâu liền với nhau bằng một thứ dây lấy ở một cây thân gai như cây sậy. Nón bán khá đắt nhưng không có gì nhẹ hơn, tiện hơn để che nắng, hơn cả dù vì dù còn phải cầm tay chớ nón đã có quai rất đẹp cũng làm bằng dây (khâu nón) buộc từ hai bên thanh xuống cằm để cho nón khỏi rơi dù có gió mạnh.
Ngày tết đàn bà ăn mặc rất đẹp, tai đeo “hoa” rất đắt và rất quý; cổ đeo nhiều chuỗi ngọc trai rất xinh; tay đeo vòng bằng vàng trá[18] hay san hô; nhưng ngón tay thì không bao giờ mang nhẫn. Áo bằng vải rất mịn hàng bougran, bông hay lụa “lin”, và một thứ hàng nữa gọi là Bo (vải bố?) mua ở Trung Hoa sang và cũng mịn như những vải tốt nhất ở Hòa Lan. Thường thường họ mặc áo mỏng vì quanh năm nóng bức trừ vài ngày rét buốt thôi. Họ không có lệ đánh phấn nhưng họ nhuộm răng hết sức đen (đàn ông cũng vậy) vì răng càng đen càng quý. Ngày xưa hồi còn nội thuộc nước Tàu, đàn ông và đàn bà còn bới tóc ngược, chải có thứ tự và bện bằng lông đuôi ngựa, trên trùm chiếc mão; nhưng từ ngày họ được tự do, muốn tỏ rằng họ đã thoát ly và khác ý kiến với người Trung Hoa, họ để tóc dài, phủ xuống vai, không chải. Tóc càng đen, không buộc, dài và để hỗn độn bao nhiêu lại càng được chuộng. Những đào kép hát, hát bội thường để tóc như vậy, nhất là đào hát.
Đào nương rất nhiều và tập hát rất cẩn thận tuy không bao giờ họ hát hết bài. Ca nhạc thường réo rắt ban đêm và các ca nương thường làm bọn đàn
https://thuviensach.vn
ông mất ngủ... Người Âu châu nào biết và hiểu tiếng, lại được tường âm nhạc bản xứ chắc sẽ thích lời nói, giọng ca, điệu hát hơn là bọn nữ nhạc của bên ta và chắc sẽ được khen là một người xét đoán vô tình và không có dục vọng. Muốn được tiếng là tốt giọng và hát hay, họ giữ gìn giọng hát cẩn thận đến nỗi đã hẹn hát với ai, trong thời kỳ luyện tập, họ kiêng kỵ không đi lại với chồng hay nhân ngãi, nhịn không ăn thịt vì sợ thịt làm sai, hỏng mất tiếng. Nhưng họ rất chuộng một thứ ếch, thịt ăn làm trong được giọng.
Họ kiếm được rất lắm tiền chỉ nhờ về nghề hát. Nếu được đức vua nghe thấy giọng ca và nếu họ làm được ngài vừa ý thì họ sẽ được tuyển vào đội nữ nhạc của vua. Nếu họ có nhan sắc, ngoài giọng hát hay, họ sẽ được tuyển vào cung; nếu họ sinh được con trai thì chẳng những họ sẽ được kính trọng hơn, được thêm bổng lộc mà cậu con lại có hy vọng được lên làm vua, như những ông hoàng khác...
Đàn ông không tốn tiền quần áo. Bọn dân dã suốt năm đi đất và dùng một miếng vải che chỗ mà lễ nhượng bắt họ phải giấu kín. Mùa hè dài. Suốt năm nóng (trừ vài ngày gió bấc thổi hết sức lạnh) nên họ hết sức đảm sự may mặc. Tuy vậy quần áo họ vẫn có vẻ trang nghiêm và bệ vệ. Người giàu có hoặc có ít nhiều quyền thế được tôn trọng mặc một chiếc áo lụa dài đến đầu gối (khác với bọn cùng dân mặc áo vải), ở trên phủ một chiếc áo dài nửa giống như áo ta mặc trong phòng ngủ, chấm đến cổ chân, tay rộng nửa sải và dài như áo. Áo không mở như áo khách, vạt phải đè lên vạt trái, nhưng vạt trái đặt lên vạt phải. Lại khác với người Trung Hoa dùng dải lụa buộc vạt phải lên sườn trái để lúc đi áo khỏi tỏa ra làm khó coi và trái với lễ độ, người Bắc kỳ buộc vạt áo cao lên bên trên háng chừng bốn ngón tay, như thế áo kín hơn và đúng hơn. Có thắt lưng họ cũng buộc chếp cho áo thành ba bốn nếp dài ở dưới, để phân biệt các người với nhau. Nhưng khi nào họ phải vào chầu hay dự vào các cuộc hội hè, họ mới chếp áo mà thôi.
Áo các sư rộng hơn, may bằng vải hay lụa quý hơn. Mũ ni hình tròn, cao hai ba ngón tay, ở đằng sau có miếng vải cùng một thứ hàng, cùng một màu
https://thuviensach.vn
với mủ và che kín nửa vai, áo cà sa màu tím, hạt dẻ nhạt và sẫm phơn phớt hoa đào hay đen bóng; cũng có cái màu xanh, vàng hay đỏ hung.
Cũng có nhà sư mặc một thứ áo ngắn trên có nhiều đường thêu đối nhau lồng hột thủy tinh hay pha lê ngũ sắc, óng ánh rất đẹp trong những dịp lễ lớn.
Người Bắc kỳ chỉ dám ăn mặc ở kinh kỳ, còn ở các tỉnh, và các làng khác, tuy họ không thiếu gì áo đẹp, họ ăn mặc tồi tàn để cho người khác khỏi biết rằng họ giàu có và sung sướng để tránh cho quân gian phi khỏi đến cướp phá, cho bọn quan lại khỏi đến sách nhiễu lợi dụng, bắt chịu thuế má cao, đóng góp nặng.
Nhà cửa của người Bắc kỳ
Nhà cửa của người Đàng Ngoài và lối họ xây dựng nhà cửa rất giản dị, không được suy nghĩ kỹ càng và không theo một chủ ý gì cả. Bởi thế họ không cần gọi đến các kiến trúc sư, đến các ông thợ cả vì theo tôi không cần tinh khôn lắm mới dựng được cho mình một mái nhà, những cái nhà, những cái lều như thế. Làm gì có những sự chạm trổ tinh vi, những gian nhà đẹp như những lâu đài. Mọi vật đều làm bằng gỗ và rơm. Bọn cùng dân cam lòng dựng bốn cái cột hình tròn, được bào đục ít nhiều, lên trên những khối đá tròn và rộng nhiều hay ít dùng làm trụ đỡ vì không thể chôn chân cột xuống đất trừ phi cột ấy làm bằng một thứ gỗ rất hiếm và đắt không mục ngay ở dưới đất. Họ đặt lên trên bốn cái cột đó nhiều miếng gỗ khác; khi nào những người dân túng thiếu này muốn làm nhiều gian nhà, họ dựng thêm nhiều cột, vách, ván hay tre, trát bằng một thứ bột rất nhuyễn màu thiên thanh nhạt. Nền bằng đất nện kỹ, mái lợp rơm hay rạ. Nhà làm cách xa nhau, chung quanh có hàng rào sậy, có vườn, có ao thả cá, cá là món ăn thường của người nghèo: trước khi vào nhà, họ ra ao rửa chân. Nhưng tôi ngạc nhiên hơn cả khi tôi thấy không có một nhà tu khắc khổ nào có đồ đạc giản tiện hơn những giường chõng của người Đàng Ngoài nghèo túng này, giường đặt cách mặt đất chừng hai thước chỉ gồm có một lớp gỗ dài bốn
https://thuviensach.vn
thước lắp với bốn mảnh gỗ, trên đặt giát tre hay một lần lưới đan bằng dây; trên nữa trải chiếu; họ nằm ngủ chẳng có đệm, chẳng có chăn trải giường, có mền đắp.
Nhà những người giàu có, quan tư cũng ngang mực với đất; nên đến cửa thì ta bước vào nhà ngay. Những nhà nào rộng, xây dựng có ngăn nắp và làm bằng vật liệu tốt hơn những nhà của thường dân, trước mặt nhà lối cửa vào có sân rộng nhiều hay ít đủ chứa những người đến nhờ vả hay kêu xin điều gì. Có hành lang lợp và làm theo hình bán nguyệt chạy quanh nhà. Những khung hình tò vò này đặt lên những cột gỗ to rất tốt đặt đối nhau rất đều. Ở hành lang, ta vào một gian rộng rồi sau cùng vào nhiều gian hay phòng, cái nọ có vách cách cái kia. Những thực phẩm chứa trong những cái thúng cát, trát trong và ngoài bằng một thứ thuốc làm cho thức ăn lâu hỏng (?). Vì nước sông một năm dâng cao một hai lần, nhà cửa thường bị lụt; để dự phòng, dân gian làm những lầu cao bằng cột, có nhiều thanh gỗ đặt chéo nối liên cột nọ với cột kia, trên nóc cột đặt nhiều tấm ván, lúc lụt họ rút lên ở trên ấy, như lên trên một sân khấu hay trên một cái sàn chắc để nhìn được khắp đồng ruộng chung quanh. Hoặc họ đã có sẵn những thuyền con để dùng trong những dịp này.
Cửa vào nhà thường dân thấp và bé để bọn trộm cướp khó mang đi những đồ vật chúng lấy được. Cửa ngõ nhà quan thì rộng hơn vì các ngài không sợ gì trộm cướp (chính chúng lại sợ các ngài) và có lính canh giữ luôn luôn. Tuy vậy những nhà quan cũng không có những tấm thảm hay những thứ hàng quý giá; chỉ có những thứ chiếu nhỏ bằng cói rất đẹp; nhuộm màu khác nhau, trên có nhiều hình đẹp; của cải để cả vào thóc gạo, người nào có nhiều thưng gạo nhất được coi là giàu có nhất, thành thử khi ta nói ai có nhiều lúa thóc chính ta muốn bảo rằng người ấy rất giàu có sung túc.
Trong xứ không có đường to, không có phố lát đá và chia ra từng đoạn như bên ta, nhưng nhà cửa cách nhau và rải rác khắp đồng ruộng như tôi đã nói ở trên; một số đông nhà họp lại thành một làng trong có một nhà công
https://thuviensach.vn
cộng (đình), tựa như nhà thì sảnh bên ta; có những thuộc viên về tư pháp giống như Viện Bailly và một pháp viện để phân xử những sự xích mích giữa dân làng.
Kiến trúc các đình chùa được suy nghiệm cẩn thận hơn và không đơn sơ như nhà ở. Theo những thần tự mà tôi được biết thì những nơi này đều (làm trên nền cao) có bậc đá, mái lợp ngói, tường gạch có chạm trổ lên gỗ, trên tường gạch có phủ một lớp men rất đẹp và rất lóng lánh chứng rằng dân tộc này có xu hướng về tôn giáo. Ban thờ ở trong cùng đối với cửa vào, xây giống như ban thờ trong nhà thờ của ta, có lối đi chung quanh, các sư nam và sư nữ sống thành giáo đoàn với nhau như các tu nữ bên ta, có nhà tu ở ngay đấy săn sóc một cách đặc biệt và luôn luôn canh giữ điện thờ.
Lễ nghi của người Bắc kỳ
Mọi việc đều được sắp đặt có quy củ, từ sự họ thù tiếp nhau đến thái độ trước mặt vua. Không có ai được vào bái vua mà mình không mặc thứ lễ phục riêng gọi là áo chầu, bằng lụa tím hay cùng là màu quan lục sẫm; mà đầu không đội mão, để tỏ lòng tôn kính. Những người không có phẩm tước, đội một chiếc mão đen cao chừng nửa thước bẻ rơi ra đằng sau. Văn quan đội theo một lối khác và bằng một chất khác, một thứ mão làm bằng lông đuôi ngựa, cao nửa thước, hình lục lăng, có thêu và trên đỉnh dẹp, khác với các mũ nói trên nhọn; chỉ có những tội nhân mới để đầu trần ra trước mặt vua. Nhưng chân thì lại khác vì nếu đi giày vào chầu tức là mắc một trọng tội: Khi vào yết kiến long nhan, không được đi giầy mang vớ, chỉ có vua và một vài bà hậu, bà phi được phép riêng của vua mới đi hài; các hoàng tử cũng phải theo luật ấy, trừ có hoàng thái tử là người sau này sẽ lên kế vị được đi giầy trong cung hay khi ngài vi hành đi thăm đồng ruộng, nhưng khi vào chầu phụ hoàng ngài cũng phải bỏ giày ra và đã có một tên quân hầu múc nước để ngài rửa chân cho sạch thêm. Người ta còn nghiêm cấm tất cả mọi người dù trời nóng bức đến thế nào, trước mặt vua cũng không được dùng quạt; quạt giấu trong tay áo, tay nọ luồn kín vào ống tay áo kia và chắp lên ngang ngực. Triều phụ và lối vào chầu vua ấy trông thật lạ
https://thuviensach.vn
lùng. Nhưng ta thấy dấu hiệu sự tùng phục và lòng tôn kính lúc họ mới đi mấy bước đầu rồi phủ phục khi họ vào đại điện là chỗ vua ban chầu: Trước nhất phải quỳ lễ bốn lễ đầu gối trái xuống trước, gối phải xuống sau, đầu dập xuống đất. Bắt đầu từ cửa điện hay tự chỗ ta đứng: tính cho đúng để đến khi làm lễ thứ tư thì ta đến đúng dưới chân vua. Xong rồi ta đứng dậy và hai bàn tay chắp lại, ngón nọ vào ngón kia, giấu kín trong ống tay áo, ta giơ tay lên ngang đầu rồi cúi nhẹ mình, ta chúc vua vạn tuế.
Nên biết là có năm lối chào khác nhau... Với vua thì nói: Tôi tấu đức vua (Tôi tấu đúc Bua). Với chúa thì nói: Tôi... chúa? (Tôi doù ciua). Với các vương thân quốc thích: Tôi... đức ông (Tôi thần đức oú).53 Với người trên thì nói: Tôi trình (Toy cieng). Với kẻ ngang hàng thì: Tôi nói (Tôi N'oy). Các quan đại thần tan chầu vội vàng rời cung điện và chạy rất mau về nhà. Không làm như thế là trái phép. Các người cưỡi ngựa, cưỡi voi, qua trước hoàng cung, cũng phải xuống đi đất. Đàn bà không phải theo những nghi tắc này, nhưng khi gặp kẻ hàng trên phải chào, thì họ dừng lại và ngồi sụp xuống đất; xong rồi họ chắp hai tay lại và cúi mình lễ, chân chạm đất năm lần; có khi nói chuyện với nhau họ cũng ngồi như thế trên chiếu, vì ở (Bắc kỳ) không có ghế chỉ dùng chiếu trải trên đất. Tại các nhà quan, có một chiếc sập cao chừng một thước trên trải chiếu, không có thảm, dùng để ngồi nói chuyện. Tiếp người ngang hàng thì họ mời cùng ngồi trên chiếc sập; tiếp thuộc hạ, họ cho ngồi xuống chiếu cặp đỏ thấp hơn bực; còn như kẻ thường thường thì cho ngồi chiếu đơn; bọn cùng đinh thì phải ngồi sệp xuống chỗ đất không trải chiếu. Khi đi chơi họ không bàn công chuyện làm ăn; chỉ khi ngồi hay lúc đứng hai tay không nhúc nhích họ mới bàn đến công việc thôi; các cố đạo cũng bắt chước cho nên lúc giảng kinh, mình không cử động, tay không đưa đẩy nhưng chắp vào tay áo đưa lên ngang ngực, chỉ có miệng lưỡi là mấp máy thôi. Họ ngạc nhiên khi thấy người Âu châu đi lại luôn và hỏi tôi duyên cớ ấy. Tôi trả lời họ rằng chúng ta bắt chước mặt trời vận chuyển luôn luôn và nước biển luôn luôn chuyển động để được trong vì nếu đứng yên thì nước biển thối hỏng mất.
https://thuviensach.vn
Các quan nhỏ đối với các quan to cũng phải cung kính như dân, duy chỉ phải quỳ lễ thôi và lễ xong lễ thứ ba thi họ chắp tay lên trên đầu; đứng trước mặt các quan trên, họ cũng không được phe phẩy quạt.
Để tỏ lòng tôn kính khi gặp vua hay các quan cao cấp, họ để tóc xõa trên hoặc lúc ấy tóc còn đang buộc bằng dây thường hay đang bện thì họ rũ vội ra, nếu không làm như thế thì vị quan kia sai cắt liền; điều ấy là một sự nhục lớn vì người Đàng Ngoài cho mớ tóc là tiêu biểu quý nhất của sự tự do của họ. Gặp kẻ ngang hàng, họ chào: Tôi vui mừng với ông; gặp người trên, họ đưa tay trái cho người kia hình như muốn tỏ ra rằng họ cũng săn sóc đến công việc của người này, còn tay phải họ để không, để giúp dập và chống đỡ người trên đối lại với kẻ thù. Còn trong xóm nếu có ông quan to nào trùng tên với một người thì người này muốn tỏ lòng tôn trọng, theo luật nước đổi tên đi; nếu ông quan tên là Ba, thì họ kiêng không nói Ba nhưng nói Tam.
Nói tóm lại, đó là những lễ nghi, những dấu hiệu tôn kính của người Đàng Ngoài dùng lẫn với nhau và để họ tỏ cho những người họ tôn lên trên họ biết. Các vị cố lão được trọng đãi hết sức nên khi một người niên thiếu gặp bực cố lão thường nói: “Thưa cố cháu xin giúp đỡ cố".
(Trang 78 - 87)
Thành Hà Nội
Bây giờ ta sang chuyện Hoàng Thành để biết sự tráng lệ của kinh kỳ (nếu ta có thể gọi một thành phố là một đám nhà tụ tập lại, bao bọc lấy vàn mớ dân cư, không có tường lũy, không có hào hố, không có rào dậu bao bọc lấy và phân giới hạn với chung quanh?). Mặc dầu các nước ngoài gọi vắn tắt là Kinh đô (La Cour) vì vua thường đóng ở đấy. Dân bản xứ thì đặt tên là Kẻ Chợ (Ke Ció) nghĩa là chợ, chợ phiên. Bởi vì, trong xứ có sản vật gì tốt, ngoại quốc có hàng gì đem vào bán, đều đưa đến đây cả, một tháng có hai phiên chợ to, vào ngày mồng một và mười lăm của tuần tráng. Kẻ Chợ chiếm một vùng đồng bằng rất đẹp và rất phì nhiêu, rộng hàng bao
https://thuviensach.vn
nhiêu dặm và đặt trên bờ một con sông phát nguyên tự Trung Hoa. Sông bọc lấy thành thị trong một khuỷu rộng nên việc buôn bán được dễ dàng; thuyền bè luôn đi lại được trên sông; sông còn chia ra nhiều ngành, nhiều sông đào rất có ích cho việc chuyên chở các hàng hóa và làm thuận tiện việc buôn bán các tỉnh ngoài với đô thị.
Người Âu châu nào đến thăm kinh thành (hay Kẻ Chợ tùy theo lối gọi của mỗi người), sẽ thấy nhà cửa ở đấy không phải là những đầu đề để ta ca ngợi, bởi vì nhà cửa ở đây cũng không khác nhà cửa những vùng khác trong nước; muốn làm những nhà đẹp hơn, phải tiêu tốn hơn vì đào sâu 2, 3 thước đã thấy nước rồi, muốn tiện lợi mỗi nhà đào một cái chuôm thả cá hay một cái ao nhỏ không hại sức khỏe, có nước dùng để giặt quần áo, tắm rửa, tưới rau; cá câu để ăn tuy số ao chuôm ít hơn các miền khác. Nhà nào cao lắm thì có tầng gác thứ nhất, nhưng trên có làm nhiều chỗ cao, phòng khi nước lụt thì rút lên ở. Phố xá không lát đá. Dân gian thiếu chút nữa thì tồng ngồng và bao giờ cũng đi chân không như ở khắp trong xứ. Tuy có chỗ bẩn thỉu và đáng xấu hổ, ta cũng nên công nhận rằng thành này có nhiều chỗ rực rỡ lộng lẫy. Thành phố có 72 phường phố, mỗi phường rộng bằng một thành phố trung bình bên Ý Đại Lợi ta, 72 phường đầy những thợ cùng người buôn, muốn tránh sự hỗn độn và giúp ta tìm ngay được thức ta cần dùng, ở cửa mỗi phường có một tấm biển đề rõ thức hàng, tốt hay xấu, thành ra ít khi có người (cả người ngoại quốc) bị nhầm về giá hàng, về phẩm hàng tốt hay xấu, về lượng hàng bán đủ hay thiếu. Trên kia tôi đã nói là người ta chở đến đây tất cả các thứ sản vật trong xứ, của ngoại quốc, chở đến nhiều hơn bất cứ nơi nào trong nước. Vì lẽ ấy nên đức vua muốn các hàng hóa ngoại quốc đều ghé lại xứ, và ngài chỉ ưng rằng các tầu bè Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Miên, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Phi Luật Tân, Hòa Lan và các nước khác ở Đông phương muốn vào trong xứ phải ngược sông (Nhị Hà), không được đậu bến nào ngoài bến Kẻ Chợ.
(Trang 109 -112)
Hoàng cung
https://thuviensach.vn
Nếu từ Kẻ Chợ ta sang hoàng cung thì ta sẽ thấy không phải chỉ có một cung điện đâu mà là một thành phố rất mỹ lệ và rất khang trang tuy kiến trúc điêu khắc, thảm dệt hay đồ đạc không có gì đặc sắc. Nhưng có lính canh gác, các sĩ quan, các chức nghiệp cư dân tất cả các nước đến tụ họp ở đây, trật tự, chế phục, công viên, voi ngựa, binh khí, đạn dược tích trữ ở đây, làm cho hoàng thành có vẻ dị kỳ và quá sức ta diễn tả; tuy cung thất bằng gỗ nhưng có dát vàng và có những bức thêu, những tấm chiếu rất mảnh, có nhiều hình và nhuộm nhiều màu tựa như những bức thảm đắt tiền. Ta còn thấy xây trên những cửa tò vò và những tường dày lạ lùng một cung thất là chỗ vua ở, người ta đồn của người Tàu xây hồi còn cai trị xứ này.
Nhưng để cho khỏi ra ngoài chuyện hoàng cung, ta sẽ không khó nhọc mà biết rằng cung ấy làm trên một rừng cột to và chắc, cao một từng thôi có thang leo lên; cột nhà thì đẹp đẽ và trau chuốt hơn các nhà khác. Để dựng cung, người ta đã gọi những tay kiến trúc rất thiện nghệ và những thợ cả rất lành nghề vì chỉ những người này mới được phép đặt tay vào và chăm nom các công việc của nhà vua. Còn dân gian và phu phen không bao giờ được dùng vào những việc này. Cung điện còn lại đến ngày nay xây trên một chỗ đất cao; và nếu người Đàng Ngoài muốn xây một cung nữa thì họ sẽ chọn chỗ nào có địa thế tiện lợi nhất vừa để cai trị được khắp vùng vừa để tránh lụt cho dễ.
Các gian điện rất rộng rãi; hành lang rộng và đi hun hút mãi, có những sân rộng tiện dụng cho bọn thị thần và các võ sĩ. Trong cung có nhiều viện là chỗ các cung phi ở, các bà hoàng bị coi giữ rất nghiêm ngặt. Viện có gian đẹp gian xấu, người đẹp và có tài sắc thì được ở những gian đẹp nhất và lộng lẫy nhất nhưng tất cả các viện đều thấp hơn cung vua. Các quan thị cũng ở trong khu này; các triều thần cũng vậy, các vị này đông lắm, Số các cung nhân không nhất định, ước chừng năm trăm người nhưng người nào đứng sau số một trăm bị coi như cung nữ, hoàng hậu đứng trên tất cả bọn cung nhân và rất được tôn trọng, tuy ngài không có con. Có bao nhiêu cung phi thì có bấy nhiêu quan thị để coi sóc hành vi của họ và không rời mắt khỏi họ lúc nào. Vua rất trọng đãi các quan thị, ban cho bọn họ những
https://thuviensach.vn
quyền cao, nói cho họ biết những chuyện rất can hệ và đi giao phó cả tính mệnh cho họ. Bọn “tiểu đồng” (pages) cũng đông lắm, có một viên giám đốc trông nom dạy bảo; nhờ ơn chúa, mấy đứa tớ và thầy này bây giờ thành kẻ ngoan đạo hơn là thành bọn thần, nhưng không được phép ra vào cung viện các bà phi.
Trong cung thành còn có một đạo quân hơn năm vạn người đóng trại để hộ vệ vua tùy lúc cần đến, có hơn năm trăm voi nuôi dùng vào việc chiến trận hay để phô trương, phải luyện tập luôn cho voi để giải trí cho...? (on fait faire très-souvent 1’exercice par divertissement). Ngoài ra còn có vô số bọn nô bộc để làm những việc ti tiện trong cung, không kể nhũng người có quyền chỉ huy hay đốc suất lại còn đông hơn nữa.
Cách tiếp rước sứ Tàu
Khi đức vua vi hành, trông giá ngự rất lộng lẫy và uy nghiêm vào mấy ngày trong một năm, hoặc để đi trước đón đường tiếp rước sứ thần Trung Hoa. Tất cả các quan đại thần, đoàn đi tùy giá, bên văn ban cũng như võ bị, ai nấy đeo dấu hiệu của bộ mình và có rất đông thuộc hạ mang chế phục riêng. Lại còn rất nhiều các quan khác nữa cả văn lẫn võ, mặc sức phục rất đẹp, trong số này có nhiều ông chưa được bổ vào phụng sự đức vua nhưng cũng đến chầu chực và khoe khoang được chú ý hơn những kẻ địch của mình để hòng tiến thân và thành tựu, làm tăng vẻ lộng lẫy và uy nghiêm của long giá lên.
Trang phục của bọn tiểu đồng nhất là của binh lính, bộ binh và kỵ binh hợp thành một cảnh sắc huy hoàng và rực rỡ mà ít bậc quân vương gây ra được. Mỗi một đội có một binh phục riêng áo khác màu với đội khác. Binh khí mà mỗi người mang trong những dịp này giáo trường, trường thương, tên, súng hỏa mai, yến nguyệt đao, đoản đao, thương hay siêu đao múa cả hai tay đều trơn tru và sáng nhoáng, có dát vàng, dát bạc, hay nạm ngà...
Thủy quân cũng không kém lộng lẫy. Trên kia tôi đã nói đến số, đến sự đẹp đẽ, đến đặc tính và binh khí của các thuyền chiến; nhưng nói như thế sẽ
https://thuviensach.vn
rất ít nếu tôi không nói cách dùng những thuyền ấy khi vua đồng ý với chúa, phải đem một đoàn thuyền chiến đi đón sứ Trung Hoa, và dàn thuyền ra thành thế trận trên sông để sứ Tàu giải trí. Sự tiếp rước này rất linh đình và xán lạn. Trong lúc tiếp kiến đầu tiên, vua và chúa mặc triều phục theo lối Tần và đi hia, mũi nhọn vênh lên như mũi những chiếc thuyền nhỏ và đội một thứ mão trông rất kỳ khôi. Vua và chúa quỳ lễ bốn lễ và vái một vái dài bái nhận sắc thư của vua Tàu do sứ thần mang đến và giao cho. Đi đâu sứ thần cũng ở bên phải vua và đứng làm người đại diện của hoàng đế, được các đình thần bái mạng. Lễ tiếp nghênh xong rồi thì sứ thần được thù tiếp như người thường nhưng vì ông ta là người ngoại quốc vẫn được tôn trọng như một đường quan.
Một cuộc vui được diễn ra, để nghênh tiếp sứ thần Trung Hoa là một cuộc sắp các thuyền chiến thành hàng năm chiếc một, hàng nọ cách hàng kia đều nhau, thuyền sau nối thuyền trước thành nhiều dãy dài, được trang điểm rất đẹp đẽ. Hai bên bờ sông, trên suốt một quãng dài mấy dặm, có dựng nhiều cột trên cắm cờ màu sắc khác nhau gió luôn luôn làm phấp phới. Các đội bộ binh đóng khắp nơi chỗ này gióng trống, chỗ kia đánh thanh la, có chỗ thổi sáo thổi kèn để đáp lại. Lúc sứ thần sắp đến, quân lính hoan hô vang trời, bắn một loạt súng hỏa mai và thần công để chào; lúc sứ Tàu ở dưới thuyền lên bộ, bọn thuyền thủ bỏ mái chèo tay cầm súng và đợi cho thuyền chiến bắn súng thần công xong, cũng bắn một loạt súng hỏa mai để tỏ dấu vui mừng và hoan hỉ.
Bơi chải
Nhưng khi họ phải tranh giành với nhau để xem ai bơi mau và thử tài bơi hoa điểu (vào những dịp nước lụt), đức vua ngự ra ngoài đô thành, đến một quán dịch theo hiệu lệnh của viên quan chỉ huy, các thuyền chiến đều bơi hết sức nhanh ra khỏi thủy trại, rất có thứ tự lần lượt đến chỗ đậu để các thuyền bắt đầu thi nhau chạy, cái nọ khích cái kia xem cái nào nhanh và ai bơi khéo, bơi khỏe. Bọn thuyền thủ bơi thường không có ghế ngồi, tay cầm chèo, mỗi bên mạn thuyền là hai mươi nhăm đến ba mươi người; khác với
https://thuviensach.vn
thủy thủ Âu châu, họ quay mặt về phía mũi thuyền. Theo hiệu của người hoa tiêu họ bơi có nhịp, rất đều, lúc nhanh, lúc chậm, theo tiếng gõ vào thanh gỗ đặt chéo trên một bệ cao đằng cuối thuyền là chỗ người hoa tiêu lên ngồi để hướng dẫn và điều khiển. Vui nhất là khi ta thấy một chiếc thuyền bị đuổi lại và bị các thuyền khác bỏ xa. Thôi thì tiếng kêu gào, lời chế nhạo, sự xấu hổ làm kích thích bọn trai bạn; bọn này bỏ lối chèo lúc trước, nghiến răng, mắm môi, giậm chân xuống sàn thuyền, thỉnh thoảng lại cổ vũ nhau, gập cong lưng, cúi mình có khi đầu chạm bàn tay cầm mái chèo; thu toàn lực, họ... (arranquent) vội vàng đến nỗi người như sút đi chỉ còn lại một nửa, đầu mái chèo chỉ chạm sơ xuống nước, thuyền bay hơn là trôi đến gần những người khác rồi (?), họ đứng thẳng người lên, không bơi dữ dội như thế nữa, thở một chút đề phòng lúc gần đến đích đã chọn họ còn hơi dấn lên trước nhất. Mà khi đã trông thấy, nhận thấy đích từ đằng xa rồi, thì hình như ngủ say sực tỉnh, họ đứng thẳng mắt trông đích, tay cầm chèo họ đặt tất cả hy vọng vào hai cánh tay họ làm rung chuyển mái chèo, thiếu chút nữa thì chèo gẫy; chân tay rã rời, đấu nghẹo đi, cằm tựa lên một bên vai; giá mái chèo không làm bằng một thứ gỗ mềm và sai khiến được thì nhiều chiếc đã gẫy rồi. Thuyền nào về đích đầu tiên, được thưởng và được hoan hô vang trời.
Đức vua còn đến quán dịch có hai tầng này với các triều thần mỗi khi nước lụt xem nước lên biến những cánh đồng rộng thành bể cả tai hại đến thế nào, ngài cho là một sự vui thích dị kỳ khi đứng trên lầu các này xem bao nhiêu dân đã sống bì bõm trong đồng nước, dùng bao nhiêu thuyền để cái để câu cá cái để vớt đồ, cãi nhau, đánh nhau; xem các trò vui bơi chải và tất cả các quang cảnh vừa vui vừa thảm do nạn nước gây ra.
Thủy quân
Đức vua có hai nghìn chiến thuyền không kể vô số những thuyền con nữa. Tuy vậy thủy quân của ngài cũng không được bằng các hạm đội tàu bên Âu châu về súng ống, quân lực và không bao giờ ngài bảo giữ một số tàu thuyền nhiều như thế đâu. Ngài chỉ cầm chừng vài trăm chiếc galères và
https://thuviensach.vn
frustes đậu ở bến, lúc nào cũng sẵn sàng để chiến đấu, một phần lớn của ngài, một phần của các quan đại thần và thái giám vì có chức vụ trong nước và tùy theo phẩm chất của mình mà phải giữ mỗi người mấy chiếc. Và cái nào cũng phải sửa soạn ra khỏi để phụng sự đức vua. Như thế ngài có thể lập được nhiều thủy đội mà không tốn kém lắm... Trong một cuộc đi thăm tỉnh Bắc…[19]rồi đức vua lên hành hương trên một ngôi đền (hay chùa) của một viên thái giám thân tín của ngài mới lập lên, tôi thấy suốt dọc sông chạy bên đường, trên một quãng dài trông như một rừng (cột buồm) mà số thuyền đi hộ giá ngài nhiều đến nỗi đếm không xuể, tôi đâm chán và mải ngắm một quang cảnh thích ý và vui mắt, tôi giao việc đếm thuyền cho người khác. Những chiến thuyền này dài chừng ba mươi đến ba mươi nhăm thước và rộng chừng mười bốn, mười lăm thước. Không có gì trở ra hai bên sườn như thuyền chiến Âu châu ở đằng đầu, cũng không có mũi nhọn (để đâm thủng tàu bên địch). Bánh lái giống như bánh lái đò chở trên sông, ở cuối thuyền chở không ở một bên mạn những thuyền to như thuyền rồng mỗi bên mạn có hai mươi nhăm mái chèo; thuyền bè có mười tám hoặc hai mươi chiếc thôi. Mỗi mái một người chèo; thành ra thuyền thủ chỉ có từ năm đến sáu chục người vừa chèo chống giỏi, lại vừa chinh chiến quen; đến dịp thì buông tay chèo, họ với súng lúc nào cũng để gần cạnh và họ biết cách dùng rất thắng lợi. Nhiều thuyền không dùng còi, những viên thuyền trưởng ngồi trên, trong cái phòng hay một cái đài cao đặt ở đằng lái, một tay cầm một thanh gỗ gõ vào một thanh khác cầm ở tay kia lúc mau, lúc chậm để sai khiến sức nhanh chậm của thuyền, bọn thủy thủ bơi rất đúng với mệnh lệnh của thuyền tướng. Họ phải là bọn đồng tuổi đồng sức vóc, khéo léo và thạo việc; họ đi chân đất đóng một chiếc khố nhưng mặc áo may cùng một thứ vải với mũ. Trên thuyền chỗ sang trọng nhất ở đằng lái: đấy có một khoang thuyền rất xinh xắn và cân xứng với thuyền, bên ngoài có nét chạm trổ rất đẹp mạ vàng; bên trong có dát vàng, quét sơn tinh tế và phủ những bức thêu bằng lụa; dưới sàn trải chiếu cói mảnh; chung quanh khoang có bao lơn và nhiều cột nhỏ đặt như chung quanh một dãy hành lang; có một hai khẩu thần công đặt trên giá chứa được tám cân đạn.
https://thuviensach.vn
Thuyền cũng có sân (tillac) và... (tenda) mũi thuyền và lái thuyền đều tròn và cất cao khỏi mặt nước chừng bốn năm thước có trạm nhiều hình và lá nổi, thếp vàng, sơn màu rất thanh nhã và đẹp mắt. Mạn thuyền là chỗ đặt bơi chèo cũng được trang điểm bằng những hình chạy thành hàng chung quanh thành. Họ không dùng nhựa thông hoặc mỡ bò phết thuyền, nhưng một thứ sơn thường pha giống như sáp Tây Ban Nha, khi nào ánh nắng vào, thuyền sáng nhoáng làm mắt bị chói không đương nổi. Nhưng thuyền ngự có nhiều vàng dát, bên trong khoang có ít nhiều chỗ mạ vàng; tất cả các mái chèo của những chiếc thuyền này đều mạ (? sơn) vàng. Thuyền nào cũng có mui che, vỉ phủ lên trên để che ánh nắng gay gắt; có những thứ chiếu cói to đan rất khéo, chống lên nhiều con sào và buộc vào những sào ấy bằng dây tơ. Những thuyền của các vương thân đại thần, thái giám cũng được trang hoàng ít nhiều tùy theo chủ nhân những chiếc thuyền này tiêu vào đấy nhiều hay ít. Thuyền cũng có cột và buồm nhưng tôi chỉ thấy họ dùng chèo thôi. Chính vậy bọn chân sào vì lòng tự ái không bao giờ bỏ tay chèo, tuy nhiều khi gió thuận, thổi từ đằng lái lên; họ không muốn đức vua và các thuyền rồng chịu nguy hiểm vì sức gió, chỉ khi nào họ thi bơi, họ mới giương buồm lên mà thôi.
(Trang 99 - 103)
Tết Nguyên đán của người Bắc kỳ
... Tôi bắt đầu nói đến Tết long trọng nhất của người Đàng Ngoài họ gọi là tết Nguyên đán. Mười lăm hôm trước khi hết năm, có phiên chợ miễn thuế (foire franche) mở khắp trong xứ ai cũng được phép đem hàng tốt hạng nhất ra bày bán; (bày bán thế mà) cũng không làm mất những phiên chợ thường. Những lái bạn ở khắp các nơi kéo đến, hy vọng bán được nhiều hàng vì họ tin chắc rằng không có ai, dù khốn nạn nghèo túng đến đâu mà không đem tiền đến mua thức gì. Quý tộc, dân dã, giàu nghèo mỗi người theo sức mình cũng muốn tiêu tiền; hàng đem đến tuy có đắt, người mua tuy có nghèo nhưng không ai là không muốn nhân dịp đầu năm trang hoàng bằng một vật gì mới và lạ. Vì suốt năm không có phiên chợ nào đẹp
https://thuviensach.vn
và lắm tiền như thế nên cuộc tụ hội của dân chúng (đông) quá sức tưởng tượng. Nhưng trên đường thì cướp bộ mà dưới thủy thì cướp sông làm cho các ngả giao thông nguy hiểm đến nỗi sự đi lại vào dịp này không được chắc chắn chút nào; một là vì các tòa án nghỉ việc, hai là vì dân chúng được buông lỏng trong vòng mười lăm ngày này, nên trộm cắp được hành động vô tội khi cái dịp mà chúng chờ xảy ra tại các chỗ hẻm, nơi chúng đứng rình; bởi vậy các lái buôn sợ mắc phải số mệnh hiểm nghèo ở tay quân súc sinh, thường tụ họp lại thành đoàn đông có khí giới hẳn hoi đi trên bộ hoặc dưới thuyền để gìn giữ lấy hàng hóa dù có phải chịu nguy hiểm đến tính mệnh; trước khi giao tranh với quân cướp họ cũng đắn đo cẩn thận và không dám liều, mạo hiểm mà không cầm chắc phần thắng vì giữa cướp với mình, không có sự tha thứ; nếu không thắng được chúng nó và không làm chúng nó thất bại thì mình đành mất xác và mất tiền của. Trong trường hợp này, điều chắc chắn nhất là có sự cẩn trọng đối với thân mình, biết nhượng bộ sức mạnh bất khả kháng khi sự này cưỡng bách ta; bỏ hành lý cho bọn cướp để giữ lấy thân là giản tiện hơn cả.
Lệ đi lễ và cách đem biếu quà cáp của người dưới đối với người trên hôm đầu năm có từ ngày xưa thì bây giờ bắt buộc và có một đạo luật rất nghiêm khắc chế định nên không ai có thể bỏ đi được. Các quan tùy theo phẩm trật của mình (có nhiều người lại tùy theo phẩm trật mình muốn đạt) mỗi năm gửi phẩm vật quý giá về dâng vua... Hạ quan gửi tặng vật về biếu thượng quan; học trò tết thầy, con cháu biếu gia trưởng, và như thế người dưới biếu người mà mình nhận là người đứng ngay hàng trên mình. Vì lễ vật nhận được rất nhiều và đủ các thứ, nên các quan có tục vào những ngày tất niên đem thết bà con và thân hữu một phấn to: còn lại thì cho lính tráng, đầy tớ để cho ai cũng có cảm tưởng là được dự vào Tết và mọi người được vui mừng sung sướng. Trong tuần chợ 15 ngày này không ai kiện cáo nhau và các nhân viên đều đóng cửa, nếu có xảy ra việc gì khẩn yếu và có ai gây ra tội đại ác thì các quan thẩm phán xét đoán qua loa kết tội rất nặng rồi đuổi nguyên bị đi để cố cho sang năm mới không còn việc gì phải xem xét giải quyết nữa. Bọn thường phạm mắc tội nhẹ không quan trọng có thể tự
https://thuviensach.vn
do ra khỏi ngục mà không bị truy cứu nữa. Những bọn phạm nhân bị hành hình trước ngày Tết, các việc hộ không bàn cãi đến nữa, để lùi lại và thôi luôn thể.
Chiều hôm ba mươi Tết, mọi người đều trồng trước nhà một cây khô, hoặc một cái sào trên ngọn buộc một cái giỏ bé (không phải một lá cờ nhỏ) chung quanh có viền giấy mã, lóng lánh như kim tuyến, cái giỏ và giấy trang kim này buộc ở trên ngọn sào có ý nghĩa là tiêu trừ tà ma ra xa chỗ nhà ở cũng như cắm bồ nhìn trên ruộng gai hay những đất mới vãi hột để đuổi chim chóc. Nếu không có cái vật đáng sợ này trấn áp ở trước cửa thì thế nào ma quỷ cũng xông vào nhà để gieo tai vạ suốt năm, thảng hoặc có ai quên không trồng nêu thì mọi người sẽ chỉ trỏ người ấy và sẽ bàn tán ầm ĩ lên rằng nhà người ấy có ma.
Cũng để trừ tà ma họ đem vôi tôi rồi quét trắng lên trên ngạch và đầu cột cửa, vẽ chi chít lên chung quanh đấy nhiều hình con mèo (?) họ gọi là ấn tín của trời và hình ảnh Thích Ca (Xaca)... Họ tin rằng những hình ấy có thể ngăn cản tà ma không vào được nhà, còn muốn khu trục những tà ma đã nhập vào nhà rồi thì trên các cột nhà họ dán những hình thù ghê gớm dưới có biên chữ rất lạ rất khó hiểu để nguyền rủa và dọa nạt tà ma và để thư phù những nhà nào bị ma quỷ ám. Các ông già bà cả ma làm thì bỏ nhà lên núi hoặc đến trú ẩn tại các đền chùa để trốn tránh “thương”, quỷ là kẻ thù của các cụ già và chỉ tìm các cụ này để vật chết.
Bọn trai trẻ thì suốt đêm đi chơi, nhảy hát chẳng sợ hãi gì cả, vào mọi nhà chúc mừng năm mới để lấy thưởng. Được tiền thì họ giữ lấy để tiêu dùng suốt trong dịp Tết.
Trong dịp này ai đi bè đi sông cũng đặt bàn thờ tiên sư ở đàng lái thuyền khấn nguyện ngài che chở cho và dâng cúng nến hương và nhiều lễ vật khác nữa.
Sau lúc giao thừa là lúc năm mới bắt đầu thì không ai được phép đóng cửa, ngõ vì ông bà ông vải hôm ấy về, họ phải sắp sẵn giường chiếu, họ cho rằng các cụ đi đường mệt lắm và cẩn phải nghỉ ngơi chút ít. Họ rất chăm
https://thuviensach.vn
nom đến các cụ, sợ rằng các cụ không thích nằm lại muốn ngồi, họ trải lên sàn nhà lau chùi rất sạch sẽ một chiếc chiếu hẹp; họ lại sắp sẵn một đôi guốc hoặc một đôi dép đế to bên cạnh một be nước để gần cửa vào để các cụ rửa chân (người Bắc kỳ thường đi đất, không có ao để rửa chân, thì ở bậc cửa có be nước họ dùng rửa chân, giữ chân sạch sẽ và trơn tru mãi đến lúc lên giường, guốc hay dép không có hai quai đa phần có dây buộc luôn chung quanh ngón chân người nào cũng dùng đi trong nhà sau khi đã rửa chân, hoặc khi đau yếu để đi lại trong phòng). Họ còn thêm vào hai cây mía để ông bà ông vải có thiếu sức thì dùng để chống mà đi... Cúng ông bà ông vải xong thì trong ba hôm tết họ không quét nhà, dù nhà bẩn thỉu và đầy rác rưởi...
Nhưng muốn xem một quang cảnh tò mò và đẹp đẽ nhất thì phải vào hoàng thành. Sáng sớm mồng một, khắp bốn góc thành phố và các vùng lân cận, ta nghe thấy ba cỗ thần công bắn báo hiệu. Đức vua, thấy hiệu súng cởi bỏ y phục ngài bận năm trước và ngày hôm qua tắm nước lạnh, tắm xong bận hoàng bào mới và rực rỡ ra thiết triều tại đại điện, các đại thần đã túc trực sẵn, các hoàng tử vào tung hô mạng trước; tiếp đến các văn quan rồi mới đến các võ thần, các đình thần triều bái xong đức vua lui vào cung để nhận lễ của hoàng hậu, các bà phi, các cung tần và các thị nữ. Hoàng hậu quỳ lễ trước rồi mới đến các người kia theo thứ bậc của mình, lễ cử hành từ lúc chưa rạng đông. Chúa Trịnh cũng cử một viên quan sang triều bái và chúc tụng vua.
Trong lúc ấy thì quân hầu sửa soạn cuộc du xuân của vua. Lúc rạng đông, vua ngự ra khỏi cung, bận bộ hoàng bào rất lộng lẫy, ngồi trên kiệu có năm mươi người khiêng, mọi người đều chú ý đến ngài lúc bấy giờ là hình thể và tiêu biểu của sự cao cả (grandeur). Số người đi tùy giá đông vô kể; quanh năm các chế phục không bao giờ đẹp hơn lúc này; các quan có ông vận phẩm phục rực rỡ ngồi voi đóng bành rất đẹp, có ông mặc quần áo lộng lẫy cưỡi ngựa. Vệ binh đội nào có cờ ấy, cờ bằng lụa mỏng hay bằng nhung, cầm binh khí nạm vàng hoặc bịt bạc sáng nhoáng bóng trơn làm cho đám này được đẹp đẽ hơn lên và đức vua ở trong đoàn bộ binh này tựa như
https://thuviensach.vn
mặt trời chói lọi và tỏa ánh sáng ra chung quanh. Ngài ngồi vừa khiêm tốn vừa nghiêm trang, đầu không cử động, mắt không liếc ngang lúc nào cũng như chăm chú đến một vật đặc biệt. Ngài ngồi uy nghi trang trọng như thế cũng phải vì đã có các quan tùy giá dò xét xem trong lúc vi hành ngài có sơ suất điều gì chăng thì khi trở về triều họ họp bàn với các quan khác rất khắc nghiệt về chuyện thanh giá của đấng quân vương và sự tôn trọng luật nước rồi đức vua sẽ phải phạt tiền; nếu lỗi nhẹ không có ảnh hưởng gì, các quan muốn giấu đi thì ngài chỉ bị tiến gián qua loa thôi.
Trong lúc vua xuất hành thì chúa đi tế trời với bộ hạ thân tín, các quân hộ vệ và các phu thần ở giữa một cánh đồng rộng. Trong khi hành lễ thì chúa tay dâng một chén rượu rất kính cẩn và cúi mình vái dài; xong rồi ngài uống chén rượu đó... Các quan đọc sớ xin trời lúc hạn thì cho mưa và khắp trong bốn mùa lúc nào họ cũng được gió hòa mưa thuận.
Chúa cũng khấn và khấn xong cũng vái một vái dài.
Tế trời xong, muốn khỏi thất lễ với đất, chúa cầm một cái cày rất đẹp, mạ vàng, cày mấy luống và cầu xin đất ban ơn cho mọi người làm cho mùa màng được tốt đẹp. Điện thờ lúc bấy giờ sáng trưng đèn, nến đặt thành hàng đối nhau bốn phía chung quanh và sực nức mùi hương, vàng xong rồi họ dâng nước cho chúa rửa tay và lắp đạn vào ba khẩu thần công bắn. Thế rồi chúa ngự về phủ; các người tùy tùng thì ai về nhà nấy cúng lễ gia tiên.
Nếu hôm ấy mưa, họ cho là điềm tốt, không kêu rên rằng bị ướt, trái lại họ vui mừng và người nào được đẫm mưa nhiều nhất tin rằng đó là tin báo trước cho họ biết năm ấy ruộng, vườn được mùa và thầu nhiều hoa lợi; nếu lúc vua xuất hành mà mưa thì toàn thể dân chúng vui mừng và hoan hô đấng quân thượng. Đức vua có bị mưa ướt cũng vui mừng vì cho đấy là điềm tốt bảo ngài còn được ở ngôi cửu ngũ (dài lâu).
... Còn một tục làm cho khắp nước và các gia đình được yên ổn và thuận hòa. Họ có lệ khi năm hết tết đến, là dàn xếp cho xong những chuyện xích mích của người nọ đối với người kia và đến giảng hòa với kẻ thù địch trước ngày Nguyên đán, hứa với nhau sẽ thành đôi bạn chân thật. Trong ba hôm
https://thuviensach.vn
tết, không ai nổi giận, nói nặng lời hay làm phiền lòng ai vì sợ rằng chính mình sẽ bị giông và đầu năm đã bắt đầu làm điều không tốt thì suốt năm sẽ gặp sự không hay. Ai cũng làm điều lành, ai cũng lên lễ chùa.
Dân bên lương còn có lệ, sau ba ngày tết, vào đám suốt tháng Giêng, mỗi một làng cử ra tám người trông nom việc đình đám để không có điều gì thiếu sót và mọi việc được chu tất, không hỗn độn. Công việc của những người có chức vụ ấy là đem bổ các gia trưởng trong làng phần họ phải đóng góp hoặc bằng đồ vật, hoặc bằng bạc tiền. Mọi người đêcu vui lòng đóng góp, kẻ cúng con bò, kẻ nộp con trâu, có người con dê hoặc gà qué gia súc họ đã nuôi béo để cúng thần. Lễ cử ở đình đúng ngày đúng giờ đã ấn định, mọi người đều đến hội họp đông đủ và trước ban thờ thành hoàng, tám ông tế đám phải quỳ lễ trước tiên.
Những cuộc giải trí của dân chúng lúc đầu năm
Có nhiều cuộc thi tài khéo, khó đến nỗi mắt tinh cũng bị nhầm. Có kẻ thử sức khỏe đánh vật; có kẻ thách đi mau chạy nhanh.
Nhưng đàn bà cũng có một cuộc thi riêng thích hợp với phận sự và công việc của họ hơn là thi vo gạo, nấu cơm khéo và nhanh; củi phải đi kiếm tại một chỗ cách nơi ấy một phần tư dặm, nước cũng phải đến gánh tại một cái giếng (nhất định) rồi quảy củi, nước về, nhóm bếp, đặt nồi, tra gạo; cơm chín, dỡ vào một cái đĩa đặt lên bàn để ban giám khảo đi nếm xem cơm bàn nào nấu vừa và chín khéo có giải thưởng, nhưng giải thưởng không được quý trọng bằng vinh dự đã thắng kẻ cùng dự thi.
Cũng có kẻ đấu thương, bắn súng, nạp thuốc không, có kẻ múa gươm, tre mộc. Nhưng còn một trò chơi rất vui thích vừa cần sức khỏe, vừa cần tài hay; ai thắng tất cả địch thủ được thưởng một tấm lụa; ấy là trò đánh đu...
(Hôm mồng ba) các nhà sư cũng có dự vào đám rước riêng, rất rực rỡ và long trọng. Vị sư trưởng mặc áo riêng màu đen bóng nhoáng; đầu đội mũ, ngồi trên một cái kiệu có phu mặc quần áo kiểu nhà chùa khiêng. Các sư đi theo liền sau ngài, bận áo cà sa tốt và đẹp; cổ đeo tràng hạt bằng thủy tinh
https://thuviensach.vn
nhiều màu lóng lánh. Trước hôm ấy, có một đạo binh rất nhiều quân lính đến đóng giữa một cánh đồng rộng, đóng đầy cho đến khi lễ xong. Khắp mọi phía có thiết lập nhiều hương án thờ các tướng sĩ đã vì nước bỏ mình và đã đem lại sự tự do cho xứ sở; để thờ cả hình ảnh những tướng giặc có tiếng tăm ngày xưa đã hùng cứ và thống trị các vùng trong xứ. Sáng ba mươi tết người ta dẫn ra đấy những súc vật đã nuôi béo và sẽ mổ để tế thần. Vị sư trưởng đi kiệu ra đấy; các sư đi hàng đôi theo sau; rồi mới đến các quan cưỡi ngựa hoặc ngồi voi, bận triều phục rực rỡ. Quân lính kéo đến rất có thứ tự. Khi mọi người đã đến đông đủ, thì có tin về báo đức vua. Loan giá liền rời khỏi điện, có tất cả đình thần đi theo. Đạo ngự ra đến nơi thì dân chúng hoan hô vang trời; các pháp sư và các quan liền bắt đầu khấn khứa ngay, vua lễ bốn lễ cúng vong linh các tướng quân và các tướng giặc anh dũng. Ngài cầm một cái cung và năm mũi tên bắn các nghịch vương nhà Mạc; xong rồi, họ đốt hương, trầm và dâng lễ cúng; khấn các bậc anh hùng đã quá cố che chở cho nhà nước được bình yên và làm cho tên nào có lòng bội phản, còn sống hoặc đã chết rồi, tiệt đi và không có cách bén mảng đến gần biên thùy nữa. Lễ xong thì bắn súng thần công và ba loạt súng trường. Xong rồi thì quân lính tản mát ra khắp cánh đồng ngồi ăn uống tự nhiên không suy nghĩ xem thịt các vật tế thần có ngon, có chín và có dặm không. Họ ăn uống rất ngon lành, xong rồi ai về nhà nấy, nghỉ ngơi chờ cho rã rượu hoặc đánh bạc vui chơi hết cả buổi chiều. Thế là hết tết và ngày hôm sau các nha, ty lại mở cửa làm việc. Cuối năm trước, ấn tín các sở đã đem khóa cất một nơi; muốn các nha, ty lại mở cửa thì ấn tín phải giao trả viên quan coi giữ.
Hình phạt
Luật pháp cấm người chồng bắt được vợ mình trong nhà người đàn ông khác đang thông gian với vợ mình, không được giết người đàn bà; nhưng không cấm người chồng cắt tóc vợ rồi dẫn nó lên quan: quan bắt người dâm phụ thú nhận tội rồi cho đem vứt vào chuồng voi đã được rèn luyện thành đao phủ thủ. Voi dùng vòi quấn lấy người ấy, giơ lên cao quấn thật chặt rồi
https://thuviensach.vn
quật xuống đất dữ dội đến nỗi người đàn bà nghẹt thở, quằn quại, giãy giụa rồi chết đi; nếu thấy chưa chết, voi lấy chân giày đến khi nào người ấy nát ra thành nghìn mảnh.
Tại các tỉnh không có nhà ngục, nhưng trong nhà quan tỉnh cũng có đủ dụng cụ để cầm giữ tra khảo: xiềng, xích, khóa tay và những dụng cụ bằng sắt khác nữa. Nhưng hình phạt thông dụng nhất là gông; gông làm bằng hai thanh gỗ to và dài như một cái thang, có hai miếng gỗ ngang nối thanh nọ với thanh kia, hai miếng gỗ ngang đặt như hai bực thang kẹp đầu vào giữa không thể nào kéo ra được; phạm nhân phải đeo gông đến ngày tuyên án. Nhưng ở Kẻ chợ thì có nhiều ngục thất cho cả việc hình lẫn cả việc hộ. Ở các ngục này (chứa những phạm nhân can án vào việc hộ?) người ta có thể đi lại và giải buồn được; nhưng những ngục hình... làm dưới đất, không có cửa... chỉ có ánh sáng một ngón nến viên ngục đốt thắp cho và bắt tội nhân đến hạn phải trả tiền; nếu người khốn nạn này không có tiền thì ngục tốt không ái ngại, đánh cho máu me đầm đìa, thừa sống thiếu chết, tội nhân không có ai để nói chuyện và than khổ bao giờ... Chỉ có thân quyến mới được phép nói chuyện với tội nhân thôi, đến báo cho người này biết bản án tử hình và tụ họp lại để dẫn ra pháp trường. Ra đến nơi, tội nhân đã thấy có một bữa ăn sắp sẵn; hình như không cho rằng cái chết rất gần, giờ chết chưa chắc đã đến và hắn ta vài phút nữa sẽ bỏ cõi đời, hắn ta ăn bữa cuối cùng và ngào ngốn thịt thà bày hâu hắn. Đến giờ hành hình, đao phủ thủ hoặc một tên lính nào đấy bảo hắn là đến lúc phải tuân vương mệnh; cứ ngồi sệp xuống đất chẳng xê xích đi đâu, hắn đưa tay cho người ta trói gập ra đằng sau. Xong rồi người ta búi tóc hắn lên đỉnh đầu và chẳng cần theo một nghi thức gì khác, đao phủ thủ cầm đao đến gần và hạ thủ. Các thân vương quý tộc không bị chém đầu như bọn thường dân, lưu huyết là một điều nhục nhã đối với tôn tộc, người hoàng phái, quý phái. Vì thế nên các quốc thích chỉ dùng một cái gậy bằng gỗ hoàng đàn dài ba thước, to vừa phải phang một gậy vào đầu cho chết, còn người quý phái nào bị tử hình thì chỉ bị thắt cổ hay treo cổ chết thôi: Một lối chết danh giá nhất, ít nhục nhã nhất... Bọn trộm cướp trước khi chết bị đem bêu ba ngày giữa một công
https://thuviensach.vn
viên cho công chúng sỉ vả, trên một chiếc xe bò dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời, chẳng có gì che phủ cả, cách hình phạt này nhục nhã nhất đối với tội nhân và rất có công hiệu đối với quần chúng...
Một quốc thích nào đã làm loạn hoặc xui dân làm loạn thì bị kẹp cổ vào hai chiếc gậy gỗ như vào giữa hai bậc thang rồi những kẻ đứng ra hành hình bóp hết sức chặt làm cho phạm nhân nghẹt thở và chết. Muốn thử xem phạm nhân đã chết chưa, người ta đốt hai chiếc đèn, đem hai bàn chân kề sát vào ngọn lửa; nếu tội nhân hơi còn một chút cảm giác thì hai đao phủ kẹp cho đến khi người ấy chết hẳn không cử động được nữa.
Lính đào ngũ bị xẻo mũi; quan binh đào ngũ bị chặt thêm hai bàn chân. Bọn du côn hay sinh sự cãi nhau, đánh nhau bị chặt một, một nửa hay tất cả các ngón tay.
Nhân dịp này tôi kể một câu chuyện mới xảy ra lúc tiên đế sinh ra đức vua đang tại vị thăng hà. Đức Kim thượng ban chiếu muốn rút nửa lương các võ quan và quân lính. Sự cải cách này không làm vừa ý một quan Thái giám có đạo Gia tô, tên là Antoine, cận thần của tiên đế và đứng vào hàng thứ hai các triều thần, được tiên đế biệt đãi vì tài năng và đức tính; viên thái giám này phẫn nộ đến nỗi dám cầm xé tờ chiếu trước mặt nhiều người. Nhiều viên cố vấn được cắt ra để xét tội khi quân, một phần vì ghen ghét địa vị cao sang của viên thái giám, một phần ghét viên ấy có đạo Gia tô, quyết nghị xin chặt một tay viên thái giám. Thiếu quân muốn tha thứ; ban rằng từ lúc tiên đế thăng hà, hình án này là hình án đầu tiên, ngài không muốn trừng phạt một tín thần của tiên đế, một đại thần lương đống của ngài; hơn nữa tiên đế khuyên ngài trong mọi việc nên có độ lượng quảng đại, khoan hồng hơn là nghiêm khắc. Nhưng các quan biết rõ ý vua nhất định xin thi hành bản án và tâu rằng nếu bắt đầu dung túng những kẻ khinh nhờn phép vua tức là một việc nguy hại đến thanh danh của ngài khi dân chúng đã cảm mến ngài và tin rằng ngài là một vị vua công bình chính trực nhất, hơn nữa đem trừng phạt một vị đại thần, ngài càng làm vững chắc uy danh. Sau cùng đức vua cũng không chịu nhận rằng tội ấy đáng phạt,
https://thuviensach.vn
nhưng bảo các quan nể ngài, phạt rút nhẹ đi một nửa. Viên thái giám tưởng chuyện đến lúc này có thể đút lót các án quan, xin đưa cứ mỗi ngón tay là một trăm đồng vàng. Nhưng các quan trót đã xin vua nghiêm phạt lại muốn tỏ rằng mình không vị lợi, cứ y án; và Thái giám Antoine bị chặt đứt nửa bàn tay...
Sát nhân phải giả tử. Không những phải thường mạng lại còn phải nộp cho ngân khố số tiền thuế người chết phải đóng từ năm hai mươi đến năm sáu mươi: tội nhân không có thì họ hàng phải đóng thay; nếu hắn không có bà con, hoặc họ hàng hắn cùng vô sở xuất thì làng mạc phải chịu. Cũng có khi vua giao kẻ sát nhân cho gia đình người bị giết để cho bọn này tự trả thù lấy bằng các thứ hình phạt cho hả cơn giận. Cách đây không lâu đã có người muốn báo thù cho một thân nhân bị chết đã chém bằng búa và băm kẻ sát nhân ra làm nhiều mảnh từ chân lên đến đâu, để hắn chết dần. Cũng có khi nguyên đơn rút đơn kiện ra thì sát nhân không bị tử hình nhưng được chịu một hình phạt nhẹ hơn tùy từng trường hợp. Những kẻ gian tham trộm cướp không bị tội chết vì thế nên bọn bất lương rất nhiều; nhưng khi có chứng cớ thì họ bị nghiêm phạt, quan cũng vậy. Những người bình sinh là người can đảm mà mắc tội tử hình thì chẳng những được vua tha tội chết cho mà lại còn được trọng dụng trong quân đội.
Huyện quan hay xã quan được phân xử những tội nhẹ và kết án khi số tiền bồi thường không quá giá một con trâu hay một con bò; đền bằng thóc gạo cũng được nhưng phải trả ngay vì cứ để lần lữa thì lãi mỗi ngày một nặng.
Bằng chứng không đủ cũng có cách thẩm vấn nhưng không có lệ đem treo. Tội nặng thì phạm nhân bị tra tấn rất độc ác, sắt đem nung đỏ rồi ép lên mạng mỡ và bụng, nhưng có người gan không chịu cung khai gì cả.
Tang lễ Thanh Đô vương Trịnh Tráng
Thanh Đô vương Trịnh Tráng mất hôm 26 tháng Năm dương lịch năm 1657, thọ 82 tuổi và cầm quyền chính được 37 năm. Được tin phụ vương
https://thuviensach.vn
mất, thế tử là Tạc (Tây vương) và các vương tử em ngài liền thay đồ tang và sang ngay vương phủ. Trong chính điện ngày thường vẫn cử hành những lễ lớn, thi hài Thanh Đô vương[20] đặt trên một cái giá bằng gỗ thơm và quý, giống hình cái ngai bình nhật ngài vẫn ngự, kiểu rất hoa mỹ tráng lệ; giá lót dạ vàng, hai đầu không buông thông xuống đất nhưng kéo lên che kín cả thi thể ngài. Thế tử và các vương đệ, các vương điệt và các người thân thích của Trịnh phủ, ăn mặc sô gai, đầu đội một vòng chạc gai, quỳ lễ khóc bên cạnh giá, nhắc lại những công ơn mà lúc sống ngài ban cho mọi người, vương phi bận áo tang màu trắng và mình phủ một tấm mạng giai, chờ một đại quan đến cạo đầu cho thế tử, các vương tử và các vương thân; lễ thế phát cử hành theo lệnh của vương phi, có ý nghĩa là để biểu lộ lòng kính mến và sự đau thương của con cháu đối với chúa. Nghi lễ hôm đầu chỉ có thế.
Sáng hôm 28 mặt trời vừa mọc, thế tử cùng các vương tử và các vương thân, vẫn mặc tang phục ngày hôm trước[21] sang vương phủ để rước linh cữu chúa từ đại điện sang một gian điện khác. Linh cữu đặt trên một chiếc bàn thếp vàng, bàn phủ đầy hoa thơm; hương thơm của hoa lẫn với hương thoi đốt làm sực nức gian phòng đầy ánh sáng của bao nhiêu đèn bạch lạp. Các hiếu chủ chờ đến đầu giờ thứ hăm ba (giờ Tý) đã được các nhà chiêm tinh học chọn và cho là tốt bắt đầu rước linh cữu vào tỉnh Thanh Hóa là nơi nhà chúa phát tích và đã được chọn làm lăng tẩm của Trịnh gia.
Ba vị đại thần cao vào bực nhất được cử ra để hộ tống linh cữu trong bốn ngày đường cách kinh đô; ba quan khâm mạng, trước khi nhận cái vinh dự mà (tiên) chúa ban cho, hứa trước các triều quan sẽ hết sức làm để tỏ lòng tôn kính tiên chúa, để khỏi phụ lòng hiếu kính của tân chúa và các vương đệ ngài; để cho tang lễ, nếu không xứng được với công nghiệp của tiên chúa thì cũng tỏ rõ được sự tận tâm, lòng kính cẩn và ý tôn trọng của họ đối với một bực chúa có nhân từ và độ lượng. Ba ông ấy còn tuyên thệ là hết sức giữ kín không cho ai biết chỗ họ phải đem an táng tiên chúa. Lễ tuyên thệ vừa xong thì một hồi trống rung để báo hiệu đám tang bắt đầu đi. Đám dài lắm, gần một dặm đường từ vương phủ ra đến sông (elle occupait pres
https://thuviensach.vn
d’une lieue de chemin qu’il y a du Palais à la rivière). Cấm binh đi đầu, người nào mình cũng mặc một chiếc áo chùng bằng vải tốt màu lam sẫm, đầu cũng đội một cái mũ cùng một thứ vải, cùng một thứ màu với áo. Một vạn rưỡi lính, vác súng hoặc cầm kích đứng thành hàng hai bên dọc đường - đường rất rộng - như hàng rào để giữ trật tự vì dân gian đi xem đông lắm. Một cơ lính mặc áo trắng tay cầm gậy sơn đến đóng ở các đầu phố không cho người qua lại chỉ trừ những vị có quyền hành thôi.
Trong đám rước trước nhất ta thấy ở trong vương phủ ra, một cái cột đường kính đo được sáu gang (palmes) và cao sáu mươi gang, trên đỉnh có đặt ba quả cầu. Thân cột phủ một lần lụa quý, có chữ vàng chữ bạc, thuật sự nghiệp của Thanh Đô vương. Cột đặt lên trên mấy bánh xe có người điều khiển; muốn cho cột khỏi nghiêng về một bên nào hoặc đổ ngã, có nhiều người có tiếng là thành thuộc, tay cầm dây, có lúc thả chùng, có lúc căng thẳng làm cho cột được thăng bằng hình như đặt trên một cái bệ chắc đứng im chớ không phải đặt trên một cái xe đang tiến nữa.
Sau chiếc cột ấy, có một chiếc xe nữa gần toàn bằng vàng, trên có đắp hình nổi một thành thị có tường xây bốn chung quanh có nhiều đường rộng và pháo đài vây bọc. Rồi đến một cái xe thứ ba trên đặt một chiếc ngai vừa đẹp và sang vừa đắt tiền và lộng lẫy bằng vàng và bằng ngà; trên ngai đặt vương miện của tiên chúa. Các bảo vật trên đấy đều để hở cho dân chúng xem. Phường bát âm có nhiều nhạc khí không hát, nhưng hòa theo lời than vãn và tiếng thở dài của tang quyến và những người thương khóc Thanh Đô vương. Sau phường bát âm là các quan và các thân vương, mặc áo tang màu trắng thô, cứng như áo ráp thầy tu (cilice) may không phải bằng vải, nhưng bằng vỏ và lá cây bọn dân quê nghèo vẫn thường dùng. Bọn thái giám và các võ quan cao thấp của chúa được đi gần nhà táng phủ trên áo quan và có người khiêng cho đến lúc hạ huyệt. Các quan và các thân vương khác đi liền trước “đòn” (brancard). Thế tử và các vương đệ đi sau “đòn” vẫn mặc thứ quần áo tôi đã tả trên kia, đi chân đất, đầu đeo tóc giả và cắm râu giả, màu trắng, tay chống gậy, đi lom khom như các cụ già cao niên, yếu ớt khổ sở và không có người nương tựa, hình như để tỏ rằng tiên chúa
https://thuviensach.vn
mất đi tức là họ mất hết cả hy vọng và họ không nhờ cậy được vào ai nữa. Số những đàn ông các quan, người nhà của chúa, đi đưa đám không dưới một nghìn; các công chúa, các phu nhân trong vương phủ, vào số tám chín trăm người, trùm thứ mạng và mặc thứ áo tôi đã nói ở trên, đi theo liền sau đấy. Cuối cùng là bốn nghìn thân binh mang khí giới. Ra đến bờ sông thì mọi người đứng lại nghỉ cho hết mệt.
Thuyền rồng của chúa đã bỏ neo sẵn và được trần thiết long trọng hơn mọi ngày; áo quan mang xuống thuyền thì một loạt súng thần công và súng trường bắn. Mui thuyền lợp bằng vải dệt bằng vàng, sàn thuyền phủ thảm Ba Tư đắt tiền và quý giá; bọn phu thuyền mặc những thứ hàng dị kỳ và lộng lẫy. Hai chiếc thuyền khác, từ mũi đến lái, thếp vàng cả bên trong lẫn bên ngoài ghé sát vào bờ để chở chiếc thứ nhất cảnh thành thị đắp nổi; chiếc thứ hai, cái nhà táng.
Sửa soạn xong thì có hiệu cho thuyền nhổ neo; ai có phận sự trên thuyền đều lên chỗ mình làm và cầm lấy mái chèo bơi; bắt đầu bơi từ từ và đúng dịp để cho thế tử và các vương đệ được tròn lòng hiếu thảo với tiên vương. Đợi cho thuyền đi đến chỗ khuỷu sống khuất đi, thế tử và các vương đệ mới trở về phủ. Thế tử cùng em ngài lúc trước đã phải giẫm chân xuống nước và xuống bùn rất lâu khi đó buồn rầu lặng lẽ trở về cung. Ngài không nói năng với các em và các quan đi đưa về, người nào mặt cũng rầu rầu.
Dân gian phải để tang chúa 27 bữa, trong thời kỳ này không ai được mở tiệc ăn uống, cưới xin hay kiện tụng. Nhà chúa còn ban lệnh trong hạn ba năm không được vào đám hội hè gì long trọng, cấm ngặt đờn ca, múa hát, diễn kịch hoặc cuộc vui tương tự.
Nhưng đám ma đưa như thế chưa phải là đã hết; đấy mới phác họa một điều dự định lớn lao người ta hoãn lại để đến khi đem thực hành được thêm phần long trọng. Bao nhiêu thợ khéo đều làm; chi phí có tốn kém lạ lùng thì đã có dân gian vui lòng đóng góp thêm vào để làm cho đám ma tiên chúa được thêm phần rực rỡ. Sau đây tôi sẽ nói rõ ràng.
https://thuviensach.vn
Tây vương Trịnh Tạc và các gia thần tin rằng có nhiều lý lẽ bắt buộc ngài còn phải làm cho đám ma của tiên chúa được lộng lẫy và tráng lệ hơn lúc đầu. Muốn làm hiển danh phụ vương và hy vọng rằng sau này còn có những cuộc vinh diệu hơn và nhiều sự diễn tả rực rỡ hơn. Trước hết ngài chọn một chỗ có bề thế và vị trí xứng đáng với tang lễ tiên vương; ấy là một hòn đảo nổi ở giữa sông, dài ba lý từ bắc đến nam, rộng hơn một lý, chu vi được chừng bảy, tám lý, rất đẹp đẽ và thuận tiện. Ngài cho vạch lên cát đồ án những đài kỷ niệm sẽ phải dùng nhiều thợ đủ các nghệ và đủ tài khéo dựng lên đấy mà không bỏ hẳn ý kiến lúc ban đầu là xây dựng cả một thành phố mới, một triều đình mới có đủ vật dụng của một kinh đô. Việc xây dựng đến 28 tháng Chạp dương lịch xong, bọn thợ thuyền không thích gì hơn là được cái vinh dự đã đem tài hay nghệ khéo giúp chúa. Rồi người ta xem lịch chọn ngày hành lễ, muốn cho dân gian khỏi mất dịp xem từ một quang cảnh tráng lệ và mới lạ như thế này, từ hôm trước người ta đã cho phép dân gian vào dạo chơi và xem xét cẩn thận công cuộc trọng đại này. Thành quách hình vuông, xây trên cát, theo bờ con sông bao bọc lấy hòn đảo chung quanh. Về phía Nam, có một cái cột cao lạ lùng đặt trên những cái bệ lớn vô kể; bệ có phủ vàng quỳ, đỉnh cột có đặt ba quả cầu cũng bằng vàng, thân cột cũng có quấn vải dệt bằng vàng và treo nhiều cờ, biển bằng gấm, vóc đắt tiền gió thổi làm phấp phới luôn luôn; trên mặt các cờ biển này có đính những dòng chữ bằng vàng, bạc ca tụng công danh và sự nghiệp tiên vương. Hai bên cột có tượng 2 vịt bầu cao lớn mang cung tên. Cách đấy ít nhiều, đi lên phía bắc, có một con đường rộng trên có nhiều đội kỵ binh dàn thành thế trận và nhiều tàu tượng có đóng bành đẹp và trên lưng có đặt những đài thếp vàng trong có quân sĩ mang khí giới và mặc những binh phục đắt tiền và lạ mắt, ở khu trung ương, có dựng 21 cái tháp vào 3 chỗ khác nhau, tháp giữa cao nhất, to nhất, được chạm trổ, nạm vàng dát bạc nhiều nhất, tháp này hình vuông và ít ra cũng cao 12 sải, mỗi mặt rộng 2 sải rưỡi. Tháp đứng được là có nhiều xà bắt vào nhau; những xà này có dán giấy sơn và cắt ra từng mảnh thành nhiều hình đặt cân đối với nhau rất đẹp, mỗi một tháp cao 7 từng, mặt nào cũng có cửa rộng soi sáng bên trong có bày rất nhiều tượng các tướng sĩ thuộc hạ của chúa bấy giờ, tướng
https://thuviensach.vn
nào cũng mặc sắc phục đẹp và xếp theo chức tước của người thực. Lên quá vùng tháp này, ta thấy hai lâu đài làm ngạc nhiên khách đi xem và có trang hoàng bằng những hình nổi. Tòa lâu đài quý giá nhất và tráng lệ nhất hơn tòa lâu đài kia nhiều vì mái và tường có phủ gấm ở đâu bốn góc và nóc có chồng năm quả cầu bằng vàng lúc có mặt trời làm mắt chói lòa không chịu nổi. Lâu đài thứ hai tuy bé hơn và không đẹp bằng nhưng cũng không thua về kiến trúc và mỹ thuật; các hình bằng giấy trang kim, các hình bằng vải nhuộm đủ các màu trước hết đem cắt ra thành nhiều dải, dải ấy cắt ra thành nhiều mảnh, sau lại cho những thợ chuyên môn chắp vá khâu lại thành những hình đẹp và làm lạ mắt khách đi xem đến nỗi họ không rời bước đi được và tưởng rằng không có gì đẹp đáng xem hơn. Muốn từ các xóm ngoài này vào thành chính đã có ba cửa to; thành có chừng dưới bốn trăm nhà bằng gỗ, có cái sơn màu, có cái thếp vàng, xếp rất cân xứng và khéo léo (proportion et grâce) làm ta tưởng giá đem sang Âu châu thì quy mô và kiến trúc này còn được quý chuộng hơn, vì dân bên này không hiểu thế nào là cân đối. Nhà không làm liên tiếp nhau, nhưng cách nhau; (ở khu giữa) các nhà đối diện nhau và cách đều nhau để chừa ra ở giữa một khu trống làm con đường chính cuối đường, cung thành hiện ra thành một cảnh làm người ta say mê ít khi được thấy. Những nhà khác dựng lên khắp chỗ bao bọc lấy nhiều con đường ngoằn ngoèo và dùng làm những khu phụ thuộc của cung thành. Bên trong, mỗi nhà đều căng toàn lụa nguyên tấm hoặc lụa có điểm hoa vàng. Gian nào cũng có hành lang chạy chung quanh, và hành lang có bao lơn bằng đồng, giống những đồng tiền lưu hành trong xứ và giống những đồng tiền demi bajoques bên Ý Đại Lợi ta. Nhà của trưởng tử[22]tên là Tho còn sang hơn những nhà này vì ngài muốn bao lơn không những chỉ có đồng nhưng ở giữa còn đeo thêm nhiều vòng bạc và trên đầu có đặt nhiều hòn tròn bằng bạc; sự xa phí này, không những chỉ làm cho nhà xán lạn và tráng lệ hơn lại còn tỏ ra rằng chủ nhân hào phóng và nhân công tài khéo vì ông này, muốn cho nhà khỏi gió mưa, còn dùng bạc lợp lên cả mái (nếu nhà không dựng lên nhiều cột lớn thì không bao giờ chịu nổi một sức nặng quá chừng thế được).
https://thuviensach.vn
Người ta còn khen ngợi một tòa nhà nữa do một viên thái giám dựng lên gần tòa nhà nói trên, trong có giăng gấm, vóc mua bên Tàu thêu hoa và hình vàng, quý giá và dệt kỹ người Đàng Ngoài chưa bao giờ được thấy. Ở ngay lối vào nhà nào cũng có những buồng ngăn hoặc gian dài bịt kín trong có chứa chừng ba bốn trăm bao gạo, mỗi bao nặng từ một trăm đến trăm hai mươi cân ta. Các quan trấn thủ các tỉnh gửi về dâng các phẩm vật: hoặc ngựa đã thuần thục có yên cương, hoặc rất nhiều bò, trâu; các quan trọng nhậm miền thượng du gửi về dâng sơn dương, hươu nai, hoặc hổ, lang chó hoặc mèo rừng còn sống, không kể các giống chim rất quý; đã bắt được các súc vật này đều đem nhốt vào một chỗ, trong cung thành mới, mỗi loại vào một nơi.
Cuối cùng thì đến tòa đại điện mà thế tử dựng lên để thờ tiên vương giữa một công viên rộng để chứa số dân gian ở khắp các nơi về xem một quang cảnh rất hiếm và rất lạ. Tuy vậy tòa cung điện này cũng không rộng bằng tòa cung điện mà sinh thời tiến vương vẫn ngự, tuy hai tòa cũng một kiểu và chỉ có khác nhau về to rộng. Vào bên trong các cửa chạy dài chung quanh thành hành lang có rất nhiều cột, nhiều nhưng không hỗn độn, trên có nhiều biển hiệu và câu đối bằng chữ nho.
Gần cung, có một cái bệ phủ vàng, trên có rải nhiều hoa và đốt nhiều hương lúc nào cũng nghi ngút. Trên bệ có đặt một cái ngai, toàn bằng vàng và bằng ngà. Áo bào kiểu rất hiếm và lạ, khéo hơn kiểu point d’Espagne[23] và các y phục kỳ lạ nhất bên Âu châu, được đem đặt lên trên bệ, tỏa xuống cả đến chân ngai; có cả chiếc mũ miện đặt lên chỗ cao nhất chiếc ngai. Chỗ ấy có hai chữ đại tự tỏ rõ ý kiến của thế tử đối với tiên vương có nghĩa là “luôn luôn có mặt” (tanquam presenti).
Bây giờ chỉ còn xem đoạn cuối của tang lễ, những nghi lễ cử hành và những vai trò có mặt trong đoạn này.
Các việc đã cắt đặt theo thứ tự đã định và tôi đã nói ở trên; để cử hành nghi lễ cuối cùng trong tang lễ, ba vạn rưỡi người mặc tang phục, đi hàng năm từ vương phủ đi ra, hồi đêm 29 tháng Chạp, kẻ bồng súng người cầm
https://thuviensach.vn
thương, tiến về phía thành phố mới dựng. Đến nơi thì họ chia ra làm nhiều đội, đứng vòng chung quanh thành và giữ trật tự trong đám dân gian từ khắp nơi đến xem. Sáng hôm sau, Tây vương cùng bốn vương đệ, đi dưới hai mươi bốn chiếc tàn bằng lụa quý có dệt vàng, qua một cái cầu mới dựng từ chỗ phủ ngài ở ngoài thành Hà Nội (trên bờ sông) sang đến bờ bên kia hòn đảo tôi đã nói ở trên. Đi theo ngài có tất cả các quan chức thân thích của Trịnh gia, tất cả các thái giám, các vương phi, công chúa và bốn nghìn vệ binh bên sườn có đeo gươm to chuôi vàng hoặc bạc.
Lúc Tây Vương sắp đến tòa đài chính đã tả trên kia, thì các vương đệ và các quan đứng lại thành hai vòng hình bán nguyệt, giãn ra để ngài tiến lên một mình giữa hai hàng lính đứng im phăng phắc. Ngài đến gõ cửa đài thì có một viên quan còn trẻ tuổi giọng rất tốt, cất tiếng buồn rầu và thê thảm lên khấn thần coi giữ đài này ứng nghiệm những lời cầu khẩn đại ý như sau đây.
“Cách đây mấy tháng, một vị chúa rất giàu, rất hiền và rất mạnh lìa bỏ cõi đời này để lên nơi bất tử. Ngài để lại tất cả đất đai cho con cháu không giữ lấy một đồng tiền nhỏ để tiếu dùng. Bây giờ có tin ngài hiện như trơ trọi đi lang thang trong một xứ lạ, không binh lính để chống giữ, không ngựa voi để tự vệ, không kẻ hầu người hạ để giữ địa vị của ngài, không lầu các nguy nga để làm nơi tĩnh dưỡng. Ta nghe thấy nói ở đây có tòa lâu đài tráng lệ nguy nga nên đến để điều đình và ngỏ rõ ý thích mua; nếu chủ nhân muốn nhượng lại cho ta thì sẽ được lợi nhiều vì đòi bao nhiêu ta cũng trả và ta còn mang ơn riêng nữa, vì giá càng đắt càng tỏ rõ ý phóng túng của ta và lòng hiếu thảo của ta đối với tiên chúa”. Viên quan trẻ tuổi đọc xong thì bên trong đài có tiếng trả lời ra to và sang sảng ai ở ngoài cũng nghe được dễ dàng cả: “Chúng tôi đang được yên vui sung sướng, lúc chúng tôi định xây dựng tòa lâu đài này để dâng một vị chúa có oai quyền to và công đức lớn. Tôi vui lòng nhường lại tòa lầu này nếu ba vị kia không phản đối”. Thế tử và các vương đệ liền ra cửa đông đài này, cho tuyên đọc lời ca trước: người ở trong cửa đông cũng trả lời như người cửa bắc; các vương tử sang cửa nam rồi sang cửa tây đến đâu cũng hỏi và cũng được trả
https://thuviensach.vn
lời như trên. Hai bên đã ổn thỏa về giá, viên quan trẻ liền hô: “Thành và cung thuộc quyền chúa sử dụng”. Tức thời các nơi đều tới bắn một loạt súng lớn và súng nhỏ, dân gian đều hò reo chào mừng tân chúa. Xong rồi tân chúa liền ngự vào cung mới vẫn có đủ các quan tùy giá theo thứ tự và những nghi tiết kể trên.
Được công nhận là chúa tể đô thị mới rồi thì khi đến cửa lớn đại cung ngài được người ta rước vào tế thất là cho sẽ cử hành tang lễ. Ngài đến quỳ giữa, hai bên có hai quan chủ lễ, nghe đọc bài văn tế kể lại sự nghiệp và công danh của tiên vương. Mọi người đứng yên, im phăng phắc, mắt và tay không đưa đẩy nhúc nhích, không dám (đằng hắng) khạc nhổ. Tân chúa, các vương tử, các quan đều vận y phục như hôm rước linh cữu tiên vương ra bến quỳ nghe đọc xong bài văn tế. Xong rồi ngài đưa mắt đầy lệ, nhìn gian điện ngài tặng tiên vương.
Vua Lê vì địa vị là vua chính danh, không thể thân đến dự lễ được, có cử một quan đại thần (le grand chancelier) đến thay, ông này thay vua dự vào đủ các lễ, lúc nào cũng đứng hàng trên và đi trước cả tân chúa.
Tây Vương và các vương đệ theo đủ mọi lệ đối với tiên vương giữa những tiếng kèn tiếng trống, tiếng chiêng và tiếng địch đinh tai nhức óc, các thân thích của nhà chúa có chức tước vào số bốn nghìn lại có thêm sáu trăm viên quan khác đều phủ phục hành lễ như các vương tử.
Cụ linh mục trưởng xứ đạo ta ở đây cũng đỉ chân đất đội mũ đen, mặc áo đen theo liền sau các ngài, quỳ gối lễ, làm đẹp lòng tân chúa lắm.
Sư trưởng và các vị sư bận áo đỏ, đầu đội mũ ni đến giữa điện đọc kinh rồi rút lui.
Sau cùng các văn quan và võ tướng lần lượt theo thứ bậc và nghi tiết vào lễ.
Tân vương, phải đứng lâu, có khi lại phải quỳ lễ, không được ngồi nghỉ phút nào, rất mệt nhọc, sắp sửa ra về thì có sứ của các chúa Bao, Ciucanghe và Aua (Thuận Hóa) đến dâng đồ phúng bằng vàng, bạc nến và tỏ lời ai
https://thuviensach.vn
điếu của các chúa họ tự coi như là phụ thuộc vào hàng chư hầu của tiên chúa: Tân vương còn phải đang ở lại để nhận lệ và đáp lễ các quan sứ.
Đến một hai giờ chiều tân vương mới ngự về phủ đủ các quan tùy giá như lúc đi.
Đến tám giờ tối (đúng vào giờ chúa về chầu trời hồi tháng Năm) thì người ta châm lửa đốt tòa thành lộng lẫy nguy nga ấy, sau khi đã cho dàn lính ra canh khắp các ngả để dân gian khỏi làm lộn xộn và để ngăn không cho một ai được bén mảng đến chỗ lửa chưa lan đến.
Lửa bắt đầu cháy ở các đài, bốn đài chính hình dung của bốn phương trời bị kéo giật đổ xuống đất, kéo đến nỗi ta tưởng tự nó sụp đổ.
Các của cải mà lửa không đốt cháy được như vàng, bạc, gấm vóc (?) quý giá, các vật dụng đắt tiền còn lại thì tân chúa chia ra nhiều phân đem phân phát cho các vệ binh, các thị thân và các binh sĩ nghèo (các ông này còn được thưởng thêm nhiều nữa).
Thường dân chỉ dùng giấy vàng giấy bạc hoặc vải thô thường thôi: còn trong đám tang Thanh Đô vương thì dùng vàng bạc thật, gấm vóc hoặc hàng thêu bằng chỉ vàng chỉ bạc. Chi phí chừng hơn một triệu trong tang lễ chúa Thánh là tên mà họ đặt cho tiên chúa Trịnh Tráng.
https://thuviensach.vn
V. JEAN BAPTISTE TAVERNIER
Jean Baptiste Tavernier (1605 - 1689) là một lữ khách và cũng là một thương nhân buôn ngọc người Pháp vào thế kỷ XVII. Tavernier là thương nhân du lịch hơn 120.000 dặm bằng tiền của ông ta. Trong khoảng từ năm 1630 đến 1668 ông đã thực hiện 6 cuộc hành trình đến Ba Tư và Ấn Độ. Vào năm 1675, Tavernier theo lệnh của Louis XIV - khách hàng quen của ông ta, đã cho xuất bản Les Six Voyages de Jean-Baptiste Tavernier (Sáu cuộc hành trình, 1676)[24]
Bàn qua về Đàng Ngoài (Royaume de Tunquin) và tại sao tác giả lại biết xứ ấy
Xứ Đàng Ngoài từ lâu lắm không được các nước Âu châu biết đến; đôi khi có người viết sách du ký thì lại không biết rõ xứ này, hoặc trí nhớ không được tinh tường chắc chắn cho lắm. Nói thế không phải để chỉ trích họ. Tập sách tôi đem xuất bản đây là nhờ em tôi (chuyến thứ hai sang Ấn Độ, tôi đem em tôi theo; từ Batavia, Bantamt, hoặc Achem[25] nó có qua Đàng Ngoài mười một mười hai chuyến) giúp tôi khi ở Batavia và Bantam, tôi còn được gặp nhiều người Đàng Ngoài sang buôn bán, họ có chỉ dẫn cho tôi nhiều điều về xứ họ; đi với những ông này có nhiều nhà sư trông nom việc cúng lễ và nhiều văn nhân để dạy dỗ con cháu các ông lái, vì các ông này đem gia đình theo; các tăng nhân và nho sĩ ấy đã vui lòng giúp tôi biết rõ xứ Đàng Ngoài. Trái lại tôi cũng nói cho họ hiểu nền chính trị nước Pháp ta thế nào, tôi đem bày cho họ xem tập địa đồ thế giới, nhiều địa đồ riêng từng vùng và chỉ cho họ hiểu mặt đất sắp đặt thế nào và có những nước nào. Họ hoan hỉ lắm.
https://thuviensach.vn
Đọc những tập du ký này độc giả vui thích nhất khi biết chắc rằng sách viết đúng sự thật và tác giả thành thực, không có ý đánh lừa người đọc. Em tôi vốn dĩ là người táo bạo hay bon chen, lại thích du lịch như tôi; nên lúc ở Ấn Độ nghe người ta đồn ở xứ Đàng Ngoài có nhiều sản vật lạ, quyết định sang ngay, nhân nó lại có khiếu học các thứ tiếng rất mau, nó biết ngay được tiếng Mã Lai là thứ tiếng được các nhà thông thái trong những vùng này thông dụng như tiếng La tinh bên Âu châu ta. Nó được rõ rằng bên xứ ấy tơ lụa, xạ hương và nhiều hàng hóa bán rẻ hơn mọi nơi, trong việc buôn bán người ta còn trọng sự tín thực. Thăm hỏi xong rồi nó sửa soạn một chiếc thuyền và nhờ chiếc này các lộ trình của nó đều may mắn cả.
Bao giờ nó cũng mang theo trong người nó một số tiền khá lớn và bao giờ nó cũng có sẵn ít nhiều đồ vật nho nhỏ lạ mắt để làm quà cho Quốc vương và các vị Đình thần (vì ở các xứ Đông phương, không nên đi tay không vào bệ kiến các vua chúa hay ra mắt các đại thần bao giờ). Nhờ vậy nó được tiếp đãi tử tế khi nó mới bước chân đến đất này; viên quan Thương chính nó lên chào đầu tiên và được nó tặng một chiếc đồng hồ có quả nặng (hor loge à poids), một đôi súng tay và hai bức tranh mỹ nữ, lên báo tin nó đến cho đức vua. Ngài truyền lệnh cho nó vào triều kiến. Tại triều, nó làm cho mọi người ngạc nhiên sao lại có một người đi khỏi quê hương xa thế, mà lại nói tiếng Mã Lai giỏi như thế. Đức vua tiếp đón nó rất ân cần và vui lòng thu nhận những phẩm vật nó dâng tặng: một thanh gươm có chuôi, cán bằng vàng nạm ngọc hồng và ngọc bích, lưỡi rộng hai ngón tay, chỉ mài sắc một bên như kiếm gươm bản xứ; một đôi súng có bịt bạc; một yên ngựa kiểu Ba Tư thêu chỉ vàng chỉ bạc có dây cương; một chiếc cung có tên và ống đựng; sáu bức tranh mỹ nữ cùng kiểu với những chiếc nó đã cho viên quan Thương chính, những phẩm vật này làm đẹp lòng đức vua lắm. Ngài rút gươm ra khỏi bao để ngắm nghía cho kỹ; một hoàng tử cũng cầm thử xem có vừa tay không rồi đứng vào thế sắp chém địch thủ một nhát; hoàng tử đứng rất đẹp nhưng theo lối bên này, nên em tôi có xin phép đức vua chỉ cho ông hoàng hiểu cách đánh gươm ở bên Pháp. Đức vua rất vui thích (vì nếu độc giả cho phép tôi nói rõ về em tôi, thì tôi xin nói thêm rằng thân
https://thuviensach.vn
hình nó rất đẹp, rất cân đối và trong các phòng đấu kiếm nó không thua ai bao giờ và hồi niên thiếu nó có theo học các trường dạy đấu kiếm và nó đã không phí thì giờ).
Đấy lần đầu tiên nó được vào bệ kiến vua xứ Đàng Ngoài như thế; nó có qua lại xứ ấy nhiều bận và mỗi bận nó đều được biệt đãi thêm: nó được lòng đức vua và các đình thần, nhất là vì nó thích đánh bạc với các ngài; tính lại liều, có một lần nó thua hơn hai vạn écus[26]. Nhưng đức vua vốn tính quảng đại, không muốn nó thiệt và có đền bù cho nó nhiều.
Nó đã ở lâu năm tại xứ Đàng Ngoài, được ra vào chốn triều trung, lại quen nghề buôn bán trong nước, cái gì nó cũng tò mò, nên tôi đã tra cứu tập ký ức của nó để viết cuốn du ký này. Nhưng tôi có thể nói rằng tôi cũng có dùng những điều tự tôi ghi chép, tôi đã tiếp chuyện nhiều người Đàng Ngoài sang buôn bán bên Batavia và Bantam và đã khoản đãi họ để biết thêm nhiều phong tục, nghi lễ của họ. Họ cũng ước ao tôi đem phong tục và nghi lễ nước ta nói cho họ nghe, họ thích lắm. Bên họ cũng như bên ta, muốn vào hàng quý phái phải có chiến công rực rỡ, phải có tài điều đình ngoại giao hoặc đã làm được một việc gì to tát, ích quốc lợi dân, và học hành giỏi giang có thể giữ được những chức cao trong ngạch tư pháp, hành chính và trong hội đồng cơ mật của vua.
Thổ sản xứ Đàng Ngoài
Xứ này không có lúa mì, không có nho, nhưng có rất nhiều lúa là thực phẩm của các dân xứ này và một phần lớn Ấn Độ và Nam Dương; gạo còn dùng để nấu nước uống và rượu mạnh.
Có nhiều cây và quả ngon, bên ta không có: như dừa lớn nhất châu Á, quả to như đầu người, vỏ cứng, cùi trắng như tuyết, bùi như hạnh nhân, mỗi quả đựng ước chừng được hai cốc to nước uống rất mát và rất dễ chịu. Ôi giống cây nguyệt quế (? laurier) và có hai loại: một loại quả xanh lòng đỏ, một loại quả vàng lòng trắng quý hơn, hai loại trong thịt đều có hột nhỏ hơn hột lựu; ăn xanh thì làm săn dạ, ăn chín trái lại ổi làm giãn ruột ra, ổi
https://thuviensach.vn
trước không có ở đấy nhưng từ khi đến lập nghiệp ở Áo Môn người Bồ Đào có mang sang và ổi nảy nở ra nhiều lắm. Đu đủ quả hơi có liên lạc về hình thức với một thứ dưa, vị rất ngon. Cây cau mọc thẳng và cao như cột buồm, trên ngọn mới có lá trông như mũ miện; quả như quả nhục đậu khấu (noix de muscade) nhưng tròn hơn; thổ dân đem bổ ra, nhai với trầu không và vôi cho răng sáng, môi đỏ và hơi miệng thở ra khỏi hôi. Vả có hai thứ: một thứ khác bên ta, quả dài như ngón tay. Còn có một thứ cây nữa, tựa như cây liễu, họ gọi là cây thuốc súng (? arbre à poudre), gỗ đem đốt thành than, than đem làm thuốc súng dùng vào việc trận mạc. Cây... (jam boger) rất cao có nhiều quả to như quả bí, lắm hạt như hạt lựu, rất ngon và mát nên dân đây hay ăn vào những hồi nóng bức.
Trên các đường cái còn nhiều thứ cây to giồng để lấy bóng mát cho khách đi đường; có những cây to mà bóng có thể che hai ba nghìn người: khi cành to trổ ra khỏi thân cây được chừng mươi mười hai thước thì có nhiều cành nhỏ trồi ra khỏi những cành to ấy đâm thẳng xuống đất mọc rễ và nâng đỡ những cành lớn; có cành còn dài đến hơn ba trăm bộ; và cành nọ đâm xuống đất cách cành kia từ mười hai đến mười lăm bộ. Quả to như hột dẻ, da đỏ nhưng trong chỉ có rặt những hột như kê: chỉ có dơi ăn những quả ấy và làm tổ trên ngọn cây đa thôi.
Dơi to như con gà con, cánh dài đến một thước rưỡi không đậu trên cành như các thứ chim chóc khác, nhưng mỗi cánh có bẩy tám cái móc móc vào cành, đầu quay xuống đất, ta có dùng súng bắn, nó chết nhưng vẫn cứ bám lủng lẳng như thế làm ta đứng xa tưởng là những quả lê còn treo trên cành. Người Bồ Đào thích ăn ragout dơi lắm; giá có bảo họ bỏ gà ăn dơi họ cũng chịu vì thịt dơi trắng nõn và khi còn non, ngon lắm. Người Bồ Đào có mời tôi ăn thịt dơi hai lần; nếu họ không bảo tôi trước thì tôi không phần biệt được với thịt gà.
Nhân nói đến dơi tôi cũng nói qua về yến là một giống chim làm tổ trên bốn hòn đảo đề A, B, C, Đ thuộc về Đàng Trong, trong tờ địa đổ của quyển sách này. Yến to như con nhạn và dùng một chất không mờ và cũng không
https://thuviensach.vn
trong để làm tổ; chất ấy lớp nọ chồng lên lớp kia như các bẹ hành; tổ yến ngâm vào nước ấm thì tan, và đem nấu thì có đủ mùi thơm của các gia vị ở Đông phương. Tổ yến đem bán khắp các miền Ấn Độ, Nam Dương, sang mãi tận bên Hòa Lan và nhất ở Đàng Ngoài. Tôi có đem một ít về biếu các nhà quyền quý bên ta và ai ai cũng công nhận là tổ yến đem chế vào các món ăn thì không có gia vị nào bằng.
Kề bên bốn hòn đảo A, B, C, Đ còn năm hòn đề 1, 2, 3, 4, 5 sản xuất ra nhiều ba ba ăn ngon lắm; dân Đàng Trong và Đàng Ngoài khi được mời đi ăn khách mà trong tiệc không có món ấy thì vẫn cho là chưa được quý trọng; họ đem muối ba ba rồi tải ra ngoại quốc bán; hai xứ đánh nhau một phần cũng vì nguồn lợi ấy, tựa như người Anh Cát Lợi và người Hòa Lan tranh giành nhau trong việc đánh cá mòi (hareng). Ở đây còn có dứa và cam, cam có thứ bé hơn quả mơ, có thứ to hơn cam Bồ Đào, nhưng cả hai thứ cùng một vị; chanh có hai thứ: một thứ xanh, một thứ vàng, ăn chua hại tì vị lắm nhưng dùng để đánh đổ thau, đồ đồng, đồ sắt và các kim khí khác trước khi đem mạ; tẩy vải lụa cũng dùng như vậy, trước khi đem nhuộm, nhất là lụa. Chanh còn dùng để giặt vải lụa cho trắng ra và làm sạch các vết bẩn; ở Ấn Độ người ta dùng chanh để chuôi các vải bông cho thật trắng.
Tơ lụa sản xuất rất nhiều ở Đàng Ngoài. Người Hòa Lan, hễ đâu có lợi cũng lần mò đến, mỗi năm đến đây buôn rất nhiều tải sang Nhật, khác với hồi trước họ phải sang tận Ba Tư, Bengale và Trung Hoa. Bây giờ họ vẫn còn sang tất cả các nơi trên để buôn tơ lụa nhưng họ tải về Hòa Lan.
... Đường ăn thì họ lấy ở mía; họ không biết lọc cho trắng; đem đóng thành bánh nửa cân, bữa nào họ cũng dùng nhiều vì tin rằng đường giúp cho sự tiêu hóa.
... Người Đàng Ngoài biết giữ trứng gà và vịt lâu được hai, ba năm không hỏng; họ đem muối trứng; họ đem ngâm muối vào một cái chậu lớn; muối tan thi họ bỏ thử một quả trứng vào nước, nếu trứng chìm thì chưa đủ muối; khi nào trứng nổi thì nước muối mới vừa; họ đem ngào gio vào nước muối và khi nào gio với nước thành một chất vừa lỏng thì dùng chất ấy bọc
https://thuviensach.vn
quả trứng vào giữa rồi lấy lá bọc ra ngoài. Trứng muối như vậy để được hai ba năm.
Bên Ấn Độ, đem xếp trứng vào những chiếc thùng gỗ ngoài sơn kín rồi đem đổ đầy dầu vào thì trứng cũng để được lâu. Trứng ngâm dầu hay muối mặn đem đi bể thì tiện lắm và được nhiều, nhưng trứng muối tiện hơn vì không cần đem muối theo và khi thổi cơm không cần tra thêm muối vào. Chỉ cần luộc trứng mặn cho chín rồi mỗi miếng cơm chỉ một tí trứng cũng đủ mặn.
Nền thương mại của xứ Đàng Ngoài
Những nguồn lợi lớn là tơ lụa bán cho dân Hòa Lan và dân các nước khác và gỗ trầm hương.
Trong tập du ký về Ấn Độ tôi đã nói về tính chất gỗ này: thứ tốt và mỡ có thể bán một nghìn đồng một cân; thứ xấu không mỡ thì một cân giá có ba đồng thôi và chỉ có dùng để làm hộp nhỏ hay hột đeo cổ. Tất cả những dân Hổi Hồi, nhất là những dân để râu dài (Thổ, A Lạp Bá) rất mến chuộng gỗ trầm; khi có khách đến, họ mang lò hương ra, bẻ một chút trầm bỏ vào lò khói và hương trầm quyện lấy râu họ và họ giơ tay lên trời kêu Elhemed Illahh, gỗ mỡ thì một chút nhỏ như hạt đậu và trước khi đốt đem nhúng vào nước cũng tỏa nhiều khói hơn một miếng trầm xấu to bằng nắm tay. Nên khi trầm đã tốt quá mức thì không có giá nào nữa. Năm 1642 khi Dom Jean Quận công De Bragance[27] đăng quang thì kiểu dân Bồ Đào ở thành Goa sang Nhật Bản tìm đặng vật biếu: quý nhất là một cây gỗ trầm cao sáu thước và tròn hai thước, mua hết bốn vạn pardos[28], vào khoảng năm vạn bốn nghìn tiền ta. Khi qua Ba Tư tôi có thấy cây gỗ ấy ở trụ sở các cha Áugustins đem từ Nhật về. Vì không đem về tiến vua Bồ Đào được, họ định đem dâng vua Ba Tư, nhưng khi đi bị đường có bão, các hàng hóa bị ướt, cây trầm thấm nước biển, đến Goa, mọi thức đều hư hỏng cả, cây trầm bị ẩm và mục mất một phần nên dù có đem sang Ispahan cũng không dâng vua Ba Tư được nữa. Cố bề trên dòng Augustins có cưa cho tôi một miếng
https://thuviensach.vn
đem về Paris cho ông Brunier, là lương y của nguyên Quận vương d’Orléans.
Buôn bán với người Đàng Ngoài biết trọng tín nghĩa và thực thà, thích và lợi hơn với Hoa Kiều sẵn lòng lừa ta nếu có thể được vì thật khó mà biết mánh khóe của họ để mà để phòng được. Riêng tôi đối với Hoa thương thường bị thiệt luôn; khi họ buôn mà không có lợi thì họ gỡ ra bằng cách này; trong việc giao dịch họ có ba thứ tiền: tiền đúng phân lạng, tiền nhẹ hơn bốn phân, tiền nhẹ hơn tám phân. Nếu họ không muốn mua hàng của mình thì họ đem thứ tiền nhẹ nhất họ đã xén bớt cạnh đi để trả cho mình và như thế mình bắt buộc phải hủy giao kèo. Trên thế gian này không có bọn lái buôn nào tinh khôn bằng; cái gì họ cũng mua, không từ chối thức gì, đi mua cả giày cũ, mình bán một chiếc, họ cũng mua không hỏi tại sao mình không bán chiếc kia. Người Đàng Ngoài thì buôn bán thực thà hơn nhiều và ta rất vui thích được giao thiệp với họ. Tôi đã nói họ không có mỏ vàng, mỏ bạc và họ không đúc tiền, để buôn bán họ dùng những miếng vàng đem ở Tàu sang, có miếng giá bán ba trăm đồng tiền ta, có miếng sáu trăm đồng. Họ cũng tiêu thụ những thỏi bạc mua từ Nhật Bản sang; khi phải trả những số tiền nhỏ, họ cắt những thỏi này ra thành những miếng vụn đã sẵn có cân giống như cân La Mã để cân, hoặc họ trả bằng tiền ngoại quốc, nhất là tiền Y Pha Nho. Vàng và bạc mua được ở Tàu hoặc Nhật sang là do số tơ, hương xạ và trầm hương họ bán ra rất nhiều.
Binh thủy và binh bộ xứ Đàng Ngoài
Những người viết sách trước tôi đã phóng ra xa quá và đã gán cho xứ này một số binh thuyền dị thường quá; như tại ngũ có vạn hai ngựa, hai nghìn voi vừa để dự chiến vừa để chuyên chở lều nhà, đồ đạc của các vua chúa, ba mươi vạn bộ binh và ba trăm chiến thuyền trong xứ lại sẵn lương thảo đạn dược, lúc can qua binh lính được quá năm mươi vạn nhưng ta có thể nói nhiều về những điều đã viết ấy. Dưới đây là số lính mà chính mắt em tôi nom thấy năm 1643 là năm chúa Trịnh định cắt binh đánh chúa Nguyễn về việc dân Đàng Trong đã cướp mất mấy chiếc chiến thuyền,
https://thuviensach.vn
nhưng việc ấy lại yên vị chúa Nguyễn có sai sứ ra giảng hòa nên chúa Trịnh lại thôi.
Đạo quân sắp sửa lên đường lúc bấy giờ có tám nghìn ngựa, chín vạn bốn nghìn bộ binh, bảy trăm hai mươi hai con voi chiến và khiêng tải đồ đạc, ba trăm mười tám chiến thuyền và ghe dài hẹp, chạy bằng buồm và bơi chèo.
Đời lính thì vất vả và bất lợi lắm: vì đã phải đi suốt đời, lại không được làm thêm nghề gì để nuôi vợ con. Những hôm không phải phiên canh thi họ lại phải đi theo chủ súy bất cứ đến đâu và mỗi tuần lễ phải đi tập bắn cung hai lần, mỗi một đội có từ một trăm đến một trăm ba mươi người; trong đội hai người bắn giỏi được thưởng; nhất thì hai tháng lương, nhì thì một tháng, trả bằng thóc. Còn ai bắn dở nhất thì phải phạt gác nhất bội nhị. Các vị đội trưởng đều chăm nom cho binh khí của lính luôn luôn được bóng và sạch như bạc: nếu khí giới han gỉ thì lần thứ nhất lính bị trừ tám ngày lương, lần thứ hai bị đòn phạt.
Lính thủy cũng bị đối đãi từa tựa như vậy; bộ binh, vào những ngày nhất định, cũng phải lên chiến thuyền để tập chèo; vì các vua chúa đây thích xem những cuộc bơi thuyền chiến và các ngài đến ngự vài ngày tại một tòa nhà cất trên bờ sông. Đội nào mà thắng thì viên đội trưởng vui vẻ hết sức, được vua thưởng một con voi. Trong lúc chèo, vì cố sức cũng có người chết tay vẫn cầm bơi chèo; như thế thì vua ban thêm cho đội trưởng ba tháng lương, cho vợ con tên lính hai năm công.
Số tiền chuẩn cấp ít ỏi lắm nhưng vợ những người lính này, lấy chồng từ ngày còn nhỏ, đã quen làm lụng như những người ở giai cấp dưới và đã học thêm được một nghề để gánh vác gia đình.
Các đội trưởng còn phải tập cho voi chiến không sợ hỏa pháo; phải xây trên bờ sông bờ bể những gian nhà để kéo thuyền chiến lên và che cho khỏi mưa bão.
https://thuviensach.vn
Tướng sĩ mỗi tháng chỉ được nghỉ bốn ngày; hai ngày vào lúc thượng tuần, hai ngày vào trung tuần.
Về sự hôn lễ của người Đàng Ngoài và cách họ trừng trị sự gian dâm
Người Đàng Ngoài muốn lấy vợ lấy chồng phải được phép của cha mẹ hoặc khi cha mẹ đã quá cố rồi thì phải được phép của thân quyến. Lại còn phải xin phép và lễ lạt các quan chức. Vì có những sự nhũng lạm, năm 1639 đức vua đã phải ban dụ để hạn chế lòng tham của các nhà cai trị và định rằng con trai lấy vợ nộp lệ tùy theo sức mình, vào khoảng hai phân tư (2,40%) gia sản; nhưng ai không có quá số một trăm đồng thì được miễn.
Vì dân gian ai cũng chăm chỉ làm ăn, nên khi về nhà chồng, người đàn bà đã dành dụm được ít tiền, hai ba cái áo đẹp, một chiếc vòng san hô hay mã não, ít nhiều hạt họ buộc vào, họ nuôi tóc rất dài và để xõa xuống sau lưng. Cưới xin phải có ăn uống, nghèo kiết cũng ba ngày; khá giả thì kéo đến ngày thứ chín. Ngay sau hôm cưới, chồng gọi vợ bằng em và vợ gọi chồng bằng anh.
Luật pháp cũng cho chồng bỏ vợ vì những duyên cớ mỏng manh; nhưng vợ thì không được quyền ấy, muốn biệt cư biệt sản vợ phải khó khăn bí mật lắm, còn người chồng thì chỉ việc lấy một chiếc đũa của mình, một chiếc đũa của vợ - đũa sơn son thếp vàng - bẻ làm đôi, mỗi người giữ một nửa trong túi lụa; chồng phải trả vợ của hồi môn và nuôi lấy con chung của hai người, nhưng những vụ ly dị bây giờ ít hơn trước.
Luật pháp rất nghiêm đối với những dâm phụ, người đàn bà sẽ đem cho voi giày, voi lấy vòi quấn người ấy lên cao rồi quật xuống đất, lấy chân giẫm cho kỳ chết. Khi em tôi ở Đàng Ngoài, nó có được chứng kiến một vụ hành hình một bà chúa thông gian với một ông hoàng, chuyện khá đặc biệt và bi đát nên tôi thuật ra đây. Ở Đông phương, mỗi khi một ông vua thăng hà thì các bà phi bị đem giam vào một thâm cung, mỗi người có hai cung nữ hầu hạ, sống cô độc cho mãi đến khi chết. Trong số đó có một bà phi quen biết một ông hoàng, cháu đức vua đã thăng hà, ông này dùng một
https://thuviensach.vn
mưu khó khám phá để vào tư thông với bà phi. Ta nên biết ở đây cũng như ở các xứ khác bên Đông phương, trong các cung cấm, bếp thường thường cách lầu các một lần vườn và đến bữa ngự thiện bọn nhà bếp phải dùng một thứ thùng riêng để chở thức ăn từ bếp lên. Thùng làm như sau này: các đĩa đồ ăn đặt lên một cái giàn làm bằng nhiều chiếc que chạy suốt chiều ngang thùng và chiếc nọ cách chiếc kia chừng một đốt; liền ngay dưới có một tấm sắt khoét thủng nhiều lỗ. Tấm sắt này đặt trên một tấm sắt nữa, cách nhau chừng nửa tấc. Tấm sắt sau này vừa làm đáy thùng vừa làm bếp đựng than hồng để giữ thức ăn cho nóng. Ông hoàng kia mưu mô để người ta giấu ông vào chiếc thùng khiêng vào cung bà phi. Mưu gian ít hôm bị bại lộ. Đức ông bị dẫn ra trước mặt tân vương đeo xiềng xích ở cổ, ở tay và ngang mình rồi bị giải đi bêu khắp kinh thành trong năm tháng trời, đem về giam cầm trong một gian ngục bảy năm, mãi đến khi vua này băng hà, con vua lên thay đức ông mới được tha và cải ra làm lính ngoài biên giới. Bà phi bị đầy vào một tòa lầu cao, suốt 12 ngày không được ăn uống, xong rồi họ mở rộng các cửa ra để ánh nắng mặt trời làm bà lả đi và chết một cách thảm khốc sau ngày thứ ba.
Hai tên cung nữ bị đem ra công trường trước cung thành để voi giày.
Hai tên nhà bếp bị buộc tứ chi vào bốn chiếc thuyền chiến nhỏ và phân thây.
Học hành, thi cử
(Sau khi đã nói về sinh đồ, hương cống, ông J. B. Tavernier nói đến hội thi) Kỳ này mở ngay trong cung thành là một tòa lâu đài bằng đá vân (?) lộng lẫy. Đức vua, các hoàng thân, các đại thần, các văn quan có ông từ tỉnh xa về và đủ mặt các tấn sĩ.
Sĩ tử có chừng ba nghìn (?). Trong trường thi dựng chín chòi cao, chiếc thứ nhất để riêng cho đức vua và các thân vương; chín chiếc chòi đặt thành diễn đài có bực; đức vua chỉ ra ngự hôm đầu, còn sáu hôm cuối thì không. Hôm thứ tám, danh sách những người ứng thí, hỏng hay đỗ, đều giao cho
https://thuviensach.vn
mười sáu đại thần và chính đức vua định đoạt cho những người sát khảo ít bị hỏng nhất; dốt quá thì bị giáng trật và không ai nói đến nữa. Bảng treo ở trước cửa thành; và các ông tân khoa cũng như ông hỏng đều phải lên đài trình diện. Các ông tấn sĩ được vua ban một cái áo sa tanh màu tím và được rước về làng, có đàn sáo, có võng, nghỉ ngơi ba tháng ở quê nhà rồi vào triều tập nghề làm quan. Các quan sứ cử ra ngoại quốc, nhất là sang Trung Hoa, đều chọn trong số các ông tiến sĩ lỗi lạc nhất, đi sứ vua ban cho đủ mọi thức tiêu dùng.
Triều đình
Tuy đức vua không có uy quyền và tất cả thế lực đều vào tay chúa Trịnh, ngài vẫn được thần dân tôn trọng và triều đình vẫn được rực rỡ oai nghi. Ngày rằm và mồng một, các đình thần bận triều phục vào lễ vua. Chúa Trịnh trước kia cũng phải vào dự lễ bái vua, nhưng dần dần ngài đã biết cách xin miễn và cử một quân vương đi thay!
Đối với chúa Trịnh, các quan đầu tỉnh, các quan coi việc án từ, các võ tướng phải vào chầu ngày Nguyên đán, ngày sinh nhật của chúa hoặc khi mình mới thắng trận; thành ra quyền chúa lớn hơn quyền vua.
Một người đàn ông xứ Đàng Ngoài chào ai cao quý hơn phải lễ bốn lễ, đàn bà chỉ phải quỳ lạy một lần thôi. Vào chầu vua, quan phải bận phẩm phục màu tím, quân đi hầu cũng phải mặc áo đồng màu.
Mỗi năm vào dịp tết Trung nguyên, vua ban thưởng cho các đình thần và con cháu các vị công thần vàng bạc; phóng xá cho tội nhân chịu án hình nếu không phải tội trảm hay án hộ nếu món nợ không quá hai nén bạc.
Bao giờ cũng vậy, cứ đến ba ngày cuối năm, bốn mươi quan đại thần đi bắt các quan cao thấp văn lẫn võ tuyên thệ lúc nào cũng trung thành với đức vua và nếu biết có cuộc âm mưu hại đến long thể, đến cuộc trị nguy của quốc gia thì phải đi tố cáo. Nếu kẻ đi báo đã làm quan thì đức vua có ban thưởng hay không là tùy ý, nếu là dân dã thì được thưởng năm mươi
https://thuviensach.vn
lạng vàng và năm trăm lạng bạc. Tổng cộng năm vạn ba nghìn đồng tiên ta, người cáo giác còn được phẩm hàm nữa.
Thỉnh thoảng lại có tục kiểm điểm lại số thanh niên từng tỉnh và khắp trong xứ, những kẻ nào không nghề và không có chút danh vị, đủ mười tám tuổi thì phải tuyển vào đạo lính phòng vệ vua, hoặc lên tòng chinh ngoài biên ải. Ai đút tiền để lẩn trốn sẽ bị phạt nặng, kẻ tùng đảng cũng thế; cổ đem cùm, chân tay xiềng xích, họ bị giải đến trước mặt chúa và sẽ bị tuyên án chết chém. Nhưng vì dân sự không muốn thấy máu chảy nên bà con người bị tội vận động cho thân nhân mình xử giảo thôi, vì họ cho rằng chết thắt cổ không nhục nhã bằng chết chém.
Những lễ cử khi các vua Đàng Ngoài đăng quang
Trước khi nói đến lễ đăng quang của các vua xứ Đàng Ngoài và những nghi tiết phụ thuộc vào đấy, ta cũng phải nói một tiếng về cách ngài ra khỏi cung điện để nhàn du. Ngài ngự trên một chiếc kiệu lộng lẫy có tám người khiêng, thần dân được tỏ tường chiêm ngưỡng long nhan; các đình thần và quan chức đi bộ hộ giá khi cuộc du hành ở ngay trong đô thị; nếu long giá đi xa, thì vua ngự voi và các quan cưỡi ngựa đi theo. Khi hoàng thái hậu hoặc hoàng hậu ngự du, thì các ngài ngồi kiệu có buông mành, ở trong nhìn ra thì được, ở ngoài nhìn vào thì khó; kiệu trang hoàng rất đẹp cả trong lẫn ngoài; các bà mệnh phụ và thể nữ đi bộ theo hầu.
Các vương thân và đại thẫn có lệ ăn lễ sinh nhật mình bằng tiệc tùng, hội hè, chèo hát, đốt pháo bông và các quyến thuộc bằng hữu đều đến dự cả. Năm 1645, hoàng thái tử có mở yến tiệc ở trong cung vào ngày sinh nhật ngài và đức vua có ban cho hai nghìn lạng vàng, năm nghìn lạng bạc (tính sang tiền ta là tám mươi hai vạn đồng) để cuộc vui được rực rỡ. Vào những dịp này các ngài hay bố thí cho kẻ nghèo.
Khi đức vua thăng hà, thì đình thần tôn ông hoàng nào được vua chọn và nói cho biết, lên ngôi. Hôm tam nhật, chúa Trịnh cùng các võ quan, nội các viện, các quan đô tổng binh, thừa chính sứ đến tư thất tân vương, dâng áo
https://thuviensach.vn