🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Warren Buffett Đầu Tư Như Một Cô Gái Ebooks Nhóm Zalo Mục Lục Lời tựa LỜI CÁM ƠN 1 Tại sao bây giờ khí chất lại quan trọng hơn bao giờ hết? 2 Khoa học ẩn sau con gái 3 Giới thiệu nhanh về “Thánh nhân” 4 Giao dịch ít, kiếm nhiều 5 Kiểm soát sự tự tin thái quá 6 Tránh rủi ro 7 Tập trung vào mặt tích cực của sự bi quan 8 Nghiên cứu bao quát 9 Phớt lờ áp lực xung quanh 10 Học từ sai lầm 11 Tiếp nhận ảnh hưởng của phái nữ 12 Duy trì kết quả liên tục, nhất quán 13 Coi trọng con người và các mối quan hệ 14 Hãy hỏi các bậc thầy 15 Hành động công bằng và có đạo đức 16 101 nguyên tắc đầu tư cho người mới bắt đầu Phụ lục Lời tựa Đây là cuốn sách về đầu tư dành cho các nhà đầu tư. Nó tập trung vào những nhân tố có ảnh hưởng quyết định nhất tới việc bạn sẽ kiếm được tiền hay đánh mất tiền và liệu bạn có đánh bại được thị trường hay không. Hiển nhiên, bạn có thể cho rằng bạn sẽ được đọc về cách chọn cổ phiếu – để bạn có thể mua cổ phiếu của GEICO[1] thay cho cổ phiếu của Ngân hàng Mỹ. Cách đánh giá khả năng sinh lợi của một công ty – để bạn có thể đầu tư vào công ty Apple của Steve Jobs chứ không phải vào khu vui chơi giải trí của Donald Trump. Cách đào sâu một bản báo cáo kế toán. Cách tìm ra công ty tiếp theo có khả năng tăng 10, 20 hoặc 100 lần giá trị. Nhưng không phải vậy. Thay vào đó, cuốn sách này sẽ phân tích những điều quyết định thành công của bạn trên cương vị một nhà đầu tư – khối óc, cảm xúc, cá tính con người bạn. Nếu bạn cầm cương chúng, lợi tức đầu tư của bạn sẽ giúp bạn đạt được sự tự do về mặt tài chính trong những lĩnh vực đầy cơ hội. Nhưng nếu chúng cầm cương bạn thì hãy nhắm mắt lại, vì chúng sẽ khiến bạn có những hành động sai lầm. Bạn sẽ bán khi đáng ra bạn phải mua. Bạn sẽ tin khi đáng ra bạn phải nghi ngờ. Bạn sẽ reo hò khi đáng ra bạn phải học hỏi. Bạn sẽ kinh doanh khi đáng ra bạn phải đầu tư. Nếu bạn muốn kiếm được nhiều tiền hơn nữa trong thị trường – sử dụng cổ phiếu thường hay quỹ tương hỗ – bạn sẽ phải học cách làm chủ khí chất của mình. Nơi khởi đầu tốt nhất chính là đây, ở những trang sách này, vì Louann Lotton sẽ tiết lộ cách Warren Buffett đã “hô biến” những khoản đầu tư nhỏ của một đứa trẻ vị thành niên thành một danh mục đầu tư lớn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử loài người như thế nào. Quả là một bài học thực tế giá trị! Nhưng, cho tới tận lúc này, những học trò của ông [Buffett] vẫn chủ yếu đi tìm sự điêu luyện bậc thầy của ông ở sai chỗ. Họ thường mơ về những biến số phức tạp trong khi cố gắng tìm kiếm những mô hình giá trị của Buffett. Họ săm soi mọi thứ và sục sạo mà không cần suy xét nhiều những vấn đề riêng tư nhất trong cuộc sống của ông. Suốt nhiều thập kỷ, họ vẫn không nhận ra điều quan trọng nhất, nhưng, ít nhất thì họ cũng đã thử tìm hiểu! Ở phố Wall, trên bàn làm việc của các thương gia và doanh nhân, họ phớt lờ Buffett . Những người này đã nỗ lực hết sức mình để đạt được bộ ba kết quả: (1) Phá hoại danh mục nhà đầu tư, (2) Đánh chìm bảng cân đối kế toán của ông chủ và (3) Phân mức nền kinh tế thế giới. Và họ thực hiện tất cả những điều đó nhân danh một loại tiền thưởng hoa hồng lớn đến mức khiến người khác phát rồ. Trò chơi của họ không phải là về đầu tư, mà là về kiếm lãi từ việc mạo hiểm. Nếu bạn muốn biết làm thế nào để kiếm được hàng triệu đô la đầu tư vào cổ phiếu, chỉ cần làm ngược lại với điều được chào mời ở thế giới phố Wall có chỉ số octane[2] cao, nơi đàn ông sẽ lại là đàn ông ngay khi họ yêu cầu người đóng thuế bảo lãnh cho họ. Hãy lật sang trang, bạn Fool thân mến của tôi ạ, và bạn sẽ thấy điều mà hầu như cả thế giới này đã xem thường hoặc bỏ qua. Điều đó thực sự, thực sự rất đơn giản: Warren Buffett đầu tư như một cô gái. - Tom Gardner[3], 12.2010 LỜI CÁM ƠN Ý tưởng cho cuốn sách này và câu chữ ban đầu cho nó xuất hiện vào mùa hè năm 2007. Vào thời điểm đó, công ty Fools chúng tôi đang tìm hiểu về những nghiên cứu xuất hiện trong thế giới kinh tế học hành vi chỉ ra rằng nam giới và nữ giới thường đầu tư theo những cách khác nhau. Và chúng tôi nhận ra điều gì đó thú vị – có vẻ như phụ nữ đầu tư với khí chất rất “giống Buffett ”. Chúng tôi đều ngưỡng mộ ông Buffett cùng với khí chất điềm đạm, bình tĩnh, kiên nhẫn của ông từ lâu. Chúng tôi xem khí chất đặc trưng này như một đặc điểm mang tính định nghĩa và một cách giải thích cho khả năng tạo dựng sự giàu có và đánh bại thị trường qua nhiều thập kỉ, làm cho hết kẻ bất tài này tới kẻ bất tài khác phải xấu hổ. Đó cũng chính là lý do chúng tôi tập trung mọi nỗ lực của mình cho cuốn sách này nhằm khám phá và nhấn mạnh những điểm mấu chốt của việc có được khí chất tối ưu, để có thể giúp cải thiện lợi nhuận lâu dài của tất cả các nhà đầu tư, cả nam cũng như nữ. Điều chúng tôi không thể nhìn thấy trong cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình là điều xảy ra trong thế giới tài chính vài năm sau đó. Hóa ra, tất cả chúng ta đều cần phải học về khí chất, có lẽ là cần hơn bao giờ hết. Tất nhiên, giữa việc lựa chọn chứng kiến vô số ví dụ về khí chất hóa-sai-lầm phơi bày trước mắt chúng ta với việc không nhìn thấy danh mục đầu tư cũng như số tiền dự trữ của chúng ta bị phá hủy hoàn toàn, tôi hoàn toàn chắc chắn rằng chúng ta sẽ chọn bỏ qua những ví dụ. Nhưng chúng ta đang ở đây, dõi mắt về tương lai và hi vọng bạn cảm thấy sẵn sàng đối mặt với nó bằng một vào mùa hè năm 2007. Vào thời điểm đó, công ty Fools chúng tôi đang tìm hiểu về những nghiên cứu xuất hiện trong thế giới kinh tế học hành vi chỉ ra rằng nam giới và nữ giới thường đầu tư theo những cách khác nhau. Và chúng tôi nhận ra điều gì đó thú vị – có vẻ như phụ nữ đầu tư với khí chất rất “giống Buffett ”. Chúng tôi đều ngưỡng mộ ông Buffett cùng với khí chất điềm đạm, bình tĩnh, kiên nhẫn của ông từ lâu. Chúng tôi xem khí chất đặc trưng này như một đặc điểm mang tính định nghĩa và một cách giải thích cho khả năng tạo dựng sự giàu có và đánh bại thị trường qua nhiều thập kỉ, làm cho hết kẻ bất tài này tới kẻ bất tài khác phải xấu hổ. Đó cũng chính là lý do chúng tôi tập trung mọi nỗ lực của mình cho cuốn sách này nhằm khám phá và nhấn mạnh những điểm mấu chốt của việc có được khí chất tối ưu, để có thể giúp cải thiện lợi nhuận lâu dài của tất cả các nhà đầu tư, cả nam cũng như nữ. Điều chúng tôi không thể nhìn thấy trong cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình là điều xảy ra trong thế giới tài chính vài năm sau đó. Hóa ra, tất cả chúng ta đều cần phải học về khí chất, có lẽ là cần hơn bao giờ hết. Tất nhiên, giữa việc lựa chọn chứng kiến vô số ví dụ về khí chất hóa-sai-lầm phơi bày trước mắt chúng ta với việc không nhìn thấy danh mục đầu tư cũngkhí chất bình tĩnh, vững vàng. Trên thực tế, các bạn, những độc giả thân yêu, chính là những người đầu tiên tôi cần phải cám ơn. Cám ơn các bạn vì đã song hành cùng với tôi trong cuộc hành trình này, và vì đã đọc cuốn sách này tới tận giờ phút này (bạn không bỏ qua đoạn nào, đúng không?). Tôi hi vọng nó xứng đáng với thời gian bạn bỏ ra và hi vọng là bạn đã học hỏi được nhiều và thấy thoải mái trong suốt quá trình học. Cám ơn ông, Warren Buffett, vì đã làm hình mẫu cho khí chất lý tưởng suốt các thập kỷ. Cũng rất cám ơn vì ông đã cởi mở chia sẻ sự thông tuệ của mình với những nhà đầu tư ở khắp mọi nơi trong suốt những năm qua. Xin cám ơn David Gardner, Tom Gardner và Erik Rydholm vì đã thành lập nên The Motley Fool nhiều năm trước. Thật tuyệt khi là một thành viên của Foolý Cám ơn vì đã biến nó thành điều có thể và vì đã cho tôi rất nhiều cơ hội trong suốt những năm qua. Và xin gửi lời cám ơn đặc biệt tới Tom vì đã viết lời nói đầu, vì đã giới thiệu rộng rãi dự án này và vì tình bạn của ông. Cám ơn Suzanne Gluck, đại diện của chúng tôi ở William Morris Endeavor, vì đã thương thảo cho dự án sách này. Cám ơn Hollis Heimbouch, biên tập viên của tôi ở nhà xuất bản Harper Business, vì liên tục khuyến khích, vì những sửa đổi sắc sảo, vì những gợi ý thận trọng và vì sự kiên nhẫn cũng như linh hoạt. Cám ơn cô, Hollis, vì cả sự tốt bụng và khiếu hài hước của cô. Tôi không bao giờ có thể tìm được một biên tập viên nào tốt hơn cô, và sẽ luôn biết ơn vì điều đó. Xin được gửi lời cám ơn những con người tuyệt vời khác ở nhà xuất bản Harper Collins vì đã nhiệt tình với cuốn sách như chính chúng tôi, trong đó có Kathy Schneider, Doug Jones, Angie Lee, Tina Andreadis, Samantha Choy, Mark Ferguson, Matthew Inman và Colleen Lawrie. Thật tuyệt vời khi được làm việc với những người như các bạn. Xin được cám ơn Robyn Gearey, người đã dành thời gian cho cuốn sách này đồng thời dành gấp ba thời gian để tung ra một vài dịch vụ cung cấp bản tin mới của Fool. Cám ơn anh, Robyn vì đã nói chuyện với tôi trong những thời khắc lo lắng, thiếu tự tin và hoảng sợ. Cử chỉ bình tĩnh và cung cách khuyến khích của anh là của trời cho. Xin cám ơn anh vì luôn ở bên ủng hộ. Cám ơn những nhà quản lý quỹ Lisa Rapuano, Lauren Templeton, Candace King Weir, Amelia Weir và Bill Mann vì đã dành thời gian trả lời phỏng vấn cho cuốn sách này. Cám ơn tất cả các bạn vì đã chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của mình với tất cả chúng tôi. Xin được cám ơn những đồng nghiệp ở Fool như Mac Greer, Chris Hill và Steve Broido vì đã giúp thực hiện những cuộc phỏng vấn và tìm kiếm những câu trích dẫn từ những người như Roger Lowenstein, Andrew Kilpatrick, Prem Jain và Nell Minow. Chỉ một lời thôi: Nếu bạn cần nói chuyện với bất kỳ ai (nghiêm túc đấy, bất kỳ người nào), đây là ba người có thể giúp bạn thực hiện được việc đó. Xin được gửi lời cám ơn tới những đồng nghiệp ở Fool như John Reeves và Alex Pape vì đã kiểm tra sát sao tính chân thực của cuốn sách này và vì những nhận xét, góp ý tổng quan tuyệt vời dành cho bản thảo của cuốn sách. Xin được cám ơn cả hai vì đã cứu tôi khỏi những sai lầm của mình! Cũng xin được cám ơn Hope Nelson, Paul Elliott, Todd Etter, Buck Hartzell và Andy Cross vì đã đọc bản thảo và đã chia sẻ những ý tưởng của các bạn để giúp hoàn thiện bản thảo tốt nhất có thể. Tất cả những gợi ý của các bạn đều rất hữu ích. Xin cám ơn các bạn vì đã dành thời gian làm việc này khi mà tôi biết các bạn còn hàng núi công việc khác cần phải thực hiện. Xin được cám ơn bậc thầy marketing của Fool, người đã nhắc lúc trước, Paul Elliott, và bậc thầy quan hệ công chúng của Fool, Alison Southwick, vì không bao giờ gạt bỏ một ý tưởng điên rồ và vì tinh thần làm bất cứ điều gì cần thiết để biến cuốn sách này trở thành một hiện tượng. Xin được cám ơn Dan Stapleton vì mẫu thiết kế bìa tuyệt vời. Xin cám ơn Ginni Bratti và Randy Coon vì đã ủng hộ dự án này. Cám ơn những cây viết của Fool như Alyce Lomax và Dayana vì đã truyền cảm hứng. Xin được cám ơn Joe Magyer và toàn bộ nhóm Giá trị nội tại Motley Fool vì những chia sẻ quý giá về danh sách sách tham khảo. Và chân thành cám ơn Jonathan Mudd vì đã lôi được một câu “chìm ngỉm” trong cuốn sách ra và cho chúng tôi một cái tên sách hay nhất. Cuối cùng, gửi lời cám ơn chân thành tới Austin vì tình yêu và sự ủng hộ trong suốt quãng thời gian tôi ngồi ôm máy tính, miệt mài cả ngày và đêm. Cám ơn vì đã khiến tôi vui vẻ và thoải mái khi tôi cần (rất nhiều). Cám ơn vì đã nhẹ nhàng, thấu hiểu và kiên nhẫn. Cám ơn vì đã làm tôi sao nhãng với một vài tập The office khi tôi nghĩ mình đã đến đỉnh điểm và cần một chút động viên từ bản thân gã khổng lồ ngành giấy, Michael Scott. Hơn hết cả, cám ơn vì đã chịu đựng tôi. Tôi đánh giá cao điều đó, và tôi biết ơn bạn nhiều hơn mức tôi có thể diễn tả được. Xin cám ơn. 1 Tại sao bây giờ khí chất lại quan trọng hơn bao giờ hết? Tháng Chín năm 2008. Britney Spears[4] chuẩn bị cho sự trở lại thắng lợi với giải thưởng Video âm nhạc (VMA) của MTV, sau buổi biểu diễn mờ nhạt tại VMA năm 2007. Tay đua xe đạp Lance Armstrong[5] tuyên bố giải nghệ sau khi hoàn thành cuộc thi Tour de France lần tới. Cơn bão Ike trở thành cơn bão số năm trong mùa mưa bão ở Đại Tây Dương. Đại biểu ở Hội nghị quốc gia đảng Cộng Hòa đã nhất trí chọn thượng nghị sỹ bang Arizona John McCain làm đại diện tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Mười một. Diễn viên Mickey Rourke[6] đã trở lại với ánh đèn sân khấu nhờ bộ phim The Wrestler (Võ sỹ), bộ phim giành được giải thưởng phim hay nhất tại Liên hoan phim Venice. Roger Federer giành được chức vô địch thứ năm liên tiếp tại giải Mỹ Mở rộng. Rapper người Anh M.I.A[7] nổi đình nổi đám với bài Paper Planes (Máy bay giấy), cũng như Atlanta sở hữu T.I2 với ca khúc Whatever you like (Bất cứ điều gì em thích). Những người yêu thích chương trình truyền hình The office[8] của đài NBC háo hức chờ đợi số đầu tiên của phiên bản thứ năm, xem kiểu trò vui nào sẽ xảy ra với Michael Scott và những người còn lại trong nhà máy Dunder Mufflin[9]. Đội bảo vệ ngôi vô địch giải Siêu cúp (Super Bowl), New York Giants, đã đánh bại đội Washington Redskins với tỉ số 16-7 trong trận mở màn mùa giải của Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia Mỹ. Như vậy là, trong vòng chưa đầy hai tuần của một tháng, thế giới đã thay đổi. Vĩnh viễn. Sự hốt hoảng về mặt tài chính đã nhấn chìm thị trường chứng khoán, nhà đầu tư cá nhân và cả các chính phủ trên thế giới. Và hốt hoảng quả thực là từ hoàn hảo để miêu tả chuyện đã xảy ra vào mùa thu năm 2008. Viết về sự hốt hoảng của thị trường trong thế kỷ 19, giáo sư trường đại học Yale, William Graham Sumner, đã định nghĩa hốt hoảng như: “Làn sóng cảm xúc, e sợ, cảnh báo. Nó là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, một điều hoàn toàn có thực và không thể tránh khỏi, nhưng nó lại có thể cường điệu, phù phép khả năng, lấy đi dũng khí và năng lượng”. Thị trường chứng khoán nhanh chóng tụt dốc, khiến nhà đầu tư phải tìm cách bấu víu để tồn tại. Không ổn định là từ chỉ những ngày đó, cái gọi là “chỉ số sợ hãi” đã đạt đến cấp độ mới khi thị trường chạm đáy mới. Niềm tin của khách hàng và cảm nghĩ của nhà đầu tư lao dốc dựng đứng cùng với giá cổ phiếu. Không thể đoán định được tương lai của nền kinh tế phút sau khác phút trước như thế nào, hết công ty tài chính danh tiếng này tới công ty tài chính kia đứng trên đỉnh núi, lao thẳng xuống vực, không thể biết điều gì đang chờ phía trước. Xin chào, hốt hoảng. Vào ngày 6 tháng Mười năm 2008, chỉ số Trung bình Công nghiệp Down Jones[10] lần đầu tiên giảm xuống dưới 10.000 điểm kể từ năm 2004. Ba ngày sau đó, nó lại tiếp tục giảm xuống còn 8.600 điểm. Cùng ngày hôm đó, ngày 9.10, chỉ số Standard & Poor 500 (chỉ số cổ phiếu bao gồm 500 loại cổ phiếu được lựa chọn từ 500 công ty có mức vốn hóa thị trường lớn nhất Mỹ) đã giảm 42% so với năm ngoái, nhanh chóng xóa sạch những thành quả đã phải mất cả năm xây dựng. Cột mốc này xảy ra trong vòng chưa tới bốn tuần ngắn ngủi và đau khổ sau khi Lehman Brothers phá sản. Đó là thời điểm thử thách thần kinh với cả những nhà đầu tư dày dạn nhất. Tôi theo dõi, mở to mắt, và không có một chút lo sợ, kinh hãi nào khi danh mục đầu tư của tôi (trong một vài trường hợp, bao gồm cả cổ phiếu của các công ty mà tôi đã sở hữu hơn 10 năm) co lại chỉ còn một nắm nhỏ. Nó còn có thể thấp được tới mức nào nữa? Những công ty hoạt động tốt, chẳng có liên quan gì tới những vấn đề của các ngân hàng hay các thể chế tài chính, cũng bị “tàn sát” theo chúng. Nguyên nhân của việc bị “tàn sát” này là các công ty bán lẻ và thương hiệu tiêu dùng nổi tiếng cũng đột nhiên bắt đầu học đòi đầu tư vào chứng khoán từ những khoản vay thế chấp chứ không bán nước giải khát hay quần tất nữa. Theo dõi ti vi mỗi sáng trở thành một hành động phiêu lưu và tuyệt vọng, theo nghĩa hoàn toàn khác lạ. Tôi có cảm giác thôi thúc phải xem, phải biết điều gì đã xảy ra sau một đêm, để xem điều kinh khủng mới nào chuẩn bị giáng xuống đầu chúng tôi ngày hôm đó. Có thể so sánh nó với việc hỏng xe, thật sự bạn không muốn nhìn vì bạn sợ điều bạn sẽ nhìn thấy, nhưng dường như bạn không thể không nhìn. Trong trường hợp này, có một điểm khác biệt quan trọng: Tất cả chúng ta đều đang ở trong chiếc xe đó khi nó đã hỏng, tất cả chúng ta đều đang ở trong cái đống sắt đã bị hư hại đó. Luôn có những nhà bình luận nín thở cập nhật sự tụt dốc khiến người ta dựng tóc gáy và vô cùng hốt hoảng. Tin tức được đưa rất nhanh, gần như là không thể biết được đâu là thông tin mới nhất, cập nhật nhất (thông tin này vừa ra, thông tin khác đã xuất hiện). Trải qua tất cả những điều đó, có một người ngồi cách xa những ồn ào huyên náo của thành phố New York và thủ đô Washington D.C, ở thành phố Omaha yên bình, tĩnh lặng của tiểu bang Nebraska, vùng Trung Tây. Ông theo dõi, như đã từng theo dõi nhiều lần trước đó, khi thế giới dường như đã chuẩn bị bước vào hồi kết. Ông đã nghe những giọng nói run run trên ti vi, và có lẽ ông còn không thể thoát khỏi những bức ảnh cập nhật hàng ngày, thậm chí hàng giờ, về những doanh nhân phố Wall trong bộ dạng hoảng hốt, rã rời, hay chỉ đơn giản là trong bộ dạng mất-tất-cả. Sau đó, ông đã làm điều mà bất cứ người có lý trí nào cũng nên làm để đối mặt với cảm giác sợ hãi kinh khủng đó. Ông hít một hơi thật sâu, tự trấn tĩnh bản thân, và bắt đầu mua cổ phiếu, dốc 20 tỉ đô vào các công ty như Goldman Sachs[11] và General Electric[12]. Cần phải có dũng khí, sự ngoan cường và khả năng nhìn xuyên qua cuộc khủng hoảng hiện tại để cuối cùng có thể khôi phục được các doanh nghiệp nước Mỹ và nền kinh tế thế giới. Điều đó đòi hỏi phải có khí chất thích hợp. Warren Buffett, người đàn ông ở Omaha của chúng ta (và cũng chính là nhà “hiền triết nổi tiếng” đã được trích dẫn lúc trước), không hề hốt hoảng và bán tháo. Ông vẫn giữ được sự bình tĩnh, và đánh giá được tình hình. Và khi đánh giá, ông rất cẩn trọng. Ông cũng khuyến khích những người khác làm đúng như vậy, và nhắc họ nhớ rằng chúng ta phải trải qua khó khăn trước, sau đó chúng ta mới có thể dẫn đầu. Ông cũng nhắc những nhà đầu tư nhớ rằng thời điểm tốt nhất để mua cổ phiếu chính là khi tất cả mọi người đều tháo chạy khỏi thị trường, để lại rất nhiều món hời cho người nào sẵn sàng nhận lấy. Đó là cách tư duy không dễ được chấp nhận trong quãng thời gian điên cuồng ấy. Thật nản khi nhìn thấy khoản 401(k)[13] của bạn cứ nhỏ dần, nhỏ dần theo ngày, thậm chí theo giờ trong nhiều tuần liền cho tới khi không còn gì. Thật mệt mỏi và đau tim khi phải nhìn số tiền dự trữ, tài khoản tiết kiệm hay số tiền dành dụm để cho con đi học đại học của bạn bốc hơi hết. Điều đó cũng giống như chúng ta bị đánh liên tiếp vào đầu và không thể thoát được vậy. Những cú đánh cứ liên tục, liên tục giáng xuống. Tôi đã phải sốc lại tinh thần và mua thêm cổ phiếu của một vài công ty mà tôi vốn đã sở hữu vào ngày thứ Ba sau khi Lehman nộp hồ sơ xin phá sản. Và tôi không khoác lác khi nói rằng đó là một trong những quyết định khó khăn nhất của tôi, với tư cách là một nhà đầu tư. Thực tình, đưa ra quyết định đó, lựa chọn sẵn sàng đẩy mình vào thị trường mà ngay ở giai đoạn đầu đã khiến tôi thâm tím và bầm dập, là điều vô cùng khó khăn. Đó là khoảng thời gian đáng sợ, và tôi luôn phải dốc toàn bộ sức mạnh ý chí của mình mỗi khi quyết định nhấn vào cái nút “Mua” nhỏ xíu trên trang web của công ty môi giới. Mọi thứ trên cơ thể đều bảo tôi đừng mua. May mắn là đầu tôi biết nhiều hơn, và đã kiểm soát được nỗi sợ kinh hoàng bao trùm khắp cơ thể mình. Tuy nhiên, khi tôi đã mua những cổ phiếu đó, nỗi đau thực sự mới bắt đầu. Tôi đã không ý thức được về những tuần, những tháng “sa cơ lỡ vận” của thị trường. Dù vậy, tôi cũng không bao giờ bán. Tôi đã chờ tới cùng. Và bây giờ, nhìn vào khoản lợi tức từ hai trong số ba loại cổ phiếu tôi đã mua từ những ngày đó (cổ phiếu của công ty máy tính Apple và của công ty Chipotle Mexican Grill[14], tôi mừng là mình đã quyết định mua. Thế còn cổ phiếu thứ ba? Ờ thì, không phải tất cả đều là người chiến thắng, đúng không? Warren Buffett đã gây dựng được một sự nghiệp lâu dài, đáng ghen tị trong ngành tài chính, với bảng thành tích mà hầu hết các nhà đầu tư và quản lý tài chính đều mơ ước (thậm chí, có thể chết để có được). Suốt gần năm thập kỷ, ông đã phân tích các công ty, đầu tư vào các công ty tốt nhất trong số đó và làm giàu. Ông hoàn toàn không có đối thủ. Không người nào có khả năng chọn cổ phiếu và đầu tư vào công ty có khả năng sinh lời và tồn tại lâu dài như ông. Và điều thực sự định nghĩa Buffett, khiến ông trở thành nhà đầu tư như ông ngày hôm nay, điều khiến ông khác biệt với tất cả những người khác, khác tất cả những nhà đầu tư khác trong suốt bao nhiêu năm qua, chính là khí chất đáng nể của ông. Từ điển di sản Mỹ định nghĩa khí chất là “cách nghĩ, hành xử hay ứng phó đặc trưng của một người đặc biệt”. Trong thế giới đầu tư, khí chất tự nó biểu hiện ở việc liệu bạn có bị tình cảm chi phối khi đưa ra quyết định khiến bạn, chẳng hạn như, mua rồi lại bán tháo cổ phiếu của những công ty mà bạn thậm chí không có chút manh mối nào về việc những công ty đó thực sự làm cái gì. Liệu bạn có để bản thân bị bối rối bởi những động thái sụt giảm của thị trường không, hay bạn sẽ nhìn giá tụt dốc và thấy những cơ hội? Chính Buffett đã nói về tầm quan trọng của khí chất như thế này: “Đặc tính quan trọng nhất của nhà đầu tư là khí chất, chứ không phải trí tuệ… Bạn cần một “loại” khí chất không bắt nguồn từ cảm xúc do đồng tình hay bất đồng với đám đông”. Ông còn nói thêm rằng: “Thành công trong đầu tư không có liên quan gì tới chỉ số IQ kể cả khi IQ của bạn ở trên mức 125. Khi bạn có chỉ số thông minh trung bình, điều bạn cần là khí chất để tránh đẩy người khác vào rắc rối trong đầu tư”. Hãy nói về “rắc rối” thực sự. Chúng ta có thể nghĩ tới khí chất – một cách sai lầm – khi tìm kiếm một vài căn nguyên của khủng hoảng tài chính: Suy nghĩ ngắn hạn về sự giàu có Vung tay quá trán Có quá nhiều khoản nợ vô lý Niềm tin vô lý rằng không bao giờ nên ngừng kiếm tiền Không có khả năng nhìn thấy hệ quả lâu dài của những quyết định kém cỏi Bóc lột người yếu thế hơn mình để trục lợi. Bây giờ, cần phải hiểu rằng khí chất không phải là nhân tố duy nhất gây nên khủng hoảng tài chính. Đó là một hoàn cảnh vô cùng phức tạp đã kéo dài hết năm này qua năm khác. Động cơ cũng như môi trường pháp lý và chính sách tiền tệ lỏng lẻo đều đóng vai trò quan trọng. Cuộc cạnh tranh giữa những công ty phố Wall gay gắt tới mức để theo kịp người khác, các thương nhân và các nhà tài phiệt càng ngày càng không thể nói không với bất cứ điều gì. Nếu một công ty không muốn thực hiện một thương vụ vì lo lắng thương vụ đó có thể mang lại tổn thất thì luôn có một công ty khác ở con phố này sẵn sàng nhảy vào. Tuy nhiên, khí chất thực sự đóng một vai trò quan trọng. Nhìn lại, có thể tìm thấy khí chất sai lầm ở mọi cấp độ của cuộc khủng hoảng toàn cầu, bắt đầu từ những người đi tìm lát cắt của giấc mơ Mỹ: Những người mua nhà. Bây giờ, tất nhiên là đã có những người có trách nhiệm bị vướng vào cái bẫy hỗn độn nợ dưới chuẩn đó, thậm chí tệ hơn, bị lừa vay những khoản nợ mà họ không bao giờ có cơ hội thực sự kiếm lời được từ đó. Nhưng cũng có nhiều người chủ ý vay những khoản tiền khổng lồ để mua nhiều nhà hơn mức cần thiết hoặc hơn khả năng có thể chi trả của họ và thường chỉ là dưới dạng lãi suất hay tỉ lệ cho vay thế chấp có thể điều chỉnh, nhưng đôi khi là kết hợp cả hai. Mọi người đều biết rằng những khoản vay thế chấp này cuối cùng cũng sẽ được điều chỉnh, có thể là ở tỉ lệ cao hơn, có nghĩa là khoản tiền phải trả cho chúng có thể tăng rất nhanh. Hi vọng cho những người mạo hiểm với nó là bong bóng nhà sẽ tiếp tục căng phồng mà không dừng lại, và giá trị nhà sẽ tiếp tục tăng cao, tạo cửa ra an toàn và nhanh lẹ trước khi việc điều chỉnh tỉ lệ cho vay thế chấp trở thành một vấn đề. Lạy thánh Ala, chuyện lại không như thế. Giá trị nhà đã bắt đầu lộn nhào, tỉ lệ vay thế chấp đã bắt đầu được điều chỉnh lên mức không thể chấp nhận được, và cuối cùng các khoản tiền trả lãi hàng tháng đã bắt đầu khiến những người ban đầu háo hức vay thấy ngột ngạt. Các khoản vay không thanh toán được dẫn đến tình trạng vỡ nợ, và các khoản nợ xấu bắt đầu gia tăng. Xu hướng mới nổi này khiến những chủ nhà ngạt thở, tiếp đó là ngân hàng và các thể chế tài chính, sau đó là các thị trường tín dụng và thị trường chứng khoán ở cả nước Mỹ và khắp nơi trên thế giới, gây ảnh hưởng sâu rộng tới nền kinh tế toàn cầu. Và tất cả là vì không có mấy người nhận ra lối suy nghĩ dài hạn cùng với việc mạo hiểm một cách thận trọng là lợi thế chứ không phải bất lợi. Ở phía đối diện là các ngân hàng và các thể chế tài chính – những gã khổng lồ của phố Wall – bẩn thỉu và đồng bóng hơn cả những người mua nhà thiển cận. Họ không phải là những người đã vay những khoản nợ dưới chuẩn, nhưng họ chắc chắn có thể thu lợi từ những khoản vay đó và luôn khuyến khích những hành vi “không đẹp” ẩn sau đó tiếp diễn. Và nhờ có thái độ sẵn lòng tận dụng bản thân đến mức không một người bình thường nào có thể hiểu hoặc ủng hộ, thậm chí là tìm hiểu, họ đã khiến cho những vấn đề phát sinh do sự sụp đổ của thị trường nhà đất lan xa và rộng kinh khủng. Khi những câu hỏi về giá trị thật của vật thế chấp mà các ngân hàng nắm giữ xuất hiện ngày càng nhiều, thị trường tín dụng bắt đầu bị ảnh hưởng. Các ngân hàng không muốn cho nhau vay, vì họ không tin rằng ngân hàng đối tác có thể thực sự trả được các khoản nợ đó. Họ không tin rằng tài khoản của ngân hàng đối tác không hề có những bí mật bẩn thỉu như tài khoản của những người khác. Khi việc cho vay giữa các thể chế tài chính gần như đóng băng thì cho vay cá nhân cũng không mấy khác. Cứ hốt hoảng đi, các bạn của tôi. Một lần nữa, chúng ta lại thấy tầm quan trọng của khí chất. Khí chất sai lầm bao trùm toàn bộ phố Wall và bùng lên như đổ thêm dầu vào lửa. Mọi phán đoán về những rủi ro có thể chấp nhận được đã hoàn toàn biến mất khi tiền cứ tiếp tục được rót vào. Cuộc sống trở nên ngột ngạt hơn bởi những thái độ gay gắt kiểu nam tính, kiểu tôi trước, kiểu kiếm-tiền bằng-bất-cứ-giá-nào. Thương nhân kiếm bộn tiền nhờ tình trạng dùng đóa bẩy tài chính quá mức mà phần nhiều trong số đó chẳng có cơ sở gì ngoài những lời nói dối. Thái độ mạo hiểm, không quan tâm tới hậu quả và suy nghĩ ngắn hạn đã thống trị những ngày đó. Hầu hết những người đã đẩy cái đống hỗn độn đó về phía trước đều biết nó sẽ không kéo dài mãi. Đơn giản là bởi nó không thể. Nhưng thay vì nhận ra thời vàng son không kéo dài mãi và bước những bước thông minh để đầu tư với một tầm nhìn dài hạn, hầu hết những người tham gia cuộc chơi lại tiếp tục làm mọi cách để đạt được càng nhiều càng tốt những thứ họ muốn khi còn có thể. Ai quan tâm tới hậu quả cơ chứ? Không chỉ mỗi khí chất sai lầm mà cả những người mua nhà vay nợ quá nhiều cùng với cả phố Wall, những người cũng háo hức, cũng mong mỏi kiếm tiền thật nhanh đều đã góp phần khiến cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng và trở nên tệ hại hơn. Thị trường chứng khoán tụt dốc, nhà đầu tư cao chạy xa bay, bán tháo các cổ phiếu của họ vào đúng thời điểm tệ hại nhất; thị trường chứng khoán lại tụt dốc, nhà đầu tư lại cao chạy xa bay… Bị kích động. Tạm lắng. Rồi lại lặp lại. Trong khi đó, Buffett vẫn bình chân như vại, chờ thời cơ hành động, chờ để mua cổ phiếu của các công ty tốt với giá hấp dẫn – kiểu khí chất đúng đắn của một nhà đầu tư chứ không phải một người đầu cơ. Và đây là một tin tốt: Chúng ta có thể học để có được khí chất tập trung-dài-hạn-hơn. Chúng ta có thể trở thành những nhà đầu tư trầm tĩnh hơn. Chúng ta có thể thay đổi tư duy của mình từ một nhà đầu cơ sang một nhà đầu tư. Chúng ta có thể kìm hãm ý nghĩ mạo hiểm của bản thân. Và nếu bạn không muốn nhìn thấy những sai lầm của cuộc khủng hoảng tài chính và tình trạng hoảng loạn của năm 2008 lặp lại một lần nữa, thì đó có vẻ là một cách thông minh. Kết quả đầu tư của chính bạn sẽ được cải thiện nếu bạn học cách kiểm soát cảm xúc của mình và có khí chất-kiểu-Buffett . Bạn không thể khiến cho tất cả những người làm việc ở phố Wall tập trung vào việc cải thiện khí chất của họ, dù rằng điều đó chắc chắn khiến cho hệ thống tài chính của bạn mạnh hơn, ít thất thường hơn, nhưng chúng ta có thể bắt đầu từ đây, với hành vi của chính bạn. Và đây chính là nơi mọi việc còn trở nên thú vị hơn, ít nhất là đối với một bộ phận độc giả hoặc nhà đầu tư. Tất cả chúng ta có thể làm việc để gia tăng khí chất của mình, đúng, nhưng có một nhóm nhỏ cần làm việc chăm chỉ hơn một chút để đạt được điều đó. Và đó là những người cần nó nhất. Các “quý ông”, tôi đang nhìn các ngài đấy. Cần phải nói rằng phần lớn những doanh nhân trên phố Wall, thành viên ban giám đốc của các công ty tài chính và nhà điều hành của các ngân hàng đầu tư đều có chung một đặc điểm nổi bật – đó là có một nhiễm sắc thể Y. Phố Wall, ít nhất là “giai cấp” trên cùng, ít nhất là khi phải đưa ra quyết định hay sử dụng quyền lực để gây ảnh hưởng, chẳng phải vẫn là một câu lạc bộ các chàng trai đó sao? Và trong khi những người mua nhà, cả nam và nữ, đều phải chịu trách nhiệm cho cuộc khủng hoảng tài chính, thì phần lớn những người đã “gây nên cơ sự” và khiến tình huống càng trở nên tồi tệ hơn bằng cách ném những khoản tiền lớn vào phố Wall lại đều thuộc “phái mạnh”. Gần đây, những điểm được gọi là “tính nữ” như xây dựng mối quan hệ, kiên nhẫn và hợp tác gần như là vắng bóng trong thị trường. Nếu quanh phố Wall có thứ khí chất đó, và nếu có nhiều phụ nữ trên sàn giao dịch cũng như trong phòng điều hành hơn thì có lẽ chuyện đã khác đi. Và như thế có lẽ tất cả chúng ta đã có được những danh mục đầu tư lớn hơn và bớt được những đêm mất ngủ. Nào các quý ông, các ông có việc để giải thích rồi đây. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ có cách tiếp cận đầu tư khác so với đàn ông. Họ nghĩ lâu và không giao dịch nhiều. Họ tránh được rủi ro nhiều hơn cánh mày râu. Họ có khả năng nghĩ cho bản thân hơn và không chịu ảnh hưởng của áp lực xung quanh. Họ có ít kích thích tố sinh dục nam hơn, điều đó tác động tới thị trường theo những cách mà chúng ta vẫn đang phải dày công khám phá, nhờ có những thành tựu mới trong ngành kinh tế học thần kinh. Cách phụ nữ tiếp cận đầu tư lành mạnh và trầm tĩnh hơn, và đó cũng là cách mà tất cả chúng ta, cả nam giới và nữ giới, nên đầu tư. Trường hợp kỳ lạ ở Iceland - Thành công của công ty Tài chính Audur Capital[15] Có rất nhiều chuyện kỳ lạ xảy ra trong suốt cuộc khủng hoảng năm 2008, nhưng có lẽ, không chuyện nào kỳ lạ như chuyện đã xảy ra ở đất nước nhỏ bé Iceland. Đất nước với 300.000 dân số đã chứng kiến bước chuyển mình chỉ sau một đêm, từ một ngư quốc khiêm nhường trở thành trung tâm của hoạt động tài chính quốc tế. Những cựu ngư dân của chúng ta giờ đây đang buôn bán chứng khoán phát sinh, thứ mà có lẽ họ còn chưa bao giờ nghe tới trước năm 2003. Nợ quốc gia hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát, có thời điểm cân bằng 850% tổng thu nhập quốc nội (GDP). Rủi ro bùng phát, chủ yếu là bởi những ông chủ ngân hàng hiếu chiến, ưa mạo hiểm đã đẩy đất nước nhỏ bé này rơi thẳng vào tình trạng phá sản, chẳng còn gì ngoài hệ thống tiền tệ bị sụp đổ và những giấc mơ vỡ vụn. Công ty của họ được thành lập dựa trên “những giá trị nữ tính” và không hề bị ảnh hưởng trong cuộc khủng hoảng tài chính của Iceland – một chiến tích thực sự, nếu nhìn vào quang cảnh tài chính của nước này ngày hôm nay. Tómasdóttir(13) miêu tả suy nghĩ của mình, và giá trị của Audur, trong một bài báo được xuất bản vào tháng Hai năm 2009: “Chúng tôi có năm giá trị nữ tính chính. Thứ nhất, nhận thức rủi ro: Chúng tôi sẽ không đầu tư vào những công ty chúng tôi không hiểu. Thứ hai, lợi nhuận có nguyên tắc – chúng tôi thích một định nghĩa rộng hơn, thế nên, lợi nhuận không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế, mà còn ảnh hưởng tích cực về mặt xã hội và môi trường. Thứ ba, đồng vốn có cảm xúc. Khi đầu tư, chúng tôi tiến hành khảo sát tính khả thi về mặt cảm xúc – chúng tôi xem xét khía cạnh con người, xem xem văn hóa doanh nghiệp là một tài sản hay một tiêu sản. Thứ tư, nói chuyện thẳng thắn. Chúng tôi tin rằng ngôn ngữ của tài chính có thể tiếp cận được và không phải là một phần bản chất xa lạ của văn hóa ngân hàng. Thứ năm, độc lập. Chúng tôi muốn thấy phụ nữ càng ngày càng độc lập về tài chính, vì độc lập tài chính đem lại sự tự do lớn nhất để trở thành người bạn muốn”. Và, những giá trị nữ tính đó chính là cơ sở để họ lập được kỳ tích của mình! Thật may là có một hình mẫu nổi trội định hướng cho chúng ta trong công cuộc đi tìm khí chất của một nhà đầu tư đáng khao khát, đó là: Warren Buffett. Khi so sánh sự khác biệt giữa phong cách đầu tư của nam giới và nữ giới, phong cách đầu tư của Buffett có vẻ rất giống những chiến lược được phái nữ vận dụng. Khí chất của ông, điều làm nên con người ông và khiến ông trở thành bậc thầy về đầu tư, lại mang nhiều tính nữ hơn tính nam. Và nếu có bất cứ nghi ngờ nào về tính đúng đắn của phong cách và khí chất này so với điều gì đó nhiều tính nam hơn (chẳng hạn như vậy), hãy cho phép tôi được hướng bạn tới lợi tức ông thu được so với những gì các công ty đầu tư ở phố Wall thu được trong năm 2008 và sau đó. Phong cách của Buffett tạo nên tên tuổi Buffett trong nhiều thập kỷ, đem lại sự giàu có thịnh vượng cho ông trong khi những người đàn ông khác trên phố Wall lại phá hủy sản nghiệp của họ – và cả của chúng ta nữa! – chỉ trong một vài tháng ngắn ngủi. Trong khi họ biến khoản tiết kiệm nghỉ hưu 401(k) của chúng ta tan thành tro bụi và đẩy nền kinh tế vào vòng xoáy trôn ốc đi xuống, thì giá trị tổng thu hàng năm của Buffett lại nhiều hơn gấp đôi so với lợi nhuận của S&P 500[16] trong hơn 50 năm. Không cần phải hỏi con đường nào bền vững hơn, con đường nào thông minh hơn để tạo ra của cải sau một thời gian dài, con đường nào là tốt nhất cho chúng ta – cho tất cả chúng ta – để đầu tư cho một tương lai tươi sáng. Đã đến lúc thay đổi. Đã đến lúc phải tiếp nhận tính nữ. Đơn giản, đã đến lúc tất cả chúng ta đều nên đầu tư như những cô gái, giống như nhà đầu tư vĩ đại nhất của mọi thời đại – Warren Buffett. Và mọi việc sẽ bắt đầu từ đây. Chúng ta sẽ bắt đầu với một nghiên cứu về phụ nữ và đầu tư rồi từ đó dành thời gian tìm hiểu cách Warren Buffett thể hiện khí chất đầu tư tính nữ lý tưởng như thế nào. Sau đó chúng ta sẽ cùng học hỏi một vài nền tảng đầu tư của Foolish có thể giúp bạn trên con đường trở thành nhà đầu tư, hoặc gia tăng khoản lợi tức đầu tư hiện thời của bạn nếu bạn đã sẵn sàng đầu tư cho bản thân. Và chúng ta sẽ khép lại với những phụ lục không thể bỏ qua: Những cuộc phỏng vấn với những nhà đầu tư nổi tiếng vì khí chất của họ, đồng thời ôn lại những gì chúng ta đã học. Vì thế, hãy chuẩn bị đi nào, hãy thoải mái đi nào, hãy uống nước đi nào và hãy ổn định đi nào. Khi bạn đã đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ sẵn sàng đầu tư với một khí chất có thể đem lại thành công cho bạn. Và bạn sẽ có được niềm vui trong quá trình đó. Suy cho cùng thì đầu tư cũng nên thú vị. Chính Buffett đã nói sáng nào đi làm ông cũng nhảy chân sáo. Đọc hết cuốn sách này, bạn cũng sẽ như thế. 2 Khoa học ẩn sau con gái Sau cuộc khủng hoảng và sự hoảng loạn năm 2008, vai trò và tầm ảnh hưởng của đấng mày râu trong nền kinh tế của chúng ta có vẻ đã bị thu hẹp lại rất nhiều so với phụ nữ. Nhìn chung, trong cuộc suy thoái gần đây, nam giới bị ảnh hưởng nhiều hơn vì mất việc. Xem xét các ngành công nghiệp là gốc rễ gây nên vấn đề – nhà ở/xây dựng và tài chính – sẽ giải thích tại sao lại như vậy. Trên thực tế, hiện nay phụ nữ đã tạo thành một lực lượng lao động đông đảo. Phụ nữ đang tự trang bị cho bản thân tốt hơn cả nam giới, để phát triển và thịnh vượng trong nền kinh tế hiện tại và tương lai. Cứ trong mười người dân Mỹ có bằng cử nhân, thạc sỹ thì có sáu người là phụ nữ. Con số phụ nữ Mỹ lấy được bằng tiến sỹ trong năm 2008- 2009 cũng tăng vọt so với trước đây. Chúng ta cũng sẽ thấy phụ nữ đảm nhiệm nhiều việc liên quan tới tài chính hơn khi mà hiện tại, phụ nữ chiếm 42% số bằng thạc sỹ quản trị kinh doanh của cả nước Mỹ. Và nhìn vào sự thay đổi toàn diện diễn ra sau cuộc khủng hoảng cũng như sự tiến bộ từng ngày của những người có khí chất điềm tĩnh hơn này thì có vẻ như càng ngày càng có nhiều phụ nữ đổ bộ ở phố Wall. Như vậy, nếu chúng ta tin rằng việc áp dụng thái độ có nhiều “tính nữ” hơn nữa khi đầu tư có thể thay đổi thế giới tài chính theo chiều hướng tốt đẹp hơn. May mắn cho chúng ta, các nhà nghiên cứu và các nhà kinh tế học hành vi đã dành nhiều thời gian và công sức để chỉ ra sự khác biệt giữa cách đầu tư của nam giới và nữ giới. Những nghiên cứu và khảo sát này được tiến hành ngược về những năm trước, và bao quát gần như toàn bộ những khía cạnh của đầu tư – đưa ra quyết định, đánh giá nguy cơ, tần suất giao dịch và mức độ chắc chắn của kết quả chỉ là một vài khía cạnh trong số đó. Các nhà nghiên cứu cũng tìm hiểu khác biệt giữa những nhà đầu tư chuyên nghiệp, cả nam và nữ, chỉ ra rằng những thay đổi trong khí chất này không chỉ giới hạn trong thế giới của cá nhân nhà đầu tư. Và một số nghiên cứu thú vị gần đây đã bắt đầu khám phá ra vai trò của hoóc-môn nam tính (testosterone) trong đầu tư, mạo hiểm và giao thương. Bạn không ngạc nhiên khi nghe thấy điều đó, phải không? CON GÁI VẪN SẼ LÀ CON GÁI Trên tạp chí Kinh tế quý (Quaterly Journal of Economics) đăng bài báo được xem là nghiên cứu nổi tiếng nhất (hoặc tai tiếng nhất, theo một số người) và đột phá nhất về sự khác biệt giới trong đầu tư “Con trai vẫn sẽ là con trai: Nam tính, tự tin thái quá và đầu tư cổ phiếu thường” của Brad M. Barber và Terrance Odean của trường Đại học Californica. Bằng cách khảo sát 35.000 tài khoản môi giới giảm giá trong khoảng thời gian gần sáu năm, Barber và Odean đã khám phá ra một vài khác biệt rõ ràng giữa nam giới và nữ giới trong cả khí chất và biểu hiện. Bài báo của họ được xem như tiền đề cho nghiên cứu chứng tỏ đàn ông thường có xu hướng tự tin thái quá hơn phụ nữ để thể hiện sự “nam tính” (buồn nhưng chẳng có gì ngạc nhiên, đó là điều mà chúng ta vẫn sử dụng làm thước đo tài chính). Nói một cách đơn giản, đàn ông thường cho rằng họ biết nhiều hơn những gì họ thực sự biết. Ngược lại, phụ nữ lại dễ dàng thừa nhận những gì họ không biết hơn. Như vậy, vấn đề tự tin thái quá có vai trò gì trong hành vi và kết quả đầu tư? Bởi quá tự tin nên đàn ông sẽ giao thương nhiều hơn phụ nữ. Và giao thương thường xuyên hơn có ảnh hưởng tới kết quả đầu tư của bạn như thế nào? Nó kéo tụt kết quả, gia tăng chi phí giao dịch và gần như là vật cản đối với những quyết định đầu tư thông minh. Đàn ông đã có gia đình thất bại nhiều hơn phụ nữ đã có gia đình, nhưng không đến mức tệ hại như đàn ông độc thân. So với tất cả những gì họ biết về nghiên cứu tự tin thái quá, điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với Barber và Odean. Có vẻ như ở đây, các bà vợ có ảnh hưởng tới các ông chồng, giúp họ giảm bớt sự tự tin thái quá của mình, và điều đó có tác động ngược trở lại, giúp tăng khoản lợi nhuận đầu tư của họ. Lúc này, cần phải chú ý một điều là Barber và Odean đã phát hiện ra rằng cả hai giới đều tự làm tổn thương mình bằng cách giao dịch quá thường xuyên – nhưng đàn ông thường gây tổn thương cho mình nhiều hơn. Giao dịch không cần thiết có thể gây tổn hại nghiêm trọng cả về vật chất lẫn tinh thần. Đây chính là một trong những kết quả thú vị nhất mà Barber và Odean mang lại cho chúng ta – lý do phụ nữ vượt trội đàn ông trong đầu tư không liên quan tới việc chọn cổ phiếu tốt hơn hay tới thời điểm thị trường. Không phải là phụ nữ tìm được những cổ phiếu hoàn hảo và khoảng thời gian hoàn hảo. Barber và Odean nhấn mạnh điều này trong bài báo của họ. Từ khóa ở đây là giao dịch của phụ nữ thường mang lại kết quả tốt hơn so với đàn ông, do đàn ông tự tin thái quá hơn so với phụ nữ. Do đó, sự khác biệt có liên quan tới khí chất nhiều hơn là liên quan tới kỹ năng. Bạn có thể là nhà phân tích thị trường chứng khoán giỏi nhất, nhưng nếu không có tư duy đúng đắn, bạn có thể bị nhấn chìm với tư cách là một nhà đầu tư. Tất cả những bí quyết, phương pháp trên thế giới đều không thể đúng với những thói quen tồi được. Nói một cách ngắn gọn và đơn giản, khí chất mới là vấn đề quan trọng. Barber và Odean cũng là những người tiên phong cho rằng “phụ nữ thường nắm giữ những vị trí ít rủi ro hơn đàn ông trong danh mục đầu tư cổ phiếu thường thường”. Lý do là họ chọn cổ phiếu an toàn hơn đàn ông. Nghiên cứu đánh giá “rủi ro” đối với danh mục đầu tư của nhà đầu tư theo nhiều cách, và với tất cả những cách đó, đàn ông đều khó tránh được rủi ro hơn so với phụ nữ, và đàn ông độc thân (còn ai khác được chứ?) khó tránh được rủi ro nhất. Suy cho cùng, rủi ro càng nhiều thì kết quả đem lại sẽ càng tốt – chính suy nghĩ đó đã khiến các nhà đầu tư mạo hiểm. Nếu bạn nghĩ phần thưởng mình nhận được cho việc theo đuổi một điều gì đó không xứng đáng với công sức mà bạn đã bỏ ra, thì chắc chắn bạn sẽ không làm, đúng không? Nhưng ở đây chuyện lại không như vậy. Bất chấp việc sẵn sàng mạo hiểm vì thích thú, những nhà đầu tư nam trong nghiên cứu của Barber và Odean chỉ đơn giản là bán tháo lợi nhuận của họ. Một lần nữa, chúng ta lại phải mặt đối mặt với vấn đề khí chất. Như vậy là từ Barber và Odean, chúng ta có thể thấy rằng vì đàn ông tự tin thái quá nên họ giao dịch nhiều hơn (nhiều hơn nhiều) so với phụ nữ, và kết quả là lợi nhuận thu được của phụ nữ cao hơn. Chúng ta cũng cần phải học được một điều là phụ nữ thường nắm giữ những cổ phiếu ít mạo hiểm hơn so với đàn ông. Giao dịch ít hơn, mạo hiểm ít hơn. Như vậy là hai điểm cộng cho phái đẹp. NHẬN TIỀN VÀ CHẠY Quỹ tương hỗ Vanguard đã phân tích hoạt động của 2,7 triệu đô la trong các tài khoản IRA[17] của các nhà đầu tư của tổ chức này trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, và điều họ phát hiện ra chẳng khiến ai trong số những người biết tới kết quả nghiên cứu của Barber và Odean ngạc nhiên. Quả thực, phụ nữ dễ “ngồi im” hơn đàn ông trước hầu hết những trò hề mạo hiểm của thị trường biến động và không hề động vào danh mục đầu tư của họ. Đàn ông thường có xu hướng hoảng loạn và bán tháo cổ phiếu của họ trong thời điểm sai lầm – khi chạm đáy. Hiển nhiên họ rơi vào thua lỗ nặng, và cũng dễ thất bại khi thị trường hồi phục. Sự tự tin thái quá của đàn ông khiến họ giao dịch khi họ không nên giao dịch, trong khi hành động tốt nhất là nên giữ vững lập trường, đứng im. Chắc hẳn bạn vẫn nhớ cảnh tượng đau khổ mà tôi đã miêu tả trong Chương 1 không - cảnh mà cả thị trường đổ sụp xung quanh chúng ta? Đó là khoảng thời gian khó có thể đứng im và làm điều đúng đắn được (điều đúng đắn ấy tất nhiên là không được bán). Khả năng giữ bình tĩnh và không đưa ra những quyết định vội vàng khi phải đối mặt với sự hỗn loạn là một đặc tính vô cùng quan trọng đối với những nhà đầu tư thành công sau một thời gian dài. Và đó cũng là một trong những điều khó làm chủ nhất. Có cảm giác thời điểm đó giống như địa ngục vậy. Tin tôi đi, tôi vẫn nhớ sự tụt dốc đó như thế nào. Tôi nhớ ruột gan mình lộn tùng phèo khi nhìn thấy danh mục đầu tư của mình cứ đỏ dần, đỏ dần sau mỗi ngày. Nhưng tôi cũng biết rằng tôi sẽ cảm thấy tệ hơn nhiều khi thế giới vượt qua được thời kỳ khó khăn cũng là lúc tôi đã bán sạch mọi thứ. Dựa vào dữ liệu của Vanguard thì có vẻ như trong cơn bão đầu tư gần đây nhất, số phụ nữ chứng tỏ được khả năng kiên nhẫn và chờ đợi quan trọng này nhiều hơn hẳn so với đàn ông. KHI CHỦ NGHĨA LẠC QUAN KHÔNG PHẢI LÀ TỐI ƯU Từ nãy đến giờ chúng ta đã học được một điều phụ nữ thường giao dịch ít hơn đàn ông, mạo hiểm ít hơn và nhiều khả năng là sẽ không bán tháo vào những thời điểm có vẻ là tồi tệ nhất. Giờ chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một khía cạnh tích cực của chủ nghĩa bi quan, nghe có vẻ như ngược với lẽ thường. Trong bài báo của mình: “Nhà đầu tư nữ và sự gian lận chứng khoán: Nhà đầu tư có lý trí có phải là một phụ nữ?”, tác giả Joan MacLeod Heminway của trường Đại học Luật, Đại học Tennessee, đã trình bày chính xác lịch sử của phần lớn nghiên cứu về thói quen đầu tư của nam giới so với nữ giới. Một điểm thú vị mà tác giả nhấn mạnh là những nhà đầu tư nữ có lẽ kém lạc quan hơn so với những nhà đầu tư nam – và tôi cho rằng đó là một điều tốt. Lạc quan là điều đáng đấu tranh để có được trong hầu hết các khía cạnh cuộc sống của chúng ta, nhưng trong đầu tư, nó lại có thể đầu độc nhận định và đánh giá của bạn. Người lạc quan thường cường điệu khả năng và sự nhạy bén đầu tư (đó chính là “sự tự tin thái quá” mà Barber và Odean đã đề cập đến), thường mạo hiểm và đôi khi có thể chỉ quan tâm tới những thông tin tích cực cũng như có tác dụng hỗ trợ cho những kết luận họ vừa mới đưa ra. Bởi chỉ nhìn vào những khía cạnh tích cực mà họ thường mặc định là những cổ phiếu của họ sẽ đem lại lợi tức cao. Ngược lại, người bi quan lại có vẻ thực tế hơn, và trong đầu tư, vào bất kỳ ngày nào trong tuần, chủ nghĩa hiện thực trắng-mắt cũng có thể đánh bại được chủ nghĩa lạc quan bánh-ở-trên-trời. Phụ nữ, một phần nhờ không được tự tin như đàn ông, một phần nhờ đánh giá hiểu biết đầu tư của bản thân thấp hơn so với những gì đàn ông vẫn tin tưởng về kỹ năng đầu tư của họ, nên thường phản ứng thực tế hơn. Họ giỏi hơn đàn ông trong việc đánh giá về khả năng của bản thân và những khoản lợi nhuận tiềm năng, ngay cả khi điều đó có nghĩa là họ thường nghi ngờ bản thân hơn. Tự tin thái quá và chủ nghĩa lạc quan có thể giết chết lợi nhuận, thế nên, trong trường hợp này, một chút nghi ngờ bản thân thực sự phát huy tác dụng đối với phụ nữ. CON GÁI CHỈ MUỐN CÓ QUỸ Giờ chúng ta đã biết được rằng nhà đầu tư cá nhân nữ thường có xu hướng ít lạc quan hơn, không dễ hoảng hốt và bán tháo khi thị trường đang chao đảo xung quanh họ, giao dịch ít hơn và ít mạo hiểm hơn. Thế còn những nhà đầu tư chuyên nghiệp là nữ thì sao? Liệu có còn những khác biệt này không? Stefan Ruenzi và Alexandra Niessen đã tiến hành một nghiên cứu về sự khác biệt giữa các nhà quản lý quỹ tương hỗ nam và nữ. Nghiên cứu kiểm chứng một vài kết quả trong quá khứ và khám phá ra một vài kết quả mới. Cặp đôi này đã phân tích lợi nhuận của tất cả các quỹ tương hỗ Mỹ do cá nhân quản lý (so với đội nhóm) trong giai đoạn từ tháng Một năm 1994 tới tháng Mười Hai năm 2006. Tổng cộng, hai tác giả đã nghiên cứu 15.170 quỹ tương hỗ, khoảng 10% trong số đó do phụ nữ quản lý. Dù rằng sự khác biệt đối với bộ phận các nhà đầu tư này không giống như khác biệt đã được tuyên bố về những nhà đầu tư nhỏ lẻ (hay cá nhân), nhưng họ vẫn nhấn mạnh lợi thế khí chất của phụ nữ. Một lần nữa, những nhà đầu tư nữ đã chứng tỏ họ e ngại rủi ro hơn so với các nhà đầu tư nam. Thông tin mới ở đây là các nữ quản lý quỹ thường ít quá khích hơn, bám trụ với khoản đầu tư của mình lâu hơn; ít có nhu cầu thay đổi phong cách đầu tư hơn và không giao dịch thường xuyên như các nhà đầu tư nam. Và, ngay cả giữa những nhà đầu tư chuyên nghiệp, sự khác biệt đó vẫn tồn tại. Tuy nhiên, điều thú vị ở đây là phụ nữ với khí chất kiên định, bình tĩnh cũng không có lợi thế hơn về hành động so với nam giới. Hành động của cả hai nhóm đều tương đương nhau. Nhưng hành động không phải là tất cả. Nhất quán và “kiên trì hành động” (hay khả năng tạo ra những khoản lợi tức đều đặn từ năm này qua năm khác) đều là những điều quan trọng. Ruenzi và Niessen đã chứng minh được các quỹ tương hỗ do phụ nữ quản lý trong nghiên cứu đã thu được những khoản lợi nhất quán hơn và kiên trì hành động hơn. Đó là nhờ phụ nữ luôn sống thật với quá trình và triết lý đầu tư của mình, không thay đổi phong cách đầu tư để theo đuổi những điều hấp dẫn nhất thời và sẵn sàng sử dụng “phong cách đầu tư kém quá khích hơn”. Các tác giả khẳng định: “Những phát hiện này chỉ ra rằng hành động quá khứ có thể dự báo được rằng trong tương lai những quỹ mà phụ nữ quản lý sẽ hoạt động tốt hơn so với những quỹ mà nam giới quản lý”. Trong khi nghiên cứu của Ruenzi và Niessen chỉ ra rằng không có sự khác biệt quan trọng nào trong hành động của các nhà quản lý quỹ tương hỗ nam và nữ thì những số liệu thống kê gần đây về các nhà quản lý quỹ phòng hộ (hedge Fund[18]) lại tiết lộ điều hoàn toàn trái ngược. Quỹ phòng hộ là loại quỹ đầu tư đặc biệt dành cho hầu hết các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức có giá trị tài sản ròng cao. Thông thường, quản lý của các quỹ đó “che chắn, bảo vệ” danh mục đầu tư của họ với cả cổ phiếu dài hạn và ngắn hạn (nghĩa là họ cá rằng có một vài cổ phiếu sẽ tăng và một số cổ phiếu sẽ giảm giá trị). Trong nhiều trường hợp, quỹ phòng hộ có thể mạo hiểm hơn quỹ tương hỗ thông thường. Tập đoàn Nghiên cứu Quỹ Phòng hộ (Hedge Fund Research, Inc.), nguồn thông tin và dữ liệu về ngành công nghiệp quỹ phòng hộ, đã theo dõi hoạt động hàng năm của các quỹ phòng hộ do nữ quản lý từ năm 2000 tới tháng Năm năm 2009. Họ phát hiện ra rằng các quỹ phòng hộ do phụ nữ quản lý, kể từ khi bắt đầu, đạt tỉ lệ lợi tức trung bình là 9,06%, cao hơn so với tỉ lệ trung bình 5,82% của các quỹ phòng hộ khác. Như thể kết quả vượt trội đó chưa đủ ấn tượng, tập đoàn này còn khám phá ra rằng trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, những quỹ do phụ nữ quản lý đó đều không bị ảnh hưởng nặng nề như những quỹ khác với mức sụt giảm là 9,61% trong khi mức sụt giảm của các quỹ khác (quỹ không do phụ nữ quản lý) là 19,03%. Như vậy là họ hoạt động tốt hơn ở ví dụ trên và mất mát ít hơn ở ví dụ dưới. Dù nghiên cứu này không đưa ra lý do đặc biệt nào cho kết quả vượt trội này, nhưng chúng ta vẫn có thể đoán được có lẽ nó có liên quan gì đó tới điều chúng ta đã nhận thấy ở các nghiên cứu khác. ĐẶT ÁP LỰC XUNG QUANH VÀO ĐÚNG CHỖ Như vậy, từ đầu tới giờ, chúng ta đã xây dựng trong đầu mình một hình ảnh về nhà đầu tư nữ như một người ít mạo hiểm hơn, giao dịch ít hơn, có vẻ thực tế hơn và có khả năng chống chọi với thị trường đang chao đảo tốt hơn các nhà đầu tư nam. Chúng ta cũng đã biết được rằng các nhà đầu tư nữ có xu hướng tạo ra những kết quả nhất quán hơn, và trong thế giới quỹ phòng hộ, các quỹ nằm dưới quyền kiểm soát của phụ nữ hoạt động tốt hơn (cả trong vấn đề lợi tức lẫn vấn đề chống thất thoát) so với các quỹ do nam giới điều hành. Nhưng vẫn còn nhiều thứ hơn thế để khám phá về khí chất và sự kiên định của phụ nữ trong thế giới đầu tư. Một báo cáo mới đây từ Ủy ban Nghiên cứu Nhà nước về Phụ nữ (National Council fof Research on Women), khẩn khoản yêu cầu ngành công nghiệp tài chính nên dành thêm nhiều vị trí quản lý quỹ cho phụ nữ, đã nhấn mạnh rất nhiều nghiên cứu và khảo sát về phụ nữ và đầu tư. Tất nhiên, Ủy ban có quan điểm mạnh mẽ, và báo cáo tìm cách thuyết phục ngành công nghiệp tài chính rằng việc có thêm phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực tài chính sẽ mang đến những khoản lợi tức đầu tư tốt hơn, ít mạo hiểm hơn và những lợi ích từ việc đa dạng tư duy. Nhìn lại những gì chúng ta vừa học được, có vẻ như họ đã nói đúng. Dù vậy, điều thú vị ở đây là hai kết quả cụ thể được nhấn mạnh trong báo cáo: Phụ nữ nghiên cứu quyết định đầu tư của họ kỹ lưỡng hơn đàn ông và họ ít chịu ảnh hưởng của áp lực xung quanh hơn. Báo cáo nhắc tới một nghiên cứu năm 2002 trong Tạp chí quốc tế về Tiếp thị ngân hàng (International Journal of Bank Marketing), cho biết phụ nữ đào sâu hơn, phân tích nhiều thông tin và chi tiết hơn, và có vẻ cân nhắc tới mọi thông tin liên quan tới vụ đầu tư hơn, ngay cả khi thông tin đó có mâu thuẫn với nghiên cứu ban đầu của họ. Nói một cách ngắn gọn, họ muốn biết càng nhiều càng tốt, và họ dành thời gian để làm việc đó. Ngược lại, cánh mày râu thường sử dụng các thông tin rút gọn, xem xét các nhân tố rõ ràng nhất và bỏ qua những dữ liệu đi ngược lại suy đoán ban đầu của họ. Nói cách khác, đàn ông đơn giản hóa mọi chuyện và cứ thế tiến băng băng về phía trước, còn phụ nữ lại thích tìm hiểu cặn kẽ và cứ từ từ tiến. Phát hiện tiếp theo còn thú vị hơn. Một nghiên cứu được thực hiện năm 2008 của Santa Barbara ở trường Đại học California đã chỉ ra rằng khi đàn ông bị quan sát và đánh giá bởi những người đàn ông khác mà họ xem là ở cùng đẳng cấp (hoặc đồng lứa) với họ, họ thường có xu hướng đưa ra những quyết định mạo hiểm hơn mức cần thiết trong những khoảng thời gian mất mát hoặc xung đột, với nỗ lực nhằm khẳng định địa vị thống trị của mình. Tệ hơn nữa, ngay cả khi được lựa chọn giữa hai phương án có kết quả hoàn toàn giống nhau, đàn ông vẫn chọn con đường nhiều rủi ro hơn. Trong hoàn cảnh tương tự, phụ nữ sẽ không phản ứng giống như vậy; họ vẫn chọn đúng con đường mà họ đã chọn, bất chấp người đang quan sát họ là ai. Họ có khả năng đưa ra những quyết định dựa trên các nhân tố chủ quan, chứ không phải để cố thể hiện ưu thế trước một đối thủ. Việc nghĩ tới tác động của áp lực xung quanh này trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính, nơi mà các sàn giao dịch và các phòng điều hành đều chật ních những người đàn ông đang cố đấu đá lẫn nhau, là điều thật thú vị và cũng thật phiền phức. Điều đó chỉ chứng tỏ một điều rằng áp lực xung quanh không chỉ là vấn đề đối với các cô bé 13 tuổi vẫn thường chí chóe nhau trên những con đường ở bên ngoài trường cấp hai (“Thật không? Con bé ấy nói cái gì về mình?”). BẠN HẲN ĐÃ SAI LẦM? Năm 2004, Merrill Lynch Investment Managers, giờ là một phần của BlackRock[19], đã tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến qua điện thoại đối với 1.000 nhà đầu tư (500 nam và 500 nữ) trên khắp đất nước và đưa ra một dữ liệu về việc học hỏi từ sai lầm. Dữ liệu này sẽ giúp chúng ta mô tả đặc điểm của các nhà đầu tư nữ - những người mà chúng ta đã khám phá ra là có xu hướng ít giao dịch hơn, ít mạo hiểm hơn, thực tế hơn, bình tĩnh hơn khi thị trường có dấu hiệu hay đang trong tình trạng khủng hoảng, tiến hành nghiên cứu kỹ hơn và chống lại áp lực xung quanh tốt hơn và chỉ ra một vài khác biệt quan trọng nữa về khí chất giữa nhà đầu tư nam và nhà đầu tư nữ. Khảo sát của Merrill đã phát hiện ra rằng đàn ông nhiều khả năng sẽ mua “khoản đầu tư hấp dẫn mà không thực hiện bất cứ nghiên cứu nào” hơn so với phụ nữ (tỉ lệ là 24% so với 13%). Trong số những người đàn ông thừa nhận sai lầm này, 63% cho biết đã từng làm như vậy nhiều hơn một lần. Con số này ở phụ nữ là 47%. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi số người đàn ông thừa nhận rằng sự tham lam, tự tin thái quá và thiếu kiên nhẫn đã góp phần tạo nên những sai lầm trong đầu tư của họ nhiều hơn phụ nữ. Nhận ra mình vừa mắc sai lầm và sau đó rút kinh nghiệm để không lặp lại sai lầm đó là điều vô cùng quan trọng đối với nhà đầu tư. Như chúng ta sẽ cùng tìm hiểu, Warren Buffett đặc biệt giỏi việc này. Và ít nhất, dựa trên khảo sát của Merri, cũng như những gì chúng ta đã học được từ trước đến giờ về sự tự tin thái quá và ảnh hưởng của nó tới lối suy nghĩ rành mạch, có thể kết luận phụ nữ có vẻ sắc sảo hơn đàn ông trong vấn đề này. ĐỔ LỖI CHO HOÓC-MÔN Kinh tế học hành vi đã cho chúng ta thấy rằng phụ nữ e ngại rủi ro hơn đàn ông, giao dịch ít hơn và danh mục đầu tư của họ có kết quả tốt hơn. Họ thực tế hơn, rằng họ là nhà đầu tư kiên định hơn đồng thời có xu hướng tham gia vào những nghiên cứu kỹ lưỡng hơn và có khả năng phớt lờ áp lực xung quanh. Nhờ kinh nghiệm trong ngành kinh tế học hành vi và tài chính của những người như Odean và Brad Barber, chúng ta đã có cái nhìn tương đối đầy đủ về điều khiến bất cứ ai cũng mong muốn có được khí chất của nhà đầu tư nữ. Những nghiên cứu mới đây từ lĩnh vực kinh tế học thần kinh đã cho chúng ta một cái nhìn trọn vẹn hơn: Việc thiếu tính nam của phụ nữ so với đàn ông giúp họ trở thành những nhà đầu tư trầm tĩnh hơn, có nguyên tắc hơn (xin lỗi, thưa các quý ông.) Kinh tế học thần kinh (theo ghi nhận, thuật ngữ được tạo ra bởi Giáo sư Paul Zak của trường Đại học Claremont Graduate đưa ra) tìm cách kết hợp “các phương pháp của khoa học thần kinh và kinh tế học để nghiên cứu cách con người đưa ra quyết định liên quan tới mạo hiểm, cũng như quyết định chiến lược liên quan tới những mối quan hệ với người khác”. Bằng cách xem xét cách thức các chất hóa học trong cơ thể ảnh hưởng tới não bộ và cách thức suy nghĩ của chúng ta, lĩnh vực nghiên cứu thú vị này đã mở ra một thế giới của những khả năng mới để hiểu được hành động đưa ra quyết định tài chính và chấp nhận rủi ro. John M. Coates của trường Đại học Cambridge đã làm rung chuyển thế giới tài chính vào năm 2008, khi công bố kết quả sơ bộ của một nghiên cứu liên quan tới hoóc-môn nam tính (testosterone), hoóc môn thận trọng (cortisol[20]) và lợi nhuận kinh doanh mà ông đã dày công nghiên cứu. Coates cùng với cộng sự, Joe Herbert, đã thu thập những câu chuyện kể từ 17 doanh nhân ở Luân Đôn hai lần một ngày trong tám ngày, và đo mức độ hoóc-môn nam tính cũng như hoócmôn thận trọng của những doanh nhân này. Sau đó, Coates theo đuổi nghiên cứu trước đây của ông bằng cách cộng tác với người khác, tiến hành nghiên cứu chi tiết hơn, dựa trên những phát hiện liên quan tới 17 doanh nhân đó cùng với mức độ nam tính và thận trọng của họ. Đó chính là nghiên cứu mà chúng ta sẽ đào sâu tìm hiểu ở đây. (Đừng sợ − khoa học cũng thú vị mà, tôi hứa đấy). Những doanh nhân này đều là các nhà đầu cơ vị thế[21], đối tượng chính mua hay sử dụng hợp đồng tương lai[22] và họ thường xuyên phải ra những quyết định trong thời gian chỉ tính bằng giây. Không phải chúng tôi đang nói về những nhà đầu tư cổ phiếu cá nhân tiêu biểu của bạn, tuy nhiên, kết quả tìm thấy lại rất lôi cuốn và có ý nghĩa bao hàm rất rộng. Dựa trên hai học thuyết tiên phong về nam tính, thuyết “thách thức” và “hiệu ứng người chiến thắng”, các nhà khoa học đã tìm ra cách đo mức độ ảnh hưởng của nam tính đối với vấn đề mạo hiểm. Thuyết “thách thức” cho rằng ở nam giới, mức độ nam tính tăng cao tới mức cần thiết cho việc thực hiện hành vi giao cấu; và chỉ tăng cao hơn khi đàn ông phải đối mặt với nguy hiểm, tạo ra sự hiếu chiến. Tuy nhiên, các nhà khoa học chỉ có thể dễ dàng tìm thấy bằng chứng để chứng minh tính đúng đắn của thuyết “thách thức” trong những nghiên cứu liên quan tới động vật chứ không phải những nghiên cứu liên quan tới con người, một phần là do bộ não phát triển cao của loài người chúng ta có thể vượt qua nhiều tác động của hoóc-môn hơn so với các loài khác. Hơn nữa, sẽ rất khó để có thể hiểu chính xác ý nghĩa cũng như cách thức “đo đạc” những chủ đề mơ hồ như “tính hiếu chiến” của mỗi nghiên cứu. Đây là lý do khiến các nhà khoa học người Anh thấy lạc quan về nghiên cứu của họ - bởi, chẳng hạn như, thật dễ để định lượng và tính toán được lợi nhuận cũng như mất mát của nhà kinh doanh. Và trong khi các nhà đầu tư nam có thể không “hiếu chiến” tới mức muốn xảy ra mâu thuẫn hay phải “nói chuyện bằng tay”, trước mắt họ vẫn tồn tại một “thách thức” dưới dạng một cuộc cạnh tranh với những người khác để thu được lợi nhuận cao hơn. (Và xin hãy nhớ cả điều chúng ta đã được học lúc trước về tác động của áp lực xung quanh lên đàn ông.). Ngược lại, thuyết “hiệu ứng người chiến thắng” lại được hậu thuẫn bởi những tài liệu ở cả thế giới động vật lẫn thế giới thể thao. Về cơ bản, nó miêu tả cách “vận hành” của mức độ nam tính trong các cuộc cạnh tranh cho dù là giữa những con vật, giữa các vận động viên hay các đội thi đấu thể thao. Nói một cách đơn giản, mức độ nam tính tăng để dự báo đối đầu hay một cuộc thi đấu. Tuy nhiên, con vật hoặc vận động viên giành chiến thắng chiếm thế thượng phong so với đối phương nhờ mức độ nam tính cao hơn, còn kẻ chiến bại, bạn có thể đoán được – là kẻ có mức độ nam tính thấp hơn (và chắc chắn là cụp đuôi, có thể nói ngoa dụ như vậy). Điều đáng nói là chiến thắng chính là nguyên nhân gia tăng nam tính, nam tính gia tăng lại dẫn tới chiến thắng nhiều hơn, chiến thắng nhiều hơn lại tạo ra một chuỗi chiến thắng phản hồi, và gia tăng mức độ nam tính. Đó là “hiệu ứng người chiến thắng”. Vì thế, bằng cách lấy thuyết “thách thức” và “hiệu ứng người chiến thắng” làm khung xem xét nghiên cứu, các tác giả muốn tìm hiểu xem có mối tương quan nào giữa mức độ nam tính và những ngày thu được nhiều lợi nhuận nhất của các nhà kinh doanh không. Và các nhà nghiên cứu đã khám phá ra rằng quả thực trong những ngày mà nhà kinh doanh thành công nhất, kiếm được nhiều tiền nhất, họ đã thể hiện mức độ nam tính cao nhất. Gạt hình ảnh những nhà kinh doanh với chiếc cổ nổi ven gân guốc, mặt đỏ phừng phừng, mồ hôi nhỏ ròng ròng và miệng quát tháo liên hồi sang một bên, nghiên cứu này cho thấy mức độ nam tính cao hơn có thể giúp họ sàng lọc thông tin nhanh hơn đồng thời có thể đưa ra được những quyết định nhanh chóng và mạo hiểm. Kiểu giao thương với “tần suất cao” mà những người này chọn là biểu hiện hoàn hảo của cái gọi là lợi ích của nam tính. Các tác giả nghiên cứu có cùng một niềm tin là với những phong cách đầu tư khác, dễ tính toán hơn thì lợi ích của nam tính có thể thực sự gây tổn hại tới kết quả. Họ cũng nhấn mạnh rằng kiểu giao thương “sung sức” này cũng có yếu tố vật lý của nó, yếu tố cũng có thể đắc lợi nhờ sự hiện diện của mức độ gia tăng nam tính. Loại hoóc-môn thứ hai ở đây, hoóc-môn thận trọng (cortisol), lại gia tăng trong những tình huống căng thẳng. Do đó, các nhà khoa học tin rằng nó có thể “bung” lên khi doanh nhân bắt đầu mất tiền. Tuy nhiên, đó thực sự không phải điều họ đã phát hiện ra. Mức độ hoóc môn thận trọng đúng là có tăng, nhưng nó chẳng có mối liên quan nào với việc mất tiền. Thay vào đó, việc gia tăng hoóc-môn thận trọng thể hiện mối tương quan với sự gia tăng độ bất ổn của thị trường. Hoóc-môn thận trọng giúp chúng ta chuẩn bị cho những tình huống ngoài dự kiến, không chắc chắn, và sự bất ổn của thị trường lại khiến cho quang cảnh càng trở nên không chắc chắn hơn. Trích dẫn từ nghiên cứu: “Kết quả của chúng tôi đặt ra giả thuyết là hoóc-môn nam tính liên quan tới lợi tức kinh tế, còn hoóc-môn thận trọng liên quan tới rủi ro”. Vì thế, khi thị trường nằm ngoài tầm kiểm soát và nhà đầu tư không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo thì mức độ thận trọng của họ sẽ tăng, giúp họ chuẩn bị sẵn sàng cho điều không lường trước được. Giả sử chúng ta đã biết nhà kinh doanh thành công là người có mức độ hoóc-môn nam tính tăng và cơ thể họ “phản ứng” với sự bất ổn của thị trường cũng như những điều bất ngờ bằng cách sản sinh ra nhiều hoóc-môn thận trọng, vậy thì tất cả những điều đó có ý nghĩa gì đối với cả nhà đầu tư nam và nữ cũng như đối với thị trường tài chính nói chung? Chính mặt tối của những hiệu ứng tích cực đó của hoóc-môn nam tính và thận trọng có thể gây tổn hại cho thành tích cá nhân, và có lẽ, khi nhìn từ góc độ vĩ mô, nó thậm chí còn gây tổn hại cho thị trường tài chính của chúng ta. Hãy bắt đầu với việc tìm hiểu hoóc-môn thận trọng. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng khi số lượng hoóc-môn thận trọng đạt tới một mức độ nhất định, nó thực sự có thể gây ảnh hưởng tới hành động bằng cách khiến các nhà đầu tư e ngại rủi ro một cách phi lý. Họ thấy nguy hiểm hiện hình sau mọi động thái của thị trường, thấy điều khủng khiếp sau mọi biểu tượng trên băng điện báo[23] hay chuyển động cả màn hình. Khi số lượng hoóc-môn thận trọng dâng lên quá cao trong một khoảng thời gian quá dài, và tình hình trở nên rất xấu, nó có thể trở thành một lời tiên tri tự trở thành hiện thực, nhà giao dịch không sẵn sàng hành động ngay cả khi đó là một hành động khôn ngoan, thậm chí là vì lợi ích lớn nhất của bản thân họ. Những người quá thận trọng sẽ thường xuyên ở trong tình trạng lo lắng, sợ hãi và không dám hành động. Ở mức độ vĩ mô, trạng thái “liệt” tinh thần này có thể khiến sự sụt giảm của thị trường kéo dài hơn mức đáng ra sẽ thế. Sự bất ổn sinh ra hoóc-môn thận trọng, hoóc-môn thận trọng lại khiến bất ổn càng trở nên nghiêm trọng hơn, và cứ tác động qua lại như vậy. Nó có thể tác động đáng kể tới thị trường vốn đã tụt dốc, khiến cho sự sụt giảm càng trở nên đáng sợ hơn. Nam tính, như chúng ta đã đề cập lúc trước, có thể giúp nhà giao dịch mạo hiểm và di chuyển nhanh hơn, đem lại lượng tiền khổng lồ vào đúng thời điểm. Nhưng quá nhiều nam tính trong một khoảng thời gian quá dài có thể dẫn tới hành động mạo hiểm thái quá, và nhà giao dịch quá coi trọng nam tính vốn có khả năng thu lợi ngày hôm nay có thể có kết thúc ngược lại trong ngày mai. Trong thị trường bất ổn, chúng tôi nhận thấy một người mạo hiểm bột phát sẽ nhanh chóng rơi vào trạng thái lo sợ rủi ro, khiến thị trường “có đà” tụt tiếp. Tuy nhiên, kết luận của nhóm nghiên cứu là hoóc-môn không nhất thiết là nguyên nhân gây nên thị trường bong bóng và sự đổ vỡ của thị trường, nhưng họ cho rằng “hoóc-môn có thể phóng đại một trạng thái của thị trường khi nó được hình thành”. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn cho rằng sự đa dạng về tuổi tác và giới tính trong thị trường tài chính sẽ giúp thị trường ổn định hơn. Họ chỉ ra rằng phụ nữ chỉ có 5-10% số lượng hoóc-môn nam tính của đàn ông, và như chúng ta đã biết, một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng họ dễ dàng làm chủ được cảm giác căng thẳng và áp lực xung quanh được tạo ra bởi những tình huống cạnh tranh lên cánh đàn ông. Do đó, có lý do để tin rằng nhờ thực tế thiếu hụt hoóc-môn nam tính tự nhiên, nên việc đưa phụ nữ lên sàn giao dịch, vào phòng hội đồng quản trị và những vị trí quan trọng vốn do cánh mày râu đảm nhận trong thế giới tài chính (vốn vẫn chỉ xoay quanh đàn ông) sẽ “giúp làm suy yếu những khuynh hướng thất thường của thị trường”. (Hãy thêm câu chuyện của chính bạn vào đây). Vậy thì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào mùa thu năm 2008 liệu có xảy ra hoặc liệu có nghiêm trọng như vậy không nếu có nhiều phụ nữ hơn tham gia vào thế giới tài chính cấp cao? Liệu việc thiếu hoóc-môn nam tính của họ có điều chỉnh được tác động của hoóc môn nam, có giảm bớt thăng, trầm và có xoa dịu được cơn bão không? Tất nhiên là chẳng ai có thể nói chắc 100%, nhưng mọi dấu hiệu đều cho thấy sự khác biệt lớn không chỉ về giới tính, mà cả trong suy nghĩ, kinh nghiệm cũng như cách nhìn nhận, đều có thể dẫn tới một kết quả hoàn toàn khác. CHÂN DUNG NHÀ ĐẦU TƯ NỮ Các học giả và các nhà khoa học chắc chắn sẽ còn tiếp tục nghiên cứu sự khác biệt trong hành vi đầu tư, thái độ và kết quả giữa hai phái, nam và nữ. Đề tài này chưa bao giờ nhàm chán, đôi lúc gây tranh cãi và luôn luôn khơi gợi. Đặt những điều đã học vào cạnh nhau, chúng ta sẽ có một bức tranh miêu tả khí chất đầu tư thành công, và nó thực sự rất quen thuộc. Nhưng trước khi xem xét sự giống nhau giữa Warren Buffett và một nhà đầu tư nữ, những đặc điểm khiến ông trở thành nhà đầu tư vĩ đại nhất của mọi thời đại và cũng chính là điều mà tất cả chúng ta có thể học hỏi được từ khí chất của ông, hãy cùng ôn lại. Nhà đầu tư nữ thường: 1. Giao dịch ít hơn nam giới 2. Không thể hiện sự tự tin thái quá: Đàn ông nghĩ họ biết nhiều hơn những gì họ thực sự biết, trong khi phụ nữ lại luôn biết mình không biết những gì 3. Tránh rủi ro giỏi hơn nhà đầu tư nam 4. Ít lạc quan hơn, do đó, thực tế hơn so với đồng nghiệp nam 5. Dành nhiều thời gian và nỗ lực hơn để nghiên cứu các khoản đầu tư, cân nhắc mọi chi tiết và góc cạnh, đồng thời cân nhắc mọi quan điểm thay thế 6. Miễn dịch tốt hơn đối với áp lực xung quanh, và có xu hướng đưa ra quyết định mà không bị ảnh hưởng bởi quan điểm/ý kiến của người xung quanh. 7. Học từ chính sai lầm của bản thân 8. Có ít hoóc-môn nam tính hơn nam giới nên ít mạo hiểm hơn, điều này dẫn tới những vòng quay thị trường bớt cực đoan. Kết quả của sự khác biệt trong cách tiếp cận đầu tư, cũng như khí chất, là các nhà đầu tư nữ thường tạo ra những kết quả nhất quán và kiên định hơn. Bạn có thể dựa vào họ. Và trong thế giới quỹ phòng hộ, những quỹ phòng hộ do nữ giới quản lý hoạt động tốt hơn hẳn so với những quỹ phòng hộ do nam giới quản lý, và kết quả họ thu được không chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ những lần sụt giảm của thị trường. Tám đặc tính kể trên tạo nên một kiểu tư duy đầu tư mà tất cả những nhà đầu tư – nam cũng như nữ – đều nên học hỏi. Và tất cả chúng ta đều có thể – hoàn toàn có thể – học hỏi được. Sẽ không dễ dàng, sẽ cần phải luyện tập và làm việc chăm chỉ, và chúng ta có thể trượt ngã hết lần này tới lần khác, nhưng đó là điều hoàn toàn có thể đạt được. Chúng ta có thể đạt được những kết quả gần giống như kết quả tuyệt vời của các nhà đầu tư nữ – và của cả Warren Buffett – nếu chúng ta thực hiện đúng như vậy. Quan trọng là phải thử. Chúng ta cần phải đào hố chôn thứ quan điểm cũ kỹ của phố Wall bởi rõ ràng là khủng hoảng tài chính ảnh hưởng tới những người có liên quan và thậm chí là cả những người chẳng có liên quan gì. Vấn đề là, tất cả mọi người đều sẽ nghèo hơn vì nó. Vì thế, hãy đọc tiếp đi để cùng chúng tôi khám phá xem làm thế nào mà nhà đầu tư vĩ đại nhất mọi thời đại có thể hòa hợp với phần tính nữ của ông nhiều hơn mức bạn có thể nhận ra, và tại sao trong đầu tư, đây lại lại một điều tốt? 3 Giới thiệu nhanh về “Thánh nhân” Trước khi chúng ta đi sâu vào xác định những đặc điểm tạo nên khí chất “nữ tính” của Warren Buffett trên danh nghĩa một nhà đầu tư, chúng ta hãy cùng tìm hiểu một chút về người được nhiều người gọi bằng cái tên “Thánh nhân của Omaha”. Warren Edward Buffett sinh ngày 30 tháng Tám năm 1930, ở vùng quê yêu dấu Omaha, bang Nebraska. Với tất cả những gì chúng ta biết về con người ông sau này, chẳng có gì ngạc nhiên khi biết lúc nhỏ, Warren Buffett là một cậu bé lớn trước tuổi có hứng thú đặc biệt với các con số, các chi tiết và với việc kiếm tiền. Buffett rất thông minh và nỗ lực, lần đầu đột phá vào thế giới thương mại là khi mới 6 tuổi với việc bán kẹo cao su. Warren tiếp tục kiếm tiền bằng mọi cách mà một đứa trẻ có thể làm được, từ việc bán những chai sô-đa ở quanh khu vực mình ở, tới bán những quả bóng gòn cũ cho những người chơi ở sân gôn trong vùng. Khi Buffett 12 tuổi, cha cậu được bầu vào Quốc hội, buộc gia đình phải chuyển từ Omaha tới thủ đô Washington, Buffett không hứng thú với việc chuyển nhà, và gặp khó khăn trong việc kết bạn cũng như hòa nhập với ngôi trường mới. Tuy vậy, tình yêu kinh doanh và sự chăm chỉ của cậu đã được tưởng thưởng xứng đáng khi cậu bắt đầu lộ trình yêu thích để giao tờ báo Washington Post. Chính nhờ sớm được tiếp xúc với ngành báo này đã giúp Buffett phát triển tình yêu với những con chữ in, thứ tình yêu vẫn còn mãnh liệt cho tới tận ngày nay. Ở trường trung học, Buffett vẫn tiếp tục công việc giao báo, và bắt đầu mở thêm cả những công việc kinh doanh khác nhờ số tiền kiếm được từ việc giao báo. Cậu đã mua một trang trại rộng 40 ha ở Nebraska, cách Omaha khoảng một giờ đi đường, cho một nông dân canh tác trên trang trại đó và chia lợi nhuận thu được cho cậu. (Hãy nhớ, chúng ta vẫn đang nói về một cậu học sinh trung học phổ thông đấy nhé! Có nhớ bạn làm được gì khi học cấp ba không? Tôi cá là không phải việc mua được một trang trại ở Nebraska). Lần đầu Buffett học về chứng khoán và đầu tư là từ bố cậu, một nhà môi giới chứng khoán ở Omaha trước khi trở thành một nghị sĩ. Cậu mua số cổ phiếu đầu tiên của mình ở tuổi 11, đầu tư vào công ty Cities Service Preferred. Cậu mua ba cổ phiếu cho mình, và ba cổ phiếu cho chị gái Doris, với giá 38 đô la/cổ phiếu. Thật không may là chỉ một thời gian ngắn sau đó, mã cổ phiếu này lao đao, tụt 29% xuống còn 27 đô la/ cổ phiếu. Buffett vẫn giữ, nhưng cậu bé 11 tuổi lại thấy áy náy vì việc cậu có thể làm mất số tiền của chị gái. Tất nhiên cậu ghét việc tự mình làm mất tiền của mình, nhưng việc nghĩ mình có thể kéo cả chị gái theo khiến cậu rất buồn phiền. Khi mã cổ phiếu của Cities Service tăng trở lại, tới giá 40 đô la/cổ phiếu, Buffett đã bán, kiếm được 5 đô la lợi nhuận cho cả hai chị em. Sau đó, giá cổ phiếu của Cities Service tăng mạnh, lên mức 200 đô la/cổ phiếu. Đối với cậu, sự cố này và sự thiếu kiên nhẫn của cậu, không phải là điều cậu có thể sớm quên. Trâu chậm uống nước đục Bạn nghĩ rằng Buffett bắt đầu đầu tư từ quá sớm? Nhà đầu tư giá trị và cũng là chủ của Công ty Quản lý quỹ Lauren Templeton, Lauren Templeton (cháu gái của nhà đầu tư giá trị nổi tiếng thế giới John Templeton) thậm chí còn bắt đầu sớm hơn. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng Chín năm 2010, cô đã nói: “Vì sinh trưởng trong gia đình nhà Templeton, gia đình của những nhà đầu tư giá trị thực sự, nên tôi bắt đầu mua cổ phiếu khi mới chỉ bảy hay tám tuổi gì đó. Cha tôi cho phép tôi mỗi tháng mua một cổ phiếu, của bất cứ loại cổ phiếu nào mà tôi muốn. Ông sẽ mua giúp tôi. Và ông cũng là người nhận giấy chứng nhận sở hữu cổ phần, vì vào thời đó, họ gửi cho bạn một tờ giấy chứng nhận, và ông sẽ lót, đóng khung tờ chứng nhận đó, rồi treo nó lên tường trong phòng tôi. Vì vậy, khi còn nhỏ, có thể nói tường phòng tôi được dán bằng loại giấy đặc biệt, là những tờ giấy chứng nhận sở hữu cổ phần. Ban đầu, tôi mua cổ phiếu của các công ty quen thuộc, như Disney, Walmart, Gap, bất cứ đứa trẻ nào cũng sẽ làm vậy… Những tờ chứng nhận treo trên tường đó rất quan trọng vì tự nhiên, tôi nghĩ, suy nghĩ trẻ con thôi, rằng mình là chủ sở hữu của một trong những công ty đó. Tôi nhớ mình đã khoe khoang với các bạn ở sân chơi rằng tôi sở hữu một phần của Disney. Và họ không thể tin được điều đó”. Ý tôi không phải là bạn là người kém cỏi nếu không bắt đầu đầu tư từ lúc 11 tuổi như Buffett, hay từ lúc lên tám như Lauren Templeton, nhưng bắt đầu sớm nhất có thể đã là chìa khóa thành công trong đầu tư. Bản thân bạn có thể lỡ mất con thuyền đầu tư tuổi thơ, nhưng chắc chắn bạn biết những đứa trẻ chưa bỏ lỡ điều đó, có thể là con trai hay con gái, cháu trai hay cháu gái của một người bạn của bạn. Chẳng nghi ngờ gì khi nói việc làm cho trẻ con quan tâm tới đầu tư là một thách thức, đặc biệt là trong điều kiện thế giới ngày nay đang đầy rẫy những cám dỗ khiến chúng sao nhãng, nhưng dù sao, đó cũng là điều đáng để thử. Hãy khiến việc đó trở nên thú vị hơn bằng cách chỉ cho các em các sản phẩm của các công ty mà bạn đã mua cổ phiếu ở các cửa hàng tạp hóa hay các gian hàng mua sắm. Những nhà sáng lập của Motley Fool và anh em David và Tom Gardner đã kể chuyện họ nhìn thấy bánh pudding sô-cô-la ở cửa hàng tạp hóa khi đi cùng với bố, và họ đã được nghe bố nói rằng họ sở hữu công ty làm nên những chiếc bánh pudding đó, một câu nói vô cùng ấn tượng đối với họ. Tin hay không tùy bạn, nhưng việc gắn một yý tưởng không phải ai cũng thấy hứng thú như “đầu tư” với một thứ gì đó hữu hình như bánh pudding sô-cô-la thực sự có thể giúp sự nghiệp đầu tư tài chính của con cái bạn bắt đầu từ sớm. Sau khi hoàn thành chương trình cử nhân ở Đại học Nebraska, Buffett đã nhắm tới trường Kinh doanh Harvard. Tuy nhiên, tạo hóa trêu ngươi, Buffett đã bị trường Harvard từ chối (một quyết định sánh ngang với lời từ chối ban nhạc Beatles của hãng thu âm Decca Records năm 1961), và cuối cùng ông theo học trường Kinh doanh Columbia. Chính tại ngôi trường này, Buffett đã gặp người mà sau này trở thành cố vấn, người có ảnh hưởng lớn nhất tới ông, người mà bản thân cũng là một bậc thầy về đầu tư giá trị – Benjamin Graham. Khi đó, Graham đang là Giáo sư giảng dạy tại Trường Columbia. David Dodd, đồng tác giả của cuốn giáo trình về đầu tư có tên gọi Phân tích Chứng khoán (Security Analysis) với Graham, cũng là Giáo sư và khi ấy là trưởng khoa Tài chính, Trường Columbia. Vậy là ở cùng một trường, trong cùng một khoa, có cả Graham và Dodd. Đây chính là nơi để Buffett trở thành Huyền thoại Buffett. Buffett đã đọc cuốn sách thứ hai của Graham, Nhà đầu tư thông minh (The intelligent investor), và chính từ cuốn sách đó, ông đã tìm thấy sự thôi thúc trong mình là phải trở thành một nhà đầu tư – ông cần phải trở thành một người “có giá trị”. Sau đó, ông bắt đầu học hỏi từ chính bản thân Graham, một quyết định không thể xem nhẹ đối với Buffett và tương lai của ông. Nếu Trường Harvard đồng ý, có thể thế giới vẫn được “nhờ phúc” một anh chàng trí thức, điều hành những doanh nghiệp hình tháp, chắc chắn quan tâm tới cổ phiếu, và vẫn có thể trở thành tín đồ của đầu tư giá trị. Nhưng nhờ khí chất riêng của ông, nhờ những kinh nghiệm ông học hỏi được từ Trường Columbia, và nhờ ảnh hưởng trực tiếp từ Graham, chúng ta đã có được một nhà đầu tư vĩ đại nhất mọi thời đại. Ngay khi tốt nghiệp Trường Columbia, Buffett, người vừa hấp thụ tất cả những gì có thể từ Graham và Dodd, lại muốn nhiều hơn nữa, và điều đó có nghĩa là làm việc cho tập đoàn đầu tư của Giáo sư Graham, Tập đoàn Graham-Newman. Buffett đi phỏng vấn và đã bị Graham từ chối thẳng thừng. Vào thời điểm đó, những công ty đầu tư ở phố Wall đều kỳ thị người Do Thái, và Graham muốn dành một vài vị trí trong tập đoàn cho họ. Buffett được gửi ngược trở lại Omaha. Khi trở lại quê, Buffett vào làm cho công ty môi giới chứng khoán của bố. Ở đây, cũng như tất cả nhân viên môi giới chứng khoán khác, Buffett cũng phải chạy đông chạy tây, gọi điện thoại cho mọi người và thuyết phục họ mua cổ phiếu của một vài công ty cụ thể. Công việc thiên về marketing nhiều hơn là nghiên cứu và phân tích thực sự. Buffett đã thành công với tất cả những người mà ông quen biết; suy cho cùng, gia đình và bạn bè đều biết ông thông minh như thế nào, và họ đều tin tưởng ông. Nhưng ngoài nhóm người đã biết ông từ trước đó, ông gặp rất nhiều khó khăn. Buffett vẫn giữ liên lạc với thầy Graham, và vài năm sau đó đã có cơ hội chuyển tới làm việc cho người cố vấn của mình. Buffett một lần nữa lại rời Omaha, chuyển tới thành phố New York và tới làm việc tại Graham-Newman, phân tích các công ty và gợi ý những công ty bị đánh giá thấp để công ty đầu tư. Trong vai trò một nhà phân tích, Buffett hạnh phúc hơn rất nhiều so với vai trò một nhân viên kinh doanh trong công ty môi giới chứng khoán của bố mình. Điều này phù hợp với điểm mạnh và bản chất ham học hỏi của Buffett, giúp ông tỏa sáng. Tuy vậy, thời vàng son của Buffett ở Graham-Newman không kéo dài lâu. Năm 1956, khi Buffett mới vào làm được khoảng hai năm thì thầy Graham quyết định rời công ty để nghỉ hưu. Buffett cũng quyết định đi khỏi Graham-Newman. Bất chấp cơ hội được trở thành một đối tác trong công ty này, Buffett đã chọn đứng trên đôi chân của chính mình. Chàng trai trẻ đã thành lập công ty Buffett Associates, Ltd., một công ty đầu tư tương tự như công ty thầy Graham đã điều hành. Lúc mới hình thành, công ty có bảy thành viên, bao gồm cả người trong gia đình, bạn bè và chính bản thân Buffett. Vốn góp ban đầu là 100.000 đô la từ Buffett và 105.000 đô la từ sáu thành viên còn lại. Sau khi giúp thầy Graham đóng cửa công ty ở New York, Buffett đã quay trở lại Omaha vĩnh viễn, nơi ông có thể tạo ra cuộc sống mà ông vẫn mong muốn, làm việc từ nhà, dành toàn bộ thời gian để đọc và nghiên cứu về đầu tư. Chính thầy Graham cũng gợi ý một số khách hàng khi trước của ông nên đầu tư tiền vào một doanh nhân trẻ ở Nebraska, một người mà chưa ai từng nghe nhắc tới. Nhưng sự “chưa từng nghe nói” đó không kéo dài lâu. Với những khoản lợi nhuận khổng lồ, và với cách cơ cấu phí theo kiểu đối tác chỉ phải trả phí cho Buffett khi ông đem lại tiền cho họ thì việc mọi người (ở khắp mọi nơi) bàn tán về điều đặc biệt đang xảy ra ở Omaha chỉ là vấn đề thời gian. Và đúng là nó đặc biệt. Vào thời điểm đóng cửa công ty năm 1969, các đối tác của Buffett đã thu được 32% lợi nhuận trung bình hàng năm trước các khoản phí. Đó chỉ đơn giản là điều chưa ai từng nghe nói, cả khi đó và cả bây giờ. Năm 1962, Buffett bắt đầu gom cổ phiếu chi phối của một công ty may mặc nhỏ nước Anh, Berkshike Hathaway, công ty mà theo ông là đã bị đánh giá thấp. Buffett hi vọng rằng chủ tịch khi đó của công ty sẽ mua lại cổ phần của mình; ông không hề có ý định giữ công ty này mãi. Suy cho cùng, ngành công nghiệp may mặc đang tụt dốc, và Berkshire đã chín năm liền thua lỗ. Buffett tin rằng ông có thể mua cổ phiếu với giá rẻ, sau đó bán số cổ phiếu đó lại cho chính công ty đó với giá cao hơn. Tuy nhiên, chủ tịch của Berkshire lại có suy nghĩ khác, và sau một sự việc không lấy gì làm vui vẻ, Buffett đã quyết định muốn có toàn bộ Berkshire Hathaway. (Sự việc không lấy gì làm vui vẻ đó là: Buffett tin rằng mình được hứa mua lại số cổ phần ông có với một mức giá khác, nhưng sau đó ông lại được đề nghị một mức giá khác). Và dù sau này ông thấy hối tiếc vì điều đó, thậm chí còn gọi đó là “cổ phiếu ngớ ngẩn nhất mà tôi từng mua” và ước tính nó khiến ông mất 200 tỉ đô la chi phí cơ hội, cuối cùng ông vẫn mua. Sau những nỗ lực không thành nhằm tạo lợi nhuận và tăng tính cạnh tranh cho công ty, Buffett đã chấm dứt hoạt động kinh doanh may mặc của Berkshire Hathaway vào năm 1985. Nhưng ông vẫn giữ lại đế chế, biến nó thành công ty đầu tư mà chúng ta gắn với tên ông ngày nay. Cùng với người bạn và đối tác kinh doanh lâu năm, Charlie Munger, Buffett đã biến Berkshire Hathaway trở thành một công ty mẹ (holding company) – nghĩa là nó nắm trong tay toàn bộ hay một phần các doanh nghiệp nằm trong một chuỗi các ngành công nghiệp, từ công ty nước giải khát Coca-Cola tới công ty bảo hiểm GEICO tới công ty bánh kẹo See’s Candies tới công ty sữa Dairy Queen tới công ty Washington Post. Nhưng điểm độc đáo thực sự của Berkshire Hathaway lại có thể tìm thấy trong khái niệm được gọi là “khoản thả nổi”, một sản phẩm phụ của ngành kinh doanh bảo hiểm. Nói một cách đơn giản, khi bạn trả cho một công ty bảo hiểm khoản phí bảo hiểm ô tô hay nhà ở (chẳng hạn như vậy), công ty sẽ giữ khoản tiền đó của bạn, cũng như của hàng triệu người sử dụng dịch vụ bảo hiểm của họ, cho tới khi công ty phải thực hiện thanh toán bảo hiểm. Số tiền đó có sẵn để đầu tư, và Buffett tận dụng nguồn tiền mặt dồi dào này theo cách không giống ai, ông sử dụng nó để thúc đẩy các lĩnh vực kinh doanh phụ trợ, mua cổ phiếu của các công ty khác, rồi để sức mạnh của lãi kép phát huy tác dụng vì lợi ích của ông và các cổ ông của ông. Cách nó làm đó đã phát huy tác dụng tuyệt vời. Từ năm 1965 tới năm 2010, lợi nhuận góp hàng năm tính trên một cổ phần theo giá trị sổ sách của Hathaway đạt mức ấn tượng 20,2% so với con số tổng lợi tức khiêm tốn của S&P 9,4%, bao gồm cả cổ tức. (Lợi nhuận của Berkshire thực ra đã bị báo thấp hơn so với thực tế vì Buffett khăng khăng báo cáo hàng năm của Berkshire khoản lợi nhuận sau thuế, trong khi lợi nhuận báo cáo của S&P lại là con số trước thuế). Giờ chúng ta đã có một chút hiểu biết về Buffett, hãy cùng đào sâu tìm hiểu điều gì đã đem lại những kết quả đó, và điều gì khiến phong cách đầu tư cũng như triết lý đầu tư của ông “con gái” đến vậy. Nhưng trước tiên, vì ghi nhớ những điều này rất có ích khi tiếp tục, chúng ta sẽ cùng nhắc lại những đặc điểm đầu tư của nữ giới mà chúng ta đã học được lúc trước: Nhà đầu tư nữ thường: 1. Giao dịch ít hơn nam giới 2. Không thể hiện sự tự tin thái quá: Đàn ông nghĩ họ biết nhiều hơn những gì họ thực sự biết, trong khi phụ nữ lại có nhiều khả năng biết những điều mà họ cũng không biết là mình biết 3. Tránh rủi ro tốt hơn các nhà đầu tư nam giới 4. Ít lạc quan hơn, do đó, thực tế hơn so với đồng nghiệp nam 5. Dành nhiều thời gian và nỗ lực hơn để nghiên cứu những khoản đầu tư có thể, cân nhắc mọi chi tiết và khía cạnh, đồng thời cân nhắc mọi quan điểm thay thế 6. Làm chủ bản thân tốt hơn trước áp lực xung quanh và có xu hướng đưa ra cùng một quyết định bất chấp người đang dõi theo là ai 7. Học từ chính sai lầm của bản thân 8. Có ít hoóc-môn nam tính hơn nam giới, chính vì thế họ ít mạo hiểm hơn, điều này dẫn tới những chu kỳ thị trường ít khắc nghiệt hơn. Nhờ có tám đặc tính này, như chúng ta đã thấy ở Chương 2, phụ nữ thường tạo ra những kết quả nhất quán và kiên định hơn. Sau này chúng ta sẽ thấy, Buffett sẽ mang lại cho chúng ta những ví dụ về tất cả những đặc tính này, và với “bảng bề dày thành tích” như của ông, thật ngốc nếu tất cả chúng ta không tăng chút nữ tính giống như ông. (Tôi thật sự xin lỗi nếu lúc này trong đầu bạn hiện lên hình ảnh một Warren Buffett tô son môi và cầm túi xách). 4 Giao dịch ít, kiếm nhiều Nổi tiếng với câu nói: “Thời gian nắm giữ yêu thích là mãi mãi”, Buffett thật sự là ông vua của trường phái mua và giữ, “giao dịch ít”. Quả thực, ông cực lực phản đối chuyện giao dịch ngắn hạn, phản đối tới mức đã có lần ông ủng hộ (có lẽ là theo cách mỉa mai) sự thay đổi chóng vánh trong chính sách thuế − chính sách đánh thuế những khoản lợi nhuận thu được từ các giao dịch ngắn hạn (được định nghĩa là bất cứ hoạt động mua rồi bán nào trong vòng năm) ở mức 100%. Không bàn đến sự nghiêm túc của ông về khoản thuế 100%, Buffett thực sự đã ký vào bản kiến nghị của Viện Aspen hồi tháng Chín năm 2009 về việc kêu gọi một mã thuế ghi nhận đầu tư dài hạn, chống lại đầu cơ ngắn hạn. Đây là vấn đề mà Buffett vẫn cuồng nhiệt theo đuổi suốt nhiều năm liền. Nắm giữ lâu dài cổ phiếu của các công ty mà mình đầu tư vào rất quan trọng đối với Buffett vì ông thích nhấn mạnh rằng khi bạn mua một cổ phiếu, không phải là bạn đang mua mấy cái mã điện tử ba đến-bốn chữ cái, nhảy múa trên màn hình như những mã số bí ẩn. Quả thực không phải như vậy, mà là bạn đang mua một phần của một công ty đang sống, đang thở. Hiểu được điều này – rằng bạn đang mua một phần doanh nghiệp hiện hữu, có thực – là một sự thật về đầu tư mà Buffett đã học được từ bậc thầy Graham và đã khắc cốt ghi tâm. Chẳng hề có trong mắt của Buffett, và cũng không nên có trong mắt bạn, sự khác biệt giữa việc đầu tư vào một công ty giao dịch công khai và việc mua toàn bộ cửa hàng bánh sandwich cuối phố (ví dụ như vậy). Mỗi việc đó đều thể hiện quyền sở hữu đối với một doanh nghiệp; sự khác biệt chỉ là bạn sở hữu bao nhiêu – toàn bộ hay một phần. (Dù rằng có lẽ là chủ sở hữu của cửa hàng bánh sandwich đó, bạn sẽ được giảm giá món gà tây ngon tuyệt mà bạn rất thích – còn cổ đông thì không được hưởng sự ưu đãi đặc biệt này. Tuy nhiên, có thể cửa hàng bánh sandwich đó sẽ không trả bạn cổ tức, điều mà các công ty giao dịch công khai sẽ thực hiện. Mọi thứ đều có tính hai mặt, phải không?) Sở hữu cổ phiếu của một công ty là một quyết định quan trọng, và là quyết định không nên xem nhẹ. Hình ảnh những nhà giao dịch phố Wall quát tháo, mua bán tấp nập, nhảy từ cổ phiếu này sang cổ phiếu khác trong đầu chúng ta hoàn toàn đối lập với hình ảnh người đàn ông có tên gọi Warren Buffett – tính toán, thận trọng, chi li và kiên nhẫn. Rất có thể một vài người trong số những nhà giao dịch kia không thể nói cho bạn bất cứ điều gì về những công ty mà họ mua vào và bán ra, ngoài cái mã giao dịch của công ty đó. Có lẽ họ cũng không thể nói cho bạn biết công ty đó đang hoạt động trong ngành nào, nó bán sản phẩm hay dịch vụ gì, nó đã tồn tại được bao lâu hay người điều hành hiện tại của công ty là ai. Buffett, ngược lại, lần đầu phát hiện ra tình yêu dành cho công ty bảo hiểm GEICO là khi ông đang theo học trường Columbia. Khi đó ông đã mua cổ phần, và cuối cùng là đã mua toàn bộ công ty này về cho Berkshire Hathaway. Vì là người giao báo vào mỗi sáng sớm còn mờ sương ở D.C., ông đã yêu báo và yêu luôn tờ Washington Post (tờ báo mà ông là một cổ đông lớn kể từ những năm 1970). Ông nắm giữ cổ phần của công ty nước giải khát Coca-Cola kể từ cuối những năm 1980. Buffett hiểu rằng ông là chủ sở hữu của một doanh nghiệp có thực, và dành cho nó sự quan tâm xứng đáng. Suy nghĩ này của Buffett lan rộng ra cả Berkshire Hathaway và các cổ đông của công ty. Trong cuốn Sổ tay người sở hữu của Buffett, tài liệu ông viết cho cổ đông để minh họa cho triết lý của mình và Charlie Munger, nguyên tắc đầu tiên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhận ra bạn là “chủ sở hữu một phần” của một doanh nghiệp có thực. Bằng cách đó, họ hi vọng rằng những cổ đông của Berkshire sẽ không bán cổ phần của họ, cũng như Berkshire không từ bỏ những khoản đầu tư nắm giữ lâu dài như Coca-Cola và American Express, hai ví dụ được Buffett đưa ra. Trong cuốn sổ tay đó, ông nhấn mạnh: “Thực tình, chúng tôi không mảy may quan tâm nếu vài năm liền không có giao dịch hay không có bản công bố giá cả thị trường nào với cổ phiếu của các công ty này”. Dường như các cổ đông của Berkshire đã thấm nhuần thông điệp của Buffett. Vòng quay cổ phần của Berkshire thấp tới mức đáng nể, một số cổ đông thậm chí còn di chúc lại cổ phần của mình cho thế hệ tương lai với nỗ lực ngăn không cho người thừa kế bán số cổ phần đó đi khi họ mất. Có thể thấy, ngay cả người đã nằm xuống rồi cũng thấy lời khuyên của Buffett có lý. Buffett cũng thích khuyến khích các nhà đầu tư xem quyết định đầu tư của mình như một tờ phiếu đục lỗ có chứa “20 lỗ” dùng trong cả đời. “Với mỗi một quyết định đầu tư, tờ phiếu đó sẽ được đục một lỗ, và như vậy, phần đời còn lại của ông ta sẽ bớt đi một cơ hội”. Buffett nói thêm: “Bạn sẽ không bao giờ sử dụng hết 20 lỗ đó nếu bạn chỉ dành chúng cho những ý tưởng tuyệt vời”. Nhìn nhận quyết định đầu tư của bạn theo cách này cũng rất hữu ích, dù rằng nó có vẻ hơi không thực tế. Những nhà đầu tư không có được khoản tiền vô tận như Buffett có thể sẽ phải quyết định bán một vài công ty nào đó để mua một công ty khác – quyết định mà bản thân Buffett cũng đã phải đối mặt trong những ngày đầu sự nghiệp đầu tư, và thực tế là vẫn còn phải tiếp tục đối mặt khi thực hiện những vụ mua lại lớn. Chuyện đó chẳng có gì đáng xấu hổ cả. Tuy nhiên, hãy suy nghĩ nghiêm túc về việc đầu tư tiền của bạn vào một công ty nào đó. Ý nghĩa thực sự đằng sau hành động của bạn khi bạn nhấn cái nút “mua” nhỏ xíu trên màn hình thông qua tài khoản trực tuyến của bạn là: Công ty bạn đang đầu tư vào là nơi tốt nhất vào thời điểm đó cho số tiền của bạn – nếu không, bạn đã chẳng đầu tư vào đó, đúng không? Như Buffett đã nói: “Nếu bạn không có ý định sở hữu một cổ phiếu trong mười năm thì đừng nghĩ tới việc sở hữu nó trong mười phút”. Trong một cuộc phỏng vấn qua thư điện tử, Prem Jain, Giáo sư trường Đại học Kinh doanh McDonough ở Georgetown, tác giả cuốn sách Tại sao Buffett lại quan tâm tới tăng trưởng và quản lý khi đầu tư (Buffett Beyond Value: Why Buffett Looks to Growth and Management When Investing), đã nói về quan điểm độc nhất của Buffett : “Tôi tin rằng phẩm chất quan trọng nhất của Warren Buffett là sự quan tâm tới cái lâu dài. Ông không mấy quan tâm tới điều mà các chuyên gia dự báo về một hoặc hai năm tới. Hầu hết những người tham gia vào thị trường đều tìm kiếm những khoản lợi nhuận ngắn 63 hạn. Khi có một vài tin xấu, quá nhiều người phản ứng tiêu cực và thị trường chứng khoán đi xuống. Tương tự như vậy, khi mọi người nhất loạt phởn phơ, phấn khích thì sẽ thường tạo ra bong bóng. Khí chất điềm đạm, bình tĩnh của Buffett giúp ông vượt qua được những biến động này. Cái nhìn dài hạn trở thành lợi thế to lớn trong thế giới mà hầu hết mọi người đều có định hướng ngắn hạn. Khi nhóm những nhà đầu tư ngắn hạn khuấy động thị trường, những nhà đầu tư suy nghĩ độc lập, lâu dài có thể làm ngược lại và cuối cùng thu được những khoản siêu lợi nhuận”. Sự kiên nhẫn của Buffett cũng là một đặc tính quan trọng khác làm nên phong cách và khí chất đầu tư của ông. Ông sẵn sàng chờ, ngồi trên cả núi tiền mặt, chờ cho tới khi tìm thấy cơ hội hoàn hảo để đầu tư. Điều này đồng nghĩa với việc có thể phải kéo dài giai đoạn khó chịu là ngồi đợi thị trường leo lên đỉnh cao mới, chờ cho các công ty tốt trở về giá trị hợp lý hơn, và chứng kiến chồng tiền của bạn chật vật chạy theo lạm phát. Nhưng bạn phải có sức chịu đựng ngoan cường để làm được điều đó. Buffett đã từng đôi lần vấp ngã (ừ thì, ông ấy cũng là con người mà), đầu tư vào những công ty không đạt tới tiêu chuẩn thông thường của ông vì nếu không thì tiền lời sẽ rất nhỏ, và lần nào ông cũng hối hận vì điều đó. Hãng Hàng không Mỹ mà Berkshire đầu tư vào năm 1989 là một ví dụ điển hình đáng nhớ cho điều này. (Chúng ta sẽ nói nhiều hơn về thất bại mang tên hãng Hàng không Mỹ của Buffett trong chương nói về sai lầm). Tất cả chúng ta đều có nguy cơ mắc sai lầm giống như thế này, nhưng nếu bạn thực sự mắc sai lầm, hãy học hỏi từ sai lầm đó giống như Buffett đã làm, và hãy tiếp tục tiến bước. Thay vì trách cứ bản thân mình, bạn nên tập trung vào 64 việc học cách kiên trì, nhẫn nại và chờ đợi cho tới khi thị trường khiến cho việc đầu tư khoản tiền mặt phải khó nhọc mới kiếm được của bạn vào một công ty nào đó trở nên có giá trị. Như Buffett nói trong cuộc họp thường niên của Berkshire năm 1998 (khoảng thời gian ông bị chỉ trích nặng nề vì không tham gia vào thị trường đang lên): “Chúng tôi không mua bất cứ thứ gì chỉ để mua. Chúng tôi sẽ chỉ mua thứ mà chúng tôi cho là thực sự hấp dẫn… Bạn không được trả tiền vì hành động. Bạn được trả tiền vì làm đúng”. Buffett thích nói về việc chờ “cú ném bóng[24] béo bở” xuất hiện cũng như nói về sự tự do giúp nhà đầu tư tránh được sai lầm. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Thời báo New York năm 2007, ông đã giải thích cách suy nghĩ của mình như thế này: “Cái hay của việc đầu tư là bạn không cần phải nghiêng ngả theo những cú ném. Bạn có thể bình tĩnh theo dõi các cơ hội đó, và bạn không cần phải nghiêng ngả. Chẳng có trọng tài nào tuýt còi đuổi bạn ra khỏi sân cả. Bạn có thể chờ quả ném mà bạn muốn”. May mắn cho chúng ta, không giống như cầu thủ bóng chày dưới áp lực của huấn luyện viên và cổ động viên buộc họ phải thực hiện cú vụt bóng, chúng ta có được sự chờ đợi xa xỉ mà không khiến bất cứ ai nôn nóng ngoại trừ chính bản thân chúng ta – và sự nôn nóng đó là điều chúng ta có thể học cách chế ngự. Rất có thể chúng ta sẽ muốn nhảy vào khi cổ phiếu tăng (và lắng nghe những quảng cáo rầm rộ, vô nghĩa của giới truyền thông tài chính chỉ càng khiến mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn), nhưng đừng nhảy vào. Hãy học cách kiềm chế. Danh mục đầu tư của bạn sẽ giàu hơn nhờ điều đó. Chống lại sự thôi thúc “phải làm gì đó” Nhà đầu tư giá trị Lisa Rapuano, người sáng lập công ty Quản lý quỹ Lane Five, cũng tin tưởng và vận dụng lối suy nghĩ dài hạn này trong công ty của bà. Như bà đã nói trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng Chín năm 2010: “Tôi rất giỏi phớt lờ những ồn ào, ầm ĩ, những việc thường nhật không quan trọng, và tôi có thể không giao dịch hàng tháng trời. Tôi không hiểu làm sao những người giao dịch hàng ngày, những người tìm kiếm những xu hướng ngắn hạn cũng như tối ưu hóa chiến lược giao dịch và những điều tương tự như vậy có thể ngủ được. Với tôi, đó là sự kiên nhẫn, là hoạt động từ tốn, là cẩn trọng, là di chuyển nhẹ nhàng hơn. Tôi cũng không biết tại sao tôi lại đặc biệt giỏi điều đó, nhưng tôi biết đó là một lợi thế mà tôi hơn hẳn so với những người khác. Chỉ đơn giản là nhiều khi tôi không có cảm giác cần phải “làm gì đó”. Bản thân Buffett cũng kiên nhẫn trong suốt vài năm qua, để khoản tiền mặt khoảng 44 tỉ đô la (vâng, tỉ đấy ạ) nằm im trong bảng cân đối kế toán của Berkshire từ năm 2004 đến năm 2007. Buffett chờ và chờ “lời mời chào béo bở”, và cuối cùng cũng tìm thấy nó khi thị trường tụt dốc vào mùa thu năm 2008 trong cuộc khủng hoảng tài chính. Lúc này ông mới nhảy vào, dùng 20 tỉ đô la chộp lấy các mảnh của General Electric và Goldman Sachs, khuyến khích người khác nhìn thấu qua cả sự hốt hoảng và sợ hãi, tận dụng cơ hội tuyệt vời mà thị trường mang lại cho họ vào thời điểm đó. Một trong những câu nói nổi tiếng và bất hủ (và cũng rất dễ thương) của ông vẫn thường được trích dẫn là: “Hãy tham lam khi người khác sợ hãi, và hãy sợ hãi khi người khác tham lam”. Kiên nhẫn cũng rất quan trọng một khi bạn đã vào cuộc và thực sự đầu tư vào một công ty nào đó. Đôi khi cũng có 66 vấn đề xảy ra, và chỉ ngay sau khi bạn mua cổ phiếu đó, nó tụt giá. Chắc chắn là chuyện này xảy ra với tất cả những nhà đầu tư ít nhất một lần, và nó sẽ ngay lập tức khiến bạn nghi ngờ quá trình đưa ra quyết định của mình. Có thế là cả thị trường đều bất tỉnh, mà cũng có thể là chỉ riêng khoản đầu tư của bạn đã quên biến mất rằng bạn đã mua nó thì đáng lẽ nó phải tăng giá chứ không phải là ngược lại như vậy. Dù thế nào thì cũng thật nản lòng khi nhìn thấy điều mà bạn cho là điều chắc chắn lại hóa thành điều hoàn toàn ngược lại. Nhưng bạn không được phép hốt hoảng rồi bán tống bán tháo chúng đi. Nếu bạn luyện tập và tin theo niềm tin đầu tư của mình, bạn sẽ trung thành với nó. Bạn cần phải kiên nhẫn, không được rơi vào bẫy vì bán mà để lỡ mất cơ hội thành công trong dài hạn. Buffett cũng đã phải đối mặt với tình huống tương tự khi Berkshire bắt đầu mua cổ phiếu của công ty Washington Post năm 1973. Ngay lập tức, vào chính giữa thời điểm kinh khủng của thị trường con gấu[25] chỉ đứng sau thị trường sụt giảm mà chúng ta vừa trải qua, cổ phiếu đã giảm giá 20% và cứ lơ lửng ở đó cho tới tận năm 1976 – suốt ba năm liền! Mãi tới năm 1981 Washington Post mới đạt đến giá trị mà Buffett tin là tương xứng với nó. Và giờ thì sao? Buffett vẫn giữ cổ phiếu của mình tại công ty Washington Post qua suốt các cuộc suy thoái và phục hồi, thậm chí qua mấy đời tổng thống Mỹ, và giờ nó trở thành một trong những khoản đầu tư thành công nhất mọi thời đại của ông – một khoản nắm giữ “cơ bản” mà Buffett dự định giữ “vĩnh viễn” cho Berkshire. Nếu ông tháo chạy ngay từ dấu hiệu rối loạn đầu tiên của thị trường, hẳn ông sẽ bỏ lỡ mất cơ hội trở thành gã khổng lồ chiến thắng. Kiên nhẫn có thể đem lại đau thương trước mắt, nhưng cuối cùng nó sẽ là điều đáng giá. Trở thành một nhà đầu tư thành công không phải dễ. Nó đòi hỏi sự chịu đựng ngoan cường, sức mạnh, sự chuẩn bị và sẵn sàng tránh hành động chỉ vì “cần phải làm gì đó”. Để đạt được điều đó, hãy ghi nhớ những điều này: Hãy nhớ bạn đang mua một phần của một doanh nghiệp thực sự. Hãy nhìn xa trông rộng. Hãy kiên nhẫn. 5 Kiểm soát sự tự tin thái quá Cùng với triết lý đầu tư dài hạn chắc chắn, thì sự nhất quán, kiên định chỉ hoạt động trong phạm vi vòng tròn năng lực – hiểu rõ mình biết gì và mình không biết gì – là một đặc tính nổi tiếng khác làm nên con người Buffett. Đối với Buffett, việc biết mình đang đầu tư vào cái gì là điều rất quan trọng. Suy cho cùng, bạn là chủ sở hữu của một doanh nghiệp, chắc chắn bạn sẽ không thành lập được một công ty hay mua được một phần của công ty mà bạn hoàn toàn không hiểu gì về nó, đúng không? Buffett nổi tiếng với việc “né tránh” các công ty công nghệ, trong nhiều năm, ông gọi đó là những công ty nằm ngoài “vùng hiểu biết” của mình (bất chấp mối quan hệ bạn bè thân thiết giữa ông và người đồng sáng lập nên Microsoft, Bill Gates). Dù ông có thể lập luận ngược lại, nhưng không phải là Buffett thiếu khả năng hay thiếu hiểu biết để có thể hiểu về lĩnh vực hoạt động của các công ty công nghệ, cũng như cách thức họ làm ra tiền (hay không làm ra tiền trong một số trường hợp). Tất nhiên là cũng có những công ty công nghệ siêu tiên tiến nằm ngoài tầm hiểu biết của Buffett thật, nhưng đó không phải là vấn đề chính của ông với công nghệ. Quan trọng hơn là ông không cho rằng mình có khả năng tiên đoán viễn cảnh cạnh tranh của các công ty công nghệ. Ông không có đủ sự chắc chắn để khiến bản thân thấy thoải mái, để có thể nắm bắt được tương lai kinh tế của ngành công nghệ. Trong mắt ông đây là một ngành chuyển động nhanh, thay đổi ẩn chứa rủi ro lớn cho các nhà đầu tư trung bình, thậm chí trên trung bình. Có quá nhiều biến số có liên quan, có quá nhiều điều không biết có thể khiến cho một khoản đầu tư được suy nghĩ thấu đáo chết chìm và biến mất chỉ trong một khoảnh khắc. Bạn có nhớ những công ty công nghệ nổi đình nổi đám cuối những năm 1990 đầu những năm 2000 như WebVan, Pets.com và Boo.com không? Có ai biết giờ họ ở đâu không? Viễn cảnh dành cho những công ty này đã thay đổi, và thay đổi một cách chóng mặt. Vì Buffett không thể tiên đoán được cuộc cạnh tranh dành cho các công ty công nghệ trong 50 năm nữa tính từ bây giờ sẽ như thế nào, nên ông không hề bận tâm tới chúng. Có rất nhiều công ty khác mà ông có thể hiểu thấu đáo, và cảm thấy tự tin về viễn cảnh của chúng. Hai từ khóa để hiểu được cách đầu tư của Buffett là hai khái niệm có liên quan tới nhau: “đường hào kinh tế” và “lợi thế cạnh tranh bền vững”. Hãy nghĩ tới khái niệm đường hào đó như thể bạn nghĩ tới một đường hào bao quanh lâu đài trong một câu chuyện cổ tích, giúp bảo vệ cô gái tóc dài khỏi những con rồng háu đói và những gã hoàng tử dâm đãng. Đường hào trong thế giới kinh doanh giúp bảo vệ công ty và khả năng tạo lợi nhuận của công ty đó khỏi những đối thủ háu đói và tham ăn. Đó có thể là bất cứ thứ gì tạo sự khác biệt và mang lại lợi thế hơn hẳn cho công ty so với đối thủ cạnh tranh của nó, đem lại lợi nhuận cao hơn trong khoảng thời gian lâu dài hơn. Chẳng hạn, công ty Coca-Cola được bảo vệ bởi thương hiệu của nó, thương hiệu đem lại cho công ty một lợi thế cạnh tranh mà Buffett có thể hiểu được, và hoàn toàn có thể tin tưởng vào tương lai của công ty. Thật khó để một công ty nước giải khát mới thành lập có thể nhảy vào và cạnh tranh hiệu quả với Coke hay giáng cho Coke một đòn chí mạng vào thời điểm này. Đường hào của công ty quá rộng, tầm với của nó quá xa, sản phẩm của nó được quá nhiều người trên thế giới yêu chuộng. Buffett có thể nhìn thấy trước 150 năm sắp tới và ông có thể tưởng tượng cảnh mọi người dịch chuyển xuyên lục địa, tải nhạc thẳng về não và vui vẻ nhét tờ 5 đô la vào chiếc máy bán hàng tự động để được thưởng thức thức uống Coke yêu thích của họ. Sức mạnh của công ty và thương hiệu của Coke sẽ làm nên điều đó. Lợi thế cạnh tranh “bền vững” hoặc “bền lâu” cũng là điều sống còn. Trích lời của chính Buffett năm 1999 khi nói về tình trạng của thị trường chứng khoán và mức giá điên cuồng của các công ty công nghệ (được ông so sánh với những tiến bộ xã hội mang tính cách mạng nhưng vô cùng tốn kém như ô tô và máy bay): “Mấu chốt của đầu tư không phải là đánh giá một ngành công nghiệp có ảnh hưởng tới xã hội như thế nào, hay nó sẽ phát triển ra sao, mà là xác định lợi thế cạnh tranh của một công ty cụ thể, và trên tất cả, là độ bền của lợi thế đó. Sản phẩm hoặc dịch vụ có đường hào rộng, bền vững bao quanh là sản phẩm hoặc dịch vụ đem lại phần thưởng cho nhà đầu tư”. Với Buffett đó chính là điều còn thiếu trong thế giới công nghệ. Ông không thể nhìn thấy những đường hào bảo vệ, và ông không thể tiên đoán được công ty nào có thể tồn tại được, chứ chưa nói tới phát triển thịnh vượng. Nói cách khác, ông biết mình biết gì, không biết gì và ông bám sát vào đó. Tuy nhiên, ác cảm không muốn đầu tư vào công nghệ của Buffett không phải chỉ mới nảy sinh vào những năm 1980 và 1990. Ông đã từng bỏ qua cơ hội đầu tư vào gã khổng lồ bộ vi xử lý máy tính Intel những năm 1960, khi đó mới chỉ là một doanh nghiệp nhỏ mới được hình thành, dù ông biết và tin tưởng một trong những người sáng lập nên công ty đó. Chỉ đơn giản là ông không cho rằng mình đủ hiểu công ty và viễn cảnh của nó để có thể đầu tư tiền của vào đó. (Đó là một lựa chọn phải đánh đổi bằng một khoản lợi nhuận kha khá, nhưng dù sao sự kiên quyết ở lại trong vòng tròn năng lực của ông cũng thật đáng ngưỡng mộ). Và trong một bức thư ông gửi cho các đối tác vào năm 1967, khi thị trường quanh ông đang bùng nổ những khoản đầu tư vào lĩnh vực công nghệ mới, để mình Buffett trơ trọi với việc tìm kiếm những ý tưởng mà ông cảm thấy thoải mái khi rót tiền đầu tư vào, ông vẫn kiên định là đúng con người mình và đã nói: “Chúng ta sẽ không đầu tư vào những ngành kinh doanh mà công nghệ, lĩnh vực vượt quá hiểu biết của tôi có ảnh hưởng quan trọng tới quyết định đầu tư. Tôi biết về chất bán dẫn hoặc mạch tích hợp nhiều như biết về thói quen giao phối của bọ cánh cứng vậy”. Bài học cho những nhà đầu tư ở đây là chúng ta không nhất thiết phải tránh công nghệ chỉ bởi vì Buffett đã làm thế, mà chúng ta nên hiểu và tuân theo vòng tròn năng lực của chính mình. Có thể bạn làm việc trong thế giới công nghệ cao, vì thế, bạn có được vị thế đặc biệt để hiểu được những công ty hào nhoáng mà Buffett thậm chí còn không buồn đầu tư vào. Hoặc có thể bạn làm việc trong ngành dịch vụ chăm sóc sức khỏe, một lĩnh vực cũng rất phức tạp và khó hiểu, và bạn có thể kể vanh vách tên tuổi và lợi thế cạnh tranh của rất nhiều mã cổ phiếu dược. Nếu đúng như vậy thì thật tuyệt – đừng e ngại gì khi sử dụng những hiểu biết đó. Tuy nhiên, nếu không phải, thì cũng đừng lo lắng về việc chỉ “quanh quẩn” với những thứ mà bạn biết và bạn hiểu. Buffett đã chứng minh rằng bạn có thể tạo ra một cuộc sống kha khá bằng cách đầu tư vào những công ty ít phức tạp hơn. Hiểu mấu chốt của việc đánh giá Trong một cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng Chín năm 2010, nhà đầu tư giá trị Lauren Templeton đã đồng tình rằng ở trong vòng tròn năng lực của bạn là một chiến lược thông minh. Bà nói: “Là một nhà đầu tư giá trị, nếu không thể đánh giá được giá trị của một công ty, tôi sẽ không đầu tư vào đó. Chính điều đó đã giúp chúng tôi tránh xa được những cổ phiếu tài chính cứ chạy nhảy trên màn hình giao dịch trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính. Chúng tôi không thể chạm tay tới những bảng cân đối kế toán nên chúng tôi không thể đầu tư vào đó được. Làm sao bạn có thể đánh giá được một công ty nếu bạn không thực sự có cái nhìn thông suốt về bảng cân đối của nó? Tất nhiên điều đó khiến chúng tôi tránh xa ngành công nghệ vi sinh và những ngành tương tự như vậy vì chúng tôi chẳng có cách nào để định giá được một công ty trong những ngành đó. Vậy nên, nếu chúng tôi không thể đánh giá được, chúng tôi sẽ không đầu tư vào”. Chỉ cần còn đầu tư (và ông đã đầu tư được một thời gian khá dài – bạn còn nhớ ông đã mua cổ phiếu đầu tiên lúc 11 tuổi chứ?), Buffett còn tập trung vào các công ty và các ngành mà ông hiểu. Trên thực tế, đôi khi những thứ mà lúc nhỏ ông thích sau này lại xuất hiện trong ý tưởng đầu tư của ông, nghĩa là theo một cách nào đó ông đã tạo ra vòng tròn năng lực từ khá sớm. Thậm chí trong một bức thư gửi các cổ đông năm 1982, ông còn nói rất nghiêm túc rằng: “hoài cổ có sức nặng rất đáng nể trong lựa chọn cổ phiếu” và dẫn chứng bằng GEICO cùng công ty Washington Post. Nói về tờ Post, như đã nói lúc trước, ông đã phát triển tình yêu dành cho báo chí nói chung, và cho tờ Washington Post nói riêng, từ những ngày còn trẻ. Sau một thời gian luyện tay ném tất cả những tờ báo đó vào những chiếc xe porche, giờ ông đã sở hữu khoảng 20% công ty Washington Post, công ty mà ông bắt đầu mua cổ phiếu kể từ những năm 1970. Sau nhiều năm, ông cũng sở hữu nhiều tờ báo khác, trong đó có cả tờ báo đã không còn tồn tại nữa, Omaha Sun, và tờ báo vẫn còn hoạt động, Buffalo News. Cả đường ray nữa. Buffett từ lâu đã mê mẩn những đường ray, và có một bộ tàu điện nhỏ khi còn là một cậu bé. Sau này ông đã biến nó thành một bộ lớn hơn trên gác mái và thường thích thú khoe nó với bạn bè đồng nghiệp. Năm 2007, Berkshire bắt đầu mua cổ phiếu của công ty vận tải đường tàu Burlington Northern Santa Fe, và năm 2009 đã trả giá thành công để mua đứt cả công ty. Giờ Buffett có thể hưởng lợi từ điều mà ông coi là cách vận chuyển hàng hóa chi phí thấp, ít tổn hao năng lượng ở Hoa Kỳ và có thể sở hữu cả một đường ray chứ không chỉ là một chiếc tàu hỏa đồ chơi nữa. (A, đúng là giấc mơ vô cùng nhỏ bé của một “chồi non” tư bản). Rất nhiều khoản đầu tư của Buffett và Berkshire trong những năm qua là những thương hiệu hàng tiêu dùng, những thương hiệu dễ theo dõi, dễ hiểu và dễ tưởng tượng tới việc sở hữu một phần của chúng. Trong một số trường hợp, Berkshire sở hữu toàn bộ công ty, trong một số trường hợp khác, nó chỉ sở hữu cổ phần, giống như những nhà đầu tư khác (dù rằng hiển nhiên là nó sở hữu nhiều hơn rất nhiều). Ví dụ, Berkshire sở hữu toàn bộ công ty kem Dairy Queen, công ty bánh kẹo See’s Candies và hãng thời trang Fruit of the Loom. Và tức là chúng ta đang nhìn vào bánh hamburger và kem Blizzard, sô cô-la và quần áo lót – tất cả những thứ dễ nắm bắt. Berkshire còn sở hữu hệ thống bán lẻ khổng lồ Nebraska Furniture Mart và công ty trang sức Borsheim’s Fine Jewelry, thêm cả một nhà bán lẻ đồ nội thất khổng lồ và một cửa hàng đồ trang sức vào danh sách đó nữa. Và như chúng ta đã đề cập lúc trước, Berkshire còn sở hữu một phần công ty Coca-Cola, và đã từng có lúc sở hữu cổ phần của Nike, Costco, Wal-Mart, Kraft Foods và Procter & Gamble (nhà sản xuất một số mặt hàng như kem đánh răng Crest, dao cạo râu Gillette, khăn giấy Bounty, pin Duracell và bột giặt Tide). Đây là những công ty lớn, tên tuổi, sản xuất những mặt hàng và cung cấp những dịch vụ mà hầu hết chúng ta đều sử dụng hoặc ít nhất cũng gặp phải một lần trong đời. Và tất cả những công ty đó đều đậm chất Buffett. Đó là những công ty có đường hào rộng và có những lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ, khiến cho Buffett dễ dàng phân tích và tiên đoán tương lai của chúng. Chúng rất dễ hiểu và dễ nắm bắt. Và dù không hiển nhiên lắm, nhưng cũng cần phải nói rằng đó là những công ty thú vị để theo đuổi và sở hữu. Thí dụ, ai lại không thích nhìn những chiếc bánh Oreo ở các cửa hàng tạp hóa và nghĩ: “Này, tôi sở hữu cổ phần của Kraft đấy!” (Nghĩa là “Tôi sở hữu công ty làm nên những chiếc bánh này đấy!”) cơ chứ? Việc đầu tư sẽ trở nên có ý nghĩa hơn khi bạn nhìn quanh và thấy bằng chứng chứng minh số tiền của bạn đã tạo ra kết quả nào đó. Buffett cũng thích khía cạnh này của đầu tư. (Mặt khác sẽ chẳng hề thú vị chút nào khi nói: “Này, tôi sở hữu công ty ứng dụng lớp oxit phủ lên chiếc tụ nhôm của bảng mạch chính trong chiếc máy tính này đấy!!!”). Vòng tròn năng lực của Buffett còn bao gồm cả các công ty bảo hiểm và tài chính. GEICO, công ty bảo hiểm nổi tiếng vì những thương vụ thông minh, cũng như những công ty bảo hiểm nhỏ hơn khác, là một phần quan trọng của Berkshire Hathaway. Như chúng ta đã nói lúc trước, những công ty đó đem lại cho Buffett “khoản thả nổi” hay khoản tiền mặt dư thừa để ông có thể đem đi đầu tư. Berkshire cũng từng sở hữu cổ phần của hãng chuyển phát nhanh American Express trong nhiều năm, và cũng từng đầu tư vào những ngân hàng như Wells Fargo, U.S. Bancorp và cả Goldman Sachs. Có thể vòng tròn năng lực của bạn không bao gồm ngân hàng và các công ty bảo hiểm. Không thành vấn đề. Bài học quan trọng ở đây là nhận ra bạn biết và hiểu những gì, và bỏ qua những điều khác. Hãy thành thật với chính bản thân và hãy nhớ những mối nguy do tự tin thái quá mang lại. Một điểm khác cần phải nhớ là chỉ đầu tư trong vòng tròn năng lực của bạn mà không tiến hành bất cứ nghiên cứu nào là chưa đủ. Bạn vẫn cần phải “làm bài tập” tìm hiểu về những công ty đó để chắc chắn bạn có khoản đầu tư tốt trong thời gian lâu dài. Chẳng hạn, chỉ dựa vào việc biết bạn yêu thích loại cà phê latte của Starbucks mà đưa ra quyết định đầu tư thì không chắc có thể đem lại thành công, nhưng đó là một điểm khởi đầu tốt cho nghiên cứu của bạn. Đầu tư vào các công ty mà bạn hiểu là điều rất quan trọng, vì thế hãy nhớ: “Phạm vi hiểu biết” của Buffett có thể khác với của bạn. Hãy nghĩ đến và học về điều nằm trong phạm vi vòng tròn năng lực của bạn. Hãy kiên định, bất kể thế nào đi chăng nữa. 6 Tránh rủi ro Buffett tin rằng kiểu đầu tư lâu dài trong vòng tròn năng lực sẽ đem lại sự giàu có thịnh vượng cho những nhà đầu tư thông minh. Quan điểm này được bổ sung bởi bản tính không thích rủi ro của ông. Hiển nhiên là đầu tư luôn gắn liền với rủi ro. Luôn luôn có những ẩn số trong việc đưa ra lựa chọn giao dịch đổi tiền lấy một phần của một công ty nào đó – suy cho cùng thì tương lai có bao giờ là chắc chắn đâu. Nhưng Buffett tin rằng để thành công tối đa, bạn nên làm mọi việc có thể để hạn chế rủi ro, và như thế là giảm thiểu khả năng bạn sẽ mất số vốn vô cùng quan trọng (hay số tiền bạn có thể đầu tư). Ông tin là nên tránh càng xa đầu cơ càng tốt, và nên hướng tới kiểu đầu tư theo tư tưởng mình-là-chủ-sở-hữu. Chúng ta đã tìm hiểu về đường hào và lợi thế cạnh tranh, giờ là lúc tiếp nhận quan niệm mà Buffett gọi là “nền móng cho đầu tư thành công”. Quan niệm quan trọng đó được gọi là “biên an toàn”. Giống như phần nhiều triết lý đầu tư của ông, Buffett đã học được ý tưởng về biên an toàn từ người thầy của mình, Ben Graham. Nguyên tắc này là mấu chốt trong tư tưởng đầu tư giá trị của Graham, và quan niệm này thậm chí còn được dành hẳn một chương trong cuốn Nhà đầu tư thông minh (The intelligent Investor). Không bàn thảo quá nhiều về bản chất tài chính, biên an toàn là lối thoát mà nhà đầu tư dành cho bản thân khi mua cổ phần của một công ty. Graham tin rằng vì nhà đầu tư không thể biết chính xác giá trị thực sự của một công ty (ước tính tốt nhất cũng vẫn chỉ là ước tính mà thôi), do vậy, bạn nên giảm thiểu cả rủi ro có thể sai và cả rủi ro vì phải phụ thuộc vào tính thất thường của thị trường bằng cách cho bản thân một biên an toàn thích hợp. Chẳng hạn, bạn tin rằng công ty ABC đáng giá 100 đô la/ cổ phiếu, nhưng thực tế nó đang được giao dịch với giá 75 đô la/cổ phiếu. Việc mua cổ phiếu với giá đó đem lại cho bạn biên an toàn là 25% (một số nhà đầu tư giá trị khăng khăng lựa chọn biên an toàn ít nhất là 40-50%). Tạo biên an toàn cho việc mua cổ phiếu của bạn là một cách quản lý rủi ro liên quan tới đầu tư, và biên an toàn càng rộng, bạn càng được bảo vệ tốt. Thậm chí bạn còn có thể điều chỉnh biên an toàn quy định lên mức cao hơn trong một số ngành nhất định, chẳng hạn như những ngành hay thay đổi hơn hoặc không đoán định được, hoặc điều chỉnh thấp xuống với các công ty lớn hơn, có tiếng tăm và đáng tin cậy hơn. Mục tiêu là làm sao hạn chế được tổn thất của bạn, chứ không phải xóa sổ hoàn toàn tổn thất – tất nhiên, nếu được thế thì thật lý tưởng, nhưng đó là điều không thể. Với Buffett, quan niệm biên an toàn là điều không thể thiếu trong đầu tư vì nó được xem như cách để quản lý rủi ro. Mọi người vẫn thường trích dẫn lời ông nói: “Nguyên tắc thứ nhất: Không bao giờ được để mất tiền. Nguyên tắc thứ hai: Không bao giờ được quên nguyên tắc thứ nhất”. Đáng tiếc là chắc chắn nhà đầu tư nào cũng sẽ mất một ít tiền vào một thời điểm nào đó, nhưng quan điểm của Buffett ở đây là hãy tập trung làm điều bạn có thể để tránh mất nhiều hơn mức bạn phải mất. Nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng sự thật là việc đưa ra những quyết định nóng vội và trả cho một công ty nhiều hơn mức bạn nên trả có thể khiến danh mục đầu tư của bạn phải chịu những khoản tổn thất mà phải mất nhiều năm mới có thể khắc phục được, và khiến cho số vốn quý giá của bạn co lại. Việc bảo toàn số vốn bạn có để đầu tư là tối quan trọng, và bạn nên làm mọi việc có thể để chống thất thoát số vốn này. Mua với một biên an toàn có thể giúp giảm thiểu khả năng thất thoát này. Trở lại những năm 1970, như chúng ta đã đề cập lúc trước, Berkshire bắt đầu mua cổ phần của công ty Washington Post. Sau khi phân tích công ty, Buffett tin rằng tài sản của nó trị giá ít nhất là 400 triệu đô la, tuy nhiên, thị trường lại gán cho nó một cái giá chưa tới 100 triệu đô la. Điều này thể hiện một biên an toàn lên tới 75% – thật là một món hời! Berkshire mua cổ phiếu và giữ chặt số cổ phiếu đó, dù ban đầu sự tiên liệu của Buffett đã không nhận được phần thưởng xứng đáng. Như chúng tôi đã đề cập lúc trước, ngay sau khi Buffett đầu tư vào Post, cổ phiếu của công ty này đã giảm giá và duy trì ở mức thấp hơn so với suy nghĩ của Buffett trong suốt ba năm liền. Điều đó minh họa cho một điểm quan trọng khác về biên an toàn – Buffett đã nghiên cứu và chắc chắn thị trường đang định giá sai Post, thực tế là sai ghê gớm. Ông có thể thoải mái kiên nhẫn và nắm giữ cổ phần của mình. Ông tự tin với phân tích của mình, tin rằng cuối cùng mọi chuyện cũng sẽ chứng minh là ông đúng, và ông đã mua cho mình đủ khoảng trống phòng thân (thực tế là còn nhiều hơn cả đủ) để chờ thị trường tặng thưởng ông. Tuy nhiên, nếu ông mua mà không có biên an toàn, trả quá cao cho số cổ phần của mình ở công ty Post thì bất cứ khoản lợi nhuận cuối cùng nào ông kiếm được từ số cổ phiếu đó đều không nhờ gì khác ngoài may mắn thuần túy – hoặc những người khác sẽ sẵn sàng trả giá cao hơn so với ông. Và điều đó khiến cho việc chờ đợi căng thẳng thần kinh hơn rất nhiều. Tính toán giá trị thực của một công ty, điều bạn cần phải làm trước khi có thể bắt đầu suy nghĩ tới việc có hay không có một biên an toàn khả dĩ, là một nhiệm vụ phức tạp, và là nhiệm vụ chúng ta sẽ không đề cập tới ở đây. Tuy nhiên, có một nguồn tham khảo phong phú trên www.fool.com nếu bạn muốn tìm hiểu thêm cũng như học hỏi cách biến điều này thành hành động. Điểm mấu chốt lúc này là phải hiểu được điều nó thể hiện điều gì và cách Buffett vận dụng quan niệm biên an toàn để hạn chế rủi ro. Những nhà đầu tư cấp tiến và những tay thợ săn giá trị đều làm tương tự như vậy. Có lẽ lúc này bạn đủ hào hứng để gia nhập với bọn họ. Có thể tìm thấy một cách tránh rủi ro khác của Buffett trong thái độ của ông về nợ nần. Với bản tính thận trọng, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ông không phải là một con nợ lớn, dù chúng ta nói tới nợ cá nhân, hay nợ có trong sổ sách kế toán của Berkshire và các công ty khác mà ông sở hữu, vì nguy cơ mà nợ quá nhiều có thể đem lại. Vấn đề của nợ nằm ở chỗ nếu sử dụng thái quá nó có thể trở thành thảm họa khi thời gian trả nợ gần kề. Chẳng hạn, mua cổ phiếu bằng ký quỹ (nghĩa là dùng tiền vay từ công ty môi giới) có thể gặp phải rắc rối khi cổ phiếu tụt dốc vì công ty môi giới ấy sẽ thấy căng thẳng tới mức chỉ muốn bạn trả lại tiền ngay lập tức. Hãy nghĩ tới khoản nợ tín dụng – nguyên tắc cũng giống như vậy. Khi còn dư dả thời gian, bạn có thể sử dụng thẻ tín dụng một cách hợp lý, bạn chẳng gặp rắc rối nào trong việc thanh toán, và bạn có thể sử dụng thẻ đúng như mục đích vốn có của nó – như một công cụ chứ không phải một chỗ để dựa vào. Tuy nhiên, chỉ cần có một vụ mất việc hoặc một tờ hóa đơn y tế chậm thanh toán thì bạn sẽ dễ dàng bị nó đuổi sát nút nếu bạn phụ thuộc thái quá vào thẻ tín dụng và đã tiêu tốn một khoản khổng lồ mua khăn quàng cổ lông chồn giả, bàn uống café vàng hay một đội khinh khí cầu. Nó có thể biến một tình huống tồi tệ thành tồi tệ hơn (nhưng ít nhất bạn cũng có chiếc khăn quàng cổ để, à thì giúp bạn giữ ấm). Điều tương tự cũng xảy ra với các doanh nghiệp vay vốn, dù là để cung cấp tài chính cho các dự án kinh doanh mới, xây dựng hay cải tạo công trình nhà xưởng hay thanh toán các chi phí vận hành tạm thời. Khoản nợ nhỏ, nếu được quản lý tốt, thường sẽ không gây ra tai họa. Nhưng hãy cẩn trọng để không thổi phồng nó lên. Khoảng thời gian đen tối có thể đồng nghĩa với những khoản chậm thanh toán, đối với một công ty cần các khoản vay trong tương lai thì điều đó tương đương với sự nghi ngờ về uy tín trả nợ. Và những nghi ngờ này cũng được cả nhà đầu tư để mắt, khiến họ rời bỏ các công ty nặng gánh nợ nần để đến với các công ty giàu nguồn tiền hơn. Buffett thích giữ cho Berkshire dư dả tiền mặt nhất có thể. Trong bức thư gửi các cổ đông vào năm 2008, ông viết, nhắc lại suy nghĩ ông đã chia sẻ trước đó: “Tuy nhiên, tôi cam kết – với các bạn, với các tổ chức đánh giá và với chính bản thân tôi – rằng sẽ luôn điều hành Berkshire với số tiền mặt còn hơn cả dư dả. Chúng tôi không bao giờ muốn phụ thuộc vào lòng tốt của những người xa lạ để hoàn thành được nghĩa vụ của ngày mai. Khi buộc phải chọn, tôi sẽ không đem bán dù chỉ là một giấc ngủ đêm để lấy cơ hội thu thêm lợi nhuận”. Mọi người nói rằng bậc thầy đầu tư như Buffett cũng không cho phép Berkshire nhận khoản nợ lớn. Nếu ông không tin tưởng nó – và ở đây chúng ta đang nói về nhà đầu tư vĩ đại nhất mọi thời đại, một thiên tài toán học không sánh bằng – thì vì lẽ gì mà những người còn lại trong chúng ta có thể đặt ra câu hỏi về nợ cơ chứ? Không nghi ngờ gì, nợ chỉ làm gia tăng rủi ro. Thực tế, điều an toàn nhất có thể làm là tránh xa nó như Buffett đã làm. Buffett còn hạn chế rủi ro của mình bằng cách ở trong cái gọi là “phạm vi hiểu biết” của ông, khái niệm mà chúng ta đã thảo luận ở chương trước. Bằng cách trung thành với điều ông biết, Buffett đã giảm bớt rủi ro của việc đưa ra một quyết định tồi dựa trên những hiểu biết và giả định sai lầm. Nói thế không có nghĩa là ông không bao giờ phạm sai lầm (chúng ta sẽ nhắc tới những sai lầm trầm trọng của ông sau), nhưng ông đã làm điều có thể để giảm hết mức có thể số sai lầm mắc phải. Buffett quản lý rủi ro nhiều hơn bằng cách chủ yếu đầu tư vào các công ty có trụ sở ở Mỹ thay vì mua cổ phiếu của các công ty nước ngoài. Berkshire đã sở hữu cổ phiếu của các công ty quốc tế trong nhiều năm, trong đó có công ty bia Guinness của Ireland, công ty xăng dầu Trung Quốc PetroChina và hai ngân hàng Ireland. Berkshire còn sở hữu toàn bộ công ty sản xuất dụng cụ tự động Iscar của Israel, và gần đây sở hữu cổ phần của BYD, một công ty của Trung Quốc chuyên sản xuất pin, ô tô điện và điện thoại di động. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, Buffett đều chọn gắn bó với quê hương. Có nhiều ưu thế lớn khi đầu tư ra nước ngoài – chẳng hạn như bạn có thể sở hữu cổ phần của những công ty mới hơn, phát triển nhanh hơn trong những thị trường mới. Nhưng cùng với đó là những nguy cơ tiềm tàng. Việc tìm hiểu điều kiện địa lý-chính trị cũng như những nguyên tắc kế toán khác biệt tại mỗi thị trường sẽ làm tăng thêm một lớp phức tạp cho quyết định đầu tư. Với Buffett, đó là nguy cơ ông chọn cách bỏ qua. Sự đầu tư nào cũng tiềm ẩn rủi ro. Bạn càng nhanh chóng làm quen và thoải mái với sự thật này bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tuy nhiên, không cần phải mạo hiểm nhiều hơn mức cần thiết. Hãy đi theo sự chỉ dẫn của Buffett: Đeo đuổi một biên an toàn thích hợp. Tránh càng xa nợ càng tốt Ở trong vòng tròn năng lực của bạn. Nghiên cứu trước khi đầu tư ra nước ngoài. 7 Tập trung vào mặt tích cực của sự bi quan Buffett vô cùng lạc quan về nước Mỹ, về khả năng vượt qua khó khăn cũng như về tương lai của đất nước. Khi thị trường đang hỗn loạn vào mùa thu năm 2008, khi sợ hãi và hốt hoảng đạt đỉnh, Buffett gần như trở thành đội trưởng đội cổ vũ quốc gia. Ông đã viết một bài báo cho mục phân tích-bình luận của tờ Thời báo New York, bài báo có tên “Hãy mua nước Mỹ. Tôi đang”, vào tháng Mười năm 2008. Trong bài báo, ông viết rằng giữa thời kỳ hỗn loạn, những công ty tốt của Mỹ đang được rao bán với cái giá rẻ tới mức ông có thể mua chúng để bổ sung cho danh mục đầu tư của cá nhân ông – không phải danh mục đầu tư của Berkshire (nhân tiện, xin được nhắc bạn, công ty vốn đã nắm giữ trong tay rất nhiều công ty lớn của Mỹ) mà là tài khoản của riêng ông (trước đó, ông chỉ sở hữu trái phiếu chính phủ). Tại sao Buffett lại dám liều lĩnh tuyên bố “Mua nước Mỹ” vào thời điểm hiểm nghèo này? Vì theo ông nói thì ông tin rằng “lo sợ về viễn cảnh lâu dài của các công ty lành mạnh của đất nước thì thật vô nghĩa”. Buffett quyết định không đưa ra một “tiếng gọi của thị trường”, cũng không dự đoán rằng thị trường chứng khoán sẽ nhanh chóng hồi phục trở lại. Ông đã thể hiện rõ ràng rằng ông không hề biết khi nào thị trường sẽ hồi phục trở lại, chỉ biết, cuối cùng nó sẽ hồi phục. Và khi nó thực sự hồi phục, bạn muốn mình là một trong số những nhà đầu tư dũng cảm đã dám mua khi thị trường có vẻ ảm đạm nhất. Chẳng nghi ngờ gì việc Buffett là một người lạc quan bẩm sinh, nhưng ông lại rất thông thái trong việc nhận ra và tận dụng sự thật là những thời điểm bi quan có thể tạo ra những hoàn cảnh đem lại sự giàu có thịnh vượng cho nhà đầu tư về lâu về dài. Điều đó đúng đối với những nhà đầu tư đã nghe theo lời khuyên của Buffett và mua cổ phiếu khi dường như cả thế giới đang sụp đổ xung quanh họ vào mùa thu năm 2008 (và tôi hi vọng được là một trong số những người đó). Như ông đã nói trong bài báo đăng trên Thời báo New York, nhắc lại suy nghĩ mà ông đã chia sẻ trước đó: “Tin xấu là người bạn tốt nhất của nhà đầu tư. Nó giúp bạn mua được một lát cắt của tương lai nước Mỹ với cái giá cực rẻ”. Ông còn nói: “Khi đầu tư, bi quan là bạn, khoan khoái là thù”. Trong bức thư gửi các cổ đông năm 2009, Buffett củng cố quan điểm này thêm một lần nữa: “Sợ hãi là người bạn tốt nhất của họ [các nhà đầu tư]. Những người chỉ đầu tư khi thấy các nhà bình luận lạc quan kết cục lại phải trả giá đắt cho sự đảm bảo vô nghĩa. Cuối cùng, điều quan trọng trong đầu tư là cái giá bạn trả cho một công ty – thông qua việc mua một phần nhỏ của nó trên thị trường chứng khoán – và những gì công ty đó thu được trong một hoặc hai thập kỷ liên tiếp”. Buffett cẩn trọng không để sự lạc quan vốn có ảnh hưởng tới những nhận định của mình. Ông duy trì thái độ điềm đạm, bình thản đối với những khoản đầu tư của mình, cũng Tập trung vào mặt tích cực của sự bi quan như về sự lên, xuống của thị trường. Cố vấn của ông, Ben Graham, đã nói và viết về một nhân vật hư cấu có tên là “Ông Thị Trường” (Mr. Market), người làm việc với bạn mỗi ngày, người đề nghị mua cổ phiếu của bạn hoặc đề nghị bán cho bạn những cổ phiếu mới với những giá rất khác nhau. Nếu bạn nói không với ông ta một ngày thì không thành vấn đề – ông ta sẽ trở lại vào ngày hôm sau với một lời đề nghị khác. Buffett thích cách so sánh này, và đã chia sẻ về nó trong nhiều năm liền, nhắc nhở các nhà đầu tư rằng họ chịu trách nhiệm về Ông Thị Trường – chứ không phải ngược lại. Bạn không nên bị ảnh hưởng tâm lý quá nhiều trước những động thái đỏng đảnh của ông ta bằng cách này hay cách khác. Thái độ này cũng chính là điều đã giúp Buffett tránh được các giai đoạn quá khích và cuồng loạn, chẳng hạn như thời kỳ bùng nổ công nghệ những năm 1990. Sự lạc quan vô biên mà các nhà đầu tư nhìn thấy ở ngành công nghệ thời điểm lúc bấy giờ lại tránh xa Buffett. Như ông đã viết trong một bài báo đăng trên tờ Forbes năm 1979 thì: “Tương lai chẳng bao giờ rõ ràng. Bạn trả một cái giá rất cao cho một sự đồng thuận vui vẻ trong thị trường chứng khoán. Sự không chắc chắn thật ra là bạn của người mua giá trị lâu dài”. Triết lý đầu tư của Graham thực ra được xây dựng dựa trên chủ nghĩa bi quan, điều mà Buffett dần dần tránh xa sau nhiều năm. Đầu tư kiểu “đầu mẩu xì-gà”, ý tưởng tìm cổ phiếu giá rẻ nhất có thể (chẳng hạn, một công ty bán thấp hơn mức mà toàn bộ tài sản của nó có thể bán được trên thị trường mở) và mua cổ phần của nó, hi vọng có thể “rít” được một vài hơi cuối từ điếu xì-gà đã bị vứt đi mà bạn tình cờ nhặt được trên đường (Đúng vậy, kinh quá!). Trường phái suy nghĩ này không tính tới chất lượng quản lý, hay viễn cảnh tương lai của công ty, sức mạnh thương hiệu hay lợi thế cạnh tranh của nó. Nó hoàn toàn chỉ liên quan tới “biên an toàn” mà chúng ta đã đề cập tới ở chương trước. Phong cách của Graham là bi quan theo nghĩa bạn không tìm kiếm doanh nghiệp để đầu tư trong suốt quãng đời còn lại của bạn và của doanh nghiệp đó, hưởng lợi từ đường hào kinh tế đánh giá cao khả năng phát triển rực rỡ của chúng. Thay vào đó bạn chỉ cúi đầu đi vòng quanh, tìm kiếm một hơi ở đây, một hơi ở kia, chẳng để mắt tới tương lai, chẳng đặt hi vọng nào cho doanh nghiệp trong ngày mai, ngày kia. Nhờ có phần ảnh hưởng của người cộng sự kinh doanh Charlie Munger (chúng ta sẽ đào sâu vào vấn đề này ở chương sau), Buffett bắt đầu bỏ qua cách nhìn bi quan này, và tìm kiếm những công ty vững mạnh với tương lai tươi sáng. Tuy nhiên, ông không cho phép bản thân bị lóa mắt bởi sự lạc quan. Ông duy trì thái độ thực tế kiên định khi phân tích các công ty, không hề trông chờ một miếng bánh trên trời rơi xuống hay đầu mẩu xì-gà còn sót lại một hơi. Để đảm bảo bạn không bị vướng vào sự lạc quan vô lý, hãy nhớ: 1. Bình tĩnh, điềm đạm về các khoản đầu tư của bạn nói riêng và về thị trường nói chung. Hãy học cách không quá khích trước các dao động hoặc không gục ngã trước sự sụt giảm của thị trường. 2. Bạn chịu trách nhiệm về Ông Thị Trường. Đừng để ông ta bắt thóp bạn. 3. Trích lời Buffett: “Khi đầu tư, bi quan là bạn, khoan khoái là thù”. 8 Nghiên cứu bao quát Hẳn là bạn đã không ít lần được mời mọc hay khuyên bảo rằng bạn nên đầu tư vào lĩnh vực này hay lĩnh vực kia, rằng có một mã cổ phiếu chắc chắn sẽ đem lại lợi nhuận khổng lồ nếu bạn chịu chi tiền... Nếu bạn đã có đầy đủ các thông tin liên quan, hãy cân nhắc. Nếu bạn biết rất ít hoặc gần như không biết gì về lĩnh vực đó hay mã cổ phiếu kia, hãy cố tìm nén lại! Buffett tin, và bạn cũng nên tin, rằng bạn nên dành nhiều thời gian để nghiên cứu trước khi mua cổ phiếu của một công ty nào đó. Chỉ biết mã chứng khoán niêm yết thôi là chưa đủ; bạn cần hiểu được công ty đó làm gì, kiếm tiền ra sao và ai là người điều hành. Việc khảo sát này là phương cách hữu hiệu để xác định bạn đang xem xét một công ty có lợi thế cạnh tranh lâu dài và có đường hào kinh tế vững chãi, hay lại chỉ là một công ty nay-còn-mai-mất. Bạn không thể biết được tất cả những điều đó nếu không nghiên cứu. (Một chú thích bên lề, thật buồn cười khi biết một người sẽ nghiên cứu, tìm hiểu kỹ càng như thế nào trước khi mua một chiếc máy vi tính, một chiếc ô tô hay một chiếc tủ lạnh mới, nhưng lại quyết định đầu tư số tiền phải khó nhọc mới kiếm được vào những công ty được phép bán cổ phần cho công chúng – chỉ bằng cách lắng nghe người khác không phải tự mình tìm hiểu). May mắn là chúng ta có thông tin dễ dàng hơn nhiều so với Buffett ngày xưa, khi ông bắt đầu đọc và nghiên cứu về các công ty. Nhờ có Internet, lượng thông tin tài chính chúng ta có thể tiếp cận nhanh chóng và miễn phí ngày nay gần như là không giới hạn. Buffett phải trực tiếp tới Ủy ban Giao dịch chứng khoán để xem hồ sơ của các công ty. Ông nói: “Đó là cách duy nhất để có được những thông tin đó”. Đó cũng là cách để có được những bản báo cáo của Moody và Standard & Poor[26]. Ông phải ra mặt và yêu cầu các tài liệu mà ông muốn về những công ty cụ thể từ thư viện của các tổ chức này, và phải ngồi xuống, lần lượt đọc từng tí, từng tí một, và tự mình ghi chép. Ông thậm chí còn không có quyền sử dụng máy photocopy. Nếu không trực tiếp xuất hiện ở Moody, Standard & Poor hay Ủy ban Giao dịch chứng khoán, Buffett lại phải chuyển hướng sang những cuốn Sổ tay hướng dẫn của Moody và Standard & Poor. Ông bắt đầu thói quen này từ khi còn theo học trường Kinh doanh Columbia, học hỏi từ thầy Ben Graham cách tìm hiểu mọi thông tin liên quan tới những khoản đầu tư tiềm năng. Những cuốn sách mà chúng ta đang nói tới không phải là những cuốn sách chỉ dày 100 trang. Hãy nghĩ tới cuốn Sổ tay hướng dẫn của Moody dày 10.000 trang, viết rõ ràng, chi tiết về mọi công ty được quyền bán cổ phiếu ra công chúng. Buffett nói rằng ông đã đọc hết cả cuốn Sổ tay hướng dẫn của Moody hai lần – đọc hết 10.000 trang – khi còn làm nhân viên môi giới chứng khoán cho công ty Omaha của cha ông, xem xét tất cả các công ty. Buffett còn trực tiếp tới thăm và nói chuyện với quản lý của các công ty để tìm hiểu thêm về chúng. Lần đầu tiên ông làm như vậy là với công ty GEICO (công ty giờ đã hoàn toàn thuộc sở hữu của Berkshire Hathaway) khi ông còn là cậu sinh viên mới tốt nghiệp. Nghe nói công ty đầu tư của thầy Graham thích công ty GEICO, Buffett đã quyết định tìm hiểu sâu hơn. Ông đến văn phòng tập đoàn GEICO vào một ngày thứ Bảy, và chỉ một lúc sau đã thấy ông đang nói chuyện với phó chủ tịch công ty về những vấn đề tài chính cũng như viễn cảnh của công ty. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Buffett đầu tư một khoản tiền lớn vào cổ phiếu của GEICO. Khao khát được học tất cả mọi thứ và được đọc tất cả mọi thứ của Buffett đã trở thành huyền thoại. Ông giống như một miếng bọt biển, hút mọi thông tin mà con người có thể tiếp nhận được. Ông ngấu nghiến những bản báo cáo, những tờ tạp chí kinh doanh và vô số sách vở. Ông đọc ít nhất năm tờ báo mỗi ngày, và ngày nào cũng đọc tờ Tạp chí phố Wall kể từ khi còn học đại học. Trên thực tế, khi còn sống và làm việc ở Omaha, ông đã sắp xếp để sáng nào tờ tạp chí này cũng được chuyển tới văn phòng ông từ rất sớm, để ông có thể đi trước tất cả mọi người một bước khi nói tới những tin tức tài chính mới nhất. Công việc mà Buffett làm thường xuyên nhất khi tới văn phòng ở Omaha là đọc. Ông đọc từ lúc đặt chân tới văn phòng cho tới khi về nhà. Mỗi năm ông đọc khoảng 700 báo cáo thường niên và dành 45 phút để đọc từ đầu chí cuối mỗi bản báo cáo. Đêm của ông cũng chả khác ngày là mấy. Các con ông đã nói về thói quen đọc sách của bố như thế này: Sau khi ăn tối xong, ông đi thẳng lên phòng đọc trên gác và đọc cho tới tận lúc đi ngủ. Lúc này, họ biết là không được làm phiền ông trừ khi thực sự cần thiết. Chỉ đơn giản là Buffett thích hấp thụ càng nhiều thông tin và kiến thức càng tốt. Một trong những lợi ích của việc đọc nhiều đó là Buffett có thể đưa ra những quyết định tài chính phức tạp – có tính toán hay không – nhanh hơn hầu hết chúng ta có thể. Vì ông dành rất nhiều thời gian để học chi tiết về vấn đề tài chính của gần như tất cả các công ty mà ông có ý muốn sở hữu, nên ông có thể nhanh chóng đánh giá được các thương vụ tiềm năng. Về công việc chuẩn bị không ngừng nghỉ của mình, Buffett đã từng nói: “Noah không bắt đầu đóng thuyền khi trời đã mưa”. Buffett đọc để sẵn sàng đón nhận những đề xuất kinh doanh mới, cũng như để bắt kịp với tình hình tài chính của những cổ phiếu hiện tại Berkshire đang nắm giữ. Bộ não của Buffett giống như một chiếc dao cạo sắc bén, và khả năng gợi nhớ thông tin của ông thật đáng ngạc nhiên. Andrew Kilpatrick, tác giả cuốn sách Giá trị vĩnh cửu: Câu chuyện về Warren Buffett (Of Permanent Value: The story of Warren Buffett ), đã nói: “Quả thực ông là một thiên tài, và tất cả chúng ta đều không được như thế. Nếu bạn nói với mọi người rằng ông có thể đọc và hấp thụ được cả một cuốn sách chỉ trong một lần ngồi xuống, mọi người sẽ không thể tin vì họ không thể làm được như vậy”. Nhưng dù chắc chắn nó có ích, bạn cũng không cần phải sở hữu trí tuệ đáng nể và trí nhớ gần như hoàn hảo của Buffett để thành công trên cương vị một nhà đầu tư. (Cám ơn Chúa! Hầu hết chúng ta sẽ đánh mất vận may nếu những đặc tính này là yêu cầu bắt buộc, không thương thảo được. Và hãy nhớ điều mà chính bản thân Buffett đã nói về khí chất trong đầu tư). Tuy nhiên, bạn thực sự cần khao khát kiến thức như ông. Không nhất thiết phải yêu cầu chuyển tờ Tạp chí phố Wall đến sớm, hay đọc năm tờ báo mỗi ngày, hay tối nào cũng ngồi nhà với một đống những bản báo cáo thường niên. Chắc chắn bạn còn nhiều việc khác phải làm, đúng không? Nhưng để trở thành nhà đầu tư tốt hơn, bạn cần phải trở thành một người yêu thích kinh doanh và một nhà nghiên cứu tốt hơn. Bạn cần phải học những điều cơ bản về kế toán để biết cách cân bằng bảng cân đối thu chi, và không bị lúng túng khi ai đó nói về những khoản nợ phải thu hay lợi thế thương mại. Bạn cần phải đọc về các mô hình kinh doanh khác nhau để hiểu được cách các doanh nghiệp kiếm tiền. Chẳng hạn, cách tiếp cận khách hàng của gã khổng lồ Wal-Mart có gì khác so với của cửa hàng trang sức Tiffany? Cả hai đều là cửa hàng bán lẻ, nhưng họ áp dụng những cách tiếp cận rất khác nhau trong kinh doanh. Câu trả lời ư? Wal-Mart bán rất nhiều thứ với mức giá rất thấp, chiến lược số lượng lớn/lãi suất thấp, còn Tiffany lại chọn bán ít sản phẩm hơn, nhưng sản phẩm chất lượng cao hơn, và tiền lãi thu được từ mỗi sản phẩm lại cao hơn. Bạn cần phải trở nên thoải mái với thứ ngôn ngữ kỳ dị của kinh doanh, và để được như vậy, bạn cần phải đọc về nó. Tò mò lành mạnh về thế giới xung quanh có thể giúp ích cho bạn. Buffett lúc nào cũng tò mò, và đây là một tài sản lớn đối với ông. Bạn không bao giờ có thể biết chắc ý tưởng hay khả năng đầu tư lớn của bạn bắt nguồn từ đâu. Cởi mở để học hỏi về bất cứ thứ gì và tất cả mọi thứ giúp bạn được bổ sung tinh thần để tiếp nhận những ý tưởng mới. Lợi ích của việc tò mò và đọc nhiều Lisa Rapuano, sáng lập của công ty Quản lý quỹ Lane Five, có một giá trị được xem là một trong những giá trị cốt lõi của công ty bà: “Học và đọc rộng”. Trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng Chín năm 2010, bà đã giải thích tại sao điều này lại quan trọng đến vậy: Ở mức độ thực tế hơn, một người hay tò mò sẽ dễ dàng khám phá mẩu thông tin có thể là bằng chứng bạn cần để có được sự tự tin hơn so với người không có đủ sự tò mò để trở nên tháo vát. Bạn biết người nào đó thường thích nói: “Tôi biết. Tôi hiểu cái này hoạt động như thế nào. Tôi không cần nghĩ về nó quá nhiều.” Ngược lại, ai đó giống như tôi, hay người làm việc cho tôi, lại luôn hỏi: “Tôi có thể nghĩ về điều đó như thế nào nữa? Tôi có bỏ lỡ điều gì không? Còn gì đang diễn ra nhỉ? Tôi còn có thể làm gì nữa? Làm thế nào tôi có thể lật ngược nó lại? Làm thế nào tôi có thể tìm hiểu để xác định là nó đúng hay sai?” Giờ bạn cần phải cẩn thận với điều đó, vì bạn có thể phải làm việc 12 tiếng mỗi ngày về một thứ trong suốt phần đời còn lại của mình, và vẫn không có được 100% thông tin. Nhưng đó chính là động lực để tiếp tục tò mò, và người có bản tính muốn học và đọc rộng thường là người có khả năng phân tích tốt hơn. Thứ hai, việc đọc sâu, đọc rộng giúp bạn có một bộ mô hình, quan hệ và mạng lưới vững chắc hơn – những điều mà tôi nghĩ là có thể giúp bạn hiểu được cách vận hành của thế giới”. Như thế không có nghĩa là nói Buffett sẽ dành rất nhiều thời gian – hay bạn cũng nên như vậy – để đọc về và đeo bám những công ty nằm ngoài vòng tròn năng lực của ông. Như chúng ta đã nói lúc trước, ông xác định rất rõ ràng ngành công nghiệp nào, kiểu công ty nào nằm trong vòng tròn hiểu biết của ông, và ông theo đuổi nó. Nhờ sự tò mò của ông, chẳng quá khi tưởng tượng ông giữ liên lạc với một số công ty nằm ở ngoại biên vòng tròn của ông, nhưng với mức độ và cường độ không sâu sắc được như ông đã dành cho các công ty mà ông thực sự hiểu. Chẳng hạn, như chúng ta đã khám phá ra lúc trước, vì đặc điểm phát triển nhanh, thay đổi liên tục của công nghệ mà Buffett cảm thấy không thoải mái trong việc tiên đoán tương lai dòng tiền của những công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Thế nên, ngoại trừ những ông lớn khiến ông mê mẩn như Microsoft và Google, Buffett đã không dành quá nhiều thời gian để đọc về các công ty công nghệ. Thời gian nghiên cứu và năng lực trí tuệ của ông được tập trung tốt hơn ở bất cứ nơi nào khác. Đây cũng là bài học cho chúng ta. Trừ khi bạn chắc chắn việc tham gia vào những lĩnh vực mới có thể khiến những lĩnh vực đó gia nhập vòng tròn năng lực của bạn, có lẽ bạn nên tiếp tục học hỏi càng nhiều càng tốt và mở rộng hiểu biết của bạn về ngành công nghiệp cũng như những công ty mà bạn cảm thấy thoải mái khi đầu tư. Một tài sản quan trọng khác đối với Buffett là khả năng tránh phạm phải lỗi “thiên kiến xác nhận” Chúng ta có chiều hướng thiên về những thông tin làm hài lòng bản thân và né tránh những thông tin có thể lật ngược vấn đề. Như thế cũng giống như lấy tay bịt lỗ tai và hét lên những điều vô nghĩa khi bạn không muốn nghe ai đó. Tuy nhiên, việc tránh thông tin tiêu cực có thể giáng một đòn chí mạng vào nhà đầu tư. Để thiên kiến xác nhận điều khiển quyết định đầu tư có thể gây ra sai lầm kép, vì nó có thể khiến bạn không muốn thừa nhận chính bạn là người gây ra sai lầm đó. Như chúng ta sẽ thấy trong chương bàn về sai lầm, Buffett cực giỏi trong việc thừa nhận rằng ông đã phạm sai lầm. Điều đó có thể gây tổn thương cho cái tôi của ông, có thể làm ông khó chịu, nhưng khi thông tin mới phủ nhận điều gì đó ông tin tưởng, ông sẽ phân tích và chấp nhận nó. Viết về thương vụ mua công ty dầu ConocoPhillips khi giá dầu cao ngất ngưởng và sau đó giá dầu tụt dốc thê thảm, ông nói: “Tính tới thời điểm này tôi đã hoàn toàn sai. Hơn nữa, ngay cả khi giá có tăng trở lại thì thời điểm mua kinh khủng của tôi cũng khiến Berkshire thiệt hàng vài tỉ đô la”. Khi bạn không dành thời gian chất vấn suy nghĩ của mình, để cân nhắc xem bạn có thể sai điều gì, có thể bỏ lỡ điều gì, bạn sẽ tự động gia tăng rủi ro cho mình. Và chúng ta đều biết Buffett tin rằng bạn nên làm mọi điều có thể để giảm thiểu rủi ro. Việc chắc chắn là bạn đã cân nhắc các quan điểm thay thế có thể giúp bạn đạt được điều đó. Bạn không thể làm việc đó hoàn hảo được; không ai có thể. Nhưng cố gắng nghĩ về mọi quan điểm – chứ không phải chỉ một quan điểm cho rằng bạn đúng – là điều cực kỳ hữu ích. Viết về xu hướng muốn thông qua ý tưởng đầu tư của một người nào đó trong bức thư gửi các cổ đông của Berkshire Hathaway năm 2008, Buffett nói: “Tuy nhiên, thông qua không phải là mục đích của đầu tư. Trên thực tế, việc thông qua thường phản tác dụng vì nó ru ngủ não và khiến não khó tiếp nhận những sự thật mới hay kiểm tra lại những kết luận được hình thành trước đó. Hãy nhớ hoạt động đầu tư tạo ra sự tán đồng; những động thái vĩ đại thường chỉ nhận được những cái ngáp tán dương”. Vì thế, để tận dụng tối đa khoảng thời gian bạn dành cho việc nghiên cứu (điều thực sự cần thiết để trở thành một nhà đầu tư vĩ đại), hãy: Đọc, đọc và đọc. Đừng quên vòng tròn năng lực của bạn. Tránh thiên kiến xác nhận – hãy chủ động tìm kiếm thông tin ngược với kết luận của bạn, chứ đừng tìm kiếm những thông tin củng cố cho chúng. 9 Phớt lờ áp lực xung quanh Nguyên tắc đầu tư căn bản của Buffett được hình thành từ sớm, nhờ công của bậc thầy cố vấn Ben Graham. Dù Buffett tự mở rộng các nguyên tắc cho mình sau nhiều năm, hợp nhất những ý tưởng về đầu tư chất lượng hơn từ cộng sự kinh doanh Charlie Munger và người tiên phong trong lĩnh vực đầu tư tăng trưởng Philip Fisher (chúng ta sẽ bàn nhiều hơn về vấn đề này sau), một khi đã hình thành nền tảng mang tính triết lý, ông không bao giờ rời xa nó. Trong suốt quá trình tham gia đầu tư của mình, Buffett đã đối mặt với nhiều giai đoạn thử nghiệm sức mạnh trí tuệ và sức chịu đựng tâm lý ngoan cường. Ông được xem như “không hợp thời” (từ của chính ông trong bức thư gửi các đối tác năm 1967) hay “cổ lỗ sĩ” hết lần này tới lần khác. Nhiều học giả cười nhạo việc ông không đầu tư vào lĩnh vực công nghệ, tuyên bố rằng ông đã lỗi thời, phong cách đầu tư của ông sẽ không mang lại hiệu quả nữa. Trước khi trở thành Buffett nổi tiếng của các trang bìa tạp chí và sách, ông đã phải đối mặt với những thị trường giá hão huyền, phi lý, chẳng cho ông lựa chọn nào ngoài việc chờ tiền đốt thủng một lỗ trong túi của ông. Vượt qua tất cả, vượt qua những lời chỉ trích, vượt qua sự thất vọng khi thấy các công ty tốt chỉ bán giá quá cao, Buffett vẫn thành thật với bản thân, kiên định với niềm tin của mình. Ông không từ bỏ hệ tư tưởng học-từ-thầy-Graham, và luôn tin rằng cách đầu tư của ông là cách đầu tư tốt nhất, có óc xét đoán nhất. Trong một buổi phỏng vấn truyền hình hồi tháng Mười một năm 2009 của đài CNBC tại trường Đại học Columbia, ông đã nói: “Những nguyên tắc hợp lý giúp bạn vượt qua mọi việc. Và tôi chẳng phải thay đổi gì những nguyên tắc nền tôi đã học được từ thầy Graham và Dodd. Chúng đưa tôi tới những giai đoạn tốt đẹp, giúp tôi vượt qua những giai đoạn khó khăn. Tôi chẳng phải lo lắng gì về chúng vì tôi biết chúng có tác dụng”. Năm 1956, Buffett cùng một số người bạn đã lập ra công ty đầu tiên của mình. Ngay sau đó, ông đã nhanh chóng và dễ dàng nhận ra những công ty tiềm năng để đầu tư. Tuy nhiên, tới những năm 1960, những năm được nhìn nhận là “có tính đầu cơ cao” vì dễ kiếm tiền và kiếm tiền nhanh, Buffett lại thấy thất vọng vì có quá nhiều tiền để đầu tư nhưng lại có quá ít cơ hội để thực hiện điều đó. Quả thực, năm 1966 ông đã đóng cánh cửa công ty của mình đối với những nhà đầu tư mới. Vào thời điểm đó, trước khi xảy ra thảm họa vỡ bong bóng công nghệ để có thể thấy được nghi ngờ của Buffett là hợp lý, nhà đầu tư đang chộp lấy các công ty điện tử và công nghệ mà không dừng lại để hỏi chính xác những công ty này làm gì và họ kiếm tiền ra sao. Buffett từ chối tham gia vào đống hỗn loạn đó, và nói với các cộng sự của ông trong bức thư viết gửi họ năm 1967: “Khi cuộc chơi không còn chơi theo cách của bạn, chỉ có con người mới nói cách tiếp cận mới là sai, là sẽ dẫn tới rắc rối… Trong quá khứ, tôi đã từng bị những người khác khinh bỉ vì hành động này. Tôi cũng từng chứng kiến hình phạt mà những người đánh giá thị trường như nó vốn thế - chứ không phải như nó thế - phải gánh chịu. Đặc biệt, tôi lỡ nhịp với những điều kiện hiện tại. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn chắc chắn ở một điểm. Tôi sẽ không từ bỏ cách tiếp cận trước, cách tiếp cận mà tôi có thể hiểu được lô-gic của nó, dù điều đó có thể có nghĩa là bỏ qua khoản lợi nhuận lớn, dễ dàng kiếm được, để tiếp nhận cách tiếp cận mà tôi không thực sự hiểu, chưa từng thành công, thậm chí có thể dẫn tới những tổn thất nặng nề về kinh tế”. (Tuy nhiên, cần phải nói rằng nhờ có những thương vụ trước đó của ông, công ty đã hoạt động rất tốt trong những năm 1960. Ông đóng cửa công ty vào năm 1969, đem lại cho những đối tác may mắn của ông khoản lợi nhuận trung bình hàng năm trước thuế là 32%).