🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vũ Trung Tùy Bút
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin ebook
Tên sách: Vũ Trung Tùy Bút
Tác giả: Phạm Đình Hổ
Bản dịch: Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI GIỚI THIỆU
TỰ THUẬT
TẢ CHÍ HẦU
CẢNH CHÙA SƠN TÂY
THAY ĐỔI ĐỊA DANH
HOA THẢO
HỌC THUẬT
LỐI CHỮ VIẾT
CÁCH UỐNG CHÈ
XÉT VỀ ĐỊA MẠCH VÀ NHÂN VẬT ĐÊM RẰM THÁNG TÁM
BÀN VỀ ÂM NHẠC
BÀN VỀ LỄ
LỄ ĐỘI MŨ
HÔN LỄ
THỪA TỰ
LỄ TẾ GIAO
TẠP KÝ
PHONG TỤC
NÓN ĐỘI
ÁO MẶC
NGUYỄN NGHIÊU MINH
ĐƯỜNG SĨ HOẠN
ĐÀN
CÁ VOI
MẤY NĂM ĐƯỢC MÙA
TRỘM CẮP
MẸO LỪA
MỘNG VÀ SỐ
THÁC OAN
KHOA CỬ
CUỘC BÌNH VĂN TRONG NHÀ GIÁM (1) PHÉP THI NGHIÊM MẬT
ĐIỀM QUÁI GỞ
NGUYỄN KÍNH
VIỆC THI CỬ
Y HỌC TRUNG HOA
XỨ HẢI DƯƠNG
TÊN HUYỆN ĐƯỜNG AN
TÊN LÀNG CHÂU KHÊ
ĐOÀN THƯỢNG
PHẠM TỬ HƯ
PHẠM NGŨ LÃO
PHẠM CƯ SĨ
LÀNG HẠ BÌ
ĐỖ UÔNG
NHỮ CÔNG TUNG
LÝ ĐẠO TÁI
VÕ THÁI PHI
ĐỀN THỜ LÀNG TUẤN KIỆT
CÁI THÓI KIÊNG NGÀY TRÙNG TANG, TRÙNG PHỤC KHÁCH ĐỂ CỦA
CỔ TÍCH
VIỆC TẾ TỰ
ĐỀN ĐẾ THÍCH
THẦN HỔ
THẦN TRẺ CON
MIẾU BÀ CHÚA NGỰA
ĐỀN THỜ CAO TƯỚNG CÔNG
PHẠM TRẤN, ĐỖ UÔNG
BÙI THẾ VINH
VÕ CÔNG THẠNH
VĂN THỂ
PHÉP THI
THỂ VĂN KINH NGHĨA
THỂ VĂN TỨ LỤC
THỂ THƠ
THỂ VĂN SÁCH
VIỆC TAI DỊ
NHÀ HỌ NGUYỄN Ở TIÊN ĐIỀN
ĐIỀM CÂY ĐA
VIỆC TẾ TỰ
LỄ TANG
LỄ NHÀ MIẾU
THẦN LỄ
BÁI LỄ
QUAN CHỨC
LỄ TANG
TẾ LỄ
BÁI LỄ
TRUYỆN VUA LÊ LỢI LỄ SÁCH PHONG CƯ TANG
MỘ CHÍ
TRỢ TẾ
THẦN HỒ ĐỘNG ĐÌNH THAY ĐỔI
LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa tiếp xúc rộng rãi với thế giới. Phải có bản lĩnh tiếp thu tinh hoa văn hóa của thế giới để làm phong phú cho nền văn hóa của dân tộc mình. Nhưng muốn thế nhất thiết phải củng cố cái gốc của văn hóa dân tộc, bồi dưỡng tinh hoa văn hóa dân tộc cho các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ để cho họ ý thức được những giá trị tinh thần đẹp đẽ của dân tộc mình, như vậy khi tiếp xúc với nền văn hóa các nước, họ biết chủ động tiếp thu những cái hay, cái đẹp của người, và dị ứng lại với những cái xấu, cái độc hại. Xuất phát từ nhận thức này, Hội nghiên cứu và Giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh quyết định tổ chức biên soạn tử sách VĂN HỌC VIỆT NAM, NHỮNG TÁC PHẨM TIÊU BIỂU.
Tủ sách sẽ cung cấp cho đông đảo bạn đọc, trước hết là bạn đọc trẻ, cho thanh niên, học sinh, sinh viên ở các trường phổ thông và đại học những tác phẩm ưu tú của văn học dân tộc, từ văn học dân gian đến văn học viết, từ văn học cổ đến văn học cận, hiện đại... Thông qua tủ sách này bạn đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn con người Việt Nam, sức sống và cá tính của dân tộc Việt Nam, cùng với cái hay, cái đẹp của tiếng Việt và văn chương Việt Nam.
Để phản ánh cho đúng những thành tựu của văn học dân tộc, trong tủ sách có tập là một tác phẩm được in trọn vẹn, có tập là tuyển của một tác giả, hoặc một phong trào, một thể loại...
Chúng tôi cố gắng cung cấp cho bạn đọc những văn bản được in lần đầu tiên đối với bộ phận văn học quốc ngữ, còn những văn bản thuộc phạm vi văn học Hán Nôm thì ngoài việc in bản dịch, hoặc bản phiên âm chúng tôi cho in kèm theo văn bản chữ Hán hoặc chữ Nôm để cho các bạn có thể đối chiếu khi cần thiết.
Xin trân trọng giới thiệu tủ sách với đông đảo bạn đọc.
GS. Hoàng Như Mai
Chủ tịch Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học
Thành phố Hồ Chí Minh
LỜI GIỚI THIỆU
Một trong những tác giả nổi tiếng về thể loại truyện ký ở nước ta nửa cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 là Phạm Đình Hổ. Ông trước tác khá nhiều, trong đó, Vũ trung tùy bút là bức tranh toàn cảnh sinh động về xã hội đời Lê-Trịnh, là tài liệu tốt cho những ai muốn nghiên cứu, tìm hiểu phong tục, tập quán, sinh hoạt của con người thời này.
Phạm Đình Hổ sinh năm 1768, tự Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu là Đông Dã Tiều, còn có biệt hiệu là Hy Kiều Phủ, người đời thường gọi là Cụ Tế Đan Loan (1). Ông quê ở xã Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là thôn Đan Loan, xã Nhân Quyền, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương (2). Nhà ở phường Hà Khẩu (3), huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, thuộc thành Thăng Long (nay thuộc khu vực phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Ông xuất thân từ gia đình khoa bảng. Cha đậu cử nhân làm chức Hiến sát dưới triều Lê Cảnh Hưng (1740), nhưng mất sớm lúc ông mới 10 tuổi, gia đình trở nên túng bấn. Anh trưởng, anh thứ của ông đều yểu mệnh. Vợ ông chết sớm liền sau cái chết của con trai lớn, để lại đứa con sau ốm yếu. Mặc dù chịu nhiều đau thương, bản thân lắm bệnh tật, ông cũng cố gắng đeo đuổi nghiệp khoa cử. Cuối đời Lê Cảnh Hưng, ông từng theo học ở trường Quốc Tử Giám. Năm Bính Ngọ (1786) ông chưa kịp đi thi thì nhà Lê mất (1789). Mãi đến khi Gia Long lên ngôi, mở các khoa thi, ông đi thi nhiều lần nhưng chỉ đậu đến tú tài. Sau bị bệnh, không thể tiếp tục nghiệp khoa cử được, ông dành thì giờ viết sách. Ông am tường và nghiên cứu rất nhiều lĩnh vực. Vừa chuyên chí học hành, vừa trước tác, ông có nhiều công trình sưu tầm, nghiên cứu có giá trị. Nhờ vậy, năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), ông được vua vời vào triều cho nhậm chức Hành tẩu bộ Hộ, rồi được bổ vào chức hàn lâm viện hành tẩu. Chẳng bao lâu, ông xin từ chức về nhà. Năm Minh Mệnh thứ bảy (1826), ông lại được triệu về triều làm chức Hàn lâm viện thừa chỉ kiêm Quốc tử giám tế tửu. Được vài năm ông cáo bệnh về quê, lại được vua triệu và ban chức Thị giảng học sĩ. Năm 1839, ông mất, thọ 71 tuổi. Trong suốt quãng đời mình, ông sống cuộc sống nhà nghiên cứu, nhà văn nhiều hơn làm quan. Ông để lại nhiều tác phẩm với khá nhiều thể loại.
Về sưu tầm, nghiên cứu, ông có: Lê triều hội điển, Bang giao điển lệ, Cảnh Hưng tân ty sách phong sứ quán thư giản chư tập, An Nam chí, Ô châu lục, Ai Lao sứ trình, Đại Man quốc địa đồ, Càn khôn nhất lãm, Hi kinh trắc lãi, Khánh An Đan Loan Phạm gia thế phổ, Đan Loan Phạm thị chi hệ thế phổ...
Về sáng tác, ông có: Vũ trung tùy bút, Nhật dụng thường đàm, Đông Dã học ngôn thi tập, Bạn tiếp tồn phụng, Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án)...
Một trong những đặc điểm của nền văn học chữ Hán nước ta từ thế kỷ 18 – đầu thế kỳ 19 là sự phát triển của thể ký. Ở thể loại này, người viết ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy bằng nghệ thuật mô tả sinh động… Ngoài những nguyên nhân khách quan của văn học, yêu cầu phát triển thể loại ký (chủ yếu là tạp ký và ký sự), hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ cũng là động cơ quan trọng thôi thúc những người có lòng yêu nước, thương dân sáng tác. Phạm Đình Hổ là một điển hình. Dù phải sống trong gia cảnh nghèo túng, đau thương, nhưng từ nhỏ ông đã xác định mục đích của kẻ làm trai là: “Lập thân hành đạo”. Hơn nữa, trong thời đại ông sống, luân thường đạo lý bị coi thường, trật tự xã hội bị đảo lộn, biết bao cảnh ngang trái xảy ra từ vua chúa đến quan lại… Bị áp lực của kẻ cầm quyền, những quan hệ trong xã hội đều nghiệt ngã…
Vũ trung tùy bút (Tùy bút viết trong những ngày mưa) của Phạm Đình Hổ ra đời trong hoàn cảnh ấy. Tập trung trong 91 đề mục, tác giả ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy trong thực tế hàng ngày, không theo một trật tự nào. Bằng thủ pháp mô tả rất sinh động, tỉ mỉ, chân thành, bằng tấm lòng của một người ưu thời mẫn thế, Phạm Đình Hổ đã vẽ lại thật sống động lối sống sa đọa của bọn vua chúa, nạn hà hiếp dân lành của bọn quan lại, cảnh khốn cùng của dân chúng, cảnh gian lận hay thành kiến nặng nề trong thi cử đến những tục lệ của người dân… Mặc dù còn hạn chế ở một số điểm, nhưng Vũ trung tùy bút mang một giá trị nhất định về mặt sử học, văn hóa và xã hội học, là tài liệu đáng giá cho những ai muốn nghiên cứu xã hội nước ta cuối đời Lê.
Thực vậy, dưới ngòi bút của ông, việc phản ánh trung thành bộ mặt xã hội đương thời, nhất là thói ăn chơi xa hoa, trụy lạc của bọn vua chúa được nói đến trước tiên. Sinh ra trong gia đình nhà nho, bản thân từng làm quan phục vụ triều đình, nhưng Phạm Đình Hổ không khỏi bất mãn trước lối sống trái đạo của bọn thống trị, trước thái độ coi dân như cỏ rác. Ông kể việc “Trịnh Sâm thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các ly cung bên Tây hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đình đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán (…). Buổi ấy, bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì (…). Bọn hoạn quan cung cấm lại thường nhờ gió bẻ
măng, ra ngoài dọ dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt, khướu hay, thì biên ngay chữ “phụng thủ”. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính tới lấy phăng đi rồi buộc cho tội đem dấu vật cung phụng để dọa lấy tiến” (Chuyện cũ trong phủ chúa). Bọn quan lại
tại chức cũng ăn chơi và dung dưỡng cho con cháu chúng làn càn. Nguyễn Khản làm quan chức Tri phiên liêu khiêm Quản nhất hùng cơ, tước Kiều nhạc hầu mê hát xướng, lúc tang cha mà không lúc nào trong nhà bỏ tiếng tơ, tiếng trúc, gặp lúc con hát đang có tang cũng bắt hát suốt ngày. Bọn con cháu đều bắt chước chơi bời thành quen (Nhà họ Nguyễn ở Tiên Điền).
Ở đất kinh thành mà nhan nhản “những kẻ đầy tớ nhà quan, du đãng cờ bạc, gây chuyện đánh nhau, cãi nhau, cùng là những kẻ vô lại trộm cắp, nhiều lắm không kể xiết được” (Lục hải). Những kẻ cáo quan về hưu cũng không quên thói gian tham, chuyên làm đơn từ xui kẻ kiện cáo, gây thói điêu ngoa (Áo mặc).
“Phụ mẫu” của dân đã thế thì người dân tránh sao được cảnh đời gian nan, cơ cực. Cuộc sống vốn khó khăn, người dân còn bị tròng lên cổ những tệ nạn phục dịch cho quan. Kẻ nào đỗ khoa Đông các khi vinh quy dân bản tổng phải đến phục dịch. “Còn đến như làm nhà tư thất, phục dịch việc gì cũng đổ lên đầu dân cả thì dân làng tổng làm sao chịu được” (Việc thi cử). “Bà Võ Thái phí theo hầu chúa Trịnh là Hi tổ Nhân vương (Trịnh Cương) dung dưỡng cho bọn con cháu họ hàng làm càn, bắt dân đi phu, lấy đá làm từ đường” (Võ Thái phi). Không chịu được sự bóc lột hà khắc, nhân dân vùng ấy nổi lên đốt phá nhà từ đường, chống lại triều đình. Sống thời nhiễu loạn, “người dân còn sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn. Mỗi một mẫu ruộng chỉ bán được một cái bánh nướng”, có người bị chết đói. Thê thảm nhất là có nơi người ta làm cả thịt người! (Võ Thái phi).
Trong hoàn cảnh đen tối ấy, những sĩ tử nào ôm mộng thi đỗ làm quan để cứu khổ cho dân, thì thật là hiếm hoi. Bởi vì “Những kẻ chỉ học lỏm được mấy câu mép, nào có quan thiết gì đến đạo tu, tề, trị, bình, thế mà đã ngang nhiên tự đắc” (Học thuật). Mục đích của họ chỉ đủ “để vinh thân phì da và làm cho họ hàng được nhờ mà thôi, chứ có ích chúa lợi dân gì cho người đời nhờ cậy đâu! Huống chi học thuật đã bất chính, đến khi ứng dụng ra đời thì chỉ làm hại cho thiên hạ, đáng để cho người ta trách mắng”.
Nhưng để được đề danh bảng hổ cũng còn là vấn đề vô cùng khó khăn. Bởi việc thi cử trong giai đoạn này không còn được triều đình xem trọng. Tình trạng những kẻ quyền thế gian lận, đút lót quan chấm thi, gửi gắm con em để được thi đỗ rất phổ biến (Khoa cử). Do chính thể ngày càng đồi bại nên hiện
tượng thi giúp, làm bài sẵn, tìm cách biết đề trước ngày càng nhiều. Tệ hại nhất là thành kiến nặng nề của các quan giám khảo đối với những bài nào có “khẩu khí của Ngô Thì Sĩ” vì họ ganh ghét tài hay chữ nổi tiếng của ông và “sẵn sàng bới móc, đánh hỏng đi”.
Những hiện tượng tiêu cực còn xảy ra do những hạn chế của chế độ thi cử đương thời. Có kẻ vinh quy “chỉ dòm lấy con gái nhà giàu mà bỏ vợ tao khang; hoặc cịu tiếng luồn lỏi đi vay lãi mà ký liều văn khế nên đã có cái tiếng ông Nghè đeo nợ, bà Nghè mua chồng không kể xiết được” (Việc thi cử). Có kẻ mê danh đem con gái cho phường lừa đảo mà cứ tưởng là quan trạng, quan thám tương lai, chừng biết ra mình bị lừa thì ngỡ ngàng, đau đớn (Mẹo lừa).
Tác giả cũng hết sức phản đối những đồi phong bại tục còn tồn tại trong cuộc sống người dân. Là một nhà nho chính thống, nên những suy nghĩ của ông dực trên những chuẩn mực của thời đại phong kiến, của tư tưởng nho giáo cổ xưa để đánh giá, phê phán những hiện tượng sai lệch đương thời. Ông tỏ thái độ bất mãn trước những thủ tục vô lý, bất nhân trong các lễ cưới, lễ tang. Do sĩ diện mà chủ nhân tổ chức linh đình để sau đó phải bán cả ruộng nương, mang đeo nợ nần. Tục lệ này lâu dần thành lệ làng, người dân bị hạch sách phải thực hiện hủ tục khi có lễ tang, ngày kỵ hay lễ cưới. Ông cũng kịch liệt phản đối chuyện dân làng mê tín thờ cả hổ, trẻ con và mụ đàn bà dâm ô làm thần…
Sự đi xuống của phong tục do nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là do vua chúa quan lại không làm gương tốt cho dân. Chính vua chúa quan lại cùng họ hàng ngoại thích ngang nhiên biến đổi cho lệch lạc những nền nếp tốt đẹp có sẵn từ bao đời. Từ nếp ăn, nếp mặc đến cách cư xử, giao tế lễ độ… đều bị bóp méo mỗi ngày một khác. “Nếu có người không chịu thay đổi, thì lại hùa nhau chê cười, thậm chí muốn hãm hại và xô đổ đi” (Phong tục).
Do nền tảng xã hội bị băng hoại nên quan hệ giữa con người cũng suy đồi: kẻ dưới xem thường người trên, kẻ vô lại lấy vợ, lấy luôn cả con gái của vợ (Tệ tục)…
Tuy nhiên, nỗi đắng cay, bất mãn với cảnh đời đầy nhiễu nhương lức bấy giờ cũng không làm Phạm Đình Hổ quên đi niềm thú vị của lối trồng hoa, cách uống chè nhà nghề, hay sự thưởng thức văn học nghệ thuật qua những buổi bình văn thơ trong nhà giám… Những đoạn miêu tả tỉ mỉ, thú vị ấy gây cho người đọc một cảm giác thích thú về những kiểu cách sinh hoạt mang đậm
tính văn hóa của người xưa. Tác giả không chỉ đưa chúng ta đến những cảnh đẹp thiên nhiên, thưởng lãm những danh thắng của đất nước, mà còn cho biết ngọn nguồn, lịch sử của những nơi ấy. Mỗi nét bút ghi lại thắng cảnh hay nét đặc thù của một số địa phương đều thắm đượm lòng tự hào dân tộc, tự hào về một đất nước ngàn năm văn hiến, trước những con người tài giỏi được hun đúc từ tinh hoa của tổ quốc. Ông tự hào đặt đất nước mình ngang tầm với nước lớn Trung Hoa với niềm tự hào của người con nước Việt.
Nhìn chung, qua Vũ trung tùy bút, người đọc nhất là những ai muốn nghiên cứu văn hóa, văn học, lịch sử, địa lý, phong tục Việt Nam giai đoạn cuối đời Lê sẽ thu thập được những điều bổ ích và thú vị, đặc biệt những điều mà trong lích sử không thấy ghi chép, sẽ gây cho người đọc sự ngạc nhiên, thích thú. Vũ trung tùy bút mang một văn phong sinh động, rõ ràng, tự nhiên, chi tiết tỉ mỉ, cụ thể tạo thành một lối văn như lối ghi chép nhật ký hay sổ tay, có sức hấp dẫn nhất định khó quên.
Lần đầu tiên, Vũ trung tùy bút được Nguyễn Hữu Tiến dịch ra tiếng Việt. Cho đến nay, bản dịch này được xem là tốt nhất. Nguyễn Hữu Tiến biệt hiệu Đông Châu, một học giả nghiên cứu lịch sử và văn học dân tộc có uy tín. Bản dịch này đã được đăng trên tạp chí Nam Phong số 121 tháng 9 năm 1927. Sau đó, Vũ trung tùy bút đước nhà xuất bản Văn học – Hà Nội tái bản hai lần nữa (lần thứ nhất, năm 1960, Hoàng Hữu Yên giới thiệu, lần thứ hai, năm 1972, Trương Chính giới thiệu và chú thích). Trong lần hiệu đính bản dịch này, chúng tôi dùng Vũ trung tùy bút bản chữ Hán do Pháp quốc Viễn đông Học viện xuất bản, Đài loan học sinh thư cục ấn hành. Trong đó, Vũ trung tùy bút là tập hai, sách thứ năm trong hàng loạt tác phẩm chữ Hán của Việt Nam được ấn hành với tựa đề Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san do Trần Khánh Hạo, Trịnh A Tài, Trần Nghĩa chủ biên. Nhà xuất bản chọn ba bản sau đáng tin cậy nhất được cất giữ tại Việt nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội). Trong đó, có hai bản ký hiệu A1297, A2312 được sao chép từ thời Tự Đức, viết theo lối chữ thảo. Bản A2312 chỉ còn 15 tiểu mục, nên chỉ để tham khảo. So với hai bản kia, bản VHV1466 đầy đủ hơn, được dùng làm bản chính của tập sách này. Bản này được mô tả như sau:
Ở giữa trang bìa của bản này có đề chữ ”Vũ trung tùy bút quyển thượng”, chung quanh bìa có đóng khung; tiếp phía dưới bên trái có ghi “Trần Lưu Thiển phụng sao”; phía trên bên phải đề “Hoàng triều Bảo Đại tân tỵ quý đông (năm 1941)”. Trang đầu ghi “Vũ trung tùy bút quyển thượng, Hải
Dương, Đan Loan, Phạm Tùng Niên”. Quyển này không có bài tựa. Phần chính văn khoảng nửa sách có tám hàng, mỗi hàng từ 26 chữ đến 30 chữ kho6gn đều nhau. Ở trên là thứ tự tên sách, ở giữa là tiêu đề “Cố sự danh”,
bên dưới ghi số trang. Sách này chia ra hai quyển thượng và hạ, không có mục lục.
Dựa vào những đặc điểm trên, chúng tôi tạm gọi là bản gốc.
So bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến với bản gốc, chúng tôi nhận thấy có, một vài tên người, tên đất đọc theo âm thuần Việt hay những câu thơ chữ Nôm không được viết chính xác trong bản gốc. Ví dụ trong Tự thuật, bản dịch ghi rõ: “Lúc bấy giờ, đấng tiên đại phu ta làm Hiến sát tỉnh Nam mới về” (trang 17). Bản gốc là (…) (Tiên đại phu tòng Nam tỉnh hồi = Cha ta từ tỉnh Nam mới về) (trang 9). Ở đoạn khác bản dịch ghi: “Phía tây xối nước là nhà khách năm gian (trang 19), bản gốc là (…) (Tây Thừa tiếp lưu = tây Thừa tiếp xối nước) (trang 10). Trong Phạm Trấn, Đỗ Uông, bản dịch ghi: “Lúc đến cầu Phú Cốc có thi nhau làm thơ “Cô lan bán hàng cầu Cốc”, còn bản gốc chỉ là (…) (Chí Phú Cốc kiều đổ thi = đến cầu Phú Cốc làm bài thơ) (trang 93). Trong Xét về địa mạch và nhân vật, bản dịch ghi là Tô Hiến Thành (trang 47), còn bản gốc là Tô Trung Hiến (trang 26)… Còn có trường hợp như trong bản gốc, tên đất, tên chức quan, tên người đọc theo âm Hán Việt không được viết như tên riêng. Ví dụ trong Bàn về âm nhạc, bản dịch ghi “Đến cuối đời Tống, Ngụy rợ Thị Khương lấn đất Trung Nguyên, thanh âm của Trung Hoa chỉ còn ở phía Giang Tả (trang 53), nhưng chữ Giang Tả trong bản gốc chỉ in thường (trang 30). Cũng giống như vậy, trong bản dịch ghi sách Nhạc chí, Nhạc thư (trang 55), nhưng trong bản gốc kho6gn viết thành tên sách, chỉ viết thường (trang 30). Trong Hôn lễ, bản dịch ghi: “Đến khi xem tờ chiếu năm Minh Đức nhà Mạc, mới biết trước là chữ “lan nhai”, sau dùng lầm thành “lan giai” (trang 67), bản gốc ghi là (…) (Thủy tri lan hoàn cựu vi lan nhai = mới biết lan hoàn trước là lan nhai) (trang 39). V.v… Cá biệt có những năm, tháng, nhà xuất bản ghi khác với bản dịch. Ví dụ năm sinh của Phạm Đình Hổ là 1768, còn bản gốc lại ghi năm 1766. Sau khi tham khảo và tra cứu lại, chúng tôi theo bản dịch.
So với bản gốc, bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến cũng có vài chỗ thiếu và không chính xác, thường là những đoạn miêu tả, vị trí và địa danh. Ví dụ trong Cảnh chùa Sơn Tây, bản gốc ghi (…) (Tiền đường tả hữu phụng Chiên Đàn Phật = phía trái và phải gian tiền đường có thờ Phật Chiên Đàn), nhưng trong bản dịch không có danh hiệu Phật Chiên Đàn (trang 26). Đôi khi có chỗ phiên âm không đúng. Trong Thay đổi địa danh, bản gốc viết là (…) (Lương Giang cải vi Đoan Nguyên = Lương Giang đổi thành Đoan Nguyên) (trấng). Còn bản dịch là “Lương Giang đổi thành Thụy Nguyên) (trang 31). Trong Lối chữ viết, bản gốc viết (…) (Thủ pháp Tống nhân, thuyết cụ An Nam kỷ lược = Theo lối viết của người Tống như đã nói trong sách An Nam
kỷ lược) (trang 20). Còn bản dịch là: “… ở trong sách An Nam kíp lược” (trang 39). Trong Thay đổi địa danh, bản gốc viết (…) (Nhất minh xưng: “Đống ngạch phường, Diên Hựu tự chung, Diên Hựu nhị niên chú, tín hoạn Tống Trân thi kim nhất lượng” = Bài minh viết: “Chuông chùa Diên Hựu ở phường Đống Ngạch được viết vào năm thứ hai, người tín đồ làn quan tên Tống Trân cúng một lạng vàng”) (trang 15). Còn bản dịch là “Đông Ngạc phường, Diên Hỗ tự chung, Diên Hựu nhi niên chú, tín hoạn Tôn Trần thi kim nhất lạng” (trang 29). Có đoạn dịch còn thiếu sót. Trong Cách uống chè, bản gốc là (…) (Địa sản lệ chi, Phù Lâu thôn, Quách Lâm khê phả xưng u thắng = Thổ sản có quả vải ở ngòi Lâm Khê, thôn Phù Lâu, nơi được xem là tĩnh mịch, đẹp đẽ) (trang 23). Còn bản dịch là: “Thổ sản có thứ vải quả, rau dưa làng xóm rừng khe, cũng nhiều chỗ tĩnh mịch, đẹp đẽ” (trang 44). Có chỗ thiếu hẳn một đoạn dài. Trong Điềm quái gở, bản dịch thiếu cả một đoạn đầu (…) (Tây nhân Nhâm tuất Xuân An sơn thạch thán, hữu hoàng ngưu sản nam tử, sổ nhật bạo trưởng như thập nhị, tam tuế nhi, hạm hạ xuất tì, thực bội thường nhân, duy bất năng ngôn hành nhỉ. Hoặc khủng kỳ vi yêu, mật sát nhi ế chi. Tật dịch đại tác, tài nguyệt dư, ấp nhân tử giả số bách. Hữu cử hộ chẩm tịch nhi đồng tận giả, nhân đa viễn thoán nhi ty chi vân = Năm Nhâm Tuất, phía tây núi than đá Xuân An có một con bò sinh ra một đứa con trai, chỉ mới vài ngày mà lớn bằng trẻ 12, 13 tuổi, lại có râu. Có người sợ cho đó là yêu quái, lén giết rồi chôn đi. Sau bệnh dịch tràn lan, chỉ mới hơn một tháng mà dân ấp ấy chết cả trăm người. Người bệnh ngổn ngang ngoài đường chờ chết. Nhiều người phải dời đi xa để tránh dịch bệnh) (bản gốc trang 61, bản dịch trang 100). Những chỗ thiếu sót này chúng tôi đã bổ xung lại cho đầy đủ dựa theo bản gốc, ngoài ra còn giải thích, chú thích thêm một số từ cho dễ hiểu, tiện việc sử dụng và tra cứu.
ĐÀM ÁNH LOAN
_______
(1) Có người cho rằng ông chính là Chiêu Hổ, người xướng họa văn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Vấn đề này chưa được minh xác.
(2) Trương Chính chú thích là Hải Hưng.
(3) Căn cứ vào bài Chuyện cũ trong phủ chúa và Mấy năm được mùa thì nhà ông ở phường Hà Khẩu. Nhưng trong bài "Hành tại diện đối" trong Châu Phong tạp thảo của chính tác giả lại nói ở phường Thái Cực. (Tạp chí Hán Nôm, số 4. 1996)
TỰ THUẬT
Ta sinh năm Mậu Tý (1768) niên hiệu Cảnh Hưng. Lúc bấy giờ tiên đại phu ta là Hiến sát tỉnh Hà Nam mới về. Bà tiên cung nhân (1) hoài thai ta, vẫn ăn uống đi lại như thường, đến bảy tám tháng chưa biết là có thai. Năm ta lên sáu tuổi, đấng tiên đại phu ta mới thăng làm Tuần phủ Sơn tây, bổng lộc đã dư dụ, song những cách chơi ấy, đa, hoa, chim ta không để bụng ham mê. Bà bảo mẫu họ Hoàng thường hỏi ta: “Về sau có muốn làm gì không?” ta nói: “Làm người con trai phải lập thân hành đạo, đó là phận sự rồi, không phải nói nữa. Sau này trưởng thành mà được lấy văn thơ nổi tiếng ở đời để cho người ta biết là con cháu nhà nọ nhà kia, chí tôi chỉ muốn như thế thôi”. Bà bảo mẫu nghe ta nói thế, lại mách cho đấng Tiên đại phu và bà cung nhân ta biết, các vị đều ban khen cả. Thấm thoắt hơn hai mươi năm trời mà lời dạy bảo của cha mẹ vẫn văng vẳng bên tai. Nay đến bước đường cùng lận đận, còn biết đội gạo vì ai (2) chỉ than thở cùng trời xanh, chứ biết gửi lòng mình vào đâu!
Đấng tiên đại phu ta trải qua Hiến sát Nam Định, Tuần phủ Sơn tây, trong trắp vẫn thường có cái mũ với cái khăn, ta thường lúc đùa bỡn cứ hay lấy ra đội, mà thích nhất là cái mũ trãi quan (3). Dẫu cấm không cho chơi nghịch cũng không thể được. Có người đem những sách truyện Nôm và những trò chơi thanh sắc, nghề cờ bạc, rủ rê chơi đùa, thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết, câu ca, bản đàn thoảng qua ngoài tai rồi lại lờ mờ không hiểu gì cả. Năm Giáp Thìn (1784) (4) ta mắc bệnh có nguy cơ đến tính mệnh; khỏi dậy, anh trưởng ta mới dạy ta đánh cờ tướng, ta học đánh vài năm, nhưng hễ đánh với ai là thua. Năm ngoài hai mươi tuổi, cùng với các bè bạn chơi cờ, lúc bấy giờ mới hiểu được cái thế công thủ trong cuộc cờ, nhưng lại không muốn để trí vào nữa. Còn như những trò chơi cờ bạc, phán thán (5) thì ta vốn không thích, đôi lúc đùa, thử tập chơi, nhưng ít lâu cũng chẳng hiểu cái thuật nó ra như thế nào. Đó cũng bới tư chất mình, trời cho cũng có phần mờ tối, không thể cưỡng mà học được các nghề chơi. Có điều, sau khi lưu lạc rồi, lại mắc phải cái bệnh nghiện chè Tàu. Khay chén thiếu thốn, tiền không đủ mua chè, mà vận nghiện. Nghiện quá, các thứ chè tùng quyế thơm tho, thứ nào cũng muốn mua nếm qua cả. Đã nhiều lần muốn chừa cho hẳn mà không chừa được. Còn nhớ khi bà cung nhân ta hãy còn, người thường lấy những điều cờ bạc chè rượu làm răn, mà nay ta đã ngoài ba mươi tuổi, bốn đều răn ấy (6) đã phạm mất ba. Đêm thanh vắng, suy xét, hối hận vô chừng. ta vẫn mong cố gắng sửa đổi, để khỏi phụ lời tiên huấn.
Ta khi mới lên chín tuổi, đã học sách hán thư, được bốn năm thì đấng tiên đại phu ta mất. Trong mấy năm cư tang, gối đất nằm rơm, học hành buổi đực buổi cái, đến khi mãn tang rồi mới thôi không học sử nữa mà học đến kinh. Các sách cổ, thơ cổ, ta thường ham xem lắm, không lúc nào rời tay. Năm Nhâm Dần (1792), anh trưởng ta ra đi đua đòi ở chốn kinh đô (Thăng Long), anh hai ta ra trọ ở đất Hạ Hồng (Ninh Giang), chỉ có ta ở lại nhà để hầu hạ. Bà cung nhân ta thì ở trong nội tẩm (7), một mình ta ở ngoài trung đường (8), ngảnh mặt về hướng tây, vốn là chính tẩm (8) của đấng tiên đại phu ta ở trước. Phía tây xối nước (9) là nhà khách năm gian, trước mặt trông xuống cái ao vuông. Trong ao thả hồng liên và bạch liên, chung quanh bờ trồng thanh liễu và cam quít. Cách nhà khách năm sáu bước, lại chắn ngang một dặng rào trúc, từ phía nam nhà trung đương đến bờ ao phía tây; phía bắc thì dựng một cái bình phong che khuất đi. Phía đông ao giáp sân nhà khách, có trồng năm ba cây hoa nhài, hoa hồng, hoa ngâu, hoa mẫu đơn. Trông xa ra ngoài cánh đồng, cách hàng rào tre, thấp thoáng một cái quán trơ trọi. Mỗi lần ăn cơm sáng xong, ta ra nhà khách, trong đó chồng chất mấy giá sách, tùy ý muốn xem quyển nào thì xem. Mặt trời đã xế, trẻ mục đồng đuổi trâu về qua rào, vừa đi vừa hát, có đứa thì cuốn lá làm kèn mà thổi ti toe, ta đang ngủ ngày, sực tỉnh dậy, nghe tiếng hát xa, chẳng khác gì tiếng ca thuyền chài ánh ỏi ở đầu bến Nhược Gia (10). Tối đến, lúc mặt trăng mới mọc, đi tản bộ quanh bờ ao, ngâm nga mấy câu Đường thi cũng thú, hoặc tựa gốc dừa, cành hoa phất phơ trước mặt, ngồi bẻ bông tước lá thử chơi. Khi lẩn thẩn trở về nhà khách thì bóng nguyệt hương hoa vẫn còn phảng phất trên án thư, tràng kỷ. Ta thức đến gà gáy mới đi ngủ. Cuối mùa đông năm ấy, anh thứ ta từ phương xa trở về, lại cùng ta sớm tối được non một năm nữa. Nay anh hai ta đã mất rồi, cảnh gia đình thì tiêu điều, ta thì lưu lạc giang hồ, đoái nhìn non sông mờ mịt, khôn cầm giọt lệ (11).
_______
(1) Đại phu là cha, cung nhân là mẹ. Thêm chữ “tiên” để chỉ người đã quá cố.
(2) Theo sách Gia ngữ của Khổng Tử, ngày xưa ông Tử Lộ thuật cuộc đời mình cho Khổng Tử nghe, có nói: “Ngày ngày tôi phải đi ra ngoài trăm dặm đội gạo về nuôi mẹ…” Ý nói: phụng thờ.
(3) Trãi quan là thứ mũ của người chấp hành pháp lệnh đội; ở đây là mũ của thân sinh tác giả khi giữ chức Hiến sát.
(4) Năm này, Phạm Đình Hổ 16 tuổi.
(5) Một lối đánh bạc của người Trung Quốc, giống như lối đánh lú của ta.
(6) Người ta thường răn bốn điều (tứ giới): tửu (rượu), sắc (gái), yên (thuốc phiện), đổ (đánh bạc) chứ không ai cấm uống chè tàu hoặc cấm đánh cờ. tác giả đã phạm ba điều là uống rượu, uống chè và đánh cờ, chỉ không đánh bạc.
(7) Nội tẩm: lớp nhà trong.
(8) Trung đường: lớp nhà giữa.
(9) Xối nước: máng nước giữa hai mái nhà.
(10) Nhược Gia là tên một cái ngòi ở phía nam thành Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, các bài thơ cổ đều hay nhắc đến. Ở đây tác giả nhớ đến câu thơ của Lý Bạch trong bài Thái liên khúc (Khúc hát hái sen): Nhược Gia khê bàng thái liên nữ (Có cô con gái hái sen bên ngòi Nhược Gia).
(11) Những câu nói này chứng tỏ Vũ trung tùy bút được viết sau khi nhà Lê mất và Tây Sơn lên cầm quyền, Phạm Đình Hổ đi dạy học ở các vùng nông thôn.
CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH
Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 – 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vương (Trịnh Sâm) (1) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các ly cung bên Tây hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đình đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên bên bờ Tây hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.
Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hô tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc.
Buổi ấy, bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổ, lại bốn người đi kèm, cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyến bày vẽ ra hình núi non bộ trông giống như bến bể đầu non. Mỗi đêm khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường. Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt, khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” (2). Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính tới lấy phăng đi rồi buộc cho tội đem dấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì lớn quá, thậm chí phá nhà hủy tường để đem ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập núi non bộ hoặc phá cây cảnh để tránh khỏi tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu (3), huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường cũng trồng hai cây lựu trăng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy.
_______
(1) Còn gọi là Tịnh đô vương, làm Chúa từ năm 1767 đến năm 1782 đời Cảnh Hưng, Lê Hiển Tông.
(2) Phụng Thủ tức là lấy để dâng chúa.
(3) Phường Hà Khẩu là khu Hàng Buồm, Hà Nội bây giờ.
LỤC HẢI (*)
Kinh thành Thăng Long chia ra 36 phường, mỗi phường đặt một người phường trưởng. Lại đặt ra phủ Phụng Thiên có quan Phủ doãn, quan Thiếu doãn kiêm coi cả việc tuần phủ và việc liêm sát, đốc xuất hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có quan Huyện úy cai trị. Toàn thành thì cử một quan trọng thần sung chức Đề lĩnh tứ thành quân vụ, phân ra chánh phó hai dinh, chuyên coi việc cấm phòng, xét hỏi. Song đất kinh thành đông đúc, nhà cửa ở liền nhau, thường có hỏa hoạn, lại nhiều những kẻ đầy tớ nhà quan, du đãng cờ bạc, gây chuyện đánh nhau, cùng là những kẻ vô lại trộm cắp, nhiều lắm không thể kể xiết được, chẳng khác gì lục hải khi xưa.
Đời Trịnh An Vương (1), Nguyễn Công Hãng làm thượng thư cầm quyền chính, mới chia hai huyện ra làm tám khu, mỗi khu đặt một người trưởng khu và một người phó khu; lại chia ra năm nhà là một tị, hai tị là một lư, mỗi lư cũng có một lư trưởng, bốn lư là một đoàn, một đoàn đặt một quản giám, hai quản điểm, dưới quyền người khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh. Đó là phỏng cái ý cổ nhân bảo trợ phù trì lẫn nhau. Phàm những việc phòng hỏa phòng trộm, và nhất thiết những việc giao dịch thuế má đều ủy trách cho khu trưởng, đoàn trưởng cả. Bởi vậy, những con nhà quan coi thường, không thèm làm, chỉ để những côn đồ trong các xóm chợ làm. Bọn chúng cùng những kẻ ti thuộc quan Đề lĩnh thông nhau làm càn, rất nhiễu cho dân phố.
Ôi! Sinh nhất sự bất như trừ nhất hại, (thêm ra một việc không bằng bớt đi một tai hại) lời nói ấy rất đúng.
Theo lệ cũ, chốn kinh thành không phải chịu thuế dung, thuế điệu (2), chỉ tính từng dẫy nhà, không cứ nhà quan hay nhà dân, hàng năm mỗi nhà phải chịu một suất đi sửa sang đắp lại nền cắm cờ tướng, dọn cỏ chung quanh cung đình, cung ứng các việc kiến trúc. Họ phải thay phiên nhau sắm đủ giây đòn, câu liêm, thang tre, bó đuốc, thùng gánh nước để theo quân quan Đề lĩnh đi túc trực các nơi điếm canh, phòng khi sai khiến; công việc rất là phiền nhiễu. Song tóm lại là không tiền không xong, chỉ làm nặng túi kẻ gian giảo. Tuy bảo: “bồi đắp gốc rễ, ngăn chặn ngọn cành”, tức là “phòng gian giữ dân”, nhưng cũng không phải là biện pháp tốt của đời thái bình.
_______
(*) Lục hải nghĩa là biển cạn, nơi lục địa có đủ các sản vật ví như biển cả không thiếu thức gì: sách Hán thư gọi là lục hải của thiên hạ; ở đây ý nói kinh thành.
(1) An đô vương, Trịnh Cương (1709 – 1729) là Chúa đời Vĩnh Thịch, Lê Dụ Tông.
(2) Dung là thuế lực dịch, tức như thuế sưu. Điệu là thuế hộ, tức như thuế vải lụa.
TẢ CHÍ HẦU
Quan trung quí Tả Chí Hầu là kẻ nội thị đời chúa Trịnh Thuận Vương (Trịnh Khương) (1). Khi Trịnh An Vương (Trịnh Doanh) ra dẹp nạn (2), may cho Hầu được thoát không phải tội chết. Về sau, đảng cấm (3) đã bỏ đi rồi, Hầu mới mang những tài nghề đi lại các nhà quan thân. Trạng mạo Hầu hùng vĩ, phảng phất giống như vị quốc lão Việp Nghĩa công (4), song có cái tính điên, thường đánh chén vào là chửi mắng vung cả lên, nhưng chỉ bỏ ra một ít tiền là Hầu lại cười sằng sặc mà nói đùa bỡn. Hầu lại hiểu thuật bóp gân xương, biết nghề hát xướng lặt vặt, tinh cả nghề xem tướng. Nghề vẽ truyền thần, Hầu lại càng khéo lắm. Hai bức chân dung của hai bà Thái phi Như Kinh và Mi Thữ đều do tay Hầu vẽ cả.
Hầu thường đến chơi nhà ta, một hôm gặp trong nhà họp đông đủ, bà cung nhân ta mới trỏ chị gia trưởng ta mà hỏi. Hầu đáp: “Người đàn bà có được để tang khóc chồng mới hết bổn phận”. Lại trỏ vào ta mà hỏi, thì Hầu đáp: “Anh ấy cử chỉ thần tình, giống hệt như Tôn phu nhân, chừng độ mười hai tuổi thì sơ không khói bóng cha khuất núi”. Hỏi đến sự cùng đạt của ta thì Hầu đáp: “Anh ấy ngày sau tất hiển đạt nhưng khác hẳn mọi người”. Đương lúc ấy, ta cũng nửa ngờ nửa tin, nhưng chẳng để bụng làm già. Đến năm Cảnh Hưng, Mậu Tuất (1778), chị dâu ta mất, lại hơn một năm sau, đấng tiên đại phu ta tạ thế, bảy năm nữa thì gặp hồi quốc biến (5), cứ nghiệm lời nói của Hầu thì cũng có chỗ đúng. Còn như ta, lúc tráng niên đã góa vợ, đi phiêu bạt tha hương, kể tình đầu nông nổi không thể nào xiết. Xem thế thì lời thầy tướng cũng không thể tin hết.
Tả Chí Hầu từng vẽ bức truyền thần cho đấng tiên đại phu ta, hồi năm mươi tuổi. Đấng tiên đại phu ta có đề bài thơ ngũ ngôn vào bức chân dung ấy, mỗi lúc ta ngửng lên nhìn tưởng như trông thấy thật. Khi chúa Trịnh đem quân vào Nam, ta còn nhớ ông Phan Trọng Phiên (6) là chức quan Đại học sĩ mà phải đi theo làm tán lý quân vụ. Một hôm, Hầu đem bức tranh hành lạc của Phan công cho đấng tiên đại phu ta xem mà nói: “Tiên sinh có nhớ người học trò này không? Nay người ấy sắp trở về đấy”. Nói chưa được bao lâu, quả nhiên Phan công trở về làm chức Thiêm đô đài thật.
_______
(1) Tức Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729 – 1749 làm chúa đời Lê đế Duy Phường, Lê Ý Tông.
(2) Nội biến trong họ Trịnh, Trịnh Doanh lên thay, làm chúa từ năm 1740
đến 1767.
(3) Đảng cấm tức là việc bắt bớ người phe đảng đối lập với mình.
(4) Việp Nghĩa công tức Hoàng Ngũ Phúc, đời Cảnh Hưng, Lệ Hiển Tông (1740 – 1786).
(5) Chỉ việc Nguyễn Huệ ra Bắc Hà (1786) đời Cảnh Hưng thứ 47.
(6) Tức Phan Lê Phiên (1734 – 1809) đỗ tiến sĩ năm 1757, làm quan đến chức Binh bộ thượng thư.
CẢNH CHÙA SƠN TÂY
Khi tiên đại phu ta làm quan Tuần phủ tỉnh Sơn Tây, ta có theo lên chơi chốn tỉnh lỵ. Một hôm, ta vào chơi chùa Ngọa Phật. Chùa ở trong một hốc đá, trước nhà tiền đường, bên tả bên hữu, có gian thờ Phật Chiên Đàn và hai vị Long thần (1), gian giữa treo một bức mành rũ xuống tận mắt; lại xây một tòa sen cao đến vài trùng. Hoa tâm là một hòn đá dài hơn một trượng, trông lởm chởm, kỳ quặc hết sức, nhìn kỹ phảng phất như hình người nằm ngửa, không biết tự đâu đem lại. Có người bảo trước là một hòn đá ở cửa cống bên đường, ai giẫm vào thì ốm đau, ai cần nguyện thì ứng nghiệm, mới đem đến nơi này làm chùa lên thờ.
Ta lại thường đi chơi chùa Viễn Sơn. Viễn Sơn cách xa tỉnh lỵ là một cái đồi cao trơ trọi, không có cây cỏ tạp nhạp, trên đỉnh dựng một ngôi chùa vài mươi gian. Tương truyền chỗ ấy là một kiểu đất lớn, trèo lên mà nhìn ra bốn bên thì làng mạc xa gần trông như tranh vẽ. Sông Hát Giang vòng quanh từ phía đông như một giải lụa trắng, lại vòng từ phía bắc sang tây (2) ra phía đông, nước chảy uốn éo quanh co. Lác đác giống như lá tre điểm xuyết trên tấm lụa, ấy là những chiếc thuyền đi trên mặt sông; lại trông thấy lờ mờ như quả dưa, quả muỗm di động trên bãi cát, ấy là những bóng người đi lại và trẻ chăn trâu.
Đến nay, thấm thoát hơn ba mươi năm, phong cảnh nước non vẫn còn như phảng phất ở trước mặt.
(1) Đoạn này không thấy ghi rõ trong bản dịch.
(2) Theo bản gốc.
THAY ĐỔI ĐỊA DANH
Phủ Phụng Thiên có hai huyện, thuở xưa là Quốc Oai trung lộ. Các huyện trong phủ Quốc Oai là thượng lộ, còn Thanh Trì, Thượng Phúc, Thanh Oai là hạ lộ, đời Lý đời Trần đều tóm gọi là Uy lộ. Huyện Thọ Xương khi trước là huyện Vĩnh Xương, huyện Thanh Oai khi trước là Thanh Oai (1), huyện Thanh Trì trước kia là Thanh Đàm (2); chữ Thanh vì tỵ húy chúa Trịnh Thanh vương (3) nên mới phải bớt nét đổi là thanh; chữ đàm vì tỵ húy với vua Thế Tôn (4) nên đổi ra chữ trì. Còn như trung lộ sau đổi là Phụng Thiên hạ lộ, Thanh Oai sau thuộc về phủ Ứng Thiên, Thanh Trì; Thượng Phúc sau đổi là phủ Thường Châu; Vĩnh Xương sau đổi thành huyện Thọ Xương. Những cải cách ấy trong quốc sử đều bỏ qua không chép. Từ đời Lê trung hưng trở về sau đều như thế cả. Sông Nhuệ Giang phát nguyên từ làng Tây Đàm, huyện Từ Liêm, qua huyện Thanh Oai, Thanh Trì, phía nam hợp lưu với sông Tô Lịch; những đoạn bờ khoảng giữa, nhiều chỗ nhọn hoắt như mỏ hạc, nên mới đặt tên cái làng ở bờ sông ấy là xã Nhuệ Giang. Nhân thế cũng gọi tên sông là Nhuệ Giang. Lại còn có tên nữa là Thanh Oai Giang, nên quanh vùng sông ấy gọi là Uy Lộ; Thanh Oai huyện, tả hữu thượng hạ Thanh Oai xã, cũng đều bởi thế cả. Lại như kinh thành khi xưa có phường Giang Khẩu, sau đổi thành Hà Khẩu (5) tiếp giáp bờ sông Nhị, liền với cái ngòi sông Nhị chảy vào sông Tô, hàng năm, bờ sông bị nước xói, không thể giữ cho khỏi lở được. Đời Lê trung hưng mới đạc suốt dọc bến phường Hà Khẩu, để cho Hoa kiều trú ngụ. Các hiệu khách liền làm đơn xin tải đá làm mỏ hàn chắn phía thượng lưu, từ bấy giờ mới bớt nạn nước xói lở. Ven sông, về phía nam, dần dần nổi bãi phù sa, người đến tụ họp đông đúc. Bởi thế, những phường Thái Cực, Đông Hà, Đông Các (6), nhà ở hai dãy phố xen liền mãi cho đến vạn Hàng Mắm, vạn Hàng Bè, bến Tây Long, đều trở thành phố phường đô hội cả.
Quê ta khi xưa là Hồng Lộ (nay là phủ Bình Giang), sau đổi là Hồng Châu, lại phân ra làm hai phủ Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang). Huyện ta làng Bùi Xá có ông Giám sinh tên là Nguyễn Luật; khi nhỏ ra chơi đùa ở làng ấy, ta thấy có một cái lò đất nung kiểu Trung Hoa, dưới đáy lò có thấy ghi mấy chữ: “Nhân Hồng phủ, Đường An huyện, Bùi Xá xã, Nguyễn mỗ công đức”, không biết cái lò ấy là tự đời nào. Huyện ta với huyện Đường Hào khi xưa hợp lại làm huyện Đường An. Ta thường hỏi cụ Phạm Quý Thích (7) về thời đại thay đổi, cụ cũng không được tường lắm. Còn như làng Hoa Đường (8) nguyên trước là Bồng thôn thuộc về xã Ngọc Cục, sau Lê trung hưng mới phân ra làm xã riêng. Xem trong “Đăng khoa lục” ghi chép quán chỉ (9) các đấng tiên hiền thì khá biết rõ.
Làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nguyên trước là xã Ngọc Ổi, sau đổi là xã Nhị Khê, theo biệt hiệu của một vị hương hiền là cụ Nguyễn Phi Khanh. Cụ Phong sinh ra ông Nguyễn Trực (10) người huyện Thanh Oai, là bực ẩn dật không ra làm quan, biệt hiệu cụ là Bối Khê, nên làng cụ cũng theo biệt
hiệu cụ mà gọi là xã Bối Khê.
Khoảng năm Trung hưng, làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm có đào được cái chuông cổ ở chùa Diên Khánh. Mặt chuông có bài minh: “Đống Ngạch phường, Diên Hựu (11) tự chung, Diên Hựu nhị niên chú, tín hoạn Tống Trân (12) thi kim nhất lạng” (13). Chữ rất cổ; hỏi thì các bô lão nói rằng phường Đống Ngạch xưa là đất làng Thụy Hương (Chèm) sau mới tách ra làng Đông Ngạc. Còn như chùa Diên Hựu mà đổi làm chùa Diên Khánh là để tránh phạm húy. Cuối đời Lê, cụ Phan Trọng Phiên có soạn bài khoán văn về việc trùng tu: “Chung minh Diên Hựu chi niên, tùng mậu trường thu chi âm” (14) cũng là trở về cái bài minh chùa Diên Hựu là Đông Ngạc vậy.
Huyện Gia Phúc có bốn xã: Đỗ Tùng, Đoàn Tùng, Đào Tùng, Phạm Tùng. Cụ Đỗ Uông có làm bài ký cầu Phú Cốc (15) gọi là Tứ Tùng, tức là bốn xã trên. Sau để tránh tên húy Triết Vương (16), nên đổi là Tứ Kha.
Trấn An Bang vì tránh tên húy vua Anh Tông (17) nên đổi là An Quảng. Huyện Tân An, Duy Tân, Tân Phúc vì tránh tên húy vua Kính Tông (18) nên đổi chữ Tân ra chữ Tiên. Đạo Tuyên Quang ở vào đời vua Tương Dực đế (19) gọi là Minh Quang, nay mới gọi là Tuyên Quang, hoặc bảo là vì tránh niên hiệu Minh Đức (20) nhà Mạc mới gọi là Tuyên Quang. Song từ đời Lê Thái Tổ, trong sách Thực Lục đã gọi là Tuyên Quang rồi, như vậy không phải mới đổi từ đời Mạc. Gia Hưng, Quy Hóa, hai lộ hợp lại làm một, gọi là Hưng Hóa thừa tuyên, chép rõ ở trong sách Phong tục tổng lục. Thanh Hóa ở đầu đời Lê gọi là Thanh Hoa, đến đời trung hưng cũng gọi là Thanh Hoa.
Vọng Giang về đời Trần là một trấn, khi thuộc đời Minh thì là một phủ. Tam Giang đổi là Tam Đáp, đều không biết đổi tự năm nào. Cụ Lê Quý Đôn (21) ở huyện Thiên Hà là bậc học thông minh rộng rãi, làm lãnh tụ trong nho lâm, khi sang sứ Trung Hoa, có vào yết kiến quan Đề học tỉnh Quảng Tây là Chu
Bội Liên. Ông ta hỏi có chuyện Chiểu Lăng ở bên nước Nam nay thuộc về tỉnh, đạo nào. Cụ Lê Quý Đôn không thể đáp lại được. Khi trở về, hỏi ra thì chính là huyện Diên Hà. Năm Hồng Đức thứ hai mươi mốt (22) có định sửa lại bản đồ trong thiên hạ, chia phủ Cao Bình gồm bốn châu thuộc đạo Thái Nguyên. Lúc đời Lê mới trung hưng, người Minh quy định cho họ Mạc ở đất ấy. Họ Mạc giữ đất Cao Bình bốn mươi bẩy năm. Nạn nội chiến tiếp diễn liên miên. Câu hát “Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc
nỉ non; nàng về nuôi cái cùng con, cho anh đi trẩy nước non Cao Bằng.” là của vợ các chú lính phải đi chinh chiến lúc bấy giờ làm ra (23). Khoảng năm Khang Hy (24) đời nhà Thanh, quan trấn thủ Vân Nam là Ngô Tam Quế làm phản, họ Mạc cứu viện cho Ngô Tam Quế nên triều Lê mới tư sang Trung Hoa để họ cùng đưa binh sang đánh diệt họ Mạc, rồi đặt Cao Bình là một trấn, sai ông Võ Công Vinh lên làm Đốc trấn. Về sau, cứ theo thế, sai quan văn lên làm Đốc trấn, cũng giống như trấn Lạng Sơn, vì Cao Bình, Lạng Sơn bờ cõi tiếp liền với Vân Nam, Quảng Tây, công văn, giấy tờ đi lại, phi quan văn thì không làm nổi chức Đốc trấn ấy.
Lại như Phú Lương, sau đổi ra Phú Bình, Đà Dương sau đổi ra Đoan Hùng, Ma Nghĩa sau đổi ra Minh Nghĩa, Cổ Đằng sau đổi ra Hoằng Hóa, Lương Giang đổi làm Đoan Nguyên (25), Thanh Đàm đổi làm Thanh Cương, Thanh Miệu đổi làm Thanh Miện, Tế Giang đổi làm Văn Giang, Trường Tân đổi làm Gia Phúc, Võ Ninh đổi làm Võ Giang, Thanh Liêm đổi làm Thanh Liệm. Cửa bể Thần Đầu đổi thành Thần Phù, nay đã lấp thành đồng bằng. Cửa bể Đại Ác nay đổi thành Đại An. Cổ Hiền khi xưa là một huyện, nay gồm về huyện bên cạnh. Hải Đông khi xưa là một phủ, nay thuộc cả về Trấn Ti. Đại loại như thế rất nhiều, không thể kể hết. Nhưng vì văn hiến không đủ, thế tục không truyền, nên những người hiểu cổ cũng thường phải thở dài mà chịu không thể xét ra cho rõ được.
_______
(1), (2) Thanh này có chấm thủy nghĩa là trong. Thanh kia không có chấm nghĩa là xanh.
(3) Tức Trịnh Tráng (1623 – 1657).
(4) Tức Lê Duy Đàm (1573 – 1599).
(5) Thái Cực nay là sau phố Hàng Bạc và ngõ Sầm Công. Đồng Hà nay là Hàng Gai, Đông Các nay là Hàng Bạc.
(6) Phạm Quý Thích (1599 – ?) cũng người huyện Đường An, cùng quê với Phạm Đình Hổ.
(8) Làng Hoa Đường là làng Phạm Quý Thích.
(9) Quán chỉ là quê quán, thân thế, nói chung.
(10) Nguyễn Trực (1417 – 1473) đậu trạng nguyên năm 1442 đời Lê Thái
tông. Cụ Phong nói ở đây tức là Nguyễn Thi Trung.
(11) Bản dịch viết là Đông Ngạc phường, Diên Hỗ tự.
(12) Bản dịch viết là Tôn Trần.
(13) Quả chuông của chùa Diên Hỗ, phường Đống Ngạch. Năm Diên Hựu thứ hai đúc xong. Người tín đố làm quan tên là Tống Trân cúng một lạng vàng.
(14) Quả chuông khắc năm Diên Hựu, cây tùng tốt rợp bóng lâu dài.
(15) Đỗ Uông, người huyện Gia Phúc (Vĩnh Phú) đỗ bảng nhãn, làm quan nhà Mạc, nhà Mạc mất, ông đem các văn thần đến cửa quân nhà Lê xin quy thuận.
(16) Triết vương tức Trịnh Tùng (1570 – 1623) người đánh phá nhà Mạc, lấy lại Đông Đô lập ra nghiệp Chúa Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê. Miếu hiệu của ông là Thành Tổ Triết vương.
(17) Lê Anh Tông (1557 – 1573) tên húy là Duy Bang.
(18) Lê Kính Tông (1600 – 1619) tên húy là Duy Tân.
(19) Lê Tương Dực (1509 – 1516).
(20) Minh Đức là niên hiệu Mạc Đăng Dung (1527 – 1529). (21) Lê Quý Đôn (1725 – 1783).
(22) Tức là năm 1491.
(23) Bản gốc viết là do các chinh phu, tức những binh lính đi chinh chiến xa làm ra.
(24) Khang Hy (1662 – 1720).
25) Bản dịch viết là Thụy Nguyên.
HOA THẢO
Đời xưa gọi lan là vương giả hương, vì hoa lan thanh nhã bất phàm; những thứ hoa kỳ quái dễ làm cho người ta say mê không thể ví với nó được. Đời xưa còn có những tên cửu uyển lan, song nay không thể biết hết. Hãy cứ sở kiến mà bàn, thì những thứ thạch lan, thanh lan cũng hiếm có, mà thứ tố lan
cũng không dễ mua. Đông lan là một giống huệ đời xưa, cái thứ ta thường gọi là hoa huệ tức là thứ cỏ huệ ở ngoài đồng vậy. Còn thứ kiến lan là loại được ưa chuộng (1) thì cành hoa ngoài xanh trong trắng, hơi điểm sắc đỏ, lại có bốn lưỡi gà như lông gà gô, giống ấy gọi là giống ngọc quế, trồng nó phải để ý giữ gìn trân trọng: nào là trồng vào chậu sứ Trung Hoa, bón bằng một thứ bùn đã phơi khô đốt ủ đi rồi, hoặc lấy những sừng hươu, bã chè khô phủ lên trên gốc, rồi lấy thứ nước ngâm cá ươn tưới cho nó; mỗi ngày phải cắt lá úa, rửa lá tươi vài bốn lần. Nó đâm lá ra xanh tốt, có khi dài đến hai thước, mỗi giò có đến vài mươi cái hoa; lúc thưởng hoa thì đốt hương tùng chi để trước gió mà thưởng ngoạn. Cũng có người lại đánh cuộc xem lá lan của ai dài hay ngắn, hoa lan của ai nhiều hay ít. Ôi! Như thế có phải là bản sắc của hoa đâu. Đó chỉ là lấy cái màu sắc rực rỡ mà thưởng lan, chứ không biết lấy cái phẩm cách của lan mà thưởng lan. Xưa kia, ông Khuất Nguyên (2) đi trên bờ đầm mà hát, kết hoa lan để đeo; đức Khổng Phu Tử dừng xe trước một hẻm núi, cũng đàn hát thương cho cây lan có vẻ thơm tho mà đời không ai biết; từ đó hoa lan mới nổi tiếng là quốc hương. Ta xem như trên bờ sông Tương, sông Nguyên (3), trong hang núi Qui Mông (4), lan mọc ra vẫn tự nhiên, có cái nhã tháo u hương (5), nó ở lẫn với cỏ dại thì lấy đâu được người bón tưới cho hậu, mà cái vẻ thanh hương sao vẫn được kết tri với người đại nhã, bậc triết nhân? Huống chi chất thối mùi nồng là kẻ thù của hương vị thanh đạm, thế thì những mùi xú uế của đất bùn, cá thối, dẫu đến các thứ hoa nhàm cỏ dại cũng không chịu được, mà bảo lan là thứ danh hoa tuyệt phẩm lại nhờ về những thứ ấy mà tốt, thì ta không dám tin. Nếu bảo đất bùn là đất ủ đi rồi, nước cá đã ngâm lâu rồi thì không còn có xú vị nữa, việc gì mà hại đến lan, như thế là dùng cái khí vị đã bại hoại để giúp cho cây cỏ phát sinh, thực là trèo cây tìm cá, không thể được. Còn đến như lúc thưởng lan mà lại đốt hương ở dưới vườn hoa, thì Lạp Ông đã biện bác là không phải, ta không cần phải nói nữa. Bã chè mà đem ủ trên chậu hoa thì rễ hoa thường ướt, dương khí không đến nơi, hoa kết chậm và giảm bớt thơm. Duy chỉ có việc bắt sâu cho lan là không thể thiếu, vì cái tính cây cỏ, nó đạm bạc thì hay ưa tĩnh, thơm tho thì hay ghét ướt, nếu trồng nó mà thất nghi, khiến cho giống ruồi nhặng làm hại ở ngoài, giống sâu bọ đục khóet ở trong thì thứ cây yếu ớt sao chịu được. Vậy nên việc bắt sâu không thể thiếu.
Lại còn có một thuyết nữa bảo rằng những thứ tanh béo chỉ tổ làm cho kiến bọ tụ lại. Cổ ngữ có câu: "Cây nát thì trùng mới sinh, mỡ tanh thì nhặng mới đậu", câu nói ấy không những là ví chuyện lớn, mà đến việc trồng lan cũng phải nên biết như thế. Nếu bảo cứ lấy đất bùn đắp vào cho nó, nước cá rưới vào cho nó thì sâu bọ không sinh ra, ta sợ như thế lại làm hại thêm cho lan, chứ nó không thể chịu được. Ta khi nhỏ, lắm hồi gian truân, phải đi dạy học bốn phương, không lúc nào rỗi mà lưu ý đến cỏ hoa. Nhưng mỗi khi đến chơi nhà anh em bạn, thường thơ thẩn ở trong chốn vườn hoa bóng trúc. Ta vẫn ngờ rằng giống kiến lan, lá tốt mà thần thô, hoa nhiều mà hương bạc, nên cười rằng có lẽ nào như thứ hoa lan này lại là tiền nhân của Khuất Bình, Yên Cát (6). Hay là cổ nhân luận về thứ lan nào mà nay ta không biết, lại trỏ lầm vào thứ lan ấy chăng? Khoảng năm Ất Mão, Bính Thìn (1795 – 1796), ta có vào chơi một nhà anh em bạn; khi vào đến cửa, ngửi thấy mùi thơm sực nức, hình như hương hoa lan mà lại có phần thanh hơn, chưa hiểu thứ lan gì, đến khi vào nhà khách, mới thấy thứ kiến lan (7) ấy vừa nở, mà trồng vào trong cái chậu vỡ, đất sỏi, để ở góc hè, cành lá lơ thơ, dài chỉ độ năm sáu tấc, hoa nhỏ mà cánh mỏng, sắc rất đậm nhưng thơm ngát. Ta vừa được thưởng thức hương vị thiên nhiên ấy, liền khen là khéo trồng thì chủ nhân bẽn lẽn nói rằng không có lúc nào bón tưới cả. Ta mới hay người đời chơi lan chỉ biết thưởng thức bằng mắt chứ không biết thưởng thức bằng mũi, chỉ biết được cái hình của hoa chứ không biết được cái thần của hoa. Chậu sành nào phải là nơi sơn cốc, phường phố nào phải là chốn thôn quê, thế mà hoa lan trồng được nơi u tĩnh thì đã phát ra kỳ hương như thế! Thảo nào lan sông Tương mà Khuất Nguyên lấy đeo, lan hẻm núi mà Khổng Tử thưởng thức, cao phong nhã điệu nổi tiếng muôn đời, cổ nhân có dối ta đâu! Cái cách chơi thanh nhã ấy phải cùng nói với người trí thức mới được.
Ta xét ra những cách chơi cỏ, cây, hoa, đá từ đời nhà Hán đã có, đến các đời sau, mỗi ngày mỗi đổi cách chơi cho mới lạ thêm, như là những thắng cảnh ở Kim Cốc (8), Võng Xuyên (9), Lục Dã (10), Bình Nguyên (11) đến nay vẫn còn truyền miệng ở dân gian. Thế mới biết người xưa cũng thường cho tinh thần đi chơi ngoài cảnh vật, trong cách chơi mà vẫn ngụ cái ý về thế giáo thiên luân (12), vậy nên mượn khóm hoa, tảng đá để ký thác hoài bão cao cả, mở vườn trồng cây, chồng đá làm núi, khiến cho cái vẻ đẹp của cỏ cây, cái thế hùng vĩ của núi non trình bày ra trước sân, trước cửa sổ đó mà thôi, chứ có phải hết sức mà chăm chút cảnh vật đâu. Về sau này, thế thái đã suy, nhân tâm lại bạc, cái cây thẳng đem uốn cho cong đi, hòn đá phẳng đem đẽo vạc cho nó hốc hác ra, bàn tay nhân tạo càng khéo thì cái thú thiên nhiên lại càng kém! Ôi, cái lý thú đâu chả có, xem cảnh vật thì có thể biết được người. Giang Thượng công vì là người đạo mạo uyên thúy mà vua Hán Văn phải trọng; Quảng Nhạc, Vệ Giới vì là người thần khí thanh sảng mà bạn bè đều
khen. Còn như những hạng mướp đắng mạt cưa, ra luồn vào cúi, thì người có lòng nhân cho là đáng thương, người không có lòng nhân lại coi khinh mà ruồng bỏ, chứ chẳng khi nào đem lên chỗ chiếu ghế mà cùng bàn chuyện. Đến như chơi cảnh mà lại trái cái thường tình ấy thì có phải lẽ không? Hay là bảo rằng hóa công đặt để mỗi vật một khác, như cây thông ở núi Thái Sơn, cây cối (13) ở làng Khuyết Lý, cây mai ở làng Cô Dịch, hòn đá ở Anh Đan hồ Động Đình (14), lân kỳ cổ quái, không thể hình dung ra hết; những thứ ấy, người xưa chép trong sách, vẽ ra tranh, người sau chỉ được truyền văn chứ không trông thấy thật, nên mới phỏng chừng bày ra, cố làm cho đúng, cho hệt, bảo rằng cây này giống cành tôn chi nhà nọ, hốc đá kia giống cái sườn núi cheo leo, hang sâu nọ là hình cái suối nước trắng xóa, khắc họa mô phỏng mãi, tuy rằng sai mất cả bản chân, nhưng cái ý hiếu cổ hiếu kỳ cũng có thể bỏ qua được. Ta chỉ quái lạ cho người đời bây giờ, chơi hoa, chơi đá, mà chỉ lấy cái ý kiến riêng, muốn làm khéo hơn người trước mà lại thành ra vụng, uốn cây đục đá, muốn làm cho giống hình loài cầm thú, nào rồng leo, hổ phục, sư tử ngoảnh mặt lên trời, kỳ lân đạp chân xuống đất, biết bao nhiêu cách không thể nói hết được. Ôi! Nếu trời sinh ra cây ra đá mà làm hệt như hình cầm thú thì tạo vật cũng đến phải hết nghề, còn có gì mà đáng thưởng ngoạn nữa! Phỏng như để những hình long, hổ ngoằn ngoèo, sư, lân hống hách và những hình xà thần, ngưu quỷ đầy cả nhà thì trông thấy, ai chẳng bịt mắt lắc đầu mà chạy. Thế nhưng người đời lại lấy cách chơi ấy làm cao, ta thực không hiểu ra làm sao cả.
_______
(1) Theo bản gốc.
(2) Khuất Nguyên (330 – 278) tr. CN tức Khuất Bình, làm quan Đại phu nước Sở, là một người yêu nước và trung thực. Ông là tác giả tập Ly Tao, một tác phẩm văn học nổi tiếng của Trung Quốc.
(3) Sông Tương, Sông Nguyên là chỗ Khuất Nguyên bị đày.
(4) Quy Mông vốn tên hai quả núi: Quy Sơn và Mông Sơn ở tỉnh Sơn Đông (nước Lỗ đời Khổng Tử), người ta thường nhầm là một quả núi.
(5) Nhã tháo, u hương là mùi hương thanh nhã, thoang thoảng mà bền lâu. (6) Yên Cát là ái thiếp của Trịnh Văn Công.
(7) Bản dịch chỉ ghi hoa lan chung chung.
(8) Hang Kim Cốc ở phía Tây huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, trong hang có dòng nước từ phía đông nam huyện Lạc Dương chảy qua. Thạch Sùng có nhà riêng ở trong khe Kim Cốc, cây xanh nước biếc, quả hoa vị thuốc không thiếu thứ gì, lại có ao cá, bệ đá ngồi câu, người đời truyền tụng cảnh vườn Kim Cốc tức là nơi đó.
(9) Võng Xuyên tức biệt thự của Vương Duy đời Đường.
(10) Lục Dã (chưa tra cứu được).
(11) Bình Nguyên là tên một quận thuộc nước Triệu thời Chiến Quốc, là đất phong kiến của Bình Nguyên Quân, Thắng cảnh Trung Hoa, hiện nay thuộc đạo Đông Lâm, huyện Sơn Đông (Trung Quốc); còn thắng cảnh như thế nào thì chưa rõ.
(12) Thế giáo thiên luận, ý nói về cái đạo làm người.
(13) Cây cối là một thứ cây tùng.
(14) Theo bản gốc.
HỌC THUẬT
Trong sách có những bậc thánh hiền như vua Vũ (1) hễ nghe được ai bảo cho lời hay thì vái tạ, ông Chu Công (2) đi giày xích tích (3) khoan thai coi ra bộ khiêm tốn nhã nhặn, thầy Nhan Tử (4) không dám tự đắc mình là giỏi, có tài
thực mà vẫn coi như không. Ôi! Ông Vũ, ông Chu đều có tài đức cho thiên hạ được nhờ, Thầy Nhan dẫu nghèo cùng mà tự mình học giỏi truyền được đạo thống về sau, thực là có công lắm. Thế mà các ông ấy vẫn khiêm tốn, có phải là giả cách để cầu tiếng khen đâu! Đó thực là trong bụng khiêm tốn, không dám tự khoe mình là thánh vậy.
Đời nay, những kẻ chỉ học lỏm được mấy câu mép, nào có quan thiết gì đến đạo tu, tề, trị, bình, thế mà đã ngang nhiên tự đắc. Đó là những kẻ thiểu phu tục tử. Không kể chi những kẻ tài học hèn mọn, không thể ví được với trời xanh; giá thử quả có học giỏi giang đi chăng nữa, thì cũng chỉ đủ vinh thân phì gia và làm cho họ hàng được nhờ mà thôi, chứ có ích chúa lợi dân gì cho người đời cậy đâu! Huống chi học thuật đã bất chính, đến khi ứng dụng ra đời thì chỉ làm hại cho thiên hạ, đáng để cho người ta trách mắng, chứ còn lên bộ kiêu căng với ai? Ta thường thấy những anh hủ nho, những chú trò ngông, mới học được một nghề mọn gì đã khoe khoang làm bộ, vung cánh tay ở trước mặt cha anh bạn hữu, tự đắc rằng nay mai làm nên đến chức trọng quan sang, về sau rốt cuộc lại suốt đời dở dang, chẳng làm nên công cán gì. Bấy giờ mới oán trách tạo vật bất công, đổ lỗi cho quan trên không biết kén dùng đến mình. Thường thường họ làm thơ từ oán trách, thậm chí lại chê kẻ nọ, bác người người kia, bảo đều là bọn đi thậm thụt van nài, luồn lọt cầu cạnh mà nên, chứ không phải là thực tài thực học.
Ấy, những kẻ chỉ biết trách người mà không biết xét mình như thế thực đáng thương thay! Ta từ nhỏ đã phải mồ côi thất học, đến khi lớn lên lại dùi mài về nghề học cử nghiệp, thường bị những kẻ khinh bạc chê bai. Song nghĩ đến lời người xưa dạy: “Điều gì mình không muốn thì chớ bắt người khác làm”, ta thề quyết không mắc phải lỗi ấy. Thế là lời nói, việc làm vẫn không khỏi lẩm lỗi, có lẽ vì thế mà có người chỉ trích ta. Ta đâu dám không lấy câu “hòn đá núi kia có thể mài ngọc” làm kim chỉ nam.
_______
(1) Vua Vũ, đời nhà Hạ.
(2) Chu Công, tể tướng đời nhà Chu.
(3) Xích tích là giày vải đỏ đi rất êm, thường đi khi tiếp khách, ngụ ý tỏ thái độ khiêm tốn với người hiền.
(4) Nhan Tử, học trò xuất sắc của Khổng Tử.
LỐI CHỮ VIẾT
Nước Việt Nam ta, lối chữ viết từ đời Đinh, Lê trở về trước thì không trông thấy được nữa, còn lối chữ từ đời Lý đời Trần trở về sau, thì bắt chước chữ đời nhà Tống, ở trong sách An Nam kỷ lược (1) đã nói rõ. Nay còn thấy tấm bia ở núi Dũng Thúy và bài minh khắc vào chuông chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, cùng là bài bia ở dinh cơ quan Tam sương là Châu công (2) ở làng Châu Khê, huyện Đường An; bút pháp rất cổ kính. Còn như cái biển ba chữ “Đông hoa môn” thì chính là ngự bút vua nhà Lý, bút pháp hùng hồn, tự nhiên, khác hẳn người tầm thường, những nét phẩy, mác, sổ, móc đã phôi thai ra một lối chữ nước Nam ta. Còn ba chữ “Đại hưng môn” thì là chữ hoành biển, chế ra từ đời Lê Hồng Đức, nét bút lẫn cả lối chân lối khái; chữ cổ đến đời ấy đã có một bước biến cải. Khoảng năm Diên Thành (3) đời nhà Mạc, con gái Đà quốc công là Mạc thị, có dựng ra chùa Bối Am, mài đá khắc một bài minh, nét chữ đầu cong chân quẹo, hơi giống chữ viết bây giờ, nhưng bên tả vênh lên, bên hữu vẹo xuống, có hơi khác, thực là quái lạ! Dễ thường đời Lê sơ và đời nhà Mạc, lối chữ viết đại lược như thế cả. Gần đây, lối chữ trong Thuận, Quảng cũng gần giống như vậy, cũng là còn giữ lối chữ như xưa.
Từ đời Lê trung hưng trở về sau, những người đi học theo nghề khoa cử viết theo lối chữ khải đời cổ, lại ngoa ngắt thêm bớt, làm sai đi đến nửa phần, gọi là lối chữ nho. Còn những giấy tờ ở chốn cửa công thì dùng riêng một lối chữ “nam”, lúc đầu là phòng dân gian làm giả mạo, mới theo hoa văn mà đặt ra một lối chữ việc quan khiến làm rõ đẹp lối chữ nước Nam ta (4). Ai học theo lối chữ ấy, thì sáu năm một lần, thi trúng tuyển được sung vào làm chân thư tả ở trong các nha môn. Song những cách giả dối là bởi những kẻ nho lại làm ra, càng ngày càng tệ, các quan trên không thể cấm được. Bốn lối chữ chân, thảo, triện, lệ, lâu nay không ai truyền dạy. Cũng có người tập lối chữ ấy, nhưng chỉ là tự ý học phỏng chừng, dối trá quệch quạc, trông chẳng khác gì anh thợ vẽ bôi bác vụng về, không ai buồn nhìn. Trong khoảng năm Cảnh Hưng, chúa Trịnh Thịnh vương (Trịnh Sâm) (5) lại thích lối chữ Trung Hoa, kẻ học giả đua theo, mới hơi thay đổi lối chữ Nam đi để cầu hợp mắt người bấy giờ, có khi viết một chữ mà nét chấm là lối chữ triện, móc là lối chữ lệ, phẩy mác là lối chữ chân, nếu gặp phải chữ rậm nét, thì lại đá thảo để viết cho thông hoạt, gọi là lối chữ viết câu đối. Lối chữ thảo thì bắt chước vũ kiếm (6) mà quằn quèo, thô tháp, không có vẻ thanh tao, gọi là lối chữ đề thơ. Lại còn lối chữ viết chân phương, chân hành, lão thảo, nộn thảo, đại triện, tiểu triện, cổ lệ, cổ lựu, tiểu kỷ, tiểu khải, đều tùy ý mô phỏng mà viết, để khoe khoang nổi tiếng ở đời. Kẻ hậu tiến đều coi đó là sư pháp, thường
bảo nhau rằng đây là lối chữ chính tôn phái Dao tiên sinh (7), kia cũng là lối chữ bắt chước Dao tiên sinh, ngông nghênh tự đắc, trên không coi đời cổ vào đâu, giá có hỏi đến tự thế (8) của các nhà cổ kim, thì tuyệt nhiên chẳng biết một tý gì. Ôi! Kẻ nho lại đi học chữ để chiều đời kiếm ăn, không trách làm gì; ta chỉ thương cho những kẻ sĩ phu đời nay không còn ai lưu ý đến các lối viết chữ. Đời xưa, trong nhà học hiệu (9) có dạy cả sáu nghề: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, khi nhỏ học tập, khi lớn lại nghiên cứu đem ra để dùng. Từ đời Tần, Hán trở xuống, lấy chữ tốt nổi tiếng ở đời thì đời nào cũng có. Như Thái Ung, Chung Do đời Hán, Vệ phu nhân và cha con Vương Hy Chi đời tấn, lề thói di truyền kẻ trước người sau, nổi tiếng chữ tốt cũng nhiều. Vua Đường Văn Hoàng là bậc thiên tử, có muôn cỗ xe mà còn ưa lối chữ phi bạch và lối chữ của vua Lương Vũ đế và Dương Dật Thiếu cũng là những người nổi tiếng chữ tốt (10). Các vị công khanh có tiếng đời nhà Đường, như Ngụy Trưng, Trữ Lượng, Ngu Thế Nam, Trử Toại Lương cho đến các họ Nhan, liễu, Hàn Mặc Tử, Bạch (11), đều là danh gia có tiếng chữ tốt cả. Đời nhà Tống hơn ba trăm năm, các bậc tiên nho cũng nhiều, như thấy Chu, thầy Trình, họ Trương, họ Chu, họ Ngụy (12) cùng với họ Tô, họ Hoàng, họ Tống (13), đến nay hãy còn truyền bút tích lại, xem ra cực tốt, chưa khi nào vì tốt chữ mà làm che mất huân danh đức nghiệp bao giờ.
Nước ta đã có tiếng là văn hiến không khác gì nước Trung Hoa, thế mà về một việc học viết chữ, lại cho là việc của kẻ thơ lại, không ai thèm lưu ý đến, không biết tại sao?
Ta có một người bạn là Hoàng Hy Đỗ, nguyên người Quảng Đông, phố Tân Hội, từ đời cha mới sang ngụ ở Hoa Dương, trấn Sơn Nam, rồi thành người Việt Nam. Ông thông minh, đĩnh ngộ, các sách tiểu thuyết, dã sử đều xem qua hết. Ông lại thích nghề thơ, từ, ngâm vịnh, phàm thơ của các danh gia từ đời Hán, Ngụy, Đường, Tống, Minh, ông đều xem qua và đọc thuộc cả. Ông thường có câu thơ vịnh hoa kiến lan (14): “Sắc đẹp lượt là từng mộng thấy, Hương thơm bát ngát đáng xưng vương”; lại có câu: “Trân trọng chớ hiềm tri kỷ ít, Tao đàn từng đã dự bình chương”, hay có câu tả lúc ở đất khách, nghe chim nhạn (15): “Nếu bay qua tới hương quan đó, Nhắn bảo thu về cúc nở hoa”, xem những câu thơ ấy, tự khắc biết người vậy. Ông ấy lúc nhỏ viết viết lối hành thảo rất tốt, hễ cầm bút lên thì rụt rè như không thể viết được, nhưng lúc đã đặt bút xuống giấy thì nét chữ tươi tắn, co cái ý nhị của hoa đào đọng giọt mưa, lá dương phủ làn khói. Các anh em bạn tri giao thường khi yến họp với nhau mà không biết mệt, giá có hỏi đến lối chữ thời bấy giờ thì ông nín lặng, không thèm nói. Nhà ta có giữ được hai cái thiếp chữ thạch ấn là thiếp Lan Đình (16) và thiếp Đa Bảo (17), nhân đem ra tặng ông, ông mừng nói rằng: “Đây là danh bút của hai đáng tiên hiền họ Vương, họ Nhan,
song tiếc cho phường bản họ in ra cũng có hơi sai, không được đúng lắm”. Mỗi khi đem ra trước cửa sổ để coi và bắt chước viết thử chơi. Ông lấy làm thận trọng lắm.
_______
(1) Bản dịch viết là “An Nam kíp lược”.
(2) Tức Phạm Thiệu (thế kỷ XVI), người làng Châu Khê, nay thuộc huyện Quế Dương, đậu tiến sĩ, làm quan đời Mạc.
(3) Diên Thành niên hiệu Mạc Mậu Hợp (1562 – 1592).
(4) Đoạn này không thấy trong bản dịch.
(5) Trịnh Sâm (1767 – 1782).
(6) Vũ kiếm là một lối viết chữ bay bướm như múa gươm. (7) Dao Thạch tiên.
(8) Tự thể là thể chữ, lối viết chữ.
(8) Nhà học hiệu là trường học.
(10) Theo bản gốc.
(11) Nhan Châu Khanh, Liễu Tôn Nguyên, Hàn Mặc Tử Dũ, Bạch Cư Dị. (12) Tức Chu Hy, Trình Hạo, Trương Tài, Chu Đôn Di, Ngụy Dã. (13) Tức Tô Đông Pha, Hoàng Đình Kiên, Tống Bạch.
(14) Bản dịch viết là ngọc lan.
(15) Bản gốc viết là bài thơ “Khách trung văn nhạn”.
(16) Lan Đình là tên tự của Vương Hy Chi đời Tấn.
(17) Đa Bảo tức Nhan Chân Khang đời Đường.
CÁCH UỐNG CHÈ
Cách uống chè thì trong sách Kiên biều đã nói rõ. Họ Lư, họ Lục nổi tiếng về uống chè. Đến đời Tống mới thấy bày đồ ấm chén, hỏa lò, cấp thiêu, đại khái cũng là những đồ để pha chè. Có ông Giới Phủ (1) thưởng chè Dương tiễn, ông Tử Chiêm (2) thưởng chè Vân Long. Từ đời Minh, đời Thanh trở
xuống, cách chế chè càng tinh, đồ dùng chè càng đủ. Những thứ chè bồi sao, chế biến cũng khéo, và những các hồ, ấm, đĩa, chén, than, lửa, hỏa lò, cấp thiêu đều sắm sửa lịch sử cả. Nào là chè Võ Di, lò Thành Hóa, ấm Dương Tiễn, đều là những thứ tuyệt phẩm dùng để pha chè. Kể thói tục bày vẽ ra có lắm thứ khác nhau, nhưng chẳng qua cũng mấy thứ ấy mà thôi. Còn như chè tuyết nha, nước suối hồng tâm, dẫu các hạng phong lưu người Trung Hoa cũng chưa được nếm đủ hết, nên không dám nói đến.
Thị hiếu của người ta cũng hơi giống người Trung Hoa. Ta sinh trưởng đương lúc thịnh thời đời Cảnh Hưng, trong nước vô sự, các nhà quí tộc, các bậc công hầu, các con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ, có khi mua một bộ ấm chén, phí tổn đến vài mươi lạng bạc. Thường có nhiều người đến chơi các hiệu chè, thăm dò các phố buôn, vác tiền hết quan ấy chục khác để mua chè ngon. Lúc ngồi rỗi, pha chè uống với nhau, lại đánh cuộc xem chè đầu xuân năm nay sớm hay muộn, giá chè năm nay cao hay hạ. Kẻ thì ưa thanh hương, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên, mua cho được chè ngon, bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có kẻ đặt tiền sẵn mua cho được hiệu chè Chính Sơn, gửi tàu buôn đặt cho được kiểu ấm chén mới lạ, cách hiếu thượng đến thế là cùng cực. Song cái thú uống chè tàu có phải ở chỗ đó đâu! Chè tàu thú vị ở chỗ nó tinh sạch sẽ, hương nó thơm tho. Buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng trong, với bạn rượu làng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục. Ấy, người xưa ưa chuộng chè tàu là vì vậy. Từ các đời gần đây trở xuống, thưởng thức chè tàu càng ngày càng tinh, vị chè nào khác, cách chế chè nào ngon, đều phân biệt kỹ lắm. Lò, siêu, ấm, chén, lại chế ra nhiều kiểu thích dụng. Song chế ra nhiều thứ chè, kẻ thức giả cũng cho làm phiền lắm. Còn như nếm chè ở trong đám ruồi nhặng, bày ấm chén ở cửa chợ bụi lầm, lúc ồn ào đinh óc, vơ vẩn rộn lòng, thì dẫu ấm cổ đẹp đẽ, chè ngon ngát lừng, ta chẳng biết uống chè như thế có thú vị gì không? Giá có gặp ông tiên chè, thì cũng cho lời nói ta làm phải.
Mùa thu năm Mậu Ngọ (1798), ta dạy học ở thôn Khánh Vân, tổng Hà Liễu, các học trò kinh thành cũng thường gửi quà về hỏi thăm, tuy cơm rau nước lã không được dư dụ cho lắm, nhưng chè tàu thì không lúc nào thiếu. Thôn
Khánh Vân ở hạ lưu sông Tô Lịch, phía Bắc tiếp Xuân Nê, phía Nam gần Đỗ Hà; các núi Hoàng Xá về vùng Ninh Chúc, Tử Trầm, Nam Công thì vòng quanh ở phía Tây, còn những làng Nguyệt Cái, Đại Cái (3), Liễu Nội, Liễu Ngoại đều trông thấy ở gần chung quanh cả. Thổ sản có thứ vải quả, rau dưa, làng xóm rừng khe cũng nhiều chỗ tĩnh mịch đẹp đẽ (4). Khi dạy học rảnh, ta thường cùng với người đàn anh trong làng là Tô nho sinh dạo chơi chùa Vân, pha chè uống, hoặc trèo lên cái gò ba tầng ở phía tây xóm ấy, rồi múc nước suối pha chè uống chơi. Trông thấy những cảnh mây nổi hợp tan, chim đồng bay lượn, cùng là cỏ cây tươi tốt hay tàn tạ, hành khách lại qua, ta thường thường gửi tâm tình vào câu ngâm vịnh. Sau chỗ nhà trường ta là giải sông Tô, men theo bờ đê đi ngược lên đến cầu Nhị Khê là chỗ người làng qua lại nghỉ mát. Một buổi chiều, ta cùng với Tô huynh lên chỗ cầu xem các bè đánh cá, thấy đôi bên bờ sông bóng cây so le thấp thoáng, mảnh trăng in trên mặt nước trong veo, hai anh em cùng ngồi nói chuyện gẫu, bất giác tâm thần thanh sảng, thú vị vô cùng. Thấm thoát mới vài bốn năm nay, ta đã thôi không dạy học đấy nữa, mà Tô huynh thì đã qua đời. Tiền Mục Am (5) có nói: "Cái vui về non nước bè bạn, tạo vật chưa dễ đã cho mọi người được hưởng, mà còn có phần lại khó hơn lợi lộc với vinh danh". Lời nói ấy chẳng là phải ru?
Từ đời Khang Hy trở về sau, uống chè tàu mới đổi ra pha từng chén nhỏ, chứ không hãm trong ấm to nữa, vì uống chè, ấm chén cốt nho nhỏ, mỏng, khi pha mới nổi hương vị. Vòi ấm thẳng thì nước không đọng, mặt đĩa phẳng thì đặt chén không nghiêng, rế lò dầy mà lỗ thưa thì than lửa không bốc nóng quá, lòng ấm siêu lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi. Ấy, cái cách pha chè uống nước, mới đầu còn thô, sau tinh dần mãi ra. Gần đây lại có chế ra thứ siêu đồng cũng khéo, nhưng kim khí bị hỏa khí nó hấp hơi, thường có mùi tanh đồng, không bằng dùng siêu đất nung, pha chè tốt hơn. Song các nhà quyền môn phú hộ khi uống chè lại lười không muốn pha lấy. Thường thường họ giao cho tiểu đồng pha phách tất cả, dùng siêu đồng cho tiện và lâu vỡ, như thế không phải bàn làm chi nữa.
Khoảng năm Cảnh Hưng, ở Tô Châu có chế ra một thứ hỏa lò và một thứ than tàu đem sang bên ta bán, đều là những đồ dùng của khách uống chè cần đến, người ta đua nhau mua. Song gần đây đã có người biết cách chế ra, cũng bắt chước luyện than mà hầm lửa, nắm đất mà nặn lò, so với kiểu của Trung Hoa chẳng khác gì, người ta cũng ưa chuộng. Ta nhân thế lại tiếc cho người cầm quyền nước, xưa nay không biết lưu ý đến việc công nghệ dân ta. Tiếc thay!
_______
(1) Giới Phủ là tên tự của Vương An Thạch.
(2) Tử Chiêm là tên tự của Tô Đông Pha.
(3) Bản dịch viết là Nguyệt Áng, Đại Áng.
(4) Theo bản gốc.
(5) Tiền Mục Am là Tiền Khởi, một danh nhân đời Đường.
XÉT VỀ ĐỊA MẠCH VÀ NHÂN VẬT
Ta thường xem bản đồ trong Nội các, mới biết hình thế non sông nước ta so với nước Trung Hoa cũng chẳng kém gì. Nước Trung Hoa, từ mạch núi Côn Lôn chạy vào, chia làm ba cán long : một đằng theo sông Hoàng Hà chạy về phía bắc là những tỉnh Cam Túc (1), Sơn Tây, Sơn Đông, Trực Lệ; một đằng
theo núi Mân Sơn chạy về phía đông là những tỉnh Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Bắc, Giang Hữu, Giang Nam, Phúc Kiến và Triết Giang (2); một đằng theo sông Hắc Thủy chạy về phía nam qua Thổ Phồn, Vân Nam,
Diến Điện, Hà Tiên rồi chạy ra bể Nam Hải. Về cán long theo sông Hắc Thủy này, thì phía tây sông Hắc Thủy là đất Thổ Phồn, Tam Phật Tề, Chân Lạp, Diến Điện, Đại Thực, Phù Dư, Tiêm La, Cao Man. Tây Dương (3); phía đông sông Hắc Thủy là những tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và Lão Qua kéo dài đến tận núi Tiểu Côn Lôn lại biệt làm một chi thiếu tổ. Chạy sang nước ta, chi này lại chia làm ba: chi bên hữu chạy qua sông Đà Giang (sông Bờ) là những tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Sơn Nam thượng rồi chạy vào Hoan Châu (Nghệ An), Ái Châu (Thanh Hóa) cho đến Thuận Quảng thì tản ra các cù lao gần bể. Cũng như bên Trung Hoa có một dải đất Vân, Qui (4) chạy ra đến tận đảo Quỳnh Nhai. Chi bên tả thì qua Tuyên Quang rồi chạy đến Cao Bình, Lạng Sơn, An Bang (Quảng Yên), lại qua đến bể là Hồng Đàm, đảo Đại Nhân, cũng như bên nước Trung Hoa có dải đất Cam Túc, Sơn Tây mà chạy đến Đăng Lai. Còn chi giữa thì tự núi Tam Đảo trở xuống, mênh mông liên tiếp thành ra những tỉnh Thái Nguyên, Kinh Bắc, Trung Đô, Hải Dương, Sơn Nam và Sơn Nam hạ ; đất Thăng Long, đất Cổ Bi thì lại ở vào khoảng giữa, cũng như Trung Hoa có những tỉnh Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Hà Nam và các tỉnh Kinh, Hồ. Về sông thì sông Hát chảy qua phía Nam, sông Xương chảy qua phía bắc, sông Phú Lương là một con sông lớn, ngoằn ngoèo chạy suốt khoảng nam, bắc, há chẳng giống Trung Hoa có những con sông Giang, Hà, Hoài, Tế đấy ư? Vậy nên ta bảo rằng địa thế nước ta, toàn thể cũng giống nước Trung Hoa, chỉ có nhỏ hơn mà thôi.
Từ đời Lạc Hùng 18 đời mở cõi về sau, đến đời nhà Lý thì phong thói chất phác, đời nhà Trần thì phong thói trung hậu, đời nhà Lê về năm Quang Thuận, Hồng Đức (5) thì trị giáo xương minh (6), phong khí các đời trước còn có thể biết được. Lại còn các nhân vật, trung thành như Tô Hiến Thành; học vấn như Chu Văn Trinh; văn chương như Nguyễn Trung Ngạn, Mạc Đĩnh Chi; kinh tế (7) như Nguyễn Trãi, Nguyễn Duy Ỷ ; lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan; huân nghiệp như Lý Ông Trọng, Khương Công Phụ; thần kì như Chử Đồng Tử, Đổng Thiên Vương. Lại còn dòng dõi
thiền tôn ở chùa Trúc Lâm, Hương Tích; đạo hành tu hành như An Kỳ, Phạm Viên, đều là tinh anh của non sông đúc lại, các nhân vật ấy nay còn có thể kể biết được.
Lại xem như những giống san hô, đồi mồi, hạt trai, vân mẫu sản xuất ở bến bể ; nhục quế, trầm hương, hồ tiêu, ý dĩ (8) sản xuất ở núi non; giống củ mài ở Cổ Pháp (làng Đình Bảng), giống lệ chi (9) ở Siêu Loại, hương phụ (10) ở huyện Giao Thủy, nhân sâm ở núi Hồng Lĩnh, sơn sống ở Sơn Tây, củ nâu ở Tuyên Quang, các thứ gỗ lim, gỗ sến ở Thanh Hóa, Nghệ An, vải nhỏ ở Vĩnh Lại, Tứ Kỳ, lĩnh the ở La Khê, Yên Thái (Bưởi) và các mỏ vàng, bạc, đồng, kẽm, các sản vật tôm cá, muối mắm; trong các loài cầm thì có lông công, cánh trả, trong loài thú thì có sừng tề, ngà voi, cũng có thứ Trung Hoa không có mà nước ta lại có. Nếu người cầm quyền nước biết nhân cái sản vật tự nhiên mà khéo dùng nó, chế biến ra thành các thứ cần dùng, thì so với Trung Hoa, ta cũng chẳng kém gì mấy. Huống chi, khí trời vận chuyển vần bất thường, khi nước lớn mới yên thì thuế điền ở Duyên Châu rất nhẹ. Đến đời Tây Hán, đất Quan Trung phải chở thóc lấy tại Sơn Đông đem vào. Từ đời Tùy Đường trở về sau, địa thế mở mang dần mãi về phương nam, đất Giang, Hoài mới thành ra đông đúc. Kịp đến đời Tống thì có ông Chu Khảo Đình (11) sinh ra ở đất Tân An, ông Văn Sơn sinh ra ở đất Cát Thủy, đời nhà Minh thì có các ông Quỳnh Sơn, Cương Phong, Bạch Sa nối gót sinh ra ở đất Quảng Đông, Quảng Tây. Nay ở Dương Thành và Quỳnh Châu thì nhân vật phồn hoa đã dần dần bằng đất Tam Ngô, mà từ đất Hà, Tế trở về bắc, lại dần dần hóa ra cõi mọi rợ. Thử so sánh mà xem, khí vận nước ta sau này dễ lường được chăng?
Ta thường muốn kén chọn những người thiếu niên anh tuấn ở những làng quen làm nghề nghiệp như làng La Khê, Yên Thái, Bát Tràng, Trúc Phê và các xã duyên sơn, cho cạo đầu hóa trang, theo khách buôn sang Trung Hoa đem tiền bạc đi mà học lấy những nghề khéo. Người thì đến lò nung bát ở Hổ Giao, người thì đến phố dệt vóc ở Kim Lăng, cùng ở với người Trung Hoa, học lấy trí khôn nghề khéo của họ; hoặc đi đến các tỉnh Mân, Tích, Kinh, Dương, mua lấy các thứ chè, các thứ thuốc, xét cách trồng trọt, xem thổ nghi; khi nào xem xét đã tinh rồi thì trở về nước, phân cho mỗi người coi một việc mà chế tạo ra đồ dùng. Hết thảy các đồ ăn mặc đều cứ theo lệ ấy mà cho người đi học để phát minh thêm ra, tưởng độ mười năm thì người nước ta, về các nghề nghiệp, cũng đã tinh xảo. Song tiếc cho những kẻ gặp thời làm được lại không có chí, những kẻ có chí lại không gặp thời. Ta e rằng việc thiên hạ không phải là việc kẻ hèn mọn được nói leo!
Các nhà địa lý làm sách bảo rằng "Núi Côn Lôn chia làm ba cán long. Một
cán long chạy theo sông Hoàng Hà, một cán long chạy theo sông Mân Giang, còn một cán long thì chạy theo sông Áp Lục. Cứ như ta xét thì các cán long Hoàng Hà, cán long Mân Giang, nói thế là phải; còn cán long chạy về sông Áp Lục thì không phải. Núi Côn Lôn chạy về phía tây nước Trung Hoa, chạy rẽ về phía đông là cán long Mân Sơn, rẽ về phía nam là cán long Hắc Thủy, rẽ về phía bắc là cán long Hoàng Hà, rẽ về phía tây là cán long Nhược Thủy, xét trong các sách vở địa đồ, đều rõ như thế cả. Nay lại phân ra thành ba cán long một cách võ đoán như vậy, thì có thể biết cái thuyết ấy kê cứu không được rộng. Huống chi sông Hoàng Hà tự núi Côn Lôn chạy về phía bắc hàng nghìn dặm, vòng quanh đất Hà Hoàng, phía đông đến Long Môn, rẽ về phía nam mới chạy vào Trung Hoa, qua núi Hoa Sơn lại rẽ về phía bắc là đất Thanh Tề, mông mênh đến vài bốn nghìn dặm. Còn như sông Áp Lục thì ở về phía đông nam núi Tràng Bạch, cách phía bắc sông Kiệt Thạch hơn ba nghìn dặm. Nếu nguồn sông ấy mà thực là phát nguyên từ núi Côn Lôn thì phải chạy về phía tây sông ấy, phía bắc sông Nhược Thủy, vòng quanh Tây Vực, Mạc Bắc, Đông Di rồi sau mới chảy ra bể, ước chừng qua ba phía : đông, bắc và tây nước Trung Hoa, tính ra dài gấp mấy sông Hoàng Hà, có phần hơn hai vạn dặm. Thời nhà Hán có người Trương Khiên (12) đi thăm cùng nguồn sông ấy, người Vệ, Hoắc (13) vào mãi nước Hung Nô, đời nhà Nguyên lại tìm ra được nguồn sông ấy là chỗ Trương Khiên chưa đến nơi. Vua Thành Tổ nhà Minh đi sang đánh Mạc Bắc (13), quân đi chỗ nào trông ra bốn bên thì sao Bắc Đẩu đều ở phương nam. Năm Khang Hy đời nhà Thanh có người phụng sứ đi lên phía bắc, chỗ ấy thuộc về Bắc Hải, nước bể kết lại thành băng, trông hình như ngọc quỳnh dao, buốt đến tận xương, không thể đến gần được. Năm Kiền Long, có quan Hùng Chủ sự đi khám xét đất Tây Vực, vòng quanh đến hàng dặm. Phàm những viết khám xét trên ấy, chưa từng nghe nói có đi qua sông Áp Lục. Mà trong các sách dịch về địa lý ở Tây Nhung, Bắc Địch, cũng không thấy có tên sông ấy. Chỉ có bộ Nữ Chân, bộ Thát Đát và nước Triều Tiên về phía bắc mới có con sông Áp Lục, thế thì sông ấy không phải phát nguyên tự núi Côn Lôn. Chỉ vì các đời Kim, Nguyên, Thanh gần đây, lấy núi Tràng Bạch làm tổ sơn, những nhà phong thủy tưởng rằng núi ấy, long khí chung đúc sinh ra những đấng quân chủ thống nhất được cả nước Trung Hoa, như thế không phải là một chi long tầm thường, nên mới ghi rằng mạch phát ra tự núi Côn Lôn, mà nước chảy theo núi.
_______
(1), (2) Bản dịch viết là Cam Toàn, Tích Giang.
(3) Khu vực Tây Dương không thấy có trong bản dịch.
(4) Bản dịch viết “… dải đất Vận, quí”.
(5) Tức đời Lê Thánh Tông (1460-1497).
(6) Trị giáo xương minh là chính sự và nền giáo hóa đang thời thịnh vượng. (7) Kinh tế là tài trị nước.
(8) Ý dĩ là bo bo.
(9) Lệ chi là quả vải.
(10) Hương phụ là cỏ cú dùng làm thuốc.
(11) Bản dịch viết là Chu Khải Đình.
(12) Trương Khiên, người đời Hán, thường đi sứ ở các nước phía tây bắc Trung Quốc bấy giờ gọi là Hung Nô.
(13) Vệ, Hoắc tức Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh là những tướng đới Hán có công đánh Hung Nô.
(14) Phía bắc sa mạc.
ĐÊM RẰM THÁNG TÁM
Dạy học ở Khánh Vân vừa được một năm, vào khoảng mùa thu năm Kỷ Mùi (1799), ta sắp sửa trở về kinh. Tối hôm rằm tháng tám, ta cùng với ông Tô nho sinh ở Khánh Vân, ông Hoàng nho sinh ở Đại Cái (1) cùng họp nhau ở một quán trơ trọi trên gò làng. Chừng nửa đêm, có hai ba người tương tri từ làng Nhị Khê lại chơi, cùng nhau pha chè uống ngồi bàn chuyện. Khi ấy trên Hà Hán (2) quang mây, dưới bóng cây rợp đất, trông xa ra những làng xóm Dưỡng Hiền bên sông Nhuệ Giang, thấy có chỗ đốt pháo thăng thiên, lốm đốm như sao sa bay lưng chừng trời. Các anh em bạn trông lên cùng nhau cả cười, đến nay nghĩ lại tinh thần vẫn còn phảng phất.
_______
(1) Bản dịch viết là Nguyệt Áng, Đại Áng.
(2) Hà Hán tức ngân hà, chỉ bầu trời.
BÀN VỀ ÂM NHẠC
Sách Lễ ký nói rằng âm nhạc hợp với hòa khí trong trời đất, thế thì âm nhạc cũng rất quan hệ. Đời thượng cổ đã chế ra lục luật, lục lã, ngũ thanh, bát âm, đến đời nhà Chu thì đầy đủ hơn. Nhà Tần dấy lên đốt mất Kinh Nhạc. Vua Cao tổ nhà Hán không chuộng văn học, Thúc Tôn thông, Thích phu nhân chỉ bịa ra những tiếng dâm tà, thô tục để nịnh nhà vua. Cổ nhạc từ bấy giờ không còn biết dựa vào đâu mà lý hội được nữa. Song, òng họ Cổ Tập nổi tiếng (1) những nhà nghề âm nhạc vẫn còn giữ được chức nghiệp. Dẫu không biết hết được cái ý chế tác của cổ nhân, nhưng âm thanh, tiết tấu vẫn chưa biến mất. Trong những kẻ trí tuệ, họa hoằn có người dò biết được cái mối thừa, như là tiếng đàn gỗ vông của Bá Di, Tiêu Vĩ (2), khúc hát Ngư Dương của Chính Bình, khúc đàn Quảng Lăng của Kê Khang, khúc sáo Tam lộng của Hoàn Y, đó đều là những âm nhạc ai nghe cũng lấy làm khoái trá. Về sau, học giả thất truyền, sai mất cả bản lĩnh. Ống khống hầu thì tiếng bi phẫn, đàn tỳ bà thì giọng ai oán, lại pha thêm những tiếng kèn hồ, trống rợ, thì hăng hái khích liệt quá. Đến cuối đời Tấn, Ngụy, rợ Chi Khương lấn đất Trung nguyên, thanh âm của Trung Hoa chỉ còn ở phía Giang tả. Nhưng khốn nỗi, về đời Tống, Tề thì tản mạn, đời Trần (3), Lương thì dâm bạc, đời Tùy lại dâm loạn tệ hơn. Đến đời Đường mới sai Tổ Hiếu Tôn định nhã nhạc, chép ở trong sách Đường chí có 60 điệu, 84 thanh, cũng hơi đủ cái lệ năm chính, hai biến. Song những khúc Đại thực, Quy từ thì lẫn cả tiếng rợ mọi, những điệu Thiên lữ (4) thì động đến đạo quỷ thần, còn những đồ nhạc khí thì lẫn lộn nửa Hồ nửa Hán, không được hoàn toàn. Truyền về sau lại đặt ra khúc Võ Mị Nương, Tang Điều Vĩ (5), Tử Vân Hồi, Vũ Lâm Ly cùng là những khúc âm nhạc Thiên trúc, Sơ lặc, những bài từ Sắc kê, Khuất thác, không thể kể xiết được. Chính thanh đến đấy không còn gì nữa. Đến đời Ngũ Quí (6) gặp buổi binh đao loạn lạc, họ Da Luật (7) cướp sạch cả những sách vở của các đời ghi chép về khoa âm nhạc. Nhà Sài Châu mới sưu tầm lại, nhưng cũng không được đủ. Vua Thái Tổ, Thái Tôn đời nhà Tống không lưu ý gì đến âm nhạc. Những nhà bàn làm nhạc, hoặc kẻ thì chắc bằng về ống ngọc địch, hoặc người thì chuyên chú về nghề thổ khuê (8), người thì bảo theo thước cổ, kẻ thì bảo theo thước kim, không biết nên theo đường nào. Sách Nhạc Chí, Nhạc Thư, mỗi sách chép một khác. Lại như cách phân cự ly theo bằng hạt gạo nếp, cái lỗ tròn chặn theo như lỗ đồng tiền Chu Nguyên (9) Thông Bảo, thì ông Hồ Viên, ông Phạm Trấn lại khảo cứu mỗi người một khác. Bảo Thường, Hán Tân chế ra những khúc quái lạ, càng suy xét bao nhiêu càng làm cho sai đi bấy nhiêu. Các bậc tiên nho như Chu, Trình, Trương, Thiệu (10) lại không được dùng thí nghiệm, dẫu có sách Cửu phong tân thư nói về nhạc, nhưng có người bác đi, thành ra bàn về nhạc mà không
khác gì bàn về việc kiện, chỉ cãi lý nhau mãi.
Thanh âm nước Nam ta khác với Trung Hoa. Đời Lý, đời Trần, tập tục hãy còn chất phác. Triều đình có tẩu quốc nhạc cũng chỉ là truyền tập, mỗi thứ tiếng đi một đàng, chứ không theo dịp với nhau. Khoảng năm Hồng Đức (1470 - 1497) nhà Lê, trên có vua Thánh Tông là bậc thông minh, lại có các quan đại thần là các ông Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh là bậc học vấn uyên thâm, làm quan tại triều, mới kê cứu âm nhạc Trung Hoa hiệp vào quốc âm ta, đặt ra hai bộ: Đồng Văn và Nhã Nhạc. Bộ Đồng Văn thì chuyên tập âm luật để hòa nhạc, bộ Nhã Nhạc thì chuyên chuộng nhân thanh, trọng về tiếng hát, đề thuộc quan Thái thường coi cả. Đến như âm nhạc chốn dân gian thì đặt Ty giáo phường coi giữ. Nhã nhạc với tục nhạc không hỗn hợp với nhau. Song không có quan chuyên chức, điển cố không còn giữ được mấy. Đến năm Quang Hưng (1578), vua Lê (11) chỉ còn là hư vị ngồi suông. Bộ Đồng Văn hay bộ Nhã Nhạc chỉ khi nào có lễ tế giao hay có lễ triều hạ (12) gì lớn, mới dùng đến. Cho nên, con cháu nhà nghề âm nhạc đều thất nghiệp cả. Tấu nhạc ở chốn triều miếu thì chỉ om sòm loạn bậy, không còn thành ra xoang điệu gì. Từ đấy, lối tục nhạc ở chốn giáo phường mới thịnh hành, tế giao miếu và lễ triều hạ hay chốn dân gian tế thần, cũng dùng nhạc ấy. Kẻ nhạc công quen tập những tiếng dâm thanh, so với xoang điệu chép ở bộ Lễ năm Hồng Đức đều không hợp. Quan Thái thường thì thuyên chuyển đi làm chức khác, bọn giáo phường thì cho kẻ cai đội trông coi, không còn ai sửa lại những chỗ sai lầm được nữa cứ như nước trôi gió lướt, chẳng ai biết được ngọn nguồn ra sao. (13)
Cũng có người thích chơi âm nhạc thì lại phải theo học bọn ca công, bọn ấy đắc chí, chỉ bịa đặt ra để làm cho người nghe hoảng sợ. Ta thường thấy các con cháu nhà thế gia phải dịu lời tươi mặt nịnh nọt kẻ ca công, cầu học lấy
giọng hát, bắt chước bộ đi đứng của họ để khoe với chúng bạn. Khi những kẻ ấy đàn, bọn đầy tớ đứng bên hầu rượu tự do bỡn cợt, không coi trọng kẻ trưởng thượng (14). Nếu không có người chỉnh đốn lại, không biết sau này lưu tệ đến thế nào.
Từ nay Quang Hưng trở về sau, bộ Đồng Văn, bộ Nhã Vhạc có dùng trống ngưỡng thiên lớn và kèn trúc nạm vàng lớn, cùng là long sinh, long phách và các đàn ba dây, bốn dây hoặc mười lăm dây, ống sáo, trống mảnh một mặt, sơn vàng, tang mỏng, phách xâu tiền. Khi ông Nguyễn Công Hãng vào làm Thủ tướng triều Lê, ông đã từng đến cả hai bộ Nhạc để hỏi xét điển cố, nhưng không thể xét được. Vậy nên sách Chính Hòa hội điển nói về nhạc quan rất sơ lược, cũng bởi thế biến không thể xét được.
Âm luật năm Hồng Đức thì đại lược có những cung Hoàng Chung, cung Nam, cung Bắc, cung Đại Thực, luật Dương Kiều, luật Âm Kiều và những điệu hát Hà Nam, Hà Bắc, Bát Đoạn Cẩm. Bọn giáo phường ngày nay theo thói quen gọi lầm cung Hoàng Chung là cung Huỳnh, cung Đại Thực là Đại Thạch, Dương Kiều là Kiều Dương, Hà Nam là Xà Nam. Còn những lối đàn lẩy, hát từng, thét nhạc, đều là mới thêm ra cả. Lúc đọc thơ, đọc phú thì chỉ nhặt nhạnh tạp nhạp những câu thơ ngũ ngôn, thất ngôn mà đọc, chứ không có thứ tự gì. Còn như lối hát xưa, bọn giáo phường vẫn còn truyền được ít nhiều xoang điệu cổ, lúc hát lại xen giọng mới vào. Từ năm Cảnh Hưng trở về trước, hãy còn ít nhiều người biết hát giọng cổ ấy, sau đến cuối đời Lê, chỉ có ả đào già mới hát được ; bắt những ả đào non hát thử, thì lẽ lưỡi xin chịu ngay.
Quân nhạc đời Lê sơ có bộ kèn trống lính kỵ, thuộc về các cơ vệ. Lại có quan bả lịnh cầm trống ngũ quân. Từ đời Trung hưng về sau, mới đặt riêng ra một nhạc đội bả lịnh, riêng bọn lính trong phủ Trịnh giữ. Chốn quan phủ và ngoài dân gian có việc tang tế đều dùng đội bả lịnh cả. Còn bọn nhạc công Đồng Văn, nếu không có đặc chỉ thì không được dùng.
Những lối nhạc ca từ đời Đường, Tống trở xuống chia ra hai lối là Vãn ca và Ban hí. Vãn ca là những kẻ ở xóm chợ đi theo xe đại dư (15) mà hát những giọng bi ai thảm thiết, cũng như đời cổ hát khúc Phỉ lộ, Cao lý (16) để viếng người chết. Ban hí là những con hát ở giáo phường vẽ mặt làm trò, diễn những sự tích các nước và đời Tam Quốc, tức như đời cổ có những thằng lùn chú kép ra làm trò mua vui cho quan khách. Tự đời Nguyên, Minh trở xuống, duy có lối Ban hí là thịnh hành. Kẻ văn nhân tài tử thường tuy chuyện mà vẽ vời thêm ra cho thành vở, để nói lên cái khí bất bình uất ức, như vở tuồng Tây sương, Tỳ bà, Mẫu đơn đình (17) và các truyện tiểu thuyết cổ kim, rất nhiều không sao kể xiết.
Nước Nam ta từ đời nhà Lý, có người đạo sĩ nhà Tống bên Trung Hoa sang dạy dân trong nước múa hát làm trò. Trò tuồng ở nước ta cũng là loại ban hí (18) bắt đầu từ đấy. Sau này bọn giáo phường mới bày thêm lối hát Bát đoạn cẩm tục âm, gọi là Bắt đoạn.
Triều nhà Trần hễ có quốc tang, lúc sắp rước tử cung (19) đến sơn lăng để an táng, dân sự phố phường xúm quang lại xem, vòng trong vòng ngoài chật ních cả chốn điện đình, không thể rước đi được. Người dẹp đám mới bắt chước lối vãn ca đời cổ, đặt ra khúc hát Long ngâm, hiệp vào âm luật, sai quân lính đi hát diễu chung quanh đường; nhân dân đổ xô, xúm xít theo đi xem, như thế mới rước tử cung xuống thuyền được. Đời sau bắt chước làm
lối hát vãn, mỗi năm cứ đến rằm tháng bảy, những nhà tang gia cho gọi phường hát đến hát, để giúp lễ tế ngu (20). Tiếng hát bi ai, nghe rất cảm động, tục gọi là phường chèo bội.
Khoảng năm Cảnh Hưng, phường hát chèo bội mới pha thêm lối tuồng, cũng đóng vai trò vẽ mặt ra múa hát đùa cợt, không khác gì ở hí trường. Các nhà tang gia hay đua nhau mượn phường chèo đóng tuồng để khoe khoang. Các quan chính phủ ghét hung lễ lại dùng lẫn lộn cả cát lễ, bèn nghiêm cấm, đã hơn mười năm. Đến năm Canh Tuất (1790) lại thấy dân gian bày trò hát bội ấy. Các con nhà lương gia tử đệ có người bỏ cả chức nghiệp đi theo học hát, khăn áo dáng bộ như đàn bà, thường khi ở nhà cũng nghêu ngao tập hát chèo, trước mặt khách cũng không thẹn thò gì cả. Lại còn trò đánh bạc, chọi gà sinh ra nhan nhản. Tập tục đến thế thật đáng buồn!
Những đồ nhạc khí giáo phường có một cái dịp bằng tre già, hình dẹp, dài độ ba bốn thước; khi các nhạc công đủ rồi, thì một mụ già gõ để làm nhịp cho các tiếng âm nhạc. Còn như những cái trúc địch, yêu cổ, đới cầm, địch cổ thì mỗi người quản giáo (kép) cầm một cái. Trúc địch tục gọi là sáo, thường phải hoà với các tiếng âm nhạc, chứ không hay thổi một mình, vì thổi sáo ít người giỏi. Yêu cổ tục gọi là trống cơm, tang trống như cái thùng nhỏ mà dài, lúc sắp dùng thì phải xoa cơm nếp vào hai mặt trống cho nó âm tiếng, hai bên ứng hoà với nhau. Địch quản tục gọi là quyển nhị, hoà với các tiếng âm nhạc hay thổi một mình nghe cũng hay. Đới cầm tục gọi là đàn đáy, cũng giống như đàn tàu ba dây, nhưng đáy nó vuông, dọc đàn dài, trên dọc gắn mười sáu phiếm, so với đàn ba dây cũng hơi khác. Khi kép ra hát thì lấy dây lưng điều treo đàn ngang lưng để gảy, cùng với ả đào xướng hoạ, tuỳ theo giọng hát lên xuống, mau khoan ứng nhịp với nhau; nhưng tiếng đàn trầm, không thể cao hơn tiếng hát được. Ả đào thì cầm phách tục gọi là sinh, lại có cả phách quán tiền tục gọi là sinh tiền, đều đánh để đỡ giọng hát. Lại có trống đan diện cổ là trống mảnh một mặt, tang trống nhỏ và mỏng, sơn son thếp vàng, khi ả đào mới lên chiếu hát hay lúc uốn éo múa may, thì đánh trống ấy, tiếng kêu lung bung, bập bùng rất hay.
Đại lược các thứ âm nhạc không giống bên Trung Hoa, nhưng cũng có tiếng cao, tiếng trầm, tiếng trong, tiếng đục, đủ cả năm cung bảy thanh, không giỏi âm luật và không hiểu chỗ khác nhau về tập quán của phương Nam, phương Bắc, sự hạn chế về phong khí của núi sông, thì không thể biết hết được. Xem đó đủ biết thời xưa cũng đã nghiên cứu về đường nhạc lắm.
Hát ở trong cung, tục gọi là hát cửa quyền, giọng hát uyển chuyển, dịu dàng, thanh nhã hơn giọng hát ở ngoài chốn giáo phường. Nhưng âm luật cũng
không khác mấy. Có cái trúc sinh để cầm dịp, tục gọi là đàn khô, hình như cái thùng vuông, trên rộng dưới thắt lại, giống như cái mộc trúc đồ nhạc khí cổ, trên mặt thùng ken liền từng miếng tre già như bậc thang giường, lấy hai cái dùi gõ nhịp thì tiếng kêu lắc cắc. Lại có thứ đàn cầm căng dây thép dài giống như đàn sắt, hai bên đàn khảm xà cừ hay đồi mồi. Có thứ đàn chín dây, tục gọi là đàn cửu huyền, có thứ đàn bảy dây, tục gọi là đàn thất huyền, có thứ đàn tranh mười lăm dây, gẩy bằng móng tay bạc, hay lấy cái tăm sậy gõ lên dây, hoà với các thứ tiếng nhạc khác gọi là bát âm, kì thực không phải tiếng bát âm đời cổ. Giọng hát ở trong cung dịu dàng, uyển chuyển. ta xem trong giáo phường gẩy đàn khá khuôn phép nhưng âm luật lại không hợp nhau lắm (21). Đời cổ chỉ có ông Nguyễn Sĩ Cố đời nhà Trần gảy đàn cổ cầm rất hay. Ông ta gảy đàn trước hết dạo dây đàn rồi mới vào khúc đàn, đại khái có thể tưởng tượng mà hình dung ra được.
Đội bả lịnh có đủ cả trống mõ, lại có cả trống phong yêu cổ, giống như trống cơm, nhưng một mặt hơi to, giữa thắt lung ong; tiếng kêu nhẹ là "tầm", nặng là "bông", tục gọi là trống tầm bông. Lại có cái xuý quản, tục gọi là kèn, làm bằng ống sậy, so với địch quản của bọn giáo phường thì hơi ngắn ; ống dọc ở
giữa là một cái đoạn trúc khoét bảy lỗ, thổi thành bảy tiếng, dưới chắp thêm cái loa bằng đồng hay ghép bằng tre, miệng dưới loe ra, gắn sơn tử tế, tức là kiểu kèn thượng mã đời cổ. Có cái tiểu xuý quản, tục gọi là kèn tiểu, ống dọc chỉ khoét năm lỗ, không có miệng loe. Còn cái trùng quyển xuý quản tục gọi là kèn tổ sâu, chỉ làm bằng ống sậy mà thôi.
Nói tóm lại, phàm tấu nhạc ở tôn miếu, thanh âm phải cho trang nhã; những lúc đưa đón dẫn rượu, lên xuống chúc hỗ, phải tuỳ lễ mà đàn hát cho hay. Còn như lúc tế đàm ma thì phải cho thê thảm. Âm nhạc phải tuỳ mỗi lúc một khác. Bây giờ, những người tập nghề thổi kèn hay làm những trò quỉ quái để cho thế tục khen, như lúc đám ma thổi kèn thờ, bắt chước giọng đàn bà trẻ con khóc lóc kể lể, người nghe lấy làm thích ý, lại thưởng cho. Ôi! Âm nhạc chủ hoà, cốt phải hợp lễ, thế nào trang nghiêm, lúc nào thê thảm, lúc nào được nhập điệu là hay. Còn như tiếng rền rĩ, giọng nghêu ngao, khác nào tiếng khóc tiếng mếu, sao không để người khóc cho mà nghe, lại phải thổi kèn bắt chước làm gì? Thế chẳng phải sai mất cái ý cổ nhân đi ư? Đó là tại không có quan chuyên trách, chứ trách chi những bọn thợ kèn!
Tiếng tự nhiên trong khoảng trời đất có năm thanh là: cung, thương, giốc, chuỷ, vũ cùng với tiếng biến cung, biến chuỷ nữa là bảy thanh. Âm hưởng tiếng nói nước ta khác hẳn Trung Hoa, song cung đàn ta có những tiếng : tính, tỉnh, tình, tinh, tung, tang, tàng; giọng kèn có những tiếng : tí, um, bo, tịch, tót, tò, te, đại lược cũng đủ cả bảy thanh.
_______
(1) Bản dịch chỉ ghi “những nhà nghề âm nhạc”.
(2) Tên Tiêu Vĩ không thấy chép trong bản dịch.
(3) Bản dịch viết đời Tấn.
(4) Bản dịch viết là Tiên Lự.
(5) Bản dịch viết là Tang Điều.
(6) Ngũ Quí tức thời Ngũ đại thập quốc (Năm đời mười nước) ở thế kỷ thứ X.
(7) Da Luật là họ của người Liêu. Bản dịch viết là “họ ra luật”.
(8) Nghề thổ khuê: nghề dùng những dụng cụ riêng để đo bóng mặt trời, tìm hiểu các lớp đất (có từ đời nhà Chu).
(9) Chu Nguyên không thấy viết trong bản dịch.
(10) Chu Hy, Trịnh Hạo, Trương Tài, Thiệu Ung là các nhà nho đời Tống. (11) Tức Lê Thế Tông (1573-1600).
(12) Tức là những lễ vui mừng ở triều đình.
(13) Đoạn này không thấy trong bản dịch.
(14) Đoạn này không thấy trong bản dịch.
(15) Xe đại dư là xe đám tang.
(16) Phỉ lộ, tên khúc hát ví đời người như hạt sương trên ngọn cỏ. Cao lý cũng là tên khúc hát, trỏ về chỗ đất chôn người cỏ rậm.
(17) Tây Sương ký của Vương Thực Phủ cuối đời Nguyên đầu Minh; Tỳ bà ký của Cao Minh (1305?-1359?); Mẫu đơn đình của Thang Hiền Tổ (1550- 1616), là những vở kịch có tiếng trong văn học Trung Quốc.
(18) Theo bản gốc.
(19) Tử cung là quan tài gỗ thị của nhà vua. (20) Tế ngu: lễ tế yên vị sau khi chôn. (21) Đoạn này không thấy trong bản dịch.
BÀN VỀ LỄ
Ông Chu tử (1) giải thích chữ "lễ" rằng: lễ là tiết văn của lẽ trời, phép tắc của việc người. Phàm những điều nhân sinh vật dụng làm ra đều có phép tắc, đấng thánh nhân mới theo thứ tự mà bày ra hình thức; chẳng một lễ nghi gì không hợp với lẽ thiên nhiên, chứ ông thánh không phải cố ý bày đặt ra để cho người ta khó hiểu đâu. Từ đời trung cổ trở xuống, đời biến, thói dời, nên phải tùy thời mà làm chính trị (2), căn cứ theo lễ cổ để thi hành ra đời nay, cốt sao cho không trái với đạo lý. Bởi thế, tiết mục ngày càng thêm nhiều ra; những kẻ bàn về lễ không biết thuyết nào là phải, thậm chí người ta bảo nơi bàn việc lễ thành ra nơi bàn việc kiện. Ông Chu tử biên tập những lễ cần dùng của các nhà sĩ thứ; có bốn lễ: Quan, hôn, tang, tế, hợp với một thiên thông lễ nữa là năm thiên, giải thuyết rõ ràng, giản dị, hơn cả mọi nhà. Nhưng trong sách Văn công gia lễ (3), thì không dám nói đến lễ triều đình giai miếu, bởi nghĩ rằng trong kinh điển còn chép đủ những lễ ấy, không dám tự khoe là bàn việc lễ.
Nước Việt Nam ta khi thuộc về Trung Hoa vẫn noi theo lễ nhà Hán, ít lâu sau dần dà làm sai đi; lại thêm vào những lễ giáo của Tây dương, và bên Lão, bên Thích, làm cho tạp nhạp loạn xạ, từ bấy giờ mới trái khác cả cựu lễ. Kẻ cầm quyền nước, bỏ không xét đến, mà dùng ra chính sự thì chẳng cũng lẫn lộn lắm ư?
_______
(1) Tức Chu Hy, một nhà nho đời Tống.
(2) Câu này không thấy trong bản dịch.
(3) Trong bản gốc không thấy nói đến sách này.
LỄ ĐỘI MŨ
Lễ đội mũ ít lâu nay đã bỏ đi không làm, những bậc trưởng, ấu, lão, thiếu lại không phân biệt rõ ràng, lúc bình thường giao thiệp với nhau chỉ lấy phận vị mà đối đãi. Thành ra, tức giận tranh nhau, thù oán lẫn nhau, cũng bởi thế cả. Có kẻ tuổi chưa đúng mực đã lạm kể bằng cụ già; có kẻ tuổi còn măng sữa
đã vội leo lên bậc trưởng thành; trong hàng trăm, hốt, quan tư, lại kể sớm muộn mà lấn át bậc tôn trưởng; ở những nhà quan sang quí thích, thường thấy con cháu nạt cả cha chú; thậm chí có kẻ ngu như cục gỗ mà dám kiêu ngạo với cả quốc dân, phẩm cách tầm thường mà dám tự cao với đồng bối. Lầm lẫn theo thói quen mà không biết đâu là phải; muốn sửa đổi thì phải trở lại gốc rễ mới được. Hoặc có kẻ nói "Cứ theo quan lễ thì phải đội mũ và phải dùng lễ tam gia, nay tục nước ta quen thói búi tóc; truy cân (1) cũng là đặt xuống thôi, bức cân (2) cũng không thường dùng đến, mũ phốc đầu (3) không phải bậc sĩ hoạn không được đội; con gái không có lối trang sức búi tóc cài trâm; thế mà nay đám gì cũng muốn theo quan lễ đời cổ thì chẳng buồn cười lắm ru?". Điều này không hề thấy ở người đời Đường (4). Không phải thế đâu. Đời xưa, con trai con gái, nếu đã qua cái tuổi để trái đào rồi, thì con trai cho đội mũ, con gái cho cài trâm mà dạy bảo lấy đạo thành nhân (5). Vậy nên mới đặt ra lễ tam gia, nghĩa là lần thứ nhất thì cho đội mũ vải thâm, lần thứ hai thì cho đội mũ bì biện (6), lần thứ ba thì cho đội mũ tước niệm (7). Đến đời Tống mới đổi ra một thứ truy bố quan (8), một thứ bức cân và một thứ phốc đầu, đó cũng là bắt chước cái lẽ ấy, chứ không nệ gì cổ chế. Người nước ta không đội thứ mũ truy bố quan, nhưng cũng có cái khăn bao đinh để vén tóc; hoặc có người đội khăn bức cân, mũ phốc đầu, song không tiện cho những người chưa làm quan; còn như mũ chữ đinh thì ai cũng dùng cả. Có lẽ nào mũ biện, mũ miện đời cổ có thể biến thành khăn bức cân, mũ phốc đầu đời Tống, mà không thể đổi làm khăn bao đinh, mũ đời nay ư? Còn như con gái không có tục cài trâm, nhưng thói quen vẫn chít khăn lượt, đeo hoa tai để trang sức. Có chí muốn giữ lễ cổ thì bất tất phải nệ lễ văn, chỉ theo lễ ý là đủ (9). Tuy thế, đây chẳng qua vì những bậc sĩ thứ hiếu cổ mà bàn, chứ còn như các bậc anh quân hiền tướng đắc thời mà chấn chỉnh thi hành, thì không có chừng hạn như thường tình tục sáo (10) được.
Ít lâu nay, không mấy người bàn đến lễ, chỉ người nào mới đỗ hương cống, phải theo quan chủ khảo vào diễn tập qua những lễ nghi bái quy, còn ngoài ra không hiểu gì cả. Ta thường thấy những con nhà giòng dõi thế gia, dung mạo trông cũng đẹp đẽ, phục sức ra bộ xa hoa, thế mà đến khi phải đóng mũ
áo vào trợ tế hoặc tiếp tân, thì cử chỉ luống cuống; có anh lại rụt rè sợ hãi như cô dâu mới trông thấy mẹ chồng, không khỏi thế tục họ cười cho. Có
người muốn sửa chữa thì lại làm ra bộ kiểu cách dối trá, cợt nhả, cười đùa, làm cho loạn mất sự thực đi, không biết rằng trong làm lễ mà tỏ ra trang nghiêm hay cẩu thả, dù trong chốc lát cũng không thể che lấp được lầm lỗi. Vậy thì lễ nghi phải học tập mới được.
Đời xưa thì búi tóc trên đỉnh đầu, lấy mũ bằng vải thâm đội lên cho chặt. Cho nên mũ biện thì nhọn đầu, mũ miện thì dài như cái ống, khăn đội thì làm trùng đài (11) nổi cao lên, đều là làm cái chỗ để chứa búi tóc. Người nước ta bỏ xõa tóc, không cần phải đội mũ cao, vậy muốn biến đổi phong tục thì phải đợi bậc cao minh và phải làm dần dà đến hết đời mới xong được.
Đàn bà đời cổ vẫn có mũ để che tóc, đàn bà ta thì chỉ dùng khăn lượt để cuốn tóc mà thôi, lúc yết kiến bậc tôn trưởng, lại xòa tóc xuống để làm kính lễ. Đời vua Lê Hiển Tông (12) mới cho những kẻ cung nhân búi tóc lệch mà đội mũ, kiểu mũ ấy tròn và cao... Lúc hầu thường thì đội mũ ấy, lúc ra tấu nhạc vẫn đội một thứ mũ tròn, chữ đinh, không khác gì các cung tần hầu ở trong vương phủ. Còn các bà mệnh phụ ở ngoài đình thì cách đội mũ chưa có định chế.
Vua Đinh Tiên Hoàng bắt đầu chế ra một thứ khăn tứ phương bình đính, kiểu vuông mà trên đỉnh bằng, làm bằng da; đó là một thứ quân trang, đời sau mới đổi ra mũ lục lăng, hạ thấp bớt phần trên, làm bằng một thứ lụa, bồi bằng sơn; đó là một thứ tế phục, gọi là mũ bình đính. Lại có thứ mũ, đổi kiểu vuông ra kiểu tròn, uốn bề thẳng làm bề cong, làm thứ mũ thông dụng khi vào triều, gọi là mũ chữ đinh.
Khoảng năm Chính Hòa, Bảo Thái (13), ông Nguyễn Công Hãng có phân biệt các hạng mũ. Mũ bình đính thì từ công tướng cho đến kẻ lại sĩ, đều cứ theo cao thấp mà phân biệt. Mũ vua ngự thêu thêm chỉ kim tuyến để phân
biệt. Mũ chữ đinh chia làm ba hạng: hạng nhất hình tròn, đỉnh đầu bằng, dệt bằng mã vĩ; lại nạm vàng bạc ở mặt trước trán để phân biệt thứ bậc; hoàng thượng và chúa thượng khi nhàn cư và các hoàng tử, vương tử khi vào hầu, đội thứ mũ ấy. Thứ hai là mũ lục lăng, đỉnh đầu trũng xuống, làm bằng sa nam, để cho các quan nội giám khi vào hầu dùng. Thứ ba là mũ hình tròn, may chùng lại, làm bằng vải thanh cát (màu xanh sẫm) để cho kẻ sĩ thứ, quân lính và thư lại dùng. Nhưng khi gặp quốc tang thì quan đại thần ra coi việc quan cũng đội thứ mũ màu thanh cát ấy, duy hình thể có hơi khác đi mà thôi.
Mũ phốc đầu là một thứ thường phục của cổ nhân, thấy chép ở đồ hành lạc trong vườn độc lạc (14) của Ôn Công.
Vua Thái Tổ nhà Minh diệt nhà Nguyên rồi mới phỏng theo lối cũ mà chế ra thứ mũ đại triều cho các quan văn, hoặc gọi là tiến hiền quan. Nhưng kì thực không phải ta theo như thế. Trong năm Khang Hy thứ hai mươi mốt (15), ông Nguyễn Công Hãng sang sứ Trung Hoa, tìm xét cổ điển nhà Minh, khi trở về định phục chế, thì lấy mũ phốc đầu và áo vân cẩm cổ tròn làm áo mũ đại triều thông dụng của các quan văn võ. Còn như lúc ra thị sự và vào hầu thường, thì quan văn đội khăn lương, quan võ đội khăn yến vĩ. Đó đều là tự ông Nguyễn Công Hãng chế ra. Khi nhỏ ta thường thấy các bậc tiền bối nhàn cư đội một thứ mũ bao đính bằng mã vĩ, kiểu tròn mà đầu bằng, cao độ một thước, hoặc đội khăn bát tiên. Nhà sĩ thứ đội khăn bức cân và khăn bát tiên, hai thứ ấy đều không phải là công phục. Khăn bát tiên thì làm bằng đoạn huyền hay bằng sa the, trên đỉnh có gài mấy hoa cúc, tết vòng quanh lên như thứ mũ trúc quan đời cổ, dải buộc vòng quanh trán, bỏ rũ về đàng sau, hai bên mang tai lại có rũ diềm; đó là phỏng theo lối khăn bao đính mà làm cho văn vẻ thêm ra. Kiểu khăn bức cân thì gấp xếp lại làm một thứ khăn vuông, trong gia lễ đã nói rõ.
_______
(1) Khăn vải thâm.
(2) Bức cân là đội toàn cả khổ lụa để cuốn tóc.
(3) Mũ phốc đầu từ đời Đường làm bằng sa như cái núi có bốn dải rũ xuống, sau làm như hình mũ cánh chuồn.
(4) Câu này không thấy trong bản dịch.
(5) Bản dịch viết là “đạo thánh nhân”.
(6) Mũ làm bằng da là lối mũ võ.
(7) Một thứ mũ văn theo về lễ phục.
(8) Truy bố quan là mũ vải đen.
(9) Lễ văn là hình thức của lễ, lễ ý là tinh thần của lễ.
(10) tục sáo là khuôn khổ.
(11) Trùng đài là một tầng cao.
(12) Tức Cảnh Hưng (1740 – 1786).
(13) Chính Hòa (1680 – 1705) là niên hiệu Lê Hy Tông. Bảo Thái (1720 – 1729) là niên hiệu Lê Dụ Tông.
(14) Tức “Độc lạc viên hành viên đồ”.
(15) Tức năm 1707.
HÔN LỄ
Lễ cưới đặt ra từ thời Phục Hy, rồi các đời noi theo; lễ chế đã đầy đủ cả, chép ở trong sách Nghi lễ (1) và Lễ ký. Ông Chu Văn Công tập hợp và rút gọn lại, lược bớt những chỗ nói về tiền của mà trọng về lễ sính vấn. Đặt ra lục lễ (2), danh mục tuy phiền, nhưng từ người bậc trung trở xuống có thể tùy lực mà làm theo được. Nước ta, từ đấng vương công, khanh tướng cho đến các nhà sĩ thứ, chỉ làm có ba lễ là: vấn danh (3), nạp sính (4) và thân nghinh (5), đại khái lấy tiền của làm chủ, thứ hai là nghi lễ phục sức, còn như kén chọn lấy người đức hạnh thì ít ai để ý đến.
Văn Trung tử nói rằng "Dựng vợ gả chồng mà chỉ bàn tính đến tiền của là cái đạo man rợ, người quân tử không muốn bước chân vào làng ấy". Than ôi! Thói ấy thực đáng thương thay! Đời xưa, nhà trai đưa lễ đi hỏi vợ, nhà gái phúc thư trả lời, chu toàn đi lại đôi bên chỉ có một mụ mối mà thôi. Thói tục đời nay thì không thế. Từ lúc đi hỏi vợ cho đến lúc thành hôn, nhà trai thường mời cả họ đi theo; con gái về nhà chồng thì cả họ nhà gái cũng đi tiễn, bày ra hành nghi phục sức, ăn uống linh đình, chỉ cốt sĩ diện một lúc ở trước mắt. Có kẻ vừa cưới dâu xong thì ruộng nương đã bán sạch. Cứ xét trong lễ thì nhà có con gái gả chồng ba ngày không tắt đèn, là vì mẹ con li biệt, nhớ nhau; nhà cưới nàng dâu về, ba ngày không cứ nhạc, là lo đường nối dõi tổ tiên, có ý để vun gốc nhân luân và đắp nền phong hóa; không phải khoe khoang làm cho vui tai đẹp mắt một lúc. Đời xưa, khi cưới có lễ đưa một tấm da, đến đời nhà Chu đổi làm bức hôn thư, đời sau mới có lễ đưa canh thiếp; cũng là theo cái lễ vấn danh và phục thư của đời cổ mà làm cho văn vẻ thêm ra; đó cũng là ý cổ nhân đối với đời suy vi như vậy. Nước ta lễ cưới thì chẳng có thư thiếp gì cả, mà lại có tục chăng dây, chẳng kể lễ số gì, chỉ vòi lấy tiền bạc mà thôi. Cái thói ấy thực đáng khinh bỉ. Lại còn lắm chỗ dân tục sách nhiễu, nặng nhẹ nhiều ít, mỗi nơi một khác. Thậm chí có nơi trẻ con xóm giềng cũng ra đón đường vòi tiền, đến nỗi phải dừng võng cáng lại để giảng giải. Có người không mang đủ tiền thì phải gán cả đồ đạc. Thói ấy thật đời thịnh không nên có. Ta thường ngờ hai chữ “lan giai” không có nghĩa gì cả, tra xét mãi không hiểu. Đến khi xem tờ chiếu năm Minh Đức nhà Mạc (6), mới biết trước là chữ “lan nhai”, sau dùng lầm thành “lan giai”. Các công văn của quan sức về cho dân, cũng dùng chữ “lan giai”, thực là buồn cười (7).
Cứ lễ thì anh em con cô con cậu không được lấy nhau. Chỉ có đời Tấn, Ôn Kiệu (8) lấy con nhà cô, là tại đời ấy, lễ giáo suy đồi nên mới có cái thói ấy. Thói ấy ta không kể làm thường được, vì anh em con cô con cậu tức là hàng
biểu thân, cho nên lề thói ở nước ta, con cô con cậu với đôi bạn con dì không được lấy nhau. Chỉ có con cậu với cháu cô cũng có khi lấy nhau. Tục ngạn đã có câu: "Con cậu mà lấy cháu cô/ Thóc lúa đầy bồ giống má nhà ta". Song họ hàng thân thích đi lại, lắm khi xưng hô cũng có điều ngang trái. Ôi! Lễ cưới cốt là để chính nhân luân, nay lấy nhau như thế, thì làm loạn tất cả hàng chiêu mục (9) nhà họ ngoại, người đại nhã quân tử sao nỡ nghe nói đến chuyện ấy.
Đời nay lắm kẻ định hoãn việc tang lại mà đi dón dâu, gọi là “cưới chạy tang”. Thói ấy thực là bại hoại luân lý, các bực tiên hiền từng đã biện bác đi rồi. Còn như cái thói tiền cưới không đủ, bắt phải viết văn khế xin cưới, thường sinh ra kiện tụng lôi thôi; những kẻ ấy thực là kẻ tội nhân xấu xa, khi cưới xin chỉ kể đến tiền tài.
Đời xưa, con gái không được thừa hưởng gia tài, vậy nên lúc về nhà chồng thì cho là biệt ly, ba tháng mới được về thăm nhà, chứ không được đi lại luôn. Cứ theo như nghi lễ thì kẻ đi ăn thừa tự người khác, khi để trở cha mẹ mình, phải giáng phục, nghĩa là bớt ngày để tang. Các đấng tiên hiền nghĩ rằng phàm con gái đi lấy chồng, về để trở cho cha mẹ, cũng giống như kẻ ăn thừa tự người ta, nên để trở cho cha mẹ đều giáng phục như nhau cả.
_______
(1) Bản dịch viết là Chu lễ.
(2) Lục lễ là sáu lễ, gồm lễ đội mũ (cho tuổi trưởng thành), lễ cưới, lễ tang, lễ tế, lễ hội làng, lễ giao tiếp.
(3) Lễ ăn hỏi.
(4) Lễ nạp tài.
(5) Lễ rước dâu.
(6) Minh Đức (1527 – 1529) là niên hiệu Mạc Đăng Dung.
(7) Lễ Lan giai là lễ cheo. Nghĩa chữ lan nhai là ngăn đường, ý nói chưa có tiền cheo thì không được rước dâu. Nếu chữ lan giai là cỏ lan, cỏ địch thì không có ý nghĩa gì đối với việc cheo cưới cả. Cái tục chăng dây hay đóng cửa nhà thờ, ta thường thấy trước đây, cũng là ý ấy.
(8) Bản dịch viết là Ôn Kiện.
(9) Chiêu mục là thứ bậc, vai vế.
THỪA TỰ
Nước ta có lệ người nào không có con trai thì cho con gái ăn thừa tự; không biết cái lệ ấy có từ đời nào. Ôi! Nội ngoại đã chia ra hai họ, không lẽ lại hợp cả thân sơ mà cúng tế; hợp tế nội ngoại như thế thì loạn mất luân thường. Huống chi thế thứ càng ngày càng xa, ân tình càng ngày càng bạc, có khi chưa đến tứ đại mà các cụ tổ tiên chỉ trông ngóng về hàng cháu tằng huyền (1) vô phục (2) nó cúng tế, thì sao cho lâu dài được. Hoặc có người qui về họ bản tôn, thì các cụ tổ ngoại lại phải phụ hưởng ở nhà thờ tổ họ khác; thế chẳng hóa ra quay về cái lễ giáo hai gốc đã lâu đời, mà bắt ép quỉ thần hâm hưởng theo về dòng giống họ khác; kẻ nhân nhân (3), người quân tử nghe thấy chuyện ấy, ai chẳng đau lòng. Bởi vậy, cổ nhân phải chăm lo về sự nối dõi; chi trưởng không có con nối dõi thì cho chi thứ kế tự, chứ không để cho con gái kế tự. Ta thường thấy đời gần đây, có kẻ là con rể hoặc cháu ngoại mà cũng dự chia của, chia ruộng, có khi còn chực muốn tranh phần hơn người thân cận; khi để trở lại cứ theo như lễ thường, nếu có phải phụng dưỡng sớm khuya, thì cháu nội lại khó nhọc hơn cháu ngoại, thậm chí đến nỗi gây ra oán thù tranh cạnh, chỉ đem của đưa vào túi tham của quan lại. Tuy cũng có kẻ ăn ở trung hậu như bà Hứa Hoàn về thăm Vệ hầu, ông Tần Khang Công đưa tiễn Tấn Văn Công, nhưng thói đời càng ngày càng tệ, không thể kể xiết được!
_______
(1) Tằng là chắt (cháu bốn đời), huyền là chút (cháu năm đời). (2) Vô phục là không phải để trở.
(3) Những người giàu lòng nhân đạo.
TỆ TỤC
Đời suy thói tệ, không sao kể xiết! Khi nhỏ ta thường thấy những kẻ vô lại đi lấy người gái góa, trước lấy mẹ rồi sau lấy cả con. Thói ấy từ cuối đời Cảnh Hưng, về sau thế gia cũng có người bắt chước. Ôi! Con gái của vợ chẳng phải về hàng con gái của chồng ư? Theo lễ, nếu con gái theo mẹ, cùng ở với kế phụ (dượng) thì khi kế phụ chết, người con gái đó phải để trở một năm. Lễ đặt ra như thế là phòng ngừa cho đời sau, rất là chu đáo. Thế mà các quan đương sự thấy những kẻ lấy nhau càn bậy như vậy, lại điềm nhiên không hỏi đến, thương luân bại hóa như vậy còn gì tệ hơn! Ta bảo rằng những kẻ kế phụ mà lấy cả con gái riêng của vợ thì nên lấy cái luật loạn luân mà bắt tội thật nặng cũng đáng.
LỄ TẾ GIAO
Đàn tế giao nước ta lập ra từ đời nhà Lý, đến đời Lê đã trùng tu lại. Chính giữa đàn có một cái nền gọi là Chiêu sự điện. Nền điện cao độ một trượng, chung quanh xây bệ đá, bao lơn đá, chạm khắc rất khéo. Ở trong, có xây một cái bệ đá để hợp tế các thần Hạo Thiên (2) thượng đế, Hậu thổ địa kỳ; thứ đến hai bên tả hữu là Thừa tướng đường, hai bên hành lang thì tế thần Đại minh và Dạ minh cùng các vị tinh tú ở trên trời. Tất cả các vị thần kì, các vị đế vương đời trước đều được bày hàng để tế theo vào đấy. Lần cửa thứ nhất về mé ngoài là nơi Hoàng thượng thay áo, ở về bên tả; ra đến lần cửa thứ hai, rẽ về phía đông nam, là nơi đức Vương thượng ra ngự; đến lần cửa thứ ba, bên ngoài có một ngôi nhà bảy gian là sở của phủ Tiết chế đóng quân hầu. Lễ tế giao về đời Lý, đời Trần thì không thể xét được. Đời Lê, cứ trong ba ngày Tết nguyên đán, chọn ngày nào tốt thì làm lễ tế Giao. Từ Trung hưng trở về sau, quyền chính về cả chúa Trịnh, vua Lê chỉ ngồi giữ hư vị, duy tế giao cùng ngày thi hội, vua ra ngự điện Giảng Võ, lúc bấy giờ mới dàn bày lộ bộ, uy nghi rước xách, nhân dân truyền làm thịnh sự. Cứ lệ cũ thì tế giao, phải chi ra một trăm bốn mươi lăm quan, năm tiền, năm mươi tư đồng. Bộ Hộ lĩnh món tiền ấy ở Hộ phiên rồi giao cho các viên giám thừa ở Tư lệ cục biện lễ. Cứ lệ thì trước vị thượng đế, địa kỳ, bày lễ chay tam tài (3) và hoa quả chuối tiêu, còn đôi bên tả hữu hành lang, thì theo thứ tự giảm bớt dần, đồ lễ không có ngọc liệu (4), sát sinh gì cả. Lúc tế thì đặt chỗ đứng của Hoàng thượng ở giữa ngự đạo trong điện đình, chỗ đứng của Vương thượng thì xích về bên tả ngự đạo, rồi đến chỗ đứng của quan Tiết chế. Các quan từ nhị phẩm trở lên thì ở ngoài lần cửa thứ nhất, tam tứ phẩm trở xuống thì ở ngoài lần cửa thứ hai. Lúc tế rất giản lược, chỉ có lễ thượng hương rồi đọc tờ tấu, trước sau lạy tám lạy mà thôi.
Từ khi Trịnh Thịnh Vương (Trịnh Sâm) cầm quyền chính, thì lúc tế giao, chúa Trịnh không dự làm bồi tế nữa. Khi bà Đại Hành Hoàng Thái hậu mất, đức Hoàng thượng (vua Lê Hiển Tôn) đang phải cư tang, mới khiến quan Thủ tướng Nguyễn Hoãn vào thay làm mệnh bái. Đến năm sau, chúa Trịnh Thịnh Vương tự vào nhiếp tế. Năm ấy thóc lúa mất mùa, giặc cướp tứ tung, thiên hạ ta thán đổ lỗi tại chúa Trịnh vào nhiếp tế. Xem thế đủ biết nhân tâm vẫn còn tôn nhà Lê. Đời Tây Sơn lấy Đông Kinh làm trấn Bắc thành, lấy điện Kính Thiên làm Phản vọng đài, lấy nền Nam Giao làm nền cầu đảo. Cứ họp các giáo phường và đội bả lịnh, ra đấy làm lễ đảo vụ hoặc rước tượng Phật Tứ pháp ra bày ở ngoài cửa lần thứ ba để cầu đảo; lễ nghi rất là lỗ mỗ, không thể sao nói được.
Mùa hạ năm Tân Dậu (1801), vua Thiếu chủ đời Tây Sơn (Quang Toản) bỏ Phú Xuân chạy ra Bắc thành đổi Bắc thành là Kinh Bắc, cho đắp gò Viên Khâu ở ngoài cửa Liễu Thị, xây đàn Phương Trạch ở trên Tây Hồ, định cứ đến ngày đông chí, hạ chí thì tế thiên địa ở hai nơi ấy. Còn như Chiêu Sự điện ở nền Nam Giao thì cứ theo như lệ đại quang minh điện (5) ở trung triều (6) để làm nơi cầu đảo cáo yết và khi nào đổi niên hiệu thì đến đấy làm lễ cáo tạ. Người ta thấy thay đổi như thế thì biết ngay là triều Tây Sơn sắp mất.
_______
(1) Tế giao là tế trời.
(2) Bản dịch viết là “Hiệu Thiền”.
(3) Lễ chay tam tài là lễ chay cúng trời, đất và nhân thần.
(4) Ngày xưa cúng cả châu báu.
(5) Bản dịch viết là “quang minh điện”.
(6) Trung triều là triều đình trung ương của nhà Tây Sơn ở Phú Xuân.
TẠP KÝ
Lần cửa thứ ba ở nền Nam Giao có một cái đền thờ bà công chúa Liễu Hạnh, xây bằng gach vuông, rộng chừng mấy trượng, ở ngang trên con đường ngự đạo (1). Hỏi những người lính lệ ở đấy, họ bảo rằng từ khi nhà Lê mất, những kẻ lân cận coi đền Nam Giao và những kẻ đồng cốt làm ra cái đền ấy để đế nữ (2) khi lên triều thiên thì tạm ở đấy chờ đợi. Lời nói ấy thật hoang đường không nên tin. Ở về phía hữu, bên cạnh lần cửa thứ hai, có một cây cổ thụ, trong khoảng năm Kỷ Dậu, Canh Tuất (1789 - 1790) có mọc ra một cái nấm to bằng cái mâm, ngửa lên trông thì thấy đường vằn chằng chịt; mọc ra đã lâu mà không rụng, truyền là có Cốc thần phụ vào. Lại còn một cái giếng ở cạnh đường, bỏ hoang đã lâu, vào khoảng mùa xuân năm Bính Ngọ (1786) thấy có lửa xanh nổi trên mặt nước lập lờ, cao đến vài thước, ba ngày không tắt.
_______
(1) Ngự đạo là đường vua đi.
(2) Đế nữ là con gái thượng đế.
PHONG TỤC
Sông bến có lúc suy di, ví như cuộc đời có lúc biến đổi; phong tục cũng thế. Ta khi nhỏ, đương về thịnh thời đời Cảnh Hưng, phong tục hãy còn chuộng về trung hậu, mọi người hàng ngày giao tiếp với nhau vẫn có ý dễ dàng, giữ thói khiêm nhượng; ai làm điều gì xằng bậy chỉ sợ người ta biết mà chê cười.
Đến những kẻ hoạn quan quý thích và những kẻ con em vô lại, cũng chưa dám công nhiên làm càn; có kẻ nào không theo lễ pháp mà làm càn thì những bậc phụ lão nhà lương gia ngầm đem những chuyện ấy răn con cháu. Chốn hương đảng họp hành và lúc thân thích yến ẩm, thì chỉ những người cao tuổi, đầu đã hoa râm trở lên, mới được dự; còn trai trẻ trở xuống, giá có mời đến dự cũng đều nhút nhát lùi lại cáo từ. Có việc gì bàn luận thì chỉ bậc tôn trưởng cao tuổi quyết định, còn những hàng dưới thì chắp tay nghe theo. Khi làng xóm vào đám xuân thu tế tự, hoặc có gọi con hát đến hát thờ thần, thì cỗ bàn và tiền thường không xa xỉ lắm. Người nào làm hơi quá, thì ai ai cũng cười mà bác rằng không phải thành lệ của tiền nhân. Khi nào có bè bạn thân thích qua chơi, không phải bậc khách quý hay không phải khi đại lễ, thì không giết gà vịt. Chè tàu giá rất rẻ, nhưng người nghiện chè cũng ít; chỉ có nhà quyền môn thế tộc mới có thể uống chè tàu. Khi nào có khách, thết rượu, chỉ dùng cái chén nhỏ bằng đầu ngón tay cái, uống vài chén rồi thôi ngay, nếu mời uống quá thì ai cũng chê là say đắm. Ta thường nghe các bậc tiền bối bàn chuyện từ đời Long Đức, Vĩnh Hựu (1) trở về trước, cho là đời ấy phong tục còn hồn hậu hơn nhiều, tiếc rằng ta không được trông thấy. Từ đời chúa Trịnh Thịnh Vương (Trịnh Sâm) lên nối ngôi, chúa mắc chứng tẩm tật (2), chính sự càng ngày càng nát, những người họ hàng ngoại thích và những con em du đãng đều đua nhau ngoa ngoét, dối trá để ganh nhau; những đồ đạc làm hợp khuôn phép thì biến đổi cho lệch lạc đi; xống áo dùng đã có phép tắc, thì biến cải, thêm bớt đi; tất cả lễ độ về giao tiếp, thù tạc, ăn uống, cư xử, đều bị bóp méo, mỗi ngày một khác, đua nhau chuộng lạ; nếu có người không chịu thay đổi, thì lại hùa nhau chê cười, thậm chí muốn hãm hại và xô đổ đi. Tập tục càng ngày càng kiêu bạc (3).
_______
(1) Long Đức (1732 – 1733) là niên hiệu Lê Thuần Tông; Vĩnh Hựu (1739 – 1740) là niên hiệu Lê Y Tông.
(2) Trịnh Sâm hoang dâm quá độ nên mắc bệnh trĩ hạ.
(3) Kiêu bạc là bị coi thường.
NÓN ĐỘI
Khi ta lên tám chín tuổi, thấy các ông già đội nón ngoan xác, tục gọi là nón “mền giải” hay là nón “tam giang”; con nhà quan và học trò và học trò các học hiệu thì đội nón phương đẩu đại, tục gọi là “nón lá”; họ hàng nhà quan
và các ông già thì đội nón cổ châu, tục gọi là “nón dâu”; người lớn và trẻ con đội nón liên diệp, tục gọi là “nón lá sen”; con trai con gái, đàn ông đàn bà ở chỗ kinh kỳ đội nón cổ châu, trẻ con đội nón tiểu liên diệp, tục gọi là “nón nhỏ khuôn”; đàn ông đàn bà thôn quê, đội nón xuân lôi tiểu lạp, tục gọi là “nón sọ nhỏ”; lính tráng đội nón trạo lạp, tục gọi là “nón chèo vành”; người hầu hạ và vợ con lính tráng đội nón viên đẩu, tục gọi là “nón khùa”; nhà sư và thầy tu đội nón cẩu diện, tục gọi là “nón mặt lờ”; người có tang đội nón xuân lôi đại, tục gọi là “nón cạp”; người có trở một năm trở xuống đội nón cổ châu, quai mây, chỉ có nhà quan và nhà quyền thế có tang thì đội nón cẩu diện để phân biệt. Người trong Thanh, Nghệ đội nón viên cơ, tục gọi là “nón Nghệ”. Người Mán Mường ở ngoại trấn đội nón tiêm quang đẩu nhược, hình như nón khùa, đầu nhọn, làm bằng vỏ măng nứa, khác với người mọi nơi. Đến khoảng năm Nhâm Dần, Quý Mão (1782 - 1783), quân Tam phủ biến loạn, cậy công làm càn, nhiều người đội nón viên cơ, để lẫn với quân lính. Đến năm Bính Ngọ (1786), trong nước có biến, lại bỏ nón viên cơ, đội nón cẩu diện, người có tang một năm trở xuống, buộc quai sợi trắng để phân biệt. Ở thôn quê, theo dáng nón ngoan xác mà làm thấp đi, gọi là nón toan bì, tục gọi là “nón vỏ bứa”, thỉnh thoảng lại có người đội nón xuân lôi tiểu; còn những thứ nón tam giang, ngoan xác, phương đẩu, cổ châu, liên diệp và trạo lạp thì không thấy nữa.
ÁO MẶC
Ngày xưa, học trò và người thường có việc công mặc áo mầu thâm (truy y), dân quê mặc áo vải trắng to. Bây giờ thì ai cũng mặc áo thanh cát, mà mầu thâm, mầu trắng ít dùng. Áo thanh cát, thứ nhất là màu hỏa minh (màu xanh sẫm), thứ nhì là mầu vi minh, sau nữa là màu quì sắc, tục gọi là màu sừng. Nếu gặp quốc tang thì vương công khanh sĩ đều mặc màu quì sắc. Bây giờ, không cứ người sang người hèn đều mặc màu quì sắc cả, mà màu hỏa minh, vi minh thì cho là quê, không dùng nữa. Lệ cũ, có tang, người ta thường mặc vải to, đi đâu, đội nón rũ tóc che miệng, có việc quan vào công nha, mặc áo quì sắc, hay là áo thanh cát, xong việc về nhà lại mặc áo vải thô. Bây giờ, dù không có việc công, cũng mặc áo quì sắc, bỏ nón, để búi tóc, đi ra đùa cười ngoài đường, không còn biết xấu hổ. Lệ cũ, người có tang từ một năm trở xuống, mặc áo trắng, sổ tóc, đến khi hết trở, không dám đi uống rượu chè nhà ai. Bây giờ thì công nhiên họp nhau ăn uống, không khác gì người thường; có người còn biết xấu hổ, ngồi riêng vào nhà trong để phân biệt một tí.
Còn như những bọn con nhà lương gia, bỏ cả nghiệp nhà mà đi rong chơi; trẻ nhà quí thích, cậy thần thế mà kiêu ngạo; anh cai chú lính lại nghiện cả chè tàu; yến tiệc cỗ bàn có khi to hơn cả việc tang tế; những khi họ hàng thết đãi chè chén, trẻ con cũng leo lên ngồi, các bậc kỳ lão không dám trách mắng; có khi làng xóm cùng nhau hội họp ăn uống, trẻ con cũng làm om sòm, các bậc tôn trưởng cũng không dám bắt bẻ; lắm kẻ lại phải mềm mỏng với bọn con hát, chỉ sợ nó chê cười; có kẻ chỉ khoe khoang trước mắt, bày ra hát xướng linh đình, tiền thù lao hát xướng gấp bội tiền xôi thịt phụng thờ. Thậm chí những kẻ đã cáo quan về ở nhà quê, chỉ làm đơn từ xui kẻ kiện cáo, gây thói điêu ngoan. Có kẻ ra làm quan mà chỉ tối mắt về ăn của đút, gây thói gian tham. Lại còn những thói dâm bôn vô sỉ, hẹn hò nhau ở trên sông, cướp trộm lung tung, bắt cóc những người buôn bán. Phong tục đến thế là cùng! Tuy ví như sông bến đổi dời, cũng không tả hết được tình trạng.
NGUYỄN NGHIÊU MINH
Nguyễn Nghiêu Minh tên Tuấn là người bạn vong niên (1) của ta, hơn ta đến ngoài mười tuổi. Ông nguyên là người Trường Tân (2) (Gia Lộc), phủ Hạ Hồng, đời cuối Lê mới lên ngụ cư ở phường Cổ Vũ (Hàng Giày) huyện Thọ Xương. Khi nhỏ đỗ Hương cống, sau bổ Giáo thụ. Mùa thu năm Mậu Thân (1788), ông được đi Quyền nhiếp huyện Thủy Đường, nhưng chẳng bao lâu lại cáo quan về. Tính người trầm tĩnh mà phóng đãng, phong lưu, thường ra vào các nơi quyền quí, nhưng cũng lại thích chơi với những bạn nhà nho áo vải, sớm tối cùng nhau chén chè chén rượu vui cười. Từ năm Nhâm Tí (1792) trở về sau, ông mới quen biết ta, thường cùng nhau đi lại nhà ông Hoàng Hy Đỗ. Nhà ông Hoàng Hy Đỗ đối cửa với nhà ông Nghiêu Minh, mà ta thì ở phường Thái Cực (3) (Hàng Bạc) cũng không xa mấy. Hễ khi nào rảnh rỗi, lại họp nhau ở nhà ông Nghiêu Minh, buông mành cùng ngồi nói chuyện, xòa tóc duỗi chân như anh em trong nhà. Tối đến lại bày ghế ra trước sân ngồi trông trăng, pha chè uống. Lúc bấy giờ, ta lưu lạc ở nơi cố kinh, không có chí công danh gì nữa. Ông Hy Đỗ vốn con nhà thế gia, gặp lúc biến cố, hết cả gia sản, mới từ trấn Hoa Dương lên ở Kinh, khi ấy cuộc đời đương dở dang, không ai muốn lưu ý đến nhà cửa sản nghiệp, vậy nên thường cùng với Nghiêu Minh đi lại chơi bời. Một ngày kia, cùng với vài người tương tri đến thưởng lan ở Nam Vinh; một lát trăng mọc, trông nhau cả cười, cùng nhau kết làm bạn "lan xã" (4). Từ đó, khi đêm trăng sớm gió, đi lại chơi với nhau luôn. Nghiêu Minh góa vợ, có một đứa con gái tóc mới chấm vai, vẫn quanh quẩn dưới gốc. Ông ấy kiếm được những thứ cúc: châu sa, đầm hồng, hạc linh, anh trảo, mầm mới đâm ra mà đã trông có vẻ não nùng thu sắc. Nghiêu Minh sai đầy tớ trồng ở chung quanh sân. Ta khi ấy cùng với Hy Đỗ đương ngồi chơi, trông thấy đứa cháu gái chạy le te đi múc nước tưới cúc, ta đọc bỡn mấy câu tứ tuyệt:
Tựa hiên bảo trẻ chia nòi cúc
Vốn cách sinh nhai cụ huyện già,
Khen lũ trẻ thơ hay biết ý,
Quanh thềm tưới nước học trồng hoa.
Một lát, lại trải chiếu giữa sân, sai quạt lò pha nước uống, bỗng nghe tiếng nhạn kêu trên không, Hy Đỗ có bài thơ nghe nhạn.
Thế mà chớp mắt đã tám chín năm trời, Nghiêu Minh thì lưu lạc sang ở đất
Hà Bắc, Hy Đỗ thì chịu nghèo ngặt ở nơi đế kinh, còn ta thì tung tích nổi trôi. Hồi tưởng lại nửa kiếp mới biết đời người tụ họp nhau không được mấy.
Nhà Nghiêu Minh khi trước có trồng lan, lúc nở hoa, ta với Hy Đỗ đều có vịnh thơ, đưa cho người khách Quảng Đông là Quan Thiên Trì bình duyệt, thì thơ của Hy Đỗ hay hơn cả. Ta cũng có những câu:
Lưỡi gà điểm điểm hồng chưa nở,
Cánh sẻ rờn rờn mới biết tô.
và câu:
Đẹp như Yết Cật thừa hương ngát,
Giận thác Linh Quân vẳng điệu thơ.
Những câu thơ ấy đều được Thiên Trì thưởng giám cả.
_______
(1) Bạn vong niên là bạn chơi với nhau không kể tuổi tác.
(2) Bản dịch viết là Tường Tân.
(3) Bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh lại nói ở phường Hà Khẩu (Hàng Buồm).
(4) Lan xã là nhóm thưởng lan.
ĐƯỜNG SĨ HOẠN
Lệ cũ, cứ con nhà hát xướng không được vào nhà học hiệu, thi đỗ ra làm quan. Tiếc rằng không mở rộng đường cho kẻ tuấn dị tiến thân, để thu lấy nhân tài xuất chúng. Từ khi Lộc Khê Hầu (Đào Duy Từ) là con nhà hát xướng, vì không được ra thi, mới lẻn vào giúp chúa Nguyễn ở trong Nam, bấy giờ những kẻ đương sự mới hối rằng cái cách tìm kiếm nhân tài như thế là không rộng. Nhưng cũng chưa công nhiên bãi bỏ lệ cũ. Từ khi bà Trương quốc mẫu, người Như Kinh, là kẻ hát xướng được tuyển vào cung hầu Tấn Quang Vương (1), sinh ra Trịnh Nhân Vương (Trịnh Cương); Biện trưởng cung, người Á Lữ, sau lại đắc sủng với Nhân Vương, nên các họ về giáo phường mới được kể bằng hàng với các họ nhà lương gia. Sau này, các họ nhà đại khoa hiển hoạn cũng thường có người do giòng họ hát xướng mà phát đạt lên, nên những kẻ sĩ phu cùng họ giao du tự nhiên, rồi những nhà hát xướng cũng quên hẳn thế hệ nhà mình là tự đâu mà ra. Xem đó thì biết thế vận phong tục mỗi ngày một khác.
_______
(1) Con Trịnh Căn.
ĐÀN
Nước ta có thứ đàn đáy và đàn tranh đều gảy bằng tiếng tơ. Đại lược có bốn tiếng chính là: tính, tỉnh, tình, tinh, lại đặt thêm ba tiếng phụ là : tung, tang, tàng; bảy tiếng ấy thay đổi làm chủ khách mà thành ra xoang điệu. Đời gần
đây mới chuộng đàn nguyệt, đó là một thứ hồ cầm đời cổ, còn gọi là đàn Nguyễn Cầm (bởi ông Nguyễn Hàm đời nhà Tấn đặt ra), gảy thành những tiếng : xừ, xang, hồ, xế, cống, lưu, ú , xáng; những tiếng ấy phối hợp với bảy thanh, mười hai luật, đã kể tường ở trong sách Cửu phong tân nhạc thư. Song nam bắc, phong thổ mỗi nơi một khác, nên ít người biết gẩy cho hay. Khoảng năm Cảnh Hưng (1740 - 1786) có quan Nội điện cung phụng quản tiên hữu đội là Nguyễn Đình Dịch, mới biến đổi ra theo tiếng nam, nghe cũng hay. Nhưng tiếng trong, tiếng đục lẫn lộn, chưa có xoang điệu gì cả. Ông Vũ Chi Đồng, người làng An Thái, cũng thích chơi đàn nguyệt, trước học điệu Trung Hoa, biết đủ các tiếng, các bậc, rồi gẩy ra tiếng ta, và xen thêm các bài đàn đáy, đàn nguyệt của ta, tiếng rắn, tiếng mềm dịu dàng hợp nhau, bụng nghĩ thế nào, tay gẩy được thế ấy. Mới biết các thứ thanh âm, không thứ nào là không thông với nhau được.
CÁ VOI
Ông Nguyễn Tông Trình làm Đốc thị tỉnh Nghệ An, lúc mới đến nhậm chức, có một con cá voi chết ở bờ biển, dài hơn một trăm thước, bề ngang cũng chừng bấy nhiêu, quan địa phương lên trình ông biết. Ông liền cùng với đồng liêu đến nơi làm bài văn tế. Vài năm sau, có một đồng tử, dung mạo đẹp đẽ, độ mười bốn mười lăm tuổi, mặc áo học trò, đến cửa nha môn hỏi thăm anh Nguyễn Tông Trình có ở trong nhà không. Người canh cửa đuổi đi, mắng: "Đứa trẻ con nào đó dám nói hỗn đến trưởng quan, không đi ngay thì ta đánh cho bây giờ!". Liền rũ tay áo, cười mà rằng: "Ta nhớ bạn cố nhân nên chẳng quản xa xôi đến hỏi thăm, không gặp thì ta đi, làm gì mà hung hăng thế!". Người canh cửa lấy làm lạ, liền vào bẩm quan. Ông Trình chỉnh tề áo mũ, nghiêm trang ra đón, thì đồng tử đã đi xa rồi. Ông liền sai kẻ nha dịch chạy theo, cố mời trở lại. Vào ngồi yên đâu đấy, đồng tử cười bảo ông rằng: "Bấy lâu cách biệt, vẫn nhớ huynh ông, mà huynh ông không nhớ đến cố nhân ư?". Ông từ tạ, rồi bày rượu ngồi nói chuyện. Đồng tử bùi ngùi nói: "Tôi với anh đều ở trên thiên tào bị trích giáng. Anh thì sinh ra trên cõi đời, làm nên khoa giáp, không đến nỗi biến mất cái bản lai diện mục (1). Không như tôi bị khiển trách, sinh ra làm loài cầm ngư, ở trong đám bụi hồng bể khổ, chỉ làm cho đời người thêm buồn bã mà thôi". Hỏi kỹ thì đồng tử kể lại rằng: "Tôi lúc mới bị trích xuống thì làm chim khiếu, tinh khôn mà hót hay, gặp được anh chàng ăn chơi ở chốn đô thành bỏ ra món tiền lớn mua về, sớm tối làm cảnh, ví như ngọc củng bích (2). Phải như thế đến hơn mười năm, lắm lúc muốn lột bỏ da lông mà thác đi cho rồi. Song nghĩ chưa được mưu kế gì. Một bữa kia, sổ lồng bay ra. Khi ấy, chủ nhân đang pha chè đãi khách, âm chuyên chén mẫu trị giá đến hàng trăm bạc. Tôi bay lên chỗ chiếu khách ngồi, nhảy nhót, sa ngay vào bộ chén, vỡ tan. Chủ nhân nổi giận lấy xe điếu đập chết. Song Thượng đế bảo tôi bị trích giáng chưa mãn hạn, nên lại xuống làm kiếp cá voi. Được ba năm, tôi nghĩ mà tức giận nhục nhằn, mới nhân thủy trào ngoi lên bờ nằm phơi vây ra đấy mà chết. Khi ấy, anh cũng bạn đồng liêu đến thăm, làm văn tế tôi; hiềm rằng đôi đường u hiển khác nhau, không được cùng nhau nói chuyện. Đến khi đọc bài văn tế của anh, thì nghe ra linh cơ diệu tứ rất hay. Nay nhờ Thượng đế cho mãn hạn trích giáng, được vào nơi hang núi tu hành để rồi lại bổ chức cũ. Tôi sắp được về chầu Thượng Đế, nên lại chơi cáo biết với cố nhân; ngày khác được gặp nhau ở nơi tử phủ thanh đô (3), cũng chẳng bao lâu nữa". Ông nhân mời nghỉ lại chơi, hỏi về bước tiến trình của mình sau này thế nào, thì nhiều điều không chịu tiết lộ. Sớm hôm sau, đồng tử cáo biệt ra đi, ông chỉnh tề khăn áo, tiễn khỏi cửa, thì
không thấy đâu nữa. Chẳng bao lâu sau, ông cũng mất tại chức. _______
(1) Bản lai diện mục, ý nói vẫn giữ được cái diện mạo cũ của mình.
(2) Củng nghĩa là vốc tay, củng bích là hạt ngọc bích to bằng vốc tay, ý nói quý giá lắm.
(3) Tử phủ thanh đô là chốn cung đình của Thượng đế.
MẤY NĂM ĐƯỢC MÙA
Năm Giáp Ngọ (1774) đời Cảnh Hưng, đấng Tiên đại phu ta từ Tuần phủ Sơn Tây cáo về ở phường Hà Khẩu (Hàng Buồm). Khi ấy thiên hạ thái bình, mấy năm được mùa liền, các cửa hàng hóa, vật giá rất rẻ, một đồng kẽm hai cái kẹo đường; mà hai bát nước chè tươi, hai miếng trầu cau, giá cũng chỉ có một đồng kẽm. Có người không khát lắm, thì lấy một đồng kẽm mua một bát nước chè tươi và một miếng trầu; bánh điểm tâm cũng chỉ vài đồng. Ai vào hàng cơm, tùy thích ăn no hết sức, chỉ mất độ mười đồng kẽm mà thôi.
TRỘM CẮP
Phường Diên Hưng (Hàng Ngang) và phường Đồng Lạc (Hàng Đào) là nơi phố hàng áo, bán các thứ tơ lụa vóc nhiễu rất nhiều. Phiên chợ là những ngày: mồng một, mồng sáu, mười một, mười bốn, rằm, hai mươi mốt, hai mươi sáu, ba mươi. Phiên chợ phường Bạch Mã (Hàng Buồm) cũng là một chỗ buôn bán rất huyên náo. Những quân trộm cắp hay thừa cơ cướp giật, có khi thò tay vào túi người ta móc lấy hết cả. Có khi chúng cố ý làm cho ồn ào, đổ xô nhau mà chạy để rồi cắp bọc áo người ta, hoặc khuân đồ vật hàng hóa. Có khi chúng huyên truyền là voi lồng ngựa sổ để các người chợ búa và người đi đường xô nhau chạy, hàng hóa đồ vật vứt bừa bãi; lúc biết là chúng huyên truyền láo thì quân kẻ cắp đã phỗng hết cả rồi. Một hôm, ở phường Đông Các (Hàng Bạc) có một bà lớn đi võng mành mành cánh sáo, đầy tớ lính hầu rậm rịch, đến trước cửa một nhà hàng bạc, truyền thị tỳ dừng võng lại để hỏi mua mấy chục nén bạc. Mà cả giá chưa xong, bà lớn ngồi trên võng truyền vú già hãy cầm chục nén bạc đem về dinh, trình quan lớn xem qua, sẽ định giá. Chủ nhà hàng cũng không ngờ gì. Một lát, thị tì và lính hầu lẻn dần đi hết, hai tên lính khiêng võng cũng cút mất. Trời đã gần tối, chờ mãi chẳng thấy người vú già cầm bạc trở lại, nhà chủ mới đến trước võng hỏi bà lớn để đòi bạc. Mở mành mành xem thì té ra là một mụ lão ăn mày, mù cả hai mát, mặc áo nhiễu điều, ngồi chễm chệ trong võng, mơ màng không biết nói ra sao. Nhà chủ cho đi tìm hết mọi nơi, không còn thấy tăm hơi đâu cả, chỉ bắt được có cái võng cũ nát, giá không đáng mấy quan tiền. Ấy, những lối ăn cắp lừa dối như thế rất nhiều, không thể kể hết được. Cái tài giỏi của kẻ gian cũng lắm lối rất buồn cười, xem thế đủ hiểu cái thịnh suy của đời thăng bình vậy.
MẸO LỪA
Khoa thi hội năm Nhâm Thìn (1772) đời Cảnh Hưng, kỳ tứ trường đã vào thi xong. Khi ấy, có một mụ già vào chơi một nhà giàu ở phố Hàng Chiếu, Đông Hà. Nhân nói chuyện đến khoa thi hội năm nay, mụ nói có quen một ông được vào trúng cách, nay mai sắp sửa là một quan tiến sĩ tân khoa. Chủ nhân mới hỏi quan tân khoa chừng bao nhiêu tuổi, quê quán ở đâu. Mụ nói ra rõ cả, và cho biết quan tân khoa, nhà vốn nghèo, chưa có vợ, đến khi đình thí, truyền lô xong, không biết vinh qui thì quan tân khoa thu xếp ra sao? Chủ nhân có ý hâm mộ, nói với mụ rằng: "Tôi có một đứa con gái kể cũng không đến nỗi quê mùa; mụ có thể làm mối cho thành lứa đôi, thì bao nhiêu tiền phí tổn lúc vinh qui, quan tân khoa không phải lo gì cả". Mụ làm ra bộ khó khăn, đi lại đến ba bốn lần, cuối cùng mới mời quân tân khoa đến chơi nhà phú hộ ấy xem mặt người con gái. Chủ nhân liền mời quan tân khoa nghỉ lại một đêm, và cho con gái ra yết kiến. Mụ mối xui giục chủ nhân cho cô ta tiếp quan tân khoa cùng ngủ, đính ước sau khi yết bảng đỗ rồi thì làm lễ thành hôn. Sáng hôm sau, quan tân khoa xin cáo từ, chủ nhân tặng cho rất hậu. Từ đấy, chủ nhân chỉ trang sức cho con gái, đợi ngày nghênh hôn. Kịp đến khi truyền lô tứ yến (1) xong rồi, thì mất tăm chẳng thấy mụ già đến nữa. Chủ nhân liền sai người nhà đi dò hỏi các quan tân khoa tiến sĩ; không có người nào như anh chàng ngủ đêm hôm trước. Lúc ấy mới biết mình bị lừa, hối hận không được nữa. Chuyện ấy huyên truyền khắp cả kinh thành, ai nghe cũng buồn cười. Ôi! Mẹo lừa ấy cũng tai quái thật! Nhưng kẻ nhà giàu kia không hâm mộ quan tân khoa, muốn cho con mình được làm bà quan, cầu lấy cái phúc mà mình chẳng hề có, thì dẫu mẹo tai quái đến đâu cũng không thể lừa được.
_______
(1) Truyền lô là gọi loa xướng tên những người đỗ (thi Hương gọi là xướng danh, còn thi Hội gọi là truyền lô). Tứ yến, theo lệ, thi đỗ tiến sĩ thì được nhà vua ban yến.